SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
Luận văn: Quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013, HOT, HAY
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM PHƢƠNG THẢO
QUYỀN TƢ PHÁP
THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM PHƢƠNG THẢO
QUYỀN TƢ PHÁP
THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG
HÀ NỘI - 2016
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
luận điểm, nội dung nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Phƣơng Thảo
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: QUYỀN TƢ PHÁP TRONG CHÍNH THỂ NHÀ NƢỚC
HIỆN ĐẠI ............................................................................................ 8
1.1. Quyền tư pháp trong chính thể cộng hòa tổng thống..........................18
1.2. Quyền tư pháp trong các chính thể đại nghị .......................................21
1.3. Quyền tư pháp trong chính thể cộng hòa lưỡng tính ..........................22
1.4. Quyền tư pháp trong chính thể các nhà nước xã hội chủ nghĩa..........23
Chƣơng 2: QUYỀN TƢ PHÁP THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP
NĂM 2013......................................................................................................28
2.1. Đặc điểm của quyền tư pháp...............................................................28
2.2. Nội dung của quyền tư pháp ...............................................................32
2.3. Một số hạn chế trong các quy định của Hiến pháp năm 2013 về
quyền tư pháp......................................................................................38
Chƣơng 3: NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT TỔ CHỨC TÒA
ÁN NHÂN DÂN THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013............................43
3.1. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ...............45
3.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân ..................................................53
3.3. Vai trò của Thẩm phán........................................................................59
3.4. Những vấn đề còn cần nghiên cứu......................................................67
KẾT LUẬN....................................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................89
5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1. CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
2. CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3. HĐTP Hội đồng Thẩm phán
4. HTND Hội thẩm nhân dân
5. TAND Tòa án nhân dân
6. TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
7. TATC Tòa án tối cao
8. TCTAND Tổ chức Tòa án nhân dân
9. VKS Viện Kiểm sát
10. VKSND Viện Kiểm sát nhân dân
11. XHCN Xã hội chủ nghĩa
6. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, quyền lực nhà nước bao gồm 3 thứ
quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp lần đầu tiên được
xuất hiện trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật của Montesquieu” (xuất bản lần
đầu vào năm 1748). Tại quyển XI của tác phẩm nổi tiếng này, Montesquieu đã
giải thích quyền lập pháp là quyền “làm ra luật,… sửa đổi hay hủy bỏ luật (đã
ban hành), còn quyền hành pháp là quyền “quyết định việc hòa hay chiến, gửi
đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược”, còn quyền tƣ pháp
là quyền “trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân”. Nếu
coi việc trừng trị tội phạm chính là việc giải quyết một tranh chấp công giữa
nhà nước và người phạm tội thì có thể nói gọn lại, trong quan niệm của
Montesquieu, quyền tƣ pháp chính là quyền xét xử các tranh chấp giữa các
chủ thể pháp lý trong xã hội. Đây là quyền áp dụng các quy định của pháp
luật có liên quan để xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, hậu quả pháp
lý của các bên tham gia tranh chấp dựa trên những tình tiết khách quan của vụ
việc. Thông qua việc thực hiện quyền tư pháp, pháp luật được áp dụng, tôn
trọng và chấp hành bởi các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Nói cách khác, một
trong những “đầu vào” khi thực hiện quyền tƣ pháp chính là pháp luật -
sản phẩm của quyền lập pháp. Việc thực hiện quyền tư pháp chính là một
trong những cách hữu hiệu để quyền lập pháp mang giá trị xã hội đích thực và
được tôn trọng về mặt thực tế.
Quan niệm trên cũng được chia sẻ ở nhiều quốc gia trên thế giới, quyền
tư pháp không chỉ đơn thuần được hiểu là quyền áp dụng các quy định của
pháp luật vào các tranh chấp cụ thể để xác định sự đúng sai, hợp pháp hay bất
hợp pháp trong hành vi của con người, từ đó, xác định biện pháp chế tài tương
7. 2
ứng, mà còn bao gồm quyền giải thích pháp luật để phục vụ việc giải quyết vụ
việc ấy. Ở một số quốc gia có thiết lập cơ chế bảo hiến theo mô hình Tòa Tối
cao là cơ quan bảo hiến hoặc thành lập Tòa Hiến pháp, thì quyền tư pháp còn
bao hàm cả quyền tuyên vi hiến các đạo luật, các hành vi của các nhánh
quyền lực nhà nước. Thêm vào đó, ở các nước theo hệ thống luật án lệ
(common law), quyền tư pháp còn được hiểu bao gồm cả quyền tạo ra án lệ.
Như vậy, quan niệm về quyền tư pháp của Montesquieu cũng như ở các
nước với quan niệm về quyền tư pháp mà các học giả Việt Nam sử dụng có
thể có sự khác biệt nhất định, nhưng về cơ bản, các quan niệm này đều thống
nhất với nhau rằng, quyền tƣ pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý
dƣ̣a trên các quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t [15, tr. 105-106]. Các tranh chấp này
có thể chỉ là giữa người dân hoă ̣c t ổ chức do người dân lập ra (như doanh
nghiê ̣p, hợp tác xã , tổ chứ c xã hội v .v.) với nhau nhưng đó cũng có thể là
tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc tranh chấp giữa cơ quan
nhà nước với người dân, tổ chức do người dân lập nên. Trong một thời gian
dài trước khi thành lập các thiết chế tài phán hành chính, quyền tư pháp không
bao hàm quyền xét xử các vụ án hành chính. Tuy nhiên, với việc tiếp thu ngày
càng nhiều hơn những yếu tố hợp lý trong lý thuyết phân quyền vào thiết kế
bộ máy nhà nước, quyền tư pháp ở nước ta đã từng bước mở rộng. Theo đó,
tòa án không chỉ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, mà còn xét xử cả các vụ án hành chính. Mặc dù vậy, cho tới
nay, tòa án Việt Nam vẫn chưa được chính thức trao cho thẩm quyền xét xử
tính hợp pháp hay bất hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật. Tòa án
Việt Nam cũng chưa được phép tiến hành việc xét xử các vụ khiếu kiện liên
quan tới các quyết định hành chính do những người có thẩm quyền cao hơn
cấp Bộ trưởng ban hành.
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02-6-2005 về “Chiến
8. 3
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng chỉ rõ: các cơ quan tư pháp không
chỉ là tòa án, mà còn bao gồm cả các viện kiểm sát, các cơ quan điều tra và cả
các cơ quan thi hành án (dân sự hoặc hình sự). Theo đó, quyền tư pháp còn
bao gồm cả việc hợp lý hóa lại thẩm quyền, chức năng, cơ cấu, tổ chức, bộ
máy, đội ngũ cán bộ của hệ thống tòa án (dù coi tòa án là trung tâm của nền tư
pháp), hệ thống viện kiểm sát, hệ thống cơ quan điều tra, hệ thống cơ quan thi
hành án, hệ thống các thiết chế bổ trợ tư pháp.
Có thể thấy rằng, cho tới hiện nay, quan niệm về “Quyền tư pháp” ở
Việt Nam và ở các nước phát triển, tuy có chung điểm cốt lõi là quyền xét xử
các tranh chấp pháp lý dựa trên quy định của pháp luật một cách độc lập
nhưng đi vào chi tiết thì vẫn còn nhiều điểm khác biệt. Trong đợt sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp, đã không ít ý kiến đề xuất mở rộng nội hàm quyền tư pháp ở
Việt Nam, thậm chí có ý kiến còn đề xuất cho phép tòa án được quyền xét xử
cả hành vi của những cơ quan công quyền ở cấp rất cao. Xu hướng mở rộng
quyền tư pháp như vậy và cùng với nó là đảm bảo tốt hơn yêu cầu độc lập xét
xử của tòa án là điều hoàn toàn có thể dự báo được, nhất là khi lý tưởng xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì
dân mà Đảng ta chủ trương ngày càng có cơ sở xã hội và hiện thực để thực
hiện. Chính vì vậy học viên đã lựa chọn đề tài “Quyền tư pháp theo Hiến
pháp năm 2013” để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đều quan tâm tập
trung theo một góc độ nhất định, giá trị mà các công trình nghiên cứu đó
hướng tới là sự hoàn thiện tổng thể. Trong đó, học viên đã tiếp cận một số
công trình khoa học tiêu biểu có thể kể đến như sau:
- GS.TS. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), "Thể chế tư pháp trong nhà
nước pháp quyền", Hà Nội - Nhà xuất bản tư pháp, 2004;
9. 4
- GS. TS. Nguyễn Đăng Dung (2010), "Cải cách tổ chức và hoạt động hệ
thống toà án của Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền";
- TS. Trịnh Tiến Việt (2012), “Cải cách tư pháp và các giải pháp phòng,
chống oan, sai trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí toà án nhân dân;
- GS. TS. Võ Khánh Vinh (2003), “Về quyền tư pháp trong nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam”, Tạp
chí nhà nước và pháp luật;
- Nguyễn Đức Minh –Đề tài khoa học cấp bộ (2009 – 2010), “Một số
vấn đề cơ bản về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020”;
- Nguyễn Thị Hạnh (2001), “Quyền tư pháp trong mối quan hệ với các
quyền lập pháp, hành pháp theo nguyên tắc phân chia quyền lực”.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên
ngành đề cập đến Quyền tư pháp trên phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy
nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện,
đầy đủ về Quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013. Có thể khẳng định đây
là một đề tài nghiên cứu riêng, không bị trùng lặp với những đề tài nghiên
cứu trước đó.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
- Luận văn hướng tới mục tiêu nhằm tiếp tục đổi mới và hoàn thiện
chức năng thực thi quyền tư pháp ở nước ta trong giai đoạn mới đáp ứng
những yêu cầu của Hiến pháp 2013 vừa được ban hành, hướng tới xây dựng
một xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Luận văn sẽ góp phần nhỏ trong việc nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn về quyền tư pháp ở nước ta, trở thành một trong những tài liệu
tham khảo có ý nghĩa, phục vụ cho việc cải cách tư pháp và nâng cao hiệu quả
thực thi quyền tư pháp trong thực tiễn.
10. 5
3.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở những mục tiêu tổng quát kể trên, học viên xác định một số
mục tiêu cụ thể cần phải thực hiện để đạt được mục tiêu tổng quát như sau:
- Làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về Quyền tư pháp.
- Đánh giá thực trạng việc thực thi quyền tư pháp ở nước ta để thấy rõ
được những ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
trong quá trình thực hiện chức năng tư pháp của mình.
- Nghiên cứu đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực thi quyền tư pháp.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện nay số lượng công trình nghiên cứu về Quyền tư pháp ở Việt Nam
và trên thế giới còn khá hạn chế. Đề tài mà học viên chọn làm đề tài luận văn
lần đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề về Quyền tư pháp. Luận văn sẽ
đưa được ra các điểm mới như:
- Làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về Quyền tư pháp.
- Nghiên cứu xem xét các vấn đề về Quyền tư pháp của một số nước
trên thế giới
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật Việt
Nam cũng như những quy định mới về Quyền tư pháp theo Hiến pháp 2013
và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 (có hiệu lực từ ngày 01-6-2015, sau
đây gọi tắt là “Luật TCTAND”) từ đó có những sửa đổi các luật phù hợp với
các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền tư pháp.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền
tư pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước, về quyền tư pháp của Tòa án quy
định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND và đánh giá thực tiễn thực thi
11. 6
quyền tư pháp của TAND trong những năm gần đây, đồng thời cũng mở rộng
nghiên cứu quyền tư pháp của một số quốc gia khác trên thế giới. Qua đó thấy
được những hạt nhân hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả thực thi quyền tư
pháp ở nước ta.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quyền tư
pháp được thực thi bởi Tòa án - chủ thể chủ yếu thực thi quyền tư pháp mà
không nghiên cứu việc thực thi quyền tư pháp của các chủ thể khác. Đồng
thời, cũng để đánh giá được thực tiễn thực thi quyền tư pháp của Tòa án một
cách chính xác và đầy đủ nhất.
6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu kể trên, nội dung nghiên cứu
của luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tư pháp
như: Khái niệm quyền tư pháp, đặc điểm, vị trí, vai trò quyền tư pháp của Tòa
án, phân tích các quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
quy định về quyền tư pháp của Tòa án… Trên cơ sở xác định được những vấn
đề lý luận cơ bản, nội dung nghiên cứu tiếp theo luận văn đi vào đánh giá
những quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực thi quyền tư pháp qua
các giai đoạn để thấy được những kết quả đã đạt được, những kết quả còn hạn
chế. Qua đó xác định nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại và đề ra các
phương hướng giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi quyền tư pháp.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn vận dụng trực tiếp những vấn đề phương pháp
luận của phép biện chứng duy vật. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
thống kê, khảo sát thực tế....
12. 7
7. Kết cấu luận văn
Luận văn sẽ được thực hiện với khối lượng phù hợp các yêu cầu trên cơ
sở mục đích, phạm vi, nhiệm vụ và mức độ nghiên cứu của vấn đề. Trên cơ sở
yêu cầu đó, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Quyền tư pháp trong chính thể nhà nước hiện đại.
Chương 2: Quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013.
Chương 3: Những nội dung mới của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
theo Hiến pháp năm 2013.
13. 8
Chƣơng 1
QUYỀN TƢ PHÁP
TRONG CHÍNH THỂ NHÀ NƢỚC HIỆN ĐẠI
Khái niệm quyền tư pháp
Theo quan niệm phổ biến trong khoa học chính trị và khoa học pháp lý,
quyền lực nhà nước là một chỉnh thể thống nhất của các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Quyền tư pháp là một nhánh quyền lực nhà nước. Nói đến “tư
pháp” là “khái niệm dùng để chỉ các cơ quan tòa án, việc xét xử các hành vi vi
phạm pháp luật và các vụ kiện tụng trong nhân dân, hoạt động của các cơ
quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án”. Khái niệm tư pháp như
vậy chưa thật chuẩn xác, bởi nó vừa chỉ chủ thể (các cơ quan tòa án), vừa chủ
hoạt động xét xử của các cơ quan đó và hoạt động của các cơ quan khác như
cơ quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án.
Theo nghĩa hẹp hơn nhận thức trên, thuật ngữ “tư pháp” trong cuốn từ
điển Luật học được định nghĩa là công việc tổ chức, giữ gìn, bảo vệ pháp luật.
Nói đến tư pháp là nói đến công lý, công bằng, là việc phân xử và phán xét
các vi phạm pháp luật và tranh chấp trong xã hội phù hợp với pháp luật. Về
mặt lý thuyết, trên thế giới cũng như ở Việt Nam có nhiều quan niệm khác
nhau về quyền tư pháp. Ở các quốc gia có cách thức tổ chức bộ máy nhà nước
theo học thuyết tam quyền phân lập, quyền tư pháp được xác định là một
nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền hành pháp và đồng nghĩa
với quyền xét xử (tài phán) do tòa án thực hiện. Ở các quốc gia có cách thức
tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc quyền lực thống nhất, quyền tư
pháp được phân công cho tòa án và các cơ quan khác thực hiện.
Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, nguyên tắc tập quyền XHCN
được áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước. Tuy không ghi nhận trong các
14. 9
văn kiện chính thức nhưng trên thực tế, tập quyền XHCN đã trở thành một
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước (và được coi như sự phủ định nguyên
tắc phân chia quyền lực trong nhà nước tư sản). Khi công cuộc Đổi mới bắt
đầu, Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI (1986) đề ra nhiệm vụ “thực
hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước”. Đại
hội Đảng lần thứ VII (1991) khẳng định Nhà nước Việt Nam thống nhất ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền
đó (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991). Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011), nguyên tắc “quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan tư pháp” được khẳng định. Quan điểm về tính thống nhất của quyền lực,
về sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp là một quan điểm chính trị - pháp lý khái quát, được thể chế hóa trong
Hiến pháp năm 2013, đặt cơ sở ở tầm hiến định cho việc xác định nội dung
của quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, nguyên tắc
này mới dừng lại trong phạm vi của một công thức tổng quát, chưa được cụ
thể hóa trên các bình diện về chủ thể, phạm vi, nội dung, cách thức tổ chức
thực hiện của quyền tư pháp.
Quyền tƣ pháp (judicial power) là “thẩm quyền được trao cho tòa án
và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ việc và đưa ra phán quyết có
giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền giải thích và áp dụng
pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay
không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy” [25]. Ở Việt Nam, theo nhiều
nhà nghiên cứu, quyền tư pháp được định nghĩa là “quyền xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính” [23, tr. 657],
quyền tư pháp được định nghĩa là quyền “xét xử các hành vi vi phạm hiến
pháp, vi phạm pháp luật từ phía công dân và cơ quan nhà nước; bảo vệ pháp
15. 10
luật, công lý, tự do của công dân và trật tự an toàn xã hội” [17, tr.60]. Tư pháp
là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động
“phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các
quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ
thể pháp luật” [8, tr.11].
Phạm vi, đặc điểm của quyền tư pháp
Từ những kết quả nghiên cứu lý thuyết và xét từ phương diện chủ thể
thực hiện, quyền tư pháp với tư cách là một bộ phận của quyền lực nhà nước
được hiểu theo phạm vi và mức độ sau:
Thứ nhất: Quyền tư pháp được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan tư
pháp và bổ trợ tư pháp gồm: cơ quan xét xử (tòa án nhân dân), cơ quan điều
tra, cơ quan công tố, cơ quan thi hành án; các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp
(luật sư, công chứng, giám định tư pháp…)
Thứ hai: Quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của tòa án và
những hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức khác trực tiếp
liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi
ích của Nhà nước và xã hội.
Có thể thấy Quyền tư pháp theo cách hiểu trên được thực hiện không
chỉ thông qua hoạt động xét xử mà cả các hoạt động khác có liên quan trực
tiếp đến hoạt động xét xử hoặc phục vụ cho hoạt động xét xử như hoạt động
điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp. Trong các hoạt động trên của quyền tư pháp,
quyền xét xử đóng vai trò trung tâm. Ở nhiều quốc gia, ngoài hoạt động xét
xử, tòa án còn thực hiện nhiều hoạt động khác như kiểm tra tính hợp pháp và
tính có căn cứ của các quyết định và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của
những người có chức vụ, quyền hạn; giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật.
Nhận thức về quyền tư pháp theo phương diện chủ thể thực thi quyền
16. 11
tư pháp dựa trên và phù hợp với tư tưởng của các nhà kinh điển Macxit về
phân công thực hiện quyền lực nhà nước nhưng nếu xếp các cơ quan điều tra,
viện kiểm sát nhân dân, Bộ Tư pháp và thanh tra vào các cơ quan tư pháp thì
sẽ không phân biệt được rõ ràng chức năng hành pháp và chức năng tư pháp.
Các cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, Bộ Tư pháp, thanh tra về bản
chất là cơ quan hành pháp. Trong quan niệm nói trên về quyền tư pháp, không
chỉ các cơ quan nhà nước mà cả các tổ chức không phải cơ quan nhà nước
chẳng hạn như các tổ chức bổ trợ tư pháp hoạt động theo pháp luật cũng tham
gia vào việc thực hiện quyền tư pháp. Nếu như vậy thì quyền tư pháp không
còn được hiểu như là một loại quyền lực nguyên nghĩa trong quyền lực nhà
nước, bởi trong quan niệm đang được đề cập ở đây có sự xã hội hóa trong
thực hiện quyền lực nhà nước. Mục tiêu và mục đích hoạt động của chủ thể
được xem như là tiêu chí chủ yếu để phân nhóm cơ quan tư pháp. Theo đó,
các cơ quan, tổ chức nào thông qua hoạt động của nó trực tiếp hoặc gián tiếp
phục vụ cho nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm pháp chế, trật
tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của nhà nước và
xã hội được xem là cơ quan tư pháp.
Thứ ba: Quyền tư pháp được hiểu là tập hợp những việc làm cụ thể do
cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng tư pháp, liên quan trực tiếp đến việc
giải quyết các vụ án, các tranh chấp pháp luật và hướng tới mục đích giải
quyết các vụ án, tranh chấp một cách đúng đắn, khách quan. Phù hợp với
quan niệm này, hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động điều tra của các cơ
quan điều tra, hoạt động công tố của viện kiểm sát và hoạt động xét xử của
tòa án. Tuy các cơ quan bổ trợ của tư pháp như cơ quan công chứng, giám
định, bào chữa… tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp hoặc giải quyết
vụ án nhưng hoạt động của các cơ quan này không mang tính tư pháp mà chỉ
góp phần giúp cho việc giải quyết vụ án, giải quyết các tranh chấp pháp luật
17. 12
được đúng đắn, khách quan khi có yêu cầu từ phía cơ quan tiến hành tố tụng
hoặc từ phía người tham gia tố tụng.
Quyền tư pháp được xác định là một loại quyền lực nhà nước, do vậy
việc tổ chức thực thi loại quyền lực này phải được thực hiện bởi những cơ
quan nhà nước. Trong thực hiện quyền tư pháp là cơ quan được giao thẩm
quyền xác định tính đúng pháp luật của một sự kiện pháp lý xảy ra. Quyền tư
pháp phải luôn được thể hiện thông qua việc giải quyết vụ án, giải quyết các
tranh chấp pháp luật. Quá trình thực thi quyền tư pháp là quá trình tìm kiếm
và xác định xem sự kiện xảy ra có đúng pháp luật hay không. Khi phát hiện
được hành vi không đúng pháp luật thì xác định trách nhiệm pháp lý áp dụng
với chủ thể vi phạm. Như vậy tòa án được coi và trở thành biểu tượng cho
người dân vào công lý của nhà nước. Xét xử là khâu trung tâm của quá trình
thực thi quyền tư pháp. Không có cơ quan nào trong hệ thống quyền lực nhà
nước có thể đảm nhiệm đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và khôi phục các
quyền đã bị xâm phạm như tòa án. Song, để đảm bảo tính khách quan, bảo
đảm sự độc lập của tòa án nên dù là tư pháp hình sự hay tư pháp dân sự, tòa
án cũng không thể tự mình làm phát sinh chức năng tố tụng của mình. Để
chức năng xét xử của tòa án vận hành được và thủ tục tố tụng tư pháp tại tòa
án được tiến hành thì phải có các hoạt động tố tụng tư pháp được tiến hành
trước đó (đó là hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra, hoạt động truy tố
của viện kiểm sát). Trong các vụ án hình sự, các hoạt động điều tra, truy tố là
tiền đề dẫn đến tố tụng tòa án. Tuy nhiên, trong các vụ án phi hình sự, nghĩa
vụ chứng minh lại thuộc về đương sự nên cơ quan điều tra và cơ quan công tố
dường như không có vai trò.
Thứ tư: Quyền tư pháp hiểu theo nghĩa hẹp được giới hạn trong hoạt
động của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân.
Thứ năm: Theo nghĩa hẹp nhất thì Quyền tư pháp là lĩnh vực quyền lực
18. 13
nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng
đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh
chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật. Với cách hiểu này,
chủ thể thực hiện quyền tư pháp chỉ là tòa án và hoạt động tư pháp chỉ là hoạt
động xét xử. Nói đến tư pháp là nói đến hoạt động xét xử và được thực hiện
chỉ bởi tòa án.
Theo một số nhà khoa học trong lĩnh vực tư pháp khi tiếp cận quyền
tư pháp từ phương diện chức năng và giới hạn quyền tư pháp chỉ trong hoạt
động của tòa án thì có người xem quyền tư pháp như một nhánh quyền lực
độc lập tương đối so với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Quyền tư
pháp kiểm soát và giới hạn hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp trên
cơ sở hiến pháp và pháp luật, được xem như biểu tượng của công lý. Để
đảm bảo yêu cầu này, cần thiết lập quyền giám sát tư pháp đối với nhánh
lập pháp và hành pháp.
Tuy nhiên, khác với quan niệm trên có ý kiến cho rằng quyền tư pháp
chỉ được giới hạn trong hoạt động xét xử của tòa án. Quyền tư pháp do các
tòa án thực hiện vì khi nói đến quyền này là liên tưởng tới hoạt động hay
quyền xét xử của tòa án.
Như vậy có thể thấy cho đến nay không có một khái niệm hay định
nghĩa thống nhất nào về quyền tư pháp, sự khác nhau trong nhận thức về
quyền tư pháp là do sự khác nhau trong góc độ và mức độ tiếp cận khi
nghiên cứu về vấn đề này. Trong nghiên cứu về quyền tư pháp cần xem
quyền tư pháp là một bộ phận, một nội dung của quyền lực nhà nước và đặt
nó trong phạm vi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là thống nhất và
gắn với chủ quyền quốc gia được cấu thành và tổ chức theo các chức năng:
xây dựng pháp luật để cai trị - lập pháp; tổ chức thực hiện pháp luật đó -
hành pháp; duy trì, bảo vệ trật tự pháp luật đó - tư pháp. Vì thế quyền tư
19. 14
pháp là một loại quyền không thể thiếu được trong bất cứ nhà nước nào.
Quyền tư pháp giám sát việc tuân thủ pháp luật, gắn với chức năng bảo vệ
pháp luật, bảo vệ các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh và ngoài việc
phán xét tính hợp pháp của hành vi của những người tham gia các quan hệ
xã hội còn phán xét cả tính hợp pháp của chính các đạo luật, của các văn bản
quy phạm pháp luật khác.
Quyền tư pháp mang tính giai cấp, bởi nó bảo vệ pháp luật, bảo vệ ý
chí của giai cấp thống trị. Ở Nhà nước bóc lột, giai cấp thống trị là giai cấp có
tiềm lực kinh tế, nắm giữ các phương tiện lao động chủ yếu và là giai cấp
thống trị về kinh tế. Quyền tư pháp bảo vệ lợi ích của nhóm người đó. Còn
trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, lực lượng chủ yếu chiếm số đông là những
người lao động do giai cấp công nhân và lực lượng lao động hình thành tổ
chức và cai trị. Quyền tư pháp phục vụ cho lợi ích số đông đó, quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Việc bảo vệ lợi ích của nhân dân là tiêu chí đánh giá
hiệu quả tổ chức và hoạt động của bộ máy thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư
pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân có
chức năng và nhiệm vụ chính là bảo vệ lợi ích nhân dân nên quyền tư pháp
phải được tổ chức thành bộ máy với những cơ quan sao cho người dân được
tiếp cận với những thủ tục tư pháp đơn giản, thuận tiện, ít tốn kém, cán bộ tư
pháp phải chuyên nghiệp và có đạo đức nghề nghiệp. Khả năng đáp ứng được
các yêu cầu này của nền tư pháp cũng chính là những tiêu chí đánh giá hiệu
lực, hiệu quả và vai trò của quyền tư pháp. Ngày nay, nhà nước pháp quyền
không còn được đặc trưng bởi chức năng lập pháp như trước, mà bởi sự phát
triển các thủ tục pháp lý nhằm bảo vệ pháp luật, trước sự tùy tiện của lập pháp
và hành pháp [12, tr.126].
Quyền tư pháp giới hạn theo nghĩa hẹp là thông qua hoạt động của tòa
án với chức năng xét xử, nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết đối với các
20. 15
hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quyền, lợi ích của công dân, tổ
chức; áp dụng pháp luật; phán xét hành vi hợp pháp của các cơ quan, công
chức nhà nước.
Quyền tư pháp theo nghĩa rộng được thực hiện qua hoạt động của hệ
thống các cơ quan bảo vệ pháp luật như cơ quan điều tra, cơ quan công tố và
tòa án. Trong hệ thống các cơ quan đó, tòa án với chức năng xét xử có vai trò
trung tâm và thể hiện rõ nhất tính tư pháp của quyền tư pháp. Hoạt động điều
tra có thể được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp nhưng thực hiện chức
năng tư pháp hoặc do cơ quan công tố hoặc cơ quan tòa án đảm nhiệm. Hoạt
động thi hành án là giai đoạn sau của xét xử, thực thi phán quyết của tòa án.
Vì vậy, không nên coi hoạt động thi hành án thuộc phạm vi của quyền tư pháp
và cơ quan thi hành án không phải là cơ quan tư pháp. Ngoài ra, các hoạt
động có tính chất bổ trợ như bào chữa, giám định, giám sát, tư vấn pháp luật,
công chứng… không nên coi là hoạt động thực thi quyền tư pháp.
Tòa án là một nhánh quyền lực có vị trí đặc biệt quan trong trong Nhà
nước pháp quyền, nhưng đây lại là nhánh quyền lực yếu hơn so với hai nhánh
quyền lực còn lại lập pháp và hành pháp. Lập pháp là cơ quan có chức năng làm
luật. Lập pháp có quyền ấn định cách hành xử của cả xã hội. Hành pháp là cơ
quan thi hành, thực hiện pháp luật hàng ngày, hàng giờ nên tác động vào đời
sống của con người hay nói như Hegel là “hành pháp có quan hệ một cách trực
tiếp hơn với cái đặc thù trong xã hội công dân và thực hiện lợi ích phổ biến ở bên
trong những mục đích đặc thù đó” [3]. Hamilton thì nhận xét rằng:
Ngành hành pháp không những có quyền phân phối vinh dự
mà lại có quyền sử dụng vũ lực. Ngành lập pháp không những
kiểm soát tài chính mà lại có quyền quy định các luật lệ chi phối
sự sinh hoạt của các công dân [27, tr.80].
21. 16
Hamilton lập luận:
Ngành tư pháp, trái lại, không có quyền sử dụng vũ lực hoặc
quyền kiểm soát tài chính, không có quyền chi phối tài sản lẫn sức
mạnh của xã hội, và cũng không có một quyền quyết định tích cực
nào cả. Có thể nói rằng ngành tư pháp vừa không có lực lượng, lại
không có ý chí, mà chỉ có phán đoán mà thôi, và cần phải dựa trên
sự trợ tá của ngành hành pháp mới có thể thi hành được quyết định
của tri phán của mình.
Điều đó cho thấy với vị trí của mình, Tòa án ít có nguy cơ lạm quyền
và cũng ít nguy hiểm đối với các quyền, tự do của con người hơn so với
quyền lập pháp và hành pháp. Nói như vậy không có nghĩa Tòa án là một
ngành quyền lực vô hại trong bộ máy nhà nước. Ngược lại, Tòa án vẫn có khả
năng gây tổn hại cho nền công lý quốc gia khi họ lạm dụng chính quyền lực
của mình để mưu cầu lợi ích cá nhân. Tuy đối tượng xâm phạm chỉ là một bộ
phận đặc biệt trong xã hội, đó là những đương sự, bị can, bị cáo ra trước công
đường nhưng hậu quả của việc lạm dụng quyền lực này vô cùng nghiêm
trọng, bởi lẽ nó là trật tự xã hội suy giảm, công chúng sẽ đánh mất niềm tin
vào công lý, vào bộ máy nhà nước. Do vậy từ trước đến nay, người ta đã
nghiên cứu tìm ra nhiều biện pháp bảo đảm cho Tòa án được hoạt động đúng
với mục đích bảo vệ quyền con người, an ninh, trật tự của xã hội. Trong đó,
luật thủ tục là một trong những biện pháp tốt nhất nhằm giới hạn sự lạm
quyền của những người nắm quyền tư pháp.
Hoạt động xét xử là hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý. Tòa án không
chỉ phán xét tính hợp pháp mà còn cả tính đúng đắn của hành vi. Vì vậy,
ngoài căn cứ vào pháp luật, khi xét xử, tòa án còn căn cứ vào công lý. Biểu
hiện của công lý chính là sự công bằng, khách quan, vô tư và tình người. Ở
Anh quốc, một quốc gia theo luật common law, ngoài hệ thống luật án lệ thì
22. 17
họ còn xét xử theo luật công bình (equity). Nguyên tắc xét xử là mọi phán
quyết đều phải nhân danh công lý. Với những quốc gia theo luật Châu âu lục
địa, tuy xét xử theo hệ thống luật thực định nhưng công lý vẫn phải được
đảm bảo với mục đích mọi phán quyết đều dẫn đến sự công bằng, khách
quan, vô tư. Quy phạm pháp luật có thể cứng nhắc, máy móc và không thể
quy định hết cho mọi trường hợp cụ thể. Tòa án nhân danh công lý, áp dụng
pháp luật linh hoạt để sao cho công bằng không bị bóp méo theo điều cứng
nhắc, đóng khung của pháp luật. Đây cũng chính là lý do Tòa án cần được
trao thẩm quyền giải thích pháp luật trong việc áp dụng các điều luật cho
từng trường hợp cụ thể.
Hoạt động tư pháp phải tìm kiếm, xác định và minh định cho được sự
kiện xảy ra. Và trên cơ sở xác định sự kiện đó của thực tiễn khách quan xảy ra
trong mối quan hệ giữa các chủ thể của các quan hệ pháp luật, chủ thể của
hoạt động tư pháp phải đưa ra được những đánh giá về pháp lý cho các sự
kiện đó. Như vậy, đặc thù của hoạt động tư pháp mà trung tâm là hoạt động
xét xử là xác định sự kiện. Không phải chỉ đơn thuần áp dụng pháp luật mà
trước khi áp dụng pháp luật phải xác định cho được sự kiện. Sự kiện đó xảy ra
như thế nào trong quan hệ khách quan thì phải xác định được đúng như vậy.
Đạt được chân lý khách quan- một trong những mục tiêu của hoạt động tư
pháp. Cho nên cần hiểu rằng, hoạt động tư pháp là một hoạt động sáng tạo,
một loại hoạt động đòi hỏi huy động trí tuệ cao và trách nhiệm lớn của các
chủ thể áp dụng pháp luật, vì đây là những vấn đề liên quan đến con người,
liên quan đến lợi ích của các bên.
Nhìn chung quan trọng nhất trong một Nhà nước, quyền tư pháp nhất
thiết phải được tổ chức và thực hiện với mục tiêu và nhiệm vụ duy trì, bảo vệ
trật tự nhà nước, bảo vệ pháp luật, quyền và lợi ích của công dân. Việc cơ
23. 18
quan điều tra và cơ quan công tố tham gia thực thi quyền tư pháp là phù hợp
với nguyên tắc phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lực nhà nước.
1.1. Quyền tƣ pháp trong chính thể cộng hòa tổng thống
Đặc trưng của chính thể cộng hòa tổng thống là quyền lực của người
đứng đầu Nhà nước và của người đứng đầu Chính phủ tập trung trong tay
Tổng thống. Tổng thống ở các nước này có thể do nhân dân trực tiếp bầu ra
hay gián tiếp thông qua đại cử tri như ở Mỹ, Acshentina. Tổng thống tự thành
lập Chính phủ, bổ nhiệm và bãi nhiệm các Bộ trưởng, Quốc vụ khanh (hàm
Bộ trưởng). Ở một số nước, việc bổ nhiệm này đòi hỏi phải được Thượng
nghị viện thông qua như ở Mỹ. Ngoài ra, Tổng thống còn được trao quyền
sáng tạo pháp luật như giải thích Hiến pháp [1, tr.10].
Chính thể cộng hòa tổng thống, điển hình là ở Mỹ còn là một mô hình
chính thể áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách cứng rắn. Tuy nhiên trong
quan hệ giữa tư pháp với lập pháp và hành pháp ít được đề cập đến. Sự kìm
chế và đối trọng không chỉ được thể hiện trong quan hệ lập pháp và hành
pháp mà còn trong quan hệ giữa tư pháp với lập pháp và hành pháp. Thí dụ
như Hiến pháp Mỹ quy định: “Quyền tư pháp Hợp chủng quốc được trao cho
một Tòa án tối cao, và cho những tòa án ở cấp thấp hơn mà Quốc hội có thể
đôi khi quyết định và thiết lập” [28, tr.594]
Tòa án Mỹ là một thể chế độc lập hành xử quyền tư pháp theo đúng mô
hình tam quyền phân lập mà Montesquieu đã đưa ra. Các chánh án do Tổng
thống bổ nhiệm, Quốc hội phê chuẩn và có nhiệm kỳ suốt đời. Hiến pháp trực
tiếp thành lập và phân định thẩm quyền của Tòa án tối cao Mỹ và Quốc hội
cũng không thể thay đổi các quyền của Tòa án tối cao được ấn định trong
Hiến pháp. Có thể nói hoạt động tài phán của Tòa án không chịu sự can thiệp
của lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên quan hệ giữa tư pháp với lập pháp và
24. 19
hành pháp cũng tạo nên một cơ chế kìm chế, đối trọng quyền lực. Tòa án tối
cao Mỹ tự kìm chế mình trong phạm vi quyền tư pháp theo ranh giới của sự
phân bố quyền lực để độc lập, Tòa án không có quyền hủy bỏ một đạo luật bất
hợp hiến và cũng không xem xét tính hợp hiến của quá trình lập pháp mà chỉ
giải quyết những trường hợp cụ thể. Tòa án không cụ thể hóa một đạo luật
thành những chi tiết rộng quá phạm vi mà đạo luật đó có thể áp dụng. Nếu có
một sự nghi ngờ nào đó về tính hợp hiến của một đạo luật, Tòa án sẽ làm sáng
tỏ để tránh việc phải tuyên bố rằng đạo luật đó bất hợp hiến [22, tr.353).
Đối với Quốc hội: Hiến pháp Mỹ không quy định về thẩm quyền bảo
hiến của Tòa án tối cao. Nhưng Tòa án tối cao Mỹ đã tự nhận cho mình vai
trò bảo hiến xuất phát từ nguyên tắc phân quyền trong việc tổ chức quyền lực
Nhà nước. Theo nguyên tắc này, quyền tư pháp phải được hoàn toàn tự do để
giải thích Hiến pháp và nó mang tính chất bắt buộc. Đây cũng là cơ sở cho
việc độc lập hành xử quyền bảo hiến của Tòa án. Về nguyên tắc, Tòa án
không có quyền hủy bỏ một đạo luật bất hợp hiến nhưng việc Tòa án từ chối
áp dụng đạo luật như vậy đã làm vô hiệu hóa đạo luật đó vì trong những
trường hợp tương tự nếu đương sự nại ra đạo luật đã bị tòa án tuyên bố bất
hợp hiến thì tòa án thụ lý sẽ từ chối áp dụng.
Hiện nay, Tòa án tối cao Mỹ đã thực thi chức năng vốn có của mình đó
là bảo vệ chính văn Hiến pháp và tinh thần của Hiến pháp chứ không tìm cách
thay thế chúng bằng những quan điểm của cá nhân mình. Chính vì thế mà Tòa
án tối cao đã dần dần trở thành một định chế đóng vai trò tích cực trong đời
sống chính trị của Mỹ. Đặc biệt, Tòa án tối cao đã đóng vai trò tiên phong
trong cuộc đấu tranh phân biệt chủng tộc ở Mỹ, giúp cho những người da đen
có thể hưởng thị quyền công dân của mình không chỉ trên lý thuyết mà còn có
thể sử dụng quyền đó trong thực tế. Người da đen có thể tham dự vào các
cuộc hội họp của chính đảng để chọn ra ứng cử viên tranh cử trong các cuộc
25. 20
bầu cử. Như vậy Tòa án đã xích lại gần công chúng hơn và những tư tưởng
tiến bộ về dân chủ, bình đẳng, công lý sẽ đóng vai trò đảm bảo cho ngành lập
pháp có thể ban hành những đạo luật phù hợp với nội dung cũng như tinh thần
của Hiến pháp. Thẩm quyền bảo hiến của Tòa án làm cho Quốc hội thận trọng
hơn trong việc thực thi quyền lập pháp của mình.
Đối với Tổng thống, Tòa án không những có thể vô hiệu hóa những
quyết định của Quốc hội mà cả những quyết định của Tống thống vi phạm
Hiến pháp. Theo cơ chế đối trọng, Tổng thống cũng phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình trước vành móng ngựa của tòa án. Về nguyên tắc, quyền
luận tội và bãi chức Tổng thống thuộc về Quốc hội. Sau khi bị bãi chức theo
thủ tục đó thì Tổng thống có thể bị xét xử bởi Tòa án theo thủ tục tố tụng và
trong phiên xem xét cách chức Tổng thống của Thượng viện, Chánh án Tòa
án tối cao liên bang lại là người điều khiển. Trên thực tế, Tòa án có quyền
phán xét những hành vi vi phạm pháp luật của Tống thống, các quan chức
hành pháp cũng như các cơ quan cụ thể của ngành hành pháp. Thí dụ như
trường hợp TATC Mỹ đã cho rằng Tổng thống Nixon đã hành động trái Hiến
pháp khi quyết định sử dụng trái mục đích những khoản tiền mà Quốc hội đã
phân bổ để chi dùng cho việc ban hành những đạo luật đặc biệt. TATC Mỹ đã
ra quyết định trong vụ án “Nước Mỹ và Tổng thống Nixon” năm 1974, mặc
dù thời điểm đó 4 trong số 9 người do chính Nixon bổ nhiệm, TATC Mỹ vẫn
quyết định với đa số phiếu áp đảo buộc Nixon phải nộp các tài liệu có liên
quan tới vụ Watergate. Chính những quyết định thường châm ngòi cho những
sự tranh luận và những mối quan tâm sâu sắc từ những thiết chế khác trong hệ
thống chính trị và toàn xã hội, thậm chí còn dẫn tới việc Quốc hội có thể xem
xét, cách chức Tổng thống.
Đối với các cơ quan hành pháp, Tòa án cũng có thẩm quyền ban hành
các bản án, quyết định chống lại các cơ quan cụ thể của ngành hành pháp vi
phạm pháp luật.
26. 21
1.2. Quyền tƣ pháp trong các chính thể đại nghị
Ở các nhà nước theo chính thể đại nghị đều áp dụng nguyên tắc phân
quyền một cách mềm dẻo. Theo đó, dù phân lập với nhau nhưng các nhánh
quyền lực vẫn có quan hệ với nhau. Tính chất mềm dẻo của nguyên tắc phân
quyền thể hiện ở mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực là chế độ bất tín
nhiệm Chính phủ và sự lật đổ Quốc hội. Tuy nhiên, trong mối quan hệ của
quyền tư pháp với quyền lập pháp, quyền hành pháp thì ít được đề cập đến.
Trong các chính thể đại nghị, quyền tư pháp cũng độc lập nhưng sự phân
quyền không cứng rắn như trong chính thể cộng hòa tổng thống.
Nếu như trong chính thể cộng hòa tổng thống, Tòa án độc lập hành xử
quyền tư pháp, phán quyết của TATC là phán quyết cuối cùng thì trong chính
thể quân chủ đại nghị điều này lại không hẳn như vậy. Thí dụ như ở Anh,
quyền tư pháp không chỉ thuộc về Tòa án mà còn thuộc về Nghị viện. Thượng
viện là cấp xét xử cao nhất. Thượng viện là cấp thượng thẩm tối cao nhưng chỉ
phúc thẩm nếu có sự chấp thuận của Tòa hay Tòa thượng thẩm. Tuy nhiên,
không phải là toàn viện xét xử mà chỉ có các thẩm phán quý tộc xét xử thay
viện. Từ năm 1948, một Ủy ban phúc thẩm thuộc Thượng nghị viện được
thành lập để đảm nhiệm chức năng này [20, tr.145]. Do đó, Tòa án không có
toàn quyền tư pháp, do sự phân quyền ở chính thể quân chủ đại nghị này là
tương đối mềm dẻo.
Trong các chính thể cộng hòa đại nghị, Tòa án có quyền hủy bỏ một
đạo luật vi Hiến pháp. Các nước theo chính thể này thường tồn tại Tòa án
Hiến pháp hay một cơ quan tương tự với tư cách là cơ quan tư pháp chuyên
trách có thẩm quyền tài phán về hành vi lập pháp của Quốc hội, phán xét về
tính hợp hiến của các văn bản pháp luật mà Quốc hội ban hành. Sau chiến
tranh thế giới thứ I, nhiều nước Châu âu đã tổ chức Tòa án bảo hiến như: Tiệp
Khắc (theo Hiến pháp năm 1920); Áo (theo Hiến pháp năm 1920); Tây Ban
Nha (theo Hiến pháp năm 1931). Sau chiến tranh thế giới năm thứ II, có hai
27. 22
quốc gia đã tổ chức Tòa án bảo hiến là Tây Đức và Ý [4, tr.78.]. Hiện nay,
việc tổ chức Tòa án Hiến pháp phổ biến ở các nước Châu âu.
Khác với chính thể cộng hòa tổng thống, ở chính thể cộng hòa đại nghị,
nếu đạo luật được xác nhận là bất hợp hiến, Tòa án Hiến pháp tuyên bố hủy
bỏ, không còn giá trị pháp lý. Ở đây, công dân nào cũng có quyền đệ đơn lên
Tòa án Hiến pháp yêu cầu xem xét tính chất bất hợp hiến của một đạo luật
nào đó. Mục đích của đơn khởi tố là xin tiêu hủy đạo luật bất hợp hiến.
Tòa án Hiến pháp không có quyền kết tội Tổng thống, nhưng có quyền
xem xét về tính hợp hiến của việc buộc tội Tổng thống. Nó cũng có quyền
giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa lập pháp và hành pháp. Ngoài
ra, trong chính thể cộng hòa đại nghị, có một loại Tòa án chuyên trách khác
có thẩm quyền xét xử hành vi của các nhân viên Chính phủ là Tòa án hành
chính. Có thể thấy rằng, sự phân quyền giữa tư pháp và hành pháp trong chính
thể cộng hòa đại nghị là tương đối.
1.3. Quyền tƣ pháp trong chính thể cộng hòa lƣỡng tính
Chính thể Cộng hòa lưỡng tính là dạng chính thể có đặc trưng của cả
Cộng hòa đại nghị lẫn Cộng hòa Tổng thống. Trong những nước áp dụng
nguyên tắc này, bộ máy hành pháp gồm hai cơ quan, một là Tổng thống, hai
là Thủ tướng Chính phủ và nội các. Chính phủ không những chịu trách nhiệm
trước Nghị viện, mà còn cả Tổng thống- người đứng đầu Nhà nước cũng phải
chịu trách nhiệm trước cử tri, thông qua các cuộc bầu cử Tổng thống. Tư pháp
trong chính thể Cộng hòa lưỡng tính giống như chính thể Cộng hòa Tổng
thống và khác với chính thể cộng hòa đại nghị.
Ví dụ điển hình cho chính thể hỗn hợp này là Cộng hòa Pháp. Cơ quan
tư pháp của nước này không thể hủy bỏ đạo luật do cơ quan lập pháp ban
hành nhưng nó khác với chính thể Cộng hòa Tổng thống và giống chính thể
Cộng hòa đại nghị ở chỗ nó tồn tại một cơ quan bảo vệ Hiến pháp chuyên biệt
28. 23
là Hội đồng bảo hiến. Hội đồng bảo hiến không hoàn toàn như Tòa án hiến
pháp. Trong khoa học, người ta vẫn chưa thống nhất về bản chất của mô hình
này. Có ý kiến cho rằng, đó là một cơ quan “bán tư pháp” vì thủ tục tố tụng
của nó thiếu tính tranh tụng và công khai nhưng ở một số nghiên cứu lại đặt
nó cùng loại với các Tòa án hiến pháp. Các nhà khoa học khác không phân
biệt sự khác nhau giữa Hội đồng hiến pháp và Tòa án hiến pháp. Favureu cho
rằng, Hội đồng bảo hiến Pháp “không khác với những Tòa án hiến pháp về
thành phần, về thẩm quyền lần hoạt động của mình” [14, tr.27]. Mô hình Hội
đồng bảo hiến cho thấy nét đặc trưng trong mối quan hệ giữa tư pháp với lập
pháp và hành pháp của chính thể cộng hòa lưỡng tính.
1.4. Quyền tƣ pháp trong chính thể các nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa
Hệ thống xã hội chủ nghĩa là thể chế chính trị ở các nước có đảng
cộng sản đã hoặc đang giữ quyền lãnh đạo. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, thể
chế Đảng chính trị có thể khái quát với những đặc trưng sau: Chế độ “nhất
nguyên chính trị” là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chống lại giai cấp tư sản; Đảng Cộng
sản là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
Hiện nay, ở một số nước xã hội chủ nghĩa, tùy theo điều kiện “đặc thù”
của mình đã thực hiện chế độ hợp tác đa đảng, nhưng dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản và với chế độ “nhất nguyên chính trị” (như ở Trung Quốc với
điều kiện “đặc thù” của mình đã thực hiện chế độ hợp tác đa đảng, hiệp
thương chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và với chế
độ “nhất nguyên chính trị” - nhằm mục đích lắng nghe nhiều hơn những quan
điểm khác nhau, tiếp thu nhiều hơn sự giám sát của các đảng phái, giảm bớt
những thiếu sót trong quyết sách và chấp hành). Ở các nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa, thể chế chính trị
29. 24
được tổ chức theo mô hình Cộng hòa Xô viết (trước đây), Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa (hiện nay). Mô hình thể chế này, ở các nước khác nhau có tên gọi
khác nhau: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (Việt Nam), Cộng hòa dân chủ nhân
dân (Lào, Triều Tiên), Cộng hòa nhân dân (Trung Hoa), Cộng hòa (CuBa).
Đặc điểm nổi bật của chính thể các nhà nước xã hội chủ nghĩa là không
áp dụng nguyên tắc phân quyền mà thay vào đó là nguyên tắc thống nhất
quyền lực. Theo đó, tất cả quyền lực trong nước thuộc về nhân dân, quyền lực
nhà nước tập trung, thống nhất vào Quốc hội- cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đặc điểm này thể hiện trong
quan hệ giữa lập pháp và hành pháp đã được nói đến nhiều. Vấn đề được đề
cập đến ở đây là nguyên tắc thống nhất quyền lực của chính thể các nhà nước
xã hội chủ nghĩa trong quan hệ giữa tư pháp với lập pháp và hành pháp.
Quốc hội là cơ quan tối cao tập trung thống nhất quyền lực nhà nước
nên trong chính thể các nhà nước xã hội chủ nghĩa, Quốc hội có quyền thành
lập Chính phủ, bầu Chủ tịch nước, cơ quan Tư pháp, Hội đồng Quân sự Trung
ương; có quyền quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước như tuyên bố
chiến tranh hay hòa bình; có quyền giám sát tối cao việc thi hành pháp luật.
Quốc hội thành lập nên Tòa án và không có Tòa án tài phán về hành vi của
Quốc hội. Tuy nhiên thời gian gần đây, ở nước ta có những ý kiến đề nghị
thành lập Tòa án Hiến pháp ở Việt nam để thực hiện chức năng xem xét tính
hợp hiến của các đạo luật Quốc hội [7]. Tòa án tài phán về hành vi của Quốc
hội dù là theo cách Tòa án thường ở chính thể cộng hòa tổng thống hay theo
cách Tòa án Hiến pháp trong chính thể cộng hòa đại nghị thì cũng chỉ tồn tại
trong các chính thể áp dụng nguyên tắc phân quyền. Theo đó cấu trúc quyền
lực là sự ngang bằng của các nhánh quyền lực. Tòa án ở một vị thế ngang bằng
với Quốc hội thì mới có thể tài phán về hành vi của Quốc hội.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước được cấu trúc theo hình chóp mà đỉnh
30. 25
trên cùng là Quốc hội. Tòa án giữ một vị thế thấp hơn Quốc hội nên không
thể tài phán về hành vi của Quốc hội. Theo nguyên tắc thống nhất quyền lực,
Quốc hội là đại diện tối cao của chủ quyền nhân dân nên không thể có một cơ
quan nào có thể đứng trên Quốc hội để phân xử hành vi của Quốc hội.
Xuất phát từ nguyên tắc thống nhất quyền lực, Nguyên thủ quốc gia và
Thủ tướng Chính phủ chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội chứ không phải
trước Tòa án. Tòa án không có quyền xét xử hành vi chính trị của Nguyên thủ
quốc gia và Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, Tòa án có thể xét xử hành vi,
quyết định của một số cơ quan, quan chức của Chính phủ.
Vì vậy, qua những phân tích trên có thể thấy rằng các quy định hiến
pháp của một số nước về quyền tư pháp là một thứ quyền tồn tại gắn liền với
quyền lực nhà nước. Quyền tư pháp là biểu hiện sức mạnh của Nhà nước. Nhà
nước nào cũng có quyền lực và có quyền tư pháp. Không phải chỉ đến khi phân
quyền rồi mới có quyền tư pháp. Trong lịch sử, ba quyền: Lập pháp, hành pháp
và tư pháp có lúc thì tập trung, có lúc thì phân ra theo những cách thức tổ chức
quyền lực nhà nước khác nhau. Chỉ đến khi có ý tưởng phân quyền thì tính độc
lập của quyền tư pháp mới được đề cao hơn. Như vậy, quyền tư pháp tồn tại
khách quan, tất yếu trong mọi Nhà nước và trong mọi thể chế chính trị của Nhà
nước, trong Nhà nước pháp quyền hay Nhà nước không pháp quyền. Trong các
Nhà nước tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tam quyền phân lập, quyền tư
pháp luôn được coi là quyền lực thứ ba bên cạnh quyền lập pháp và quyền hành
pháp. Tuy nhiên, các cơ quan thực thi quyền tư pháp không được tổ chức và
trao quyền đến mức tuyệt đối, tạo ra địa hạt quyền lực so với hai quyền còn lại
như sự lầm tưởng của không ít người. Sự phân chia rành mạch về chức năng và
nhân sự cùng với cơ chế kiểm soát, đối trọng giữa các quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp có thể ngăn chặn, hạn chế được ở mức độ nhất
định sự lạm quyền của giai cấp cầm quyền cũng như của các tổ chức, cá nhân
31. 26
được trao quyền đại diện thực hiện quyền lực nhà nước và qua đó đảm bảo
chính trị cho nền dân chủ. Tuy nhiên, trên thực tế phân quyền ở một số quốc
gia, trong những giai đoạn và hoàn cảnh nhất định cho thấy, quyền tư pháp vẫn
chịu sự ảnh hưởng và chi phối của quyền hành pháp và quyền lập pháp. Trong
các nhà nước do giai cấp tư sản nắm quyền, sự tham gia của người dân trong
việc kiểm soát quyền lực nhà nước rất hạn chế, bởi người dân không có đủ điều
kiện và cơ hội tham gia vào chính quyền. Lợi ích của người dân lao động được
đặt sau lợi ích của giai cấp và cá nhân người cầm quyền, và chỉ được chú ý
trong mối quan hệ hài hòa với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác và ở mức
độ duy trì được sự ổn định của xã hội.
Ở các nước tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân quyền,
quyền tư pháp chỉ được thực hiện bởi một cơ quan là hệ thống tòa án. Tuy
nhiên, mức độ phân quyền, trong đó có quyền tư pháp, ở các nước này không
hoàn toàn giống nhau. Tại những nước sử dụng thông luật, án lệ được tạo ra
từ các diễn giải luật của toàn án. Trong khi đó, ở các quốc gia có hệ thống
pháp luật theo mô hình dân luật, tòa án có quyền diễn giải luật nhưng không
được "tạo ra luật". Hệ thống cơ quan tư pháp ở nhiều nước được tổ chức theo
cấu trúc và thẩm quyền khác nhau. Chẳng hạn, hiến pháp của Áo tuy mang
dấu phân tách quyền lực nhưng các bang không có thẩm quyền trong lĩnh vực
tư pháp. Trong các Nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp được thực hiện bởi
các thẩm phán có thẩm quyền độc lập. Sự độc lập của thẩm phán và quyền
khởi kiện của công dân đối với các quyết định của quyền lập pháp và quyền
hành pháp trước hết đảm bảo tính pháp quyền của Nhà nước. Không có quyền
khởi kiện trước các tòa án độc lập thì không có Nhà nước pháp quyền.
Quyền tư pháp là một cành quyền lực nhà nước không chỉ mang tính
chất tố tụng mà còn mang yếu tố chính trị. Ở các chính thể khác nhau có sự
khác nhau trong quan hệ giữa quyền tư pháp với quyền lập pháp và hành
32. 27
pháp. Quyền tư pháp cần phải được xem xét đến trong việc xác định mô hình
chính thể. Tuy nhiên dù cho Nhà nước có thể được tổ chức theo kiểu này hay
kiểu kia, theo chế độ nào đi nữa thì tư pháp luôn luôn phải độc lập. Tòa án
phải độc lập trở thành một nguyên tắc quan trọng được mọi hiến pháp của các
nhà nước dân chủ quy định. Tòa án có hai nhiệm vụ gắn kết với nhau là giải
thích hay làm dễ hiểu luật và áp dụng pháp luật cho các tranh chấp pháp lý cụ
thể. Các tranh chấp này bao gồm: tranh chấp giữa công dân với công dân;
tranh chấp, kiện tụng, phạm pháp trong nhân dân mà còn là nơi thực hiện
quyền tư pháp “bảo vệ những gì đúng đắn, công bằng hay hợp pháp” ngay cả
đối với các ngành quyền lực nhà nước.
33. 28
Chƣơng 2
QUYỀN TƢ PHÁP THEO QUY ĐỊNH
CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013
2.1. Đặc điểm của quyền tƣ pháp
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 49 - NQ/TW về Chiến lược Cải cách
tư pháp đến năm 2020 với nhiều nội dung khác nhau, trong đó xác định Tòa
án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm, xã hội hóa mạnh mẽ
hoạt động bổ trợ tư pháp. Mục tiêu Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
mà Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra là:
Xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân
dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả
và có hiệu lực cao.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Nghị quyết 49 - NQ/TW là
phải tổ chức lại hệ thống tòa án đó là:
Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở
một hoặc một số đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực
được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa
án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ
thẩm một số vụ án; tòa án thượng thẩm được tổ chức theo khu vực
có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm
vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
34. 29
Tuy nhiên Nghị quyết cũng nhấn mạnh:
Việc thành lập Tòa án chuyên trách phải căn cứ vào thực tế
xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án
nhân dân theo hướng tinh gọn, với đội ngũ Thẩm phán là những
chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.
Quá trình hội nhập quốc tế cũng tạo điều kiện mở rộng quan hệ song
phương, đa phương, và cơ hội tiếp cận vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý.
Quá trình này đặt ra yêu cầu khắt khe đối với các cơ quan nhà nước trong xu
thế hợp tác và cạnh tranh. Nếu không có một hệ thống pháp luật minh bạch,
đầy đủ và hệ thống tư pháp mạnh, giải quyết các tranh chấp nhanh chóng,
hiệu quả, công lý không được bảo đảm thì việc kêu gọi đầu tư vào Việt Nam
sẽ rất khó khăn, Việt Nam sẽ mất cơ hội để phát triển nhanh.
Việc hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp
được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo; ban hành nhiều văn bản
quy định rõ cơ chế lãnh đạo về chính trị, tổ chức và công tác cán bộ. Tích
cực thực hiện công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát
và kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên. Vai trò, vị thế của các cơ quan
tư pháp được khẳng định, đặc biệt toà án nhân dân được xác định là cơ quan
thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hệ
thống cơ quan tham mưu về công tác nội chính được tái lập và kiện toàn từ
Trung ương đến các tỉnh uỷ, thành ủy. Cải cách tư pháp đòi hỏi cần xác định
được cái gì là trọng tâm, cái gì cần được ưu tiên giải quyết trước một cách
đồng bộ. Trên cơ sở kết quả của một quá trình nghiên cứu công phu, chúng
ta có thể đi đến sự nhận thức đầy đủ rằng trung tâm của hệ thống tư pháp là
Tòa án và trọng tâm của cải cách tư pháp là cải cách hoạt động xét xử. Và
cũng chỉ sau khi chúng ta khẳng định được nội hàm của những chức năng tố
tụng chính yếu như chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét
35. 30
xử thì chúng ta mới đề xuất và đưa vào áp dụng các yếu tố của tố tụng tranh
tụng và thực hiện các yêu cầu hợp lý của nguyên tắc tranh tụng. Những bước
đổi mới và cải cách như vậy không thể sớm hơn nhận thức chung và theo đó
là sự nhất trí cùng quyết tâm cao.
Trong Hiến pháp năm 2013, quy định về quyền tư pháp có những sửa
đổi, bổ sung quan trọng và đây là bước tiến dài trong tiến trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở nước ta:
Thứ nhất, xác định rõ quyền lực tư pháp do ai thực hiện. Hiến pháp
hiện hành có đề cập đến ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền
tư pháp và có quy định về việc ai thực hiện quyền lập pháp và quyền hành
pháp. Tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp
năm 2013 khẳng định Tòa án nhân dân “thực hiện quyền tư pháp”(khoản 1,
Điều 102). Các quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của tòa
án và viện kiểm sát được gộp ở một chương nhưng không có nghĩa tòa án và
viện kiểm sát thực hiện quyền tư pháp.
Việc khẳng định rõ trong Hiến pháp lần này rằng quyền tư pháp được
thực hiện bởi tòa án là hết sức quan trọng và có như vậy mới có thể minh định
được thẩm quyền tư pháp và cơ chế độc lập tương đối của quyền tư pháp
trong phạm vi quyền lực nhà nước là được phân công trong chỉnh thể quyền
lực thống nhất và mới có thể thực hiện được việc kiểm soát các quyền lực
khác bởi quyền lực tư pháp.
Thứ hai, nền tư pháp trong những năm vừa qua chưa khẳng định được
tầm quan trọng, vị trí và chức năng của mình trong nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong một nền pháp quyền thì
vị trí, vai trò của tư pháp rất quan trọng để bảo đảm việc duy trì sự thượng tôn
của Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người. Hiến pháp hiện hành
chưa thể hiện được tư tưởng chủ đạo này. Để thực hiện được sứ mệnh đó thì
hoạt động xét xử phải được độc lập và trong sạch.
36. 31
Không thể phủ nhận rằng việc xét xử hiện nay vẫn chưa được độc lập
nhìn từ nhiều góc độ, với các cơ sở pháp lý, kể cả Hiến pháp và các cơ chế
hiện hành. Sự can thiệp từ một số yếu tố bên ngoài đối với một số vụ án cụ
thể, mối quan hệ phụ thuộc của tòa án đối với chính quyền địa phương, sự lệ
thuộc của tòa án cấp dưới đối với tòa án cấp trên, của thẩm phán đối với lãnh
đạo của tòa án cùng cấp và tòa án cấp trên, chế độ bổ nhiệm và tuyển chọn
thẩm phán hiện nay, nhiệm kỳ thẩm phán..., là những vấn đề làm cho sự độc
lập xét xử chưa được bảo đảm. Hiện tượng tham nhũng trong ngành tư pháp ở
mức đáng lo ngại đã được chỉ rõ trong những văn kiện của Đảng gần đây.
Thiếu sự độc lập và hiện tượng tham nhũng khá phổ biến trong công
tác xét xử đặt ra hai vấn đề cần giải quyết: Làm thế nào để việc xét xử được
bảo đảm độc lập và đồng thời cơ chế giám sát, kiểm soát hoạt động xét xử cần
phải thay đổi ra sao để cho nền tư pháp được trong sạch hơn?
Rõ ràng có nhiều vấn đề thuộc về cơ chế, về phạm vi điều chỉnh của
pháp luật nhưng phải thừa nhận còn thiếu vắng một số cơ sở hiến định nhằm
nâng cao vị thế các cơ quan tư pháp, nhằm bảo đảm độc lập xét xử (ví dụ như
việc bổ nhiệm thẩm phán tòa án các cấp, nhiệm kỳ thẩm phán), để bảo đảm sự
kiểm soát của các quyền lực khác trong việc bổ nhiệm thẩm phán (ví dụ như
vai trò của Quốc hội, của Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa
án Nhân dân tối cao, vai trò của hội đồng nhân dân địa phương trong việc bổ
nhiệm thẩm phán tòa án nhân dân địa phương). Việc kiểm soát và giám sát của
các quyền lực khác với hoạt động tư pháp thông qua việc xem xét tín nhiệm,
bãi nhiệm thẩm phán thay vì cơ chế giám sát cụ thể đối với các phán quyết của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao như theo quy định của tố tụng
hành chính và tố tụng dân sự hiện nay - mà về bản chất thì điều đó vô hình
trung đã “lấn sân” vào quyền tư pháp đã được trao cho ngành tòa án.
Thứ ba, về vai trò của Viện Kiểm sát liên quan đến việc thực thi quyền
37. 32
tư pháp. Theo Hiến pháp hiện hành thì Viện Kiểm sát có hai chức năng cơ
bản: thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Liệu chức năng
kiểm soát của Viện Kiểm sát có cần thiết hay không và có làm ảnh hưởng đến
nguyên tắc độc lập xét xử hay không?
Việc kiểm soát hoạt động tư pháp của viện kiểm sát trong các vụ việc
phi hình sự là cần thiết trong bối cảnh hiện nay khi người dân chưa có đủ điều
kiện để tiếp cận dịch vụ pháp lý, nạn tham nhũng vẫn còn khá phổ biến trong
hoạt động xét xử và cũng nhằm thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực tư
pháp thông qua việc giải quyết các vụ án cụ thể. Cùng với việc quy định về
nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước [6, Điều 2], Tòa án nhân dân thực
hiện quyền tư pháp [6, Điều 102], thì việc Hiến pháp tiếp tục quy định Viện
Kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp tức là đã
trao cho Viện kiểm sát nhân dân quyền năng pháp lý quan trọng trong kiểm
soát việc thực hiện quyền lực tư pháp, bảo đảm cho hoạt động tư pháp của các
cơ quan tư pháp trong đó có Tòa án nhân dân - trung tâm của việc thực hiện
quyền lực tư pháp được tiến hành nghiêm chỉnh, kịp thời, theo đúng quy định
của pháp luật, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Tuy nhiên, đây mới là
những quy định mang tính nguyên tắc về chức năng của Viện Kiểm sát nhân
dân. Thực tiễn từ khi thi hành Hiến pháp năm 2013 đến nay vẫn chưa đưa ra
được khái niệm, cũng như xác định được nội dung, phạm vi của hai chức
năng “thực hành quyền công tố” và “kiểm sát hoạt động tư pháp” của thống
nhất trong sự phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện
quyền lực nhà nước.
2.2. Nội dung của quyền tƣ pháp
So với các nước phát triển, ở các nước chậm phát triển trong đó có cả
38. 33
các nước ở phương Đông, người dân ít được hưởng những thành quả của một
nền tư pháp độc lập bởi lẽ nó chỉ được thực thi khi có một nền dân chủ tư sản,
mà ở đó có một sự phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở
phương Đông mới bắt đầu cho sự phát triển của một nền dân chỉ này từ một
xã hội phong kiến tập trung. Ở Việt Nam chúng ta cũng không khác hơn, chưa
thực sự có một nền tư pháp hoàn thiện. Nhìn lại thực trạng nền tư pháp của
Việt Nam mặc dù có những thành công rất đáng kể đóng góp không nhỏ trong
công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của người dân. Nhưng trong lĩnh vực này vẫn còn tồn tại những
khó khăn nhất định cho công cuộc đổi mới và xây dựng nhà nước pháp quyền
hiện nay. So với các nước phát triển, ở các nước chậm phát triển trong đó có
cả các nước ở phương Đông, người dân ít được hưởng những thành quả của
một nền tư pháp độc lập bởi lẽ nó chỉ được thực thi khi có một nền dân chủ tư
sản, mà ở đó có một sự phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhìn lại thực trạng nền tư pháp của Việt Nam mặc dù có những thành công
rất đáng kể đóng góp không nhỏ trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Nhưng
trong lĩnh vực này vẫn còn tồn tại nhưng khó khăn nhất định cho công cuộc
đổi mới và xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Điểm rất mừng là Đảng
và Nhà nước đang tiến hành công cuộc cải cách tư pháp. Theo các quan điểm
khác nhau của các nhà nghiên cứu khoa học thì hoạt động tư pháp của Việt
Nam không hoàn toàn giống như của các nhà nước tư bản chỉ bao gồm có các
cơ quan xét xử, mà còn có cả các cơ quan điều tra, công tố, và những cơ quan
hoạt động bảo trợ tư pháp khác như công chứng, luật sư, pháp y… Khái niệm
tư pháp của Việt Nam được sử dụng như khái niệm tư pháp của Trung quốc,
từ tiếng hán cổ. Điều này chứng tỏ sự phân quyền của nhà nước chúng ta
không được chuẩn tắc theo các quy định của phương Tây, không có sự phân
39. 34
quyền rạch ròi giữa hành pháp và tư pháp. Quyền hành pháp của chúng ta
không bao gồm quyền công tố buộc tội của Viện Kiểm sát. Chính phủ - hành
pháp trước hết phải được hiểu ở tầm hẹp nhất là phải giữ gìn trị an cho người
dân, phòng và chống tội phạm. Muốn thực hiện tốt quyền này mà không có
quyền công tố buộc tội thì không thể nào đảm đương được. Chính phủ với
chức năng hành pháp tức là quản lý rất tốt mọi mặt, trong đó có cả phát triển
kinh tế, mà tội phạm đầy rẫy thì cũng không thể nào đứng vững được.
Nguyên nhân sâu xa của những bất cập, yếu kém của hệ thống pháp luật và
thực thi pháp luật trong đời sống là vì hệ thống pháp luật của chúng ta còn
thiếu tính khả thi và vì thói quen dùng pháp luật để bảo vệ quyền lợi, lợi ích
hợp pháp cho bản thân chưa trở thành nếp sống, nếp nghĩ của nhiều người
trong xã hội Việt Nam hiện nay. Người dân chưa thực sự coi Tòa án là nơi có
thể tìm đến để được bảo vệ vì sự e ngại tốn kém thời gian, tiền bạc thì họ vẫn
còn tâm lý thiếu tin cậy ở hệ thống tòa án. Để nâng cao ý thức pháp luật của
người dân thì trước hết pháp luật phải xuất phát từ đời sống của người dân,
thể hiện ý chi và nguyện vọng của họ.
Trong một nhà nước dân chủ hiện đại, chỉ có Tòa án mới có quyền
nhân danh Nhà nước phán xét một người là có tội hay không có tội. Không
một cơ quan, một tổ chức hay một cá nhân bào có quyền kết tội một công dân,
ngoại trừ Tòa án. Nhà nước cũng không cho phép công dân tự xử mình. Một
nguyên tắc được thừa nhận chung của nền văn minh pháp lý nhân loại là:
không có ai bị coi là có tội cũng như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tòa án có quyền xét xử mọi hành
vi phạm pháp và mọi tranh chấp phát sinh trong xã hội từ những vụ án hình
sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động kinh tế, hành chính cho đến các
lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. Đặc trưng này không giống với
hoạt động phán quyết, hòa giải của các cơ quan, tổ chức xã hội khác. Nó
40. 35
không phải sự phán quyết của cấp trên đối với cấp dưới trong quản lý hành
chính và càng không phải là hoạt động trung gian hòa giải và dàn xếp là đặc
trưng trong lĩnh vực quan hệ hợp đồng kinh tế. Hoạt động xét xử của Tòa án
là hoạt động nhân danh nhà nước áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các
tranh chấp, xét xử các vi phạm pháp luật cụ thể. Hoạt động xét xử có thể dẫn
đến chỗ công dân, pháp nhân, các tổ chức được hưởng các quyền, lợi ích hoặc
gánh chịu các nghĩa vụ nhất định cho nên hoạt động xét xử của Tòa án có tính
tổ chức rất chặt chẽ. Tòa án khi xét xử một vụ việc cụ thể phải tuân theo
những trình tự, thủ tục luật định một cách nghiêm ngặt, không được tùy tiện
bỏ qua một thủ tục nào. Chính vì vậy phán quyết của Tòa án có hiệu lực bắt
buộc, bản án và quy định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng. Mọi chủ thể liên
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành phán quyết của Tòa án. Không một cơ
quan, tổ chức hay cá nhân nào có quyền sửa phán quyết đó.
Với việc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp trong Luật Tổ chức
TAND năm 2014 là rất quan trọng. Với tư cách là một đạo luật về tổ chức và
hoạt động của một cơ quan trong bộ máy Nhà nước, Luật này sẽ bám sát các
quy định của Hiến pháp về tổ chức và thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó,
cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền tư pháp trong thực
tiễn xét xử của Tòa án.
Trước hết, Điều 102 Hiến pháp 2013 khẳng định: “TAND là cơ quan
xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” chứ không
chỉ là cơ quan xét xử như Hiến pháp 1992 quy định. TAND thực hiện quyền
tư pháp hoàn toàn phù hợp với Điều 2 về nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà
nước khi mà quyền tư pháp được thừa nhận: “Quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tuy không thừa
41. 36
nhận nguyên tắc tam quyền phân lập nhưng trong Hiến pháp nước ta, quyền
tư pháp vẫn đảm bảo độc lập và kiểm soát quyền khác trong cơ chế quyền lực
thống nhất ở Quốc hội.
Luật Tổ chức TAND năm 2014 có nhiệm vụ quan trọng là cụ thể hóa
nội dung của quyền tư pháp quy định trong Hiến pháp. Để làm được điều đó,
trước hết cần dựa trên nhận thức thống nhất về nội dung của quyền này trong
Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Quyền tư pháp trước hết là quyền
xét xử nhưng với tư cách là một loại quyền lực Nhà nước. Quyền tư pháp còn
bao hàm nội dung như quyền giải thích pháp luật, quyền kiểm soát các nhánh
quyền lực khác theo tinh thần kiểm soát quyền lực quy định tại Điều 2 Hiến
pháp. Chính vì vậy, Luật Tổ chức TAND năm 2014 bổ sung nhiệm vụ của
Tòa án là: Thông qua hoạt động xét xử, phát hiện và kiến nghị với các cơ
quan có thẩm quyền xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội... Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp.
Về mặt thực tiễn, để đảm bảo cho Tòa án, với tư cách là cơ quan thực
hiện quyền tư pháp đồng thời kiểm soát quyền lực, cần củng cố tổ chức và
hoạt động của hệ thống Tòa án hành chính. Thiết chế Tòa án hành chính đã
hiện diện ở nước ta và được coi là biểu hiện sinh động nhất của việc Tòa án
kiểm soát các cơ quan hành pháp. Hoạt động của Tòa án hành chính cần được
mở rộng thẩm quyền và nâng cao hiệu quả hơn nữa để đáp ứng nhu cầu kiểm
soát quyền lực.
Sửa đổi quan trọng trong Chương về Tòa án là việc Hiến pháp năm
2013 khẳng định: TAND có nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân” sau đó mới quy định tiếp “bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân”. Đây cũng là bước đột phá trong tư duy về pháp luật, tư pháp và Nhà
42. 37
nước pháp quyền. Nhằm làm rõ hơn, chuẩn xác hơn và phong phú hơn nội
dung về quyền và tự do trước đây đã được đề cập nhưng chưa rõ, chưa chính
xác, chưa đầy đủ so với các chuẩn mực pháp lý quốc tế và thực tiễn ở nước ta.
Theo đó lần đầu tiên ở nước ta đã hiến định đầy đủ nội dung của Nguyên tắc
suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội hình sự [13, tr.6]. Công lý là lẽ phải,
sự công bằng được xã hội thừa nhận. Pháp luật đồng nghĩa với công lý khi nó
chuyển tải được những giá trị của công lý. Tuy nhiên, điều đó luôn là mơ ước
bởi nhiều khi “quá sức” đối với pháp luật, nhất là hệ thống pháp luật đang
trong quá trình hoàn thiện. Chính vì vậy, việc khẳng định Tòa án trước hết có
nhiệm vụ bảo vệ công lý là hoàn toàn phù hợp.
Từ việc khẳng định Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý sẽ là cơ sở để
củng cố chế định về Hội thẩm nhân dân, áp dụng án lệ, tập quán trong quá
trình xét xử và áp dụng pháp luật đúng theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-
TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. Trong Nghị quyết này có chỉ đạo
việc xây dựng án lệ như là sự bổ sung cần thiết cho khoảng trống của pháp
luật và đảm bảo công lý. Chính vì vậy, Luật Tổ chức TAND 2014 đã cho thấy
nhiệm vụ của TANDTC phù hợp với tinh thần của Hiến pháp, phù hợp với
việc khẳng định Tòa án thực hiện quyền tư pháp, phù hợp với quá trình hội
nhập quốc tế mọi mặt và đảm bảo chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp
Nói đến quyền tư pháp là nói đến sự độc lập như một yếu tố thuộc bản
chất của nó. Luật Tổ chức TAND năm 2014 đã thể hiện được một bước tiến
quan trọng nhằm đảm bảo sự độc lập của Tòa án. Sự độc lập của Tòa án có
thể xét dưới nhiều góc độ, trong đó độc lập trong việc giải thích pháp luật là
một nội dung quan trọng. Nói cách khác, phán quyết của Tòa án không thể
độc lập nếu Tòa án không được giải thích pháp luật. Tuy nhiên, việc giao Tòa
án giải thích pháp luật là vấn đề quan trọng, cần tiếp tục nghiên cứu.
Cuối cùng, điểm nổi bật trong Hiến pháp lần này liên quan đến quyền
43. 38
tư pháp, đó là “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử ” đã được hiến định. Tìm
ra chân lý trong tố tụng có nhiều con đường và cách thức khác nhau. Tố tụng
tranh tụng là mô hình được nhiều quốc gia ưa thích. Việc quy định nguyên tắc
tranh tụng trong Hiến pháp là sự phù hợp rất logic với việc thừa nhận sự tồn
tại của quyền tư pháp và giao cho Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Bởi lẽ, đặc
thù của tố tụng tranh tụng là sự phân định rạch ròi ba chức năng buộc tội - gỡ
tội và xét xử, mỗi chức năng đó do một chủ thể đảm nhiệm.
2.3. Một số hạn chế trong các quy định của Hiến pháp năm 2013 về
quyền tƣ pháp
Về cơ bản Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa những nội dung hợp lý, phù
hợp của Hiến pháp năm 1992 về quyền tư pháp đồng thời cũng có những sửa
đổi, bổ sung quan trọng đáp ứng yêu cầu Cải cách tư pháp, xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên việc thực hiện quyền tư pháp
trong Hiến pháp năm 2013 cũng không tránh khỏi một số thách thức, trở ngại
do nội dung và phạm vi quyền tư pháp chưa được bổ sung, hoàn thiện trên
một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, cần quy định Quốc hội có thẩm quyền bổ nhiệm, lấy phiếu
tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm và bãi nhiệm, miễn nhiệm các thành viên Hội
đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao - cơ quan cao nhất thực hiện quyền
tư pháp. Đối với thẩm phán tòa án địa phương thì cần quy định hội đồng nhân
dân có thẩm quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm để đề nghị miễn
nhiệm thẩm phán tòa án nhân dân địa phương.
Quy định nêu trên nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân thông qua cơ
quan dân cử trong việc giám sát, kiểm soát quyền tư pháp, đồng thời cũng
nâng cao hơn vị thế Quốc hội.
Đây cũng là một thiết chế của con người vì thế không phải bao giờ
cũng đúng, nên cần phải đề phòng xảy ra những khả năng Quốc hội lạm dụng
44. 39
quyền lập pháp của mình bằng cách dành cho hành pháp quyền ưu tiên cao
hơn các quy định của Hiến pháp, vì vậy quyền lập pháp vẫn phải bị ràng buộc
bởi những giá trị cơ bản của trật tự hiến pháp. Trong một cộng đồng dưới chế
độ pháp quyền, việc tuân thủ các giá trị này được giám sát bởi Tòa án Hiến
pháp là tòa án, đại diện cho cốt lõi sâu xa nhất của bất kỳ thể chế nhà nước
nào theo pháp quyền. Sự hiện diện của Tòa án như vậy cho thấy rằng thẩm
quyền quyết định của những người ra quyết định chính trị phải tuân thủ quy
định pháp lý đã được định ra từ trước của cộng đồng. Nhưng hiện nay thẩm
quyền xem xét và quyết định các hành vi vi phạm hiến pháp được Hiến pháp
hiện hành giao cho tất cả các cơ quan nhà nước từ địa phương đến trung
ương, từ công dân đến Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất
của quốc gia. Quy định này chứa đựng nhiều điều bất hợp lý. Theo kinh
nghiệm của thế giới tốt nhất giao cho Tòa án là phù hợp. Mặc dù Tòa án Hiến
pháp không chịu sự kiểm soát chính trị của các thiết chế khác, song tòa án này
không có nghĩa là một cơ cấu mạnh. Tòa án Hiến pháp không có công cụ để
cưỡng chế thực hiện phán quyết của mình. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào sự tôn
trọng đối với phán quyết của nó.
Theo pháp luật hiện hành Tòa án hành chính của Việt Nam không có
thẩm quyền xét xử các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quản lý
Nhà nước. Và tòa án lại càng không có quyền xét xử các văn bản luật của
Quốc hội. Đây cũng là những vấn đề cần đặt ra trong tương lai của tư pháp
Việt Nam. Muốn có những biểu hiện của nhà nước pháp quyền thì phải mở
rộng phạm vi xét xử của các cơ quan tòa án.
- Thứ hai, cần quy định rõ Chủ tịch nước có thẩm quyền bổ nhiệm,
miễn nhiệm và bãi nhiệm thẩm phán của tất cả tòa án các cấp chứ không nên
để Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao bổ nhiệm thẩm phán tòa án địa phương.
Quy định nêu trên nhằm bảo đảm Chủ tịch nước với tư cách người
45. 40
đứng đầu Nhà nước trao quyền tư pháp cho thẩm phán - những người sẽ nhân
danh Nhà nước thực thi công lý. Quy định này cũng bảo đảm việc nâng cao vị
thế của thẩm phán, bảo đảm việc kiểm soát quyền lực của tư pháp bởi hành
pháp và tránh sự khép kín trong công tác bổ nhiệm thẩm phán tòa án địa
phương bởi Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao - điều gây quan ngại cho sự
độc lập xét xử của tòa án địa phương.
- Thứ ba, không tiếp tục giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội chức năng
giải thích pháp luật mà nên giao cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân
tối cao chức năng giải thích pháp luật.
Quy định nêu trên nhằm bảo đảm tính thống nhất áp dụng pháp luật
trong công tác xét xử, nâng cao hơn tính minh bạch và giải trình trong hoạt
động xét xử. Xét về bản chất, việc xét xử không thể tránh khỏi việc giải thích
pháp luật khi áp dụng pháp luật. Trên thực tế, các thẩm phán khi xét xử đều
phải “giải thích” pháp luật nhưng không thể hiện việc “giải thích” đó trong
phán quyết của mình. Điều đó dẫn đến việc áp dụng các quy định của pháp
luật bởi thẩm phán mang tính “cơ học” và thiếu tính nhất quán và minh bạch.
Hơn nữa, việc giải thích pháp luật cần phải gắn kết vào từng trường hợp cụ
thể chứ không thể mang tính giải thích chung như thực tế từ trước đến nay do
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện.
- Thứ tư, Hiến pháp hiện hành có đề cao hơn việc bảo vệ quyền con
người nhưng vẫn còn thiếu vắng cơ chế bảo vệ quyền con người thông qua
quyền lực tư pháp. Cần quy định rõ người bị điều tra, bị tạm giam, bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có quyền có luật sư bào chữa trong Chương về Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Quy định nêu trên nhằm bảo đảm các quyền cơ bản của con người liên
quan đến tự do và sinh mệnh phải được bảo đảm thông qua có sự bảo vệ bởi
luật sư - những người được đào tạo về chuyên môn pháp lý, kỹ năng hành