SlideShare a Scribd company logo
1 of 81
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VƯƠNG TOÀN THẮNG
QUYỀN THAM GIA CỦA CÁ NHÂN TRONG XÂY DỰNG
CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT CỦA NƯỚC TA HIỆN HAY
Chuyên ngành: Quyền con người
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
VƯỜNG TOÀN THẮNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ QUYỀN THAM GIA CỦA CÁ NHÂN
TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN
BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT .................................................................. 9
1.1. Khái niệm về quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách
pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật .......................................................... 9
1.2. Vai trò của quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy
phạm pháp luật .................................................................................................... 30
1.3. Nội dung và đặc trưng quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật,
văn bản quy phạm pháp luật................................................................................ 35
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA XÂY
DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM ............................................................................ 40
2.1. Ghi nhận về mặt pháp lý và những kết quả đã đặt được trong việc bảo
đảm quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp
luật tại Việt Nam ................................................................................................. 40
2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân....................................................... 48
Chương 3: TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA XÂY
DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM ............................................................................ 63
3.1. Các định hướng tăng cường bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính
sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật ...................................................... 63
3.2. Các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường bảo đảm quyền tham gia xây dựng
chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật............................................. 63
KẾT LUẬN........................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 72
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CSPL: Chính sách pháp luật
HĐND: Hội đồng nhân dân
ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
QPPL: Quy phạm pháp luật
UBND: Ủy ban nhân dân
UDHR: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong một xã hội dân chủ, người dân là chủ thể của quyền lực nhà
nước, có thể thực hiện quyền của mình thông qua các con đường trực tiếp
hoặc gián tiếp. Quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật (CSPL), văn
bản quy phạm pháp luật (QPPL) là biểu hiện cụ thể của nhóm quyền được
tham gia vào đời sống chính trị (the right participation in political life). Quyền
này đầu tiên được ghi nhận tại Điều 21 Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người năm 1948 (UDHR - Universal Declaration of Human Right), theo đó
“mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua các đại diện mà họ được tự do lựa chọn...”. Tiếp
đến Điều 25 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966
(ICCPR- International Covenant on Civil and Polotical Right) tái khẳng định
và cụ thể hóa thêm một bước Điều 21 UDHR, nêu rõ nguyên tắc mọi công
dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào... và không có bất kỳ sự hạn chế bất
hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: “tham gia điều hành các công việc xã
hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa
chọn...”. Điều này khẳng định nền tảng của việc quản lý nhà nước là phải trên
cơ sở đồng thuận của nhân dân, cho dù theo thể chế chính trị nào thì các quốc
gia thành viên cũng phải thông qua những biện pháp pháp lý và biện pháp cần
thiết khác để bảo đảm cho mọi công dân đều có cơ hội được hưởng các quyền
này [10, tr. 191, 192].
Trong mối quan hệ giữa dân chủ với nhân quyền - quyền tham gia của
người dân vào công việc của nhà nước để thực hiện dân chủ thì đây là một giá
trị cao cả - mục đích chung mọi xã hội. Việc thực hiện nhân quyền trước hết
phải do nhà nước, là trách nhiệm của nhà nước, là nội dung, mục đích của
2
việc thực hiện quyền lực nhà nước. Khi nói đến nhân quyền, thì phải nói đến
nhà nước với tư cách là một trong những chủ thể quan trọng nhất trong xã hội,
có trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền con người và cũng là chủ thể có khả
năng cao nhất vi phạm nhân quyền và để lại hậu quả lớn nhất. Trong xã hội
hiện đại khi bàn đến việc bảo đảm và thực hiện quyền con người bằng nhà
nước phải đề cập đến dân chủ và pháp luật. Thực tế cũng như vậy, ở nơi nào
quyền con người được bảo vệ và phát triển, con người sẽ ý thức và thực hiện
quyền tham gia vào công việc của nhà nước, thực hiện quyền dân chủ. Tóm
lại, trong mối quan hệ này luôn có sự tương tác hai chiều, bảo đảm thực hiện
nhân quyền thì có thể thực hiện phát huy dân chủ và ngược lại; thậm chí, nếu
tiếp cận dân chủ như một quyền, khó có thể tách biệt được giữa quyền con
người với dân chủ [47, tr. 226, 227].
Ở Việt Nam, nhà nước luôn tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý
nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý
kiến, kiến nghị của công dân. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của
công dân thể hiện tính trực tiếp của quyền lực nhân dân trong đời sống quản
lý. Đó là quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và của địa
phương, quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước được ghi trong các văn kiện
quan trọng của Đảng, Hiến pháp, các đạo luật ..., qua đó đã xác lập nguyên
tắc, quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham
gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước [64].
Tuy nhiên, công tác này vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong
việc bảo đảm đi vào thực chất việc thực thi quyền con người trong tham gia
xây dựng CSPL, văn bản QPPL, cần được khắc phục trong thời gian tới. Từ
những đòi hỏi thực tiễn, trên cơ sở mong muốn có những đóng góp nhất định cho
việc bảo đảm thực thi hiệu quả hơn quyền được tham gia vào đời sống chính trị
của người dân, tác giả đã chọn đề tài “Quyền tham gia của cá nhân trong xây
3
dựng chính sách pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật” làm Đề tài Luận
văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy về
quyền con người ở Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Chúng ta đã có những
công trình nghiên cứu về quyền con người nói chung, điển hình có thể kể ra
một số dưới đây như: GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên về quyền con người ở
Việt Nam đã đề cập một số cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã
hội về quyền TCTT. Đó là các công trình: Quyền con người, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2011; Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành luật
học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011; Quyền con người, tiếp cận đa
ngành và liên ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009;
Xã hội học pháp luật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2012; Những vấn đề lý
luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 2011. Quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam, Trung tâm Thông tin Tư liệu trực thuộc Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, 1993; Đinh Văn Mậu, Quyền lực nhà nước và quyền công dân, NXB
Tư pháp, 2003; Bùi Ngọc Cường, Một số vấn đề về Quyền tự do kinh doanh
trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2004;
Phạm Văn Khánh, Góp phần tìm hiểu quyền con người, NXB Khoa học xã
hội, 2006; Tường Duy Kiên, Đảm bảo quyền con người trong hoạt động của
Quốc hội Việt nam, Hà Nội, 2004...và một số công trình đã được đăng trên
Tạp chí Nhân quyền các số như: 6/2015; 8/2015; 10/2015; 3/2016;
7/2016.v.v...
4
Ở góc độ nghiên cứu chuyên sâu về các quyền dân sự, chính trị cụ thể -
quyền được tham gia vào đời sống chính trị của người dân thì có thể kể đến:
“Quyền được thông tin trong hoạt động báo chí”, Thái Thị Tuyết Dung, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp số 248, tháng 8/2013; “Quyền tiếp cận thông tin từ
góc độ xã hội học quyền con người” ThS. Lê Thị Hồng Nhung, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 24 (209) tháng 12/2011; “Luật trưng cầu dân ý phải
thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân”, Phan Đăng Trường, Tạp chí
Nhân quyền, số 3/2015; “Sự tham gia của các tổ chức xã hội trong quy trình
xây dựng pháp luật”, Đinh Ngọc Quý, nclp.org.vn, tháng 01/2015; “Đảm bảo
sự tham gia của doanh nghiệp trong xây dựng và thực thi pháp luật”, Nguyễn
Minh Đức, Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam -
VCCI; “Quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân theo Hiến pháp
mới”, PGS.TS. Đinh Xuân Thảo, Báo Điện tử Chính phủ; “Tăng cường sự
tham gia của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước”, Hà Quang Ngọc -
Hà Quang Trường, Tạp chí Cộng sản điện tử, tháng 8/2007.v.v...
2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Có rất nhiều ấn phẩm sách, tạp chí trực tiếp và gián tiếp nghiên cứu,
viết về quyền tham gia chính trị (Political Participation) của người dân của
các học giả nước ngoài, song đánh giá tổng quan về vấn đề này cho thấy: một
số tác giả chủ yếu tiếp cận quyền tham gia chính trị với tư cách là quyền con
người. Trước tiên phải kể đến cuốn sách “Democracy in a Global World:
Human Rights and Political Participation in the 21st
Century” của tác giả
Deen K. Chatterjee viết năm 2008. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã đề
cập đến quyền tham gia chính trị trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế dân
chủ hóa đang lan rộng trên toàn thế giới. Tác giả cho rằng, quyền tham gia
chính trị đóng vai trò quan trọng và góp phần vào việc bảo đảm và nâng cao
quyền con người. Các lý thuyết về mô hình dân chủ hiện đại đưa ra các cơ chế
5
đảm bảo tính minh bạch, công khai và quyền tham gia chính trị, qua đó thúc
đẩy sự thật, trách nhiệm của cơ quan công quyền và bảo vệ quyền con người.
Trong công trình nghiên cứu, tác giả cũng phân tích đến quyền tham gia chính
trị của mỗi quốc gia là khác nhau. Điều này được giải thích bởi sự đa dạng về
truyền thống pháp luật, văn hóa, xã hội. Công trình thứ hai phải kể đến là
cuốn Political Participation and Voting Rights của tác giả Tom Landford.
Đây là cuốn sách mới xuất bản đầu năm 2016. Tác giả nghiên cứu quyền
tham gia chính trị trong mối quan hệ với quyền bỏ phiếu và cho rằng quyền
tham gia chính trị là nhân tố cơ bản của sự dân chủ. Trong số các nội dung
của quyền tham gia chính trị, quyền bỏ phiếu thể hiện sự tham gia rộng rãi
của xã hội vào việc con đường chính trị của quốc gia. Tác giả cũng chỉ ra các
minh chứng cụ thể về sự dân chủ hóa trong các bối cảnh quốc gia khác nhau
như Liên bang Xô Viết và một số nước Đông Âu, như một số nước hồi giáo
trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, có những công trình nghiên cứu chuyên
sâu về quyền tham gia chính trị của một quốc gia như Political Participation
and Democracy in Britain (Quyền tham gia chính trị và Dân chủ ở Khối thịnh
vượng Anh) của nhóm tác giả Geraint Parry, George Moyser, Neil Day. Công
trình Asian American Political Participation: Emerging Constituents and
Their Political Identities viết về quyền tham gia chính trị ở Châu Á và Hoa
Kỳ của nhóm tác giả Janelle Wong, S. Karthick Ramakrishnan, Taeku Lee,
Jane Junn. Công trình nghiên cứu so sánh về quyền tham gia chính trị phải kể
đến như Participation and Political Equality: A Seven-Nation Comparison.
Trong nghiên cứu của mình, nhóm tác giả phân tích các quy định pháp luật
hiện hành và cơ chế bảo đảm quyền tham gia chính trị ở 7 quốc gia. Ngoài
việc nghiên cứu sách tham khảo, giáo trình như đã kể trên, Đề tài cũng được
các tác giả quan tâm nghiên cứu ở cấp độ tạp chí. Các bài viết tiêu biểu có thể
kể đến như: Stakeholder Citizenship and Transnational Political
6
Participation: A Normative Evaluation of External Voting, The Human right
to Political Participation, Political participation as a human right, The right
to political participation and the information society, …
Nhìn chung các công trình khoa học trên đây mới chủ yếu nghiên cứu ở
những góc độ nhất định về các quyền con người nói chung và quyền con
người trong lĩnh vực dân sự, chính trị nói riêng; luận giải những vấn đề về lý
luận, học thuật, cơ chế xã hội, cơ chế pháp lý về sự hình thành và phát triển
quyền con người ở cấp độ quy mô quốc gia, khu vực, toàn cầu, và những vấn
đề từ thực tiễn có liên quan. Tuy nhiên, ở gốc độ nghiên cứu chuyên sâu về
quyền dân sự và chính trị - quyền được tham gia vào đời sống chính trị của
người dân, trong đó, cụ thể là Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng
CSPL, văn bản QPPL, thì chưa có tác phẩm nào đi sâu nghiên cứu một cách
toàn diện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Hướng tới bảo đảm thực hiện thực chất hơn quyền được tham gia vào
đời sống chính trị, trong đó có quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản
QPPL ở Việt Nam hiện nay; tăng cường phát huy dân chủ, đề cao vai trò để
người dân thực sự là chủ thể của quyền lực nhà nước trong công cuộc xây
dựng, hoàn thiên nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do
dân dân và vì nhân dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra là cần: (i) Nghiên cứu
làm rõ những vấn đề về mặt lý luận về quyền tham gia của cá nhân trong xây
dựng CSPL, văn bản QPPL; (ii) Đánh giá khách quan về thực trạng bảo đảm
quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL ở Việt
7
Nam hiện nay; và (iii) Đề xuất các định hướng nhằm tăng cường bảo đảm
quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL, đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHXN Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quyền tham gia của cá nhân
trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL, biểu hiện cụ thể của nhóm quyền được
tham gia vào đời sống chính trị của người dân (the right participation in
political life), và cơ chế bảo đảm thực hiện quyền này - với tư cách là một
trong các quyền cơ bản của con người,
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chú trọng nghiên cứu, phân tích khái quát hệ thống các quan
điểm, học thuyết, pháp luật về quyền tham gia vào đời sống chính trị nói
chung; quan điểm, chính sách, pháp luật của Việt Nam, qua đó tìm ra mối liên
hệ, sự tương thích giữa nội dung chuẩn mực quốc tế về quyền tham gia vào
đời sống chính trị với nội dung chuẩn mực và quyền tham gia của cá nhân
trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL ở Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của Luận văn là dựa trên quan điểm duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; và các quan
điểm của cộng đồng quốc tế về quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
8
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin. Đồng thời cũng vận dụng kết hợp một số phương pháp cơ bản
như: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, logic, quy nạp, diễn dịch, xã hội
học, định tính, định lượng, nghiên cứu tiếp cận liên ngành, đa ngành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống về
lý luận quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, các văn bản QPPL
và bảo đảm quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, qua đó rút ra tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân; đồng thời đề ra những giải pháp để tiếp tục nâng cao hiệu quả
bảo đảm thực hiện quyền này trong thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, là nguồn cung cấp thông
tin cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong quá trình thực thi quyền này
cũng như xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tham gia xây dựng
CSPL, văn bản quy phạm QPPL ở nước ta hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết cấu
theo ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận về quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật,
và các văn bản quy phạm pháp luật.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách
pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam.
Chương 3: Tăng cường bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách
pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam.
9
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUYỀN THAM GIA CỦA CÁ NHÂN TRONG
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN
QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm về quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng
chính sách pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật
Để đi đến định nghĩa về quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản
QPPL, trước hết Luận văn làm rõ nội hàm một số vấn đề: “sự tham gia xây
dựng CSPL, văn bản QPPL”, “CSPL”; “QPPL”; và “Văn bản QPPL”:
1.1.1. Sự tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL
Ban đầu, người ta xem sự tham gia chỉ đơn thuần là việc đóng góp sức
lao động vào việc thực hiện các hoạt động của hoạt động cụ thể. Theo đó, hình
thức tham gia này chỉ đơn giản giới hạn trong việc thực thi các quyết định, kế
hoạch, mục tiêu, và hoạt động đã được chuẩn bị, xây dựng trước. Tuy nhiên,
vấn đề tham gia trong khoa học xã hội lại đề cập đến các cơ chế khác nhau giúp
cho công chúng có thể bày tỏ ý kiến, và lý tưởng về các vấn đề chính trị, văn
hóa, xã hội, quản lý hoặc quyết định xã hội…. Khái niệm về sự tham gia ở đây
có nghĩa là góp phần vào thực hiện một hoạt động hay giữ một vị trí, vai trò
nào đó trong một quy trình hoạt động nhằm đạt được hiệu quả chung. Do đó,
cần phải nhìn nhận khái niệm tham gia ở một góc độ rộng hơn với tính chất là
một quá trình bàn bạc cởi mở, bình đẳng giữa các chủ thể có liên quan. Trong
đó kiến thức, ý kiến của tất cả mọi người được khám phá và tôn trọng. Kết luận
cuối cùng của việc thảo luận phải được thông qua căn cứ trên kết quả của sự
thỏa thuận, đồng ý. Nếu không được tham gia đưa ra ý kiến hoặc chỉ đơn thuần
đóng vai trò là đối tác để được tham khảo ý kiến thì sự tham gia chỉ mang tính
hình thức.
10
Các cấp độ tham gia: Sự tham gia ở đây bao gồm các nội dung khác
nhau và còn phụ thuộc vào từng hoạt động. Chúng ta có thể xem xét dưới góc
độ thang bậc của sự tham gia mà ở đó có sự sắp xếp từ mức độ tham vấn hạn
chế cho đến tham gia một cách tích cực như: Nghe thông tin, thông tin được
đưa ra bởi một người hoặc một nhóm người cụ thể nhưng không đủ để đại
diện cho toàn bộ cộng đồng, tuy nhiên các hoạt động vẫn được tiến hành mà
đa số những chủ thể có quyền liên quan đều không được biết đến nội dung
của quá trình thảo luận và ra quyết định. Tư vấn, tức là việc cán bộ, công
chức thực hiện tư vấn cho người dân hiểu về quy trình soạn thảo văn bản
QPPL, tuy nhiên chưa cho phép người dân tham gia vào quy trình đó. Tham
vấn, người dân được hiểu là hành động có chủ đích của chính quyền nhằm
thông báo, hỏi và lắng nghe, thảo luận với những người dân chịu ảnh hưởng
bởi một quyết định, một giải pháp nào đó hoặc những người có liên quan có
quan tâm đến chính sách, giải pháp sắp được ban hành hoặc đã được ban
hành. Qua đó người dân được tổ chức các cơ hội để họ bày tỏ các quan điểm
về ý kiến của mình theo những kênh thu nhận đã công bố, và có cơ chế để
những quan điểm, ý kiến này được người ra quyết định xem xét và cân nhắc
trước khi quyết định đó được thông qua. Hoạt động tham vấn có thể thực hiện
theo các hình thức: chủ động (đại diện chính quyền tổ chức nghe ý kiến của
người dân); hình thức bị động (công bố để người dân gởi thư góp ý tới chính
quyền theo địa chỉ công bố). Tuy nhiên, hoạt động này chỉ có chức năng góp
phần nâng cao khả năng tham gia của người dân tương đương với cấp độ thứ
ba về sự tham gia đã nêu ở trên là cùng tham gia thảo luận và quyết định.
Ở cấp độ tham gia thảo luận và quyết định, mức độ dân chủ cộng đồng
được đẩy lên ở một mức cao hơn. Người dân trực tiếp cùng chính quyền làm
công việc thảo luận và quyết định. Mức độ này thường hay được thực hiện ở
các cộng đồng dân cư nhỏ (quy mô thôn, xóm, bản, xã, phường…) về các vấn
11
đề như đóng góp tài chính, quy chế, công tác nội bộ, hay việc thiết lập ra các
hương ước, xây dựng các chính sách của chính quyền địa phương cấp xã,
phường. Hai bên chủ thể là cơ quan nhà nước và người dân cùng phối hợp để
đưa đến một quyết định chung.
Cùng thực thi, tức là sau khi xây dựng chủ trương, đường lối thì cả
người dân và phía cơ quan nhà nước cùng tiến hành các công việc liên quan.
Đây là việc các thành viên cùng hợp sức với nhau, hỗ trợ và phối hợp với
nhau để hoàn thành mục tiêu chung.
Kiểm tra và giám sát, đây là mức độ cao nhất của sự tham gia khi mà
những người tham gia không chỉ dừng lại ở việc ra những quyết định cần thiết
trong hành động, mà họ còn có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp giám sát tiến độ
thực thi. Chẳng hạn như việc những người tham gia có quyền theo dõi và
phản ánh những sai phạm trong quá trình thực thi với những người có trách
nhiệm, được giải đáp kịp thời về những sai phạm đó.
1.1.2. Chính sách” hay “Chính sách pháp luật
Là thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi trong đời sống xã hội, đặc biệt
là được sử dụng rất nhiều trong các vấn đề liên quan đến chính trị và pháp
quyền.“Chính sách” được hiểu là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt
một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực
tế mà đề ra chính sách…” [45, tr.157]. Chính sách cần được hiểu ở những góc
nhìn nhất định: xem xét nó một cách độc lập hay trong mối quan hệ với các
phạm trù khác, chẳng hạn như chính trị hay pháp quyền. Nếu nhìn nhận chính
sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc lập, thì chính sách được hiều
là những tư tưởng, những định hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần
đạt được. Còn chiến lược hay kế hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ là
hình thức, là phương tiện để chuyển tải, để thể hiện chính sách mà thôi. Vì
12
vậy, so với khái niệm “pháp luật”, chính sách được hiểu rộng hơn nhiều. Nếu
xét nội hàm của khái niệm này trong mối quan hệ với chính trị và pháp quyền
thì: (i) chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa vào
đường lối chính trị chung, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền mà người
ta định ra chính sách; (ii) chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp
luật. Hay nói cách khác, pháp luật là kết quả của sự thể chế hóa chính sách.
Có thể có chính sách chưa được luật pháp hóa (thể chế hóa), hoặc cũng có thể
không bao giờ được luật pháp hóa vì nó không được lựa chọn để luật pháp
hóa khi không còn phù hợp với tư tưởng mới hay sự thay đổi của thực tiễn.
Nhưng sẽ không có pháp luật phi chính sách hay pháp luật ngoài chính sách.
Theo nghĩa đó, chính sách chính là linh hồn, là nội dung của pháp luật, còn
pháp luật là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách khi nó được
thừa nhận, được “nhào nặn” bởi “bàn tay công quyền”, tức là được ban hành
bởi nhà nước theo một trình tự luật định.
Như vậy, chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng
cầm quyền và với bộ máy quyền lực công - nhà nước. Chúng ta vẫn thường
nói đến một nguyên tắc của tổ chức thực thi quyền lực chính trị là “Đảng đề
ra đường lối, chính sách, Nhà nước thể hóa đường lối, chính sách của Đảng
thành pháp luật”. Tuy nhiên, cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò hoạch định
chính sách của đảng cầm quyền. Có ý kiến cho rằng, việc xây dựng chính
sách là nhiệm vụ của Đảng, Đảng là người duy nhất có quyền đưa ra chính
sách. Đúng. Đảng đề ra đường lối chính sách để Nhà nước thể chế hóa thành
pháp luật nhưng việc xây dựng và ban hành pháp luật của Nhà nước cũng
chính là Nhà nước xây dựng và ban hành chính sách. Đường lối, chính sách
của Đảng có thể được sao chép, được cụ thể hóa trong pháp luật nhưng nó
cũng có thể được điều chỉnh, được hoàn thiện trong quá trình thể chế hóa để
phù hợp với tư tưởng mới hay đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn xã hội. Nhà
13
nước xây dựng và ban hành pháp luật là thể chế hóa chính sách của Đảng
thành pháp luật nhưng cũng là một bước xây dựng và hoàn thiện chính sách.
Và vì vậy, chính sách và pháp luật là hai phạm trù rất gần gũi và có những
điểm giao nhau, là cơ sở tồn tại của nhau trong một chế độ nhà nước pháp
quyền. Chúng ta cũng có thể chỉ ra những đặc trưng và cũng là sự khác biệt
giữa chính sách và pháp luật ở những điểm sau: (i) nếu chính sách là những tư
tưởng, định hướng, những mong muốn chính trị được thể hiện trong các nghị
quyết, các văn kiện của Đảng thì pháp luật được thể hiện bằng các quy tắc xử
sự mang tính pháp lý, được ban hành bởi Nhà nước theo những trình tự và thủ
tục nghiêm ngặt (hình thức, thẩm quyền, quy trình soạn thảo và ban hành); (ii)
nếu chính sách (khi chưa được luật pháp hóa) chỉ là những cái đích mà người
ta cần hướng tới, chưa phải là những quy tắc xử sự có tính rằng buộc chung
hay tính bắt buộc phải thực hiện, thì pháp luật lại là những chuẩn mực có giá
trị pháp lý bắt buộc chung và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế của Nhà nước; (iii) Tuy nhiên, khi đã được thể chế hóa thì, vì chính sách
là nội dung, pháp luật là hình thức nên chính sách có vai trò chi phối, quyết
định đối với pháp luật. Khi tư tưởng chính sách thay đổi thì pháp luật phải
thay đổi theo. Ngược lại, pháp luật lại là công cụ thực tiễn hóa chính sách.
Chính sách muốn đi vào cuộc sống một cách thực sự hiệu quả thì phải đựợc
luật pháp hoá, nếu không được thể chế hóa thành pháp luật thì rất có thể chính
sách sẽ chỉ là một thứ “bánh vẽ” khó có thể đi vào và phát huy hiệu quả trong
cuộc sống. Trong hoạt động lập pháp, cần phải nhận thức và cư xử cho đúng
với mối quan hệ phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau giữa hai khái niệm, hai
phạm trù: chính sách và pháp luật, trong đó có thể hiểu pháp luật là một phạm
trù “hai trong một” - pháp luật là sự thể hiện của chính sách và cũng chính là
chính sách [11].
14
Ở một góc nhìn khác, đã có sự hợp nhất hai vấn đề chính sách và pháp
luật, thành “chính sách pháp luật”, và cho rằng: đây là hoạt động có căn cứ
khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan nhà nước và của các thiết
chế xã hội nhằm xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, sử dụng
văn minh các phương tiện pháp luật để đặt được mục đích bảo đảm đầy đủ
nhất các quyền và tự do của con người và của công dân, hình thành và phát
triển nhà nước pháp quyền, văn hóa pháp luật và đời sống pháp luật của xã
hội và của cá nhân. Đồng thời, để phân biệt với các loại hình chính sách khác,
tác giả cũng đưa ra 06 dấu hiệu đặc trưng để nhận diện “chính sách pháp
luật” bao gồm: (i) Đó là hoạt động trong lĩnh vực của đời sống xã hội; (ii) Đó
là hoạt động hướng đến việc nâng cao chất lượng của đời sống pháp luật của
xã hội, hoàn thiện pháp luật, sự thay đổi tiến bộ của hệ thống pháp luật, sự
phát triển của pháp luật tương ứng của xã hội, việc nâng cao văn hóa pháp
luật của công dân và những người có chức vụ, quyền hạn.v.v...; (iii) Đó là
hoạt động thể hiện thái độ của các chủ thể của chính sách pháp luật đối với
những vấn đề quan trọng nhất của phát triển đời sống pháp luật của xã hội, sự
thay đổi và đổi mới các phần có ý nghĩa nhất của nó; (iv) Đó là hoạt động
thực hiện dưới sự trợ giúp của các phương tiện pháp lý (công cụ và kỹ thuật)
và của hệ thống phương tiện (công cụ) riêng của chính sách pháp luật (các
quan niệm, quan điểm, chiến lược, chương trình, kỹ thuật pháp lý, kế hoạch
hóa, dự báo, theo dõi pháp luật, thẩm định pháp luật, hệ thống hóa các văn
bản QPPL, v.v...) - những phương tiện được sử dụng để tổ chức đời sống xã
hội; (v) Đó là hoạt động gắn liên với quá trình hoạch định và thực hiện các tư
tưởng pháp luật mang tính chiến lược và sách lược - các tư tưởng thể hiện là
cơ sở và tiền đề của CSPL và hướng tới việc tổ chức đời sống pháp luật của
xã hội; (vi) Đó là hoạt động phần lớn do các chủ thể trong đời sống chính trị
và pháp luật của xã hội thực hiện: những người có ý thức chính trị và ý thức
15
pháp luật chuyên nghiệp; những người có ý thức chính trị và ý thức pháp luật
lý luận; những người có những hiểu biết, kỹ năng và kinh nghiệm (có trình độ
văn hóa, chính trị và văn hóa pháp luật nhất định); những người có quy chế
chính trị và pháp luật đặc thù [50, tr. 11]. Và phương tiện quan trọng nhất của
“chính sách pháp luật” chính là các văn bản QPPL [51, tr. 3].
Pháp lý hóa thuật ngữ “Chính sách” nêu trên, Luật ban hành văn bản
QPPL (năm 2015) đã sử dụng cụm từ này đến hơn 100 lần. Điều 2 Nghị định
số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản QPPL (2015) giải thích rõ
hơn về nội hàm “chính sách” là “định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải
quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định”. Như vậy,
chúng ta có thể trả lời được câu hỏi là “chính sách được khởi nguồn từ đâu?”.
Và suy cho cùng thì chính sách được khởi nguồn từ cuộc sống, từ thực tiễn
cuộc sống, hay chính xác hơn, chính sách khởi đầu từ “vấn đề của cuộc sống”,
vấn đề của thực tiễn. Nếu thực tiễn quản lý không phát sinh vấn đề, nhà nước
cũng không cần có phản ứng chính sách. Nói một cách học thuật thì chính
sách của nhà nước chính là sự bổ khuyết cho những thiếu hụt trong cơ chế tự
điều chỉnh của xã hội. Chính vì xã hội không có khả năng tự điều chỉnh hoặc
nếu để xã hội tự điều chỉnh thì kết quả có thể là tình trạng bất công, tình trạng
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm nên
nhà nước phải vào cuộc để khắc phục. Bởi vậy, trong bối cảnh phát triển kinh
tế thị trường, không phải ngẫu nhiên mà khi xác định các vấn đề chính sách
cần giải quyết (những vấn đề mà nhà nước phải giải quyết), người ta thường
nhấn mạnh tới những trục trặc của cơ chế thị trường (khi vận hành phi hiệu
quả vì các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường, cạnh tranh không lành
mạnh; thông tin bất cân xứng; phân phối thu nhập quá mức; ô nhiễm môi
trường; không cung cấp đủ các loại hàng hóa, dịch vụ công cần thiết như: trật
16
tự trị an, an ninh, an toàn cá nhân, trật tự pháp luật, cơ sở hạ tầng.v.v…).
Chính sách nhiều khi được sinh ra cũng nhằm mục đích khắc phục những
“trục trặc” trong bản thân sự vận hành của bộ máy nhà nước, nhằm kiểm soát
quyền lực, phòng, chống các biểu hiện tha hóa quyền lực, bảo đảm nhà nước
thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân như chủ trương của Đảng
và Hiến pháp đã ghi nhận một cách nhất quán.
Mọi chính sách được đưa ra, về nguyên tắc, phải hướng tới việc làm
cho xã hội tốt hơn lên. Đối với Việt Nam, đó là việc đến gần hơn với mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trực diện hơn, trong
giai đoạn tới đây là thực hiện những mục tiêu hoặc định hướng mang tính
chiến lược do Đảng hoạch định, chẳng hạn, đó là “phát huy sức mạnh toàn
dân tộc và dân chủ XHCN, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới;
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng
nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Giữ gìn hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới” [1].
Như vậy, có thể khẳng định rằng: nhìn từ góc độ nào trên đây thì khái
niệm “chính sách” hay “chính sách pháp luật” đều có những điểm chung
thống nhất về khởi nguồn - khách thể; chủ thể kiến tạo; mục đích điều chỉnh;
công cụ chuyển hóa; phương tiện thực hiện;.v.v...
1.1.3. Quy phạm pháp luật
Việc nghiên cứu lý thuyết về QPPL và văn bản QPPL cho đến nay vẫn
còn nhiều điều khiến các nhà khoa học trăn trở. Trong khoa học pháp lý Việt
17
Nam cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới chưa có được sự thống nhất về
mặt lý luận. Tiếp cận dưới giác độ nghiên cứu lý thuyết và pháp luật thực
định của Việt Nam về vấn đề này, trước hết, khi nói đến “quy phạm” là “Điều
quy định chặt chẽ phải tuân theo” [44, tr.784]. Tiếp tục đi sâu làm rõ nội hàm
của khái niệm, nhiều học giả cho rằng “quy phạm” là quy tắc xử sự được sử
dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Tồn tại quy phạm kỹ thuật để điều
chỉnh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và quy phạm xã hội để điều
chỉnh mối quan hệ giữa con người với con người. QPPL là quy tắc xử sự
chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội vì sự tồn tại và phát triển của xã hội; là một loại quy phạm xã hội, vì
vậy, nó vừa mang đầy đủ những đặc điểm chung của quy phạm xã hội vừa có
những đặc điểm của riêng mình. Cụ thể là: (i) QPPL luôn là khuôn mẫu cho
hành vi con người, nó chỉ dẫn cho mọi người cách xử sự trong những tình
huống nhất định. Điều này cũng có nghĩa là QPPL đã chỉ ra cách xử sự, xác
định các phạm vi xử sự của con người trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất
định, cũng như những kết quả hay hậu quả bất lợi gì mà họ được nhận hoặc
phải gánh chịu nếu như họ thực hiện đúng hoặc vi phạm chúng; (ii) QPPL là
chuẩn mực để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người, theo đó
không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi, QPPL còn là chuẩn mực để xác định giới
hạn và đánh giá hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh từ
phía nhà nước và từ phía các chủ thể khác về tính hợp pháp hay không hợp
pháp trong xử sự của các bên. Nghĩa là, thông qua QPPL mới biết được hoạt
động nào của các chủ thể có hoặc không có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào
hợp pháp hoặc trái pháp luật...; (iii) QPPL do các cơ quan nhà nước ban hành
và bảo đảm thực hiện, theo đó, QPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, do vậy bản chất của chúng trùng với bản chất
của pháp luật. QPPL thể hiện ý chí nhà nước, chúng chứa đựng trong mình
18
những tư tưởng, quan điểm chính trị - pháp lý của nhà nước, của lực lượng cầm
quyền trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước áp đặt ý chí của mình
trong QPPL bằng cách xác định những tổ chức, cá nhân nào trong những hoàn
cảnh, điều kiện nào thì phải chịu sự tác động của QPPL, những quyền và nghĩa
vụ pháp lý mà họ có và cả những biện pháp mà nhà nước sẽ bảo đảm cho chúng
được thực hiện. Thuộc tính do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện là thuộc tính thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa QPPL với các loại quy phạm
xã hội khác; (iv) QPPL là quy tắc xử sự chung, cho nên việc ban hành ra nó
không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho các tổ chức và cá nhân
tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Để có được một QPPL, các cơ
quan nhà nước phải nghiên cứu rất nhiều các quy tắc xử sự cụ thể, tìm ra
những điểm chung giữa chúng rồi từ đó mô hình hoá thành quy tắc xử sự
chung. Quy tắc xử sự chung là sự khái quát từ các quy tắc xử sự cụ thể nên nó
sẽ phù hợp với hầu hết các trường hợp cụ thể. Mọi tổ chức, cá nhân ở vào tình
huống mà QPPL đã dự liệu đều xử sự cơ bản như nhau. Tính chất chung của
QPPL còn được thể hiện ở chỗ nó được đặt ra không phải chỉ để điều chỉnh
một quan hệ xã hội cụ thể mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, nghĩa
là, từng quan hệ xã hội cụ thể bên cạnh những điểm chung thì cũng có rất
nhiều những điểm riêng biệt, nhưng QPPL đã thống nhất tất cả chúng lại và
thiết lập ra quy tắc xử sự có tính chất chung cho tất cả những chủ thể tham gia
quan hệ xã hội chung đó. Chẳng hạn, giữa những người mua và những người
bán khác nhau có thể thiết lập nên rất nhiều những quan hệ mua bán cụ thể
với những đặc điểm riêng của từng mối quan hệ, song tất cả những quan hệ
giữa người mua và người bán đều phải tuân theo các quy tắc có tính chất
chung đã được quy định trong pháp luật dân sự. Như vậy, QPPL là dạng quy
tắc mẫu được thiết lập cho những người khác nhau, cho những người thật ra
thì không giống nhau và cũng không ngang nhau. Tuy nhiên, tính chất chung
19
của các QPPL khác nhau thì khác nhau. Chẳng hạn, QPPL hiến pháp thì có
liên quan đến mọi tổ chức và cá nhân trong đất nước, nhưng QPPL lao động
thì chỉ liên quan đến những người quản lý, sử dụng lao động và những người
lao động...QPPL có thể tác động nhiều lần và trong thời gian tương đối dài
cho đến khi nó mất hiệu lực. Nó được sử dụng trong tất cả mọi trường hợp
khi xuất hiện những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) đã được dự liệu; (v)
QPPL là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, mà nội dung của nó thường thể
hiện hai mặt là cho phép và bắt buộc, nghĩa là, QPPL là quy tắc xử sự trong
đó chỉ ra các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội
mà nó điều chỉnh. Là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội trong QPPL thường
chứa đựng những chỉ dẫn về khả năng và các phạm vi có thể xử sự, cũng như
những nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Các
quyền và nghĩa vụ được QPPL dự liệu cho các chủ thể tham gia quan hệ mà
nó điều chỉnh luôn có sự liên hệ mật thiết với nhau. Hình thức, tính chất của
sự liên hệ đó do nhà nước xác định phụ thuộc vào tính chất của chính quan hệ
xã hội đó. Vì vậy, trong cơ chế điều chỉnh pháp luật QPPL có vai trò thực
hiện chức năng thông báo của nhà nước đến các chủ thể tham gia quan hệ xã
hội về nội dung ý chí, mong muốn của nhà nước để họ biết được cái gì có thể
làm, cái gì không được làm, cái gì phải làm, cái gì phải tránh không làm trong
những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó... (vi) QPPL có tính hệ thống,
theo đó, mỗi QPPL không tồn tại và tác động một cách biệt lập, riêng rẽ, mà
giữa chúng luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau tạo nên những
chỉnh thể (hệ thống) lớn nhỏ khác nhau cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội.
QPPL của các nhà nước đương đại chủ yếu là QPPL thành văn, chúng được
chứa đựng trong các văn bản QPPL. Số lượng của chúng ngày một nhiều hơn
và phạm vi các đối tượng mà chúng tác động ngày càng rộng hơn, trật tự ban
hành, áp dụng và bảo vệ chúng ngày càng dân chủ với sự tham gia của đông
20
đảo các thành viên trong xã hội. Nội dung của QPPL ngày càng trở nên chính
xác, chặt chẽ, rõ ràng, thống nhất và có tính khả thi cao.
Điều 3 Luật ban hành văn bản QPPL (năm 2015) quy định: “QPPL là
quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại
nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn
vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định
trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện”. Định nghĩa
này đã thể hiện khá đầy đủ những đặc trưng vốn có của QPPL để phân biệt
với các loại quy phạm khác. Chẳng hạn như: quy phạm xã hội; quy phạm đạo
đức; quy phạm tôn giáo.v.v...
1.1.4. Văn bản QPPL
Được hiểu là những quy định, trong đó hầu hết là những quy tắc xử sự
chung (còn gọi là QPPL) do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Nếu xét
dưới góc độ các cách thức thể hiện của pháp luật thì có pháp luật không thành
văn và pháp luật thành văn. Pháp luật không thành văn là những quy định pháp
luật được truyền khẩu trong xã hội từ người này qua người khác mà không
được thể hiện thành văn bản, còn pháp luật thành văn là những quy định pháp
luật được ghi chép lại thành các văn bản trên các loại vật liệu khác nhau.
Mỗi nhà nước trong quá trình tồn tại và phát triển phải ban hành rất
nhiều các loại văn bản khác nhau, đó có thể là văn bản QPPL, văn bản quy
định CSPL, văn bản đơn hành, văn bản áp dụng pháp luật, văn bản giao dịch
hành chính… Trong khoa học pháp lý để phân biệt những văn bản có chứa
QPPL (quy tắc xử sự chung) với những văn bản không chứa QPPL nên có sự
phân chia các văn bản do nhà nước ban hành thành văn bản QPPL và văn bản
không chứa QPPL. Văn bản QPPL là văn bản do nhà nước ban hành, trong đó
chứa QPPL (quy tắc xử sự chung). Văn bản QPPL là hình thức pháp luật do
21
nhà nước soạn thảo và ban hành. Cũng có một số văn bản QPPL được hình
thành bằng con đường nhà nước phê chuẩn văn bản quy phạm của các tổ chức
xã hội khác thành văn bản QPPL. Vì có chứa QPPL nên văn bản QPPL có
đầy đủ các đặc điểm cơ bản của QPPL, nghĩa là, văn bản QPPL:
Gắn liền với nhà nước, do nhà nước ban hành (thông qua các cơ quan
hoặc các viên chức nhà nước có thẩm quyền) và bảo đảm thực hiện. Đây cũng
chính là một trong những thuộc tính quan trọng của pháp luật nói chung (pháp
luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện). Pháp luật quy định cho một
số cơ quan, viên chức nhà nước được quyền ban hành các văn bản QPPL nhất
định và những cơ quan, công chức đó cũng chỉ được ban hành các văn bản
QPPL về những vấn đề phù hợp với thẩm quyền (chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn) của mình do luật định. Trong một số trường hợp văn bản QPPL được
ban hành có sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước với cơ quan của tổ chức
chính trị - xã hội. Tuy vậy, xét đến cùng thì văn bản QPPL luôn gắn liền với
nhà nước, bởi chỉ riêng cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội thì không được
quyền ban hành văn bản QPPL. Văn bản QPPL được nhà nước bảo đảm thực
hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có các biện pháp cưỡng chế
nhà nước rất nghiêm khắc. Có chứa QPPL (quy tắc xử sự chung), là những
quy tắc xử sự được ban hành không phải cho một trường hợp cụ thể và đối
với những tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các trường hợp và đối với
tất cả những tổ chức hay cá nhân đã được dự liệu phải thực hiện. Nói cách
khác, khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã dự liệu thì các tổ chức,
cá nhân có liên quan bắt buộc phải xử sự theo quy định của văn bản QPPL.
Cũng vì vậy, văn bản QPPL được thực hiện nhiều lần trong đời sống khi xảy
ra tình huống mà pháp luật đã dự liệu. Đây là đặc điểm thể hiện sự khác biệt
giữa văn bản QPPL với các văn bản khác của nhà nước như văn bản áp dụng
22
pháp luật, văn bản giao dịch hành chính… là các văn bản không chứa QPPL
nên không phải là văn bản QPPL.
Ngoài hai đặc điểm cơ bản trên thì pháp luật của các nhà nước hiện đại
còn quy định cả thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức, nội dung của văn bản
QPPL được phép ban hành cho các tổ chức và cá nhân (các chủ thể có thẩm
quyền ban hành văn bản QPPL). Như đã khẳng định chỉ có các nhà nước hiện
đại mới quy định cụ thể về các vấn đề trình tự, thủ tục, hình thức…, do vậy,
đây không phải là dấu hiệu quan trọng, dấu hiệu bắt buộc của văn bản QPPL.
Tuy nhiên, quy định về các vấn đề trên sẽ giúp cho việc ban hành văn bản
QPPL có trật tự, ổn định. Các quy định của pháp luật về nội dung và hình
thức của văn bản QPPL tạo tiền đề pháp lý cho việc ban hành các văn bản
QPPL có chất lượng cao, đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, tính thống nhất của
hệ thống các văn bản QPPL về nội dung cũng như về hình thức.
Mỗi nhà nước thường ban hành rất nhiều những văn bản QPPL khác
nhau, song quan trọng hơn cả là các văn bản luật. Loại văn bản này do cơ quan
quyền lực cao nhất của nhà nước ban hành, có hiệu lực pháp lý cao, có trình tự,
thủ tục ban hành, sửa đổi rất chặt chẽ...các văn bản dưới luật phải được ban
hành phù hợp với các văn bản luật, là sự chi tiết, cụ thể hoá các quy định của
văn bản luật và không được trái với quy định của các văn bản luật. Ở Việt Nam
để có được tên gọi như hiện nay là “văn bản QPPL” thì cũng đã mất khá nhiều
thời gian, bởi trước đây văn bản QPPL trong các tài liệu được dùng để giảng
dạy ở Việt Nam thường được gọi là “văn bản pháp luật” [12, tr. 52], cách gọi
như vậy chỉ để phân biệt với “văn bản áp dụng pháp luật” là những văn bản
được ban hành khi áp dụng pháp luật. Còn trong các văn bản, trong các tài liệu
khác có những lúc văn bản QPPL còn được gọi là “văn bản pháp quy”. Thuật
ngữ văn bản pháp quy ở Việt Nam được sử dụng theo hai cách khác nhau là:
Thứ nhất, văn bản pháp quy được xem là cách nói tắt của văn bản QPPL (pháp
23
là pháp luật, quy là quy phạm); thứ hai, văn bản pháp quy là những văn bản có
hiệu lực pháp luật thấp hơn các văn bản luật. Để tránh sự nhầm lẫn những năm
gần đây về lý luận cũng như trong luật thực định và hoạt động thực tiễn đã có
sự thống nhất về mặt thuật ngữ là những văn bản do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành có quy tắc xử sự chung thì được gọi là “văn bản QPPL”,
cách gọi này tuy có hơi dài nhưng chính xác để phân biệt loại văn bản này với
những văn bản khác cũng do nhà nước ban hành nhưng không chứa quy tắc xử
sự chung (QPPL).
Các quy định của luật thực định ở Việt Nam về văn bản QPPL: Trong
Hiến pháp và các Luật tổ chức bộ máy nhà nước thì chỉ nói tới hình thức các
loại văn bản mà các cơ quan nhà nước Việt Nam được quyền ban hành, mà
không có sự phân biệt đâu là văn bản QPPL đâu không phải là văn bản QPPL.
Trong các Luật ban hành văn bản QPPL đã ban hành như: Luật ban hành văn
bản QPPL năm 1996 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định,
trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong định
nghĩa này còn có tập hợp từ “nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội theo định
hướng XHCN”. Trong Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND
(2004) thì quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND là văn
bản do HĐND, UBND ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật
này quy định, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực trong phạm vi địa
phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội ở địa phương theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều 1 Luật ban hành
văn bản QPPL (2008) thì văn bản QPPL lại được xác định như sau: “Văn bản
QPPL là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành
theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này
24
hoặc trong Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, Uỷ ban nhân dân,
trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước
bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”. Qua khái niệm trên đây
cho thấy đã không có sự thống nhất. Trong mỗi luật lại đưa vào những dấu
hiệu phụ khác nhau khi định nghĩa văn bản QPPL. Có thể nói, Luật ban hành
văn bản QPPL năm 2008 đã quy định khá chặt chẽ về khái niệm văn bản
QPPL, hình thức (tên) các văn bản QPPL và thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban
hành chúng. Những quy định đó đã làm cho việc nhận thức về văn bản QPPL,
thực tiễn ban hành văn bản QPPL ở Việt Nam chính xác, chặt chẽ và có cơ sở
pháp lý. Tuy vậy, chính những quy định quá chặt chẽ, máy móc của Luật ban
hành văn bản QPPL (2008) đã làm cho những người hoạt động thực tiễn lúng
túng trong việc nhận thức và lý giải về những trường hợp văn bản được ban
hành không phù hợp với Luật ban hành văn bản QPPL [14].
Tiếp tục hoàn thiện khái niệm nêu trên, Điều 2 Luật ban hành văn bản
QPPL (2015) đưa ra định nghĩa vừa có tính chất minh định, vừa loại trừ
những trường hợp không phải là văn bản QPPL, theo đó: “Văn bản QPPL là
văn bản có chứa QPPL, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức,
trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn bản có chứa quy phạm, pháp
luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ
tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản QPPL”. Đồng thời
Điều 4 Luật này cũng quy định hệ thống văn bản QPPL gồm 15 nhóm (loại)
văn bản gồm: Hiến pháp; Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh,
nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban
thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Nghị định của Chính phủ;
nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Nghị
25
quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Thông tư của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên
tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước; Nghị quyết của
HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Quyết định của UBND cấp tỉnh;
Văn bản QPPL của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt; Nghị quyết của HĐND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; Quyết định của UBND cấp huyện;
Nghị quyết của HĐND xã, phường, thị trấn; Quyết định của UBND cấp xã.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì hiện hoạt động xây dựng
CSPL hay xây dựng văn bản QPPL được thực hiện theo những quy trình
(công nghệ) khá phức tạp, qua nhiều công đoạn, nhiều cấp có thẩm quyền
xem xét, quyết định ở mỗi khâu, mỗi mắt xích của quy trình (tùy theo hình
thức, tính chất của mỗi loại CSPL hay văn bản QPPL). Quy trình xây dựng
CSPL và quy trình xây dựng văn bản QPPL tuy không đồng nhất, nhưng có
sự gắn kết chặt chẽ với nhau khi mà chính sách được chuyển hóa thành pháp
luật, hay nói cách khác là việc “quy phạm hóa chính sách”.
Luật ban hành văn bản QPPL (năm 2015) và Nghị định số
34/2016/NĐ-CP hiện đã tách bạch rõ quy trình là: (i) quy trình làm chính sách
(cũng có nghĩa là đưa sáng kiến pháp luật vào chương trình, kế hoạch lập
pháp); và (ii) quy trình quy phạm hóa chính sách - soạn thảo văn bản QPPL
sau khi chính sách đã được cấp có thẩm quyền thông qua (quy trình thứ (ii)
này về cơ bản không khác gì nhiều so với quy trình trước đây được quy định
26
theo Luật ban hành QPPL (năm 2008) khi áp dụng đối với việc soạn thảo văn
bản QPPL do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành).
1.1.5. Quy trình xây dựng chính sách
Đây là một trong những điểm khá mới mẻ của công nghệ làm luật ở
Việt Nam hiện nay (so với trước năm 2015), mà đã được “nhập khẩu” từ một
số quốc gia có trình độ lập pháp phát triển trên thế giới. Trước đây, pháp luật
chưa quy định cụ thể việc xây dựng, chính sách được tiến hành trước khi quy
phạm hóa chính sách, mặc dù trong quá trình lập chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh đã có quy định khi lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh bộ, cơ quan
ngang bộ phải có thuyết minh về sự cần thiết cho việc ban hành văn bản,
trong đó có các chính sách cơ bản của văn bản và mục tiêu của chính sách…;
đồng thời phải có Báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản. Tuy nhiên,
thực tiễn lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh các đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh chưa được thực hiện nghiêm túc, nhiều đề nghị về sáng kiến pháp
luật còn quá sơ sài, đơn giản chưa thể hiện được sự cần thiết cho việc ban
hành văn bản, chưa xác định được các chính sách cơ bản cũng như đánh giá
tác động sơ bộ chính sách. Việc đề nghị xây dựng văn bản QPPL chủ yếu phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan đề xuất chưa xuất phát từ thực tiễn cần
phải ban hành văn bản QPPL. Từ đó dẫn đến chất lượng chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh luôn bị thay đổi, ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng
văn bản QPPL. Việc soạn thảo luật, pháp lệnh chỉ thực sự được bắt đầu khi đã
được đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Lúc này, cơ quan soạn
thảo mới tiến hành tổng kết, nghiên cứu tài liệu, thành lập Ban soạn thảo, tổ
biên tập, …Do chưa có khâu phân tích, đánh giá chính sách trước đó nên cơ
quan soạn thảo lúc này mới xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính
sách,…(việc xây dựng luật, pháp lệnh mang tính chất vừa thiết kế, vừa thi
công) dẫn đến chính sách luôn bị thay đổi. Thực tiễn cũng cho thấy để nâng
27
cao chất lượng văn bản QPPL, các chính sách được ban hành trong các văn
bản QPPL đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp, phù hợp với thực tiễn thì khâu
phân tích, đánh giá chính sách cần phải được làm rất kỹ lưỡng, khoa học, có
sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân, các chuyên
gia nhà khoa học. Hơn nữa chính sách đó phải được xuất phát từ thực tiễn để
giải quyết vấn đề của thực tiễn, phải có một quy trình chặt chẽ để các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành các hoạt động phân tích, phê duyệt chính sách trước
khi tiến hành soạn thảo chính sách được đề xuất.
Xây dựng, đánh giá CSPL là một hoạt động có vai trò rất quan trọng,
thể hiện đường lối, quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước, nguyện vọng của
nhân dân, của các đối tượng thi hành đối với vấn đề mà văn bản điều chỉnh.
Khi một chính sách được đề ra thì cần xem xét, đánh giá sự cần thiết, mức độ
tác động về các mặt kinh tế - xã hội, tính khả thi, điều kiện bảo đảm thực hiện
của chính sách đó. Từ đó, làm cơ sở cho cơ quan, tổ chức được giao thiết kế
soạn thảo các QPPL cụ thể trong các văn bản QPPL. Theo đó, có thể mô
phỏng vắn tắt các bước chính của hai quy trình nêu trên đối với luật, pháp
lệnh theo sơ đồ dưới đây như sau:
28
Mô hình 1: Quy trình chính sách trong lập đề nghị xây dựng pháp luật
Mô hình 2: Quy trình quy phạm hóa chính sách - quy trình lập pháp
đối với dự án luật được Quốc hội cho ý kiến, thông qua tại hai kỳ họp:
Bước 1:
Xây dựng nội dung chính sách
Bước 2:
Đánh giá tác động của chính sách
Bước 3:
Xây dựng Hồ sơ lập đề nghị xây dựng VBQPPL
Bước 4:
Lấy ý kiến về đề nghị xây dựng xây dựng VBQPPL
Bước 5:
Thẩm định đề nghị xây dựng xây VBQPPL
Bước 6:
Trình Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị xây dựng
VBQPPL
29
CQ thẩm tra phối
hợp cơ quan trình
tiếp thu, chỉnh lý
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
(Quốc hội)
Soạn thảo
(Cơ quan chủ trì soạn thảo)
Đăng tải, lấy ý kiến, giải trình, tiếp thu ý kiến
(Cơ quan chủ trì soạn thảo)
Thẩm định
(Bộ Tư pháp)
Chỉnh lý dự thảo, trình Chính phủ
(Cơ quan chủ trì soạn thảo)
)
Xem xét, quyết định trình Quốc hội
(Chính phủ)
Thẩm tra
(Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội)
Văn phòng CP
(họp nếu còn ý
kiến khác nhau)
Cho ý kiến
(Uỷ ban thường vụ Quốc hội)
Xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ nhất
(Quốc hội)
Soạn thảo trên
cơ sở nghị quyết
của Chính phủ
thông qua chính
sách
Chỉnh lý, lấy ý kiến đại biểu Quốc hội
Xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ hai
(Quốc hội)
Chỉnh lý
(Ủy ban thường
vụ Quốc hội)
Chỉnh lý về thể
thức, kỹ thuật
(Ủy ban PL QH)
Ký lệnh công bố
(Chủ tịch nước)
30
Qua hai Biểu đồ minh họa nêu trên có thể dễ dàng nhận thấy: về mặt
hình thức, người dân (cá nhân) có quyền tham gia vào công việc hoạch định
chính sách và lập pháp của Nhà nước. Giả sử nếu chúng ta đi hết một quy
trình đầy đủ từ một sáng kiến pháp luật để trở thành một đạo luật, thì người
dân có quyền tham gia ở hai công đoạn khác nhau từ quy trình chính sách -
Bước 4 của Mô hình 1 đến quy trình quy phạm hóa chính sách - Bước 3 của
Mô hình 2. Cả hai công đoạn này đều được thực hiện trước thời điểm thẩm
định chính sách hoặc thẩm định dự án, dự thảo văn bản QPPL và đều do cơ
quan chủ trì soạn thảo thực hiện. Pháp luật cũng quy định trách nhiệm bắt
buộc đối với cơ quan nhà nước trong việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến tham gia
của nhân dân, theo đó: “Ý kiến tham gia về đề nghị xây dựng văn bản QPPL,
dự thảo văn bản QPPL phải được nghiên cứu, tiếp thu trong quá trình chỉnh
lý dự thảo văn bản”.
Tóm lại, ta có thể khái quát ngắn gọn vấn đề này theo cách như sau:
Quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL của cá nhân là quyền phái
sinh từ quyền tham gia quản lý đất nước, là quyền được phát biểu ý kiến cá
nhân (bằng hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp) đối với CSPL, văn bản QPPL
do cơ quan nhà nước soạn thảo, ban hành, là phương thức thực hiện dân chủ;
bảo đảm cho mọi chính sách pháp luật của nhà nước đều phải xuất phát từ ý
chí, nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
1.2. Vai trò của quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn
bản quy phạm pháp luật
1.2.1. Cơ sở lý luận
Về căn bản, tất cả các nhà triết học trong lịch sử triết học trước Mác
đều không nhận thức đúng vai trò của quần chúng nhân dân trong trong tiến
31
trình phát triển của lịch sử. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ
quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng
định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì,
mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh
thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa, tư
tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua hành động cách
mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước
mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội. Vai trò quyết định lịch sử của quần
chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung.
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã
hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết,
mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng
sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao
động chân tay và lao động trí óc. Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có
vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song, vai trò của
khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng
nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền
sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng, hoạt
động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách
mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là
lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi
cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình
thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao
32
động là lực lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng,
là sự nghiệp của quần chúng. Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi
cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật
chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các
quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi
cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa
tinh thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa
học, nghệ thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động
thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự,
kinh tế, chính trị, đạo đức... của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để
thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại.
Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô
tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn
hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân
chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt
động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch
sử. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng
nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh
vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: "Chở
thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch
lòng dân thì chết". Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, và quan điểm "lấy dân làm gốc" trở thành
tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân ta. Cho
đến nay, thì vai trò của quần chúng nhân dân tiếp tục chính thức được đề cao,
33
ghi nhận ở cấp độ chính trị - pháp lý cao nhất từ trong các văn kiện quan
trọng của Đảng cộng sản Việt Nam cho đến các bản Hiến pháp của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua các thời kỳ - một nguyên tác xuyên
suốt là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân; trong giám sát
hoạt động quản lý nhà nước thì dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Bản chất của hoạt động xây dựng pháp luật không phải là chủ đề bàn
luận mới của giới khoa học pháp lý ở Việt Nam. Một cách khái quát nhất, xây
dựng pháp luật là hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các quy
định của pháp luật (tức là các quy phạm pháp luật) cho phù hợp với nhu cầu
điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Nói cách khác, xây dựng
pháp luật là hoạt động tạo lập mới hoặc thay đổi các QPPL đã có - tế bào của
hệ thống pháp luật. Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống pháp
luật có thể “phình” thêm hoặc “teo” đi. Hoạt động xây dựng pháp luật cũng là
hoạt động quyền lực hóa các chuẩn mực xã hội.
Không ít nhà khoa học pháp lý ở Việt Nam cho rằng, hoạt động này có
2 khía cạnh cơ bản. Ở khía cạnh chính trị, xây dựng pháp luật là hoạt động
nhằm “thể hiện ý chí của nhà nước thành pháp luật”. Đây cũng là quá trình
“nhận thức và thể hiện các lợi ích của… xã hội,… của nhóm xã hội”. Ở khía
cạnh kỹ thuật pháp lý, xây dựng pháp luật là “quá trình sáng tạo pháp luật…
hình thành hệ thống các quy định pháp luật”. Tổng hợp lại, nhiều nhà khoa
học pháp lý cho rằng, xây dựng pháp luật là “một hoạt động kỹ thuật-pháp lý
mang tính chính trị”. Xây dựng pháp luật, về bản chất, là hoạt động nhằm tạo
ra các QPPL. Đó là hoạt động “đưa ý chí của Nhà nước, ý chí của nhân dân
lên thành pháp luật”.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
34
Pháp luật thực định của chúng ta cũng đã ghi nhận đầy đủ tính chất và
tầm quan trọng của nhân dân trong hoạt động xây dựng pháp luật. Trên thực
tế, thì không phải việc lấy ý kiến nhân dân chỉ dừng lại ở hai thời điểm như đã
trình bày tại điểm 1.1.5 trên đây, mà tùy theo nội dung, tính chất của từng
chính sách, cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan góp ý, thẩm định, thẩm tra,
xem xét, thông qua…có thể tổ chức lấy ý kiến nhân dân hoặc đối tượng chịu
sự tác động của chính sách nhiều lần trước khi ra quyết định nhất trí, hay
không chấp nhận đối với chính sách do cơ quan chủ trì soạn thảo đề xuất. Ví
dụ như: trong thời gian qua, khi xem xét dự thảo sửa đổi Hiến pháp, hoặc một
số dự thảo bộ luật quan trọng như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự (sửa đổi),
Quốc hội đã quyết định chỉ đạo các cơ quan, tổ chức liên quan tiếp tục tổ chức
việc lấy ý kiến nhân dân về các dự thảo văn bản nêu trên, mặc dù trước đó các
dự thảo văn bản này đã được cơ quan chủ trì soạn thảo lấy ý kiến theo đúng
quy trình luật định.
Trong quá trình lấy ý kiến nhân dân, nhiều vấn đề quan trọng đã được
cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu. Ví dụ như: tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; bổ sung quy định một số quyền con
người, quyền cơ bản của công dân phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về
quyền con người; thiết lập mô hình phân nhánh quyền lực nhà nước theo ba
quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp;… thông qua việc sửa đổi, bổ sung
quy định liên quan đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013. Hoặc tiếp thu
ý kiến của cộng đồng khởi nghiệp (Startup) cho rằng “hiện nay kinh doanh
trên mạng đang là một hướng phát triển có tiềm năng và ngày càng có nhiều
người tham gia. Vì vậy, pháp luật cần có cơ chế thúc đẩy, tạo điều kiện thuận
lợi và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển lĩnh vực kinh
doanh này…”, tại Phiên họp thường kỳ của Ủy ban thường vụ Quốc hội
(tháng 10/2016), Chính phủ đã quyết định đề nghị Quốc hội bãi bỏ Điều 292
35
Bộ luật hình sự sửa đổi (2015) - Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng
máy tính, mạng viễn thông.
Qua đây cho thấy vai trò của nhân dân là nhân tố quyết định trong việc
lựa chọn ban hành những quyết sách lớn của nhà nước. Điều này càng được
thể hiện rõ nét hơn khi chúng ta đang thực hiện chủ trương do Đảng khởi
xướng về xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chỉ khi nào người dân
thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động quản lý của Nhà
nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thực sự
thành công. Việc càng mở rộng hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt
động quản lý nhà nước không chỉ đòi hỏi từ sự hội nhập mà quan trọng hơn là
từ chính yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, dân chủ
hóa đời sống xã hội và của bản thân Nhà nước. Mở rộng sự tham gia của người
dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý nhà nước sẽ đóng
góp quan trọng cho việc xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ, ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hiện nay; bảo đảm cho Nhà
nước giữ vững bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân, bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả của các chính sách, pháp luật được ban hành đã được Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý ngay sau thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tháng Tám [2].
1.3. Nội dung và đặc trưng quyền tham gia xây dựng chính sách pháp
luật, văn bản quy phạm pháp luật
1.3.1. Nội dung quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn
bản quy phạm pháp luật
Điều 25 ICCPR ghi nhận và bảo vệ quyền của mọi công dân được tham
gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Khẳng định nền tảng của việc quản lý nhà
36
nước là phải trên cơ sở đồng thuận của nhân dân. Cho dù theo thể chế chính trị
nào thì các quốc gia thành viên cũng phải thông qua những biện pháp pháp lý
và các biện pháp cần thiết khác để đảm bảo cho mọi công dân đều có cơ hội
được hưởng các quyền này, trong đó có quyền tham gia xây dựng CSPL, văn
bản QPPL.
Không giống như các quyền và tự do khác được ghi nhận trong ICCPR
mà có chủ thể của quyền là mọi cá nhân trong phạm vi lãnh thổ và thuộc
quyền tài phán của một quốc gia, quyền này chỉ dành riêng cho những người
có vị thế “công dân” của quốc gia. Tuy nhiên, không được có bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào vì bất kỳ lý do gì giữa các công dân trong việc thực hiện
những quyền, kể cả sự phân biệt giữa những người được hưởng tư cách công
dân một cách đương nhiên ngay khi sinh ra và những người có được tư cách
công dân bằng việc nhập quốc tịch.
Quyền này có thể bị hạn chế nhưng mọi hạn chế phải hợp lý và khách
quan. Ví dụ, một trong những hạn chế được cho là hợp lý là quy định cần phải
đạt đến một độ tuổi nhất định; hoặc quy định những người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự có thể không được thực hiện quyền này.
Công dân có thể trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua việc tự lựa chọn cơ
quan, tổ chức, người đại diện...) để bày tỏ quan điểm cá nhân của mình đối
với những CSPL hoặc văn bản QPPL do cơ quan nhà nước soạn thảo, ban
hành, một cách chủ động hoặc khi có yêu cầu tham vấn.
Mỗi quốc gia phải có nghĩa vụ thúc đẩy, bảo đảm, bảo vệ việc thực thi
quyền đối với công dân của mình. Về mặt hình thức, quyền này phải được ghi
nhận bằng pháp luật (ở các cấp độ Hiến pháp, hoặc các đạo luật...). Về mặt
nội dung, nhà nước cần có cơ chế bảo đảm thực thi quyền của công dân một
37
cách thực chất, tuy nhiên, trên thực tế thì cũng còn tùy thuộc vào điều kiện
hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà mức độ thực thi quyền là khác nhau.
1.3.2. Đặc trưng quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn
bản quy phạm pháp luật
Thể hiện rõ nét bản chất của nhà nước dân chủ - pháp quyền. Có thể
nói quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL khẳng định nền tảng của
việc quản lý nhà nước là phải trên cơ sở đồng thuận của nhân dân. Trong điều
kiện mở rộng dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân thì sự tham gia của cá nhân, tổ chức vào quá
trình xây dựng pháp luật là một trong những điều kiện cần thiết để đảm bảo
cho pháp luật phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân; là cơ hội để
tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, hay nói khác đi đó cũng là quá
trình để các bên hiểu nhau và vận động sự ủng hộ lẫn nhau trong việc thiết lập
một cơ chế, khuôn khổ mang tính pháp lý chung đối với xã hội; là một sự
giám sát khách quan, hữu hiệu đối với các quá trình trong quy trình lập pháp
và các bên tham gia lập pháp - điều này cũng thể hiện xu hướng tất yếu của xã
hội dân chủ hiện đại dù ở bất kỳ thể chế nào.
Trong mối quan hệ giữa dân chủ với nhân quyền - quyền tham gia của
người dân vào công việc của nhà nước để thực hiện dân chủ thì đây là một giá
trị cao cả - mục đích chung mọi xã hội. Việc thực hiện quyền con người nói
chung và quyền tham gia của người dân vào công việc quản lý nhà nước nói
riêng, trước hết phải do nhà nước, là trách nhiệm của nhà nước, bởi nhà nước
và thực hiện quyền con người phải là nội dung, mục đích của việc thực hiện
quyền lực nhà nước và phải trong khuôn khổ của pháp luật. Trong xã hội hiện
đại, nói đến nhà nước không thể không nói đến dân chủ với tư cách là cơ chế,
cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và hình thức thực hiện quyền lực nhà
38
nước - pháp luật và dân chủ cũng chính là mục đích của việc tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, bàn đến việc bảo đảm và thực hiện
quyền con người bằng nhà nước phải đề cập đến dân chủ và pháp luật. Trên
thực tế, nếu quyền con người được bảo vệ và phát triển, con người sẽ ý thức
và thực hiện quyền tham gia vào công việc của nhà nước, thực hiện quyền dân
chủ. Trong mối quan hệ này luôn có sự tương tác hai chiều, bảo đảm thực
hiện nhân quyền thì có thể thực hiện phát huy dân chủ và ngược lại; thậm chí,
nếu tiếp cận dân chủ như một quyền, khó có thể tách biệt được giữa quyền
con người với dân chủ.
Gắn với nhiều phương thức, hình thức thực hiện khác nhau. Có thể nói,
các phương thức, hình thức để người dân tham gia vào quá trình xây dựng
chính sách, pháp luật, công việc quản lý của Nhà nước là khá đa dạng, phong
phú. Nó cho phép người dân có thể chủ động hoặc bị động (được hỏi) biểu đạt
được ý chí, nguyện vọng của mình với các cơ quan nhà nước trong việc hình
thành nên các chính sách, pháp luật cũng như việc quyết định và thi hành
pháp luật, bằng hình thức trực tiếp (tự mình thực hiện) hoặc gián tiếp (thông
qua các cá nhân, tổ chức đại diện thay mặt mình thực hiện).
Thể hiện sự tương tác giữa chủ thể có quyền và chủ thể có nghĩa vụ
trong việc bảo đảm thực hiện quyền. Như đã trình bày trên đây thì nhà nước
luôn có trách nhiệm phải bảo đảm sự tham gia của người dân vào quá trình
xây dựng chính sách, pháp luật, cũng như công việc quản lý của Nhà nước nói
chung, bằng nhiều hình thức khác nhau (tham vấn ý kiến, trưng cầu dân ý...).
Đồng thời nhà nước cũng có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu, giải trình các ý
kiến tham gia, phản biện từ phía người dân. Qua đó nhằm góp phần nâng cao
chất lượng, hoàn thiện hơn chính sách, văn bản pháp luật do nhà nước ban
hành. Ý chí biểu đạt của người dân được tôn trọng và bảo vệ, giúp họ tự ý
39
thức, đề cao vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tham gia vào quá trình
quản lý nhà nước.
Có sự khác biệt cơ bản so với các quyền dân sự, chính trị khác. So với
các quyền dân sự, chính trị khác thì hoạt động xây dựng CSPL hay xây dựng
văn bản QPPL là những vấn đề rất phức tạp, thuộc về thượng tầng kiến trúc,
mà không phải dễ gì ai cũng có thể hiểu được tường tận gốc rễ của mọi vấn
đề, nếu như không có một nền tảng kiến thức nhất định. Do vậy, việc đảm
quyền tham gia xây dựng CSPL, các văn bản QPPL có những đặc thù nhất
định so với việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị khác ở chỗ: Nhà nước
phải tạo cơ chế để người dân hay đối tượng chịu sự tác động của CSPL,
QPPL có thể hiểu được CSPL, các văn bản QPPL do mình soạn thảo, ban
hành. Việc đó có thể tác động hay không tác động, hoặc tác động tiêu cực hay
tích cực đến người dân, từ đó họ mới có thể biểu lộ được thái độ phản ứng,
hay không phản ứng đối với CSPL, hay QPPL mà nhà nước đưa ra.
Kết luận Chương 1
Chương 1 đã phân tích cơ sở lý luận về quyền tham gia của cá nhân
vào đời sống chính trị nói chung và trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL nói
riêng, bao gồm khái niệm, vai trò, nội dung, giới hạn, khung pháp luật về
quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL. Quyền này hiện đã trở thành
nhu cầu cấp thiết cần được bảo đảm thực hiện, khi mà xã hội được quản lý và
vận hành theo những nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, từ lý luận đến thực tiễn vẫn còn có
những bất cập, hạn chế, vậy nên thực trạng bảo đảm quyền tham gia của cá
nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL ở Việt Nam cần được tiếp tục
nghiên cứu tại Chương 2 dưới đây.
40
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA XÂY DỰNG
CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Ở VIỆT NAM
2.1. Ghi nhận về mặt pháp lý và những kết quả đã đặt được trong
việc bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản
quy phạm pháp luật tại Việt Nam
2.2.1. Những ghi nhận về mặt pháp lý
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc
bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây
dựng đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, tư duy và nhận thức chính trị về
quyền con người được điều chỉnh thêm một bước đã tạo tiền đề cho việc khắc
phục quan niệm bó hẹp trước đây về nội dung quyền con người cũng như
phương thức đảm bảo quyền con người. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/05/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, đã đặt ra yêu
cầu về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền
tự do, dân chủ của công dân, theo đó, củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và
tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị,
kinh tế, văn hoá - xã hội. Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ
quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt
động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp
để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước. Gần đây nhất, Văn kiện
Đại hội đảng lân thứ XII của Đảng (2016) tiếp tục khẳng định: “Phát huy dân
chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ
41
phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra
những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân [22].
Thể chế hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của
Hiến pháp năm 2013. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hoá và
thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Hiến pháp năm 2013 đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của chế độ dân
chủ XHCN ở Việt Nam. Thiết lập cơ sở pháp lý cao nhất cho các hình thức dân
chủ, trong đó, các hình thức dân chủ trực tiếp rất được chú trọng và đề cao như:
“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ
đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước” (Điều 6). Trong số các hình thức dân chủ trực tiếp, việc nhân dân tham
gia quản lý nhà nước và xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là
“phương pháp tuyệt diệu để tăng ngay một lúc bộ máy của chúng ta lên gấp
mười lần” [19, tr.412]. Qua đây người dân người dân hiểu biết về các công
việc của nhà nước và xã hội, phát huy trí tuệ, chủ động, tích cực tham gia
quản lý, giải quyết các công việc của nhà nước và xã hội. Điều 28 của Hiến
pháp năm 2013 quy định: “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước
và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn
đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân
tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp
nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”. Quy định này không chỉ tạo
cơ sở pháp lý cho người dân tham gia quản lý nhà nước và còn xác định rõ
trách nhiệm của Nhà nước phải tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền
của mình. Đặc biệt, trách nhiệm đó được thực hiện theo nguyên tắc công khai,
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

More Related Content

What's hot

BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...hanhha12
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...hieu anh
 
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt NamTòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Namhieu anh
 

What's hot (17)

BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
 
Luận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAYLuận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAY
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn TâyTuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nướcLuận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOT
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ quyền con người ở khu vực Asean, 9đ
Luận văn: Cơ chế bảo vệ quyền con người ở khu vực Asean, 9đLuận văn: Cơ chế bảo vệ quyền con người ở khu vực Asean, 9đ
Luận văn: Cơ chế bảo vệ quyền con người ở khu vực Asean, 9đ
 
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóaLuận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
 
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt NamBảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
 
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt NamTòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
 
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hộiĐề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
 
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOTLuận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
 
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOTPháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
 

Similar to Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...
Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...
Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiViết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...jackjohn45
 
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamKhóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620 (20)

Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sựQuyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
 
Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...
Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...
Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Bảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAY
Bảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAYBảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAY
Bảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAY
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận án: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAYLuận án: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAYLuận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội, HAY
Luận văn: Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội, HAYLuận văn: Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội, HAY
Luận văn: Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội, HAY
 
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAYLuận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
 
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tungLuan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
 
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáoBảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
 
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
 
Khóa luận - Bảo đảm quyền tự do lập hội theo hiến pháp 2013.doc
Khóa luận - Bảo đảm quyền tự do lập hội theo hiến pháp 2013.docKhóa luận - Bảo đảm quyền tự do lập hội theo hiến pháp 2013.doc
Khóa luận - Bảo đảm quyền tự do lập hội theo hiến pháp 2013.doc
 
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamKhóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 

Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VƯƠNG TOÀN THẮNG QUYỀN THAM GIA CỦA CÁ NHÂN TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA NƯỚC TA HIỆN HAY Chuyên ngành: Quyền con người LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2017
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN VƯỜNG TOÀN THẮNG
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ QUYỀN THAM GIA CỦA CÁ NHÂN TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT .................................................................. 9 1.1. Khái niệm về quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật .......................................................... 9 1.2. Vai trò của quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật .................................................................................................... 30 1.3. Nội dung và đặc trưng quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật................................................................................ 35 Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM ............................................................................ 40 2.1. Ghi nhận về mặt pháp lý và những kết quả đã đặt được trong việc bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam ................................................................................................. 40 2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân....................................................... 48 Chương 3: TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM ............................................................................ 63 3.1. Các định hướng tăng cường bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật ...................................................... 63 3.2. Các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật............................................. 63 KẾT LUẬN........................................................................................................ 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 72
  • 4. DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT CSPL: Chính sách pháp luật HĐND: Hội đồng nhân dân ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 QPPL: Quy phạm pháp luật UBND: Ủy ban nhân dân UDHR: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong một xã hội dân chủ, người dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, có thể thực hiện quyền của mình thông qua các con đường trực tiếp hoặc gián tiếp. Quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật (CSPL), văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) là biểu hiện cụ thể của nhóm quyền được tham gia vào đời sống chính trị (the right participation in political life). Quyền này đầu tiên được ghi nhận tại Điều 21 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR - Universal Declaration of Human Right), theo đó “mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đại diện mà họ được tự do lựa chọn...”. Tiếp đến Điều 25 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR- International Covenant on Civil and Polotical Right) tái khẳng định và cụ thể hóa thêm một bước Điều 21 UDHR, nêu rõ nguyên tắc mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào... và không có bất kỳ sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: “tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa chọn...”. Điều này khẳng định nền tảng của việc quản lý nhà nước là phải trên cơ sở đồng thuận của nhân dân, cho dù theo thể chế chính trị nào thì các quốc gia thành viên cũng phải thông qua những biện pháp pháp lý và biện pháp cần thiết khác để bảo đảm cho mọi công dân đều có cơ hội được hưởng các quyền này [10, tr. 191, 192]. Trong mối quan hệ giữa dân chủ với nhân quyền - quyền tham gia của người dân vào công việc của nhà nước để thực hiện dân chủ thì đây là một giá trị cao cả - mục đích chung mọi xã hội. Việc thực hiện nhân quyền trước hết phải do nhà nước, là trách nhiệm của nhà nước, là nội dung, mục đích của
  • 6. 2 việc thực hiện quyền lực nhà nước. Khi nói đến nhân quyền, thì phải nói đến nhà nước với tư cách là một trong những chủ thể quan trọng nhất trong xã hội, có trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền con người và cũng là chủ thể có khả năng cao nhất vi phạm nhân quyền và để lại hậu quả lớn nhất. Trong xã hội hiện đại khi bàn đến việc bảo đảm và thực hiện quyền con người bằng nhà nước phải đề cập đến dân chủ và pháp luật. Thực tế cũng như vậy, ở nơi nào quyền con người được bảo vệ và phát triển, con người sẽ ý thức và thực hiện quyền tham gia vào công việc của nhà nước, thực hiện quyền dân chủ. Tóm lại, trong mối quan hệ này luôn có sự tương tác hai chiều, bảo đảm thực hiện nhân quyền thì có thể thực hiện phát huy dân chủ và ngược lại; thậm chí, nếu tiếp cận dân chủ như một quyền, khó có thể tách biệt được giữa quyền con người với dân chủ [47, tr. 226, 227]. Ở Việt Nam, nhà nước luôn tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân thể hiện tính trực tiếp của quyền lực nhân dân trong đời sống quản lý. Đó là quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và của địa phương, quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước được ghi trong các văn kiện quan trọng của Đảng, Hiến pháp, các đạo luật ..., qua đó đã xác lập nguyên tắc, quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước [64]. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm đi vào thực chất việc thực thi quyền con người trong tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL, cần được khắc phục trong thời gian tới. Từ những đòi hỏi thực tiễn, trên cơ sở mong muốn có những đóng góp nhất định cho việc bảo đảm thực thi hiệu quả hơn quyền được tham gia vào đời sống chính trị của người dân, tác giả đã chọn đề tài “Quyền tham gia của cá nhân trong xây
  • 7. 3 dựng chính sách pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật” làm Đề tài Luận văn Thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Trong những năm gần đây, các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người ở Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Chúng ta đã có những công trình nghiên cứu về quyền con người nói chung, điển hình có thể kể ra một số dưới đây như: GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên về quyền con người ở Việt Nam đã đề cập một số cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội về quyền TCTT. Đó là các công trình: Quyền con người, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011; Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011; Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009; Xã hội học pháp luật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2012; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011. Quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Trung tâm Thông tin Tư liệu trực thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1993; Đinh Văn Mậu, Quyền lực nhà nước và quyền công dân, NXB Tư pháp, 2003; Bùi Ngọc Cường, Một số vấn đề về Quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2004; Phạm Văn Khánh, Góp phần tìm hiểu quyền con người, NXB Khoa học xã hội, 2006; Tường Duy Kiên, Đảm bảo quyền con người trong hoạt động của Quốc hội Việt nam, Hà Nội, 2004...và một số công trình đã được đăng trên Tạp chí Nhân quyền các số như: 6/2015; 8/2015; 10/2015; 3/2016; 7/2016.v.v...
  • 8. 4 Ở góc độ nghiên cứu chuyên sâu về các quyền dân sự, chính trị cụ thể - quyền được tham gia vào đời sống chính trị của người dân thì có thể kể đến: “Quyền được thông tin trong hoạt động báo chí”, Thái Thị Tuyết Dung, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 248, tháng 8/2013; “Quyền tiếp cận thông tin từ góc độ xã hội học quyền con người” ThS. Lê Thị Hồng Nhung, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24 (209) tháng 12/2011; “Luật trưng cầu dân ý phải thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân”, Phan Đăng Trường, Tạp chí Nhân quyền, số 3/2015; “Sự tham gia của các tổ chức xã hội trong quy trình xây dựng pháp luật”, Đinh Ngọc Quý, nclp.org.vn, tháng 01/2015; “Đảm bảo sự tham gia của doanh nghiệp trong xây dựng và thực thi pháp luật”, Nguyễn Minh Đức, Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI; “Quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân theo Hiến pháp mới”, PGS.TS. Đinh Xuân Thảo, Báo Điện tử Chính phủ; “Tăng cường sự tham gia của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước”, Hà Quang Ngọc - Hà Quang Trường, Tạp chí Cộng sản điện tử, tháng 8/2007.v.v... 2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Có rất nhiều ấn phẩm sách, tạp chí trực tiếp và gián tiếp nghiên cứu, viết về quyền tham gia chính trị (Political Participation) của người dân của các học giả nước ngoài, song đánh giá tổng quan về vấn đề này cho thấy: một số tác giả chủ yếu tiếp cận quyền tham gia chính trị với tư cách là quyền con người. Trước tiên phải kể đến cuốn sách “Democracy in a Global World: Human Rights and Political Participation in the 21st Century” của tác giả Deen K. Chatterjee viết năm 2008. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã đề cập đến quyền tham gia chính trị trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế dân chủ hóa đang lan rộng trên toàn thế giới. Tác giả cho rằng, quyền tham gia chính trị đóng vai trò quan trọng và góp phần vào việc bảo đảm và nâng cao quyền con người. Các lý thuyết về mô hình dân chủ hiện đại đưa ra các cơ chế
  • 9. 5 đảm bảo tính minh bạch, công khai và quyền tham gia chính trị, qua đó thúc đẩy sự thật, trách nhiệm của cơ quan công quyền và bảo vệ quyền con người. Trong công trình nghiên cứu, tác giả cũng phân tích đến quyền tham gia chính trị của mỗi quốc gia là khác nhau. Điều này được giải thích bởi sự đa dạng về truyền thống pháp luật, văn hóa, xã hội. Công trình thứ hai phải kể đến là cuốn Political Participation and Voting Rights của tác giả Tom Landford. Đây là cuốn sách mới xuất bản đầu năm 2016. Tác giả nghiên cứu quyền tham gia chính trị trong mối quan hệ với quyền bỏ phiếu và cho rằng quyền tham gia chính trị là nhân tố cơ bản của sự dân chủ. Trong số các nội dung của quyền tham gia chính trị, quyền bỏ phiếu thể hiện sự tham gia rộng rãi của xã hội vào việc con đường chính trị của quốc gia. Tác giả cũng chỉ ra các minh chứng cụ thể về sự dân chủ hóa trong các bối cảnh quốc gia khác nhau như Liên bang Xô Viết và một số nước Đông Âu, như một số nước hồi giáo trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về quyền tham gia chính trị của một quốc gia như Political Participation and Democracy in Britain (Quyền tham gia chính trị và Dân chủ ở Khối thịnh vượng Anh) của nhóm tác giả Geraint Parry, George Moyser, Neil Day. Công trình Asian American Political Participation: Emerging Constituents and Their Political Identities viết về quyền tham gia chính trị ở Châu Á và Hoa Kỳ của nhóm tác giả Janelle Wong, S. Karthick Ramakrishnan, Taeku Lee, Jane Junn. Công trình nghiên cứu so sánh về quyền tham gia chính trị phải kể đến như Participation and Political Equality: A Seven-Nation Comparison. Trong nghiên cứu của mình, nhóm tác giả phân tích các quy định pháp luật hiện hành và cơ chế bảo đảm quyền tham gia chính trị ở 7 quốc gia. Ngoài việc nghiên cứu sách tham khảo, giáo trình như đã kể trên, Đề tài cũng được các tác giả quan tâm nghiên cứu ở cấp độ tạp chí. Các bài viết tiêu biểu có thể kể đến như: Stakeholder Citizenship and Transnational Political
  • 10. 6 Participation: A Normative Evaluation of External Voting, The Human right to Political Participation, Political participation as a human right, The right to political participation and the information society, … Nhìn chung các công trình khoa học trên đây mới chủ yếu nghiên cứu ở những góc độ nhất định về các quyền con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị nói riêng; luận giải những vấn đề về lý luận, học thuật, cơ chế xã hội, cơ chế pháp lý về sự hình thành và phát triển quyền con người ở cấp độ quy mô quốc gia, khu vực, toàn cầu, và những vấn đề từ thực tiễn có liên quan. Tuy nhiên, ở gốc độ nghiên cứu chuyên sâu về quyền dân sự và chính trị - quyền được tham gia vào đời sống chính trị của người dân, trong đó, cụ thể là Quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL, thì chưa có tác phẩm nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Hướng tới bảo đảm thực hiện thực chất hơn quyền được tham gia vào đời sống chính trị, trong đó có quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL ở Việt Nam hiện nay; tăng cường phát huy dân chủ, đề cao vai trò để người dân thực sự là chủ thể của quyền lực nhà nước trong công cuộc xây dựng, hoàn thiên nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do dân dân và vì nhân dân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra là cần: (i) Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về mặt lý luận về quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL; (ii) Đánh giá khách quan về thực trạng bảo đảm quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL ở Việt
  • 11. 7 Nam hiện nay; và (iii) Đề xuất các định hướng nhằm tăng cường bảo đảm quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHXN Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL, biểu hiện cụ thể của nhóm quyền được tham gia vào đời sống chính trị của người dân (the right participation in political life), và cơ chế bảo đảm thực hiện quyền này - với tư cách là một trong các quyền cơ bản của con người, 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chú trọng nghiên cứu, phân tích khái quát hệ thống các quan điểm, học thuyết, pháp luật về quyền tham gia vào đời sống chính trị nói chung; quan điểm, chính sách, pháp luật của Việt Nam, qua đó tìm ra mối liên hệ, sự tương thích giữa nội dung chuẩn mực quốc tế về quyền tham gia vào đời sống chính trị với nội dung chuẩn mực và quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL ở Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Phương pháp luận nghiên cứu của Luận văn là dựa trên quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; và các quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền con người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu
  • 12. 8 Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Đồng thời cũng vận dụng kết hợp một số phương pháp cơ bản như: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, logic, quy nạp, diễn dịch, xã hội học, định tính, định lượng, nghiên cứu tiếp cận liên ngành, đa ngành. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống về lý luận quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, các văn bản QPPL và bảo đảm quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, qua đó rút ra tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; đồng thời đề ra những giải pháp để tiếp tục nâng cao hiệu quả bảo đảm thực hiện quyền này trong thời gian tới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, là nguồn cung cấp thông tin cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong quá trình thực thi quyền này cũng như xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản quy phạm QPPL ở nước ta hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết cấu theo ba chương như sau: Chương 1: Lý luận về quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, và các văn bản quy phạm pháp luật. Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam. Chương 3: Tăng cường bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam.
  • 13. 9 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ QUYỀN THAM GIA CỦA CÁ NHÂN TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm về quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng chính sách pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật Để đi đến định nghĩa về quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL, trước hết Luận văn làm rõ nội hàm một số vấn đề: “sự tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL”, “CSPL”; “QPPL”; và “Văn bản QPPL”: 1.1.1. Sự tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL Ban đầu, người ta xem sự tham gia chỉ đơn thuần là việc đóng góp sức lao động vào việc thực hiện các hoạt động của hoạt động cụ thể. Theo đó, hình thức tham gia này chỉ đơn giản giới hạn trong việc thực thi các quyết định, kế hoạch, mục tiêu, và hoạt động đã được chuẩn bị, xây dựng trước. Tuy nhiên, vấn đề tham gia trong khoa học xã hội lại đề cập đến các cơ chế khác nhau giúp cho công chúng có thể bày tỏ ý kiến, và lý tưởng về các vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, quản lý hoặc quyết định xã hội…. Khái niệm về sự tham gia ở đây có nghĩa là góp phần vào thực hiện một hoạt động hay giữ một vị trí, vai trò nào đó trong một quy trình hoạt động nhằm đạt được hiệu quả chung. Do đó, cần phải nhìn nhận khái niệm tham gia ở một góc độ rộng hơn với tính chất là một quá trình bàn bạc cởi mở, bình đẳng giữa các chủ thể có liên quan. Trong đó kiến thức, ý kiến của tất cả mọi người được khám phá và tôn trọng. Kết luận cuối cùng của việc thảo luận phải được thông qua căn cứ trên kết quả của sự thỏa thuận, đồng ý. Nếu không được tham gia đưa ra ý kiến hoặc chỉ đơn thuần đóng vai trò là đối tác để được tham khảo ý kiến thì sự tham gia chỉ mang tính hình thức.
  • 14. 10 Các cấp độ tham gia: Sự tham gia ở đây bao gồm các nội dung khác nhau và còn phụ thuộc vào từng hoạt động. Chúng ta có thể xem xét dưới góc độ thang bậc của sự tham gia mà ở đó có sự sắp xếp từ mức độ tham vấn hạn chế cho đến tham gia một cách tích cực như: Nghe thông tin, thông tin được đưa ra bởi một người hoặc một nhóm người cụ thể nhưng không đủ để đại diện cho toàn bộ cộng đồng, tuy nhiên các hoạt động vẫn được tiến hành mà đa số những chủ thể có quyền liên quan đều không được biết đến nội dung của quá trình thảo luận và ra quyết định. Tư vấn, tức là việc cán bộ, công chức thực hiện tư vấn cho người dân hiểu về quy trình soạn thảo văn bản QPPL, tuy nhiên chưa cho phép người dân tham gia vào quy trình đó. Tham vấn, người dân được hiểu là hành động có chủ đích của chính quyền nhằm thông báo, hỏi và lắng nghe, thảo luận với những người dân chịu ảnh hưởng bởi một quyết định, một giải pháp nào đó hoặc những người có liên quan có quan tâm đến chính sách, giải pháp sắp được ban hành hoặc đã được ban hành. Qua đó người dân được tổ chức các cơ hội để họ bày tỏ các quan điểm về ý kiến của mình theo những kênh thu nhận đã công bố, và có cơ chế để những quan điểm, ý kiến này được người ra quyết định xem xét và cân nhắc trước khi quyết định đó được thông qua. Hoạt động tham vấn có thể thực hiện theo các hình thức: chủ động (đại diện chính quyền tổ chức nghe ý kiến của người dân); hình thức bị động (công bố để người dân gởi thư góp ý tới chính quyền theo địa chỉ công bố). Tuy nhiên, hoạt động này chỉ có chức năng góp phần nâng cao khả năng tham gia của người dân tương đương với cấp độ thứ ba về sự tham gia đã nêu ở trên là cùng tham gia thảo luận và quyết định. Ở cấp độ tham gia thảo luận và quyết định, mức độ dân chủ cộng đồng được đẩy lên ở một mức cao hơn. Người dân trực tiếp cùng chính quyền làm công việc thảo luận và quyết định. Mức độ này thường hay được thực hiện ở các cộng đồng dân cư nhỏ (quy mô thôn, xóm, bản, xã, phường…) về các vấn
  • 15. 11 đề như đóng góp tài chính, quy chế, công tác nội bộ, hay việc thiết lập ra các hương ước, xây dựng các chính sách của chính quyền địa phương cấp xã, phường. Hai bên chủ thể là cơ quan nhà nước và người dân cùng phối hợp để đưa đến một quyết định chung. Cùng thực thi, tức là sau khi xây dựng chủ trương, đường lối thì cả người dân và phía cơ quan nhà nước cùng tiến hành các công việc liên quan. Đây là việc các thành viên cùng hợp sức với nhau, hỗ trợ và phối hợp với nhau để hoàn thành mục tiêu chung. Kiểm tra và giám sát, đây là mức độ cao nhất của sự tham gia khi mà những người tham gia không chỉ dừng lại ở việc ra những quyết định cần thiết trong hành động, mà họ còn có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp giám sát tiến độ thực thi. Chẳng hạn như việc những người tham gia có quyền theo dõi và phản ánh những sai phạm trong quá trình thực thi với những người có trách nhiệm, được giải đáp kịp thời về những sai phạm đó. 1.1.2. Chính sách” hay “Chính sách pháp luật Là thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi trong đời sống xã hội, đặc biệt là được sử dụng rất nhiều trong các vấn đề liên quan đến chính trị và pháp quyền.“Chính sách” được hiểu là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…” [45, tr.157]. Chính sách cần được hiểu ở những góc nhìn nhất định: xem xét nó một cách độc lập hay trong mối quan hệ với các phạm trù khác, chẳng hạn như chính trị hay pháp quyền. Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc lập, thì chính sách được hiều là những tư tưởng, những định hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Còn chiến lược hay kế hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ là hình thức, là phương tiện để chuyển tải, để thể hiện chính sách mà thôi. Vì
  • 16. 12 vậy, so với khái niệm “pháp luật”, chính sách được hiểu rộng hơn nhiều. Nếu xét nội hàm của khái niệm này trong mối quan hệ với chính trị và pháp quyền thì: (i) chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa vào đường lối chính trị chung, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền mà người ta định ra chính sách; (ii) chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp luật. Hay nói cách khác, pháp luật là kết quả của sự thể chế hóa chính sách. Có thể có chính sách chưa được luật pháp hóa (thể chế hóa), hoặc cũng có thể không bao giờ được luật pháp hóa vì nó không được lựa chọn để luật pháp hóa khi không còn phù hợp với tư tưởng mới hay sự thay đổi của thực tiễn. Nhưng sẽ không có pháp luật phi chính sách hay pháp luật ngoài chính sách. Theo nghĩa đó, chính sách chính là linh hồn, là nội dung của pháp luật, còn pháp luật là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách khi nó được thừa nhận, được “nhào nặn” bởi “bàn tay công quyền”, tức là được ban hành bởi nhà nước theo một trình tự luật định. Như vậy, chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng cầm quyền và với bộ máy quyền lực công - nhà nước. Chúng ta vẫn thường nói đến một nguyên tắc của tổ chức thực thi quyền lực chính trị là “Đảng đề ra đường lối, chính sách, Nhà nước thể hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật”. Tuy nhiên, cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò hoạch định chính sách của đảng cầm quyền. Có ý kiến cho rằng, việc xây dựng chính sách là nhiệm vụ của Đảng, Đảng là người duy nhất có quyền đưa ra chính sách. Đúng. Đảng đề ra đường lối chính sách để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật nhưng việc xây dựng và ban hành pháp luật của Nhà nước cũng chính là Nhà nước xây dựng và ban hành chính sách. Đường lối, chính sách của Đảng có thể được sao chép, được cụ thể hóa trong pháp luật nhưng nó cũng có thể được điều chỉnh, được hoàn thiện trong quá trình thể chế hóa để phù hợp với tư tưởng mới hay đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn xã hội. Nhà
  • 17. 13 nước xây dựng và ban hành pháp luật là thể chế hóa chính sách của Đảng thành pháp luật nhưng cũng là một bước xây dựng và hoàn thiện chính sách. Và vì vậy, chính sách và pháp luật là hai phạm trù rất gần gũi và có những điểm giao nhau, là cơ sở tồn tại của nhau trong một chế độ nhà nước pháp quyền. Chúng ta cũng có thể chỉ ra những đặc trưng và cũng là sự khác biệt giữa chính sách và pháp luật ở những điểm sau: (i) nếu chính sách là những tư tưởng, định hướng, những mong muốn chính trị được thể hiện trong các nghị quyết, các văn kiện của Đảng thì pháp luật được thể hiện bằng các quy tắc xử sự mang tính pháp lý, được ban hành bởi Nhà nước theo những trình tự và thủ tục nghiêm ngặt (hình thức, thẩm quyền, quy trình soạn thảo và ban hành); (ii) nếu chính sách (khi chưa được luật pháp hóa) chỉ là những cái đích mà người ta cần hướng tới, chưa phải là những quy tắc xử sự có tính rằng buộc chung hay tính bắt buộc phải thực hiện, thì pháp luật lại là những chuẩn mực có giá trị pháp lý bắt buộc chung và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước; (iii) Tuy nhiên, khi đã được thể chế hóa thì, vì chính sách là nội dung, pháp luật là hình thức nên chính sách có vai trò chi phối, quyết định đối với pháp luật. Khi tư tưởng chính sách thay đổi thì pháp luật phải thay đổi theo. Ngược lại, pháp luật lại là công cụ thực tiễn hóa chính sách. Chính sách muốn đi vào cuộc sống một cách thực sự hiệu quả thì phải đựợc luật pháp hoá, nếu không được thể chế hóa thành pháp luật thì rất có thể chính sách sẽ chỉ là một thứ “bánh vẽ” khó có thể đi vào và phát huy hiệu quả trong cuộc sống. Trong hoạt động lập pháp, cần phải nhận thức và cư xử cho đúng với mối quan hệ phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau giữa hai khái niệm, hai phạm trù: chính sách và pháp luật, trong đó có thể hiểu pháp luật là một phạm trù “hai trong một” - pháp luật là sự thể hiện của chính sách và cũng chính là chính sách [11].
  • 18. 14 Ở một góc nhìn khác, đã có sự hợp nhất hai vấn đề chính sách và pháp luật, thành “chính sách pháp luật”, và cho rằng: đây là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan nhà nước và của các thiết chế xã hội nhằm xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, sử dụng văn minh các phương tiện pháp luật để đặt được mục đích bảo đảm đầy đủ nhất các quyền và tự do của con người và của công dân, hình thành và phát triển nhà nước pháp quyền, văn hóa pháp luật và đời sống pháp luật của xã hội và của cá nhân. Đồng thời, để phân biệt với các loại hình chính sách khác, tác giả cũng đưa ra 06 dấu hiệu đặc trưng để nhận diện “chính sách pháp luật” bao gồm: (i) Đó là hoạt động trong lĩnh vực của đời sống xã hội; (ii) Đó là hoạt động hướng đến việc nâng cao chất lượng của đời sống pháp luật của xã hội, hoàn thiện pháp luật, sự thay đổi tiến bộ của hệ thống pháp luật, sự phát triển của pháp luật tương ứng của xã hội, việc nâng cao văn hóa pháp luật của công dân và những người có chức vụ, quyền hạn.v.v...; (iii) Đó là hoạt động thể hiện thái độ của các chủ thể của chính sách pháp luật đối với những vấn đề quan trọng nhất của phát triển đời sống pháp luật của xã hội, sự thay đổi và đổi mới các phần có ý nghĩa nhất của nó; (iv) Đó là hoạt động thực hiện dưới sự trợ giúp của các phương tiện pháp lý (công cụ và kỹ thuật) và của hệ thống phương tiện (công cụ) riêng của chính sách pháp luật (các quan niệm, quan điểm, chiến lược, chương trình, kỹ thuật pháp lý, kế hoạch hóa, dự báo, theo dõi pháp luật, thẩm định pháp luật, hệ thống hóa các văn bản QPPL, v.v...) - những phương tiện được sử dụng để tổ chức đời sống xã hội; (v) Đó là hoạt động gắn liên với quá trình hoạch định và thực hiện các tư tưởng pháp luật mang tính chiến lược và sách lược - các tư tưởng thể hiện là cơ sở và tiền đề của CSPL và hướng tới việc tổ chức đời sống pháp luật của xã hội; (vi) Đó là hoạt động phần lớn do các chủ thể trong đời sống chính trị và pháp luật của xã hội thực hiện: những người có ý thức chính trị và ý thức
  • 19. 15 pháp luật chuyên nghiệp; những người có ý thức chính trị và ý thức pháp luật lý luận; những người có những hiểu biết, kỹ năng và kinh nghiệm (có trình độ văn hóa, chính trị và văn hóa pháp luật nhất định); những người có quy chế chính trị và pháp luật đặc thù [50, tr. 11]. Và phương tiện quan trọng nhất của “chính sách pháp luật” chính là các văn bản QPPL [51, tr. 3]. Pháp lý hóa thuật ngữ “Chính sách” nêu trên, Luật ban hành văn bản QPPL (năm 2015) đã sử dụng cụm từ này đến hơn 100 lần. Điều 2 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản QPPL (2015) giải thích rõ hơn về nội hàm “chính sách” là “định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định”. Như vậy, chúng ta có thể trả lời được câu hỏi là “chính sách được khởi nguồn từ đâu?”. Và suy cho cùng thì chính sách được khởi nguồn từ cuộc sống, từ thực tiễn cuộc sống, hay chính xác hơn, chính sách khởi đầu từ “vấn đề của cuộc sống”, vấn đề của thực tiễn. Nếu thực tiễn quản lý không phát sinh vấn đề, nhà nước cũng không cần có phản ứng chính sách. Nói một cách học thuật thì chính sách của nhà nước chính là sự bổ khuyết cho những thiếu hụt trong cơ chế tự điều chỉnh của xã hội. Chính vì xã hội không có khả năng tự điều chỉnh hoặc nếu để xã hội tự điều chỉnh thì kết quả có thể là tình trạng bất công, tình trạng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm nên nhà nước phải vào cuộc để khắc phục. Bởi vậy, trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, không phải ngẫu nhiên mà khi xác định các vấn đề chính sách cần giải quyết (những vấn đề mà nhà nước phải giải quyết), người ta thường nhấn mạnh tới những trục trặc của cơ chế thị trường (khi vận hành phi hiệu quả vì các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường, cạnh tranh không lành mạnh; thông tin bất cân xứng; phân phối thu nhập quá mức; ô nhiễm môi trường; không cung cấp đủ các loại hàng hóa, dịch vụ công cần thiết như: trật
  • 20. 16 tự trị an, an ninh, an toàn cá nhân, trật tự pháp luật, cơ sở hạ tầng.v.v…). Chính sách nhiều khi được sinh ra cũng nhằm mục đích khắc phục những “trục trặc” trong bản thân sự vận hành của bộ máy nhà nước, nhằm kiểm soát quyền lực, phòng, chống các biểu hiện tha hóa quyền lực, bảo đảm nhà nước thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân như chủ trương của Đảng và Hiến pháp đã ghi nhận một cách nhất quán. Mọi chính sách được đưa ra, về nguyên tắc, phải hướng tới việc làm cho xã hội tốt hơn lên. Đối với Việt Nam, đó là việc đến gần hơn với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trực diện hơn, trong giai đoạn tới đây là thực hiện những mục tiêu hoặc định hướng mang tính chiến lược do Đảng hoạch định, chẳng hạn, đó là “phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới” [1]. Như vậy, có thể khẳng định rằng: nhìn từ góc độ nào trên đây thì khái niệm “chính sách” hay “chính sách pháp luật” đều có những điểm chung thống nhất về khởi nguồn - khách thể; chủ thể kiến tạo; mục đích điều chỉnh; công cụ chuyển hóa; phương tiện thực hiện;.v.v... 1.1.3. Quy phạm pháp luật Việc nghiên cứu lý thuyết về QPPL và văn bản QPPL cho đến nay vẫn còn nhiều điều khiến các nhà khoa học trăn trở. Trong khoa học pháp lý Việt
  • 21. 17 Nam cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới chưa có được sự thống nhất về mặt lý luận. Tiếp cận dưới giác độ nghiên cứu lý thuyết và pháp luật thực định của Việt Nam về vấn đề này, trước hết, khi nói đến “quy phạm” là “Điều quy định chặt chẽ phải tuân theo” [44, tr.784]. Tiếp tục đi sâu làm rõ nội hàm của khái niệm, nhiều học giả cho rằng “quy phạm” là quy tắc xử sự được sử dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Tồn tại quy phạm kỹ thuật để điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và quy phạm xã hội để điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với con người. QPPL là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự tồn tại và phát triển của xã hội; là một loại quy phạm xã hội, vì vậy, nó vừa mang đầy đủ những đặc điểm chung của quy phạm xã hội vừa có những đặc điểm của riêng mình. Cụ thể là: (i) QPPL luôn là khuôn mẫu cho hành vi con người, nó chỉ dẫn cho mọi người cách xử sự trong những tình huống nhất định. Điều này cũng có nghĩa là QPPL đã chỉ ra cách xử sự, xác định các phạm vi xử sự của con người trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định, cũng như những kết quả hay hậu quả bất lợi gì mà họ được nhận hoặc phải gánh chịu nếu như họ thực hiện đúng hoặc vi phạm chúng; (ii) QPPL là chuẩn mực để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người, theo đó không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi, QPPL còn là chuẩn mực để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh từ phía nhà nước và từ phía các chủ thể khác về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong xử sự của các bên. Nghĩa là, thông qua QPPL mới biết được hoạt động nào của các chủ thể có hoặc không có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào hợp pháp hoặc trái pháp luật...; (iii) QPPL do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, theo đó, QPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, do vậy bản chất của chúng trùng với bản chất của pháp luật. QPPL thể hiện ý chí nhà nước, chúng chứa đựng trong mình
  • 22. 18 những tư tưởng, quan điểm chính trị - pháp lý của nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước áp đặt ý chí của mình trong QPPL bằng cách xác định những tổ chức, cá nhân nào trong những hoàn cảnh, điều kiện nào thì phải chịu sự tác động của QPPL, những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có và cả những biện pháp mà nhà nước sẽ bảo đảm cho chúng được thực hiện. Thuộc tính do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện là thuộc tính thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa QPPL với các loại quy phạm xã hội khác; (iv) QPPL là quy tắc xử sự chung, cho nên việc ban hành ra nó không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho các tổ chức và cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Để có được một QPPL, các cơ quan nhà nước phải nghiên cứu rất nhiều các quy tắc xử sự cụ thể, tìm ra những điểm chung giữa chúng rồi từ đó mô hình hoá thành quy tắc xử sự chung. Quy tắc xử sự chung là sự khái quát từ các quy tắc xử sự cụ thể nên nó sẽ phù hợp với hầu hết các trường hợp cụ thể. Mọi tổ chức, cá nhân ở vào tình huống mà QPPL đã dự liệu đều xử sự cơ bản như nhau. Tính chất chung của QPPL còn được thể hiện ở chỗ nó được đặt ra không phải chỉ để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, nghĩa là, từng quan hệ xã hội cụ thể bên cạnh những điểm chung thì cũng có rất nhiều những điểm riêng biệt, nhưng QPPL đã thống nhất tất cả chúng lại và thiết lập ra quy tắc xử sự có tính chất chung cho tất cả những chủ thể tham gia quan hệ xã hội chung đó. Chẳng hạn, giữa những người mua và những người bán khác nhau có thể thiết lập nên rất nhiều những quan hệ mua bán cụ thể với những đặc điểm riêng của từng mối quan hệ, song tất cả những quan hệ giữa người mua và người bán đều phải tuân theo các quy tắc có tính chất chung đã được quy định trong pháp luật dân sự. Như vậy, QPPL là dạng quy tắc mẫu được thiết lập cho những người khác nhau, cho những người thật ra thì không giống nhau và cũng không ngang nhau. Tuy nhiên, tính chất chung
  • 23. 19 của các QPPL khác nhau thì khác nhau. Chẳng hạn, QPPL hiến pháp thì có liên quan đến mọi tổ chức và cá nhân trong đất nước, nhưng QPPL lao động thì chỉ liên quan đến những người quản lý, sử dụng lao động và những người lao động...QPPL có thể tác động nhiều lần và trong thời gian tương đối dài cho đến khi nó mất hiệu lực. Nó được sử dụng trong tất cả mọi trường hợp khi xuất hiện những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) đã được dự liệu; (v) QPPL là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, mà nội dung của nó thường thể hiện hai mặt là cho phép và bắt buộc, nghĩa là, QPPL là quy tắc xử sự trong đó chỉ ra các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội trong QPPL thường chứa đựng những chỉ dẫn về khả năng và các phạm vi có thể xử sự, cũng như những nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Các quyền và nghĩa vụ được QPPL dự liệu cho các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh luôn có sự liên hệ mật thiết với nhau. Hình thức, tính chất của sự liên hệ đó do nhà nước xác định phụ thuộc vào tính chất của chính quan hệ xã hội đó. Vì vậy, trong cơ chế điều chỉnh pháp luật QPPL có vai trò thực hiện chức năng thông báo của nhà nước đến các chủ thể tham gia quan hệ xã hội về nội dung ý chí, mong muốn của nhà nước để họ biết được cái gì có thể làm, cái gì không được làm, cái gì phải làm, cái gì phải tránh không làm trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó... (vi) QPPL có tính hệ thống, theo đó, mỗi QPPL không tồn tại và tác động một cách biệt lập, riêng rẽ, mà giữa chúng luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau tạo nên những chỉnh thể (hệ thống) lớn nhỏ khác nhau cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội. QPPL của các nhà nước đương đại chủ yếu là QPPL thành văn, chúng được chứa đựng trong các văn bản QPPL. Số lượng của chúng ngày một nhiều hơn và phạm vi các đối tượng mà chúng tác động ngày càng rộng hơn, trật tự ban hành, áp dụng và bảo vệ chúng ngày càng dân chủ với sự tham gia của đông
  • 24. 20 đảo các thành viên trong xã hội. Nội dung của QPPL ngày càng trở nên chính xác, chặt chẽ, rõ ràng, thống nhất và có tính khả thi cao. Điều 3 Luật ban hành văn bản QPPL (năm 2015) quy định: “QPPL là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện”. Định nghĩa này đã thể hiện khá đầy đủ những đặc trưng vốn có của QPPL để phân biệt với các loại quy phạm khác. Chẳng hạn như: quy phạm xã hội; quy phạm đạo đức; quy phạm tôn giáo.v.v... 1.1.4. Văn bản QPPL Được hiểu là những quy định, trong đó hầu hết là những quy tắc xử sự chung (còn gọi là QPPL) do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Nếu xét dưới góc độ các cách thức thể hiện của pháp luật thì có pháp luật không thành văn và pháp luật thành văn. Pháp luật không thành văn là những quy định pháp luật được truyền khẩu trong xã hội từ người này qua người khác mà không được thể hiện thành văn bản, còn pháp luật thành văn là những quy định pháp luật được ghi chép lại thành các văn bản trên các loại vật liệu khác nhau. Mỗi nhà nước trong quá trình tồn tại và phát triển phải ban hành rất nhiều các loại văn bản khác nhau, đó có thể là văn bản QPPL, văn bản quy định CSPL, văn bản đơn hành, văn bản áp dụng pháp luật, văn bản giao dịch hành chính… Trong khoa học pháp lý để phân biệt những văn bản có chứa QPPL (quy tắc xử sự chung) với những văn bản không chứa QPPL nên có sự phân chia các văn bản do nhà nước ban hành thành văn bản QPPL và văn bản không chứa QPPL. Văn bản QPPL là văn bản do nhà nước ban hành, trong đó chứa QPPL (quy tắc xử sự chung). Văn bản QPPL là hình thức pháp luật do
  • 25. 21 nhà nước soạn thảo và ban hành. Cũng có một số văn bản QPPL được hình thành bằng con đường nhà nước phê chuẩn văn bản quy phạm của các tổ chức xã hội khác thành văn bản QPPL. Vì có chứa QPPL nên văn bản QPPL có đầy đủ các đặc điểm cơ bản của QPPL, nghĩa là, văn bản QPPL: Gắn liền với nhà nước, do nhà nước ban hành (thông qua các cơ quan hoặc các viên chức nhà nước có thẩm quyền) và bảo đảm thực hiện. Đây cũng chính là một trong những thuộc tính quan trọng của pháp luật nói chung (pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện). Pháp luật quy định cho một số cơ quan, viên chức nhà nước được quyền ban hành các văn bản QPPL nhất định và những cơ quan, công chức đó cũng chỉ được ban hành các văn bản QPPL về những vấn đề phù hợp với thẩm quyền (chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn) của mình do luật định. Trong một số trường hợp văn bản QPPL được ban hành có sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước với cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội. Tuy vậy, xét đến cùng thì văn bản QPPL luôn gắn liền với nhà nước, bởi chỉ riêng cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội thì không được quyền ban hành văn bản QPPL. Văn bản QPPL được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có các biện pháp cưỡng chế nhà nước rất nghiêm khắc. Có chứa QPPL (quy tắc xử sự chung), là những quy tắc xử sự được ban hành không phải cho một trường hợp cụ thể và đối với những tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các trường hợp và đối với tất cả những tổ chức hay cá nhân đã được dự liệu phải thực hiện. Nói cách khác, khi gặp phải những tình huống mà pháp luật đã dự liệu thì các tổ chức, cá nhân có liên quan bắt buộc phải xử sự theo quy định của văn bản QPPL. Cũng vì vậy, văn bản QPPL được thực hiện nhiều lần trong đời sống khi xảy ra tình huống mà pháp luật đã dự liệu. Đây là đặc điểm thể hiện sự khác biệt giữa văn bản QPPL với các văn bản khác của nhà nước như văn bản áp dụng
  • 26. 22 pháp luật, văn bản giao dịch hành chính… là các văn bản không chứa QPPL nên không phải là văn bản QPPL. Ngoài hai đặc điểm cơ bản trên thì pháp luật của các nhà nước hiện đại còn quy định cả thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức, nội dung của văn bản QPPL được phép ban hành cho các tổ chức và cá nhân (các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL). Như đã khẳng định chỉ có các nhà nước hiện đại mới quy định cụ thể về các vấn đề trình tự, thủ tục, hình thức…, do vậy, đây không phải là dấu hiệu quan trọng, dấu hiệu bắt buộc của văn bản QPPL. Tuy nhiên, quy định về các vấn đề trên sẽ giúp cho việc ban hành văn bản QPPL có trật tự, ổn định. Các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức của văn bản QPPL tạo tiền đề pháp lý cho việc ban hành các văn bản QPPL có chất lượng cao, đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, tính thống nhất của hệ thống các văn bản QPPL về nội dung cũng như về hình thức. Mỗi nhà nước thường ban hành rất nhiều những văn bản QPPL khác nhau, song quan trọng hơn cả là các văn bản luật. Loại văn bản này do cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước ban hành, có hiệu lực pháp lý cao, có trình tự, thủ tục ban hành, sửa đổi rất chặt chẽ...các văn bản dưới luật phải được ban hành phù hợp với các văn bản luật, là sự chi tiết, cụ thể hoá các quy định của văn bản luật và không được trái với quy định của các văn bản luật. Ở Việt Nam để có được tên gọi như hiện nay là “văn bản QPPL” thì cũng đã mất khá nhiều thời gian, bởi trước đây văn bản QPPL trong các tài liệu được dùng để giảng dạy ở Việt Nam thường được gọi là “văn bản pháp luật” [12, tr. 52], cách gọi như vậy chỉ để phân biệt với “văn bản áp dụng pháp luật” là những văn bản được ban hành khi áp dụng pháp luật. Còn trong các văn bản, trong các tài liệu khác có những lúc văn bản QPPL còn được gọi là “văn bản pháp quy”. Thuật ngữ văn bản pháp quy ở Việt Nam được sử dụng theo hai cách khác nhau là: Thứ nhất, văn bản pháp quy được xem là cách nói tắt của văn bản QPPL (pháp
  • 27. 23 là pháp luật, quy là quy phạm); thứ hai, văn bản pháp quy là những văn bản có hiệu lực pháp luật thấp hơn các văn bản luật. Để tránh sự nhầm lẫn những năm gần đây về lý luận cũng như trong luật thực định và hoạt động thực tiễn đã có sự thống nhất về mặt thuật ngữ là những văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có quy tắc xử sự chung thì được gọi là “văn bản QPPL”, cách gọi này tuy có hơi dài nhưng chính xác để phân biệt loại văn bản này với những văn bản khác cũng do nhà nước ban hành nhưng không chứa quy tắc xử sự chung (QPPL). Các quy định của luật thực định ở Việt Nam về văn bản QPPL: Trong Hiến pháp và các Luật tổ chức bộ máy nhà nước thì chỉ nói tới hình thức các loại văn bản mà các cơ quan nhà nước Việt Nam được quyền ban hành, mà không có sự phân biệt đâu là văn bản QPPL đâu không phải là văn bản QPPL. Trong các Luật ban hành văn bản QPPL đã ban hành như: Luật ban hành văn bản QPPL năm 1996 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong định nghĩa này còn có tập hợp từ “nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội theo định hướng XHCN”. Trong Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND (2004) thì quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND là văn bản do HĐND, UBND ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Luật này quy định, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực trong phạm vi địa phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều 1 Luật ban hành văn bản QPPL (2008) thì văn bản QPPL lại được xác định như sau: “Văn bản QPPL là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này
  • 28. 24 hoặc trong Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, Uỷ ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”. Qua khái niệm trên đây cho thấy đã không có sự thống nhất. Trong mỗi luật lại đưa vào những dấu hiệu phụ khác nhau khi định nghĩa văn bản QPPL. Có thể nói, Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 đã quy định khá chặt chẽ về khái niệm văn bản QPPL, hình thức (tên) các văn bản QPPL và thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành chúng. Những quy định đó đã làm cho việc nhận thức về văn bản QPPL, thực tiễn ban hành văn bản QPPL ở Việt Nam chính xác, chặt chẽ và có cơ sở pháp lý. Tuy vậy, chính những quy định quá chặt chẽ, máy móc của Luật ban hành văn bản QPPL (2008) đã làm cho những người hoạt động thực tiễn lúng túng trong việc nhận thức và lý giải về những trường hợp văn bản được ban hành không phù hợp với Luật ban hành văn bản QPPL [14]. Tiếp tục hoàn thiện khái niệm nêu trên, Điều 2 Luật ban hành văn bản QPPL (2015) đưa ra định nghĩa vừa có tính chất minh định, vừa loại trừ những trường hợp không phải là văn bản QPPL, theo đó: “Văn bản QPPL là văn bản có chứa QPPL, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn bản có chứa quy phạm, pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản QPPL”. Đồng thời Điều 4 Luật này cũng quy định hệ thống văn bản QPPL gồm 15 nhóm (loại) văn bản gồm: Hiến pháp; Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Nghị
  • 29. 25 quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước; Nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Quyết định của UBND cấp tỉnh; Văn bản QPPL của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; Nghị quyết của HĐND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; Quyết định của UBND cấp huyện; Nghị quyết của HĐND xã, phường, thị trấn; Quyết định của UBND cấp xã. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì hiện hoạt động xây dựng CSPL hay xây dựng văn bản QPPL được thực hiện theo những quy trình (công nghệ) khá phức tạp, qua nhiều công đoạn, nhiều cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định ở mỗi khâu, mỗi mắt xích của quy trình (tùy theo hình thức, tính chất của mỗi loại CSPL hay văn bản QPPL). Quy trình xây dựng CSPL và quy trình xây dựng văn bản QPPL tuy không đồng nhất, nhưng có sự gắn kết chặt chẽ với nhau khi mà chính sách được chuyển hóa thành pháp luật, hay nói cách khác là việc “quy phạm hóa chính sách”. Luật ban hành văn bản QPPL (năm 2015) và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP hiện đã tách bạch rõ quy trình là: (i) quy trình làm chính sách (cũng có nghĩa là đưa sáng kiến pháp luật vào chương trình, kế hoạch lập pháp); và (ii) quy trình quy phạm hóa chính sách - soạn thảo văn bản QPPL sau khi chính sách đã được cấp có thẩm quyền thông qua (quy trình thứ (ii) này về cơ bản không khác gì nhiều so với quy trình trước đây được quy định
  • 30. 26 theo Luật ban hành QPPL (năm 2008) khi áp dụng đối với việc soạn thảo văn bản QPPL do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành). 1.1.5. Quy trình xây dựng chính sách Đây là một trong những điểm khá mới mẻ của công nghệ làm luật ở Việt Nam hiện nay (so với trước năm 2015), mà đã được “nhập khẩu” từ một số quốc gia có trình độ lập pháp phát triển trên thế giới. Trước đây, pháp luật chưa quy định cụ thể việc xây dựng, chính sách được tiến hành trước khi quy phạm hóa chính sách, mặc dù trong quá trình lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã có quy định khi lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh bộ, cơ quan ngang bộ phải có thuyết minh về sự cần thiết cho việc ban hành văn bản, trong đó có các chính sách cơ bản của văn bản và mục tiêu của chính sách…; đồng thời phải có Báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của văn bản. Tuy nhiên, thực tiễn lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh chưa được thực hiện nghiêm túc, nhiều đề nghị về sáng kiến pháp luật còn quá sơ sài, đơn giản chưa thể hiện được sự cần thiết cho việc ban hành văn bản, chưa xác định được các chính sách cơ bản cũng như đánh giá tác động sơ bộ chính sách. Việc đề nghị xây dựng văn bản QPPL chủ yếu phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan đề xuất chưa xuất phát từ thực tiễn cần phải ban hành văn bản QPPL. Từ đó dẫn đến chất lượng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh luôn bị thay đổi, ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng văn bản QPPL. Việc soạn thảo luật, pháp lệnh chỉ thực sự được bắt đầu khi đã được đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Lúc này, cơ quan soạn thảo mới tiến hành tổng kết, nghiên cứu tài liệu, thành lập Ban soạn thảo, tổ biên tập, …Do chưa có khâu phân tích, đánh giá chính sách trước đó nên cơ quan soạn thảo lúc này mới xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính sách,…(việc xây dựng luật, pháp lệnh mang tính chất vừa thiết kế, vừa thi công) dẫn đến chính sách luôn bị thay đổi. Thực tiễn cũng cho thấy để nâng
  • 31. 27 cao chất lượng văn bản QPPL, các chính sách được ban hành trong các văn bản QPPL đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp, phù hợp với thực tiễn thì khâu phân tích, đánh giá chính sách cần phải được làm rất kỹ lưỡng, khoa học, có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân, các chuyên gia nhà khoa học. Hơn nữa chính sách đó phải được xuất phát từ thực tiễn để giải quyết vấn đề của thực tiễn, phải có một quy trình chặt chẽ để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động phân tích, phê duyệt chính sách trước khi tiến hành soạn thảo chính sách được đề xuất. Xây dựng, đánh giá CSPL là một hoạt động có vai trò rất quan trọng, thể hiện đường lối, quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước, nguyện vọng của nhân dân, của các đối tượng thi hành đối với vấn đề mà văn bản điều chỉnh. Khi một chính sách được đề ra thì cần xem xét, đánh giá sự cần thiết, mức độ tác động về các mặt kinh tế - xã hội, tính khả thi, điều kiện bảo đảm thực hiện của chính sách đó. Từ đó, làm cơ sở cho cơ quan, tổ chức được giao thiết kế soạn thảo các QPPL cụ thể trong các văn bản QPPL. Theo đó, có thể mô phỏng vắn tắt các bước chính của hai quy trình nêu trên đối với luật, pháp lệnh theo sơ đồ dưới đây như sau:
  • 32. 28 Mô hình 1: Quy trình chính sách trong lập đề nghị xây dựng pháp luật Mô hình 2: Quy trình quy phạm hóa chính sách - quy trình lập pháp đối với dự án luật được Quốc hội cho ý kiến, thông qua tại hai kỳ họp: Bước 1: Xây dựng nội dung chính sách Bước 2: Đánh giá tác động của chính sách Bước 3: Xây dựng Hồ sơ lập đề nghị xây dựng VBQPPL Bước 4: Lấy ý kiến về đề nghị xây dựng xây dựng VBQPPL Bước 5: Thẩm định đề nghị xây dựng xây VBQPPL Bước 6: Trình Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị xây dựng VBQPPL
  • 33. 29 CQ thẩm tra phối hợp cơ quan trình tiếp thu, chỉnh lý Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (Quốc hội) Soạn thảo (Cơ quan chủ trì soạn thảo) Đăng tải, lấy ý kiến, giải trình, tiếp thu ý kiến (Cơ quan chủ trì soạn thảo) Thẩm định (Bộ Tư pháp) Chỉnh lý dự thảo, trình Chính phủ (Cơ quan chủ trì soạn thảo) ) Xem xét, quyết định trình Quốc hội (Chính phủ) Thẩm tra (Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội) Văn phòng CP (họp nếu còn ý kiến khác nhau) Cho ý kiến (Uỷ ban thường vụ Quốc hội) Xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ nhất (Quốc hội) Soạn thảo trên cơ sở nghị quyết của Chính phủ thông qua chính sách Chỉnh lý, lấy ý kiến đại biểu Quốc hội Xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ hai (Quốc hội) Chỉnh lý (Ủy ban thường vụ Quốc hội) Chỉnh lý về thể thức, kỹ thuật (Ủy ban PL QH) Ký lệnh công bố (Chủ tịch nước)
  • 34. 30 Qua hai Biểu đồ minh họa nêu trên có thể dễ dàng nhận thấy: về mặt hình thức, người dân (cá nhân) có quyền tham gia vào công việc hoạch định chính sách và lập pháp của Nhà nước. Giả sử nếu chúng ta đi hết một quy trình đầy đủ từ một sáng kiến pháp luật để trở thành một đạo luật, thì người dân có quyền tham gia ở hai công đoạn khác nhau từ quy trình chính sách - Bước 4 của Mô hình 1 đến quy trình quy phạm hóa chính sách - Bước 3 của Mô hình 2. Cả hai công đoạn này đều được thực hiện trước thời điểm thẩm định chính sách hoặc thẩm định dự án, dự thảo văn bản QPPL và đều do cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện. Pháp luật cũng quy định trách nhiệm bắt buộc đối với cơ quan nhà nước trong việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến tham gia của nhân dân, theo đó: “Ý kiến tham gia về đề nghị xây dựng văn bản QPPL, dự thảo văn bản QPPL phải được nghiên cứu, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo văn bản”. Tóm lại, ta có thể khái quát ngắn gọn vấn đề này theo cách như sau: Quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL của cá nhân là quyền phái sinh từ quyền tham gia quản lý đất nước, là quyền được phát biểu ý kiến cá nhân (bằng hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp) đối với CSPL, văn bản QPPL do cơ quan nhà nước soạn thảo, ban hành, là phương thức thực hiện dân chủ; bảo đảm cho mọi chính sách pháp luật của nhà nước đều phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 1.2. Vai trò của quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật 1.2.1. Cơ sở lý luận Về căn bản, tất cả các nhà triết học trong lịch sử triết học trước Mác đều không nhận thức đúng vai trò của quần chúng nhân dân trong trong tiến
  • 35. 31 trình phát triển của lịch sử. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội. Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung. Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao
  • 36. 32 động là lực lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng. Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức... của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến. Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: "Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và quan điểm "lấy dân làm gốc" trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân ta. Cho đến nay, thì vai trò của quần chúng nhân dân tiếp tục chính thức được đề cao,
  • 37. 33 ghi nhận ở cấp độ chính trị - pháp lý cao nhất từ trong các văn kiện quan trọng của Đảng cộng sản Việt Nam cho đến các bản Hiến pháp của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua các thời kỳ - một nguyên tác xuyên suốt là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân; trong giám sát hoạt động quản lý nhà nước thì dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Bản chất của hoạt động xây dựng pháp luật không phải là chủ đề bàn luận mới của giới khoa học pháp lý ở Việt Nam. Một cách khái quát nhất, xây dựng pháp luật là hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các quy định của pháp luật (tức là các quy phạm pháp luật) cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Nói cách khác, xây dựng pháp luật là hoạt động tạo lập mới hoặc thay đổi các QPPL đã có - tế bào của hệ thống pháp luật. Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật có thể “phình” thêm hoặc “teo” đi. Hoạt động xây dựng pháp luật cũng là hoạt động quyền lực hóa các chuẩn mực xã hội. Không ít nhà khoa học pháp lý ở Việt Nam cho rằng, hoạt động này có 2 khía cạnh cơ bản. Ở khía cạnh chính trị, xây dựng pháp luật là hoạt động nhằm “thể hiện ý chí của nhà nước thành pháp luật”. Đây cũng là quá trình “nhận thức và thể hiện các lợi ích của… xã hội,… của nhóm xã hội”. Ở khía cạnh kỹ thuật pháp lý, xây dựng pháp luật là “quá trình sáng tạo pháp luật… hình thành hệ thống các quy định pháp luật”. Tổng hợp lại, nhiều nhà khoa học pháp lý cho rằng, xây dựng pháp luật là “một hoạt động kỹ thuật-pháp lý mang tính chính trị”. Xây dựng pháp luật, về bản chất, là hoạt động nhằm tạo ra các QPPL. Đó là hoạt động “đưa ý chí của Nhà nước, ý chí của nhân dân lên thành pháp luật”. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn
  • 38. 34 Pháp luật thực định của chúng ta cũng đã ghi nhận đầy đủ tính chất và tầm quan trọng của nhân dân trong hoạt động xây dựng pháp luật. Trên thực tế, thì không phải việc lấy ý kiến nhân dân chỉ dừng lại ở hai thời điểm như đã trình bày tại điểm 1.1.5 trên đây, mà tùy theo nội dung, tính chất của từng chính sách, cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan góp ý, thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua…có thể tổ chức lấy ý kiến nhân dân hoặc đối tượng chịu sự tác động của chính sách nhiều lần trước khi ra quyết định nhất trí, hay không chấp nhận đối với chính sách do cơ quan chủ trì soạn thảo đề xuất. Ví dụ như: trong thời gian qua, khi xem xét dự thảo sửa đổi Hiến pháp, hoặc một số dự thảo bộ luật quan trọng như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự (sửa đổi), Quốc hội đã quyết định chỉ đạo các cơ quan, tổ chức liên quan tiếp tục tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân về các dự thảo văn bản nêu trên, mặc dù trước đó các dự thảo văn bản này đã được cơ quan chủ trì soạn thảo lấy ý kiến theo đúng quy trình luật định. Trong quá trình lấy ý kiến nhân dân, nhiều vấn đề quan trọng đã được cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu. Ví dụ như: tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; bổ sung quy định một số quyền con người, quyền cơ bản của công dân phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người; thiết lập mô hình phân nhánh quyền lực nhà nước theo ba quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp;… thông qua việc sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013. Hoặc tiếp thu ý kiến của cộng đồng khởi nghiệp (Startup) cho rằng “hiện nay kinh doanh trên mạng đang là một hướng phát triển có tiềm năng và ngày càng có nhiều người tham gia. Vì vậy, pháp luật cần có cơ chế thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển lĩnh vực kinh doanh này…”, tại Phiên họp thường kỳ của Ủy ban thường vụ Quốc hội (tháng 10/2016), Chính phủ đã quyết định đề nghị Quốc hội bãi bỏ Điều 292
  • 39. 35 Bộ luật hình sự sửa đổi (2015) - Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông. Qua đây cho thấy vai trò của nhân dân là nhân tố quyết định trong việc lựa chọn ban hành những quyết sách lớn của nhà nước. Điều này càng được thể hiện rõ nét hơn khi chúng ta đang thực hiện chủ trương do Đảng khởi xướng về xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thực sự thành công. Việc càng mở rộng hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước không chỉ đòi hỏi từ sự hội nhập mà quan trọng hơn là từ chính yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa đời sống xã hội và của bản thân Nhà nước. Mở rộng sự tham gia của người dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý nhà nước sẽ đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hiện nay; bảo đảm cho Nhà nước giữ vững bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các chính sách, pháp luật được ban hành đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý ngay sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám [2]. 1.3. Nội dung và đặc trưng quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật 1.3.1. Nội dung quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật Điều 25 ICCPR ghi nhận và bảo vệ quyền của mọi công dân được tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Khẳng định nền tảng của việc quản lý nhà
  • 40. 36 nước là phải trên cơ sở đồng thuận của nhân dân. Cho dù theo thể chế chính trị nào thì các quốc gia thành viên cũng phải thông qua những biện pháp pháp lý và các biện pháp cần thiết khác để đảm bảo cho mọi công dân đều có cơ hội được hưởng các quyền này, trong đó có quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL. Không giống như các quyền và tự do khác được ghi nhận trong ICCPR mà có chủ thể của quyền là mọi cá nhân trong phạm vi lãnh thổ và thuộc quyền tài phán của một quốc gia, quyền này chỉ dành riêng cho những người có vị thế “công dân” của quốc gia. Tuy nhiên, không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì bất kỳ lý do gì giữa các công dân trong việc thực hiện những quyền, kể cả sự phân biệt giữa những người được hưởng tư cách công dân một cách đương nhiên ngay khi sinh ra và những người có được tư cách công dân bằng việc nhập quốc tịch. Quyền này có thể bị hạn chế nhưng mọi hạn chế phải hợp lý và khách quan. Ví dụ, một trong những hạn chế được cho là hợp lý là quy định cần phải đạt đến một độ tuổi nhất định; hoặc quy định những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể không được thực hiện quyền này. Công dân có thể trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua việc tự lựa chọn cơ quan, tổ chức, người đại diện...) để bày tỏ quan điểm cá nhân của mình đối với những CSPL hoặc văn bản QPPL do cơ quan nhà nước soạn thảo, ban hành, một cách chủ động hoặc khi có yêu cầu tham vấn. Mỗi quốc gia phải có nghĩa vụ thúc đẩy, bảo đảm, bảo vệ việc thực thi quyền đối với công dân của mình. Về mặt hình thức, quyền này phải được ghi nhận bằng pháp luật (ở các cấp độ Hiến pháp, hoặc các đạo luật...). Về mặt nội dung, nhà nước cần có cơ chế bảo đảm thực thi quyền của công dân một
  • 41. 37 cách thực chất, tuy nhiên, trên thực tế thì cũng còn tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà mức độ thực thi quyền là khác nhau. 1.3.2. Đặc trưng quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật Thể hiện rõ nét bản chất của nhà nước dân chủ - pháp quyền. Có thể nói quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL khẳng định nền tảng của việc quản lý nhà nước là phải trên cơ sở đồng thuận của nhân dân. Trong điều kiện mở rộng dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì sự tham gia của cá nhân, tổ chức vào quá trình xây dựng pháp luật là một trong những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho pháp luật phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân; là cơ hội để tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, hay nói khác đi đó cũng là quá trình để các bên hiểu nhau và vận động sự ủng hộ lẫn nhau trong việc thiết lập một cơ chế, khuôn khổ mang tính pháp lý chung đối với xã hội; là một sự giám sát khách quan, hữu hiệu đối với các quá trình trong quy trình lập pháp và các bên tham gia lập pháp - điều này cũng thể hiện xu hướng tất yếu của xã hội dân chủ hiện đại dù ở bất kỳ thể chế nào. Trong mối quan hệ giữa dân chủ với nhân quyền - quyền tham gia của người dân vào công việc của nhà nước để thực hiện dân chủ thì đây là một giá trị cao cả - mục đích chung mọi xã hội. Việc thực hiện quyền con người nói chung và quyền tham gia của người dân vào công việc quản lý nhà nước nói riêng, trước hết phải do nhà nước, là trách nhiệm của nhà nước, bởi nhà nước và thực hiện quyền con người phải là nội dung, mục đích của việc thực hiện quyền lực nhà nước và phải trong khuôn khổ của pháp luật. Trong xã hội hiện đại, nói đến nhà nước không thể không nói đến dân chủ với tư cách là cơ chế, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và hình thức thực hiện quyền lực nhà
  • 42. 38 nước - pháp luật và dân chủ cũng chính là mục đích của việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, bàn đến việc bảo đảm và thực hiện quyền con người bằng nhà nước phải đề cập đến dân chủ và pháp luật. Trên thực tế, nếu quyền con người được bảo vệ và phát triển, con người sẽ ý thức và thực hiện quyền tham gia vào công việc của nhà nước, thực hiện quyền dân chủ. Trong mối quan hệ này luôn có sự tương tác hai chiều, bảo đảm thực hiện nhân quyền thì có thể thực hiện phát huy dân chủ và ngược lại; thậm chí, nếu tiếp cận dân chủ như một quyền, khó có thể tách biệt được giữa quyền con người với dân chủ. Gắn với nhiều phương thức, hình thức thực hiện khác nhau. Có thể nói, các phương thức, hình thức để người dân tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, công việc quản lý của Nhà nước là khá đa dạng, phong phú. Nó cho phép người dân có thể chủ động hoặc bị động (được hỏi) biểu đạt được ý chí, nguyện vọng của mình với các cơ quan nhà nước trong việc hình thành nên các chính sách, pháp luật cũng như việc quyết định và thi hành pháp luật, bằng hình thức trực tiếp (tự mình thực hiện) hoặc gián tiếp (thông qua các cá nhân, tổ chức đại diện thay mặt mình thực hiện). Thể hiện sự tương tác giữa chủ thể có quyền và chủ thể có nghĩa vụ trong việc bảo đảm thực hiện quyền. Như đã trình bày trên đây thì nhà nước luôn có trách nhiệm phải bảo đảm sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, cũng như công việc quản lý của Nhà nước nói chung, bằng nhiều hình thức khác nhau (tham vấn ý kiến, trưng cầu dân ý...). Đồng thời nhà nước cũng có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu, giải trình các ý kiến tham gia, phản biện từ phía người dân. Qua đó nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hoàn thiện hơn chính sách, văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Ý chí biểu đạt của người dân được tôn trọng và bảo vệ, giúp họ tự ý
  • 43. 39 thức, đề cao vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tham gia vào quá trình quản lý nhà nước. Có sự khác biệt cơ bản so với các quyền dân sự, chính trị khác. So với các quyền dân sự, chính trị khác thì hoạt động xây dựng CSPL hay xây dựng văn bản QPPL là những vấn đề rất phức tạp, thuộc về thượng tầng kiến trúc, mà không phải dễ gì ai cũng có thể hiểu được tường tận gốc rễ của mọi vấn đề, nếu như không có một nền tảng kiến thức nhất định. Do vậy, việc đảm quyền tham gia xây dựng CSPL, các văn bản QPPL có những đặc thù nhất định so với việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị khác ở chỗ: Nhà nước phải tạo cơ chế để người dân hay đối tượng chịu sự tác động của CSPL, QPPL có thể hiểu được CSPL, các văn bản QPPL do mình soạn thảo, ban hành. Việc đó có thể tác động hay không tác động, hoặc tác động tiêu cực hay tích cực đến người dân, từ đó họ mới có thể biểu lộ được thái độ phản ứng, hay không phản ứng đối với CSPL, hay QPPL mà nhà nước đưa ra. Kết luận Chương 1 Chương 1 đã phân tích cơ sở lý luận về quyền tham gia của cá nhân vào đời sống chính trị nói chung và trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL nói riêng, bao gồm khái niệm, vai trò, nội dung, giới hạn, khung pháp luật về quyền tham gia xây dựng CSPL, văn bản QPPL. Quyền này hiện đã trở thành nhu cầu cấp thiết cần được bảo đảm thực hiện, khi mà xã hội được quản lý và vận hành theo những nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, từ lý luận đến thực tiễn vẫn còn có những bất cập, hạn chế, vậy nên thực trạng bảo đảm quyền tham gia của cá nhân trong xây dựng CSPL, văn bản QPPL ở Việt Nam cần được tiếp tục nghiên cứu tại Chương 2 dưới đây.
  • 44. 40 Chương 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT, CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM 2.1. Ghi nhận về mặt pháp lý và những kết quả đã đặt được trong việc bảo đảm quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam 2.2.1. Những ghi nhận về mặt pháp lý Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, tư duy và nhận thức chính trị về quyền con người được điều chỉnh thêm một bước đã tạo tiền đề cho việc khắc phục quan niệm bó hẹp trước đây về nội dung quyền con người cũng như phương thức đảm bảo quyền con người. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, đã đặt ra yêu cầu về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, theo đó, củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước. Gần đây nhất, Văn kiện Đại hội đảng lân thứ XII của Đảng (2016) tiếp tục khẳng định: “Phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ
  • 45. 41 phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân [22]. Thể chế hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Hiến pháp năm 2013 đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của chế độ dân chủ XHCN ở Việt Nam. Thiết lập cơ sở pháp lý cao nhất cho các hình thức dân chủ, trong đó, các hình thức dân chủ trực tiếp rất được chú trọng và đề cao như: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Trong số các hình thức dân chủ trực tiếp, việc nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là “phương pháp tuyệt diệu để tăng ngay một lúc bộ máy của chúng ta lên gấp mười lần” [19, tr.412]. Qua đây người dân người dân hiểu biết về các công việc của nhà nước và xã hội, phát huy trí tuệ, chủ động, tích cực tham gia quản lý, giải quyết các công việc của nhà nước và xã hội. Điều 28 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”. Quy định này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho người dân tham gia quản lý nhà nước và còn xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước phải tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền của mình. Đặc biệt, trách nhiệm đó được thực hiện theo nguyên tắc công khai,