SlideShare a Scribd company logo
1 of 103
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH NHÃ PHƢƠNG
PHÁP LUẬT VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý KINH NGHIỆM
THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH NHÃ PHƢƠNG
PHÁP LUẬT VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý KINH NGHIỆM
THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Đinh Nhã Phƣơng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................0
MỤC LỤC.............................................................................................................2
DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................4
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý ..........6
1.1. Khái niệm trưng cầu dân ý............................................................................................6
1.2. Vị trí, vai trò của trưng cầu dân ý.............................................................................12
1.3. Phân loại trưng cầu dân ý............................................................................................14
1.3.1. Phân loại theo tiêu chí hình thức......................................................................14
1.3.2. Phân loại theo tiêu chí nội dung .......................................................................16
1.4. Quy trình, thủ tục Trưng cầu dân ý..........................................................................17
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN TRƢNG CẦU DÂN Ý Ở MỘT SỐ NƢỚC
TRÊN THẾ GIỚI...............................................................................................27
2.1. Trưng cầu dân ý ở một số nước phát triển.............................................................27
2.1.1. Trưng cầu dân ý ở Thụy Sỹ.................................................................................27
2.1.2. Trưng cầu dân ý ở Pháp.......................................................................................34
2.1.3. Trưng cầu dân ý ở Nga.........................................................................................37
2.2. Trưng cầu dân ý ở một số nước Châu Á ................................................................40
2.2.1. Trưng cầu dân ý ở Nhật Bản ..............................................................................40
2.2.2. Trưng cầu dân ý ở các nước Đông Nam Á....................................................43
CHƢƠNG 3: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TRƢNG CẦU DÂN Ý Ở
VIỆT NAM..........................................................................................................49
3.1. Quy định về Trưng cầu dân ý trong các Hiến pháp............................................49
3.2. Pháp luật về Dân chủ trực tiếp...................................................................................58
3.2.1. Tham gia đóng góp ý kiến khi Nhà nước tổ chức lấy ý kiến nhân dân 58
3.2.2. Thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở............................................62
3.3. Xây dựng luật trưng cầu dân ý ..................................................................................69
3.3.1. Sự cần thiết ban hành luật trưng cầu dân ý ..................................................69
3.3.2. Các yêu cầu của luật trưng cầu dân ý.............................................................72
3.3.3. Đề xuất các kiến nghị xây dựng luật trưng cầu dân ý ...............................75
KẾT LUẬN.........................................................................................................87
PHỤ LỤC............................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................94
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Quy định về Trưng cầu dân ý bắt buộc và không bắt buộc trong các
bang của Thụy Sỹ tính đến tháng 12/2004...........................................................30
Bảng 2.2. Khảo sát về quy định Trưng cầu dân ý ở một số nước Châu Á ..........47
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trưng cầu ý dân/phúc quyết (referendum) là quá trình mà người dân bỏ
phiếu quyết định (đồng ý hay không đồng ý) về những vấn đề của Nhà nước,
thường là các vấn đề liên quan đến chính trị quan trọng của quốc gia như sửa đổi
Hiến pháp, tham gia liên minh, quyết định các vấn đề lớn liên quan đến quyền
làm chủ của người dân… Trong xã hội hiện đại, trưng cầu ý dân là một chế định
pháp luật tồn tại trong nhiều hệ thống chính trị khác nhau ở các châu lục.Cho đến
nay đã có 101 nước trên tổng số 190 nước có quy định về trưng cầu ý dân.
Theo Hiến pháp hiện hành, “Nhân dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước
tổ chức trưng cầu dân ý” (Điều 53). Để thực hiện quyền hiến định quan trọng
này, Hiến pháp tiếp tục quy định: “Quốc hội quyết định việc trưng cầu dân ý”
(Khoản 14 Điều 84). Những quy định trên của Hiến pháp hiện hành có cơ sở từ
bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, trong đó khẳng định việc sửa đổi Hiến pháp
phải được quyết định bằng trưng cầu dân ý: “Những điều thay đổi khi đã được
Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Việc tham gia bỏ
phiếu trưng cầu dân ý là một quyền dân chủ trực tiếp được Hiến pháp quy định,
phản ánh bản chất của nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đảm
bảo quyền tham gia quản lý nhà nước của nhân dân.
Mặc dù được tuyên bố trong Hiến pháp, nhưng thực tiễn cho thấy nhân
dân chưa bao giờ thực hiện quyền biểu quyết trong các cuộc trưng cầu dân ý.
Thực tiễn này xuất phát từ nhiều lý do, mà trước hết phải kể đến bối cảnh khó
khăn của những giai đoạn giành và giữ chủ quyền trong hai cuộc chống giặc Mỹ
và Pháp. Bước sang giai đoạn độc lập hoàn toàn, trong thời kỳ đầu của giai đoạn
tổ chức nhà nước theo nguyên tắc tập quyền, nhà nước quản lý xã hội theo
phương thưc tập trung, bao cấp, các quyền tự do dân chủ trực tiếp còn chưa được
thực sự được chú trọng. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới mở rộng dân chủ, đặc
biệt là dân chủ trực tiếp, trưng cầu dân ý trở thành một vấn đề quan trọng được
2
quan tâm từ cả phía học giả lẫn chính trị. Tuy vậy, việc tổ chức một cuộc trưng
cầu dân ý vẫn chưa diễn ra, có nguyên nhân chính xuất phát từ các hạn chế của
quy định Hiến pháp hiện hành về trưng cầu dân ý, theo đó Hiến pháp không quy
định rõ về nội dung, quy trình trưng cầu dân ý, mà lại trao cho Quốc hội quyết
định việc trưng cầu dân ý. Quyền hiến định này của người dân không được thực
thi khi Quốc hội không tổ chức trưng cầu dân ý cho người dân biểu quyết.
Ngoài những vấn đề lớn ảnh hưởng đến sự vô hiệu quy định này như
quyền dân chủ trực tiếp vẫn chưa thực sự được đề cao, Quốc hội thiếu thực
quyền, thì sự thiếu vắng một đạo luật quy định về trưng cầu dân ý cũng được nêu
như là một trong những rào cản về mặt pháp lý cho việc thực thi trưng cầu dân ý
trên thực tế. Rõ ràng, việc tuyên bố trong Hiến pháp quyền tham gia trưng cầu
dân ý đặt ra trách nhiệm của Nhà nước trong việc tổ bảo đảm thực hiện quyền
đó. Trước hết, Quốc hội phải ban hành luật trưng cầu dân ý quy định các quy tắc
quy định quy trình, thủ tục để các cơ quan nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý và
người dân thực hiện quyền tham gia biểu quyết.
Trong các thảo luận sửa đổi Hiến pháp gần đây, nhiều người quan tâm đến
quy định Hiến pháp về trưng cầu dân ý. Nhiều đề xuất đề nghị quy định rõ các
vấn đề trưng cần dân ý thay vì trao quyền cho Quốc hội quyết định việc trưng
cầu dân ý. Các tranh luận tập trung xoay quanh vấn đề trưng cầu dân ý về sửa
đổi Hiến pháp, bởi quyền lập hiến là quyền thuộc về nhân dân, nên việc sửa đổi
Hiến pháp phải do nhân dân quyết định.
Từ những phân tích ở trên, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về trưng cầu
dân ý Kinh nghiệm thế giới và một số gợi mở cho Việt Nam” là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay ở Việt Nam, hầu như chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ nào
về trưng cầu dân ý. Vấn đề này chỉ mới bắt đầu được đặt ra khi chúng ta có chủ
trương xây dựng Luật Trưng cầu dân ý trong thời gian gần đây. Một số ít công
trình nghiên cứu gần đây như:
3
2.1. Sách, báo, tạp chí
- Sách “Trưng cầu ý dân- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả
Trương Thị Hồng Hà, NXB Chính trị- Hành chính, 2011.
- “Sổ tay IDEA Quốc tếDân chủ trực tiếp”, NXB Đại học Quốc Gia Hà
Nội, 2014.
- Bàn về chế định trưng cầu dân ý, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 59,
tháng 9 năm 2005.
- Đánh giá kết quả trưng cầu dân ý ở Australia, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 67, tháng 1 năm 2006.
- Trưng cầu dân ý và dự thảo Luật về trưng cầu dân ý, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp – Hiến kế lập pháp, số 68, tháng 2 năm 2006.
- Thủ tục trưng cầu dân ý, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 69, tháng 2
năm 2006.
- Một số ý kiến về dân chủ trực tiếp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
128, tháng 12 năm 1998.
- Trưng cầu ý dân ở Liên Xô và Liên bang Nga, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 59, tháng 9 năm 2005…
2.2. Hội thảo khoa học
-Hội thảo Trưng cầu dân ý- Những vấn đề lý luận và thực tiễn do Hội
Luật gia Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 04/6/2013
- Hội thảo quốc tế về Luật Trưng cầu ý dân của một số nước và kinh
nghiệm cho Việt Namdo Hội Luật gia Việt Nam phối hợp Chương trình phát
triển của Liên hợp quốc UNDP tổ chức tại Hà Nội ngày 17-18/11/2014
Nhìn chung, mỗi công trình trên thường đi sâu nghiên cứu một mặt hoặc
một vấn đề cụ thể nào đó của trưng cầu dân ý như: khái niệm trưng cầu dân ý;
bản chất, nội dung và yêu cầu cơ bản của trưng cầu dân ý; Chủ nghĩa Mác- Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về trưng cầu dân ý; các hình thức trưng cầu dân
ý…Cho đến nay một số công trình nghiên cứu đã cung cấp cho khoa học nhiều
4
tư liệu quý về trưng cầu dân ý, song chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu tổng quát những vấn đề cơ bản về pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý trên
thế giới và ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật trưng cầu
dân ý ở nước ngoài và Việt Nam, đưa ra những đóng góp, đề xuất để hoàn thiện
pháp luật trưng cầu dân ý.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về trưng cầu dân ý;
- Đánh giá pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý ở một số nước điển hình
trên thế giới;
- Đánh giá pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý ở Việt Nam, đề xuất
quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về trưng cầu dân ý, đặc biệt trong việc
xây dựng Luật Trưng cầu dân ý.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật trưng cầu dân ý ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới.Qua đó chỉ ra những hạn chế còn tồn tại của
pháp luật trưng cầu dân ý ở Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp xây dựng
Luật Trưng cầu dân ý.
Phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứupháp luật và thực tiễn thi hành
pháp luật về trưng cầu dân ý;Trưng cầu dân ý ở một số nước điển hình có giá trị
tham khảo cho Việt Nam: một số nước phát triển (Thụy Sỹ, Pháp, Nga); một số
nước Châu Á (Nhật Bản, các nước Đông Nam Á); Phương hướng giải pháp
nhằm xây dựng Luật Trưng cầu dân ý.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp kết hợp
lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống,
luật học so sánh và khảo sát thực tế để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên
cứu của luận văn.
5
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật
trưng cầu dân ý ở Việt Nam cũng như nước ngoài, qua đó có cái nhìn tổng quát
nhất về thực trạng trưng cầu dân ý ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất các giải pháp
góp phần hoàn thiện và xây dựng Luật Trưng cầu dân ý trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Về kết cấu của luận văn, ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương;9 tiết.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về trưng cầu dân ý.
Chương 2: Thực tiễn trưng cầu dân ý ở một số nước trên thế giới.
Chương 3: Pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý ở Việt Nam.
6
CHƢƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý
1.1. Khái niệm trƣng cầu dân ý
Trưng cầu dân ý là một hình thức dân chủ trực tiếp, qua đó người dân bỏ
phiếu quyết định (đồng ý hay không đồng ý) về những vấn đề của Nhà nước,
thường là các vấn đề liên quan đến chính trị quan trọng của quốc gia như sửa đổi
Hiến pháp, tham gia liên minh, quyết định các vấn đề lớn liên quan đến quyền
làm chủ của người dân… Vì vậy, để làm rõ được bản chất của trưng cầu dân ý
trước tiên chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm dân chủ trực tiếp.
Dân chủ trực tiếp cùng với dân chủ gián tiếp là hai cơ chế chủ yếu để
người dân thực hiện quyền lực của mình. Nếu như dân chủ gián tiếp là cơ chế
mà người dân thực hiện quyền lực thông qua cơ quan đại diện do mình bầu ra thì
dân chủ trực tiếp là cơ chế mà người dân được trực tiếp tham gia các công việc
của nhà nước và cộng đồng, không thông qua bất kỳ một khâu trung gian nào.
Dân chủ trực tiếp được hiểu theo các truyền thống đó là “sự thể hiện một cách
trực tiếp ý chí của nhân dân về một vấn đề nào đó mà không cần thông qua một
tổ chức hay các nhân nào thay mặt mình và ý chí đó có giá trị thi hành
ngay”[19, tr.15]. Theo quan điểm hiện đại, “dân chủ trực tiếp là một phương
thức làm chủ của nhân dân khi nhân dân- chủ thể của quyền lực- quyết định
hoặc bày tỏ ý chí, nguyện vọng, đề đạt kiến nghị nào đó trong xây dựng nhà
nước, trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời thực hiện kiểm tra, giám
sát bộ máy nhà nước do chính mình lập nên”.[19,tr.16]
Dân chủ trực tiếp xuất hiện đầu tiên ở nhà nước Aten cổ đại. Khi đó người
ta thường tập hợp số lượng dân chúng tối đa khoảng 5000 đến 6000 người ở một
địa điểm để cùng bàn bạc, thảo luận và trực tiếp đưa ra các quyết định về các vấn
đề của đất nước. Đó chính là những hoạt động trưng cầu dân ý của người dân
vào buổi sơ khai. Người ta còn tìm thấy các quy định về trưng cầu dân ý, quy
định kết quả của các cuộc trưng cầu dân ý là bắt buộc đối với mọi vương quốc và
mọi thần dân trong rất nhiều các Đạo luật cổ như: Đạo luật Valery và Horasy
năm 449 TCN, đạo luật Publia năm 339 trước TCN và sau đó là đạo luật
Hortensia năm 287 TCN.
7
Qua đó có thể thấy, trưng cầu dân ý là một phạm trù có tính lịch sử, xuất
hiện và phát triển cùng với sự phát triển của dân chủ, được sử dụng ngày càng
phổ biến trong sinh hoạt chính trị, pháp lý của nhiều quốc gia. Tới nay, đã có
101 nước trên tổng số 190 nước có quy định về trưng cầu dân ý.
- Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hồ
Chí Minh tái bản lần thứ 13, Nguyễn Như Ý chủ biên thì Trưng cầu được hiểu là
“đưa ra hỏi ý kiến của số đông một cách có tổ chức để thêm căn cứ khi đưa ra
quyết định vấn đề gì”; Trưng cầu dân ý là “hỏi ý kiến nhân dân bằng cách tổ
chức bỏ phiếu để nhân dân trực tiếp quyết định”.[31, tr.1682]
- Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản từ điển Bách khoa phát
hành thì Trưng cầu dân ý là “cuộc hỏi ý kiến của toàn thể dân chúng về một vấn
đề chính trị hay pháp luật bằng cách tổ chức bỏ thăm” [20, tr.1116]
Ở Việt Nam thuật ngữ trưng cầu dân ý tuy không phải mới mẻ, nhưng do
ít được đề cập, bàn luận nên trên thực tế còn có những cách hiểu chưa thống
nhất, thậm chí rất khác nhau. Chẳng hạn như gọi việc công bố dự thảo Hiến pháp
hay một dự án luật để lấy ý kiến nhân dân là trưng cầu dân ý; nhầm tưởng việc
điều tra xã hội học là trưng cầu dân ý…Vì vậy, để có được một cách hiểu chính
xác nhất về trưng cầu dân ý, trước hết phải phân biệt trưng cầu dân ý với các
thuật ngữ khác, như phúc quyết, lấy ý kiến nhân dân, bầu cử, điều tra xã hội học.
* Trưng cầu dân ý và phúc quyết toàn dân
Phúc quyết toàn dân là việc Nhà nước đưa một vấn đề (văn bản pháp luật,
quyết định hành chính…) đã được cơ quan nhà nước thông qua ra để nhân dân
quyết định lại.Trong khi đó, trưng cầu dân ý là việc Nhà nước đưa một vấn đề
quan trọng để nhân dân trực tiếp quyết định thông qua việc bỏ phiếu.
Có thể thấy điểm khác biệt lớn nhất giữa phúc quyết và trưng cầu dân ý
chính là đối tượng mà chế định này hướng tới, nếu như đối tượng của phúc quyết
là những vấn đề đã được quyết định, nhưng sau nhận thấy cần phải đưa ra để
nhân dân biểu quyết lại. Trong khi đó, đối tượng của trưng cầu dân ý là các vấn
8
đềmà cơ quan nhà nước chưa có hướng giải quyết, và kết quả biểu quyết của
nhân dân là quyết định cuối cùng. Đi sâu vào chi tiết hơn thì phạm vi phúc quyết
có thể là những vấn đề quan trọng của quốc gia như Hiến pháp, văn bản pháp
luật… cũng có thể chỉ là những vấn đề nhỏ ở trong một đơn vị hành chính sự
nghiệp như việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với lãnh đạo, hay các quyết định mang
tính chất nội bộ của cơ quan… Điều này cũng đồng nghĩa với việc chủ thể của
quyền phúc quyết có thể là toàn dân, cũng có thể chỉ là một bộ phận nhỏ người
dân trong một cơ quan, tổ chức. Khác với phúc quyết, phạm vi của trưng cầu dân
ý là những vấn đề quan trọng của quốc gia hay của địa phương, ví dụ như thông
qua Hiến pháp mới, sửa đổi bổ sung Hiến pháp cũ, chia tách địa giới hành
chính… những vấn đề này đều là những vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới một bộ
phận không nhỏ người dân, chính vì vậy chủ thể của trưng cầu dân ý rộng hơn
rất nhiều so với phúc quyết.
Pháp luật Việt Nam, thuật ngữ phúc quyết được sử dụng trong Hiến pháp
năm 1946 ở các Điều 21 “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những
điều liên quan tới vận mệnh quốc gia…”,Điều 32 “Những việc quan trọng đến
vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị
viện đồng ý” và Điều 70 “Những điều thay đổi khi được Nghị viện ưng thuận thì
phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Tuy nhiên nội hàm của các quy định này lại
giống với trưng cầu dân ý, vì vậy tới bản Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980
quyền này được đổi thành trưng cầu ý kiến nhân dân, tới bản Hiến pháp 1992 thì
được gọi là trưng cầu ý dân.
* Trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân
Trong Hiến pháp và pháp luật hiện hành của nước ta đã có những ghi
nhận về việc trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân. Đây là hai hình thức hoạt
động của cơ quan nhà nước có mục đích, yêu cầu gần giống nhau nhưng cách
thức tiến hành lại hoàn toàn khác nhau. Do vậy về mặt lý luận và hoạt động thực
tế rất cần có sự phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa trưng cầu dân ý và lấy ý kiến
nhân dân để đề ra và thực hiện mục đích, yêu cầu của mỗi hoạt động này được
đúng đắn và tốt hơn.
9
Trưng cầu dân ý là đưa một vấn đề quan trọng của đất nước ra cho toàn
dân thảo luận và cử tri biểu quyết, quyết định theo đa số. Khi đã đưa một vấn đề
nào đó ra trưng cầu dân ý thì các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể chỉ có
nhiệm vụ tổ chức thực hiện như là một bộ máy thư ký giúp việc cho cử tri và
kiểm phiếu, công bố kết quả chứ không phải là cơ quan tổng hợp, tập hợp ý kiến
của cử tri để nghiên cứu tiếp thu, giải trình, chỉnh lý, càng không có quyền bảo
lưu ý kiến của mình.
Trong khi đó, lấy ý kiến nhân dân là việc Nhà nước tổ chức để nhân dân
đóng góp, tham gia ý kiến của mình về một vấn đề cụ thể đưa ra lấy ý kiến.
Những ý kiến đóng góp này chỉ được cơ quan hữu quan tổng hợp, nghiên cứu
giải trình, tiếp thu khi chỉnh lý dự thảo để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét.
Có thể nhận thấy cả trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân đều là hình
thức dân chủ trực tiếp; xét về bản chất, trưng cầu dân ý là một trong những hình
thức của lấy ý kiến nhân dân.Tuy nhiên, nội hàm của trưng cầu dân ý hẹp hơn so
với nội hàm của lấy ý kiến nhân dân. Những việc đưa ra lấy ý kiến nhân dân có
khi là để xem xét quyết định về một vấn đề cụ thể (như việc có nên xây dựng
một công trình hay không) giống như trong trưng cầu dân ý nhưng cũng có thể là
việc góp ý để hoàn chỉnh thêm các vấn đề đưa ra lấy ý kiến (như việc lấy ý kiến
đối với dự án luật, pháp lệnh). Điểm khác biệt cơ bản giữa lấy ý kiến nhân dân
và trưng cầu dân ý là ở chỗ:
- Thông qua trưng cầu dân ý người dân trực tiếp quyết định đối với vấn đề
được đưa ra trưng cầu; còn thông qua việc lấy ý kiến nhân dân, ý kiến của người
dân chỉ mang tính chất tham khảo với cơ quan nhà nước, việc quyết định về vấn
đề đưa ra lấy ý kiến như thế nào vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan nhà nước.
- Đối tượng của việc lấy ý kiến nhân dân là tất cả những người có khả
năng và tâm huyết đóng góp ý kiến, không hạn chế bất kỳ một trường hợp nào
dù người ấy có quyền công dân hoặc quyền bầu cử hay không. Trong khi đó, đối
tượng của trưng cầu dân ý chỉ gồm những người có quyền bầu cử.
10
- Hình thức trưng cầu dân ý bắt buộc phải thực hiện bằng hình thức bỏ
phiếu với câu trả lời đồng ý hay không đồng ý với vấn đề đề đưa ra trưng cầu,
còn việc lấy ý kiến nhân dân thường không thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu,
người dân góp ý bằng cách thể hiện ý kiến trong văn bản và gửi cho cơ quan tổ
chức việc lấy ý kiến nhân dân.
* Trưng cầu dân ý và bầu cử
Bầu cửlà hoạt động bỏ phiếu của người dân để chọn ra những cá nhân
nắm giữ các chức vụ quan trọng hoặc tham gia vào cơ quan đại diện của mình.
Bầu cử có thể là bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng địa phương hoặc cũng
có thể là bầu người lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức…
Bầu cử và trưng cầu dân ý có khá nhiều nét tương đồng, đặc biệt là ở quy
trình thủ tục thực hiện hai hoạt động này. Cả bầu cử là trưng cầu dân ý đều có
chung một chủ thể được gọi là cử tri và thực hiện dưới hình thức bỏ phiếu. Tuy
nhiên có thể nhận thấy điểm khác biệt cơ bản giữa bầu cử và trưng cầu dân ý ở chỗ:
- Đối tượng của bầu cử hướng tới là chọn lựa ra các cá nhân cụ thể, trong
khi đối tượng của trưng cầu dân ý là lựa chọn đồng ý hay không đồng ý một vấn
đề mà cơ quan nhà nước đưa ra.
- Bầu cử là việc trao quyền lực (uỷ thác quyền lực) của nhân dân cho
người được chọn, đó là việc chuyển hoá ý chí của người dân sang cơ quan đại
diện. Trong khi đó, trưng cầu dân ý là việc người dân trực tiếp thực hiện quyền
lực của mình, trực tiếp thể hiện ý chí của mình mà không thông qua bất kỳ một
cơ quan, tổ chức nào khác.
- Quy mô của các cuộc bầu cử có thể là trên toàn quốc như tổng tuyển cử
toàn quốc bầu đại biểu Quốc hội, ở phạm vi địa phương như bầu đại biểu Hội
đồng nhân dân cũng có khi là bầu người lãnh đạo trong các tổ chức doanh
nghiệp. Quy mô của các cuộc trưng cầu dân ý thường chỉ có hai mức độ là trưng
cầu dân ý trên phạm vi cả nước như là việc thông qua Hiến pháp, pháp luật và
trưng cầu dân ý ở địa phương đó là những vấn đề quan trọng của địa phương như
sát nhập địa giới hành chính, xây dựng các công trình công cộng…
11
* Trưng cầu dân ý và điều tra xã hội học
Điều tra xã hội học là một hoạt động khảo sát ý kiến người dân về một
vấn đề cụ thể hoặc một cá nhân cụ thể trong xã hội.Hoạt động điều tra xã hội học
có thể được thực hiện bởi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cũng có khi chỉ là
hoạt động nghiên cứu của một các nhân.Vì vậy mà kết quả của hoạt động điều
tra xã hội học chỉ có tính chất tham khảo, không có giá trị bắt buộc đối với cơ
quan nhà nước.
Trong khi đó, trưng cầu dân ý là hoạt động lấy ý kiến nhân dân thông qua
hình thức bỏ phiếu. Hoạt động trưng cầu dân ý bắt buộc phải do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện tổ chức và kết quả của cuộc trưng cầu dân ý có
giá trị bắt buộc đối với cơ quan nhà nước.
Có thể thấy trưng cầu dân ý là một chế định xã hội có cùng tính chất với
điều tra dư luận xã hội nhưng ở mức độ cao hơn, nếu xét về mức độ thực hiện
chế định dân chủ trực tiếp (Dân chủ được thực hiện dưới hai hình thức là dân
chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó dân chủ trực tiếp là nhân dân bày tỏ
chính kiến của mình, trực tiếp quyết định những vấn đề của đời sống xã hội).
Trong trưng cầu dân ý thì chủ thể đưa ra vấn đề để trưng cầu luôn là Nhà nước,
còn người dân sẽ biểu đạt ý chí của mình thông qua việc bỏ phiếu.
Từ những định nghĩa của các cuốn từ điển uy tín, cũng như những phân
tích phân biệt giữa trưng cầu dân ý với các khái niệm có liên quan ở trên cho
thấy trưng cầu dân ý có các dấu hiệu đặc trưng sau: donhân dân - chủ thể tối cao
toàn bộ quyền lực nhà nước thực hiện; đối tượng của trưng cầu ý dân là những
vấn đề quan trọng mà bản thân các cơ quan nhà nước không thể tự mình quyết
định được; được thực hiện dưới hình thức trực tiếp; kết quả của cuộc trưng cầu
dân ý có gái trị cao nhất mà không có cơ quan nàocó quyền sửa đổi và có giá trị
bắt buộc thực hiện.
Từ nhữngdẫn chứng trên, có thể rút ra khái niệm:
Trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp, theo đó nhân dântrực tiếp
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định của pháp luật
hoặc theo sáng kiến trưng cầu dân ý, thông qua thủ tục bỏ phiếu.
12
1.2. Vị trí, vai trò của trƣng cầu dân ý
Vị trí, vai trò của dân chủ trực tiếp nói chung và của trưng cầu dân ý nói
riêng trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia như thế nào, điều đó phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau, như các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, trình độ dân trí, trình độ chính trị, trình độ pháp lý, thói quen thực hiện dân
chủ của người dân theo từng nước; phụ thuộc vào sự tác động của các quốc gia
khác nhau trong khu vực và trên thế giới… Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng,
khi dân chủ càng phát triển thì càng tạo điều kiện mở rộng và phát huy trưng cầu
dân ý. Ngược lại, ở đâu và nơi nào quan tâm và chú trọng tới dân chủ trực tiếp
cũng như trưng cầu dân ý, thì nơi đó nền dân chủ mới thực sự phát triển và chế
độ chính trị ở đó mới thực sự mang bản chất “quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân”. Nói cách khác, dân chủ là tiền đề để thực hiện và mở rộng trưng cầu dân ý;
và ngược lại, trưng cầu dân ý là công cụ, phương tiện quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của dân chủ cả về phạm vi và mức độ.
Trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp nhất. Bên cạnh các hình
thức dân chủ khác như: bầu cử, quyền khiếu nại tố cáo, quyền được bàn bạc,
quyết định các vấn đề phát triển kinh tế ở địa phương, quyền tự quản ở khu dân
cư… thì trưng cầu dân ý được coi là hình thức dân chủ trực tiếp nhất. Bởi lẽ,
thông qua bầu cử người dân mới bầu ra người đại diện cho mình tham gia vào
các cơ quan quyền lực nhà nước, mọi tâm tự nguyện vọng của người dân sẽ được
biểu đạt thông qua người đại diện, tuy nhiên trên thực tế ý chí của người đại diện
đó lại bị chi phối bởi nhiều yếu tố do vậy nhiều khi hoạt động của người đại biểu
đó lại không phản ánh được ý chí của nhân dân. Trong khi đó, thông qua hoạt
động trưng cầu dân ý, công dân thể hiện trực tiếp ý chí của mình đối với các vấn
đề quan trọng của quốc gia thông qua lá phiếu. Do đó, những quyết định quan
trọng của chính quyền luôn phù hợp và phản ánh được ý chí của người dân.
Ngoài ra các hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, người dân mặc dù được tham
gia góp ý vào các hoạt động của cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt
13
động của cơ quan nhà nước tại địa phương. Tuy nhiên những ý kiến, nguyện
vọng của nhân dân chỉ có tính chất tham khảo đối với cơ quan nhà nước chứ
không có tính quyết định đối với hoạt động của cơ quan này. Trong khi, kết quả
của hoạt động trưng cầu dân ý có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan nhà
nước, không có bất kỳ một cơ quan nhà nước nào có thể làm khác đi kết quả
trưng cầu dân ý.
Trưng cầu dân ý là cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân, giúp Đảng và
Nhà nước khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế. Nhà nước đóng vai trò là chủ
thể tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý còn nhân dân đóng vai trò là chủ thể trung
tâm của trưng cầu dân ý. Thông qua các cuộc trưng cầu dân ý, mối quan hệ của
Nhà nước với công dân cũng được củng cố càng chở nên gắn bó, mật thiết hơn,
công dân có điều kiện tìm hiểu, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Nhà nước dễ bao quát được mọi khía cạnh của đời sống thực tiễn, hiểu được ý
chí, mong muốn của người dân, qua đó sẽ có những quyết định, sách lược phù
hợp với điều kiện xã hội, phù hợp với lòng dân. Trưng cầu dân ý giúp Đảng và
Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính sách, pháp luật, khắc phục bệnh
quan liêu, xa rời thực tế, giúp cho đất nước ngày càng phát triển và lớn mạnh.
Bên cạnh đó, trưng cầu dân ý giúp ngăn ngừa những quyết định được đưa ra vội
vã, thiếu cân nhắc từ phía Nhà nước.
Trưng cầu dân ý góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm chính trị của
người dân. Trưng cầu dân ý tạo thói quen cho người dân phát biểu chính kiến
của mình về các vấn đề chung của đất nước; đồng thời, đây cũng là bước chuẩn
bị, tạo sự sẵn sàng cho người dân trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật, đảm bảo tính khả thi cũng như hiệu quả của pháp luật. Vì vậy quá trình này
sẽ tạo động lực cũng như là một cơ hội tuyệt vời cho nhân dân tìm hiểu về các
vấn đề quan trọng của đất nước, thể hiền quyền cũng như nghĩa vụ của mình đối
với đất nước.
14
1.3. Phân loại trƣng cầu dân ý
Trong phần này, nghiên cứu sẽ làm rõ các loại trưng cầu dân ý dựa theo
các tiêu chí khác nhau: hình thức và nội dung.
1.3.1. Phân loại theo tiêu chí hình thức
- Nếu căn cứ vào chủ thể đề xuất của cuộc trưng cầu dân ý thì có thể phân
ra làm hai hoại trưng cầu dân ý là trưng cầu dân ý bắt buộc và trưng cầu dân ý
tuỳ nghi.
+ Trưng cầu dân ý bắt buộc: là cuộc bỏ phiếu của cử tri được tiến hành
một cách đương nhiên đối với những vấn đề cụ thể mà hiến pháp hoặc pháp luật
quy định. Trưng cầu dân ý bắt buộc thường chỉ áp dụng đối với các quyết định
chính trị rất quan trọng. Trưng cầu dân ý bắt buộc thường được áp dụng đối với
việc sửa đổi Hiến pháp, bất đồng giữa tổng thống và cơ quan lập pháp, phê
chuẩn các điều ước quốc tế, tham gia một tổ chức siêu quốc gia, các vấn đề về
chủ quyền quốc gia hoặc tự quyết.
Ví dụ: ở Úc, Đan Mạch và Venezuela, tất cả các sửa đổi về hiến pháp đều
phải bắt buộc thông qua trưng cầu dân ý; còn ở các nước như Iceland và Peru,
trưng cầu dân ý được áp dụng đối với một số trường hợp sửa đổi Hiến pháp nhất
định. Tại Thụy Sỹ - quê hương của trưng cầu dân ý, một số điều ước quốc tế bắt
buộc phải đưa ra trưng cầu dân ý trước khi phê chuẩn và ở Đan Mạch thì việc
trao quyền cho các tổ chức quốc tế hoặc tổ chức siêu quốc gia phải được thực
hiện thông qua hình thức trưng cầu dân ý.[22, tr.132]
+ Trưng cầu dân ý tuỳ nghi: là cuộc bỏ phiếu của cử tri không theo quy định
của pháp luật mà theo đề xuất của Chính phủ hoặc một số trường hợp theo đề xuất
của của các đảng phái. Loại trưng cầu dân ý này có nhiều hình thức khác nhau.
Trưng cầu dân ý được quy định trước mang tính nguyên tắc trong hiến
pháp hoặc trong các quy chế về trưng cầu dân ý. Như ở Tây Ban Nha, Hiến pháp
quy định: “các quyết định mang tính chất chính trị đặc biệt quan trọng có thể
được đưa ra trưng cầu dân ý để tham vấn và nhà vua có thể tiến hành cuộc
15
trưng cầu dân ý theo đề nghị của Tổng thống sau khi được Hạ nghị viện uỷ
quyền”; ở Argentina, Hiến pháp quy định: “cả cơ quan lập pháp và cơ quan
hành pháp đều có quyền khởi xướng việc trưng cầu dân ý”.[22, tr.133]
Trưng cầu dân ý không được quy định trước trong Luật và Hiến pháp.Đó
là một loại trưng cầu dân ý mà mỗi lần cần thực hiện thì cơ quan lập pháp sẽ ban
hành một đạo luật riêng để áp dụng trong trường hợp cụ thể đó. Ví dụ ở Na Uy,
Hiến pháp không có quy định gì về trưng cầu dân ý và cơ quan lập pháp có
quyền quyết định có tổ chức trưng cầu dân ý hay không và nếu quyết định trưng
cầu dân ý thì cơ quan này sẽ quy định chi tiết việc thực hiện.
- Nếu căn cứ vào thời điểm đề xuất thì có thể phân ra là: trưng cầu dân ý
trước khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó; trưng cầu dân ý sau khi Nghị
viện thông qua một vấn đề nào đó.
+ Trưng cầu dân ý trước khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó: là
việc trước khi Nghị viện thông qua một đạo luật, chẳng hạn Nghị viện muốn biết
ý kiến của nhân dân về nội dung của đạo luật bằng cách trưng cầu dân ý.
+ Trưng cầu dân ý sau khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó: là khi
Nghị viện thông qua một nghị quyết hay đạo luật nào đó, nghị quyết hay đạo luật
đó cần phải được nhân dân biểu thị ý kiến- thông qua hay không thông qua. Ý
kiến của nhân dân được thể hiện thông qua trưng cầu dân ý. Kết quả trưng cầu
dân ý trong trường hợp này là ý kiến cuối cùng, nếu kết quả trưng cầu dân ý cho
thấy đa số tán thành thì đạo luật hay nghị quyết được đưa ra trưng cầu dân ý mới
có hiệu lực thi hành, ngược lại nghị quyết hay đạo luật đó sẽ bị huỷ bỏ.
Ngoài hai trường hợp kể trên còn có trưng cầu dân ý ngoài hoạt động của
Nghị viện là trường hợp một quyết định hay một dự luật được thông qua mà
không cần tới ý kiến của Nghị viện một khi Tổng thống muốn thông qua luật
nhưng không tin tưởng vào sự ủng hộ của Nghị viện.
- Nếu căn cứ vào phạm vi địa lý tiến hành trưng cầu dân ý thì có thể phân
loại ra làm hai hình thức:
16
+ Trưng cầu dân ý trên phạm vi cả nước: là cuộc trưng cầu dân ý được
tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của toàn quốc gia với sự tham gia của tất cả các
cử tri trong cả nước.
+ Trưng cầu dân ý ở địa phương: là cuộc trưng cầu dân ý được tiến hành
trong một phạm vi lãnh thổ của một đơn vị hành chính hoặc một số đơn vị hành
chính của quốc gia với sự tham gia của cử tri địa phương hoặc của vùng đó.
1.3.2. Phân loại theo tiêu chí nội dung
- Nếu căn cứ vào đối tượng đưa ra trưng cầu dân ý thì có thể phân ra làm
những loại như sau:
+ Trưng cầu dân ý về lập hiến: là cuộc trưng cầu dân ý về nội dung của
bản Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua, có nên hay không nên sửa đổi Hiến
pháp hiện hành hoặc về nội dung của Hiến pháp đã được sửa đổi, bổ sung.
+ Trưng cầu dân ý về lập pháp: là cuộc trưng dân ý cầu về các đạo luật đã
được Quốc hội thông qua hoặc về sáng kiến của nhân dân đề nghị ban hành một
đạo luật hay là cuộc trưng cầu để nhân dân trực tiếp quyết định về việc quốc gia
mình có tham gia hoặc không tham gia vào một điều ước quốc tế.
+ Trưng cầu dân ý về hành pháp: là cuộc trưng cầu dân ý mà nhân dân
trực tiếp quyết định các vấn đề về quản lý nhà nước như quyết định việc chia,
tách, sáp nhập, điều chỉnh những thay đổi khác về địa giới hành chính- lãnh thổ
nơi mình sinh sống; hay việc nhân dân tự mình quyết định về một dự án quy
hoạch, đầu tư xây dựng công trình liên quan trực tiếp đến lợi ích của cộng đồng
dân cư…
- Nếu căn cứ vào tính chất chất của cuộc trưng cầu dân ý có thể chia ra
thành: trưng cầu dân ý bắt buộc và trưng cầu dân ý tham khảo.
+ Trưng cầu dân ý bắt buộc: là trưng cầu dân ý mà kết quả của cuộc trưng
cầu dân ý là kết quả cuối cùng, buộc các cơ quan nhà nước phải quyết định theo
mà không thể có quyết định nào khác.
17
+ Trưng cầu dân ý tham khảo: là trưng cầu dân ý để biết ý kiến của nhân
dân về một hay các vấn đề nào đó mà Nghị viện sẽ quyết định thông qua. Ý kiến
của nhân dân trong trường hợp này sẽ được Nghị viện xem xét, có thể sẽ không
bắt buộc phải theo.
1.4. Quy trình, thủ tục trƣng cầu dân ý
Trưng cầu dân ý cũng giống như bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân, quyền của nhân dân tự quyết trong vấn đề thể hiện ý chí của
mình là rất quan trọng vì bản chất của trưng cầu dân ý là muốn lấy được ý chí
đích thực của người dân. Nếu một cuộc trưng cầu dân ý không chặt chẽ về mặt
thủ tục sẽ khiến người dân thờ ơ với việc bỏ phiếu, ngược lại nếu thủ tục trưng
cầu dân ý quá rườm rà, phức tạp về thủ tục không những làm giảm đi tính kịp
thời của quyết định mà còn mất đi ý nghĩa của cuộc trưng cầu dân ý, đồng thời
tạo nên rào cản cho việc nhân dân thể hiện ý kiến của mình. Do vậy, cần tạo cho
hoạt động trưng cầu dân ý được diễn ra theo một quy trình hợp pháp, công khai
và dân chủ. Quy trình, thủ tục trưng cầu dân ý là khuân thước, chuẩn mực để
người dân và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo, đem lại cho
cuộc trưng cầu dân ý kết quả khách quan, công bằng nhất và giảm thiểu các
khiếu nại, tranh chấp phát sinh từ quá trình thực hiện trưng cầu dân ý.
Trình tự tiến hành trưng cầu dân ý gồm các bước sau:
Bước 1: Sáng kiến trưng cầu dân ý
Để tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý, trước hết phải có được sáng kiến
trưng cầu dân ý. Sáng kiến trưng cầu dân ý là bước đầu tiên của quy trình trưng
cầu dân ý, là cơ sở để hình thành một cuộc trưng cầu dân ý trong tương lai, có
thể trên phạm vi toàn quốc hoặc địa phương.
Sáng kiến trưng cầu dân ý bắt nguồn từ nhiều nguồn khác nhau và ở mỗi
nước cũng có những quy định không giống nhau một cách tuyệt đối về chủ thể
có quyền trình sáng kiến trưng cầu dân ý. Theo quy định của pháp luật một số
nước, những chủ thể sau có quyền đưa ra sáng kiến trưng cầu dân ý:
18
- Đối với sáng kiến trưng cầu dân ý trên phạm vi toàn quốc:
+ Nguyên thủ quốc gia
+ Nghị viện (Quốc hội)
+ Chính phủ
+Nghị sĩ (nhóm đại biểu Quốc hội)
+ Công dân (nhóm cử tri)
- Đối với trưng cầu dân ý ở phạm vi đại phương.
+ Công dân (nhóm cử tri)
+ Cơ quan dân cử của địa phương.
Sáng kiến trưng cầu dân ý gồm hai quyền là trình sáng kiến trưng cầu dân
ý của các cơ quan có thẩm quyền theo luật định hoặc là quyền đưa ra các kiến
nghị sáng kiến trưng cầu dân ý của các cơ quan, tổ chức, các nhân và công dân
đề nghị tới cơ quan có thẩm quyền. Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế- xã hội ở
mỗi quốc gia, mà pháp luật các nước cũng có những quy định khác nhau về vấn
đề này. Ở Cộng hoà Pháp, Chính phủ và Quốc hội là hai chủ thể có quyền sáng
kiến trưng cầu dân ý, khi hai chủ thể này có sáng kiến trưng cầu dân ý về một
vấn đề nào đó thì buộc Tổng thống phải xem xét và quyết định có nên tổ chức
trưng cầu dân ý hay không, ở Armenia, sáng kiến trưng cầu dân ý thuộc về Quốc
hội. Ở một số nước khác, lại quy định nhân dân cũng có quyền nêu sáng kiến
trưng cầu dân ý. Ở Macedonia, người dân muốn tổ chức trưng cầu dân ý thì phải
thu thập được 150.000 chữ ký của cử tri vào bản kiến nghị (khoản 3, Điều 73,
Hiến pháp Macedonia 1991). Ở Italia, sáng kiến trưng cầu dân ý của công dân
được công nhận khi có 500.000 chữ ký ủng hộ của cử tri. Ở Hungary, sáng kiến
trưng cầu dân ý được quy định cho các chủ thể như chủ tịch nước, Hội đồng bộ
trưởng, Nghị sĩ nếu như có 50 chữ ký đề nghị và cử tri nếu thu thập được ít nhất
50.000 chữ ký (Hiến pháp Hungary năm 1949, bổ sung năm 1990). Ở Việt Nam
hiện nay chưa có quy định về chủ thể có quyền sáng kiến trưng cầu dân ý.
19
Bước 2: Quyết định trưng cầu dân ý
Một cuộc trưng cầu dân ý có được thực hiện trong thực tiễn hay không
phụ thuộc vào quyết định trưng cầu dân ý của chủ thể có thẩm quyền. Những vấn
đề được đưa ra trưng cầu dân ý là những vấn đề quan trọng của quốc gia, của địa
phương bên cạnh đó việc tổ chức trưng cầu dân ý lại rất tốn kém nên pháp luật
các nước chỉ trao thẩm quyền quyết định cho một chủ thể nhất định thông
thường là Quốc hội, tổng thống hoặc nguyên thủ quốc gia. Ở Pháp, Nga, Ai
Cập… chủ thể được trao thẩm quyền quyết định trưng cầu dân ý là Tổng thống;
trong khi đó ở các nước như Braxin, Hunggary… thì chủ thể có quyền quyết
định trưng cầu dân ý là Nghị viện. Ở Việt Nam, theo quy định tại điểm 15, Điều
70 của Hiến pháp 1992 thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết
định trưng cầu dân ý.
Tuỳ theo đặc điểm tình hình, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ở mỗi
quốc gia và tuỳ thuộc vào nội dung trưng cầu dân ý mà có các quy định khác
nhau về thủ tục trưng cầu dân ý. Ở các nước mà thẩm quyền quyết định trưng
cầu dân ý là Quốc hội thì quyết định đó đều phải thông qua thủ tục bỏ phiếu biểu
quyết tại Quốc hội đạt được đa số phiếu. Còn ở những nước mà thẩm quyền
quyết định trưng cầu dân ý là Tổng thống, thì quyết định đó cũng phải dựa trên
cơ sở đề nghị hoặc đồng thuận của đa số các đại biểu Quốc hội.
Bước 3: Công bố trưng cầu dân ý
Sau khi sáng kiến trưng cầu dân ý đã được cơ quan có thẩm quyền thông
qua và quyết định đưa vấn đề đó ra trưng cầu dân ý thì bước tiếp theo chính là
công bố trưng cầu dân ý. Qua bước này quyết định về trưng cầu dân ý chính thức
được thông tin rộng rãi tới nhân dân. Công bố trưng cầu dân ý được ban hành
dưới hình thức nghị quyết hoặc quyết định.
Thời gian công bố trưng cầu dân ý thường được ấn định trước thời điểm
bỏ phiếu một khoảng thời gian nhất định.Khoảng thời gian này là thời gian để
người dân tiến hành tìm hiểu, suy nghĩ, cân nhắc để có thể đưa ra những quyết
20
định sáng suốt nhất. Tuỳ thuộc vào nội dung, phạm vi của cuộc trưng cầu dân ý
mà mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau về thời điểm công bố trưng
cầu dân ý. Ở Nga, đối với các cuộc trưng cầu dân ý trên phạm vi toàn quốc thì
thời điểm công bố trưng cầu dân ý ít nhất là 60 ngày trước ngày tiến hành bỏ
phiếu và ít nhất 45 ngày đối với các cuộc trưng cầu dân ý ở địa phương. Ở
Slovakia, thì quy định là tối thiểu 15 ngày trước ngày tiến hành bỏ phiếu, còn ở
Iren là từ 30 ngày đến 90 ngày trước ngày bỏ phiếu.
Thông thường, việc công bố trưng cầu dân ý sẽ được phát trên các phương
tiện thông tin đại chúng (công báo, đài truyền hình, đài truyền thanh…) với các
nội dung như sau:
- Chủ thể trình sáng kiến trưng cầu dân ý
- Nội dung trưng cầu dân ý bao gồm những câu hỏi mà người dân sẽ phải
trả lời trong cuộc trưng cầu dân ý
- Thời gian tổ chức trưng cầu dân ý
- Địa điểm tổ chức trưng cầu dân ý (khu vực bỏ phiếu)
- Cơ quan tổ chức trưng cầu dân ý
-Văn bản đi kèm với quyết định (dự thảo Hiến pháp, những giải thích về
từ ngữ liên quan đến nội dung câu hỏi trưng cầu dân ý)
Bước 4: Thành lập Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý (hay còn gọi là Uỷ
ban trưng cầu dân ý)
Để tổ chức trưng cầu dân ý, các nước thành lập các Tổ chức phụ trách
trưng cầu dân ý, đây là một thủ tục pháp lý quan trọng trong quy trình tổ chức
trưng cầu dân ý. Thông thường ở các nước, tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý
được thành lập theo ba cấp:
- Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở trung ương: Có nhiệm vụ lãnh đạo
toàn bộ cuộc trưng cầu dân ý.
- Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở mỗi quận (đơn vị trưng cầu dân ý): Có
nhiệm vụ phối hợp và giám sát hoạt động của các tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý
ở khu vực bỏ phiếu, xác định kết quả bỏ phiếu trong đơn vị trưng cầu dân ý.
21
- Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu: Có nhiệm vụ lập
danh sách cử tri, tổ chức việc bỏ phiếu trưng cầu dân ý và xác định kết quả kiểm
phiếu ở khu vực bỏ phiếu.
Mỗi Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý đều được tổ chức theo cơ cấu:
Chủ nhiệm Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý, Phó chủ nhiệm Tổ chức phụ trách
trưng cầu dân ý và thành viên Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý. Chủ nhiệm và
Phó chủ nhiệm Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý có thể do bầu hoặc do cơ quan
có thẩm quyền tổ chức trưng cầu dân ý chỉ định, cũng có thể do bốc thăm. Ở
Slovakia quy định cách thức bốc thăm để chọn Chủ nhiệm và Phó chủ nhiệm của
Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở Điều 12, 13 Luật Trưng cầu dân ý.
Tổ chức phụ trách Trưng cầu dân ý được thành lập và hoạt động theo quy
định của Hiến pháp và Luật Trưng cầu dân ý về chức năng nhiệm vụ liên quan đến
trưng cầu dân ý như: bảo đảm cho quá trình bỏ phiếu đúng quy định, phát đúng số
phiếu, chỉ đạo hoạt động bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu, kiểm phiếu, lập biên bản
kiểm phiếu, gửi kết quả trưng cầu dân ý của khu vực bỏ phiếu của mình.
Bước 5: Lập danh sách cử tri
Để thực hiện quyền trưng cầu dân ý của mình, công dân phải đăng ký, ghi
tên vào danh sách cử tri. Việc lập danh sách cử tri không những nhằm mục đích
bảo đảm quyền trưng cầu dân ý của công dân mà còn ngăn chặn hiện tượng gian
lận trong quá trình diễn ra trưng cầu dân ý. Pháp luật một số nước còn căn cứ
vào danh sách cử tri đăng ký tham gia bỏ phiếu và số lượng cử tri đi bỏ phiếu để
xem xét giá trị của các cuộc trưng cầu dân ý.
Hầu hết pháp luật các nước đều quy định công dân có đủ điều kiện tham
gia bầu cử thì đều có quyền tham gia bỏ phiếu trưng cầu dân ý.Danh sách cử tri
có thể được thành lập bằng hai cách là bắt buộc và tự nguyện.
Phương pháp bắt buộc là việc lập danh sách do nhà nước hay tổ chức phụ
trách ở khu vực bỏ phiếu lập. Thông thường danh sách công dân tham gia trưng
cầu dân ý sẽ được lập căn cứ theo danh sách cử tri tham gia bầu cử.
22
Phương pháp tự nguyện là việc cử tri chỉ cần mang theo giấy tờ tùy thân
đến cơ quan có thẩm quyền để đăng ký bỏ phiếu.
Việc lập danh sách cử tri phải được hoàn thành trước ngày tiến hành bỏ phiếu
trưng cầu dân ý trong một khoảng thời gian nhất định được pháp luật quy định.
Bước 6: Tuyên truyền về vấn đề trưng cầu dân ý
Tuyên truyền là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình trưng cầu dân ý.
Vì qua giai đoạn này, cử tri sẽ hiểu rõ hơn vấn đề được đưa ra trưng cầu dân ý,
tầm quan trọng của vấn đề đó từ đó định hướng và có những nhận định chính xác
để đưa ra được những quyết định sáng suốt nhất. Có thể nói tuyên truyền có vai
trò quan trọng đối với chất lượng cuộc trưng cầu dân ý, làm nên sự thành bại của
cuộc trưng cầu dân ý.
Nguyên tắc tiến hành tuyên truyền là bảo đảm minh bạch, khách quan,
đầy đủ của thông tin và tuân theo các quy định của pháp luật (Hiến pháp, Luật
Trưng cầu dân ý, Luật Báo chí, Luật truyền thông…). Không được lợi dụng
tuyên truyền trưng cầu dân ý làm sai lệch thông tin, mất đi tính khách quan của
vấn đề, hướng người dân hiểu theo những cách có lợi cho mục đích của một
nhóm người nhằm lưởng lợi bất chính.
Công tác tuyên truyền về vấn đề trưng cầu dân ý được thực hiện dưới sự
chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền tổ chức trưng cầu dân ý, thông qua nhiều
kênh tuyên truyền như báo chí, truyền hình, truyền thanh, chính quyền địa
phương khu phố…
Thời gian tiến hành tuyên truyền về vấn đề trưng cầu dân ý được quy định
cụ thể trong pháp luật về trưng cầu dân ý của từng nước, và phải được chấm dứt
trước ngày bỏ phiếu.Ngoài ra, thời gian và cách thức công bố kết quả thu được
qua hình thức thăm dò ý kiến công chúng đối với những câu hỏi đưa ra trong
cuộc trưng cầu dân ý cũng được quy định cụ thể trong Luật Trưng cầu dân ý.
Thông thường thời gian này được ấn định ba ngày trước ngày bỏ phiếu trưng cầu
dân ý trên cơ sở thông báo công khai kết quả và tổ chức đứng ra thăm dò ý kiến.
23
Bước 7: Bỏ phiếu
Bỏ phiếu là một thủ tục quan trọng, được coi như là tâm điểm của cuộc
trưng cầu dân ý. Trước khi tiến hành thủ tục bỏ phiếu, các Tổ chức phụ trách
trưng cầu dân ý sẽ nhận phiếu trưng cầu dân ý từ bộ phận phụ trách công tác in
ấn và chuyển phiếu bầu. Việc chuyển giao phiếu phải được lập biên bản ghi xác
nhận thời gian nhận, thời gian chuyển và số phiếu. Việc chuyển giao phiếu trưng
cầu dân ý phải tuân theo quy định về các thức và thời hạn quy định. Thông
thường trước khi tiến hành trưng cầu dân ý hai tuần, Tổ chức phụ trách trưng cầu
dân ý tại cơ sở phải nhận được phiếu trưng cầu dân ý. Trong trường hợp trưng
cầu dân ý về sửa đổi Hiến pháp thì phải có dự thảo sửa đổi Hiến pháp đi kèm
theo mỗi phiếu bầu.
Trước khi bỏ phiếu Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở cơ sở sẽphải
kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri. Cử tri phải tự mình đi bỏ
phiếu và phải tuân thủ theo nội quy của phòng bỏ phiếu. Thông thường cử tri sẽ
được thông báo trước về ngày, giờ, địa điểm bỏ phiếu.Sau khi xuất trình giấy tờ
tuỳ thân (Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu…) cử tri ký tên vào danh sách cử tri
đi bầu và được phát một lá phiếu.Sau khi cử tri đánh dấu vào ô đồng ý hoặc
không đồng ý với vấn đề đươc đưa ra trưng cầu dân ý, cử tri sẽ trực tiếp bỏ lá
phiếu đó vào thùng phiếu đã được niêm phong kín.
Trong trường hợp cử tri không thể tự mình viết được phiếu thì nhờ người
khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu.
Người vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào
hòm phiếu. Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến
phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở
của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu.
Người vì có lý do chính đáng đúng vào thời điểm bỏ phiếu phải đi công tác,
điều trị bệnh… thì sẽ được bỏ phiếu sớm (nhưng thông thường không quá ba ngày).
Phiếu đó phải được để trong phong bì dán kín và có chữ ký niêm phong của cử tri
24
đó.Đến ngày bầu cử, phiếu đó sẽ được bỏ vào thùng phiếu dưới sự chứng kiến của
cử tri và các quan sát viên trên cơ sở vẫn còn nguyên niêm phong.
Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn cử tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà chưa
kịp bỏ phiếu thì chỉ sau khi số cử tri này bỏ phiếu xong, Tổ chức phụ trách trưng
cầu dân ý mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Bước 8: Kiểm phiếu và lập biên bản kết quả bỏ phiếu
Sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, các tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở
khu vực bỏ phiếu lập tức tiến hành việc kiểm phiếu.Việc kiểm phiếu được tiến
hành công khai, dưới sự chứng kiến và giám sát của đại diện cử tri và các quan
sát viên, phóng viên báo chí.
Thông thường, bộ phận kiểm phiếu trước hết phải xác định số lượng cử tri
ở khu vực bỏ phiếu đã tham gia bỏ phiếu, sau đó đối chiếu với số phiếu ở trong
thùng phiếu có phù hợp hay không, rồi xác định số phiếu hợp lệ và không hợp lệ.
Nếu tổng số phiếu trong hòm phiếu phù hợp với với số lượng phiếu mà tổ bầu cử
phát ra thì tiến hành kiểm phiếu.Trong trường hợp khác nhau thì phải lập tức báo
cho tổ phụ trách trưng cầu dân ý biết và quyết định.Sau khi kiểm phiếu toàn bộ
số phiếu đã được kiểm phải được niêm phong gửi kèm biên bản lên Tổ phụ trách
trưng cầu dân ý cấp trên. Giai đoạn kiểm phiếu hoàn toàn do các nhân viên của
tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý đảm nhiệm.
Lập biên bản và báo cáo về kết quả kiểm phiếu: Sau khi kiểm phiếu xong,
Tổ phụ trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu phải lập biên bản kết quả kiểm
phiếu. Biên bản kết quả kiểm phiếu phải ghi rõ: Số phiếu phát ra; số phiếu thu
về; số phiếu hợp lệ; số phiếu không hợp lệ; tổng số cử tri của đơn vị trưng cầu
dân ý, số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, kết quả kiểm phiếu, những khiếu nại do các
Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu đã giải quyết, những
khiếu nại do Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở quận giải quyết, những khiếu
nại chuyển đến Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở trung ương. Biên bản
thường được lập thành bốn bản, có chữ ký đầy đủ của các thành viên Tổ chức
phụ trách trưng cầu dân ý.
25
Bước 9: Xác định kết quả trưng cầu dân ý.
Kết quả cuộc trưng cầu dân ý được xác định trước hết ở từng Tổ chức phụ
trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu.Kết quả này được chuyển lên cho các
Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở cấp trên xem xét, tổng hợp. Trên cơ sở
những văn bản do các tổ chức phụ trách ở đơn vị trưng cầu dân ý gửi đến, Tổ
chức phụ trách trưng cầu dân ý ở trung ương xác nhận tính hợp pháp của cuộc
trưng cầu dân ý ở từng đơn vị trưng cầu dân ý rồi công bố kết quả của cuộc trưng
cầu dân ý. Trong trường hợp cần thiết có thể tuyên bố trưng cầu dân ý lại.
Việc xác định kết quả trưng cầu dân ý được thực hiện dưới hình thức văn bản
về các nội dung như: Tổng số cử tri trên danh sách tham gia trưng cầu dân ý, tổng
số cử tri chính thức đi bỏ phiếu, kết quả kiểm phiếu của từng khu vực bỏ phiếu, kết
quả cuối cùng đồng ý hay không đồng ý vấn đề được đưa ra trưng cầu dân ý.
Bước 10: Công bố kết quả trưng cầu dân ý
Công bố kết quả trưng cầu dân ý là hoạt động cuối cùng trong quy trình
trưng cầu dân ý. Giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tuyên bố công
khai kết quả trưng cầu dân ý rộng rãi bằng văn bản, trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả trưng cầu dân ý của
các Tổ phụ trách trưng cầu dân ý và giải quyết các khiếu nại, tố cáo (nếu có), Tổ
phụ trách trưng cầu dân ý ở trung ương lập biên bản tổng kết toàn bộ cuộc cuộc
trưng cầu dân ý. Khi đã có quyết định cuối cùng về kết quả trưng cầu dân ý thì
tiến hành thủ tục công bố kết quả trưng cầu dân ý. Pháp luật các nước cũng quy
định khác về thời gian tiến hành công bố kết quả trưng cầu dân ý. Có nước thủ
tục công bố kết quả trưng cầu dân ý sẽ được tiến hành ngay sau khi có kết quả
cuộc trưng cầu dân ý, cũng có những nước dành ra một khoảng thời gian nhất
định cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về trưng cầu dân ý rồi mới tiến hành
công bố kết quả.
26
Kết luận chƣơng 1
Trưng cầu dân ý là một phạm trù có tính chất lịch sử, xuất hiện và phát
triển cùng với sự phát triển của dân chủ, được sử dụng ngày càng phổ biến trong
sinh hoạt chính trị, pháp lý của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, từ rất sớm, trưng
cầu dân ý đã trở thành một chế định của Hiến pháp 1945. Khi đó, trong bối cảnh
đất nước đang rất phức tạp và nguy nan. Điều đó đã cho thấy được sự quan tâm
đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề dân chủ nói chung và trưng cầu
dân ý nói riêng.
Từ những phân tích ở chương I, chúng ta có thể nhận thấy trưng cầu dân ý
có các đặc điểm đặc: Trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp mà ở đó
người dân trực tiếp bỏ phiếu quyết định công việc của nhà nước theo trình tự, thủ
tục pháp luật; các vấn đề được đưa ra trưng cầu dân ý là những vấn đề quan trọng
của đất nước; kết quả của cuộc trưng cầu dân ý có giá trị băt buộc với cơ quan nhà
nước và quy trình thủ tục trưng cầu dân ý gần giống với quy trình bầu cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Với những đặc điểm như vậy trưng cầu
dân ý chính là hình thức dân chủ trực tiếp nhất trong các hình thức dân chủ.
Trưng cầu dân ý, bên cạnh việc phát huy tính dân chủ của người dân thì
còn góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm chính trị của người dân cũng như hạn
chế, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế của Đảng và Nhà nước. Đó là
những điểm quan trọng mà chúng ta đang hướng tơi để xây dựng một nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
27
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN TRƢNG CẦU DÂN Ý Ở MỘT SỐ NƢỚC
TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Trƣng cầu dân ý ở một số nƣớc phát triển
Trưng cầu dân ý là sự thể hiện của tư tưởng dân chủ phổ thông mà nhân
dân là người làm chủ đất nước có quyền cơ bản trong việc quyết định vận mệnh
của mình. Những nước phát triển như Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Mỹ,
Đức thì việc trưng cầu dân ý không chỉ dừng lại trên phạm vi cả nước mà còn
được tổ chức trên phạm vi từng bang, từng địa phương với nội dung trưng cầu
dân ý cũng hết sức đa dạng.
2.1.1. Trưng cầu dân ý ở Thụy Sỹ
Thụy Sỹđược coi là cha đẻ của các chế định trưng cầu dân ý, ở quốc gia
này đã có trên 150 năm kinh nghiệm về trưng cầu dân ý. Vì vậy, ở đây hoạt động
trưng cầu dân ý đi sâu vào thực tiễn, gắn liền với dân chủ trực tiếp.
Trưng cầu dân ý ở Thụy Sỹ được ghi nhận lần đầu tiên trong bản Hiến
pháp năm 1848, quy định quyền của cử tri trong việc ban hành Hiến pháp. Đó là
quy định chỉ khi nào người dân có ý kiến thì Hiến pháp mới được phê chuẩn
hoặc sửa đổi. Tuy nhiên do quy định còn sơ sài, chưa cụ thể nên việc áp dụng có
nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến khó áp dụng. Từ cuối thế kỷ XIX cho đến
năm 1950, Thụy Sỹ đã trở thành quốc gia nổi tiếng thế giới với các hoạt động
trưng cầu dân ý. Hiến pháp 1949 được sửa đổi theo sáng kiến của nhân dân. Hiến
pháp này ra đời có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế tình trạng ban hành bừa
bãi các sắc luật áp dụng khẩn cấp bằng việc quy định trình tự, thủ tục chặt chẽ
hơn. Năm 1956, người dân Thụy Sỹ đã liên tục được hỏi ý kiến về một số vấn đề
khá quan trọng của đất nước như hoạt động của nhà máy thuỷ điện, về chi tiêu
tài chính của chính phủ Thụy Sỹ…Cho tới nay, Thụy Sỹ đã tiến hành 532 cuộc
trưng cầu dân ý trên tổng số 1140 chiếm gần 47% cuộc trưng cầu dân ý trên toàn
thế giới, và được diễn ra chủ yếu trong vòng 30 năm trở lại đây. Qua nghiên cứu
pháp luật Thụy Sỹ về trưng cầu dân ý có thể chỉ ra một số đặc điểm nổi bật sau:
28
Một là, Pháp luật của Thụy Sỹ, trưng cầu dân ý có hai hình thức là trưng cầu
dân ý bắt buộc và trưng cầu dân ý tuỳ nghi- luôn mang tính rằng buộc (Điều 142 và
Điều 159 Hiến Pháp Thụy Sỹ). Trưng cầu dân ý bắt buộc ở Thụy Sỹ là trưng cầu
dân ý được Hiến pháp quy định tại Điều 140 đối với các trường hợp sau:
- Sửa đổi toàn bộ hoặc một phần Hiến pháp Liên bang;
- Gia nhập các tổ chức vì lý do an ninh chung hoặc gia nhập các cộng
đồng siêu quốc gia. (Ví dụ Liên hợp Quốc, EU);
- Khi áp dụng các đạo luật khẩn cấp của Liên bang mà không có cơ sở
hiến định cần thiết và điều đó sẽ có hiệu lực dài hơn một năm.
Những việc sau đây phải được nhân dân biểu quyết:
- Sáng kiến của công dân nhằm sửa đổi toàn diện Hiến pháp Liên bang.
- Sáng kiến của công dân nhằm sửa đổi một phần Hiến pháp Liên bang
được giới thiệu như một đề xuất chung và đã bị từ chối tại Quốc hội Liên bang,
và để đạt được một quyết định mà Hội đồng Liên bang (chính phủ),Hội đồng
quốc gia và Hội đồng các bang (Quốc hội) đã không đồng ý về việc liệu có sửa
toàn bộ bản Hiến pháp hay không.
Hiến pháp Thụy Sỹ muốn được sửa đổi, bổ sung thì bắt buộc phải đưa ra
trưng cầu dân ý, không có bất kể một chủ thể nào có thể tự ý quyết định vấn đề
trưng cầu dân ý về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp mà không thông qua trưng cầu
dân ý. Người dân có quyền đưa ra sáng kiến trưng cầu dân ý về việc sửa đổi
Hiến pháp khi họ thu thập được 100.000 chữ ký trong vòng 18 tháng, tuy nhiên
sáng kiến này sẽ không được thông qua nếu Nghị viện không tán thành.
Trưng cầu dân ý tuỳ nghi ở Thụy Sỹ được quy định tại Điều 141 Hiến
pháp bao gồm các vấn đề như:
- Luật Liên bang
- Luật khẩn cấp của Liên bang, với thời hạn áp dụng luật quá một năm
- Nghị định Liên bang trùng phạm vi Hiến pháp hay luật pháp đã dự liệu
29
- Một số công ước quốc tế trong đó không giới hạn về thời gian và có thể
không bị chấm dứt; mở đường cho việc ra nhập vào một tổ chức quốc tế hoặc có
những điều khoản pháp lý quan trọng, hoặc việc thực hiện hiệp định yêu cầu
phải có các quy định trong luật liên bang.
Theo đó, một đạo luật đã được Nghị viện thông qua vẫn có thể bị xem lại
khi người dân thu thập được 50.000 chữ ký trong thời gian 100 ngày kể từ khi
Quốc hội thông qua luật đó. Nếu có yêu cầu của tám bang trở lên về việc tổ chức
trưng cầu dân ý đối với các văn bản luật, hiến pháp thì trưng cầu dân ý cũng phải
được tổ chức (Điều 141) Ngoài ra, bằng việc thu thập chữ ký, nhân dân có thể
đưa ra sáng kiến tổ chức trưng cầu dân ý về các vấn đề khác. Như vậy có nghĩa
là, ngoài những vấn đề bắt buộc phải đưa ra trưng cầu dân ý như sửa đổi Hiến
pháp thì ở Thụy Sỹ, mọi vấn đề đề đều có thể được đưa ra trưng cầu dân ý. Pháp
luật Thụy Sỹ không quy định vấn đề nào đưa ra trưng cầu dân ý, vấn đề nào
không được trưng cầu (trừ những vấn đề trái với pháp luật quốc tế).
30
Bảng2.1. Quy định về Trưng cầu dân ý bắt buộc và không bắt buộc trong các
bang của Thụy Sỹ tính đến tháng 12/2004[30, tr.36]
Trƣng
cầu
dân ý
Hiến
pháp
Trƣng cầu dân
ý pháp luật
Trƣng cầu dân
ý tài chính
Trƣng cầu dân
ý hành chính
Bang
Bắt
buộc
Bắt
buộc
Không
bắt
buộc
Bắt
buộc
Không
bắt
buộc
Bắt
buộc
Không
bắt
buộc
Zurich . . . .
Bern . . . .
Lucerne . . . .
Uri . . . . .
Schwyz . . . .
Obwalden . . .
Nidwalden . . . . .
Glarus . . . .
Zug . . .
Freiburg . . . .
Solothurn . . . . . . .
Basle (city) . . . .
Basle(County) . . . .
Schaffhausen . . . . . . .
Appenzell
Ausserrhoden
. . . .
Appenzell
Innerrhoden
. . . .
Sankt Gallen . . . .
Graubunden . . . .
Aargau . . . .
Thurgau . . . .
Ticino . . .
Vaud . . .
Valais . . .
Neuchâtel . .
Geneva . .
Jura . . .
31
Hai là, Pháp luật Thụy Sỹ quy định rất rõ ràng và cụ thể về vấn đề sáng
kiến trưng cầu dân ý, các sáng kiến trưng cầu dân ý phải được một uỷ ban gồm 7
đến 27 thành viên đưa ra- thành viên khởi xướng sáng kiến, họ sẽ chịu trách
nhiệm về mặt pháp lý đối với sáng kiến mà họ đưa ra. Sáng kiến trưng cầu dân ý
gồm có hai chủ thể là nhân dân và Chính phủ. Về việc sửa đổi Hiến pháp, Hiến
pháp Thụy Sỹ quy định cụ thể về yêu cầu và trình tự của các sáng kiến đối với
trường hợp: sửa đổi tổng thể Hiến pháp và sửa đổi một phần của Hiến pháp.
- Đối với việc sửa đổi tổng thể Hiến pháp Liên bang, Điều 138 Hiến pháp
Thụy Sỹ quy định:
1, 100.000 công dân có quyền bỏ phiếu (tương đương với khoảng 2% số
cử tri) có thể đề xuất việc sửa đổi Hiến pháp Liên bang.
2, Đề xuất này được trình lên để nhân dân bỏ phiếu chấp thuận.
- Đối với việc việc sửa đổi một phần Hiến pháp Liên bang, Điều 139 Hiến
pháp Thụy Sỹ quy đinh:
1, 100.000 công dân có quyền bỏ phiếu có thể đề suất việc sửa đổi một
phần Hiến pháp Liên bang.
2, Sáng kiến của dân chúng về việc sửa đổi một phần Hiến pháp Liên
bang có thể dưới hình thức đề nghị chung hoặc hình thức dự thảo được trình bày
chuẩn xác.
3, Nếu đề xuất không tuân thủ nguyên tắc thống nhất về mặt hình thức,
nguyên tắc thống nhất về chủ đề hoặc các quy định bắt buộc của pháp luật quốc tế
thì Nghị viện Liên bang sẽ tuyên bố sáng kiến đó là vô hiệu toàn bộ hay một phần.
4, Nếu Nghị viện Liên bang chấp thuận một sáng kiến dưới hình thức đề
xuất chung thì Nghị viện Liên bang phải chuẩn bị nội dung sửa đổi một phần
Hiến pháp theo sáng kiến đó và đưa vấn đề ra toàn dân và các bang bỏ phiếu.
Nếu Nghị viện Liên bang bác bỏ sáng kiến đó, thì Nghị viện Liên bang phải đưa
vấn đề đó ra để dân bỏ phiếu. Nhân dân sẽ quyết định việc có đi theo sáng kiến
đó hay không. Nếu nhân dân chấp thuận sáng kiến đó thì, thì Nghị viện Liên
bang phải chuẩn bị dự thảo phù hợp.
32
5, Một sáng kiến dưới hình thức dự thảo trình bày chuẩn xác được trình
lên để nhân dân và các bang bỏ phiếu. Nghị viện Liên bang đưa ra khuyến nghị
về việc chấp thuận hay bác bỏ sáng kiến đó. Nếu Nghị viện liên bang đưa ra
khuyến nghị về việc bác bỏ sáng kiến thì Nghị viện Liên bang phải trình bày ra
một bản phản dự thảo.
6, Nhân dân và các bang sẽ bỏ phiếu đồng thời về sáng kiến và về phần
phản dự thảo đó. Các cử tri có thể chấp thuận cả hai dự thảo, trong trường hợp
chấp thuận cả hai dự thảo, cử tri có thể nêu việc họ đưa dự thảo nào hơn. Trường
hợp một dự thảo dành được đa số phiếu cử tri và dự thảo kia dành được đa số
phiếu của các bang thì không kết quả bỏ phiếu nào được coi là có hiệu lực.
Việc kiểm tra độ tin cậy của chữ ký được tiến hành trên cơ sở dữ liệu
thông tin về dữ liệu chữ ký của cử tri được lưu trữ ở cấp Liên bang. Nếu hợp lệ,
văn phòng Thủ tướng Liên bang sẽ ra quyết định về việc trưng cầu dân ý. Trong
quá trình xác minh tính hợp pháp của các chữ ký, người tổ chức thu thập chữ ký
có thể thay mặt nhân dân rút lại sáng kiến trưng cầu dân ý.
Ba là, Những ngày bỏ phiếu quốc gia được ấn định theo các quy định của
Điều 10 Luật Liên bang về các quyền chính trị (FLP) ngày 17 tháng 12 năm
1976 và Điều 2a Nghị định về quyền chính trị (DPR) ngày 24 tháng 5 năm 1978.
Bỏ phiếu trưng cầu dân ý Liên bang không được tổ chức trong thời gian diễn ra
bầu cử Liên bang, tối thiểu là bốn tháng trước ngày bầu cử.Hiện nay, lịch trưng
cầu dân ý cho 20 năm tới đã được xác định và công bố trên mạng Internet.Trong
trường hợp có sự thay đổi thì Quốc hội ban hành luật quy định về vấn đề
này.Điều nay cho thấy, ở Thụy Sỹ hoạt động trưng cầu dân ý được coi là hoạt
động thường niên, tất yếu, là ngày hội của nhân dân.
Bốn là, về việc tổ chức trưng cầu dân ý: Việc biểu quyết trưng cầu dân ý
được tổ chức tại các điểm bỏ phiếu, một bang có thể có nhiều điểm bỏ phiếu để
thuận tiện cho người dân tham gia bỏ phiếu. Ngoài ra người dân có quyền bỏ
phiếu qua bưu điện, vào năm 2006 Thụy Sỹ đã chấp nhận hình thức bỏ phiếu
33
thông qua điện thoại di động và gần đây Thụy Sỹ đang xây dựng phần mềm bỏ
phiếu qua Internet, mới đang trong giai đoạn thử nghiệm. Đó là những các tổ
chức hết sức linh hoạt để tạo điều kiện để tất cả cử tri đang sinh sống trên và
ngoài lãnh thổThụy Sỹ đều có thể tham gia bỏ phiếu mà không tốn quá nhiều
công sức, thời gian, tiền bạc…
Hồ sơ phiếu bầu được gửi tới cử tri trước ngày bỏ phiếu tối thiểu là ba
tuần và sớm nhất là bốn tuần (Điều 11 Luật Liên bang về các quyền chính trị).
Hồ sơ gồm có: Thẻ cử tri; Bảng tóm tắt nội dung của vấn đề bỏ phiếu, các quy
định của pháp luật có liên quan; Phiếu trưng cầu dân ý; Phiếu hỏi về những vấn
đề thuộc nội dung trưng cầu dân ý có liên quan trực tiếp tới bang đó (trong
trường hợp trưng cầu dân ý cấp Liên bang).
Năm là, Hoạt động kiểm phiếu tại Thụy Sỹ do các cử tri trực tiếp thực
hiện tại các điểm kiểm phiếu. Biên bản kiểm phiếu của các xã được gửi qua Fax
đến Bang và từ đây được gửi về Văn phòng chính phủ Liên bang tập hợp. Nội
dung hoạt động kiểm phiếu bao gồm:
- Kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ phiếu trưng cầu dân ý (thẻ cử tri phải có
chữ ký, phiếu trưng cầu dân ý phải được trả lời theo một trong hai phương án là
“có” hay “không” và được đóng dấu đã bỏ phiếu.
- Kiểm tra sự phù hợp của số thẻ cử tri và số phiếu.
- Thống kê các ý kiến đồng ý và không đồng ý.
- Lập biên bản kết quả bỏ phiếu.
Sáu là, kết quả trưng cầu dân ý được tính theo quá nửa số cử tri tham gia
bỏ phiếu đồng ý hoặc quá nửa số bang (đối với trưng cầu dân ý cấp Liên bang).
Không một cơ quan nhà nước hay một cá nhân nào có thể thay đổi được kết quả
trưng cầu dân ý. Kết quả trưng cầu dân ý được bảo vệ và có cơ chế bảo vệ bằng
Tòa hành chính của Liên bang, Tòa hành chính của các bang. Kết quả trưng cầu
dân ý không bị phụ thuộc vào số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu, Thụy Sỹ quan
niệm rằng: trong bất kỳ tình huống nào cũng cần tôn trọng tiếng nói của một bộ
phận tích cực chính trị trong số các cử tri. Ai không tham gia bỏ phiếu là tự mình
tước bỏ đi quyền lợi chính trị của mình.
34
2.1.2. Trưng cầu dân ý ở Pháp
Ở Pháp, trưng cầu dân ý không phải là một chế định được thực hiện
thường xuyên như ở Thụy Sỹ, tuy nhiên Pháp cũng là một trong những nước có
các hoạt động trưng cầu dân ý từ rất sớm. Hiến pháp của nền cộng hoà thứ năm
đã được thông qua bằng một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1958. Kể từ đó, một
số cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức theo Điều 11 của Hiến pháp, trao quyền
cho Tổng thống nước Cộng hoà để “trình ra trước cuộc trưng cầu đối với bất kỳ
dự luật nào của chính phủ liên quan đến việc tổ chức các cơ quan công quyền,
hoặc những cải cách liên quan chính sách kinh tế hoặc xã hội của quốc gia”.
Hiến pháp năm 1793 với những quy định hạn chế về trưng cầu dân ý song đây
chính là cơ sở pháp lý diễn ra cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên theo phương thức bỏ
phiếu. Trưng cầu dân ý ở Pháp xuất hiện sớm trên thế giới nhưng cũng có những
giai đoạn vắng bóng.Cho đến nền cộng hoà thứ IV, trưng cầu dân ý dần được
xuất hiện lại và trở thành công cụ pháp lý để người dân tham gia quản lý nhà
nước. Pháp luật về trưng cầu dân ý ở Pháp có những đặc điểm sau:
Một là, quy mô các cuộc trưng cầu dân ý ở Pháp được tiến hành cả ở
hai cấp độ là quốc gia và ở từng địa phương. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt
động trưng cầu dân ý ở Pháp cho thấy, việc trưng cầu dân ý chính thức diễn
ra trên quy mô toàn quốc nhiều hơn là quy mô địa phương. Nguyên nhân
được cho là, do ở địa phương việc bày tỏ thái độ thiếu thiện chí của một số
đại biểu Quốc hội đã làm cho các hoạt động trưng cầu dân ý không được
diễn ra trong một thời gian dài.
Hai là, quyền quyết định trưng cầu dân ý có thể do Tổng thống quyết định
theo đề nghị của Chính phủ hay theo đề nghị của hai viện của Quốc hội nhưng
chỉ trong phạm vi hẹp các vấn đề theo quy định được sửa đổi tại Điều 11 Hiến
pháp 1995 (tổ chức quyền lực công, cải cách chính sách kinh tế - xã hội và công
vụ, phê chuẩn những điều ước quốc tế có khả năng ảnh hưởng tới hoạt động của
các cơ quan nhà nước). Đối với việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, nếu là sáng
kiến của Quốc hội hoặc của Tổng thống thì sáng kiến đó sẽ được biểu quyết tại
phiên họp chung của Thượng viện và Hạ viện.
35
Trong thực tế, ở Pháp, mặc dù có quy định như vậy song đối với việc
trưng cầu ý dân về sửa đổi Hiến pháp hoặc đưa dự luật ra trưng cầu ý dân năm
1962 và 1969, Tổng thống Pháp đã quyết định tổ chức trưng cầu ý dân mà không
cần có sự đồng ý của Quốc hội.
Ba là, vấn đề đưa ra trưng cầu dân ý bao gồm ban hành, sửa đổi Hiến
pháp, pháp luật, tổ chức bộ máy nhà nước, sáp nhập, chia tách lãnh thổ… Thời
kỳ phong kiến, trưng cầu dân ý được tổ chức khi sát nhập vùng Savoie và Alpes
Maritimes vào nước Pháp hay việc chuyển nhượng vùng Vénétie cho Italia cũng
được đưa ra hỏi ý kiến nhân dân. Có thể thấy ở các nước khác việc trưng cầu dân
ý chủ yếu về vấn đề ban hành và sửa đổi Hiến pháp thì ở Pháp vấn đề trưng cầu
dân ý được mở rộng hơn, áp dụng với nhiều trường hợp hơn (thậm chí trưng cầu
dân ý áp dụng với cả lĩnh vực tài chính như việc liên quan đến tiền thuế- đây là
vấn đề mà một số nước quy định không được đưa ra trưng cầu dân ý).
Bốn là, sáng kiến trưng cầu dân ý ở Pháp thuộc về Tổng thống, trong một
số trường hợp nhận được tiếp ký của thủ tướng. Điều 89, Hiến pháp năm 1958 của
Pháp quy định: Trong mọi trường hợp, quyết định tổ chức trưng cầu dân ý của
Tổng thống hoặc quyết định đưa dự thảo ra Nghị viện xem xét phải được thủ
tướng tiếp ký. Pháp luật trưng cầu dân ý ở Pháp không quy định nhân dân là chủ
thể có quyền đưa sáng kiến ra trưng cầu dân ý. Có thể nhận thấy, Tổng thống Pháp
có một vị trí rất quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện trưng cầu dân ý.
Năm là, hậu quả pháp lý của các cuộc trưng cầu dân ý tại Pháp phụ thuộc
vào từng cấp độ của cuộc trưng cầu dân ý. Đối với những cuộc trưng cầu dân ý ở
cấp Liên bang thì kết quả trưng cầu dân ý có giá trị bắt buộc, còn đối với các
cuộc trưng cầu dân ý ở địa phương thì cả bắt buộc và tham khảo. Kết quả của
cuộc trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp là sửa đổi hay không sửa đổi, đối với dự
thảo luật là thông qua hay không thông qua và đối với lãnh thổ là sự cho phép
chuyển nhượng, sáp nhập hay đổi…
36
Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động trưng cầu dân ý ở diễn ra trên quy mô
toàn quốc nhiều hơn diễn ra trên quy mô địa phương. Chỉ tính từ năm 1888 đến
nay có 250 cuộc trưng cầu dân ý mặc dù các cuộc này không chính thức. Theo
quy định về quy mô trưng cầu dân ý ở cấp xã cho thấy quy mô áp dụng trưng cầu
dân ý hết sức hạn chế và chỉ đóng vai trò rất nhỏ (chỉ trong trường hợp sát nhập
xã, và đây không phải trường hợp phổ biến). Đến năm 1992, Pháp ban hành luật
92-125 quy định về tổ chức các cơ quan nhà nước ở địa phương trong đó xác
định về chế độ pháp lý của trưng cầu dân ý ở cấp xã. Hoạt động trưng cầu dân ý
ở cấp xã được tiến hành theo nguyên tắc chỉ trưng cầu dân ý đối với các vấn đề
thuộc thẩm quyền của xã, nếu đối tượng liên quan chỉ là một phần dân cư của xã
thì chỉ trưng cầu dân ý đối với bộ phận nhỏ ấy. Theo đó, ý kiến của người dân
chỉ có giá trị tham khảo, không có giá trị bắt buộc đối với cơ quan nhà nước.
Sáu là, kết quả trưng cầu dân ý ở Pháp được giám sát và kiểm tra tính
trung thực thông qua thủ tục bầu cử chặt chẽ với sự hiện diện của Toà hành
chính trung ương, Hội đồng hiến pháp. Đây là hai thiết chế quan trọng có nhiệm
vụ bảo vệ Hiến pháp, bảo bệ chế dộ dân chủ ở Pháp. Các thiết chế pháp lý cơ
bản nhằm kiểm tra, giám sát có hiệu quả bao gồm: Nghị định về công tác kiểm
tra, giám sát pháp lý đối với các cuộc trưng cầu dân ý (Nghị định ngày 8/11/1960
và Quyết định số 87-226 ngày 2/6/1987). Đó là quy định về hoạt động kiểm tra,
giám sát hoạt động vận động bầu cử và tính hợp lệ của trưng cầu dân ý do Hội
đồng Hiến pháp đảm nhiệm có dự tham khảo ý kiến của Tòa án hành chính tối
cao về các dự thảo luật.
Trong thực tế, việc kiểm tra, giám sát hoạt động trưng cầu dân ý rất ít khi
được tiến hành. Bên cạnh xu hướng tăng cường kiểm tra, giám sát bằng việc ban
hành văn bản pháp luật và thành lập hội đồng Hiến pháp thì theo xu hướng thứ
hai lại theo quan điểm cho rằng chỉ cần giám sát, kiểm tra thời điểm yêu cầu tổ
chức trưng cầu dân ý do Nghị viện hoặc tổng thống khởi xướng ngoài ra không
cần kiểm tra, giám sát đối với các vấn đề khác hoặc thủ tục tiếp theo. [13, tr.85]
37
2.1.3. Trưng cầu dân ý ở Nga
Trưng cầu dân ý là chế định tương đối mới ở Liên bang Nga, tuy nhiên nó
lại thường xuyên được áp dụng trong đời sống chính trị của nước này. Trưng cầu
dân ý đã trở thành hình thức pháp luật- hiến pháp thể chế hoá ý chí của nhân dân,
các dân tộc trong vấn đề tự quyết dân tộc. Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993
quy định tại Điều 135 “Hội nghị lập hiến quyết định không sửa đổi Hiến pháp
Liên bang Nga hoặc soạn thảo bản Hiến pháp mới của Liên bang Nga… Trong
trường hợp phúc quyết toàn dân, Hiến pháp Liên bang Nga được thông qua khi
có hơn một nửa tổng số cử tri tham gia bỏ phiếu tán thành, với điều kiện phải có
hơn một nửa tổng số cử tri tham gia phúc quyết”.Ngày 10/10/1995 Tổng thống
đã ký lệnh ban hành Luật “Về trưng cầu dân ý của Liên bang Nga” trong đó quy
định trưng cầu dân ý của Liên bang Nga là việc toàn dân biểu quyết về các dự
luật, về các đạo luật đã có hiệu lực và các vấn đề khác có ý nghĩa quan trọng đối
với đất nước. Nghiên cứu pháp luật trưng cầu dân ý ở Nga có thể thấy những
điểm nổi bật sau:
Một là, sáng kiến tiến hành trưng cầu dân ý ở Liên bang Nga được quy
định bởi Luật Liên bang, các Luật Hiến pháp Liên bang, các Luật của chủ thể
Liên bang Nga. Mỗi công dân hoặc nhóm công dân của Liên bang Nga có quyền
tham gia vào các cuộc trưng cầu ý dân và các Hiệp hội công (Là những hiệp hội
có đăng ký với cơ quan tư pháp của Liên bang Nga không quá sáu tháng trước
ngày sáng kiến về tổ chức trưng cầu ý dân được trình lên cơ quan hữu quan mà
điều lệ của cơ quan đó quy định việc tham gia bầu cử) có thể tạo nên nhóm sáng
kiến về tổ chức trưng cầu ý dân. Thủ tục và số lượng chữ ký ủng hộ sáng kiến về
tổ chức trưng cầu ý dân được thu thập theo quy định của Luật Các chủ thể Liên
bang Nga và Hiến chương của đơn vị hành chính thành phố. Trong đó, sáng kiến
về tổ chức trưng cầu ý dân có thể được thực hiện theo hình thức cuộc họp của
những người tham gia trưng cầu ý dân.
38
Ở Nga, việc kiểm tra về điều kiện của các sáng kiến trưng cầu ý dân được
bảo đảm thông qua hoạt động của Tòa án Hiến pháp theo trình tự sau:
1) Tài liệu về trưng cầu ý dân bao gồm các sáng kiến trưng cầu ý dân, chữ
ký của các nhóm sáng kiến... được gửi tới Tổng thống sẽ được chuyển đến Tòa
án Hiến pháp Liên bang Nga để xác định về tính hợp hiến;
2) Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu
của Hiến pháp và gửi kết quả kiểm tra đó cho Tổng thống trong thời hạn một
tháng và đồng thời công bố quyết định về tính hợp hiến của những tài liệu đó.
Hai là, quyền quyết định trưng cầu ý dân ở Nga được trao cho cả cơ quan
đại biểu dân cử và cho cả Tổng thống với tên gọi là cơ quan quyền lực nhà nước
Liên bang (bao gồm: Tổng thống Liên bang Nga, Đuma quốc gia Liên bang Nga,
các cơ quan nhà nước liên bang khác được quy định trong Hiến pháp Liên bang
Nga do công dân Liên bang Nga trực tiếp bầu ra theo Hiến pháp Liên bang Nga,
luật Hiến pháp Liên bang, các Luật Liên bang). Ở Nga, việc trao quyền quyết
định cho Tổng thống chứ không phải là Quốc hội trong một số trường hợp với
lập luận rằng nếu quyền này trao cho Quốc hội thì trưng cầu ý dân sẽ bị biến
thành công cụ không phải để giải quyết mâu thuẫn mà là công cụ của đấu tranh
chính trị. Do đó, quyền trưng cầu ý dân ở những nước này không chỉ thuộc về cơ
quan đại biểu dân cử mà còn thuộc về Tổng thống. Tổng thống ra quyết định
việc trưng cầu ý dân sau khi nhận được quyết định thừa nhận tính hợp hiến của
việc trưng cầu ý dân của Tòa án Hiến pháp.Quyết định trưng cầu ý dân được ban
hành dưới hình thức sắc lệnh, trong đó ấn định ngày cụ thể trong thời hạn hai
đến ba tháng kể từ ngày ra quyết định.
Ba là, pháp luật Nga ngoài quy định vấn đề bắt buộc đưa ra trưng cầu dân
ý như thông qua bản Hiến pháp mới thì còn quy định rõ những vấn đề không đưa
ra trưng cầu dân ý, bao gồm: Sửa đổi quy chế các chủ thể của Liên bang Nga; rút
ngắn hay gia hạn nhiệm kỳ của Tổng thống, của Hội đồng Liên bang, Đuma
Quốc gia; bầu cử Tổng thống trước thời hạn; thông qua ngân sách Liên bang, sử
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY

More Related Content

What's hot

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAYLuận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Quy trình xây dựng pháp lệnh ở Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Quy trình xây dựng pháp lệnh ở Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Quy trình xây dựng pháp lệnh ở Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Quy trình xây dựng pháp lệnh ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOTLuận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOTLuận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trịLuận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
 
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đìnhĐề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đaiLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luậtLuận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
 

Similar to Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY

Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Vị trí vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...
Vị trí  vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...Vị trí  vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...
Vị trí vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...hieu anh
 
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSỨC KHỎE VÀ CUỘC SỐNG
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiViết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 

Similar to Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY (20)

Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền biểu tình của công dân theo hiến pháp Việt Nam - Gửi miễn phí...
 
Giải pháp đảm bảo thực thi quyền trưng cầu dân ý ở Việt Nam hiện nay.docx
Giải pháp đảm bảo thực thi quyền trưng cầu dân ý ở Việt Nam hiện nay.docxGiải pháp đảm bảo thực thi quyền trưng cầu dân ý ở Việt Nam hiện nay.docx
Giải pháp đảm bảo thực thi quyền trưng cầu dân ý ở Việt Nam hiện nay.docx
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về quyết định hành chính về đất đai
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về quyết định hành chính về đất đaiLuận văn: Giải quyết khiếu nại về quyết định hành chính về đất đai
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về quyết định hành chính về đất đai
 
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luậtLuận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
 
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAYViện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cáchTư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
 
Vị trí vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...
Vị trí  vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...Vị trí  vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...
Vị trí vai trò của tòa án nhân dân trong thể chế nƣớc côṇ g hòa xa...
 
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOTLuận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOTĐề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến pháp
Đề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến phápĐề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến pháp
Đề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến pháp
 
Luận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt NamLuận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt Nam
 
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
 
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAYLuận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
 
Cơ sở lý luận về quyền trưng cầu dân ý
Cơ sở lý luận về quyền trưng cầu dân ýCơ sở lý luận về quyền trưng cầu dân ý
Cơ sở lý luận về quyền trưng cầu dân ý
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 

Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH NHÃ PHƢƠNG PHÁP LUẬT VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH NHÃ PHƢƠNG PHÁP LUẬT VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn Hà Nội - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Đinh Nhã Phƣơng
  • 4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................0 MỤC LỤC.............................................................................................................2 DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................4 MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý ..........6 1.1. Khái niệm trưng cầu dân ý............................................................................................6 1.2. Vị trí, vai trò của trưng cầu dân ý.............................................................................12 1.3. Phân loại trưng cầu dân ý............................................................................................14 1.3.1. Phân loại theo tiêu chí hình thức......................................................................14 1.3.2. Phân loại theo tiêu chí nội dung .......................................................................16 1.4. Quy trình, thủ tục Trưng cầu dân ý..........................................................................17 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN TRƢNG CẦU DÂN Ý Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI...............................................................................................27 2.1. Trưng cầu dân ý ở một số nước phát triển.............................................................27 2.1.1. Trưng cầu dân ý ở Thụy Sỹ.................................................................................27 2.1.2. Trưng cầu dân ý ở Pháp.......................................................................................34 2.1.3. Trưng cầu dân ý ở Nga.........................................................................................37 2.2. Trưng cầu dân ý ở một số nước Châu Á ................................................................40 2.2.1. Trưng cầu dân ý ở Nhật Bản ..............................................................................40 2.2.2. Trưng cầu dân ý ở các nước Đông Nam Á....................................................43 CHƢƠNG 3: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TRƢNG CẦU DÂN Ý Ở VIỆT NAM..........................................................................................................49 3.1. Quy định về Trưng cầu dân ý trong các Hiến pháp............................................49 3.2. Pháp luật về Dân chủ trực tiếp...................................................................................58 3.2.1. Tham gia đóng góp ý kiến khi Nhà nước tổ chức lấy ý kiến nhân dân 58 3.2.2. Thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở............................................62 3.3. Xây dựng luật trưng cầu dân ý ..................................................................................69
  • 5. 3.3.1. Sự cần thiết ban hành luật trưng cầu dân ý ..................................................69 3.3.2. Các yêu cầu của luật trưng cầu dân ý.............................................................72 3.3.3. Đề xuất các kiến nghị xây dựng luật trưng cầu dân ý ...............................75 KẾT LUẬN.........................................................................................................87 PHỤ LỤC............................................................................................................89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................94
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Quy định về Trưng cầu dân ý bắt buộc và không bắt buộc trong các bang của Thụy Sỹ tính đến tháng 12/2004...........................................................30 Bảng 2.2. Khảo sát về quy định Trưng cầu dân ý ở một số nước Châu Á ..........47
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trưng cầu ý dân/phúc quyết (referendum) là quá trình mà người dân bỏ phiếu quyết định (đồng ý hay không đồng ý) về những vấn đề của Nhà nước, thường là các vấn đề liên quan đến chính trị quan trọng của quốc gia như sửa đổi Hiến pháp, tham gia liên minh, quyết định các vấn đề lớn liên quan đến quyền làm chủ của người dân… Trong xã hội hiện đại, trưng cầu ý dân là một chế định pháp luật tồn tại trong nhiều hệ thống chính trị khác nhau ở các châu lục.Cho đến nay đã có 101 nước trên tổng số 190 nước có quy định về trưng cầu ý dân. Theo Hiến pháp hiện hành, “Nhân dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý” (Điều 53). Để thực hiện quyền hiến định quan trọng này, Hiến pháp tiếp tục quy định: “Quốc hội quyết định việc trưng cầu dân ý” (Khoản 14 Điều 84). Những quy định trên của Hiến pháp hiện hành có cơ sở từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, trong đó khẳng định việc sửa đổi Hiến pháp phải được quyết định bằng trưng cầu dân ý: “Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Việc tham gia bỏ phiếu trưng cầu dân ý là một quyền dân chủ trực tiếp được Hiến pháp quy định, phản ánh bản chất của nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đảm bảo quyền tham gia quản lý nhà nước của nhân dân. Mặc dù được tuyên bố trong Hiến pháp, nhưng thực tiễn cho thấy nhân dân chưa bao giờ thực hiện quyền biểu quyết trong các cuộc trưng cầu dân ý. Thực tiễn này xuất phát từ nhiều lý do, mà trước hết phải kể đến bối cảnh khó khăn của những giai đoạn giành và giữ chủ quyền trong hai cuộc chống giặc Mỹ và Pháp. Bước sang giai đoạn độc lập hoàn toàn, trong thời kỳ đầu của giai đoạn tổ chức nhà nước theo nguyên tắc tập quyền, nhà nước quản lý xã hội theo phương thưc tập trung, bao cấp, các quyền tự do dân chủ trực tiếp còn chưa được thực sự được chú trọng. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới mở rộng dân chủ, đặc biệt là dân chủ trực tiếp, trưng cầu dân ý trở thành một vấn đề quan trọng được
  • 8. 2 quan tâm từ cả phía học giả lẫn chính trị. Tuy vậy, việc tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vẫn chưa diễn ra, có nguyên nhân chính xuất phát từ các hạn chế của quy định Hiến pháp hiện hành về trưng cầu dân ý, theo đó Hiến pháp không quy định rõ về nội dung, quy trình trưng cầu dân ý, mà lại trao cho Quốc hội quyết định việc trưng cầu dân ý. Quyền hiến định này của người dân không được thực thi khi Quốc hội không tổ chức trưng cầu dân ý cho người dân biểu quyết. Ngoài những vấn đề lớn ảnh hưởng đến sự vô hiệu quy định này như quyền dân chủ trực tiếp vẫn chưa thực sự được đề cao, Quốc hội thiếu thực quyền, thì sự thiếu vắng một đạo luật quy định về trưng cầu dân ý cũng được nêu như là một trong những rào cản về mặt pháp lý cho việc thực thi trưng cầu dân ý trên thực tế. Rõ ràng, việc tuyên bố trong Hiến pháp quyền tham gia trưng cầu dân ý đặt ra trách nhiệm của Nhà nước trong việc tổ bảo đảm thực hiện quyền đó. Trước hết, Quốc hội phải ban hành luật trưng cầu dân ý quy định các quy tắc quy định quy trình, thủ tục để các cơ quan nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý và người dân thực hiện quyền tham gia biểu quyết. Trong các thảo luận sửa đổi Hiến pháp gần đây, nhiều người quan tâm đến quy định Hiến pháp về trưng cầu dân ý. Nhiều đề xuất đề nghị quy định rõ các vấn đề trưng cần dân ý thay vì trao quyền cho Quốc hội quyết định việc trưng cầu dân ý. Các tranh luận tập trung xoay quanh vấn đề trưng cầu dân ý về sửa đổi Hiến pháp, bởi quyền lập hiến là quyền thuộc về nhân dân, nên việc sửa đổi Hiến pháp phải do nhân dân quyết định. Từ những phân tích ở trên, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới và một số gợi mở cho Việt Nam” là hết sức cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay ở Việt Nam, hầu như chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ nào về trưng cầu dân ý. Vấn đề này chỉ mới bắt đầu được đặt ra khi chúng ta có chủ trương xây dựng Luật Trưng cầu dân ý trong thời gian gần đây. Một số ít công trình nghiên cứu gần đây như:
  • 9. 3 2.1. Sách, báo, tạp chí - Sách “Trưng cầu ý dân- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả Trương Thị Hồng Hà, NXB Chính trị- Hành chính, 2011. - “Sổ tay IDEA Quốc tếDân chủ trực tiếp”, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2014. - Bàn về chế định trưng cầu dân ý, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 59, tháng 9 năm 2005. - Đánh giá kết quả trưng cầu dân ý ở Australia, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 67, tháng 1 năm 2006. - Trưng cầu dân ý và dự thảo Luật về trưng cầu dân ý, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Hiến kế lập pháp, số 68, tháng 2 năm 2006. - Thủ tục trưng cầu dân ý, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 69, tháng 2 năm 2006. - Một số ý kiến về dân chủ trực tiếp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 128, tháng 12 năm 1998. - Trưng cầu ý dân ở Liên Xô và Liên bang Nga, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 59, tháng 9 năm 2005… 2.2. Hội thảo khoa học -Hội thảo Trưng cầu dân ý- Những vấn đề lý luận và thực tiễn do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 04/6/2013 - Hội thảo quốc tế về Luật Trưng cầu ý dân của một số nước và kinh nghiệm cho Việt Namdo Hội Luật gia Việt Nam phối hợp Chương trình phát triển của Liên hợp quốc UNDP tổ chức tại Hà Nội ngày 17-18/11/2014 Nhìn chung, mỗi công trình trên thường đi sâu nghiên cứu một mặt hoặc một vấn đề cụ thể nào đó của trưng cầu dân ý như: khái niệm trưng cầu dân ý; bản chất, nội dung và yêu cầu cơ bản của trưng cầu dân ý; Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về trưng cầu dân ý; các hình thức trưng cầu dân ý…Cho đến nay một số công trình nghiên cứu đã cung cấp cho khoa học nhiều
  • 10. 4 tư liệu quý về trưng cầu dân ý, song chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu tổng quát những vấn đề cơ bản về pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý trên thế giới và ở Việt Nam. 3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 3.1. Mục tiêu tổng quát Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật trưng cầu dân ý ở nước ngoài và Việt Nam, đưa ra những đóng góp, đề xuất để hoàn thiện pháp luật trưng cầu dân ý. 3.2. Mục tiêu cụ thể - Làm rõ những vấn đề cơ bản về trưng cầu dân ý; - Đánh giá pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý ở một số nước điển hình trên thế giới; - Đánh giá pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý ở Việt Nam, đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về trưng cầu dân ý, đặc biệt trong việc xây dựng Luật Trưng cầu dân ý. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật trưng cầu dân ý ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.Qua đó chỉ ra những hạn chế còn tồn tại của pháp luật trưng cầu dân ý ở Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp xây dựng Luật Trưng cầu dân ý. Phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứupháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về trưng cầu dân ý;Trưng cầu dân ý ở một số nước điển hình có giá trị tham khảo cho Việt Nam: một số nước phát triển (Thụy Sỹ, Pháp, Nga); một số nước Châu Á (Nhật Bản, các nước Đông Nam Á); Phương hướng giải pháp nhằm xây dựng Luật Trưng cầu dân ý. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, luật học so sánh và khảo sát thực tế để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu của luận văn.
  • 11. 5 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật trưng cầu dân ý ở Việt Nam cũng như nước ngoài, qua đó có cái nhìn tổng quát nhất về thực trạng trưng cầu dân ý ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện và xây dựng Luật Trưng cầu dân ý trong thời gian tới. 7. Kết cấu luận văn Về kết cấu của luận văn, ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương;9 tiết. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về trưng cầu dân ý. Chương 2: Thực tiễn trưng cầu dân ý ở một số nước trên thế giới. Chương 3: Pháp luật và thực tiễn trưng cầu dân ý ở Việt Nam.
  • 12. 6 CHƢƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRƢNG CẦU DÂN Ý 1.1. Khái niệm trƣng cầu dân ý Trưng cầu dân ý là một hình thức dân chủ trực tiếp, qua đó người dân bỏ phiếu quyết định (đồng ý hay không đồng ý) về những vấn đề của Nhà nước, thường là các vấn đề liên quan đến chính trị quan trọng của quốc gia như sửa đổi Hiến pháp, tham gia liên minh, quyết định các vấn đề lớn liên quan đến quyền làm chủ của người dân… Vì vậy, để làm rõ được bản chất của trưng cầu dân ý trước tiên chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp cùng với dân chủ gián tiếp là hai cơ chế chủ yếu để người dân thực hiện quyền lực của mình. Nếu như dân chủ gián tiếp là cơ chế mà người dân thực hiện quyền lực thông qua cơ quan đại diện do mình bầu ra thì dân chủ trực tiếp là cơ chế mà người dân được trực tiếp tham gia các công việc của nhà nước và cộng đồng, không thông qua bất kỳ một khâu trung gian nào. Dân chủ trực tiếp được hiểu theo các truyền thống đó là “sự thể hiện một cách trực tiếp ý chí của nhân dân về một vấn đề nào đó mà không cần thông qua một tổ chức hay các nhân nào thay mặt mình và ý chí đó có giá trị thi hành ngay”[19, tr.15]. Theo quan điểm hiện đại, “dân chủ trực tiếp là một phương thức làm chủ của nhân dân khi nhân dân- chủ thể của quyền lực- quyết định hoặc bày tỏ ý chí, nguyện vọng, đề đạt kiến nghị nào đó trong xây dựng nhà nước, trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời thực hiện kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước do chính mình lập nên”.[19,tr.16] Dân chủ trực tiếp xuất hiện đầu tiên ở nhà nước Aten cổ đại. Khi đó người ta thường tập hợp số lượng dân chúng tối đa khoảng 5000 đến 6000 người ở một địa điểm để cùng bàn bạc, thảo luận và trực tiếp đưa ra các quyết định về các vấn đề của đất nước. Đó chính là những hoạt động trưng cầu dân ý của người dân vào buổi sơ khai. Người ta còn tìm thấy các quy định về trưng cầu dân ý, quy định kết quả của các cuộc trưng cầu dân ý là bắt buộc đối với mọi vương quốc và mọi thần dân trong rất nhiều các Đạo luật cổ như: Đạo luật Valery và Horasy năm 449 TCN, đạo luật Publia năm 339 trước TCN và sau đó là đạo luật Hortensia năm 287 TCN.
  • 13. 7 Qua đó có thể thấy, trưng cầu dân ý là một phạm trù có tính lịch sử, xuất hiện và phát triển cùng với sự phát triển của dân chủ, được sử dụng ngày càng phổ biến trong sinh hoạt chính trị, pháp lý của nhiều quốc gia. Tới nay, đã có 101 nước trên tổng số 190 nước có quy định về trưng cầu dân ý. - Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh tái bản lần thứ 13, Nguyễn Như Ý chủ biên thì Trưng cầu được hiểu là “đưa ra hỏi ý kiến của số đông một cách có tổ chức để thêm căn cứ khi đưa ra quyết định vấn đề gì”; Trưng cầu dân ý là “hỏi ý kiến nhân dân bằng cách tổ chức bỏ phiếu để nhân dân trực tiếp quyết định”.[31, tr.1682] - Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản từ điển Bách khoa phát hành thì Trưng cầu dân ý là “cuộc hỏi ý kiến của toàn thể dân chúng về một vấn đề chính trị hay pháp luật bằng cách tổ chức bỏ thăm” [20, tr.1116] Ở Việt Nam thuật ngữ trưng cầu dân ý tuy không phải mới mẻ, nhưng do ít được đề cập, bàn luận nên trên thực tế còn có những cách hiểu chưa thống nhất, thậm chí rất khác nhau. Chẳng hạn như gọi việc công bố dự thảo Hiến pháp hay một dự án luật để lấy ý kiến nhân dân là trưng cầu dân ý; nhầm tưởng việc điều tra xã hội học là trưng cầu dân ý…Vì vậy, để có được một cách hiểu chính xác nhất về trưng cầu dân ý, trước hết phải phân biệt trưng cầu dân ý với các thuật ngữ khác, như phúc quyết, lấy ý kiến nhân dân, bầu cử, điều tra xã hội học. * Trưng cầu dân ý và phúc quyết toàn dân Phúc quyết toàn dân là việc Nhà nước đưa một vấn đề (văn bản pháp luật, quyết định hành chính…) đã được cơ quan nhà nước thông qua ra để nhân dân quyết định lại.Trong khi đó, trưng cầu dân ý là việc Nhà nước đưa một vấn đề quan trọng để nhân dân trực tiếp quyết định thông qua việc bỏ phiếu. Có thể thấy điểm khác biệt lớn nhất giữa phúc quyết và trưng cầu dân ý chính là đối tượng mà chế định này hướng tới, nếu như đối tượng của phúc quyết là những vấn đề đã được quyết định, nhưng sau nhận thấy cần phải đưa ra để nhân dân biểu quyết lại. Trong khi đó, đối tượng của trưng cầu dân ý là các vấn
  • 14. 8 đềmà cơ quan nhà nước chưa có hướng giải quyết, và kết quả biểu quyết của nhân dân là quyết định cuối cùng. Đi sâu vào chi tiết hơn thì phạm vi phúc quyết có thể là những vấn đề quan trọng của quốc gia như Hiến pháp, văn bản pháp luật… cũng có thể chỉ là những vấn đề nhỏ ở trong một đơn vị hành chính sự nghiệp như việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với lãnh đạo, hay các quyết định mang tính chất nội bộ của cơ quan… Điều này cũng đồng nghĩa với việc chủ thể của quyền phúc quyết có thể là toàn dân, cũng có thể chỉ là một bộ phận nhỏ người dân trong một cơ quan, tổ chức. Khác với phúc quyết, phạm vi của trưng cầu dân ý là những vấn đề quan trọng của quốc gia hay của địa phương, ví dụ như thông qua Hiến pháp mới, sửa đổi bổ sung Hiến pháp cũ, chia tách địa giới hành chính… những vấn đề này đều là những vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới một bộ phận không nhỏ người dân, chính vì vậy chủ thể của trưng cầu dân ý rộng hơn rất nhiều so với phúc quyết. Pháp luật Việt Nam, thuật ngữ phúc quyết được sử dụng trong Hiến pháp năm 1946 ở các Điều 21 “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những điều liên quan tới vận mệnh quốc gia…”,Điều 32 “Những việc quan trọng đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viện đồng ý” và Điều 70 “Những điều thay đổi khi được Nghị viện ưng thuận thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Tuy nhiên nội hàm của các quy định này lại giống với trưng cầu dân ý, vì vậy tới bản Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 quyền này được đổi thành trưng cầu ý kiến nhân dân, tới bản Hiến pháp 1992 thì được gọi là trưng cầu ý dân. * Trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân Trong Hiến pháp và pháp luật hiện hành của nước ta đã có những ghi nhận về việc trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân. Đây là hai hình thức hoạt động của cơ quan nhà nước có mục đích, yêu cầu gần giống nhau nhưng cách thức tiến hành lại hoàn toàn khác nhau. Do vậy về mặt lý luận và hoạt động thực tế rất cần có sự phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân để đề ra và thực hiện mục đích, yêu cầu của mỗi hoạt động này được đúng đắn và tốt hơn.
  • 15. 9 Trưng cầu dân ý là đưa một vấn đề quan trọng của đất nước ra cho toàn dân thảo luận và cử tri biểu quyết, quyết định theo đa số. Khi đã đưa một vấn đề nào đó ra trưng cầu dân ý thì các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể chỉ có nhiệm vụ tổ chức thực hiện như là một bộ máy thư ký giúp việc cho cử tri và kiểm phiếu, công bố kết quả chứ không phải là cơ quan tổng hợp, tập hợp ý kiến của cử tri để nghiên cứu tiếp thu, giải trình, chỉnh lý, càng không có quyền bảo lưu ý kiến của mình. Trong khi đó, lấy ý kiến nhân dân là việc Nhà nước tổ chức để nhân dân đóng góp, tham gia ý kiến của mình về một vấn đề cụ thể đưa ra lấy ý kiến. Những ý kiến đóng góp này chỉ được cơ quan hữu quan tổng hợp, nghiên cứu giải trình, tiếp thu khi chỉnh lý dự thảo để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét. Có thể nhận thấy cả trưng cầu dân ý và lấy ý kiến nhân dân đều là hình thức dân chủ trực tiếp; xét về bản chất, trưng cầu dân ý là một trong những hình thức của lấy ý kiến nhân dân.Tuy nhiên, nội hàm của trưng cầu dân ý hẹp hơn so với nội hàm của lấy ý kiến nhân dân. Những việc đưa ra lấy ý kiến nhân dân có khi là để xem xét quyết định về một vấn đề cụ thể (như việc có nên xây dựng một công trình hay không) giống như trong trưng cầu dân ý nhưng cũng có thể là việc góp ý để hoàn chỉnh thêm các vấn đề đưa ra lấy ý kiến (như việc lấy ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh). Điểm khác biệt cơ bản giữa lấy ý kiến nhân dân và trưng cầu dân ý là ở chỗ: - Thông qua trưng cầu dân ý người dân trực tiếp quyết định đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu; còn thông qua việc lấy ý kiến nhân dân, ý kiến của người dân chỉ mang tính chất tham khảo với cơ quan nhà nước, việc quyết định về vấn đề đưa ra lấy ý kiến như thế nào vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan nhà nước. - Đối tượng của việc lấy ý kiến nhân dân là tất cả những người có khả năng và tâm huyết đóng góp ý kiến, không hạn chế bất kỳ một trường hợp nào dù người ấy có quyền công dân hoặc quyền bầu cử hay không. Trong khi đó, đối tượng của trưng cầu dân ý chỉ gồm những người có quyền bầu cử.
  • 16. 10 - Hình thức trưng cầu dân ý bắt buộc phải thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu với câu trả lời đồng ý hay không đồng ý với vấn đề đề đưa ra trưng cầu, còn việc lấy ý kiến nhân dân thường không thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu, người dân góp ý bằng cách thể hiện ý kiến trong văn bản và gửi cho cơ quan tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân. * Trưng cầu dân ý và bầu cử Bầu cửlà hoạt động bỏ phiếu của người dân để chọn ra những cá nhân nắm giữ các chức vụ quan trọng hoặc tham gia vào cơ quan đại diện của mình. Bầu cử có thể là bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng địa phương hoặc cũng có thể là bầu người lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức… Bầu cử và trưng cầu dân ý có khá nhiều nét tương đồng, đặc biệt là ở quy trình thủ tục thực hiện hai hoạt động này. Cả bầu cử là trưng cầu dân ý đều có chung một chủ thể được gọi là cử tri và thực hiện dưới hình thức bỏ phiếu. Tuy nhiên có thể nhận thấy điểm khác biệt cơ bản giữa bầu cử và trưng cầu dân ý ở chỗ: - Đối tượng của bầu cử hướng tới là chọn lựa ra các cá nhân cụ thể, trong khi đối tượng của trưng cầu dân ý là lựa chọn đồng ý hay không đồng ý một vấn đề mà cơ quan nhà nước đưa ra. - Bầu cử là việc trao quyền lực (uỷ thác quyền lực) của nhân dân cho người được chọn, đó là việc chuyển hoá ý chí của người dân sang cơ quan đại diện. Trong khi đó, trưng cầu dân ý là việc người dân trực tiếp thực hiện quyền lực của mình, trực tiếp thể hiện ý chí của mình mà không thông qua bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào khác. - Quy mô của các cuộc bầu cử có thể là trên toàn quốc như tổng tuyển cử toàn quốc bầu đại biểu Quốc hội, ở phạm vi địa phương như bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cũng có khi là bầu người lãnh đạo trong các tổ chức doanh nghiệp. Quy mô của các cuộc trưng cầu dân ý thường chỉ có hai mức độ là trưng cầu dân ý trên phạm vi cả nước như là việc thông qua Hiến pháp, pháp luật và trưng cầu dân ý ở địa phương đó là những vấn đề quan trọng của địa phương như sát nhập địa giới hành chính, xây dựng các công trình công cộng…
  • 17. 11 * Trưng cầu dân ý và điều tra xã hội học Điều tra xã hội học là một hoạt động khảo sát ý kiến người dân về một vấn đề cụ thể hoặc một cá nhân cụ thể trong xã hội.Hoạt động điều tra xã hội học có thể được thực hiện bởi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cũng có khi chỉ là hoạt động nghiên cứu của một các nhân.Vì vậy mà kết quả của hoạt động điều tra xã hội học chỉ có tính chất tham khảo, không có giá trị bắt buộc đối với cơ quan nhà nước. Trong khi đó, trưng cầu dân ý là hoạt động lấy ý kiến nhân dân thông qua hình thức bỏ phiếu. Hoạt động trưng cầu dân ý bắt buộc phải do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tổ chức và kết quả của cuộc trưng cầu dân ý có giá trị bắt buộc đối với cơ quan nhà nước. Có thể thấy trưng cầu dân ý là một chế định xã hội có cùng tính chất với điều tra dư luận xã hội nhưng ở mức độ cao hơn, nếu xét về mức độ thực hiện chế định dân chủ trực tiếp (Dân chủ được thực hiện dưới hai hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó dân chủ trực tiếp là nhân dân bày tỏ chính kiến của mình, trực tiếp quyết định những vấn đề của đời sống xã hội). Trong trưng cầu dân ý thì chủ thể đưa ra vấn đề để trưng cầu luôn là Nhà nước, còn người dân sẽ biểu đạt ý chí của mình thông qua việc bỏ phiếu. Từ những định nghĩa của các cuốn từ điển uy tín, cũng như những phân tích phân biệt giữa trưng cầu dân ý với các khái niệm có liên quan ở trên cho thấy trưng cầu dân ý có các dấu hiệu đặc trưng sau: donhân dân - chủ thể tối cao toàn bộ quyền lực nhà nước thực hiện; đối tượng của trưng cầu ý dân là những vấn đề quan trọng mà bản thân các cơ quan nhà nước không thể tự mình quyết định được; được thực hiện dưới hình thức trực tiếp; kết quả của cuộc trưng cầu dân ý có gái trị cao nhất mà không có cơ quan nàocó quyền sửa đổi và có giá trị bắt buộc thực hiện. Từ nhữngdẫn chứng trên, có thể rút ra khái niệm: Trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp, theo đó nhân dântrực tiếp quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định của pháp luật hoặc theo sáng kiến trưng cầu dân ý, thông qua thủ tục bỏ phiếu.
  • 18. 12 1.2. Vị trí, vai trò của trƣng cầu dân ý Vị trí, vai trò của dân chủ trực tiếp nói chung và của trưng cầu dân ý nói riêng trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia như thế nào, điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, như các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trình độ dân trí, trình độ chính trị, trình độ pháp lý, thói quen thực hiện dân chủ của người dân theo từng nước; phụ thuộc vào sự tác động của các quốc gia khác nhau trong khu vực và trên thế giới… Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, khi dân chủ càng phát triển thì càng tạo điều kiện mở rộng và phát huy trưng cầu dân ý. Ngược lại, ở đâu và nơi nào quan tâm và chú trọng tới dân chủ trực tiếp cũng như trưng cầu dân ý, thì nơi đó nền dân chủ mới thực sự phát triển và chế độ chính trị ở đó mới thực sự mang bản chất “quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Nói cách khác, dân chủ là tiền đề để thực hiện và mở rộng trưng cầu dân ý; và ngược lại, trưng cầu dân ý là công cụ, phương tiện quan trọng thúc đẩy sự phát triển của dân chủ cả về phạm vi và mức độ. Trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp nhất. Bên cạnh các hình thức dân chủ khác như: bầu cử, quyền khiếu nại tố cáo, quyền được bàn bạc, quyết định các vấn đề phát triển kinh tế ở địa phương, quyền tự quản ở khu dân cư… thì trưng cầu dân ý được coi là hình thức dân chủ trực tiếp nhất. Bởi lẽ, thông qua bầu cử người dân mới bầu ra người đại diện cho mình tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước, mọi tâm tự nguyện vọng của người dân sẽ được biểu đạt thông qua người đại diện, tuy nhiên trên thực tế ý chí của người đại diện đó lại bị chi phối bởi nhiều yếu tố do vậy nhiều khi hoạt động của người đại biểu đó lại không phản ánh được ý chí của nhân dân. Trong khi đó, thông qua hoạt động trưng cầu dân ý, công dân thể hiện trực tiếp ý chí của mình đối với các vấn đề quan trọng của quốc gia thông qua lá phiếu. Do đó, những quyết định quan trọng của chính quyền luôn phù hợp và phản ánh được ý chí của người dân. Ngoài ra các hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở, người dân mặc dù được tham gia góp ý vào các hoạt động của cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt
  • 19. 13 động của cơ quan nhà nước tại địa phương. Tuy nhiên những ý kiến, nguyện vọng của nhân dân chỉ có tính chất tham khảo đối với cơ quan nhà nước chứ không có tính quyết định đối với hoạt động của cơ quan này. Trong khi, kết quả của hoạt động trưng cầu dân ý có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước, không có bất kỳ một cơ quan nhà nước nào có thể làm khác đi kết quả trưng cầu dân ý. Trưng cầu dân ý là cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân, giúp Đảng và Nhà nước khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế. Nhà nước đóng vai trò là chủ thể tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý còn nhân dân đóng vai trò là chủ thể trung tâm của trưng cầu dân ý. Thông qua các cuộc trưng cầu dân ý, mối quan hệ của Nhà nước với công dân cũng được củng cố càng chở nên gắn bó, mật thiết hơn, công dân có điều kiện tìm hiểu, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Nhà nước dễ bao quát được mọi khía cạnh của đời sống thực tiễn, hiểu được ý chí, mong muốn của người dân, qua đó sẽ có những quyết định, sách lược phù hợp với điều kiện xã hội, phù hợp với lòng dân. Trưng cầu dân ý giúp Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính sách, pháp luật, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế, giúp cho đất nước ngày càng phát triển và lớn mạnh. Bên cạnh đó, trưng cầu dân ý giúp ngăn ngừa những quyết định được đưa ra vội vã, thiếu cân nhắc từ phía Nhà nước. Trưng cầu dân ý góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm chính trị của người dân. Trưng cầu dân ý tạo thói quen cho người dân phát biểu chính kiến của mình về các vấn đề chung của đất nước; đồng thời, đây cũng là bước chuẩn bị, tạo sự sẵn sàng cho người dân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật, đảm bảo tính khả thi cũng như hiệu quả của pháp luật. Vì vậy quá trình này sẽ tạo động lực cũng như là một cơ hội tuyệt vời cho nhân dân tìm hiểu về các vấn đề quan trọng của đất nước, thể hiền quyền cũng như nghĩa vụ của mình đối với đất nước.
  • 20. 14 1.3. Phân loại trƣng cầu dân ý Trong phần này, nghiên cứu sẽ làm rõ các loại trưng cầu dân ý dựa theo các tiêu chí khác nhau: hình thức và nội dung. 1.3.1. Phân loại theo tiêu chí hình thức - Nếu căn cứ vào chủ thể đề xuất của cuộc trưng cầu dân ý thì có thể phân ra làm hai hoại trưng cầu dân ý là trưng cầu dân ý bắt buộc và trưng cầu dân ý tuỳ nghi. + Trưng cầu dân ý bắt buộc: là cuộc bỏ phiếu của cử tri được tiến hành một cách đương nhiên đối với những vấn đề cụ thể mà hiến pháp hoặc pháp luật quy định. Trưng cầu dân ý bắt buộc thường chỉ áp dụng đối với các quyết định chính trị rất quan trọng. Trưng cầu dân ý bắt buộc thường được áp dụng đối với việc sửa đổi Hiến pháp, bất đồng giữa tổng thống và cơ quan lập pháp, phê chuẩn các điều ước quốc tế, tham gia một tổ chức siêu quốc gia, các vấn đề về chủ quyền quốc gia hoặc tự quyết. Ví dụ: ở Úc, Đan Mạch và Venezuela, tất cả các sửa đổi về hiến pháp đều phải bắt buộc thông qua trưng cầu dân ý; còn ở các nước như Iceland và Peru, trưng cầu dân ý được áp dụng đối với một số trường hợp sửa đổi Hiến pháp nhất định. Tại Thụy Sỹ - quê hương của trưng cầu dân ý, một số điều ước quốc tế bắt buộc phải đưa ra trưng cầu dân ý trước khi phê chuẩn và ở Đan Mạch thì việc trao quyền cho các tổ chức quốc tế hoặc tổ chức siêu quốc gia phải được thực hiện thông qua hình thức trưng cầu dân ý.[22, tr.132] + Trưng cầu dân ý tuỳ nghi: là cuộc bỏ phiếu của cử tri không theo quy định của pháp luật mà theo đề xuất của Chính phủ hoặc một số trường hợp theo đề xuất của của các đảng phái. Loại trưng cầu dân ý này có nhiều hình thức khác nhau. Trưng cầu dân ý được quy định trước mang tính nguyên tắc trong hiến pháp hoặc trong các quy chế về trưng cầu dân ý. Như ở Tây Ban Nha, Hiến pháp quy định: “các quyết định mang tính chất chính trị đặc biệt quan trọng có thể được đưa ra trưng cầu dân ý để tham vấn và nhà vua có thể tiến hành cuộc
  • 21. 15 trưng cầu dân ý theo đề nghị của Tổng thống sau khi được Hạ nghị viện uỷ quyền”; ở Argentina, Hiến pháp quy định: “cả cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp đều có quyền khởi xướng việc trưng cầu dân ý”.[22, tr.133] Trưng cầu dân ý không được quy định trước trong Luật và Hiến pháp.Đó là một loại trưng cầu dân ý mà mỗi lần cần thực hiện thì cơ quan lập pháp sẽ ban hành một đạo luật riêng để áp dụng trong trường hợp cụ thể đó. Ví dụ ở Na Uy, Hiến pháp không có quy định gì về trưng cầu dân ý và cơ quan lập pháp có quyền quyết định có tổ chức trưng cầu dân ý hay không và nếu quyết định trưng cầu dân ý thì cơ quan này sẽ quy định chi tiết việc thực hiện. - Nếu căn cứ vào thời điểm đề xuất thì có thể phân ra là: trưng cầu dân ý trước khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó; trưng cầu dân ý sau khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó. + Trưng cầu dân ý trước khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó: là việc trước khi Nghị viện thông qua một đạo luật, chẳng hạn Nghị viện muốn biết ý kiến của nhân dân về nội dung của đạo luật bằng cách trưng cầu dân ý. + Trưng cầu dân ý sau khi Nghị viện thông qua một vấn đề nào đó: là khi Nghị viện thông qua một nghị quyết hay đạo luật nào đó, nghị quyết hay đạo luật đó cần phải được nhân dân biểu thị ý kiến- thông qua hay không thông qua. Ý kiến của nhân dân được thể hiện thông qua trưng cầu dân ý. Kết quả trưng cầu dân ý trong trường hợp này là ý kiến cuối cùng, nếu kết quả trưng cầu dân ý cho thấy đa số tán thành thì đạo luật hay nghị quyết được đưa ra trưng cầu dân ý mới có hiệu lực thi hành, ngược lại nghị quyết hay đạo luật đó sẽ bị huỷ bỏ. Ngoài hai trường hợp kể trên còn có trưng cầu dân ý ngoài hoạt động của Nghị viện là trường hợp một quyết định hay một dự luật được thông qua mà không cần tới ý kiến của Nghị viện một khi Tổng thống muốn thông qua luật nhưng không tin tưởng vào sự ủng hộ của Nghị viện. - Nếu căn cứ vào phạm vi địa lý tiến hành trưng cầu dân ý thì có thể phân loại ra làm hai hình thức:
  • 22. 16 + Trưng cầu dân ý trên phạm vi cả nước: là cuộc trưng cầu dân ý được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của toàn quốc gia với sự tham gia của tất cả các cử tri trong cả nước. + Trưng cầu dân ý ở địa phương: là cuộc trưng cầu dân ý được tiến hành trong một phạm vi lãnh thổ của một đơn vị hành chính hoặc một số đơn vị hành chính của quốc gia với sự tham gia của cử tri địa phương hoặc của vùng đó. 1.3.2. Phân loại theo tiêu chí nội dung - Nếu căn cứ vào đối tượng đưa ra trưng cầu dân ý thì có thể phân ra làm những loại như sau: + Trưng cầu dân ý về lập hiến: là cuộc trưng cầu dân ý về nội dung của bản Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua, có nên hay không nên sửa đổi Hiến pháp hiện hành hoặc về nội dung của Hiến pháp đã được sửa đổi, bổ sung. + Trưng cầu dân ý về lập pháp: là cuộc trưng dân ý cầu về các đạo luật đã được Quốc hội thông qua hoặc về sáng kiến của nhân dân đề nghị ban hành một đạo luật hay là cuộc trưng cầu để nhân dân trực tiếp quyết định về việc quốc gia mình có tham gia hoặc không tham gia vào một điều ước quốc tế. + Trưng cầu dân ý về hành pháp: là cuộc trưng cầu dân ý mà nhân dân trực tiếp quyết định các vấn đề về quản lý nhà nước như quyết định việc chia, tách, sáp nhập, điều chỉnh những thay đổi khác về địa giới hành chính- lãnh thổ nơi mình sinh sống; hay việc nhân dân tự mình quyết định về một dự án quy hoạch, đầu tư xây dựng công trình liên quan trực tiếp đến lợi ích của cộng đồng dân cư… - Nếu căn cứ vào tính chất chất của cuộc trưng cầu dân ý có thể chia ra thành: trưng cầu dân ý bắt buộc và trưng cầu dân ý tham khảo. + Trưng cầu dân ý bắt buộc: là trưng cầu dân ý mà kết quả của cuộc trưng cầu dân ý là kết quả cuối cùng, buộc các cơ quan nhà nước phải quyết định theo mà không thể có quyết định nào khác.
  • 23. 17 + Trưng cầu dân ý tham khảo: là trưng cầu dân ý để biết ý kiến của nhân dân về một hay các vấn đề nào đó mà Nghị viện sẽ quyết định thông qua. Ý kiến của nhân dân trong trường hợp này sẽ được Nghị viện xem xét, có thể sẽ không bắt buộc phải theo. 1.4. Quy trình, thủ tục trƣng cầu dân ý Trưng cầu dân ý cũng giống như bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền của nhân dân tự quyết trong vấn đề thể hiện ý chí của mình là rất quan trọng vì bản chất của trưng cầu dân ý là muốn lấy được ý chí đích thực của người dân. Nếu một cuộc trưng cầu dân ý không chặt chẽ về mặt thủ tục sẽ khiến người dân thờ ơ với việc bỏ phiếu, ngược lại nếu thủ tục trưng cầu dân ý quá rườm rà, phức tạp về thủ tục không những làm giảm đi tính kịp thời của quyết định mà còn mất đi ý nghĩa của cuộc trưng cầu dân ý, đồng thời tạo nên rào cản cho việc nhân dân thể hiện ý kiến của mình. Do vậy, cần tạo cho hoạt động trưng cầu dân ý được diễn ra theo một quy trình hợp pháp, công khai và dân chủ. Quy trình, thủ tục trưng cầu dân ý là khuân thước, chuẩn mực để người dân và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo, đem lại cho cuộc trưng cầu dân ý kết quả khách quan, công bằng nhất và giảm thiểu các khiếu nại, tranh chấp phát sinh từ quá trình thực hiện trưng cầu dân ý. Trình tự tiến hành trưng cầu dân ý gồm các bước sau: Bước 1: Sáng kiến trưng cầu dân ý Để tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý, trước hết phải có được sáng kiến trưng cầu dân ý. Sáng kiến trưng cầu dân ý là bước đầu tiên của quy trình trưng cầu dân ý, là cơ sở để hình thành một cuộc trưng cầu dân ý trong tương lai, có thể trên phạm vi toàn quốc hoặc địa phương. Sáng kiến trưng cầu dân ý bắt nguồn từ nhiều nguồn khác nhau và ở mỗi nước cũng có những quy định không giống nhau một cách tuyệt đối về chủ thể có quyền trình sáng kiến trưng cầu dân ý. Theo quy định của pháp luật một số nước, những chủ thể sau có quyền đưa ra sáng kiến trưng cầu dân ý:
  • 24. 18 - Đối với sáng kiến trưng cầu dân ý trên phạm vi toàn quốc: + Nguyên thủ quốc gia + Nghị viện (Quốc hội) + Chính phủ +Nghị sĩ (nhóm đại biểu Quốc hội) + Công dân (nhóm cử tri) - Đối với trưng cầu dân ý ở phạm vi đại phương. + Công dân (nhóm cử tri) + Cơ quan dân cử của địa phương. Sáng kiến trưng cầu dân ý gồm hai quyền là trình sáng kiến trưng cầu dân ý của các cơ quan có thẩm quyền theo luật định hoặc là quyền đưa ra các kiến nghị sáng kiến trưng cầu dân ý của các cơ quan, tổ chức, các nhân và công dân đề nghị tới cơ quan có thẩm quyền. Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế- xã hội ở mỗi quốc gia, mà pháp luật các nước cũng có những quy định khác nhau về vấn đề này. Ở Cộng hoà Pháp, Chính phủ và Quốc hội là hai chủ thể có quyền sáng kiến trưng cầu dân ý, khi hai chủ thể này có sáng kiến trưng cầu dân ý về một vấn đề nào đó thì buộc Tổng thống phải xem xét và quyết định có nên tổ chức trưng cầu dân ý hay không, ở Armenia, sáng kiến trưng cầu dân ý thuộc về Quốc hội. Ở một số nước khác, lại quy định nhân dân cũng có quyền nêu sáng kiến trưng cầu dân ý. Ở Macedonia, người dân muốn tổ chức trưng cầu dân ý thì phải thu thập được 150.000 chữ ký của cử tri vào bản kiến nghị (khoản 3, Điều 73, Hiến pháp Macedonia 1991). Ở Italia, sáng kiến trưng cầu dân ý của công dân được công nhận khi có 500.000 chữ ký ủng hộ của cử tri. Ở Hungary, sáng kiến trưng cầu dân ý được quy định cho các chủ thể như chủ tịch nước, Hội đồng bộ trưởng, Nghị sĩ nếu như có 50 chữ ký đề nghị và cử tri nếu thu thập được ít nhất 50.000 chữ ký (Hiến pháp Hungary năm 1949, bổ sung năm 1990). Ở Việt Nam hiện nay chưa có quy định về chủ thể có quyền sáng kiến trưng cầu dân ý.
  • 25. 19 Bước 2: Quyết định trưng cầu dân ý Một cuộc trưng cầu dân ý có được thực hiện trong thực tiễn hay không phụ thuộc vào quyết định trưng cầu dân ý của chủ thể có thẩm quyền. Những vấn đề được đưa ra trưng cầu dân ý là những vấn đề quan trọng của quốc gia, của địa phương bên cạnh đó việc tổ chức trưng cầu dân ý lại rất tốn kém nên pháp luật các nước chỉ trao thẩm quyền quyết định cho một chủ thể nhất định thông thường là Quốc hội, tổng thống hoặc nguyên thủ quốc gia. Ở Pháp, Nga, Ai Cập… chủ thể được trao thẩm quyền quyết định trưng cầu dân ý là Tổng thống; trong khi đó ở các nước như Braxin, Hunggary… thì chủ thể có quyền quyết định trưng cầu dân ý là Nghị viện. Ở Việt Nam, theo quy định tại điểm 15, Điều 70 của Hiến pháp 1992 thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định trưng cầu dân ý. Tuỳ theo đặc điểm tình hình, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ở mỗi quốc gia và tuỳ thuộc vào nội dung trưng cầu dân ý mà có các quy định khác nhau về thủ tục trưng cầu dân ý. Ở các nước mà thẩm quyền quyết định trưng cầu dân ý là Quốc hội thì quyết định đó đều phải thông qua thủ tục bỏ phiếu biểu quyết tại Quốc hội đạt được đa số phiếu. Còn ở những nước mà thẩm quyền quyết định trưng cầu dân ý là Tổng thống, thì quyết định đó cũng phải dựa trên cơ sở đề nghị hoặc đồng thuận của đa số các đại biểu Quốc hội. Bước 3: Công bố trưng cầu dân ý Sau khi sáng kiến trưng cầu dân ý đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua và quyết định đưa vấn đề đó ra trưng cầu dân ý thì bước tiếp theo chính là công bố trưng cầu dân ý. Qua bước này quyết định về trưng cầu dân ý chính thức được thông tin rộng rãi tới nhân dân. Công bố trưng cầu dân ý được ban hành dưới hình thức nghị quyết hoặc quyết định. Thời gian công bố trưng cầu dân ý thường được ấn định trước thời điểm bỏ phiếu một khoảng thời gian nhất định.Khoảng thời gian này là thời gian để người dân tiến hành tìm hiểu, suy nghĩ, cân nhắc để có thể đưa ra những quyết
  • 26. 20 định sáng suốt nhất. Tuỳ thuộc vào nội dung, phạm vi của cuộc trưng cầu dân ý mà mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau về thời điểm công bố trưng cầu dân ý. Ở Nga, đối với các cuộc trưng cầu dân ý trên phạm vi toàn quốc thì thời điểm công bố trưng cầu dân ý ít nhất là 60 ngày trước ngày tiến hành bỏ phiếu và ít nhất 45 ngày đối với các cuộc trưng cầu dân ý ở địa phương. Ở Slovakia, thì quy định là tối thiểu 15 ngày trước ngày tiến hành bỏ phiếu, còn ở Iren là từ 30 ngày đến 90 ngày trước ngày bỏ phiếu. Thông thường, việc công bố trưng cầu dân ý sẽ được phát trên các phương tiện thông tin đại chúng (công báo, đài truyền hình, đài truyền thanh…) với các nội dung như sau: - Chủ thể trình sáng kiến trưng cầu dân ý - Nội dung trưng cầu dân ý bao gồm những câu hỏi mà người dân sẽ phải trả lời trong cuộc trưng cầu dân ý - Thời gian tổ chức trưng cầu dân ý - Địa điểm tổ chức trưng cầu dân ý (khu vực bỏ phiếu) - Cơ quan tổ chức trưng cầu dân ý -Văn bản đi kèm với quyết định (dự thảo Hiến pháp, những giải thích về từ ngữ liên quan đến nội dung câu hỏi trưng cầu dân ý) Bước 4: Thành lập Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý (hay còn gọi là Uỷ ban trưng cầu dân ý) Để tổ chức trưng cầu dân ý, các nước thành lập các Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý, đây là một thủ tục pháp lý quan trọng trong quy trình tổ chức trưng cầu dân ý. Thông thường ở các nước, tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý được thành lập theo ba cấp: - Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở trung ương: Có nhiệm vụ lãnh đạo toàn bộ cuộc trưng cầu dân ý. - Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở mỗi quận (đơn vị trưng cầu dân ý): Có nhiệm vụ phối hợp và giám sát hoạt động của các tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu, xác định kết quả bỏ phiếu trong đơn vị trưng cầu dân ý.
  • 27. 21 - Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu: Có nhiệm vụ lập danh sách cử tri, tổ chức việc bỏ phiếu trưng cầu dân ý và xác định kết quả kiểm phiếu ở khu vực bỏ phiếu. Mỗi Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý đều được tổ chức theo cơ cấu: Chủ nhiệm Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý, Phó chủ nhiệm Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý và thành viên Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý. Chủ nhiệm và Phó chủ nhiệm Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý có thể do bầu hoặc do cơ quan có thẩm quyền tổ chức trưng cầu dân ý chỉ định, cũng có thể do bốc thăm. Ở Slovakia quy định cách thức bốc thăm để chọn Chủ nhiệm và Phó chủ nhiệm của Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở Điều 12, 13 Luật Trưng cầu dân ý. Tổ chức phụ trách Trưng cầu dân ý được thành lập và hoạt động theo quy định của Hiến pháp và Luật Trưng cầu dân ý về chức năng nhiệm vụ liên quan đến trưng cầu dân ý như: bảo đảm cho quá trình bỏ phiếu đúng quy định, phát đúng số phiếu, chỉ đạo hoạt động bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu, kiểm phiếu, lập biên bản kiểm phiếu, gửi kết quả trưng cầu dân ý của khu vực bỏ phiếu của mình. Bước 5: Lập danh sách cử tri Để thực hiện quyền trưng cầu dân ý của mình, công dân phải đăng ký, ghi tên vào danh sách cử tri. Việc lập danh sách cử tri không những nhằm mục đích bảo đảm quyền trưng cầu dân ý của công dân mà còn ngăn chặn hiện tượng gian lận trong quá trình diễn ra trưng cầu dân ý. Pháp luật một số nước còn căn cứ vào danh sách cử tri đăng ký tham gia bỏ phiếu và số lượng cử tri đi bỏ phiếu để xem xét giá trị của các cuộc trưng cầu dân ý. Hầu hết pháp luật các nước đều quy định công dân có đủ điều kiện tham gia bầu cử thì đều có quyền tham gia bỏ phiếu trưng cầu dân ý.Danh sách cử tri có thể được thành lập bằng hai cách là bắt buộc và tự nguyện. Phương pháp bắt buộc là việc lập danh sách do nhà nước hay tổ chức phụ trách ở khu vực bỏ phiếu lập. Thông thường danh sách công dân tham gia trưng cầu dân ý sẽ được lập căn cứ theo danh sách cử tri tham gia bầu cử.
  • 28. 22 Phương pháp tự nguyện là việc cử tri chỉ cần mang theo giấy tờ tùy thân đến cơ quan có thẩm quyền để đăng ký bỏ phiếu. Việc lập danh sách cử tri phải được hoàn thành trước ngày tiến hành bỏ phiếu trưng cầu dân ý trong một khoảng thời gian nhất định được pháp luật quy định. Bước 6: Tuyên truyền về vấn đề trưng cầu dân ý Tuyên truyền là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình trưng cầu dân ý. Vì qua giai đoạn này, cử tri sẽ hiểu rõ hơn vấn đề được đưa ra trưng cầu dân ý, tầm quan trọng của vấn đề đó từ đó định hướng và có những nhận định chính xác để đưa ra được những quyết định sáng suốt nhất. Có thể nói tuyên truyền có vai trò quan trọng đối với chất lượng cuộc trưng cầu dân ý, làm nên sự thành bại của cuộc trưng cầu dân ý. Nguyên tắc tiến hành tuyên truyền là bảo đảm minh bạch, khách quan, đầy đủ của thông tin và tuân theo các quy định của pháp luật (Hiến pháp, Luật Trưng cầu dân ý, Luật Báo chí, Luật truyền thông…). Không được lợi dụng tuyên truyền trưng cầu dân ý làm sai lệch thông tin, mất đi tính khách quan của vấn đề, hướng người dân hiểu theo những cách có lợi cho mục đích của một nhóm người nhằm lưởng lợi bất chính. Công tác tuyên truyền về vấn đề trưng cầu dân ý được thực hiện dưới sự chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền tổ chức trưng cầu dân ý, thông qua nhiều kênh tuyên truyền như báo chí, truyền hình, truyền thanh, chính quyền địa phương khu phố… Thời gian tiến hành tuyên truyền về vấn đề trưng cầu dân ý được quy định cụ thể trong pháp luật về trưng cầu dân ý của từng nước, và phải được chấm dứt trước ngày bỏ phiếu.Ngoài ra, thời gian và cách thức công bố kết quả thu được qua hình thức thăm dò ý kiến công chúng đối với những câu hỏi đưa ra trong cuộc trưng cầu dân ý cũng được quy định cụ thể trong Luật Trưng cầu dân ý. Thông thường thời gian này được ấn định ba ngày trước ngày bỏ phiếu trưng cầu dân ý trên cơ sở thông báo công khai kết quả và tổ chức đứng ra thăm dò ý kiến.
  • 29. 23 Bước 7: Bỏ phiếu Bỏ phiếu là một thủ tục quan trọng, được coi như là tâm điểm của cuộc trưng cầu dân ý. Trước khi tiến hành thủ tục bỏ phiếu, các Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý sẽ nhận phiếu trưng cầu dân ý từ bộ phận phụ trách công tác in ấn và chuyển phiếu bầu. Việc chuyển giao phiếu phải được lập biên bản ghi xác nhận thời gian nhận, thời gian chuyển và số phiếu. Việc chuyển giao phiếu trưng cầu dân ý phải tuân theo quy định về các thức và thời hạn quy định. Thông thường trước khi tiến hành trưng cầu dân ý hai tuần, Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý tại cơ sở phải nhận được phiếu trưng cầu dân ý. Trong trường hợp trưng cầu dân ý về sửa đổi Hiến pháp thì phải có dự thảo sửa đổi Hiến pháp đi kèm theo mỗi phiếu bầu. Trước khi bỏ phiếu Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở cơ sở sẽphải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri. Cử tri phải tự mình đi bỏ phiếu và phải tuân thủ theo nội quy của phòng bỏ phiếu. Thông thường cử tri sẽ được thông báo trước về ngày, giờ, địa điểm bỏ phiếu.Sau khi xuất trình giấy tờ tuỳ thân (Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu…) cử tri ký tên vào danh sách cử tri đi bầu và được phát một lá phiếu.Sau khi cử tri đánh dấu vào ô đồng ý hoặc không đồng ý với vấn đề đươc đưa ra trưng cầu dân ý, cử tri sẽ trực tiếp bỏ lá phiếu đó vào thùng phiếu đã được niêm phong kín. Trong trường hợp cử tri không thể tự mình viết được phiếu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu. Người vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu. Người vì có lý do chính đáng đúng vào thời điểm bỏ phiếu phải đi công tác, điều trị bệnh… thì sẽ được bỏ phiếu sớm (nhưng thông thường không quá ba ngày). Phiếu đó phải được để trong phong bì dán kín và có chữ ký niêm phong của cử tri
  • 30. 24 đó.Đến ngày bầu cử, phiếu đó sẽ được bỏ vào thùng phiếu dưới sự chứng kiến của cử tri và các quan sát viên trên cơ sở vẫn còn nguyên niêm phong. Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn cử tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà chưa kịp bỏ phiếu thì chỉ sau khi số cử tri này bỏ phiếu xong, Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu. Bước 8: Kiểm phiếu và lập biên bản kết quả bỏ phiếu Sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, các tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu lập tức tiến hành việc kiểm phiếu.Việc kiểm phiếu được tiến hành công khai, dưới sự chứng kiến và giám sát của đại diện cử tri và các quan sát viên, phóng viên báo chí. Thông thường, bộ phận kiểm phiếu trước hết phải xác định số lượng cử tri ở khu vực bỏ phiếu đã tham gia bỏ phiếu, sau đó đối chiếu với số phiếu ở trong thùng phiếu có phù hợp hay không, rồi xác định số phiếu hợp lệ và không hợp lệ. Nếu tổng số phiếu trong hòm phiếu phù hợp với với số lượng phiếu mà tổ bầu cử phát ra thì tiến hành kiểm phiếu.Trong trường hợp khác nhau thì phải lập tức báo cho tổ phụ trách trưng cầu dân ý biết và quyết định.Sau khi kiểm phiếu toàn bộ số phiếu đã được kiểm phải được niêm phong gửi kèm biên bản lên Tổ phụ trách trưng cầu dân ý cấp trên. Giai đoạn kiểm phiếu hoàn toàn do các nhân viên của tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý đảm nhiệm. Lập biên bản và báo cáo về kết quả kiểm phiếu: Sau khi kiểm phiếu xong, Tổ phụ trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu phải lập biên bản kết quả kiểm phiếu. Biên bản kết quả kiểm phiếu phải ghi rõ: Số phiếu phát ra; số phiếu thu về; số phiếu hợp lệ; số phiếu không hợp lệ; tổng số cử tri của đơn vị trưng cầu dân ý, số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, kết quả kiểm phiếu, những khiếu nại do các Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu đã giải quyết, những khiếu nại do Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở quận giải quyết, những khiếu nại chuyển đến Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở trung ương. Biên bản thường được lập thành bốn bản, có chữ ký đầy đủ của các thành viên Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý.
  • 31. 25 Bước 9: Xác định kết quả trưng cầu dân ý. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý được xác định trước hết ở từng Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở khu vực bỏ phiếu.Kết quả này được chuyển lên cho các Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở cấp trên xem xét, tổng hợp. Trên cơ sở những văn bản do các tổ chức phụ trách ở đơn vị trưng cầu dân ý gửi đến, Tổ chức phụ trách trưng cầu dân ý ở trung ương xác nhận tính hợp pháp của cuộc trưng cầu dân ý ở từng đơn vị trưng cầu dân ý rồi công bố kết quả của cuộc trưng cầu dân ý. Trong trường hợp cần thiết có thể tuyên bố trưng cầu dân ý lại. Việc xác định kết quả trưng cầu dân ý được thực hiện dưới hình thức văn bản về các nội dung như: Tổng số cử tri trên danh sách tham gia trưng cầu dân ý, tổng số cử tri chính thức đi bỏ phiếu, kết quả kiểm phiếu của từng khu vực bỏ phiếu, kết quả cuối cùng đồng ý hay không đồng ý vấn đề được đưa ra trưng cầu dân ý. Bước 10: Công bố kết quả trưng cầu dân ý Công bố kết quả trưng cầu dân ý là hoạt động cuối cùng trong quy trình trưng cầu dân ý. Giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tuyên bố công khai kết quả trưng cầu dân ý rộng rãi bằng văn bản, trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sau khi nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả trưng cầu dân ý của các Tổ phụ trách trưng cầu dân ý và giải quyết các khiếu nại, tố cáo (nếu có), Tổ phụ trách trưng cầu dân ý ở trung ương lập biên bản tổng kết toàn bộ cuộc cuộc trưng cầu dân ý. Khi đã có quyết định cuối cùng về kết quả trưng cầu dân ý thì tiến hành thủ tục công bố kết quả trưng cầu dân ý. Pháp luật các nước cũng quy định khác về thời gian tiến hành công bố kết quả trưng cầu dân ý. Có nước thủ tục công bố kết quả trưng cầu dân ý sẽ được tiến hành ngay sau khi có kết quả cuộc trưng cầu dân ý, cũng có những nước dành ra một khoảng thời gian nhất định cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về trưng cầu dân ý rồi mới tiến hành công bố kết quả.
  • 32. 26 Kết luận chƣơng 1 Trưng cầu dân ý là một phạm trù có tính chất lịch sử, xuất hiện và phát triển cùng với sự phát triển của dân chủ, được sử dụng ngày càng phổ biến trong sinh hoạt chính trị, pháp lý của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, từ rất sớm, trưng cầu dân ý đã trở thành một chế định của Hiến pháp 1945. Khi đó, trong bối cảnh đất nước đang rất phức tạp và nguy nan. Điều đó đã cho thấy được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề dân chủ nói chung và trưng cầu dân ý nói riêng. Từ những phân tích ở chương I, chúng ta có thể nhận thấy trưng cầu dân ý có các đặc điểm đặc: Trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp mà ở đó người dân trực tiếp bỏ phiếu quyết định công việc của nhà nước theo trình tự, thủ tục pháp luật; các vấn đề được đưa ra trưng cầu dân ý là những vấn đề quan trọng của đất nước; kết quả của cuộc trưng cầu dân ý có giá trị băt buộc với cơ quan nhà nước và quy trình thủ tục trưng cầu dân ý gần giống với quy trình bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Với những đặc điểm như vậy trưng cầu dân ý chính là hình thức dân chủ trực tiếp nhất trong các hình thức dân chủ. Trưng cầu dân ý, bên cạnh việc phát huy tính dân chủ của người dân thì còn góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm chính trị của người dân cũng như hạn chế, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế của Đảng và Nhà nước. Đó là những điểm quan trọng mà chúng ta đang hướng tơi để xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
  • 33. 27 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN TRƢNG CẦU DÂN Ý Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Trƣng cầu dân ý ở một số nƣớc phát triển Trưng cầu dân ý là sự thể hiện của tư tưởng dân chủ phổ thông mà nhân dân là người làm chủ đất nước có quyền cơ bản trong việc quyết định vận mệnh của mình. Những nước phát triển như Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Mỹ, Đức thì việc trưng cầu dân ý không chỉ dừng lại trên phạm vi cả nước mà còn được tổ chức trên phạm vi từng bang, từng địa phương với nội dung trưng cầu dân ý cũng hết sức đa dạng. 2.1.1. Trưng cầu dân ý ở Thụy Sỹ Thụy Sỹđược coi là cha đẻ của các chế định trưng cầu dân ý, ở quốc gia này đã có trên 150 năm kinh nghiệm về trưng cầu dân ý. Vì vậy, ở đây hoạt động trưng cầu dân ý đi sâu vào thực tiễn, gắn liền với dân chủ trực tiếp. Trưng cầu dân ý ở Thụy Sỹ được ghi nhận lần đầu tiên trong bản Hiến pháp năm 1848, quy định quyền của cử tri trong việc ban hành Hiến pháp. Đó là quy định chỉ khi nào người dân có ý kiến thì Hiến pháp mới được phê chuẩn hoặc sửa đổi. Tuy nhiên do quy định còn sơ sài, chưa cụ thể nên việc áp dụng có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến khó áp dụng. Từ cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1950, Thụy Sỹ đã trở thành quốc gia nổi tiếng thế giới với các hoạt động trưng cầu dân ý. Hiến pháp 1949 được sửa đổi theo sáng kiến của nhân dân. Hiến pháp này ra đời có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế tình trạng ban hành bừa bãi các sắc luật áp dụng khẩn cấp bằng việc quy định trình tự, thủ tục chặt chẽ hơn. Năm 1956, người dân Thụy Sỹ đã liên tục được hỏi ý kiến về một số vấn đề khá quan trọng của đất nước như hoạt động của nhà máy thuỷ điện, về chi tiêu tài chính của chính phủ Thụy Sỹ…Cho tới nay, Thụy Sỹ đã tiến hành 532 cuộc trưng cầu dân ý trên tổng số 1140 chiếm gần 47% cuộc trưng cầu dân ý trên toàn thế giới, và được diễn ra chủ yếu trong vòng 30 năm trở lại đây. Qua nghiên cứu pháp luật Thụy Sỹ về trưng cầu dân ý có thể chỉ ra một số đặc điểm nổi bật sau:
  • 34. 28 Một là, Pháp luật của Thụy Sỹ, trưng cầu dân ý có hai hình thức là trưng cầu dân ý bắt buộc và trưng cầu dân ý tuỳ nghi- luôn mang tính rằng buộc (Điều 142 và Điều 159 Hiến Pháp Thụy Sỹ). Trưng cầu dân ý bắt buộc ở Thụy Sỹ là trưng cầu dân ý được Hiến pháp quy định tại Điều 140 đối với các trường hợp sau: - Sửa đổi toàn bộ hoặc một phần Hiến pháp Liên bang; - Gia nhập các tổ chức vì lý do an ninh chung hoặc gia nhập các cộng đồng siêu quốc gia. (Ví dụ Liên hợp Quốc, EU); - Khi áp dụng các đạo luật khẩn cấp của Liên bang mà không có cơ sở hiến định cần thiết và điều đó sẽ có hiệu lực dài hơn một năm. Những việc sau đây phải được nhân dân biểu quyết: - Sáng kiến của công dân nhằm sửa đổi toàn diện Hiến pháp Liên bang. - Sáng kiến của công dân nhằm sửa đổi một phần Hiến pháp Liên bang được giới thiệu như một đề xuất chung và đã bị từ chối tại Quốc hội Liên bang, và để đạt được một quyết định mà Hội đồng Liên bang (chính phủ),Hội đồng quốc gia và Hội đồng các bang (Quốc hội) đã không đồng ý về việc liệu có sửa toàn bộ bản Hiến pháp hay không. Hiến pháp Thụy Sỹ muốn được sửa đổi, bổ sung thì bắt buộc phải đưa ra trưng cầu dân ý, không có bất kể một chủ thể nào có thể tự ý quyết định vấn đề trưng cầu dân ý về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp mà không thông qua trưng cầu dân ý. Người dân có quyền đưa ra sáng kiến trưng cầu dân ý về việc sửa đổi Hiến pháp khi họ thu thập được 100.000 chữ ký trong vòng 18 tháng, tuy nhiên sáng kiến này sẽ không được thông qua nếu Nghị viện không tán thành. Trưng cầu dân ý tuỳ nghi ở Thụy Sỹ được quy định tại Điều 141 Hiến pháp bao gồm các vấn đề như: - Luật Liên bang - Luật khẩn cấp của Liên bang, với thời hạn áp dụng luật quá một năm - Nghị định Liên bang trùng phạm vi Hiến pháp hay luật pháp đã dự liệu
  • 35. 29 - Một số công ước quốc tế trong đó không giới hạn về thời gian và có thể không bị chấm dứt; mở đường cho việc ra nhập vào một tổ chức quốc tế hoặc có những điều khoản pháp lý quan trọng, hoặc việc thực hiện hiệp định yêu cầu phải có các quy định trong luật liên bang. Theo đó, một đạo luật đã được Nghị viện thông qua vẫn có thể bị xem lại khi người dân thu thập được 50.000 chữ ký trong thời gian 100 ngày kể từ khi Quốc hội thông qua luật đó. Nếu có yêu cầu của tám bang trở lên về việc tổ chức trưng cầu dân ý đối với các văn bản luật, hiến pháp thì trưng cầu dân ý cũng phải được tổ chức (Điều 141) Ngoài ra, bằng việc thu thập chữ ký, nhân dân có thể đưa ra sáng kiến tổ chức trưng cầu dân ý về các vấn đề khác. Như vậy có nghĩa là, ngoài những vấn đề bắt buộc phải đưa ra trưng cầu dân ý như sửa đổi Hiến pháp thì ở Thụy Sỹ, mọi vấn đề đề đều có thể được đưa ra trưng cầu dân ý. Pháp luật Thụy Sỹ không quy định vấn đề nào đưa ra trưng cầu dân ý, vấn đề nào không được trưng cầu (trừ những vấn đề trái với pháp luật quốc tế).
  • 36. 30 Bảng2.1. Quy định về Trưng cầu dân ý bắt buộc và không bắt buộc trong các bang của Thụy Sỹ tính đến tháng 12/2004[30, tr.36] Trƣng cầu dân ý Hiến pháp Trƣng cầu dân ý pháp luật Trƣng cầu dân ý tài chính Trƣng cầu dân ý hành chính Bang Bắt buộc Bắt buộc Không bắt buộc Bắt buộc Không bắt buộc Bắt buộc Không bắt buộc Zurich . . . . Bern . . . . Lucerne . . . . Uri . . . . . Schwyz . . . . Obwalden . . . Nidwalden . . . . . Glarus . . . . Zug . . . Freiburg . . . . Solothurn . . . . . . . Basle (city) . . . . Basle(County) . . . . Schaffhausen . . . . . . . Appenzell Ausserrhoden . . . . Appenzell Innerrhoden . . . . Sankt Gallen . . . . Graubunden . . . . Aargau . . . . Thurgau . . . . Ticino . . . Vaud . . . Valais . . . Neuchâtel . . Geneva . . Jura . . .
  • 37. 31 Hai là, Pháp luật Thụy Sỹ quy định rất rõ ràng và cụ thể về vấn đề sáng kiến trưng cầu dân ý, các sáng kiến trưng cầu dân ý phải được một uỷ ban gồm 7 đến 27 thành viên đưa ra- thành viên khởi xướng sáng kiến, họ sẽ chịu trách nhiệm về mặt pháp lý đối với sáng kiến mà họ đưa ra. Sáng kiến trưng cầu dân ý gồm có hai chủ thể là nhân dân và Chính phủ. Về việc sửa đổi Hiến pháp, Hiến pháp Thụy Sỹ quy định cụ thể về yêu cầu và trình tự của các sáng kiến đối với trường hợp: sửa đổi tổng thể Hiến pháp và sửa đổi một phần của Hiến pháp. - Đối với việc sửa đổi tổng thể Hiến pháp Liên bang, Điều 138 Hiến pháp Thụy Sỹ quy định: 1, 100.000 công dân có quyền bỏ phiếu (tương đương với khoảng 2% số cử tri) có thể đề xuất việc sửa đổi Hiến pháp Liên bang. 2, Đề xuất này được trình lên để nhân dân bỏ phiếu chấp thuận. - Đối với việc việc sửa đổi một phần Hiến pháp Liên bang, Điều 139 Hiến pháp Thụy Sỹ quy đinh: 1, 100.000 công dân có quyền bỏ phiếu có thể đề suất việc sửa đổi một phần Hiến pháp Liên bang. 2, Sáng kiến của dân chúng về việc sửa đổi một phần Hiến pháp Liên bang có thể dưới hình thức đề nghị chung hoặc hình thức dự thảo được trình bày chuẩn xác. 3, Nếu đề xuất không tuân thủ nguyên tắc thống nhất về mặt hình thức, nguyên tắc thống nhất về chủ đề hoặc các quy định bắt buộc của pháp luật quốc tế thì Nghị viện Liên bang sẽ tuyên bố sáng kiến đó là vô hiệu toàn bộ hay một phần. 4, Nếu Nghị viện Liên bang chấp thuận một sáng kiến dưới hình thức đề xuất chung thì Nghị viện Liên bang phải chuẩn bị nội dung sửa đổi một phần Hiến pháp theo sáng kiến đó và đưa vấn đề ra toàn dân và các bang bỏ phiếu. Nếu Nghị viện Liên bang bác bỏ sáng kiến đó, thì Nghị viện Liên bang phải đưa vấn đề đó ra để dân bỏ phiếu. Nhân dân sẽ quyết định việc có đi theo sáng kiến đó hay không. Nếu nhân dân chấp thuận sáng kiến đó thì, thì Nghị viện Liên bang phải chuẩn bị dự thảo phù hợp.
  • 38. 32 5, Một sáng kiến dưới hình thức dự thảo trình bày chuẩn xác được trình lên để nhân dân và các bang bỏ phiếu. Nghị viện Liên bang đưa ra khuyến nghị về việc chấp thuận hay bác bỏ sáng kiến đó. Nếu Nghị viện liên bang đưa ra khuyến nghị về việc bác bỏ sáng kiến thì Nghị viện Liên bang phải trình bày ra một bản phản dự thảo. 6, Nhân dân và các bang sẽ bỏ phiếu đồng thời về sáng kiến và về phần phản dự thảo đó. Các cử tri có thể chấp thuận cả hai dự thảo, trong trường hợp chấp thuận cả hai dự thảo, cử tri có thể nêu việc họ đưa dự thảo nào hơn. Trường hợp một dự thảo dành được đa số phiếu cử tri và dự thảo kia dành được đa số phiếu của các bang thì không kết quả bỏ phiếu nào được coi là có hiệu lực. Việc kiểm tra độ tin cậy của chữ ký được tiến hành trên cơ sở dữ liệu thông tin về dữ liệu chữ ký của cử tri được lưu trữ ở cấp Liên bang. Nếu hợp lệ, văn phòng Thủ tướng Liên bang sẽ ra quyết định về việc trưng cầu dân ý. Trong quá trình xác minh tính hợp pháp của các chữ ký, người tổ chức thu thập chữ ký có thể thay mặt nhân dân rút lại sáng kiến trưng cầu dân ý. Ba là, Những ngày bỏ phiếu quốc gia được ấn định theo các quy định của Điều 10 Luật Liên bang về các quyền chính trị (FLP) ngày 17 tháng 12 năm 1976 và Điều 2a Nghị định về quyền chính trị (DPR) ngày 24 tháng 5 năm 1978. Bỏ phiếu trưng cầu dân ý Liên bang không được tổ chức trong thời gian diễn ra bầu cử Liên bang, tối thiểu là bốn tháng trước ngày bầu cử.Hiện nay, lịch trưng cầu dân ý cho 20 năm tới đã được xác định và công bố trên mạng Internet.Trong trường hợp có sự thay đổi thì Quốc hội ban hành luật quy định về vấn đề này.Điều nay cho thấy, ở Thụy Sỹ hoạt động trưng cầu dân ý được coi là hoạt động thường niên, tất yếu, là ngày hội của nhân dân. Bốn là, về việc tổ chức trưng cầu dân ý: Việc biểu quyết trưng cầu dân ý được tổ chức tại các điểm bỏ phiếu, một bang có thể có nhiều điểm bỏ phiếu để thuận tiện cho người dân tham gia bỏ phiếu. Ngoài ra người dân có quyền bỏ phiếu qua bưu điện, vào năm 2006 Thụy Sỹ đã chấp nhận hình thức bỏ phiếu
  • 39. 33 thông qua điện thoại di động và gần đây Thụy Sỹ đang xây dựng phần mềm bỏ phiếu qua Internet, mới đang trong giai đoạn thử nghiệm. Đó là những các tổ chức hết sức linh hoạt để tạo điều kiện để tất cả cử tri đang sinh sống trên và ngoài lãnh thổThụy Sỹ đều có thể tham gia bỏ phiếu mà không tốn quá nhiều công sức, thời gian, tiền bạc… Hồ sơ phiếu bầu được gửi tới cử tri trước ngày bỏ phiếu tối thiểu là ba tuần và sớm nhất là bốn tuần (Điều 11 Luật Liên bang về các quyền chính trị). Hồ sơ gồm có: Thẻ cử tri; Bảng tóm tắt nội dung của vấn đề bỏ phiếu, các quy định của pháp luật có liên quan; Phiếu trưng cầu dân ý; Phiếu hỏi về những vấn đề thuộc nội dung trưng cầu dân ý có liên quan trực tiếp tới bang đó (trong trường hợp trưng cầu dân ý cấp Liên bang). Năm là, Hoạt động kiểm phiếu tại Thụy Sỹ do các cử tri trực tiếp thực hiện tại các điểm kiểm phiếu. Biên bản kiểm phiếu của các xã được gửi qua Fax đến Bang và từ đây được gửi về Văn phòng chính phủ Liên bang tập hợp. Nội dung hoạt động kiểm phiếu bao gồm: - Kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ phiếu trưng cầu dân ý (thẻ cử tri phải có chữ ký, phiếu trưng cầu dân ý phải được trả lời theo một trong hai phương án là “có” hay “không” và được đóng dấu đã bỏ phiếu. - Kiểm tra sự phù hợp của số thẻ cử tri và số phiếu. - Thống kê các ý kiến đồng ý và không đồng ý. - Lập biên bản kết quả bỏ phiếu. Sáu là, kết quả trưng cầu dân ý được tính theo quá nửa số cử tri tham gia bỏ phiếu đồng ý hoặc quá nửa số bang (đối với trưng cầu dân ý cấp Liên bang). Không một cơ quan nhà nước hay một cá nhân nào có thể thay đổi được kết quả trưng cầu dân ý. Kết quả trưng cầu dân ý được bảo vệ và có cơ chế bảo vệ bằng Tòa hành chính của Liên bang, Tòa hành chính của các bang. Kết quả trưng cầu dân ý không bị phụ thuộc vào số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu, Thụy Sỹ quan niệm rằng: trong bất kỳ tình huống nào cũng cần tôn trọng tiếng nói của một bộ phận tích cực chính trị trong số các cử tri. Ai không tham gia bỏ phiếu là tự mình tước bỏ đi quyền lợi chính trị của mình.
  • 40. 34 2.1.2. Trưng cầu dân ý ở Pháp Ở Pháp, trưng cầu dân ý không phải là một chế định được thực hiện thường xuyên như ở Thụy Sỹ, tuy nhiên Pháp cũng là một trong những nước có các hoạt động trưng cầu dân ý từ rất sớm. Hiến pháp của nền cộng hoà thứ năm đã được thông qua bằng một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1958. Kể từ đó, một số cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức theo Điều 11 của Hiến pháp, trao quyền cho Tổng thống nước Cộng hoà để “trình ra trước cuộc trưng cầu đối với bất kỳ dự luật nào của chính phủ liên quan đến việc tổ chức các cơ quan công quyền, hoặc những cải cách liên quan chính sách kinh tế hoặc xã hội của quốc gia”. Hiến pháp năm 1793 với những quy định hạn chế về trưng cầu dân ý song đây chính là cơ sở pháp lý diễn ra cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên theo phương thức bỏ phiếu. Trưng cầu dân ý ở Pháp xuất hiện sớm trên thế giới nhưng cũng có những giai đoạn vắng bóng.Cho đến nền cộng hoà thứ IV, trưng cầu dân ý dần được xuất hiện lại và trở thành công cụ pháp lý để người dân tham gia quản lý nhà nước. Pháp luật về trưng cầu dân ý ở Pháp có những đặc điểm sau: Một là, quy mô các cuộc trưng cầu dân ý ở Pháp được tiến hành cả ở hai cấp độ là quốc gia và ở từng địa phương. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động trưng cầu dân ý ở Pháp cho thấy, việc trưng cầu dân ý chính thức diễn ra trên quy mô toàn quốc nhiều hơn là quy mô địa phương. Nguyên nhân được cho là, do ở địa phương việc bày tỏ thái độ thiếu thiện chí của một số đại biểu Quốc hội đã làm cho các hoạt động trưng cầu dân ý không được diễn ra trong một thời gian dài. Hai là, quyền quyết định trưng cầu dân ý có thể do Tổng thống quyết định theo đề nghị của Chính phủ hay theo đề nghị của hai viện của Quốc hội nhưng chỉ trong phạm vi hẹp các vấn đề theo quy định được sửa đổi tại Điều 11 Hiến pháp 1995 (tổ chức quyền lực công, cải cách chính sách kinh tế - xã hội và công vụ, phê chuẩn những điều ước quốc tế có khả năng ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan nhà nước). Đối với việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, nếu là sáng kiến của Quốc hội hoặc của Tổng thống thì sáng kiến đó sẽ được biểu quyết tại phiên họp chung của Thượng viện và Hạ viện.
  • 41. 35 Trong thực tế, ở Pháp, mặc dù có quy định như vậy song đối với việc trưng cầu ý dân về sửa đổi Hiến pháp hoặc đưa dự luật ra trưng cầu ý dân năm 1962 và 1969, Tổng thống Pháp đã quyết định tổ chức trưng cầu ý dân mà không cần có sự đồng ý của Quốc hội. Ba là, vấn đề đưa ra trưng cầu dân ý bao gồm ban hành, sửa đổi Hiến pháp, pháp luật, tổ chức bộ máy nhà nước, sáp nhập, chia tách lãnh thổ… Thời kỳ phong kiến, trưng cầu dân ý được tổ chức khi sát nhập vùng Savoie và Alpes Maritimes vào nước Pháp hay việc chuyển nhượng vùng Vénétie cho Italia cũng được đưa ra hỏi ý kiến nhân dân. Có thể thấy ở các nước khác việc trưng cầu dân ý chủ yếu về vấn đề ban hành và sửa đổi Hiến pháp thì ở Pháp vấn đề trưng cầu dân ý được mở rộng hơn, áp dụng với nhiều trường hợp hơn (thậm chí trưng cầu dân ý áp dụng với cả lĩnh vực tài chính như việc liên quan đến tiền thuế- đây là vấn đề mà một số nước quy định không được đưa ra trưng cầu dân ý). Bốn là, sáng kiến trưng cầu dân ý ở Pháp thuộc về Tổng thống, trong một số trường hợp nhận được tiếp ký của thủ tướng. Điều 89, Hiến pháp năm 1958 của Pháp quy định: Trong mọi trường hợp, quyết định tổ chức trưng cầu dân ý của Tổng thống hoặc quyết định đưa dự thảo ra Nghị viện xem xét phải được thủ tướng tiếp ký. Pháp luật trưng cầu dân ý ở Pháp không quy định nhân dân là chủ thể có quyền đưa sáng kiến ra trưng cầu dân ý. Có thể nhận thấy, Tổng thống Pháp có một vị trí rất quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện trưng cầu dân ý. Năm là, hậu quả pháp lý của các cuộc trưng cầu dân ý tại Pháp phụ thuộc vào từng cấp độ của cuộc trưng cầu dân ý. Đối với những cuộc trưng cầu dân ý ở cấp Liên bang thì kết quả trưng cầu dân ý có giá trị bắt buộc, còn đối với các cuộc trưng cầu dân ý ở địa phương thì cả bắt buộc và tham khảo. Kết quả của cuộc trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp là sửa đổi hay không sửa đổi, đối với dự thảo luật là thông qua hay không thông qua và đối với lãnh thổ là sự cho phép chuyển nhượng, sáp nhập hay đổi…
  • 42. 36 Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động trưng cầu dân ý ở diễn ra trên quy mô toàn quốc nhiều hơn diễn ra trên quy mô địa phương. Chỉ tính từ năm 1888 đến nay có 250 cuộc trưng cầu dân ý mặc dù các cuộc này không chính thức. Theo quy định về quy mô trưng cầu dân ý ở cấp xã cho thấy quy mô áp dụng trưng cầu dân ý hết sức hạn chế và chỉ đóng vai trò rất nhỏ (chỉ trong trường hợp sát nhập xã, và đây không phải trường hợp phổ biến). Đến năm 1992, Pháp ban hành luật 92-125 quy định về tổ chức các cơ quan nhà nước ở địa phương trong đó xác định về chế độ pháp lý của trưng cầu dân ý ở cấp xã. Hoạt động trưng cầu dân ý ở cấp xã được tiến hành theo nguyên tắc chỉ trưng cầu dân ý đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền của xã, nếu đối tượng liên quan chỉ là một phần dân cư của xã thì chỉ trưng cầu dân ý đối với bộ phận nhỏ ấy. Theo đó, ý kiến của người dân chỉ có giá trị tham khảo, không có giá trị bắt buộc đối với cơ quan nhà nước. Sáu là, kết quả trưng cầu dân ý ở Pháp được giám sát và kiểm tra tính trung thực thông qua thủ tục bầu cử chặt chẽ với sự hiện diện của Toà hành chính trung ương, Hội đồng hiến pháp. Đây là hai thiết chế quan trọng có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, bảo bệ chế dộ dân chủ ở Pháp. Các thiết chế pháp lý cơ bản nhằm kiểm tra, giám sát có hiệu quả bao gồm: Nghị định về công tác kiểm tra, giám sát pháp lý đối với các cuộc trưng cầu dân ý (Nghị định ngày 8/11/1960 và Quyết định số 87-226 ngày 2/6/1987). Đó là quy định về hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động vận động bầu cử và tính hợp lệ của trưng cầu dân ý do Hội đồng Hiến pháp đảm nhiệm có dự tham khảo ý kiến của Tòa án hành chính tối cao về các dự thảo luật. Trong thực tế, việc kiểm tra, giám sát hoạt động trưng cầu dân ý rất ít khi được tiến hành. Bên cạnh xu hướng tăng cường kiểm tra, giám sát bằng việc ban hành văn bản pháp luật và thành lập hội đồng Hiến pháp thì theo xu hướng thứ hai lại theo quan điểm cho rằng chỉ cần giám sát, kiểm tra thời điểm yêu cầu tổ chức trưng cầu dân ý do Nghị viện hoặc tổng thống khởi xướng ngoài ra không cần kiểm tra, giám sát đối với các vấn đề khác hoặc thủ tục tiếp theo. [13, tr.85]
  • 43. 37 2.1.3. Trưng cầu dân ý ở Nga Trưng cầu dân ý là chế định tương đối mới ở Liên bang Nga, tuy nhiên nó lại thường xuyên được áp dụng trong đời sống chính trị của nước này. Trưng cầu dân ý đã trở thành hình thức pháp luật- hiến pháp thể chế hoá ý chí của nhân dân, các dân tộc trong vấn đề tự quyết dân tộc. Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định tại Điều 135 “Hội nghị lập hiến quyết định không sửa đổi Hiến pháp Liên bang Nga hoặc soạn thảo bản Hiến pháp mới của Liên bang Nga… Trong trường hợp phúc quyết toàn dân, Hiến pháp Liên bang Nga được thông qua khi có hơn một nửa tổng số cử tri tham gia bỏ phiếu tán thành, với điều kiện phải có hơn một nửa tổng số cử tri tham gia phúc quyết”.Ngày 10/10/1995 Tổng thống đã ký lệnh ban hành Luật “Về trưng cầu dân ý của Liên bang Nga” trong đó quy định trưng cầu dân ý của Liên bang Nga là việc toàn dân biểu quyết về các dự luật, về các đạo luật đã có hiệu lực và các vấn đề khác có ý nghĩa quan trọng đối với đất nước. Nghiên cứu pháp luật trưng cầu dân ý ở Nga có thể thấy những điểm nổi bật sau: Một là, sáng kiến tiến hành trưng cầu dân ý ở Liên bang Nga được quy định bởi Luật Liên bang, các Luật Hiến pháp Liên bang, các Luật của chủ thể Liên bang Nga. Mỗi công dân hoặc nhóm công dân của Liên bang Nga có quyền tham gia vào các cuộc trưng cầu ý dân và các Hiệp hội công (Là những hiệp hội có đăng ký với cơ quan tư pháp của Liên bang Nga không quá sáu tháng trước ngày sáng kiến về tổ chức trưng cầu ý dân được trình lên cơ quan hữu quan mà điều lệ của cơ quan đó quy định việc tham gia bầu cử) có thể tạo nên nhóm sáng kiến về tổ chức trưng cầu ý dân. Thủ tục và số lượng chữ ký ủng hộ sáng kiến về tổ chức trưng cầu ý dân được thu thập theo quy định của Luật Các chủ thể Liên bang Nga và Hiến chương của đơn vị hành chính thành phố. Trong đó, sáng kiến về tổ chức trưng cầu ý dân có thể được thực hiện theo hình thức cuộc họp của những người tham gia trưng cầu ý dân.
  • 44. 38 Ở Nga, việc kiểm tra về điều kiện của các sáng kiến trưng cầu ý dân được bảo đảm thông qua hoạt động của Tòa án Hiến pháp theo trình tự sau: 1) Tài liệu về trưng cầu ý dân bao gồm các sáng kiến trưng cầu ý dân, chữ ký của các nhóm sáng kiến... được gửi tới Tổng thống sẽ được chuyển đến Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga để xác định về tính hợp hiến; 2) Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga kiểm tra việc tuân thủ những yêu cầu của Hiến pháp và gửi kết quả kiểm tra đó cho Tổng thống trong thời hạn một tháng và đồng thời công bố quyết định về tính hợp hiến của những tài liệu đó. Hai là, quyền quyết định trưng cầu ý dân ở Nga được trao cho cả cơ quan đại biểu dân cử và cho cả Tổng thống với tên gọi là cơ quan quyền lực nhà nước Liên bang (bao gồm: Tổng thống Liên bang Nga, Đuma quốc gia Liên bang Nga, các cơ quan nhà nước liên bang khác được quy định trong Hiến pháp Liên bang Nga do công dân Liên bang Nga trực tiếp bầu ra theo Hiến pháp Liên bang Nga, luật Hiến pháp Liên bang, các Luật Liên bang). Ở Nga, việc trao quyền quyết định cho Tổng thống chứ không phải là Quốc hội trong một số trường hợp với lập luận rằng nếu quyền này trao cho Quốc hội thì trưng cầu ý dân sẽ bị biến thành công cụ không phải để giải quyết mâu thuẫn mà là công cụ của đấu tranh chính trị. Do đó, quyền trưng cầu ý dân ở những nước này không chỉ thuộc về cơ quan đại biểu dân cử mà còn thuộc về Tổng thống. Tổng thống ra quyết định việc trưng cầu ý dân sau khi nhận được quyết định thừa nhận tính hợp hiến của việc trưng cầu ý dân của Tòa án Hiến pháp.Quyết định trưng cầu ý dân được ban hành dưới hình thức sắc lệnh, trong đó ấn định ngày cụ thể trong thời hạn hai đến ba tháng kể từ ngày ra quyết định. Ba là, pháp luật Nga ngoài quy định vấn đề bắt buộc đưa ra trưng cầu dân ý như thông qua bản Hiến pháp mới thì còn quy định rõ những vấn đề không đưa ra trưng cầu dân ý, bao gồm: Sửa đổi quy chế các chủ thể của Liên bang Nga; rút ngắn hay gia hạn nhiệm kỳ của Tổng thống, của Hội đồng Liên bang, Đuma Quốc gia; bầu cử Tổng thống trước thời hạn; thông qua ngân sách Liên bang, sử