SlideShare a Scribd company logo
1 of 166
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LỘC
NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN
TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LỘC
NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN
TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 9.38.01.04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Phạm Mạnh Hùng
2. TS. Đặng Quang Phƣơng
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Lộc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.......................................9
1.1. Tình hình nghiên cứu pháp luật Việt Nam về người bị hại chưa thành niên
trong các vụ án hình sự ...............................................................................................9
1.2. Tình hình nghiên ở nước ngoài ..........................................................................15
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án..............................21
1.4. Về những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu trong luận án............................23
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA
THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ................................................25
2.1. Khái niệm và đặc điểm của người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự ........25
2.2. Phân biệt người bị hại chưa thành niên với nguyên đơn dân sự và với người
có quyền lợi liên quan đến vụ án...............................................................................36
2.3. Quyền và các hình thức bảo đảm thực hiện quyền của người bị hại chưa
thành niên trong các vụ án hình sự............................................................................38
Chƣơng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA
THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG.......................................................................................................................61
3.1. Quy định của pháp luật về người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự..........61
3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với người bị hại chưa thành niên trong các
vụ án hình sự .............................................................................................................87
Chƣơng 4: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIẢI QUYẾT
ĐÚNG VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN..........123
4.1. Các yêu cầu với việc giải quyết vụ án hình sự có người bị hại chưa thành niên ....123
4.2. Các giải pháp nhằm bảo đảm giải quyết đúng vụ án hình sự có người bị hại
chưa thành niên .......................................................................................................125
KẾT LUẬN............................................................................................................143
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN .....................................................................................................146
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................147
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
CSĐT Cảnh sát điều tra
CƯQTE Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc
ĐTV Điều tra viên
LHQ Liên hợp quốC
KSV Kiểm sát viên
NBH người bị hại
NCTN người chưa thành niên
NBHCTN người bị hại chưa thành niên
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TP Thẩm phán
Thông tư 01/2011 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-
TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12 tháng 7 năm
2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS
đối với người chưa thành niên tham gia tố tụng
THTT tiến hành tố tụng
TTHS tố tụng hình sự
VAHS VAHS
VKS Viện kiểm sát
VKSNDTC Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Các vụ án xâm hại người chưa thành niên đã được xử lý giai đoạn
2007 – 2017..................................................................................................90
Bảng 3.2: Các tội phạm xâm hại người chưa thành niên đã được xử lý giai
đoạn 2007 – 2017.........................................................................................91
Bảng 3.3: Hình phạt áp dụng đối với các tội phạm xâm hại tình dục người
chưa thành niên đã được xét xử giai đoạn 2013 – 2017 ............................105
Bảng 3.4: Hình phạt áp dụng đối với các tội phạm Hiếp dâm trẻ em đã được
xét xử giai đoạn 2013 – 2017.....................................................................106
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền con người nói chung và quyền con người trong tư pháp hình sự nói
riêng là một trong những vấn đề được cả cộng đồng nhân loại và mỗi quốc gia quan
tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 là văn bản luật pháp đầu tiên đề
cập đến thuật ngữ ―Quyền con người‖. Hiến pháp đã mở ra bảo đảm quan trọng
trong hệ thống tư pháp với quy định: ―Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm‖
(Điều 71), ―Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật‖ (Điều 72).
Quyền trẻ em là lĩnh vực quyền con người cũng được chính thức đề cập
trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật, pháp quy của Nhà nước.
Điều 40 Hiến pháp 1992 khẳng định: ―Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có
trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em...‖ . Năm 1998, trong "Báo cáo thực
hiện Công ước về quyền trẻ em giai đoạn 1993-1998‖ gửi Ủy ban về quyền trẻ em
của Liên hợp quốc, Chính phủ cũng đã chỉ rõ: ―Công ước về quyền trẻ em là một
trong những điều ước Liên hợp quốc quan trọng về quyền con người mà Việt Nam
đã phê chuẩn. Hiện tại, thực hiện quyền trẻ em là một trong những trọng tâm của
quyền con người ở Việt Nam‖. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001, lần đầu tiên
trong các văn kiện của Đảng đã khẳng định về quyền trẻ em : ―...Chính sách chăm
sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em
được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thế chất, trí
tuệ, tinh thần và đạo đức‖.
Việc chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và trong các văn kiện
của Đảng về quyền con người, quyền trẻ em và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện của nhà
nước đã tạo nên sự chuyển biến về nhận thức. Quan điểm nhìn nhận trẻ em như một
đối tượng được quan tâm và chăm sóc đặc biệt đang dần dần thay đổi thành trẻ em
là chủ thể của quyền, Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ và bảo đảm việc
thực hiện quyền đó.
2
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự quốc tế và của mỗi quốc gia đều chú trọng
đến việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Đặc biệt là quyền của
người bị buộc tội – chủ thể tham gia tố tụng quan trọng cần bảo vệ trong tố tụng
hình sự. Tuy nhiên, tham gia vào quá trình tố tụng hình sự không chỉ có những
người bị buộc tội mà còn có một đối tượng đặc biệt khác mà lâu nay khi nghiên cứu
về quyền con người trong tố tụng hình sự, chúng ta hay ít chú ý đó là quyền của
người bị hại. Bởi trong các chủ thể tham gia tố tụng hình sự thì người bị hại luôn là
chủ thể cần được sự quan tâm đặc biệt từ phía nhà nước mà đại diện là các cơ quan
và người tiến hành tố tụng để giúp họ đòi lại công lý và sự công bằng.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, trọng tâm của vấn đề bảo vệ quyền con
người trong tư pháp hình sự vẫn là người bị buộc tội (người bị bắt, bị tạm giữ, bị
can, bị cáo). Vị trí, vai trò và quyền của người bị hại được ghi nhận rất mờ nhạt.
Việc tham gia tố tụng của người bị hại không chỉ nhằm bảo vệ, khôi phục những
quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã bị hành vi phạm tội xâm hại mà còn góp phần
quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn Công ước về
quyền trẻ em của Liên hợp quốc (ngày 20/02/1990), đồng thời cũng là một trong
những quốc gia đã xây dựng cơ chế đầy đủ để chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em
trên cả phương diện tổ chức bộ máy và pháp luật. Trong các chính sách kinh tế, văn
hóa, xã hội chúng ta luôn coi trọng quyền trẻ em. Trong lĩnh vực pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự chúng ta cũng luôn đảm bảo các quyền của trẻ em trên phương
diện là kẻ phạm tội, nhưng trường hợp trẻ em là người bị hại trong các vụ án hình
sự lại được ghi nhận rất mờ nhạt.
Sự tham gia của người bị hại chưa thành niên vào quy trình tư pháp hình sự từ
giai đoạn điều tra, truy tố rồi đến xét xử là một tất yếu. Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em đã khẳng định vấn đề trước tiên và quan trọng nhất, cũng như trong các
vấn đề khác liên quan đến trẻ em, nguyên tắc ―lợi ích tốt nhất của trẻ em‖ phải được coi
là trọng tâm trong việc ứng xử với người chưa thành niên là bị hại. Nguyên tắc này có
tầm quan trọng đặc biệt khi xem xét vai trò của trẻ em trong quy trình tư pháp hình sự.
3
Trong trường hợp trẻ em là người bị hại của tội phạm thì lời khai của các em có thể có
ý nghĩa quyết định đối với việc xử lý thủ phạm. Vì vậy để đảm bảo nguyên tắc này có
nghĩa là đôi khi việc truy tố thủ phạm sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự là một chủ thể tham gia
tố tụng đặc biệt, có vị trí, vai trò rất quan trọng được cả pháp luật hình sự và pháp
luật tố tụng hình sự ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trong những năm qua tình hình
tội phạm xâm hại chưa thành niên có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số vụ và
người bị hại, quy mô phạm tội, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, liều lĩnh,
tính chất mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Đây cũng là một
trong những vấn đề được các đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm và ―bức xúc‖
trong các phiên chất vấn của kỳ họp.
Đứng trước yêu cầu đòi hỏi của thực tế và tình hình tội phạm xâm hại người
chưa thành niên đang diễn ra hết sức phức tạp, công tác hoàn thiện pháp luật và
nâng cao năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi của
người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự là một đòi hỏi cấp thiết. Vì
vậy, để góp phần vào hoạt động bảo vệ người chưa thành niên trước các hành vi
xâm hại, tác giả đã chọn đề tài: ―Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình
sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật
về người bị hại chưa thành niên; Làm rõ thực trạng tình hình tội phạm xâm hại
người chưa thành niên và hoạt động giải quyết các vụ án hình sự có người bị hại
chưa thành niên của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó đề xuất các giải pháp có
cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần bảo đảm giải quyết đúng vụ án có người bị hại
chưa thành niên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, Luận án có nhiệm vụ là:
- Thực hiện tổng quan các vấn đề đã nghiên cứu có liên quan đến nội dung
đề tài, chỉ ra các vấn đề Luận án cần tiếp tục nghiên cứu;
4
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về người bị hại chưa thành niên
như: Khái niệm, đặc điểm, phân loại và phân biệt người bị hại chưa thành niên với
một số người tham gia tố tụng khác. Nghiên cứu các quy chuẩn chung của pháp luật
quốc tế về quyền của người bị hại chưa thành niên, qua đó so sánh đối chiếu với
quy định của pháp luật Việt Nam để thấy được những điểm chưa tương thích.
Nghiên cứu các hình thức bảo đảm thực hiện quyền của người bị hại chưa thành
niên trong các vụ án hình sự.
- Nghiên cứu, làm rõ những quy định của pháp luật (hình sự và tố tụng hình
sự) Việt Nam về bảo vệ và bảo đảm quyền của người bị hại chưa thành niên. Khảo
sát, đánh giá tình hình tội phạm xâm phạm người chưa thành niên và hoạt động áp
dụng pháp luật đối với loại tội phạm này trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm
2017, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân.
- Đưa ra yêu cầu và đề xuất giải pháp bảo đảm giải quyết đúng các vụ án có
người bị hại chưa thành niên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về người bị hại chưa thành
niên trong các vụ án hình sự; quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự và thực tiễn thi
hành; số liệu liên quan đến Luận án được khảo sát trong phạm vi cả nước từ năm 2007
đến năm 2017 về tình hình khởi tố điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm hại chưa
thành niên và hoạt động tố tụng trong các vụ án có người bị hại chưa thành niên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về bảo vệ và bảo đảm
thực hiện quyền đối với người bị hại chưa thành niên là đối tượng tác động trực tiếp
của tội phạm được quy định thành những tội danh cụ thể. Về thực tiễn áp dụng pháp
luật, tác giả tập trung nghiên cứu đến các vụ án có người bị hại chưa thành niên đã
5
được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử theo các tội danh quy định tại Bộ luật hình
sự năm 1999.
Đề tài không nghiên cứu và khảo sát các vụ án có người bị hại chưa thành niên
là tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình
sự như ―phạm tội đối với người chưa thành niên‖, ―phạm tội đối với trẻ em‖;
- Về không gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về người bị hại chưa thành
niên trong các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng
thời, để làm sâu sắc hơn vấn đề nghiên cứu, Luận án cũng có những nghiên cứu về
các quy chuẩn của pháp luật quốc tế về vấn đề quyền của người bị hại chưa thành
niên trong tố tụng hình sự.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam và khảo
sát tình hình khởi tố điều tra, truy tố và xét xử các vụ án có người bị hại chưa thành
niên từ năm 2007 đến năm 2017.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả có sử dụng các phương pháp luận khoa học xuyên suốt trong quá
trình nghiên cứu toàn bộ luận án mang tính truyền thống đó là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận án cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu tin cậy khác như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, liên ngành, luật học so sánh và phương
pháp phân tích – dự báo khoa học qua những tài liệu thứ cấp các nước để làm sáng
tỏ các vấn đề cần được nghiên cứu trong phạm vi đề tài. Đặc biệt phương pháp
nghiên cứu tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội được vận dụng tối đa.
Ngoài việc tiếp cận vấn đề nghiên cứu quyền con người của người bị hại chưa thành
niên trong tố tụng hình sự dưới góc độ luật học, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu
trong mối liên hệ với các ngành khoa học xã hội khác như triết học, xã hội học, đạo
đức và chính trị học. Chẳng hạn để lý giải đặc điểm của người bị hại chưa thành
niên phải dựa trên các kiến thức của nhân học, tâm lý học và xã hội học. Khi nghiên
cứu cơ chế bảo vệ quyền con người của người bị hại chưa thành niên trong tố tụng
hình sự phải đặt nó trong mối quan hệ liên ngành luật học như luật Hiến pháp, đặc
biệt là luật hình sự và tội phạm học. Cụ thể:
6
- Chương 1: Để hệ thống hóa tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến
nội dung Luận án tác giả đã sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê.
- Chương 2: Đề cập đến một số vấn đề lý luận chung về người bị hại chưa
thành niên. Phương pháp nghiên cứu là phân tích văn bản, phân tích thuần túy quy
phạm, tổng hợp, đối chiếu văn bản, so sánh liên ngành và nghiên cứu lịch sử. Ngoài
ra, tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, tiếp cận đa ngành và liên
ngành luật học để xây dựng khái niệm người bị hại chưa thành niên.
- Chương 3: Đánh giá thực trạng những quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại chưa thành niên trong các vụ
án hình sự ở Việt Nam hiện nay. Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng
trong chương này sẽ là tổng hợp, phân tích văn bản, thống kê, khảo sát thực tiễn, sử
dụng số liệu thống kê hình sự của các cơ quan quản lý nhằm tìm hiểu, đánh giá về
thực trạng người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự hiện nay. Từ đó làm
rõ những vướng mắc, tồn tại và nguyên nhân làm tiền đề cho các nhóm giải pháp ở
Chương 4.
- Chương 4: Tác giả tập trung đưa ra các giải pháp trên cơ sở sử dụng
phương pháp phân tích, diễn giả, tổng hợp và dự báo khoa học.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, Luận án nghiên cứu, tìm hiểu và hệ thống hóa các công trình
nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài liên quan đến người bị hại chưa thành niên.
Từ đó, Luận án tiếp thu những vấn đề đã được nghiên cứu và xác định rõ, chỉ ra
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và
tương đối toàn diện về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích, tổng hợp và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm
của các công trình đã được công bố, Luận án đã tiếp tục khẳng định sự tồn tại khách
quan và cần được pháp luật bảo vệ của người bị hại chưa thành niên trong lĩnh vực
tư pháp hình sự Việt Nam. Đồng thời làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về người
bị hại chưa thành niên như đặc điểm tâm sinh lý, sự khác biệt và quyền được bảo vệ
7
của người bị hại chưa thành niên. Luận án cũng đối chiếu so sánh với các chuẩn
mực quốc tế để thấy được những ―khiếm khuyết‖ của pháp luật Việt Nam về vấn đề
người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự.
Thứ ba, Luận án đưa ra một bức tranh tổng thể về thực trạng xâm hại người
chưa thành niên và những quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như việc các
cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án có người bị hại chưa thành niên.
Thông qua đó chỉ ra những vướng mắc, sai lầm và nguyên nhân của tình trạng này.
Đây là cơ sở thực tiễn để Luận án đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng giải quyết vụ án có người bị hại chưa thành niên phù hợp với thực tiễn
và đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp.
Thứ tư, Luận án đã đề xuất các giải pháp có tính thực tiễn để góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố và xét xử các vụ án có người bị
hại chưa thành niên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm phong phú, sáng tỏ thêm
những vấn đề lý luận và thực tiễn về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Luận án phân tích một cách
có hệ thống, toàn diện về lý luận, về thực trạng quy định của luật, tình hình tội
phạm xâm hại người chưa thành niên, kết quả giải quyết các vụ án có người bị hại
chưa thành niên và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các vụ án có người bị hại
chưa thành niên. Thông qua việc khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng để giải quyết các vụ án hình sự có người bị hại chưa thành
niên, tác giả tìm ra những vi, phạm sai lầm và nhận định nguyên nhân của những vi
phạm, sai lầm. Từ những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn đã nghiên cứu và khảo sát,
Luận án đưa ra những giải pháp có tình khả thi nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
tố tụng đối với các vụ án có người bị hại chưa thành niên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong hoạt động lập
pháp, đặc biệt là trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình
8
sự. Luận án còn có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy, tham khảo trong hoạt động
đào tạo chuyên ngành luật học, hoạt động tập huấn nghiệp vụ và phổ biến giáo dục
pháp luật. Thông qua đó, góp phần xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tạo
môi trường ổn định, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận về người bị hại chưa thành niên trong các
vụ án hình sự
Chương 3. Quy định của pháp luật về người bị hại chưa thành niên trong các
vụ án hình sự và thực tiễn thi hành
Chương 4. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm giải quyết đúng vụ án có người
bị hại chưa thành niên
9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu pháp luật Việt Nam về ngƣời bị hại chƣa thành niên
trong các vụ án hình sự
1.1.1. Các nghiên cứu về lý luận
Đây chính là nguồn tài liệu tham khảo quý báu giúp tác giả có cơ sở để kế
thừa và phát triển nghiên cứu thêm về nhóm đối tượng là người bị hại chưa thành
niên (NBHCTN) trong các vụ án hình sự.
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này,
tác giả tập hợp, phân loại và đánh giá các tài liệu thành ba nhóm theo các vấn đề
trên. Cụ thể như sau:
Một là, nghiên cứu về quyền con người nói chung
Quyền con người là đối tượng quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học xã hội, trong đó có khoa học pháp lý. Khoa học pháp lý Việt Nam trong những
năm gần đây các nhà đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến quyền con người
và bảo vệ quyền con người nói chung.
Sách chuyên khảo ―Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật
học‖, GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 2010 (3 tập, 1010tr);
Giáo trình (giảng dạy sau đại học) ―Quyền con người‖, GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ
biên, Nxb KHXH 2011 (487 tr); Sách chuyên khảo: ―Cơ chế bảo đảm và bảo vệ
Quyền con người‖, GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (431 tr. Các
công trình nghiên cứu này đã tiếp cận vấn đề quyền con người đa ngành, đa lĩnh
vực và nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về quyền con người; chỉ ra
được nội dung của các quyền con người nói chung, quyền con người trong các lĩnh
vực cụ thể, trong đó khẳng định quyền con người là giá trị đã được nhân loại thừa
nhận chung; đề cập đến các tính chất của quyền con người như tính bất khả tước
đoạt, bất khả phân chia, tính phổ biến, tính đặc thù của quyền con người; nghiên
cứu pháp luật quốc tế về quyền con người trong đó so sánh pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế về vấn đề quyền con người, khả năng tiếp thu và nội luật hóa pháp
luật quốc tế vào pháp luật quốc gia... Tuy nhiên, trong các công trình trên, quyền và
10
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên (NCTN) nói chung và NBHCTN nói
riêng chưa được thể hiện rõ, mới chỉ dừng lại ở mức đặt vấn đề hoặc trích dẫn giới
thiệu với tư cách là một bộ phận của quyền con người nói chung.
Hai là, nghiên cứu về quyền con người và quyền của người bị hại trong tư
pháp hình sự
Sách chuyên khảo ―Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự‖
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb Hồng Đức, 2015 (262 tr); ―Bảo vệ An
ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền‖, GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Tư
pháp, 2007; ―Mọi người cần biết về quyền và nghĩa vụ của mình trong TTHS Việt
Nam‖, Nguyễn Phùng Hồng, Nxb Tư pháp, 2005; ―Bảo vệ quyền con người trong
Luật hình sự, Luật TTHS Việt Nam‖ của TS. Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị quốc
gia, HN, 2004,Giáo trình ―Lý luận và pháp luật về Quyền con người‖, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009, Nxb CTQG (670tr). ―Bảo vệ quyền con người
trong TTHS Việt Nam‖, Nguyễn Quang Hiền, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà
nước và pháp luật, 2007; ―Quyền con người trong quản lý tư pháp‖, Văn phòng Cao
ủy Liên hợp quốc về quyền con người và hội luật sư quốc tế, Nxb CAND, 2009;
Luận án tiến sĩ của Lê Nguyên Thanh, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, về Người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam (bảo vệ năm 2013); sách chuyên
khảo Nạn nhân của tội phạm (2011) của PGS.TS. Trần Hữu Tráng là nghiên cứu
một cách khá trực tiếp về người bị hại; ―Quyền của người bị hại trong TTTHS Việt
Nam‖, Đinh Thị Mai, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam,
2014, là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về những vấn đề lý luận và
thực tiễn về quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự (TTHS) ở Việt Nam hiện
nay. Vấn đề người bị hại và quyền của người bị hại trong TTHS đã được xác lập và
phát triển thêm một bước, trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Ở cấp độ các công trình nghiên cứu dưới dạng các bài báo được đăng trên
các tạp chí chuyên ngành (có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án) có thể kể đến
như: ―Luật TTHS Việt Nam với việc đáp ứng các yêu cầu quốc tế về bảo đảm
11
quyền của bị can, bị cáo và người bị tạm giữ‖, Ths. Đinh Thị Mai, Tạp chí Công an
nhân dân, 10/2010. ―Quan tâm bảo đảm quyền của NBH trong TTHS‖, Ths. Đinh
Thị Mai, Tạp chí Khoa học và giáo dục An ninh, 12/2010. ―Cơ chế quốc tế và khu
vực về bảo vệ quyền của NBH‖, Ths. Đinh Thị Mai, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 4/2012. ―NBH trong TTHS‖, Ths. Lê Tiến Châu, TC Khoa học pháp lý, số
1(38)/ 2007. ―Đảm bảo quyền công dân của người tham gia tố tụng trong điều tra
VAHS theo tinh thần cải cách tư pháp‖ Trần Thảo, Dân chủ & Pháp luật; 2008/Số 9
(tr.40-43). ―Bàn thêm về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng,
NBH trong VAHS‖, ThS. Nguyễn Văn Cừ, TC Kiểm sát, Viện KSNDTC, Số
15/2006, tr. 26 – 28. ―Bàn về các tội phạm có yếu tố gây thương tích và trường hợp
từ chối giám định của NBH trong các VAHS‖, Tạ Quang Khải, TC Kiểm sát, Số
3/2010, tr. 44-48. ―Bàn về khởi tố theo yêu cầu của NBH‖, Mai Bộ, TC Kiểm sát,
Số 3/1999, 30-31. ―Một số vấn đề lí luận về khởi tố VAHS theo yêu cầu của NBH‖,
T.S Trần Quang Tiệp, TC Kiểm sát, Số 01/2006, tr. 29 – 32. ―Một số vấn đề về
NBH, nguyên đơn dân sự trong BLTTHS năm 2003‖ TS. Trần Quang Tiệp, TC
Kiểm sát, Số 4/2006, tr. 15 – 18. ―Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng của
NBH và nguyên đơn dân sự tại phiên toà hình sự sơ thẩm theo yêu cầu cải cách tư
pháp‖, Nguyễn Trương Tín, Tạp chí Luật học, Số 3/2010, tr. 47 – 57. ―Một số vấn
đề về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, NBH trong các
VAHS‖, ThS. Trần Đại Thắng, TC Kiểm sát, Số 24/2005, tr. 56 – 59. ―Một số
vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH‖, Lê Văn Cân,
Tạp chí Kiểm sát, Số 7/2008, tr. 49 – 51. ―Một số vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng chế định khởi tố VAHS theo yêu cầu của NBH‖ Nguyễn Đức Thái, Tạp chí
Kiểm sát, Số 09/2009, tr. 27 – 30. ―NBH đã yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội
tại phiên toà theo trình tự, thủ tục nào?‖, Hoàng Thị Liên, Tạp chí Dân chủ & pháp
luật, Số 8/2006, tr.47- 48&50. ―Nhất thiết phải xác định cụ thể NBH‖, Trần Thanh
Thuỷ, Tạp chí Kiểm sát Số 11/2002, tr. 28 – 22. ―Trao đổi về việc sửa đổi Điều 51
BLTTHS về nghĩa vụ của NBH‖, Đỗ Thị Ánh Tuyết, Tạp chí Kiểm sát, Số 5/2010,
tr. 47 – 48. ―Vấn đề tuổi của NBH‖, Nguyễn Đình Bình, Tạp chí Toà án nhân dân,
12
Số 1/2000, Tr.36 – 37. ―Về thẩm quyền đình chỉ điều tra các vụ án được khởi tố
theo yêu cầu của NBH‖, Lê Văn Minh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật Số 1/1 -
2001, tr.51-53.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn hiện nay các nhà nghiên cứu về vấn đề
quyền con người trong tư pháp hình sự đều coi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
người bị kết án là trọng tâm của vấn đề quyền con người trong TTHS. Người bị
buộc tội là những chủ thể ―yếu thế‖ khi đối trọng với các cơ quan tư pháp, các
quyền của họ ―có nguy cơ bị xâm phạm cao nhất‖ nên họ là ―ưu tiên số 1‖ trong
việc áp dụng các biện pháp nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người bằng pháp luật
hình sự, TTHS. Do vậy, quyền của người bị hại thường bị bỏ quên hoặc coi nhẹ.
Thực trạng này dẫn nguy cơ người bị hại vốn là đối tượng bị tội phạm xâm hại và
chịu nhiều tổn thất nhất khi tội phạm xẩy ra, trước khi tham gia vào tiến trình
TTHS. Thực tế hiện nay, trên cả 3 bình diện: Lập pháp, thi hành luật và nghiên cứu
hoàn thiện pháp luật việc tham gia tố tụng và ngay cả sau khi tố tụng đã kết thúc,
các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại lại một lần nữa bị đặt trước nguy cơ
bị ―bỏ quên‖.
Ba là, nghiên cứu về người chưa thành niên nói chung và người bị hại chưa
thành niên nói riêng.
Trong những năm gần đây, trước tình hình tội phạm xâm hại NCTN ngày
càng gia tăng, đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam – Số đặc san Tạp chí Dân chủ và pháp luật;
Tập đề cương bài giảng Tư pháp người chưa thành niên của trường Cao đẳng Kiểm
sát Hà Nội, năm 2005; Số chuyên đề về công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử đối với các vụ án có NCTN phạm tội và người có hành
vi phạm tội đối với người chưa thành niên của Tạp chí Kiểm sát, số 6 (tháng
3/2007); Nguyễn Văn Cừ ―Bàn thêm về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người
làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự‖ Tạp chí Kiểm sát Số 15/2006, tr. 26 –
28; Lê Nguyên Thanh ―Bàn về khái niệm người bị hại trong tố tụng hình sự” Tạp
chí Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Số 5/2012, tr.
13
18 – 26; Vũ Gia Lâm ―Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam‖ Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Số 11/2011, tr. 29 – 37; Trần Hưng Bình ―Bảo vệ quyền con người của người
bị hại chưa thành niên trong tố tụng hình sự‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 23/2012, tr. 44 –
49; Nguyễn Thị Hồng Luy ―Đăng ký khai sinh và việc xác định tuổi người bị hại
trong công tác kiểm sát điều tra‖ Tạp chí Kiểm sát Số 7/1999, tr. 20; Phạm Ngọc
Cường, Trần Nguyên Quân ―Phương pháp tác động tâm lý để lấy lời khai người bị
hại trong các vụ án hình sự‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 6/2001, tr. 31 – 32; Nguyễn Đình
Bình ―Vấn đề tuổi của người bị hại‖ Tạp chí Toà án nhân dân, Số 1/2000, tr. 36 –
37; / Đinh Văn Quế ―Xác định tuổi của người bị hại trọng vụ án hình sự như thế
nào?‖ Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 7/1999, tr. 4 - 6… Đa số các công trình
nghiên cứu này là các bài viết nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học hoặc tham
gia các hội thảo.
Trong các công trình nghiên cứu đã được công bố, nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn về NCTN và tư pháp NCTN đã được đặt ra và giải quyết. Nhưng đa số các
công trình nghiên cứu này cũng mới chỉ tập trung vào việc giải quyết những vấn đề
nhỏ lẻ của NBHCTN như: Vấn đề xác định tuổi của bị hại; vấn đề lấy lời khai
người bị hại; vấn đề bảo vệ quyền con người; vấn đề tâm lý của bị hại…hoặc là
nghiên cứu NBHCTN với tư cách là bị hại của một loại, một nhóm tội phạm nhất
định xảy ra trên một địa bàn cụ thể. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này
chưa đưa ra được một hệ thống lý luận và thực trạng toàn diện về NBHCTN trong
các vụ án hình sự. Đồng thời cũng giải quyết được một cách có hệ thống và đầy đủ
về sự cần thiết và tính tất yếu của việc hoàn thiện thủ tục tố tụng đối với NBHCTN.
Trong khuôn khổ Chương trình bảo vệ trẻ em thuộc Kế hoạch hành động của
Chương trình hợp tác giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam và
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc ( UNICEF) giai đoạn 2006 – 2010, Bộ Tư pháp được
giao chủ trì phối hợp với Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC,
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Công an, Hội Luật gia Việt Nam thực
hiện Dự án 2: ―Hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên‖. Dự án này
14
tập trung nghiên cứu về các vấn đề tư pháp đối với NCTN và bảo vệ trẻ em là nạn
nhân của tội phạm. Mặc dù cũng đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng dự án
cũng chỉ tập trung nghiên cứu và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến đối
tượng NCTN vi phạm pháp luật. Đề án chưa nghiên cứu sâu đến đối tượng NCTN
trẻ em là nạn nhân trong các vụ án hình sự .
1.1.2. Các nghiên cứu về thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
con người, quyền của người bị hại
Luận văn thạc sĩ luật học ―Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người
trong xét xử hình sự ở nước ta‖, Hoàng Hùng Hải, 2000; ―Đảm bảo quyền con
người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam‖ của Lại Văn
Trình, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2011;
―Cần sửa đổi các quy định liên quan đến quyền khởi tố theo yêu cầu của
NBH trong BLTTHS năm 2003‖, Hoàng Thị Liên, Tạp chí Kiểm sát, Số 3/2008, tr.
29 – 31. ―Đăng ký khai sinh và việc xác định tuổi NBH trong công tác kiểm sát điều
tra‖, Nguyễn Thị Hồng Luy, Kiểm sát, Số 7/1999, tr.20. ―Đình chỉ điều tra vụ án
khởi tố theo yêu cầu của NBH khi họ rút đơn theo quy định tại khoản 2 điều 105
BLTTHS năm 2003‖, TS. Mai Thế Bày, Kiểm sát, Số 20 tháng 10/2009, tr.3 – 8.
―Một số kiến nghị sửa đổi điều 107, điều 164 BLTTHS để xử lý các vụ án cố ý gây
thương tích khi NBH từ chối giám định và rút đơn yêu cầu khởi tố‖, Nguyễn Duy
Hùng, TC kiểm sát, Số 9(tháng 5/2010), tr. 18 – 20. Vũ Việt Hùng ―Hoàn thiện các
quy định về người chưa thành niên phạm tội, người bị hại và người làm chứng là
trẻ em trong Bộ luật Tố tụng hình sự ― Tạp chí Kiểm sát, Số 6/2012, tr. 39 - 47, 64;
Phạm Quang Thắng ―Hoàn thiện chính sách, pháp luật trong điều tra, truy tố và xét
xử đối với các vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em‖ Tạp chí Kiểm sát, Số
6/2012, tr. 48 – 52; Trần Minh Hưởng ―Nâng cao hiệu quả biện pháp lý lấy lời khai
người bị hại trong điều tra các vụ án mua bán phụ nữ, trẻ em‖ Tạp chí Kiểm sát ,
Số 21/2007, tr. 26 - 29, 35; Nguyễn Thị Lộc ―Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có
người bị hại là người chưa thành niên‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 15/2013, tr. 14 – 19;
15
Tại Học viện CSND cũng có một số đề tài Luận văn thạc sỹ nghiên cứu về
vấn đề này như: ― Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm chiếm đoạt trẻ
em vùng biên giới tỉnh Hà Giang‖ của tác giả Dương Thị Huệ - Cao học khóa 17; ―
Hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu. Thực trạng và giải pháp‖ của tác giả Phạm Mạnh
Hùng - Cao học khóa 16; ― Thực trạng và giải pháp nâng cao công tác điều tra các
vụ án xâm hại trẻ em trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Điện
Biên của lực lượng CSĐT tội phạm về TTXH‖ của tác giả Lê Bình - Cao học 17.
Viện khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có đề tài cấp bộ: ―Hoàn
thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố và xét xử NCTN phạm tội trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003‖.
Nhìn chung, trong các nghiên cứu đã thực hiện, chưa có nghiên cứu nào tiếp
dưới góc độ so sánh, đối chiếu và làm rõ các nhân tố hợp lý và tất yếu trong hệ
thống lý luận cũng như trong các thủ tục tố tụng cần áp dụng đối với NBHCTN
nhằm ngày càng phù hợp hơn với các quy định của quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Đặc biệt, hiện nay chưa có một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu làm rõ
cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và các phương hướng, kiến nghị cụ thể để xây dựng cơ
chế bảo vệ tốt hơn quyền và thủ tục tố tụng áp dụng đối với NBHCTN trong các vụ
án hình sự đáp ứng với các tiểu chuẩn và xu hướng của thế giới. Đây là những vấn
đề đang bỏ ngỏ mà luận án cần nghiên cứu làm rõ.
1.2. Tình hình nghiên ở nƣớc ngoài
1.2.1. Các nghiên cứu về lý luận
Một là, nghiên cứu về quyền con người nói chung
Ngày 26/08/1789 các nhà cách mạng Pháp công bố Bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền, đánh dấu sự phát triển lên một bậc thang mới của quyền con
người. Tuy nhiên, phải đợi đến ngày 10/12/1948, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) tại Palaisde Chaillot,
Paris, Pháp – là mốc son đánh dấu thành tựu quan trọng cho sự phát triển quyền con
người. Ngày 16/12/1966, Liên Hợp Quốc thông qua hai Công ước quốc tế về quyền
16
con người, là Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) và Công
ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Có thể khẳng định, đây là ba văn kiện
quốc tế quan trọng đặt nền tảng cho khung pháp luật quốc tế về quyền con người.
Hai là, nghiên cứu về quyền con người trong tư pháp hình sự nói chung và
quyền của người bị hại nói riêng.
Vấn đề nghiên cứu về người bị hại trong tư pháp hình sự nói chung mới được
các nhà khoa học trên thế giới đề cập đến và nghiên cứu trong những năm gần đây.
Hiện nay, Liên hợp quốc đang xây dựng Bản tuyên ngôn về quyền của người bị hại
(bản dự thảo đầu tiên năm 2008) [181]. Đến tháng 03/2010, Ủy ban Liên minh Châu
Âu EU triển khai chương trình kế hoạch 05 năm (2010 – 2015) đẩy mạnh công tác
nghiên cứu và áp dụng về các qui định về quyền của người bị hại vào thực tế áp
dụng pháp luật TTHS của các nước thành viên EU [182]. Ngày 04/10/2012, Ủy ban
Châu Âu đã bỏ phiếu thông qua một đạo luật mới với tên gọi ―Chỉ thị của Ủy ban
Châu Âu về bảo đảm các quyền tối thiểu của nạn nhân của tội phạm,
MEMO/12/659‖ [183]. Chỉ thị nêu rõ: ―Các hệ thống tư pháp hình sự của các nước
thành viên EU đã quá tập trung vào bảo đảm quyền của người bị kết án (tội phạm)
mà xem nhẹ quyền của người bị hại. Bằng đạo luật này, chúng tôi sẽ tăng cường
quyền cho các nạn nhân. Không ai muốn trở thành nạn nhân của tội phạm, nhưng
nếu nó xẩy ra, người dân cần”.
Ngày 15/3/2001, Công ước Châu Âu về vai trò, vị trí của người bị hại trong
TTHS đã được thông qua bởi Đại hội đồng Liên minh Châu Âu [184]. Thực hiện
Quyết định khung này, một Chỉ thị về bồi thường nhà nước cho các nạn nhân của
tội phạm đã ra đời và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các quốc gia thành viên EU
kể từ ngày 22/3/2001[185].
Tại Mỹ, quyền của người bị hại đã được khẳng định như là một quyền hiến
định vào năm 1982 với Bộ luật đầu tiên về quyền của người bị hại (The Victim
Rights Act).
Một số công trình nghiên cứu bảo vệ quyền của người bị hại trong tư pháp
hình sự tiêu biểu như:
17
Công trình “Victim of Crime: An Overview of Reasearch and Policy” (1998) –
(Nạn nhân của tội phạm: Tổng quan tình hình nghiên cứu và chính sách) của Viện
Tội phạm học Australia. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về người bị hại trong
TTHS của Australia, được Viện Tội phạm học của Australia nghiên cứu trong vòng
2 năm (1998 – 2000). Công trình đã nghiên cứu tổng kết toàn bộ các kết quả nghiên
cứu trước đây của Úc về nạn nhân của tội phạm và tóm tắt tất cả các sáng kiến về
mặt chính sách đã được nêu cũng như áp dụng tại Australia (đặc biệt là phía Nam
Australia) nhằm cải thiện vị trí, vai trò và quyền của người bị hại trong hệ thống tư
pháp hình sự Australia.
Cuốn sách: “Hướng tới người bị hại: Đánh giá khái quát về quyền của người
bị hại” do Bộ Tư pháp NewZealand xuất bản năm 2009 dày 60 trang, gồm 7
chương, trong đó đã trình bày một cách khái quát nhất về các vấn đề liên quan đến
người bị hại và quyền của người bị hại nhằm mục đích bảo vệ và nâng cao vai trò
của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự của NewZealand.
Cuốn sách: ―Seeking Justice through the Criminal Justice System‖ (2010)
(Tìm kiếm công lý trong hệ thống tư pháp hình sự) do Bộ tư pháp Mỹ công bố trong
chương trình khảo sát về thực trạng bảo vệ quyền của các bên tham gia vào quá
trình TTHS [172] cũng đã phân tích quá trình người bị hại tham gia vào các hoạt
động TTHS và phản ứng tâm lý của họ về các quyền tố tụng của mình trong quá
trình đi tìm chân lý của vụ án. Cuốn sách cũng đã chỉ rõ: nếu người bị hại tin tưởng
vào hệ thống tư pháp hình sự, tin tưởng vào việc quyền và lợi ích hợp pháp của
mình sẽ được bảo đảm trong một nền tư pháp minh bạch và tiên tiến thì họ sẵn sàng
tố cáo tội phạm và đồng thời hợp tác nhiệt tình với cơ quan điều tra trong quá trình
chứng minh vụ án, nếu ngược lại, họ sẽ im lặng và chịu thiệt thòi do hậu quả của tội
phạm còn hơn là lại phải theo đuổi kiện tụng hoặc theo đuổi các quá trình TTHS.
Luận án tiến sĩ Luật học: “The role and position of victims of crime in the
Dutch criminal law” (2000) (Địa vị pháp lý của người bị hại trong hệ thống pháp
luật hình sự Hà Lan) của E.I. Brienen. Công trình đã dành gần 500 trang để phân
tích, điều tra toàn diện về vị trí, vai trò và các quyền tố tụng, các quyền dân sự của
nạn nhân của tội phạm ở Hà Lan.
18
Công trình nghiên cứu: “Victims of Crime in 22 European Criminal Justice
Systems” (2000 - 2005) (Nạn nhân tội phạm trong hệ thống pháp luật hình sự của
22 nước Châu Âu) của Dr. Marion, Khoa Luật Đại học Katholieke, EU. Công trình
này đã nghiên cứu vai trò của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự các nước
Châu Âu, đặc biệt hướng tới trả lời câu hỏi các nạn nhân trong các vụ án hình sự
cần được hỗ trợ như thế nào để họ có thể tiếp cận được với thông tin trong quá trình
tố tụng. Thông qua việc tiếp cận các thông tin này họ có thể chủ động thực hiện các
quyền năng tố tụng của mình nhằm trước hết là bảo vệ quyền của mình, sau đó
nhằm thiết thực cải thiện khả năng đòi các bồi thường vật chất và phi vật chất từ
người phạm tội cũng như từ các cơ quan có chức năng bồi thường (của nhà nước
hoặc phi chính phủ).
Ba là, nghiên cứu về người chưa thành niên nói chung và người bị hại chưa
thành niên nói riêng
Về vấn đề bảo vệ quyền của NCTN bằng tư pháp hình sự, Liên Hợp Quốc đã
thông qua một loạt các văn bản như sau: Quy tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên Hợp
Quốc về quản lý tư pháp đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) 1985; Quy
tắc của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa người chưa thành niên bị tước quyền tự do,
1990; Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp của người chưa thành
niên (Hướng dẫn Riyadh), 1990; Tuyên bố về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên
quan đến việc bảo vệ và phúc lợi của trẻ em, đặc biệt là việc bảo trợ và nuôi con nuôi
trong nước và nước ngoài, 1986; Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong hệ
thống luật hình sự, phụ lục của Nghị quyết số 1997/30 của Hội đồng kinh tế và xã hội
về việc quản lý tư pháp với người chưa thành niên (ICCPR, Đại Hội đồng Liên Hợp
Quốc thông qua ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976).
1.2.2. Các nghiên cứu về thực tiễn quy định và áp dụng pháp luật về người bị hại
chưa thành niên trong tư pháp hình sự
Lĩnh vực bảo vệ quyền của NCTN nói chung và bảo vệ quyền của NBHCTN
nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
Cuốn "Protecting the world's children: Impact of the Convention of the
Rights of the Child in Diverse Legal Systems" (Bảo vệ trẻ em trên thế giới: Tác
19
động của Công ước về quyền trẻ em tới các hệ thống pháp luật) do UNICEF ấn
hành năm 2007 lại xem xét vấn đề tư pháp người chưa thành niên dưới góc nhìn so
sánh các kinh nghiệm lập pháp trong việc đưa CRC vào khung pháp luật của các quốc
gia và cung cấp thực tiễn thực thi CRC tại 191 quốc gia với bốn hệ thống pháp luật
điển hình: Hệ thống pháp luật Common Law, hệ thống pháp luật Civil Law, hệ thống
pháp luật Muslim và hệ thống pháp luật Châu Phi thuộc khu vực tiểu sa mạc Sahara.
Cuốn: "Justice for Children: Autonomy Development and the State" (Tư
pháp cho trẻ em: Sự phát triển tính tự quản của trẻ em và sự can thiệp của Nhà
nước) do Harry Adams thực hiện nghiên cứu và Đại học New York ấn hành năm
2008. Với hơn 197 trang viết, tác giả đã đề cập đến sự thay đổi của lứa tuổi người
chưa thành niên thông qua những biến đổi về tâm sinh lý. Đây là giai đoạn người
chưa thành niên có sự biến đổi lớn về nhận thức và hành vi, trẻ chuyển từ trạng thái
luôn gắn bó với cha mẹ, coi cha mẹ là thần tượng sang trạng thái muốn thoát dần
ảnh hưởng của cha mẹ, có khuynh hướng độc lập. Qua đó tác giả đề xuất những khu
vực mà người chưa thành niên có thể "tự quản", và đồng thời xác lập những giới
hạn cần thiết thông qua sự can thiệp của gia đình, nhà trường và pháp luật đối với
hành vi của trẻ. Mặt khác, tác giả cũng khẳng định không có học thuyết pháp lý nào
là hoàn hảo tuyệt đối để áp dụng duy nhất.
Cuốn: "Justice for Children: Detention as a Last Resort" (Innovative
Initiatives in the East Asia and Pacific Region) (Tư pháp cho trẻ em: Phạt tù như là
biện pháp cuối cùng (Sáng kiến ở khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương), do
tổ chức Unicef East Asia And Pacific Regional Office (EAPRO) ấn hành. Công
trình tiếp cận vấn đề tư pháp người chưa thành niên thông qua thực tiễn ba quốc gia:
Philipin, Thái Lan, Campuchia. Công trình đã chú ý giải quyết các vấn đề liên quan
đến trẻ em là nạn nhân của nghèo đói, lạm dụng, bóc lột sức lao động, trẻ em là nạn
nhân của việc buôn người, nạn nhân của công nghiệp tình dục,...Trên cơ sở tiếp cận
dưới góc độ những tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế, đối chiếu với những hoạt động
lập pháp của các quốc gia, thực tiễn thực thi pháp luật bảo vệ quyền trẻ em tại các
quốc gia này thông qua các mô hình tư pháp hình sự được thiết lập.
20
Cuốn: "Handbook for Professionals And Policymakers on Justice Matters
Involving Child Victims and Witnessed of Crime" (Sổ tay cho những người làm
công tác pháp luật và xây dựng chính sách liên quan đến nạn nhân và nhân chứng
trẻ em), do Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về ma túy và hình sự phát hành năm
2009. Cuốn sách đã cung cấp các kiến thức nền tảng cho các nhà hoạt động chuyên
nghiệp: Thẩm phán, luật sư,...nhằm bảo đảm tốt nhất quyền của trẻ em khi buộc
phải tham gia vào hoạt động tư pháp hình sự với tư cách là nạn nhân của tội phạm
và nhân chứng.
Cuốn: "Canadian Child Welfare Law: Children, Famillies and the State"
(Luật bảo vệ, chăm sóc trẻ em Canada: Trẻ em, gia đình và Nhà nước) do các tác
giả: Nicholas Bala, Michale Kim Zapf, R.James Williams, Robin Volg, Joseph p.
Hornick do nhà xuất bản Thompson Educational Publishing ấn hành năm 2004.
Công trình đã trình bày một cách hệ thống pháp luật Canada trong việc quy định và
thực thi việc bảo vệ trẻ em. Sách đã đề cập đến những vấn đề tư pháp hình sự liên
quan đến người chưa thành niên như: Pháp luật chăm sóc và bảo vệ quyền của trẻ
em tham gia tố tụng hình sự như: quyền được lắng nghe, vấn đề bảo vệ mãi dâm
người chưa thành niên, trẻ em bị lạm dụng, bị bỏ mặc, trẻ em là nhân chứng, trẻ em
bị cáo buộc phạm tội.
Để có thêm cái nhìn tổng quan về NBHCTN có thể xem việc quy định về chủ
thể đặc biệt này trong Bộ luật hình sự (BLHS) Và Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) của một số nước như: Liên bang Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ,
Anh, Đức, Pháp
Từ việc tham khảo các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, Luận án sẽ kế
thừa, tiếp tục phát triển những ưu điểm sau:
Một là, các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận của
việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của NBHCTN nói riêng, trước hết
là xuất phát từ mối quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân và những bảo
đảm quyền con người trong các quan hệ phát sinh trong TTHS. Hoạt động TTHS có
đặc thù là mang tính cưỡng chế và được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước, do đó
21
gắn liền với các hoạt động TTHS luôn là sự phát sinh, hạn chế hoặc chấm dứt một
số quyền cơ bản của công dân. Trong TTHS, các biện pháp bảo đảm pháp lý của
các quyền chủ thể tham gia tố tụng bao gồm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình
sự, các quy định về thủ tục, trình tự tố tụng, các giai đoạn của TTHS, các hoạt động
kiểm sát tuân theo pháp luật và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là
điểm xuất phát rất quan trọng, là cơ sở lý luận mang tính tiền đề để tác giả luận án
tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN
trong TTHS và các biện pháp mang tính xuất phát điểm về mặt lý luận nhằm bảo vệ
hiệu quả quyền của NBHCTN trong TTHS Việt Nam.
Hai là, các công trình nghiên cứu đã cung cấp cho tác giả một cái nhìn toàn
diện về khái niệm NCTN và tiếp cận được với các vấn đề về việc cần thiết phải bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN trong TTHS dưới góc độ luật học so sánh.
Mặc dù các nước với các hệ thống pháp luật khác nhau, tiếp cận và cơ chế bảo vệ
quyền của NBHCTN dưới các góc độ khác nhau nhưng tổng quan các tài liệu này cho
phép tác giả có cơ sở khái quát khái niệm NBHCTN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của NBHCTN trong TTHS một cách đa chiều và có tính so sánh, đối chiếu.
Ba là, những kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với Luận
án là đã khái quát được một cách khá đầy đủ thực trạng pháp luật quốc tế về quyền
và lợi ích hợp pháp của NBHCTN, từ đó giúp tác giả có cơ sở để nghiên cứu so
sánh với thực trạng pháp luật Việt Nam về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của NBHCTN và có thể luận giải đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật Việt Nam.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Qua nghiên cứu các công trình nêu trên, tác giả có một số nhận xét, đánh giá
về các kết quả nghiên cứu như sau:
Một là, vấn đề quyền con người là vấn đề cơ bản, mang tính thời sự có ý
nghĩa quan trọng về tư tưởng, lý luận và thực tiễn. Nó đã và đang được quan tâm
nghiên cứu không chỉ dừng lại ở phạm vi chuyên môn hẹp của ngành khoa học nào
đó mà đang trở thành đối tượng nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực của khoa học xã
22
hội, trong đó có khoa học pháp lý, cũng đi theo hướng nghiên cứu này. Các công
trình nghiên cứu về quyền con người sẽ là nền tảng để tác giả tiếp cận sâu hơn
quyền con người của nhóm ―yếu thế‖ là NBHCTN trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
Hai là, quyền con người trong tư pháp hình sự có thể tiếp cận theo lĩnh vực
pháp luật hoặc theo đối tượng cụ thể như người bị buộc tội hoặc người bị thiệt hại.
Thực tế cho thấy xu hướng của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền con người trong tư
pháp hình sự đều coi người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết
án) là trọng tâm của vấn đề quyền con người trong TTHS. Đa số cho rằng, người bị
buộc tội là những chủ thể yếu thế khi đứng trước các cơ quan tư pháp, các quyền của
họ có nguy cơ bị xâm hại cao nhất nên họ cần được ưu tiên bảo vệ.
Ba là, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam đã quan
tâm đến đối tượng đặc biệt là NCTN cả về lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn
TTHS, các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu về NCTN chỉ tập trung vào nhóm đối tượng
NCTN bị buộc tội, còn nhóm đối NCTN là người bị hại trong các vụ án hình sự thì
lại ít được quan tâm nghiên cứu hơn.
Chính vì vậy, liên quan đến lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của
NBHCTN, tác giả thấy cần phải làm rõ một số vấn đề như: quyền con người nói
chung và quyền của người bị hại nói riêng; đảm bảo sự công bằng về quyền và lợi
ích hợp pháp của NCTN với tư cách là người bị buộc tội và người bị hại trong lĩnh
vực TTHS; Tác động qua lại trong mối quan hệ giữa quyền con người và quyền của
NBHCTN... Những nghiên cứu này được đặt ra trên cơ sở mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù. Do đó, khi chưa làm rõ những vấn
đề lý luận này thì tất yếu không thể có những đánh giá khoa học, có sức thuyết phục
về thực trạng vấn đề này trong thực tiễn và đề ra biện pháp, cơ chế hữu hiệu nhằm
bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm đối tượng này trong tố
TTHS. Nếu không tiếp cận dưới góc độ quyền con người thì việc đề xuất hoàn thiện
các thủ tục TTHS đối với NBHCTN sẽ khó toàn diện và thiếu thuyết phục.
23
1.4. Về những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Một là, khái niệm người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự chưa
được các công trình nghiên cứu giải quyết thấu đáo.
Hai là, các nghiên cứu của nước ngoài đã phân tích và làm sáng tỏ về việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN, đồng thời đã áp dụng thành công
trên thực tiễn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, các cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của NBHCTN trong pháp luật hình sự và TTHS chưa hề được đề cập nghiên cứu ở
mức độ cần thiết. Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN trong hệ
thống tư pháp hình sự (thế giới và Việt Nam) cần được so sánh, phân tích và luận
giải, qua đó tìm những "khoảng trống pháp lý" còn tồn tại.
Ba là, thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN trong các
vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay cần được quan tâm nghiên cứu, bởi vì đây là cơ
sở để đưa ra các giải pháp. Vì vậy, tác giả đã nghiên cứu đánh giá thực trạng
NBHCTN trong các vụ án hình sự ở Việt Nam từ 2007 đến 2017 (kết quả điều tra,
truy tố, xét xử các tội phạm xâm hại NCTN; khảo sát những vi phạm, sai lầm của
các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có NBHCTN điển
hình, đã được công bố công khai).
Bốn là, Các yêu cầu và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và hoàn thiện
các cơ chế bảo vệ NBHCTN trong các vụ án hình sự phù hợp với tình hình của Việt
Nam hiện nay và hướng phát triển phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Quyền con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vự tư pháp
hình sự luôn là một vấn đề được quan tâm không những của những nhà nghiên
cứu mà còn của hệ thống tư pháp của mỗi quốc gia. Sự tham gia của người bị hại
vào quá trình tố tụng hình sự là một tất yếu nhưng tổng quan tình hình nghiên
cứu cho thấy, mặc dù người bị hại là cá nhân bị thiệt hại do tội phạm gây ra, là
một trong hai chủ thể chính và quan trọng nhưng lại ít được quan tâm nghiên cứu
và bảo vệ trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Hoạt động nghiên cứu và bảo vệ người
bị hại nói chung và NBHCTN nói riêng trong tố tụng hình sự trên thế giới mới
được quan tâm với lịch sử gần 40 trở lại đây so với lịch sử hơn 250 năm của
trong trào nghiên cứu và bảo vệ quyền con người.
NBHCTN được tư pháp hình sự xác định là một chủ thể đặc biệt được
quan tâm. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã khẳng định vấn đề
trước tiên và quan trọng nhất, cũng như trong các vấn đề khác liên quan đến trẻ
em, nguyên tắc ―lợi ích tốt nhất của trẻ em‖ phải được coi là trọng tâm trong việc
ứng xử với NBHCTN. Để đảm bảo nguyên tắc này có nghĩa là đôi khi việc truy
tố thủ phạm sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Ở Việt Nam, trọng tâm của vấn đề bảo vệ quyền con người trong tư pháp
hình sự vẫn là người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) và trong tư
pháp người chưa thành niên vẫn là người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Điều này được thể hiện trong những công trình nghiên cứu mà tác giả đã tìm
hiểu ở phần tổng quan. Đây là những nội dung chính đang bị ―khuyết‖ trong
nghiên cứu về quyền con người, quyền của người chưa thành niên trong tố tụng
hình sự. Vì vậy, luận án sẽ tập trung nghiên cứu, luận giải và làm sáng tỏ những
nội dung này trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, thông qua đó đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án có NBHCTN
góp phần bảo vệ người chưa thành niên khỏi hành vi xâm hại và bảo đảm quyền
của NBHCTN trong TTHS.
25
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI BỊ HẠI
CHƢA THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1. Khái niệm và đặc điểm của người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự
2.1.1. Khái niệm người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự
2.1.1.1. Người bị hại
Người bị hại là một trong những người tham gia tố tụng theo quy định của
BLTTHS. Việc tham gia tố tụng của người bị hại không chỉ nhằm bảo vệ, khôi phục
những quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã bị hành vi phạm tội xâm hại mà còn góp
phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Dưới góc độ ngôn ngữ có thể hiểu người bị hại là con người cụ thể trong xã
hội, chịu sự tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kỳ sự tác động nào khác
dẫn đến những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ. Tất nhiên sự tác
động đó là trái với ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ động.
Thiệt hại gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất và
không cần phải giới hạn mức độ thiệt hại.
Theo Từ điển Luật học, người bị hại là ―người bị thiệt hại về thể chất, về tinh
thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị
người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể
là pháp nhân‖ [62, tr.198].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm
2003 chỉ rõ: ―Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội
phạm gây ra‖. Pháp luật một số nước cũng có quy định tương tự. Chẳng hạn, Điều
53 BLTTHS Liên bang Nga quy định: ―Người bị hại là người bị tội phạm gây thiệt
hại về tinh thần, thể chất hoặc tài sản. Người tiến hành điều tra, dự thẩm viên, thẩm
phán, tòa án ra quyết định công nhận là người bị hại”. Còn khoản 1 Điều 43
BLTTHS của Tiệp Khắc trước đây quy định: ―Người bị hại là người bị tội phạm
gây thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản, tinh thần hoặc những thiệt hại khác‖.
26
BLTTHS Rumani cũng có quy định tương tự. Điều đó cho thấy pháp luật một số
nước có sự thống nhất trong định nghĩa người bị hại. Với quy định này, người bị hại
thường được hiểu là con người cụ thể; thiệt hại gây ra đó là tinh thần, thể chất, tài
sản hoặc những thiệt hại khác; những thiệt hại đó phải do tội phạm gây ra.
Bị thiệt hại về thể chất là bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe như làm cho
bị thương, bị chết… Bị thiệt hại về tinh thần là tinh thần bị tổn thương như bị vu
khống. Bị thiệt hại về tài sản là tài sản của người bị hại bị hư hỏng, mất mát như bị
hủy hoại tài sản, lừa đảo, mất trộm…[14, tr.198].
Điều 62, BLTTHS năm 2015 quy định: Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín
do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Nếu như trước kia, trong tố tụng hình sự
Việt Nam, khi nói về người bị hại thì mặc nhiên sẽ được hiểu chỉ có thể là cá nhân,
là con người cụ thể thì đến BLTTHS năm 2015, bị hại được hiểu không chỉ là cá
nhân mà còn là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Điều này có nghĩa:
Chỉ thể tham gia tố tụng với tư cách là bị hại không chỉ là cá nhân cụ thể mà cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra
cũng được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại.
2.1.1.2. Người chưa thành niên
Khái niệm NCTN được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học khác
nhau như tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, luật học... Tùy theo các góc độ, lĩnh
vực khác nhau mà khái niệm này được hiểu khác nhau. Theo nhà tâm lý học G.
Stanley Hall, thời kỳ chưa thành niên là thời kỳ quá độ trẻ em chuyển lên người lớn
và là thời kỳ gắn liền với những xung đột, xáo trộn tâm trạng, nó cũng được quan
niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn hoặc đang trưởng thành [42, tr.12].
Điều 11 của Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người
chưa thành niên bị tước quyền tự do được Liên Hợp Quốc thông qua ngày
14/12/1992 quy định:― Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi‖.
Khái niệm NCTN được quy định và sử dụng trong pháp luật dân sự, hình sự,
TTHS. Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: ―Người chưa thành niên là người
27
chưa đủ 18 tuổi‖. BLHS, BLTTHS cũng xác định NCTN là người chưa đủ 18 tuổi.
BLHS năm 1999 đã dành một chương riêng quy định đối với ―người chưa
thành niên phạm tội‖ nhưng lại không có một khái niệm pháp lý chính thức giải
thích thế nào là NCTN. Điều 68 BLHS chỉ rõ: ―Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của
Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không
trái với những quy định của Chương này‖. Như vậy, có thể hiểu NCTN ở độ tuổi từ
14 đến dưới 18 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội do mình
gây ra trong các trường hợp mà BLHS quy định.
BLHS năm 2015 không dùng thuật ngữ ―người chưa thành niên‖ để chỉ
nhóm người dưới 18 tuổi nói chung nữa mà xác định rõ chính sách hình sự cụ thể
cho từng độ tuổi nhất định, việc thay đổi này nhằm bảo đảm tính thống nhất cũng
như tính ổn định của Bộ luật sau khi được ban hành. Cụ thể như: Dành hẳn một
chương (Chương XII) những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Quy
định rõ các tội như: Tội hiếp dâm (Điều 141, khoản 4 – phạm tội đối với người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi); Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); Tội
cưỡng dâm (Điều 143, khoản 4 – cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi);
Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
(Điều 145); Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng người
dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); Tội mua bán người dưới 16 tuổi
(Điều 151); Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi (Điều 152); Tội chiếm đoạt người
dưới 16 tuổi (Điều 153); Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16
tuổi (Điều 296); Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp
(Điều 325); Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329).
Tóm lại, trong pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng,
khái niệm NCTN dùng để chỉ những người dưới (chưa đủ) 18 tuổi. Trong Luật hình
sự, TTHS Việt Nam, mặc dù có những quy định khác nhau về độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, nhưng cũng coi NCTN là người dưới 18 tuổi. Vì vậy, có thể hiểu:
NCTN là người dưới 18 tuổi hay chưa đủ 18 tuối.
28
* Trẻ em
Khi xem xét nhóm người trong độ tuổi dưới 18, chúng ta còn bắt gặp khái
niệm trẻ em. Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm người thuộc về một độ
tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Trẻ em là những
người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần
được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp
lý trước cũng như sau khi ra đời.
Điều 1 Công ước về quyền trẻ em năm 1989 quy định: ―Trong phạm vi của
Công ước này, trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em có qui định tuổi thành niên sớm hơn‖. Như vậy, theo quy
định của Liên hợp quốc thì tất cả những người dưới 18 tuổi đều được gọi là trẻ em.
Theo quy định của Pháp luật Việt Nam, trẻ em là những người dưới 16 tuổi.
Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 của Việt Nam đưa ra
khái niệm: ―Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi‖.
Quy định về độ tuổi của trẻ em mặc dù cũng có nhiều ý kiến là nên đồng nhất với
quy định của Công ước về Quyền trẻ em năm 1989, nhưng xét trên nhiều phương
diện thì độ tuổi này (dưới 16 tuổi) vẫn được bảo lưu trong Luật trẻ em vừa được
Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 05/4/2016 và có hiệu lực vào ngày 01/6/2017.
Trong BLHS năm 1999 của Việt Nam không đưa ra khái niệm trẻ em, nhưng lại
quy định một số hành vi xâm phạm đến trẻ em như: Trẻ em trong tình tiết ―phạm tội
đối với trẻ em‖ được quy định tại điểm h, Khoản 1, Điều 48 BLHS là tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự. Trẻ em ở đây được hiểu là bất kỳ người nào dưới 16 tuổi;
Trẻ em quy định trong Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều
114), Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115), Tội dâm ô với trẻ em (Điều 116); Tội mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120); Tội chứa mại dâm (Điều 254); Tội
môi giới mại dâm (Điều 255), được hiểu là bất kỳ người nào dưới 16 tuổi.
BLHS năm 2015 cũng không còn dùng khái niệm ―trẻ em‖ nữa mà quy định
chế tài cụ thể đối với những trường hợp phạm tội đối người dưới 16 tuổi hay chưa
đủ 16 tuồi.
29
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam trẻ em là những người dưới
16 tuổi.
Tóm lại, trong pháp luật quốc tế nói chung khái niệm trẻ em và NCTN dùng
để chỉ những người dưới 18 tuổi. Trong Luật hình sự Việt Nam, mặc dù có những
quy định khác nhau về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nhìn chung cũng
thừa nhận: Trẻ em là những người dưới 16 tuổi; NCTN là người dưới 18 tuổi, còn
NCTN phạm tội chỉ bao gồm những người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự dưới 18
tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm. .
Vì vậy, có thể khẳng định theo pháp luật Việt Nam khái niệm NCTN rộng
hơn khái niệm trẻ em. Trẻ em đương nhiên là NCTN nhưng là NCTN ở độ tuổi dưới
16, còn NCTN bao gồm trẻ em và một bộ phận không phải là trẻ em (người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi). So sánh với quy định của văn kiện quốc tế thì khái niệm
NCTN ở Việt Nam phù hợp với khái niệm trẻ em được quy định trong Công ước
của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
Hiểu được sự phân biệt trên giúp ta thấy được nếu điều luật trong văn bản
pháp luật Việt Nam quy định thuật ngữ ―người chưa thành niên‖ là đối tượng xâm
hại bởi tội phạm nào đó không quy định độ tuổi thì cần được hiểu theo nghĩa chung
nhất là người dưới 18 tuổi. Tương tự nếu điều luật quy định thuật ngữ ―trẻ em‖ là
đối tượng bị xâm hại thì cần hiểu là người dưới 16 tuổi. Còn trong các văn bản pháp
luật quốc tế nếu quy định là trẻ em thì sẽ được hiểu là NCTN theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
2.1.1.3. Khái niệm người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự
Dưới góc độ luật học, vụ án được hiểu là một sự kiện đã xảy ra trong quá
khứ và đặt ra yêu cầu phải điều tra, làm rõ. Vụ án hình sự là vụ án có dấu hiệu của
tội phạm cụ thể đã được quy định trong Bộ luật hình sự và được cơ quan có thẩm
quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ. Dấu hiệu của tội phạm là dấu hiệu cho phép đánh giá
30
có khả năng đã có tội phạm xảy ra. Ví dụ, có sự việc chết người xảy ra mà trên
người nạn nhân có nhiều vết chém; có sự việc nhà của người dân bị cắt khóa, lục
soát đồ đạc... là biểu hiện của sự việc có dấu hiệu tội phạm.
Khi phát hiện sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm thì các cơ quan có
thẩm quyền phải có trách nhiệm ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành
điều tra, không phải đợi đến khi xác định được người đã thực hiện hành vi phạm tội
mới ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là sự kiện
bắt đầu hoạt động điều tra vụ án chính thức. Việc xác định sự việc xảy ra có dấu
hiệu tội phạm là cơ sở để khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên những căn cứ nhất
định. Điều 143 BLTTHS quy định: Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu
hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ bao gồm: Tố
giác của cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện
thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; người phạm tội tự thú;
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm.
Về nguyên tắc, khi xác định được sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm thì
cơ quan có thẩm quyền sẽ phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, xuất phát từ quyền và lợi ích của người bị hại, BLTTHS
quy định cho phép người bị hại được quyền yêu cầu hay không yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự (Điều 155 BLTTHS). Trong những trường hợp đó, chỉ khi có yêu cầu
của người bị hại thì các cơ quan có thẩm quyền mới được khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, có thể hiểu: Người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự là
người chưa đủ 18 tuổi bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra
được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự và đã được cơ quan có thẩm quyền khởi
tố vụ án để thực hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án
hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.1.2. Đặc điểm của người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự
Trong vụ án hình sự, NBHCTN có các đặc điểm của người bị hại và các đặc
điểm về thể chất, về tâm sinh lý của NCTN nói chung. Ngoài ra, NBHCTN còn có
các đặc điểm riêng biệt như:
31
2.1.2.1. Là chủ thể đặc biệt được hưởng quyền và được pháp luật bảo vệ
Với tư cách là một chủ thể tham gia tố tụng đặc biệt, NBHCTN có vị trí, vai
trò rất quan trọng được cả pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận
và bảo vệ.
Theo pháp luật hình sự Việt Nam, thì BLHS hiện hành được coi là nguồn
trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự
được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều 1, BLHS năm
1999 và năm 2015 đều ghi nhận nhiệm vụ của BLHS là: ―bảo vệ chủ quyền quốc
gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục
mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm; Bộ
luật này quy định về tội phạm và hình phạt”.
Pháp luật hình sự nước ta rất nghiêm khắc đối với với hành vi phạm tội xâm
hại đến người chưa thành niên. Điều này không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ
NCTN là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn xuất phát từ một thực tế NCTN là người ít có hoặc
không có khả năng tự vệ. Do đó khi xác định tội phạm và hình phạt phụ thuộc vào
độ tuổi của nạn nhân. Nếu NCTN càng ít tuổi, sự kháng cự càng yếu ớt thì mức
hình phạt áp dụng càng nghiêm khắc.
Để bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, cùng với việc ban hành BLHS xác
định tội phạm và hình phạt, Nhà nước đã ban hành BLTTHS trong đó quy định
trình tự, thủ tục giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
một số thủ tục thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của
32
những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức và cá nhân khi tham gia vào các
hoạt động tố tụng hình sự.
Với tư cách là một chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng, NBHCTN cũng được
BLTTHS có những quy định riêng về trình tự thủ tục tố tụng và quyền, nghĩa vụ khi
tham gia vào quy trình tố tụng hình sự.
Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc (CƯQTE) được coi là văn kiện
quốc tế cơ bản ghi nhận về quyền trẻ em (người chưa thành niên). Xét trên bình
diện chung nhất thì CƯQTE quy định đầy đủ nhất về quyền của trẻ em nói chung,
Công ước đã trở thành tiêu chuẩn chung cho việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em, là căn
cứ để đánh giá mức độ hoàn thành trách nhiệm của các quốc gia trong việc tôn
trọng và bảo đảm quyền của mỗi trẻ em thuộc quyền tài phán của họ.
Hội nghị Tư vấn toàn cầu của UNICEF về ―Cách tiếp cận làm chương trình
dựa trên cơ sở quyền‖ Dar es Salaam (Tanzania), 2002. Báo cáo tóm tắt và Kiến
nghị, UNICEF: Niu Oóc, 2002) đã nêu: Quyền trẻ em được dựa trên mối quan hệ cơ
bản giữa trẻ em — người được hưởng quyền và có quyền yêu cầu – với tất cả những
người lớn trong bộ máy nhà nước, cộng đồng và gia đình là những người có trách
nhiệm pháp lý thực hiện các đòi hỏi đó và Trẻ em là chủ thế của các quyền.
Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này (năm
1990). Với việc phê chuẩn Công ước này, Việt Nam đã cam kết thực hiện ―mọi biện
pháp thích hợp về pháp lý, hành chính và các biện pháp khác‖ để thực thi và tuân
thủ Công ước [186]. Trong Báo cáo thực hiện CƯQTE giai đoạn 1993-1998 gửi Ủy
ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc, Chính phủ Việt Nam đã chỉ rõ ràng: ―Công
ước về quyền trẻ em là một trong những điều ước Liên hợp quốc quan trọng về
quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn. Hiện tại, thực hiện quyền trẻ em là
một trong những trọng tâm của quyền con người ở Việt Nam‖ [29 - tr.10].
Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 về các quyền của trẻ em khẳng định:
―...Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo
điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển
hài hòa về thế chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức‖.
33
Như vậy, có thể khẳng định với tư cách là chủ thể tham gia vào các quan hệ
pháp luật thì trẻ em là chủ thể của các quyền, là người được hưởng quyền và có
quyền yêu cầu.
2.1.2.2. Người bị hại chưa thành niên thường chịu sang chấn rất lớn và lâu dài về tâm
sinh lý
Các nghiên cứu về tâm thần học đã chỉ ra rằng NCTN bị xâm hại về tình dục
thường xảy ra trong một khoảng thời gian được đặc trưng bởi một mô hình cụ thể
hoặc theo một trình tự như bắt đầu với hành vi xâm hại nhỏ dần dần leo thang đến
nghiêm trọng, sự tiến triển này qua năm giai đoạn: Tham gia, tương tác tình dục, bí
mật, tiết lộc và đàn áp.
Do thể chất chưa phát triển hoàn thiện của NCTN nên khi bị xâm hại không
những có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi mà còn gây ra tác động tới sự phát triển của
họ suốt cuộc đời. Các em bị hủy hoại về tình cảm và thường gặp phải nhiều vấn đề
sức khỏe khác nhau. Theo Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Bá Quyết - Giám đốc Bệnh viện
Phụ sản Trung ương thì có không ít bé gái bị xâm hại tình dục, sau này có chồng
nhưng không thể sinh con, không được làm mẹ, không phải vì lý do liên quan chức
năng sinh sản. Ông từng khám cho một phụ nữ lấy chồng suốt bốn năm nhưng
không thể gần gũi chồng vì cơ thể luôn ―phản ứng‖ với những ám ảnh từ ngày thơ
bé. Cũng có trường hợp đã mang thai nhưng lại không thể sinh nở một cách suôn sẻ
vì tử cung không co giãn, do những ―phản xạ có điều kiện‖ từ tâm lý...
Các tài liệu liên quan đến các hậu quả tâm lý của NCTN bị xâm hại về thể
chất chỉ ra một loạt các ảnh hưởng sâu sắc như: ảnh hưởng đến sự điều chỉnh, mô
hình gắn kết không an toàn và không điển hình, giảm các mối quan hệ bạn bè, tăng
sự chống đối hoặc cách ly xã hội và không đạt kết quả cao trong học tập. NCTN bị
xâm hại về thể chất biểu hiện nhiều bệnh tâm thần như: Trầm cảm, rối loạn hành vi,
rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), rối loạn thách thức chống đối, phân ly và
rối loạn stress sau sang chấn (PTSD).
NCTN bị xâm hại về tình dục thường có một loạt các triệu chứng, các thay
đổi hành vi như: Các triệu chứng lo âu, phản ứng và triệu chứng phân ly, trầm cảm,
34
rối loạn hành vi tình dục và triệu chứng cơ thể.
Các triệu chứng lo âu bao gồm các triệu chứng sợ hãi, ám ảnh, mất ngủ, ác
mộng mà nội dung liên quan trực tiếp đến hành vi xâm hại, các triệu chứng cơ thể
và PTSD.
Phản ứng và triệu chứng phân ly, có thể biểu hiện như mất trí nhớ, mơ mộng,
lên đồng, co giật, rối loạn nhận biết.
Trầm cảm có thể được biểu hiện bằng giảm thấp lòng tự trọng, hành vi tự sát
hoặc tự hủy hoại.
Rối loạn hành vi tình dục như thủ dâm, bắt chước hành vi giao hợp hoặc xâm
hại tình dục với người khác.
Triệu chứng cơ thể như đái dầm, chán ăn, ăn vô độ, béo phì, đau đầu và đau
dạ dày.
Căng thẳng và sang chấn tâm lý do việc bị xâm hại nghiêm trọng đến thể chất,
tinh thần gây ra cho NCTN có thể dẫn đến bệnh lý lâu dài, gây ảnh hưởng đến não
bộ và vẫn tồn tại đến tuổi trưởng thành. Nhiều nạn nhân đã mắc chứng bệnh có tên
Rối loạn căng thẳng hậu sang chấn Tâm lý (PTSD). Bệnh này khó chẩn đoán và
điều trị với những triệu chứng sau đây:
+ Bác bỏ sự liên quan đến bất kỳ sự việc bị bóc lột nào.
+ Sẽ không có khả năng nhớ hoặc nhắc lại sự việc một cách rõ ràng.
+ Sẽ không có khả năng nhớ lại các sự kiện theo trình tự thời gian hoặc chuỗi
sự kiện.
+ Trải nghiệm lại sự kiện qua các giấc mơ, ác mộng, hồi tưởng và ý nghĩ ám ảnh.
+ Tránh những yếu tố khơi lại sự kiện.
+ Không có khả năng phản ứng với những sự kiện đang diễn ra.
+ Triệu chứng khó ngủ như ngủ không dài, có những hành vi hung hãn hoặc
khả năng tập trung kém.
Người ta cho rằng PTSD ảnh hưởng tới trí nhớ theo nhiều cách khác nhau.
Người chưa thành niên bị PTSD thậm chí không thể miêu tả được chuyện gì đã diễn
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự

More Related Content

What's hot

Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (18)

Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt NamBảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luậtHình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
 
Luận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
Luận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt NamLuận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
Luận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
 
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngườiLuận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Tội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam Định
Tội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam ĐịnhTội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam Định
Tội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam Định
 
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
 

Similar to Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự

Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 

Similar to Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự (20)

Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiBào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOTQuyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
 
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOTĐề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAYQuyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAYLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
 
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm pháp lý tố tụng hình sự về quyền con người
Luận văn: Bảo đảm pháp lý tố tụng hình sự về quyền con ngườiLuận văn: Bảo đảm pháp lý tố tụng hình sự về quyền con người
Luận văn: Bảo đảm pháp lý tố tụng hình sự về quyền con người
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tộiPháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietNguyễn Quang Huy
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 

Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LỘC NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LỘC NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 9.38.01.04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Phạm Mạnh Hùng 2. TS. Đặng Quang Phƣơng HÀ NỘI - 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Thị Lộc
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.......................................9 1.1. Tình hình nghiên cứu pháp luật Việt Nam về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự ...............................................................................................9 1.2. Tình hình nghiên ở nước ngoài ..........................................................................15 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án..............................21 1.4. Về những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu trong luận án............................23 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ................................................25 2.1. Khái niệm và đặc điểm của người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự ........25 2.2. Phân biệt người bị hại chưa thành niên với nguyên đơn dân sự và với người có quyền lợi liên quan đến vụ án...............................................................................36 2.3. Quyền và các hình thức bảo đảm thực hiện quyền của người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự............................................................................38 Chƣơng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.......................................................................................................................61 3.1. Quy định của pháp luật về người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự..........61 3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự .............................................................................................................87 Chƣơng 4: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIẢI QUYẾT ĐÚNG VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN..........123 4.1. Các yêu cầu với việc giải quyết vụ án hình sự có người bị hại chưa thành niên ....123 4.2. Các giải pháp nhằm bảo đảm giải quyết đúng vụ án hình sự có người bị hại chưa thành niên .......................................................................................................125 KẾT LUẬN............................................................................................................143 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .....................................................................................................146 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................147
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra CSĐT Cảnh sát điều tra CƯQTE Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc ĐTV Điều tra viên LHQ Liên hợp quốC KSV Kiểm sát viên NBH người bị hại NCTN người chưa thành niên NBHCTN người bị hại chưa thành niên TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TP Thẩm phán Thông tư 01/2011 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12 tháng 7 năm 2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người chưa thành niên tham gia tố tụng THTT tiến hành tố tụng TTHS tố tụng hình sự VAHS VAHS VKS Viện kiểm sát VKSNDTC Viện Kiểm sát nhân dân tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1: Các vụ án xâm hại người chưa thành niên đã được xử lý giai đoạn 2007 – 2017..................................................................................................90 Bảng 3.2: Các tội phạm xâm hại người chưa thành niên đã được xử lý giai đoạn 2007 – 2017.........................................................................................91 Bảng 3.3: Hình phạt áp dụng đối với các tội phạm xâm hại tình dục người chưa thành niên đã được xét xử giai đoạn 2013 – 2017 ............................105 Bảng 3.4: Hình phạt áp dụng đối với các tội phạm Hiếp dâm trẻ em đã được xét xử giai đoạn 2013 – 2017.....................................................................106
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Quyền con người nói chung và quyền con người trong tư pháp hình sự nói riêng là một trong những vấn đề được cả cộng đồng nhân loại và mỗi quốc gia quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 là văn bản luật pháp đầu tiên đề cập đến thuật ngữ ―Quyền con người‖. Hiến pháp đã mở ra bảo đảm quan trọng trong hệ thống tư pháp với quy định: ―Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm‖ (Điều 71), ―Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật‖ (Điều 72). Quyền trẻ em là lĩnh vực quyền con người cũng được chính thức đề cập trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật, pháp quy của Nhà nước. Điều 40 Hiến pháp 1992 khẳng định: ―Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em...‖ . Năm 1998, trong "Báo cáo thực hiện Công ước về quyền trẻ em giai đoạn 1993-1998‖ gửi Ủy ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc, Chính phủ cũng đã chỉ rõ: ―Công ước về quyền trẻ em là một trong những điều ước Liên hợp quốc quan trọng về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn. Hiện tại, thực hiện quyền trẻ em là một trong những trọng tâm của quyền con người ở Việt Nam‖. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001, lần đầu tiên trong các văn kiện của Đảng đã khẳng định về quyền trẻ em : ―...Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thế chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức‖. Việc chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và trong các văn kiện của Đảng về quyền con người, quyền trẻ em và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện của nhà nước đã tạo nên sự chuyển biến về nhận thức. Quan điểm nhìn nhận trẻ em như một đối tượng được quan tâm và chăm sóc đặc biệt đang dần dần thay đổi thành trẻ em là chủ thể của quyền, Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện quyền đó.
  • 8. 2 Trong lĩnh vực tư pháp hình sự quốc tế và của mỗi quốc gia đều chú trọng đến việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Đặc biệt là quyền của người bị buộc tội – chủ thể tham gia tố tụng quan trọng cần bảo vệ trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, tham gia vào quá trình tố tụng hình sự không chỉ có những người bị buộc tội mà còn có một đối tượng đặc biệt khác mà lâu nay khi nghiên cứu về quyền con người trong tố tụng hình sự, chúng ta hay ít chú ý đó là quyền của người bị hại. Bởi trong các chủ thể tham gia tố tụng hình sự thì người bị hại luôn là chủ thể cần được sự quan tâm đặc biệt từ phía nhà nước mà đại diện là các cơ quan và người tiến hành tố tụng để giúp họ đòi lại công lý và sự công bằng. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, trọng tâm của vấn đề bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự vẫn là người bị buộc tội (người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo). Vị trí, vai trò và quyền của người bị hại được ghi nhận rất mờ nhạt. Việc tham gia tố tụng của người bị hại không chỉ nhằm bảo vệ, khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã bị hành vi phạm tội xâm hại mà còn góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc (ngày 20/02/1990), đồng thời cũng là một trong những quốc gia đã xây dựng cơ chế đầy đủ để chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em trên cả phương diện tổ chức bộ máy và pháp luật. Trong các chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội chúng ta luôn coi trọng quyền trẻ em. Trong lĩnh vực pháp luật hình sự và tố tụng hình sự chúng ta cũng luôn đảm bảo các quyền của trẻ em trên phương diện là kẻ phạm tội, nhưng trường hợp trẻ em là người bị hại trong các vụ án hình sự lại được ghi nhận rất mờ nhạt. Sự tham gia của người bị hại chưa thành niên vào quy trình tư pháp hình sự từ giai đoạn điều tra, truy tố rồi đến xét xử là một tất yếu. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã khẳng định vấn đề trước tiên và quan trọng nhất, cũng như trong các vấn đề khác liên quan đến trẻ em, nguyên tắc ―lợi ích tốt nhất của trẻ em‖ phải được coi là trọng tâm trong việc ứng xử với người chưa thành niên là bị hại. Nguyên tắc này có tầm quan trọng đặc biệt khi xem xét vai trò của trẻ em trong quy trình tư pháp hình sự.
  • 9. 3 Trong trường hợp trẻ em là người bị hại của tội phạm thì lời khai của các em có thể có ý nghĩa quyết định đối với việc xử lý thủ phạm. Vì vậy để đảm bảo nguyên tắc này có nghĩa là đôi khi việc truy tố thủ phạm sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự là một chủ thể tham gia tố tụng đặc biệt, có vị trí, vai trò rất quan trọng được cả pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trong những năm qua tình hình tội phạm xâm hại chưa thành niên có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số vụ và người bị hại, quy mô phạm tội, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, liều lĩnh, tính chất mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Đây cũng là một trong những vấn đề được các đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm và ―bức xúc‖ trong các phiên chất vấn của kỳ họp. Đứng trước yêu cầu đòi hỏi của thực tế và tình hình tội phạm xâm hại người chưa thành niên đang diễn ra hết sức phức tạp, công tác hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự là một đòi hỏi cấp thiết. Vì vậy, để góp phần vào hoạt động bảo vệ người chưa thành niên trước các hành vi xâm hại, tác giả đã chọn đề tài: ―Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận án tiến sĩ luật học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về người bị hại chưa thành niên; Làm rõ thực trạng tình hình tội phạm xâm hại người chưa thành niên và hoạt động giải quyết các vụ án hình sự có người bị hại chưa thành niên của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó đề xuất các giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần bảo đảm giải quyết đúng vụ án có người bị hại chưa thành niên. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, Luận án có nhiệm vụ là: - Thực hiện tổng quan các vấn đề đã nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài, chỉ ra các vấn đề Luận án cần tiếp tục nghiên cứu;
  • 10. 4 - Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về người bị hại chưa thành niên như: Khái niệm, đặc điểm, phân loại và phân biệt người bị hại chưa thành niên với một số người tham gia tố tụng khác. Nghiên cứu các quy chuẩn chung của pháp luật quốc tế về quyền của người bị hại chưa thành niên, qua đó so sánh đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam để thấy được những điểm chưa tương thích. Nghiên cứu các hình thức bảo đảm thực hiện quyền của người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự. - Nghiên cứu, làm rõ những quy định của pháp luật (hình sự và tố tụng hình sự) Việt Nam về bảo vệ và bảo đảm quyền của người bị hại chưa thành niên. Khảo sát, đánh giá tình hình tội phạm xâm phạm người chưa thành niên và hoạt động áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2017, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân. - Đưa ra yêu cầu và đề xuất giải pháp bảo đảm giải quyết đúng các vụ án có người bị hại chưa thành niên. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự; quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự và thực tiễn thi hành; số liệu liên quan đến Luận án được khảo sát trong phạm vi cả nước từ năm 2007 đến năm 2017 về tình hình khởi tố điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm hại chưa thành niên và hoạt động tố tụng trong các vụ án có người bị hại chưa thành niên. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: - Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền đối với người bị hại chưa thành niên là đối tượng tác động trực tiếp của tội phạm được quy định thành những tội danh cụ thể. Về thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả tập trung nghiên cứu đến các vụ án có người bị hại chưa thành niên đã
  • 11. 5 được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử theo các tội danh quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999. Đề tài không nghiên cứu và khảo sát các vụ án có người bị hại chưa thành niên là tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự như ―phạm tội đối với người chưa thành niên‖, ―phạm tội đối với trẻ em‖; - Về không gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng thời, để làm sâu sắc hơn vấn đề nghiên cứu, Luận án cũng có những nghiên cứu về các quy chuẩn của pháp luật quốc tế về vấn đề quyền của người bị hại chưa thành niên trong tố tụng hình sự. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam và khảo sát tình hình khởi tố điều tra, truy tố và xét xử các vụ án có người bị hại chưa thành niên từ năm 2007 đến năm 2017. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Tác giả có sử dụng các phương pháp luận khoa học xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu toàn bộ luận án mang tính truyền thống đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu tin cậy khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, liên ngành, luật học so sánh và phương pháp phân tích – dự báo khoa học qua những tài liệu thứ cấp các nước để làm sáng tỏ các vấn đề cần được nghiên cứu trong phạm vi đề tài. Đặc biệt phương pháp nghiên cứu tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội được vận dụng tối đa. Ngoài việc tiếp cận vấn đề nghiên cứu quyền con người của người bị hại chưa thành niên trong tố tụng hình sự dưới góc độ luật học, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ với các ngành khoa học xã hội khác như triết học, xã hội học, đạo đức và chính trị học. Chẳng hạn để lý giải đặc điểm của người bị hại chưa thành niên phải dựa trên các kiến thức của nhân học, tâm lý học và xã hội học. Khi nghiên cứu cơ chế bảo vệ quyền con người của người bị hại chưa thành niên trong tố tụng hình sự phải đặt nó trong mối quan hệ liên ngành luật học như luật Hiến pháp, đặc biệt là luật hình sự và tội phạm học. Cụ thể:
  • 12. 6 - Chương 1: Để hệ thống hóa tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến nội dung Luận án tác giả đã sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê. - Chương 2: Đề cập đến một số vấn đề lý luận chung về người bị hại chưa thành niên. Phương pháp nghiên cứu là phân tích văn bản, phân tích thuần túy quy phạm, tổng hợp, đối chiếu văn bản, so sánh liên ngành và nghiên cứu lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học để xây dựng khái niệm người bị hại chưa thành niên. - Chương 3: Đánh giá thực trạng những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay. Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong chương này sẽ là tổng hợp, phân tích văn bản, thống kê, khảo sát thực tiễn, sử dụng số liệu thống kê hình sự của các cơ quan quản lý nhằm tìm hiểu, đánh giá về thực trạng người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự hiện nay. Từ đó làm rõ những vướng mắc, tồn tại và nguyên nhân làm tiền đề cho các nhóm giải pháp ở Chương 4. - Chương 4: Tác giả tập trung đưa ra các giải pháp trên cơ sở sử dụng phương pháp phân tích, diễn giả, tổng hợp và dự báo khoa học. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án Thứ nhất, Luận án nghiên cứu, tìm hiểu và hệ thống hóa các công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài liên quan đến người bị hại chưa thành niên. Từ đó, Luận án tiếp thu những vấn đề đã được nghiên cứu và xác định rõ, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Thứ hai, trên cơ sở phân tích, tổng hợp và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các công trình đã được công bố, Luận án đã tiếp tục khẳng định sự tồn tại khách quan và cần được pháp luật bảo vệ của người bị hại chưa thành niên trong lĩnh vực tư pháp hình sự Việt Nam. Đồng thời làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về người bị hại chưa thành niên như đặc điểm tâm sinh lý, sự khác biệt và quyền được bảo vệ
  • 13. 7 của người bị hại chưa thành niên. Luận án cũng đối chiếu so sánh với các chuẩn mực quốc tế để thấy được những ―khiếm khuyết‖ của pháp luật Việt Nam về vấn đề người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự. Thứ ba, Luận án đưa ra một bức tranh tổng thể về thực trạng xâm hại người chưa thành niên và những quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như việc các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án có người bị hại chưa thành niên. Thông qua đó chỉ ra những vướng mắc, sai lầm và nguyên nhân của tình trạng này. Đây là cơ sở thực tiễn để Luận án đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng giải quyết vụ án có người bị hại chưa thành niên phù hợp với thực tiễn và đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp. Thứ tư, Luận án đã đề xuất các giải pháp có tính thực tiễn để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố và xét xử các vụ án có người bị hại chưa thành niên. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm phong phú, sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Luận án phân tích một cách có hệ thống, toàn diện về lý luận, về thực trạng quy định của luật, tình hình tội phạm xâm hại người chưa thành niên, kết quả giải quyết các vụ án có người bị hại chưa thành niên và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các vụ án có người bị hại chưa thành niên. Thông qua việc khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết các vụ án hình sự có người bị hại chưa thành niên, tác giả tìm ra những vi, phạm sai lầm và nhận định nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm. Từ những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn đã nghiên cứu và khảo sát, Luận án đưa ra những giải pháp có tình khả thi nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng đối với các vụ án có người bị hại chưa thành niên. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong hoạt động lập pháp, đặc biệt là trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình
  • 14. 8 sự. Luận án còn có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy, tham khảo trong hoạt động đào tạo chuyên ngành luật học, hoạt động tập huấn nghiệp vụ và phổ biến giáo dục pháp luật. Thông qua đó, góp phần xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tạo môi trường ổn định, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Những vấn đề lý luận về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự Chương 3. Quy định của pháp luật về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự và thực tiễn thi hành Chương 4. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm giải quyết đúng vụ án có người bị hại chưa thành niên
  • 15. 9 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu pháp luật Việt Nam về ngƣời bị hại chƣa thành niên trong các vụ án hình sự 1.1.1. Các nghiên cứu về lý luận Đây chính là nguồn tài liệu tham khảo quý báu giúp tác giả có cơ sở để kế thừa và phát triển nghiên cứu thêm về nhóm đối tượng là người bị hại chưa thành niên (NBHCTN) trong các vụ án hình sự. Trong quá trình nghiên cứu tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này, tác giả tập hợp, phân loại và đánh giá các tài liệu thành ba nhóm theo các vấn đề trên. Cụ thể như sau: Một là, nghiên cứu về quyền con người nói chung Quyền con người là đối tượng quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội, trong đó có khoa học pháp lý. Khoa học pháp lý Việt Nam trong những năm gần đây các nhà đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến quyền con người và bảo vệ quyền con người nói chung. Sách chuyên khảo ―Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học‖, GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 2010 (3 tập, 1010tr); Giáo trình (giảng dạy sau đại học) ―Quyền con người‖, GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (487 tr); Sách chuyên khảo: ―Cơ chế bảo đảm và bảo vệ Quyền con người‖, GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (431 tr. Các công trình nghiên cứu này đã tiếp cận vấn đề quyền con người đa ngành, đa lĩnh vực và nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về quyền con người; chỉ ra được nội dung của các quyền con người nói chung, quyền con người trong các lĩnh vực cụ thể, trong đó khẳng định quyền con người là giá trị đã được nhân loại thừa nhận chung; đề cập đến các tính chất của quyền con người như tính bất khả tước đoạt, bất khả phân chia, tính phổ biến, tính đặc thù của quyền con người; nghiên cứu pháp luật quốc tế về quyền con người trong đó so sánh pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về vấn đề quyền con người, khả năng tiếp thu và nội luật hóa pháp luật quốc tế vào pháp luật quốc gia... Tuy nhiên, trong các công trình trên, quyền và
  • 16. 10 lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên (NCTN) nói chung và NBHCTN nói riêng chưa được thể hiện rõ, mới chỉ dừng lại ở mức đặt vấn đề hoặc trích dẫn giới thiệu với tư cách là một bộ phận của quyền con người nói chung. Hai là, nghiên cứu về quyền con người và quyền của người bị hại trong tư pháp hình sự Sách chuyên khảo ―Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự‖ PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb Hồng Đức, 2015 (262 tr); ―Bảo vệ An ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền‖, GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Tư pháp, 2007; ―Mọi người cần biết về quyền và nghĩa vụ của mình trong TTHS Việt Nam‖, Nguyễn Phùng Hồng, Nxb Tư pháp, 2005; ―Bảo vệ quyền con người trong Luật hình sự, Luật TTHS Việt Nam‖ của TS. Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2004,Giáo trình ―Lý luận và pháp luật về Quyền con người‖, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009, Nxb CTQG (670tr). ―Bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt Nam‖, Nguyễn Quang Hiền, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, 2007; ―Quyền con người trong quản lý tư pháp‖, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người và hội luật sư quốc tế, Nxb CAND, 2009; Luận án tiến sĩ của Lê Nguyên Thanh, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, về Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam (bảo vệ năm 2013); sách chuyên khảo Nạn nhân của tội phạm (2011) của PGS.TS. Trần Hữu Tráng là nghiên cứu một cách khá trực tiếp về người bị hại; ―Quyền của người bị hại trong TTTHS Việt Nam‖, Đinh Thị Mai, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam, 2014, là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự (TTHS) ở Việt Nam hiện nay. Vấn đề người bị hại và quyền của người bị hại trong TTHS đã được xác lập và phát triển thêm một bước, trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Ở cấp độ các công trình nghiên cứu dưới dạng các bài báo được đăng trên các tạp chí chuyên ngành (có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án) có thể kể đến như: ―Luật TTHS Việt Nam với việc đáp ứng các yêu cầu quốc tế về bảo đảm
  • 17. 11 quyền của bị can, bị cáo và người bị tạm giữ‖, Ths. Đinh Thị Mai, Tạp chí Công an nhân dân, 10/2010. ―Quan tâm bảo đảm quyền của NBH trong TTHS‖, Ths. Đinh Thị Mai, Tạp chí Khoa học và giáo dục An ninh, 12/2010. ―Cơ chế quốc tế và khu vực về bảo vệ quyền của NBH‖, Ths. Đinh Thị Mai, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2012. ―NBH trong TTHS‖, Ths. Lê Tiến Châu, TC Khoa học pháp lý, số 1(38)/ 2007. ―Đảm bảo quyền công dân của người tham gia tố tụng trong điều tra VAHS theo tinh thần cải cách tư pháp‖ Trần Thảo, Dân chủ & Pháp luật; 2008/Số 9 (tr.40-43). ―Bàn thêm về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, NBH trong VAHS‖, ThS. Nguyễn Văn Cừ, TC Kiểm sát, Viện KSNDTC, Số 15/2006, tr. 26 – 28. ―Bàn về các tội phạm có yếu tố gây thương tích và trường hợp từ chối giám định của NBH trong các VAHS‖, Tạ Quang Khải, TC Kiểm sát, Số 3/2010, tr. 44-48. ―Bàn về khởi tố theo yêu cầu của NBH‖, Mai Bộ, TC Kiểm sát, Số 3/1999, 30-31. ―Một số vấn đề lí luận về khởi tố VAHS theo yêu cầu của NBH‖, T.S Trần Quang Tiệp, TC Kiểm sát, Số 01/2006, tr. 29 – 32. ―Một số vấn đề về NBH, nguyên đơn dân sự trong BLTTHS năm 2003‖ TS. Trần Quang Tiệp, TC Kiểm sát, Số 4/2006, tr. 15 – 18. ―Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng của NBH và nguyên đơn dân sự tại phiên toà hình sự sơ thẩm theo yêu cầu cải cách tư pháp‖, Nguyễn Trương Tín, Tạp chí Luật học, Số 3/2010, tr. 47 – 57. ―Một số vấn đề về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, NBH trong các VAHS‖, ThS. Trần Đại Thắng, TC Kiểm sát, Số 24/2005, tr. 56 – 59. ―Một số vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH‖, Lê Văn Cân, Tạp chí Kiểm sát, Số 7/2008, tr. 49 – 51. ―Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng chế định khởi tố VAHS theo yêu cầu của NBH‖ Nguyễn Đức Thái, Tạp chí Kiểm sát, Số 09/2009, tr. 27 – 30. ―NBH đã yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội tại phiên toà theo trình tự, thủ tục nào?‖, Hoàng Thị Liên, Tạp chí Dân chủ & pháp luật, Số 8/2006, tr.47- 48&50. ―Nhất thiết phải xác định cụ thể NBH‖, Trần Thanh Thuỷ, Tạp chí Kiểm sát Số 11/2002, tr. 28 – 22. ―Trao đổi về việc sửa đổi Điều 51 BLTTHS về nghĩa vụ của NBH‖, Đỗ Thị Ánh Tuyết, Tạp chí Kiểm sát, Số 5/2010, tr. 47 – 48. ―Vấn đề tuổi của NBH‖, Nguyễn Đình Bình, Tạp chí Toà án nhân dân,
  • 18. 12 Số 1/2000, Tr.36 – 37. ―Về thẩm quyền đình chỉ điều tra các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH‖, Lê Văn Minh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật Số 1/1 - 2001, tr.51-53. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn hiện nay các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền con người trong tư pháp hình sự đều coi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bị kết án là trọng tâm của vấn đề quyền con người trong TTHS. Người bị buộc tội là những chủ thể ―yếu thế‖ khi đối trọng với các cơ quan tư pháp, các quyền của họ ―có nguy cơ bị xâm phạm cao nhất‖ nên họ là ―ưu tiên số 1‖ trong việc áp dụng các biện pháp nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, TTHS. Do vậy, quyền của người bị hại thường bị bỏ quên hoặc coi nhẹ. Thực trạng này dẫn nguy cơ người bị hại vốn là đối tượng bị tội phạm xâm hại và chịu nhiều tổn thất nhất khi tội phạm xẩy ra, trước khi tham gia vào tiến trình TTHS. Thực tế hiện nay, trên cả 3 bình diện: Lập pháp, thi hành luật và nghiên cứu hoàn thiện pháp luật việc tham gia tố tụng và ngay cả sau khi tố tụng đã kết thúc, các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại lại một lần nữa bị đặt trước nguy cơ bị ―bỏ quên‖. Ba là, nghiên cứu về người chưa thành niên nói chung và người bị hại chưa thành niên nói riêng. Trong những năm gần đây, trước tình hình tội phạm xâm hại NCTN ngày càng gia tăng, đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể: Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam – Số đặc san Tạp chí Dân chủ và pháp luật; Tập đề cương bài giảng Tư pháp người chưa thành niên của trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội, năm 2005; Số chuyên đề về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử đối với các vụ án có NCTN phạm tội và người có hành vi phạm tội đối với người chưa thành niên của Tạp chí Kiểm sát, số 6 (tháng 3/2007); Nguyễn Văn Cừ ―Bàn thêm về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự‖ Tạp chí Kiểm sát Số 15/2006, tr. 26 – 28; Lê Nguyên Thanh ―Bàn về khái niệm người bị hại trong tố tụng hình sự” Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Số 5/2012, tr.
  • 19. 13 18 – 26; Vũ Gia Lâm ―Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam‖ Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 11/2011, tr. 29 – 37; Trần Hưng Bình ―Bảo vệ quyền con người của người bị hại chưa thành niên trong tố tụng hình sự‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 23/2012, tr. 44 – 49; Nguyễn Thị Hồng Luy ―Đăng ký khai sinh và việc xác định tuổi người bị hại trong công tác kiểm sát điều tra‖ Tạp chí Kiểm sát Số 7/1999, tr. 20; Phạm Ngọc Cường, Trần Nguyên Quân ―Phương pháp tác động tâm lý để lấy lời khai người bị hại trong các vụ án hình sự‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 6/2001, tr. 31 – 32; Nguyễn Đình Bình ―Vấn đề tuổi của người bị hại‖ Tạp chí Toà án nhân dân, Số 1/2000, tr. 36 – 37; / Đinh Văn Quế ―Xác định tuổi của người bị hại trọng vụ án hình sự như thế nào?‖ Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 7/1999, tr. 4 - 6… Đa số các công trình nghiên cứu này là các bài viết nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học hoặc tham gia các hội thảo. Trong các công trình nghiên cứu đã được công bố, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về NCTN và tư pháp NCTN đã được đặt ra và giải quyết. Nhưng đa số các công trình nghiên cứu này cũng mới chỉ tập trung vào việc giải quyết những vấn đề nhỏ lẻ của NBHCTN như: Vấn đề xác định tuổi của bị hại; vấn đề lấy lời khai người bị hại; vấn đề bảo vệ quyền con người; vấn đề tâm lý của bị hại…hoặc là nghiên cứu NBHCTN với tư cách là bị hại của một loại, một nhóm tội phạm nhất định xảy ra trên một địa bàn cụ thể. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này chưa đưa ra được một hệ thống lý luận và thực trạng toàn diện về NBHCTN trong các vụ án hình sự. Đồng thời cũng giải quyết được một cách có hệ thống và đầy đủ về sự cần thiết và tính tất yếu của việc hoàn thiện thủ tục tố tụng đối với NBHCTN. Trong khuôn khổ Chương trình bảo vệ trẻ em thuộc Kế hoạch hành động của Chương trình hợp tác giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc ( UNICEF) giai đoạn 2006 – 2010, Bộ Tư pháp được giao chủ trì phối hợp với Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Công an, Hội Luật gia Việt Nam thực hiện Dự án 2: ―Hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên‖. Dự án này
  • 20. 14 tập trung nghiên cứu về các vấn đề tư pháp đối với NCTN và bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm. Mặc dù cũng đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng dự án cũng chỉ tập trung nghiên cứu và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến đối tượng NCTN vi phạm pháp luật. Đề án chưa nghiên cứu sâu đến đối tượng NCTN trẻ em là nạn nhân trong các vụ án hình sự . 1.1.2. Các nghiên cứu về thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền của người bị hại Luận văn thạc sĩ luật học ―Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người trong xét xử hình sự ở nước ta‖, Hoàng Hùng Hải, 2000; ―Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam‖ của Lại Văn Trình, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2011; ―Cần sửa đổi các quy định liên quan đến quyền khởi tố theo yêu cầu của NBH trong BLTTHS năm 2003‖, Hoàng Thị Liên, Tạp chí Kiểm sát, Số 3/2008, tr. 29 – 31. ―Đăng ký khai sinh và việc xác định tuổi NBH trong công tác kiểm sát điều tra‖, Nguyễn Thị Hồng Luy, Kiểm sát, Số 7/1999, tr.20. ―Đình chỉ điều tra vụ án khởi tố theo yêu cầu của NBH khi họ rút đơn theo quy định tại khoản 2 điều 105 BLTTHS năm 2003‖, TS. Mai Thế Bày, Kiểm sát, Số 20 tháng 10/2009, tr.3 – 8. ―Một số kiến nghị sửa đổi điều 107, điều 164 BLTTHS để xử lý các vụ án cố ý gây thương tích khi NBH từ chối giám định và rút đơn yêu cầu khởi tố‖, Nguyễn Duy Hùng, TC kiểm sát, Số 9(tháng 5/2010), tr. 18 – 20. Vũ Việt Hùng ―Hoàn thiện các quy định về người chưa thành niên phạm tội, người bị hại và người làm chứng là trẻ em trong Bộ luật Tố tụng hình sự ― Tạp chí Kiểm sát, Số 6/2012, tr. 39 - 47, 64; Phạm Quang Thắng ―Hoàn thiện chính sách, pháp luật trong điều tra, truy tố và xét xử đối với các vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 6/2012, tr. 48 – 52; Trần Minh Hưởng ―Nâng cao hiệu quả biện pháp lý lấy lời khai người bị hại trong điều tra các vụ án mua bán phụ nữ, trẻ em‖ Tạp chí Kiểm sát , Số 21/2007, tr. 26 - 29, 35; Nguyễn Thị Lộc ―Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có người bị hại là người chưa thành niên‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 15/2013, tr. 14 – 19;
  • 21. 15 Tại Học viện CSND cũng có một số đề tài Luận văn thạc sỹ nghiên cứu về vấn đề này như: ― Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm chiếm đoạt trẻ em vùng biên giới tỉnh Hà Giang‖ của tác giả Dương Thị Huệ - Cao học khóa 17; ― Hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu. Thực trạng và giải pháp‖ của tác giả Phạm Mạnh Hùng - Cao học khóa 16; ― Thực trạng và giải pháp nâng cao công tác điều tra các vụ án xâm hại trẻ em trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Điện Biên của lực lượng CSĐT tội phạm về TTXH‖ của tác giả Lê Bình - Cao học 17. Viện khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có đề tài cấp bộ: ―Hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố và xét xử NCTN phạm tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003‖. Nhìn chung, trong các nghiên cứu đã thực hiện, chưa có nghiên cứu nào tiếp dưới góc độ so sánh, đối chiếu và làm rõ các nhân tố hợp lý và tất yếu trong hệ thống lý luận cũng như trong các thủ tục tố tụng cần áp dụng đối với NBHCTN nhằm ngày càng phù hợp hơn với các quy định của quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đặc biệt, hiện nay chưa có một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và các phương hướng, kiến nghị cụ thể để xây dựng cơ chế bảo vệ tốt hơn quyền và thủ tục tố tụng áp dụng đối với NBHCTN trong các vụ án hình sự đáp ứng với các tiểu chuẩn và xu hướng của thế giới. Đây là những vấn đề đang bỏ ngỏ mà luận án cần nghiên cứu làm rõ. 1.2. Tình hình nghiên ở nƣớc ngoài 1.2.1. Các nghiên cứu về lý luận Một là, nghiên cứu về quyền con người nói chung Ngày 26/08/1789 các nhà cách mạng Pháp công bố Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, đánh dấu sự phát triển lên một bậc thang mới của quyền con người. Tuy nhiên, phải đợi đến ngày 10/12/1948, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) tại Palaisde Chaillot, Paris, Pháp – là mốc son đánh dấu thành tựu quan trọng cho sự phát triển quyền con người. Ngày 16/12/1966, Liên Hợp Quốc thông qua hai Công ước quốc tế về quyền
  • 22. 16 con người, là Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) và Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Có thể khẳng định, đây là ba văn kiện quốc tế quan trọng đặt nền tảng cho khung pháp luật quốc tế về quyền con người. Hai là, nghiên cứu về quyền con người trong tư pháp hình sự nói chung và quyền của người bị hại nói riêng. Vấn đề nghiên cứu về người bị hại trong tư pháp hình sự nói chung mới được các nhà khoa học trên thế giới đề cập đến và nghiên cứu trong những năm gần đây. Hiện nay, Liên hợp quốc đang xây dựng Bản tuyên ngôn về quyền của người bị hại (bản dự thảo đầu tiên năm 2008) [181]. Đến tháng 03/2010, Ủy ban Liên minh Châu Âu EU triển khai chương trình kế hoạch 05 năm (2010 – 2015) đẩy mạnh công tác nghiên cứu và áp dụng về các qui định về quyền của người bị hại vào thực tế áp dụng pháp luật TTHS của các nước thành viên EU [182]. Ngày 04/10/2012, Ủy ban Châu Âu đã bỏ phiếu thông qua một đạo luật mới với tên gọi ―Chỉ thị của Ủy ban Châu Âu về bảo đảm các quyền tối thiểu của nạn nhân của tội phạm, MEMO/12/659‖ [183]. Chỉ thị nêu rõ: ―Các hệ thống tư pháp hình sự của các nước thành viên EU đã quá tập trung vào bảo đảm quyền của người bị kết án (tội phạm) mà xem nhẹ quyền của người bị hại. Bằng đạo luật này, chúng tôi sẽ tăng cường quyền cho các nạn nhân. Không ai muốn trở thành nạn nhân của tội phạm, nhưng nếu nó xẩy ra, người dân cần”. Ngày 15/3/2001, Công ước Châu Âu về vai trò, vị trí của người bị hại trong TTHS đã được thông qua bởi Đại hội đồng Liên minh Châu Âu [184]. Thực hiện Quyết định khung này, một Chỉ thị về bồi thường nhà nước cho các nạn nhân của tội phạm đã ra đời và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các quốc gia thành viên EU kể từ ngày 22/3/2001[185]. Tại Mỹ, quyền của người bị hại đã được khẳng định như là một quyền hiến định vào năm 1982 với Bộ luật đầu tiên về quyền của người bị hại (The Victim Rights Act). Một số công trình nghiên cứu bảo vệ quyền của người bị hại trong tư pháp hình sự tiêu biểu như:
  • 23. 17 Công trình “Victim of Crime: An Overview of Reasearch and Policy” (1998) – (Nạn nhân của tội phạm: Tổng quan tình hình nghiên cứu và chính sách) của Viện Tội phạm học Australia. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về người bị hại trong TTHS của Australia, được Viện Tội phạm học của Australia nghiên cứu trong vòng 2 năm (1998 – 2000). Công trình đã nghiên cứu tổng kết toàn bộ các kết quả nghiên cứu trước đây của Úc về nạn nhân của tội phạm và tóm tắt tất cả các sáng kiến về mặt chính sách đã được nêu cũng như áp dụng tại Australia (đặc biệt là phía Nam Australia) nhằm cải thiện vị trí, vai trò và quyền của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự Australia. Cuốn sách: “Hướng tới người bị hại: Đánh giá khái quát về quyền của người bị hại” do Bộ Tư pháp NewZealand xuất bản năm 2009 dày 60 trang, gồm 7 chương, trong đó đã trình bày một cách khái quát nhất về các vấn đề liên quan đến người bị hại và quyền của người bị hại nhằm mục đích bảo vệ và nâng cao vai trò của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự của NewZealand. Cuốn sách: ―Seeking Justice through the Criminal Justice System‖ (2010) (Tìm kiếm công lý trong hệ thống tư pháp hình sự) do Bộ tư pháp Mỹ công bố trong chương trình khảo sát về thực trạng bảo vệ quyền của các bên tham gia vào quá trình TTHS [172] cũng đã phân tích quá trình người bị hại tham gia vào các hoạt động TTHS và phản ứng tâm lý của họ về các quyền tố tụng của mình trong quá trình đi tìm chân lý của vụ án. Cuốn sách cũng đã chỉ rõ: nếu người bị hại tin tưởng vào hệ thống tư pháp hình sự, tin tưởng vào việc quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được bảo đảm trong một nền tư pháp minh bạch và tiên tiến thì họ sẵn sàng tố cáo tội phạm và đồng thời hợp tác nhiệt tình với cơ quan điều tra trong quá trình chứng minh vụ án, nếu ngược lại, họ sẽ im lặng và chịu thiệt thòi do hậu quả của tội phạm còn hơn là lại phải theo đuổi kiện tụng hoặc theo đuổi các quá trình TTHS. Luận án tiến sĩ Luật học: “The role and position of victims of crime in the Dutch criminal law” (2000) (Địa vị pháp lý của người bị hại trong hệ thống pháp luật hình sự Hà Lan) của E.I. Brienen. Công trình đã dành gần 500 trang để phân tích, điều tra toàn diện về vị trí, vai trò và các quyền tố tụng, các quyền dân sự của nạn nhân của tội phạm ở Hà Lan.
  • 24. 18 Công trình nghiên cứu: “Victims of Crime in 22 European Criminal Justice Systems” (2000 - 2005) (Nạn nhân tội phạm trong hệ thống pháp luật hình sự của 22 nước Châu Âu) của Dr. Marion, Khoa Luật Đại học Katholieke, EU. Công trình này đã nghiên cứu vai trò của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự các nước Châu Âu, đặc biệt hướng tới trả lời câu hỏi các nạn nhân trong các vụ án hình sự cần được hỗ trợ như thế nào để họ có thể tiếp cận được với thông tin trong quá trình tố tụng. Thông qua việc tiếp cận các thông tin này họ có thể chủ động thực hiện các quyền năng tố tụng của mình nhằm trước hết là bảo vệ quyền của mình, sau đó nhằm thiết thực cải thiện khả năng đòi các bồi thường vật chất và phi vật chất từ người phạm tội cũng như từ các cơ quan có chức năng bồi thường (của nhà nước hoặc phi chính phủ). Ba là, nghiên cứu về người chưa thành niên nói chung và người bị hại chưa thành niên nói riêng Về vấn đề bảo vệ quyền của NCTN bằng tư pháp hình sự, Liên Hợp Quốc đã thông qua một loạt các văn bản như sau: Quy tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên Hợp Quốc về quản lý tư pháp đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) 1985; Quy tắc của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa người chưa thành niên bị tước quyền tự do, 1990; Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp của người chưa thành niên (Hướng dẫn Riyadh), 1990; Tuyên bố về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi của trẻ em, đặc biệt là việc bảo trợ và nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài, 1986; Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong hệ thống luật hình sự, phụ lục của Nghị quyết số 1997/30 của Hội đồng kinh tế và xã hội về việc quản lý tư pháp với người chưa thành niên (ICCPR, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976). 1.2.2. Các nghiên cứu về thực tiễn quy định và áp dụng pháp luật về người bị hại chưa thành niên trong tư pháp hình sự Lĩnh vực bảo vệ quyền của NCTN nói chung và bảo vệ quyền của NBHCTN nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: Cuốn "Protecting the world's children: Impact of the Convention of the Rights of the Child in Diverse Legal Systems" (Bảo vệ trẻ em trên thế giới: Tác
  • 25. 19 động của Công ước về quyền trẻ em tới các hệ thống pháp luật) do UNICEF ấn hành năm 2007 lại xem xét vấn đề tư pháp người chưa thành niên dưới góc nhìn so sánh các kinh nghiệm lập pháp trong việc đưa CRC vào khung pháp luật của các quốc gia và cung cấp thực tiễn thực thi CRC tại 191 quốc gia với bốn hệ thống pháp luật điển hình: Hệ thống pháp luật Common Law, hệ thống pháp luật Civil Law, hệ thống pháp luật Muslim và hệ thống pháp luật Châu Phi thuộc khu vực tiểu sa mạc Sahara. Cuốn: "Justice for Children: Autonomy Development and the State" (Tư pháp cho trẻ em: Sự phát triển tính tự quản của trẻ em và sự can thiệp của Nhà nước) do Harry Adams thực hiện nghiên cứu và Đại học New York ấn hành năm 2008. Với hơn 197 trang viết, tác giả đã đề cập đến sự thay đổi của lứa tuổi người chưa thành niên thông qua những biến đổi về tâm sinh lý. Đây là giai đoạn người chưa thành niên có sự biến đổi lớn về nhận thức và hành vi, trẻ chuyển từ trạng thái luôn gắn bó với cha mẹ, coi cha mẹ là thần tượng sang trạng thái muốn thoát dần ảnh hưởng của cha mẹ, có khuynh hướng độc lập. Qua đó tác giả đề xuất những khu vực mà người chưa thành niên có thể "tự quản", và đồng thời xác lập những giới hạn cần thiết thông qua sự can thiệp của gia đình, nhà trường và pháp luật đối với hành vi của trẻ. Mặt khác, tác giả cũng khẳng định không có học thuyết pháp lý nào là hoàn hảo tuyệt đối để áp dụng duy nhất. Cuốn: "Justice for Children: Detention as a Last Resort" (Innovative Initiatives in the East Asia and Pacific Region) (Tư pháp cho trẻ em: Phạt tù như là biện pháp cuối cùng (Sáng kiến ở khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương), do tổ chức Unicef East Asia And Pacific Regional Office (EAPRO) ấn hành. Công trình tiếp cận vấn đề tư pháp người chưa thành niên thông qua thực tiễn ba quốc gia: Philipin, Thái Lan, Campuchia. Công trình đã chú ý giải quyết các vấn đề liên quan đến trẻ em là nạn nhân của nghèo đói, lạm dụng, bóc lột sức lao động, trẻ em là nạn nhân của việc buôn người, nạn nhân của công nghiệp tình dục,...Trên cơ sở tiếp cận dưới góc độ những tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế, đối chiếu với những hoạt động lập pháp của các quốc gia, thực tiễn thực thi pháp luật bảo vệ quyền trẻ em tại các quốc gia này thông qua các mô hình tư pháp hình sự được thiết lập.
  • 26. 20 Cuốn: "Handbook for Professionals And Policymakers on Justice Matters Involving Child Victims and Witnessed of Crime" (Sổ tay cho những người làm công tác pháp luật và xây dựng chính sách liên quan đến nạn nhân và nhân chứng trẻ em), do Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về ma túy và hình sự phát hành năm 2009. Cuốn sách đã cung cấp các kiến thức nền tảng cho các nhà hoạt động chuyên nghiệp: Thẩm phán, luật sư,...nhằm bảo đảm tốt nhất quyền của trẻ em khi buộc phải tham gia vào hoạt động tư pháp hình sự với tư cách là nạn nhân của tội phạm và nhân chứng. Cuốn: "Canadian Child Welfare Law: Children, Famillies and the State" (Luật bảo vệ, chăm sóc trẻ em Canada: Trẻ em, gia đình và Nhà nước) do các tác giả: Nicholas Bala, Michale Kim Zapf, R.James Williams, Robin Volg, Joseph p. Hornick do nhà xuất bản Thompson Educational Publishing ấn hành năm 2004. Công trình đã trình bày một cách hệ thống pháp luật Canada trong việc quy định và thực thi việc bảo vệ trẻ em. Sách đã đề cập đến những vấn đề tư pháp hình sự liên quan đến người chưa thành niên như: Pháp luật chăm sóc và bảo vệ quyền của trẻ em tham gia tố tụng hình sự như: quyền được lắng nghe, vấn đề bảo vệ mãi dâm người chưa thành niên, trẻ em bị lạm dụng, bị bỏ mặc, trẻ em là nhân chứng, trẻ em bị cáo buộc phạm tội. Để có thêm cái nhìn tổng quan về NBHCTN có thể xem việc quy định về chủ thể đặc biệt này trong Bộ luật hình sự (BLHS) Và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) của một số nước như: Liên bang Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh, Đức, Pháp Từ việc tham khảo các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, Luận án sẽ kế thừa, tiếp tục phát triển những ưu điểm sau: Một là, các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận của việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của NBHCTN nói riêng, trước hết là xuất phát từ mối quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân và những bảo đảm quyền con người trong các quan hệ phát sinh trong TTHS. Hoạt động TTHS có đặc thù là mang tính cưỡng chế và được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước, do đó
  • 27. 21 gắn liền với các hoạt động TTHS luôn là sự phát sinh, hạn chế hoặc chấm dứt một số quyền cơ bản của công dân. Trong TTHS, các biện pháp bảo đảm pháp lý của các quyền chủ thể tham gia tố tụng bao gồm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, các quy định về thủ tục, trình tự tố tụng, các giai đoạn của TTHS, các hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là điểm xuất phát rất quan trọng, là cơ sở lý luận mang tính tiền đề để tác giả luận án tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN trong TTHS và các biện pháp mang tính xuất phát điểm về mặt lý luận nhằm bảo vệ hiệu quả quyền của NBHCTN trong TTHS Việt Nam. Hai là, các công trình nghiên cứu đã cung cấp cho tác giả một cái nhìn toàn diện về khái niệm NCTN và tiếp cận được với các vấn đề về việc cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN trong TTHS dưới góc độ luật học so sánh. Mặc dù các nước với các hệ thống pháp luật khác nhau, tiếp cận và cơ chế bảo vệ quyền của NBHCTN dưới các góc độ khác nhau nhưng tổng quan các tài liệu này cho phép tác giả có cơ sở khái quát khái niệm NBHCTN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN trong TTHS một cách đa chiều và có tính so sánh, đối chiếu. Ba là, những kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với Luận án là đã khái quát được một cách khá đầy đủ thực trạng pháp luật quốc tế về quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN, từ đó giúp tác giả có cơ sở để nghiên cứu so sánh với thực trạng pháp luật Việt Nam về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN và có thể luận giải đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Qua nghiên cứu các công trình nêu trên, tác giả có một số nhận xét, đánh giá về các kết quả nghiên cứu như sau: Một là, vấn đề quyền con người là vấn đề cơ bản, mang tính thời sự có ý nghĩa quan trọng về tư tưởng, lý luận và thực tiễn. Nó đã và đang được quan tâm nghiên cứu không chỉ dừng lại ở phạm vi chuyên môn hẹp của ngành khoa học nào đó mà đang trở thành đối tượng nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực của khoa học xã
  • 28. 22 hội, trong đó có khoa học pháp lý, cũng đi theo hướng nghiên cứu này. Các công trình nghiên cứu về quyền con người sẽ là nền tảng để tác giả tiếp cận sâu hơn quyền con người của nhóm ―yếu thế‖ là NBHCTN trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Hai là, quyền con người trong tư pháp hình sự có thể tiếp cận theo lĩnh vực pháp luật hoặc theo đối tượng cụ thể như người bị buộc tội hoặc người bị thiệt hại. Thực tế cho thấy xu hướng của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền con người trong tư pháp hình sự đều coi người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án) là trọng tâm của vấn đề quyền con người trong TTHS. Đa số cho rằng, người bị buộc tội là những chủ thể yếu thế khi đứng trước các cơ quan tư pháp, các quyền của họ có nguy cơ bị xâm hại cao nhất nên họ cần được ưu tiên bảo vệ. Ba là, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam đã quan tâm đến đối tượng đặc biệt là NCTN cả về lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn TTHS, các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về NCTN chỉ tập trung vào nhóm đối tượng NCTN bị buộc tội, còn nhóm đối NCTN là người bị hại trong các vụ án hình sự thì lại ít được quan tâm nghiên cứu hơn. Chính vì vậy, liên quan đến lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN, tác giả thấy cần phải làm rõ một số vấn đề như: quyền con người nói chung và quyền của người bị hại nói riêng; đảm bảo sự công bằng về quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN với tư cách là người bị buộc tội và người bị hại trong lĩnh vực TTHS; Tác động qua lại trong mối quan hệ giữa quyền con người và quyền của NBHCTN... Những nghiên cứu này được đặt ra trên cơ sở mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù. Do đó, khi chưa làm rõ những vấn đề lý luận này thì tất yếu không thể có những đánh giá khoa học, có sức thuyết phục về thực trạng vấn đề này trong thực tiễn và đề ra biện pháp, cơ chế hữu hiệu nhằm bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm đối tượng này trong tố TTHS. Nếu không tiếp cận dưới góc độ quyền con người thì việc đề xuất hoàn thiện các thủ tục TTHS đối với NBHCTN sẽ khó toàn diện và thiếu thuyết phục.
  • 29. 23 1.4. Về những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu trong luận án Một là, khái niệm người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự chưa được các công trình nghiên cứu giải quyết thấu đáo. Hai là, các nghiên cứu của nước ngoài đã phân tích và làm sáng tỏ về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN, đồng thời đã áp dụng thành công trên thực tiễn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, các cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN trong pháp luật hình sự và TTHS chưa hề được đề cập nghiên cứu ở mức độ cần thiết. Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN trong hệ thống tư pháp hình sự (thế giới và Việt Nam) cần được so sánh, phân tích và luận giải, qua đó tìm những "khoảng trống pháp lý" còn tồn tại. Ba là, thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBHCTN trong các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay cần được quan tâm nghiên cứu, bởi vì đây là cơ sở để đưa ra các giải pháp. Vì vậy, tác giả đã nghiên cứu đánh giá thực trạng NBHCTN trong các vụ án hình sự ở Việt Nam từ 2007 đến 2017 (kết quả điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm xâm hại NCTN; khảo sát những vi phạm, sai lầm của các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có NBHCTN điển hình, đã được công bố công khai). Bốn là, Các yêu cầu và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và hoàn thiện các cơ chế bảo vệ NBHCTN trong các vụ án hình sự phù hợp với tình hình của Việt Nam hiện nay và hướng phát triển phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
  • 30. 24 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Quyền con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vự tư pháp hình sự luôn là một vấn đề được quan tâm không những của những nhà nghiên cứu mà còn của hệ thống tư pháp của mỗi quốc gia. Sự tham gia của người bị hại vào quá trình tố tụng hình sự là một tất yếu nhưng tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, mặc dù người bị hại là cá nhân bị thiệt hại do tội phạm gây ra, là một trong hai chủ thể chính và quan trọng nhưng lại ít được quan tâm nghiên cứu và bảo vệ trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Hoạt động nghiên cứu và bảo vệ người bị hại nói chung và NBHCTN nói riêng trong tố tụng hình sự trên thế giới mới được quan tâm với lịch sử gần 40 trở lại đây so với lịch sử hơn 250 năm của trong trào nghiên cứu và bảo vệ quyền con người. NBHCTN được tư pháp hình sự xác định là một chủ thể đặc biệt được quan tâm. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã khẳng định vấn đề trước tiên và quan trọng nhất, cũng như trong các vấn đề khác liên quan đến trẻ em, nguyên tắc ―lợi ích tốt nhất của trẻ em‖ phải được coi là trọng tâm trong việc ứng xử với NBHCTN. Để đảm bảo nguyên tắc này có nghĩa là đôi khi việc truy tố thủ phạm sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Ở Việt Nam, trọng tâm của vấn đề bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự vẫn là người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) và trong tư pháp người chưa thành niên vẫn là người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Điều này được thể hiện trong những công trình nghiên cứu mà tác giả đã tìm hiểu ở phần tổng quan. Đây là những nội dung chính đang bị ―khuyết‖ trong nghiên cứu về quyền con người, quyền của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự. Vì vậy, luận án sẽ tập trung nghiên cứu, luận giải và làm sáng tỏ những nội dung này trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, thông qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án có NBHCTN góp phần bảo vệ người chưa thành niên khỏi hành vi xâm hại và bảo đảm quyền của NBHCTN trong TTHS.
  • 31. 25 Chƣơng 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 2.1. Khái niệm và đặc điểm của người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự 2.1.1. Khái niệm người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự 2.1.1.1. Người bị hại Người bị hại là một trong những người tham gia tố tụng theo quy định của BLTTHS. Việc tham gia tố tụng của người bị hại không chỉ nhằm bảo vệ, khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã bị hành vi phạm tội xâm hại mà còn góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Dưới góc độ ngôn ngữ có thể hiểu người bị hại là con người cụ thể trong xã hội, chịu sự tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kỳ sự tác động nào khác dẫn đến những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ. Tất nhiên sự tác động đó là trái với ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ động. Thiệt hại gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất và không cần phải giới hạn mức độ thiệt hại. Theo Từ điển Luật học, người bị hại là ―người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân‖ [62, tr.198]. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003 chỉ rõ: ―Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra‖. Pháp luật một số nước cũng có quy định tương tự. Chẳng hạn, Điều 53 BLTTHS Liên bang Nga quy định: ―Người bị hại là người bị tội phạm gây thiệt hại về tinh thần, thể chất hoặc tài sản. Người tiến hành điều tra, dự thẩm viên, thẩm phán, tòa án ra quyết định công nhận là người bị hại”. Còn khoản 1 Điều 43 BLTTHS của Tiệp Khắc trước đây quy định: ―Người bị hại là người bị tội phạm gây thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản, tinh thần hoặc những thiệt hại khác‖.
  • 32. 26 BLTTHS Rumani cũng có quy định tương tự. Điều đó cho thấy pháp luật một số nước có sự thống nhất trong định nghĩa người bị hại. Với quy định này, người bị hại thường được hiểu là con người cụ thể; thiệt hại gây ra đó là tinh thần, thể chất, tài sản hoặc những thiệt hại khác; những thiệt hại đó phải do tội phạm gây ra. Bị thiệt hại về thể chất là bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe như làm cho bị thương, bị chết… Bị thiệt hại về tinh thần là tinh thần bị tổn thương như bị vu khống. Bị thiệt hại về tài sản là tài sản của người bị hại bị hư hỏng, mất mát như bị hủy hoại tài sản, lừa đảo, mất trộm…[14, tr.198]. Điều 62, BLTTHS năm 2015 quy định: Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Nếu như trước kia, trong tố tụng hình sự Việt Nam, khi nói về người bị hại thì mặc nhiên sẽ được hiểu chỉ có thể là cá nhân, là con người cụ thể thì đến BLTTHS năm 2015, bị hại được hiểu không chỉ là cá nhân mà còn là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Điều này có nghĩa: Chỉ thể tham gia tố tụng với tư cách là bị hại không chỉ là cá nhân cụ thể mà cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại. 2.1.1.2. Người chưa thành niên Khái niệm NCTN được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học khác nhau như tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, luật học... Tùy theo các góc độ, lĩnh vực khác nhau mà khái niệm này được hiểu khác nhau. Theo nhà tâm lý học G. Stanley Hall, thời kỳ chưa thành niên là thời kỳ quá độ trẻ em chuyển lên người lớn và là thời kỳ gắn liền với những xung đột, xáo trộn tâm trạng, nó cũng được quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn hoặc đang trưởng thành [42, tr.12]. Điều 11 của Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1992 quy định:― Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi‖. Khái niệm NCTN được quy định và sử dụng trong pháp luật dân sự, hình sự, TTHS. Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: ―Người chưa thành niên là người
  • 33. 27 chưa đủ 18 tuổi‖. BLHS, BLTTHS cũng xác định NCTN là người chưa đủ 18 tuổi. BLHS năm 1999 đã dành một chương riêng quy định đối với ―người chưa thành niên phạm tội‖ nhưng lại không có một khái niệm pháp lý chính thức giải thích thế nào là NCTN. Điều 68 BLHS chỉ rõ: ―Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này‖. Như vậy, có thể hiểu NCTN ở độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội do mình gây ra trong các trường hợp mà BLHS quy định. BLHS năm 2015 không dùng thuật ngữ ―người chưa thành niên‖ để chỉ nhóm người dưới 18 tuổi nói chung nữa mà xác định rõ chính sách hình sự cụ thể cho từng độ tuổi nhất định, việc thay đổi này nhằm bảo đảm tính thống nhất cũng như tính ổn định của Bộ luật sau khi được ban hành. Cụ thể như: Dành hẳn một chương (Chương XII) những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Quy định rõ các tội như: Tội hiếp dâm (Điều 141, khoản 4 – phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi); Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); Tội cưỡng dâm (Điều 143, khoản 4 – cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi); Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151); Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi (Điều 152); Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153); Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi (Điều 296); Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325); Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329). Tóm lại, trong pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng, khái niệm NCTN dùng để chỉ những người dưới (chưa đủ) 18 tuổi. Trong Luật hình sự, TTHS Việt Nam, mặc dù có những quy định khác nhau về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng cũng coi NCTN là người dưới 18 tuổi. Vì vậy, có thể hiểu: NCTN là người dưới 18 tuổi hay chưa đủ 18 tuối.
  • 34. 28 * Trẻ em Khi xem xét nhóm người trong độ tuổi dưới 18, chúng ta còn bắt gặp khái niệm trẻ em. Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm người thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Trẻ em là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Điều 1 Công ước về quyền trẻ em năm 1989 quy định: ―Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có qui định tuổi thành niên sớm hơn‖. Như vậy, theo quy định của Liên hợp quốc thì tất cả những người dưới 18 tuổi đều được gọi là trẻ em. Theo quy định của Pháp luật Việt Nam, trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 của Việt Nam đưa ra khái niệm: ―Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi‖. Quy định về độ tuổi của trẻ em mặc dù cũng có nhiều ý kiến là nên đồng nhất với quy định của Công ước về Quyền trẻ em năm 1989, nhưng xét trên nhiều phương diện thì độ tuổi này (dưới 16 tuổi) vẫn được bảo lưu trong Luật trẻ em vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 05/4/2016 và có hiệu lực vào ngày 01/6/2017. Trong BLHS năm 1999 của Việt Nam không đưa ra khái niệm trẻ em, nhưng lại quy định một số hành vi xâm phạm đến trẻ em như: Trẻ em trong tình tiết ―phạm tội đối với trẻ em‖ được quy định tại điểm h, Khoản 1, Điều 48 BLHS là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trẻ em ở đây được hiểu là bất kỳ người nào dưới 16 tuổi; Trẻ em quy định trong Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115), Tội dâm ô với trẻ em (Điều 116); Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120); Tội chứa mại dâm (Điều 254); Tội môi giới mại dâm (Điều 255), được hiểu là bất kỳ người nào dưới 16 tuổi. BLHS năm 2015 cũng không còn dùng khái niệm ―trẻ em‖ nữa mà quy định chế tài cụ thể đối với những trường hợp phạm tội đối người dưới 16 tuổi hay chưa đủ 16 tuồi.
  • 35. 29 Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Tóm lại, trong pháp luật quốc tế nói chung khái niệm trẻ em và NCTN dùng để chỉ những người dưới 18 tuổi. Trong Luật hình sự Việt Nam, mặc dù có những quy định khác nhau về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nhìn chung cũng thừa nhận: Trẻ em là những người dưới 16 tuổi; NCTN là người dưới 18 tuổi, còn NCTN phạm tội chỉ bao gồm những người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm. . Vì vậy, có thể khẳng định theo pháp luật Việt Nam khái niệm NCTN rộng hơn khái niệm trẻ em. Trẻ em đương nhiên là NCTN nhưng là NCTN ở độ tuổi dưới 16, còn NCTN bao gồm trẻ em và một bộ phận không phải là trẻ em (người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi). So sánh với quy định của văn kiện quốc tế thì khái niệm NCTN ở Việt Nam phù hợp với khái niệm trẻ em được quy định trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Hiểu được sự phân biệt trên giúp ta thấy được nếu điều luật trong văn bản pháp luật Việt Nam quy định thuật ngữ ―người chưa thành niên‖ là đối tượng xâm hại bởi tội phạm nào đó không quy định độ tuổi thì cần được hiểu theo nghĩa chung nhất là người dưới 18 tuổi. Tương tự nếu điều luật quy định thuật ngữ ―trẻ em‖ là đối tượng bị xâm hại thì cần hiểu là người dưới 16 tuổi. Còn trong các văn bản pháp luật quốc tế nếu quy định là trẻ em thì sẽ được hiểu là NCTN theo quy định của pháp luật Việt Nam. 2.1.1.3. Khái niệm người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự Dưới góc độ luật học, vụ án được hiểu là một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và đặt ra yêu cầu phải điều tra, làm rõ. Vụ án hình sự là vụ án có dấu hiệu của tội phạm cụ thể đã được quy định trong Bộ luật hình sự và được cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự. Tội phạm là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Dấu hiệu của tội phạm là dấu hiệu cho phép đánh giá
  • 36. 30 có khả năng đã có tội phạm xảy ra. Ví dụ, có sự việc chết người xảy ra mà trên người nạn nhân có nhiều vết chém; có sự việc nhà của người dân bị cắt khóa, lục soát đồ đạc... là biểu hiện của sự việc có dấu hiệu tội phạm. Khi phát hiện sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm thì các cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra, không phải đợi đến khi xác định được người đã thực hiện hành vi phạm tội mới ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là sự kiện bắt đầu hoạt động điều tra vụ án chính thức. Việc xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm là cơ sở để khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên những căn cứ nhất định. Điều 143 BLTTHS quy định: Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ bao gồm: Tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; người phạm tội tự thú; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm. Về nguyên tắc, khi xác định được sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền sẽ phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, xuất phát từ quyền và lợi ích của người bị hại, BLTTHS quy định cho phép người bị hại được quyền yêu cầu hay không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự (Điều 155 BLTTHS). Trong những trường hợp đó, chỉ khi có yêu cầu của người bị hại thì các cơ quan có thẩm quyền mới được khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, có thể hiểu: Người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự là người chưa đủ 18 tuổi bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự và đã được cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án để thực hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. 2.1.2. Đặc điểm của người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự Trong vụ án hình sự, NBHCTN có các đặc điểm của người bị hại và các đặc điểm về thể chất, về tâm sinh lý của NCTN nói chung. Ngoài ra, NBHCTN còn có các đặc điểm riêng biệt như:
  • 37. 31 2.1.2.1. Là chủ thể đặc biệt được hưởng quyền và được pháp luật bảo vệ Với tư cách là một chủ thể tham gia tố tụng đặc biệt, NBHCTN có vị trí, vai trò rất quan trọng được cả pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận và bảo vệ. Theo pháp luật hình sự Việt Nam, thì BLHS hiện hành được coi là nguồn trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều 1, BLHS năm 1999 và năm 2015 đều ghi nhận nhiệm vụ của BLHS là: ―bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm; Bộ luật này quy định về tội phạm và hình phạt”. Pháp luật hình sự nước ta rất nghiêm khắc đối với với hành vi phạm tội xâm hại đến người chưa thành niên. Điều này không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ NCTN là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn xuất phát từ một thực tế NCTN là người ít có hoặc không có khả năng tự vệ. Do đó khi xác định tội phạm và hình phạt phụ thuộc vào độ tuổi của nạn nhân. Nếu NCTN càng ít tuổi, sự kháng cự càng yếu ớt thì mức hình phạt áp dụng càng nghiêm khắc. Để bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, cùng với việc ban hành BLHS xác định tội phạm và hình phạt, Nhà nước đã ban hành BLTTHS trong đó quy định trình tự, thủ tục giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của
  • 38. 32 những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức và cá nhân khi tham gia vào các hoạt động tố tụng hình sự. Với tư cách là một chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng, NBHCTN cũng được BLTTHS có những quy định riêng về trình tự thủ tục tố tụng và quyền, nghĩa vụ khi tham gia vào quy trình tố tụng hình sự. Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc (CƯQTE) được coi là văn kiện quốc tế cơ bản ghi nhận về quyền trẻ em (người chưa thành niên). Xét trên bình diện chung nhất thì CƯQTE quy định đầy đủ nhất về quyền của trẻ em nói chung, Công ước đã trở thành tiêu chuẩn chung cho việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em, là căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thành trách nhiệm của các quốc gia trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền của mỗi trẻ em thuộc quyền tài phán của họ. Hội nghị Tư vấn toàn cầu của UNICEF về ―Cách tiếp cận làm chương trình dựa trên cơ sở quyền‖ Dar es Salaam (Tanzania), 2002. Báo cáo tóm tắt và Kiến nghị, UNICEF: Niu Oóc, 2002) đã nêu: Quyền trẻ em được dựa trên mối quan hệ cơ bản giữa trẻ em — người được hưởng quyền và có quyền yêu cầu – với tất cả những người lớn trong bộ máy nhà nước, cộng đồng và gia đình là những người có trách nhiệm pháp lý thực hiện các đòi hỏi đó và Trẻ em là chủ thế của các quyền. Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này (năm 1990). Với việc phê chuẩn Công ước này, Việt Nam đã cam kết thực hiện ―mọi biện pháp thích hợp về pháp lý, hành chính và các biện pháp khác‖ để thực thi và tuân thủ Công ước [186]. Trong Báo cáo thực hiện CƯQTE giai đoạn 1993-1998 gửi Ủy ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc, Chính phủ Việt Nam đã chỉ rõ ràng: ―Công ước về quyền trẻ em là một trong những điều ước Liên hợp quốc quan trọng về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn. Hiện tại, thực hiện quyền trẻ em là một trong những trọng tâm của quyền con người ở Việt Nam‖ [29 - tr.10]. Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 về các quyền của trẻ em khẳng định: ―...Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thế chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức‖.
  • 39. 33 Như vậy, có thể khẳng định với tư cách là chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật thì trẻ em là chủ thể của các quyền, là người được hưởng quyền và có quyền yêu cầu. 2.1.2.2. Người bị hại chưa thành niên thường chịu sang chấn rất lớn và lâu dài về tâm sinh lý Các nghiên cứu về tâm thần học đã chỉ ra rằng NCTN bị xâm hại về tình dục thường xảy ra trong một khoảng thời gian được đặc trưng bởi một mô hình cụ thể hoặc theo một trình tự như bắt đầu với hành vi xâm hại nhỏ dần dần leo thang đến nghiêm trọng, sự tiến triển này qua năm giai đoạn: Tham gia, tương tác tình dục, bí mật, tiết lộc và đàn áp. Do thể chất chưa phát triển hoàn thiện của NCTN nên khi bị xâm hại không những có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi mà còn gây ra tác động tới sự phát triển của họ suốt cuộc đời. Các em bị hủy hoại về tình cảm và thường gặp phải nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau. Theo Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Bá Quyết - Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương thì có không ít bé gái bị xâm hại tình dục, sau này có chồng nhưng không thể sinh con, không được làm mẹ, không phải vì lý do liên quan chức năng sinh sản. Ông từng khám cho một phụ nữ lấy chồng suốt bốn năm nhưng không thể gần gũi chồng vì cơ thể luôn ―phản ứng‖ với những ám ảnh từ ngày thơ bé. Cũng có trường hợp đã mang thai nhưng lại không thể sinh nở một cách suôn sẻ vì tử cung không co giãn, do những ―phản xạ có điều kiện‖ từ tâm lý... Các tài liệu liên quan đến các hậu quả tâm lý của NCTN bị xâm hại về thể chất chỉ ra một loạt các ảnh hưởng sâu sắc như: ảnh hưởng đến sự điều chỉnh, mô hình gắn kết không an toàn và không điển hình, giảm các mối quan hệ bạn bè, tăng sự chống đối hoặc cách ly xã hội và không đạt kết quả cao trong học tập. NCTN bị xâm hại về thể chất biểu hiện nhiều bệnh tâm thần như: Trầm cảm, rối loạn hành vi, rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), rối loạn thách thức chống đối, phân ly và rối loạn stress sau sang chấn (PTSD). NCTN bị xâm hại về tình dục thường có một loạt các triệu chứng, các thay đổi hành vi như: Các triệu chứng lo âu, phản ứng và triệu chứng phân ly, trầm cảm,
  • 40. 34 rối loạn hành vi tình dục và triệu chứng cơ thể. Các triệu chứng lo âu bao gồm các triệu chứng sợ hãi, ám ảnh, mất ngủ, ác mộng mà nội dung liên quan trực tiếp đến hành vi xâm hại, các triệu chứng cơ thể và PTSD. Phản ứng và triệu chứng phân ly, có thể biểu hiện như mất trí nhớ, mơ mộng, lên đồng, co giật, rối loạn nhận biết. Trầm cảm có thể được biểu hiện bằng giảm thấp lòng tự trọng, hành vi tự sát hoặc tự hủy hoại. Rối loạn hành vi tình dục như thủ dâm, bắt chước hành vi giao hợp hoặc xâm hại tình dục với người khác. Triệu chứng cơ thể như đái dầm, chán ăn, ăn vô độ, béo phì, đau đầu và đau dạ dày. Căng thẳng và sang chấn tâm lý do việc bị xâm hại nghiêm trọng đến thể chất, tinh thần gây ra cho NCTN có thể dẫn đến bệnh lý lâu dài, gây ảnh hưởng đến não bộ và vẫn tồn tại đến tuổi trưởng thành. Nhiều nạn nhân đã mắc chứng bệnh có tên Rối loạn căng thẳng hậu sang chấn Tâm lý (PTSD). Bệnh này khó chẩn đoán và điều trị với những triệu chứng sau đây: + Bác bỏ sự liên quan đến bất kỳ sự việc bị bóc lột nào. + Sẽ không có khả năng nhớ hoặc nhắc lại sự việc một cách rõ ràng. + Sẽ không có khả năng nhớ lại các sự kiện theo trình tự thời gian hoặc chuỗi sự kiện. + Trải nghiệm lại sự kiện qua các giấc mơ, ác mộng, hồi tưởng và ý nghĩ ám ảnh. + Tránh những yếu tố khơi lại sự kiện. + Không có khả năng phản ứng với những sự kiện đang diễn ra. + Triệu chứng khó ngủ như ngủ không dài, có những hành vi hung hãn hoặc khả năng tập trung kém. Người ta cho rằng PTSD ảnh hưởng tới trí nhớ theo nhiều cách khác nhau. Người chưa thành niên bị PTSD thậm chí không thể miêu tả được chuyện gì đã diễn