Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2000, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VŨ NGỌC PHÚC
XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS ĐOÀN ĐỨC LƢƠNG
HÀ NỘI - 2012
2. MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài....................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài..............................................................................2
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.........................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................4
5. Vấn đề nghiên cứu............................................................................................4
6. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................5
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn nghiên cứu ............................................................5
8. Cơ cấu của Luận văn ........................................................................................6
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON ................7
1.1. Khái niệm xác định cha, mẹ, con...................................................................7
1.1.1. Khái niệm cha, mẹ, con.................................................................................7
1.1.2. Khái niệm xác định cha, mẹ, con.................................................................11
1.1.3. Sơ lược lịch sử phát triển của chế định xác định cha,mẹ, con trong hệ
thống pháp luật Việt Nam ...........................................................................11
1.2. Ý nghĩa của chế định xác định cha, mẹ, con trong hệ thống pháp luật
Việt Nam ....................................................................................................21
Kết luận chƣơng 1 ...............................................................................................22
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ XÁC
ĐỊNH CHA, MẸ, CON .............................................................................23
2.1. Các căn cứ xác định cha, mẹ, con theo luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 ....23
2.1.1. Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp cha mẹ có hôn nhân hợp pháp......23
2.1.2. Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp cha mẹ không có hôn
nhân hợp pháp.............................................................................................30
2.1.3. Căn cứ xác định cha, mẹ, con theo phương pháp khoa học..........................33
3. 2.1.4. Căn cứ xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài ....................................39
2.1.5. Quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con..........................................................40
2.2. Thủ tục, trình tự và thẩm quyền giải quyết vấn đề xác nhận cha, mẹ, con........44
2.2.1. Thủ tục, trình tự và thẩm quyền giải quyết vấn đề xác nhận cha, mẹ, con
trong nước...................................................................................................45
2.2.2. Trình tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết vấn đề xác nhận cha, mẹ, con
có yếu tố nước ngoài...................................................................................51
Kết luận chƣơng 2 ...............................................................................................59
Chƣơng 3: THỰCTIỄN XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON VÀ MỘT SỐ KIẾNNGHỊ....61
3.1. Thực tiễn xác định cha, mẹ, con..................................................................61
3.1.1. Nhận xét về thực tiễn xác định cha, mẹ, con................................................61
3.1.2. Một số vụ việc về xác định cha, mẹ, con tiêu biểu.......................................62
3.2. Một số kiến nghị về chế định xác định cha, mẹ, con....................................75
Kết luận chƣơng 3 ...............................................................................................81
KẾT LUẬN..........................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................85
PHỤ LỤC
4. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời đại ngày nay, khi Việt Nam không ngừng hội nhập với nền kinh tế quốc
tế, các mối quan hệ xã hội ngày càng phát triển và phức tạp, đặc biệt là sự du nhập
và ảnh hưởng sâu rộng của các trào lưu văn hóa phương Tây vào cuộc sống chúng
ta. Khi chúng ta chưa chuẩn bị đủ “hành trang”, chúng ta sẽ bị “hòa tan” lúc nào
không hay biết, chúng ta bị mất đi cái riêng của chính mình và cứ tưởng bản thân
mình “hợp thời” trong phong cách “mới sao chép” từ đâu đó. Một trào lưu “sống
thử”, “sống vội”, “sống hoang tưởng” đang phát triển trong giới trẻ hiện nay, đặc
biệt tại các thành phố lớn do gia đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục và định
hướng cho các em đến nơi đến chốn, khiến các em bị mất phương hướng nên bị dụ
dỗ hoặc tự “lao đầu” vào những “cạm bẫy” để tìm niềm vui và phải trả giá rất đắt.
Hậu quả lớn nhất cho những sai lầm trên là sự ra đời của những đứa con không biết
cha hoặc mẹ chúng là ai vì chúng bị bỏ rơi hoặc xã hội sẽ có thêm những ông bố, bà
mẹ “con nít”, tức là những đứa trẻ vô tội đó có bố mẹ đang còn tuổi ăn tuổi chơi và
không biết làm việc gì, không thể tự lo cho bản thân mình huống gì là lo cho con.
Bên cạnh đó, hiện nay, có phát sinh nghề mới là “đẻ mướn” hay “mang thai
hộ” không những ở Việt Nam mà phụ nữ Việt Nam còn bị “bán” qua nước ngoài để
làm việc đó do người vợ không thể sinh con hoặc không thể sinh con trai; hoặc
những phụ nữ đơn thân có “mối tình một đêm” với một người đàn ông chỉ để có con
cho “đỡ buồn” mà không cần bất kỳ sự thừa nhận hay đòi hỏi gì từ người đàn ông
đó,... Một câu hỏi lớn đặt ra là những đứa trẻ vô tội kia sẽ sống và phát triển như thế
nào khi chúng không có cha hoặc không có mẹ hoặc là trẻ mồ côi sống lang thang
ngoài đường? Những tâm hồn “non nớt” đó phải đối mặt với dư luận xã hội như thế
nào về thân phận của chúng? Chúng sẽ trở thành những công dân tốt hay tội phạm?
Điểm chung của các trường hợp trên là những người cha, mẹ đó sau khi bỏ rơi hay
không thừa nhận đứa trẻ mới sinh ra kia là con mình nhưng sau một thời gian, họ
quay lại và muốn nhận cha-con hoặc mẹ-con hay đứa trẻ lớn lên và muốn đi tìm để
5. 2
nhận cha, mẹ của chúng dù còn sống hay đã chết. Đây là một sự kiện pháp lý quan
trọng ảnh hưởng đến cuộc đời của một con người, nhất là đối với quan hệ nhân thân
và tài sản như: quan hệ thừa kế, nuôi dưỡng,... Vì một đứa trẻ sinh ra hay một con
người nói chung trong một xã hội có giai cấp đều có quyền có “danh tính”, tức là
phải được khai sinh theo quy định của pháp luật. Điều này không chỉ là quyền và lợi
ích chính đáng của họ mà còn liên quan đến các chủ thể khác khi họ xác lập các
giao dịch dân sự trong cuộc sống. Điều quan trọng của vấn đề xác định cha, mẹ, con
chính là việc xác định quan hệ huyết thống giữa cha-con, mẹ-con càng trở nên phức
tạp hơn do sự phát triển của kinh tế-xã hội–y học trong việc cấy ghép phôi và thụ
tinh nhân tạo. Khi vấn đề trên được xác định rõ ràng thì nó là căn cứ quan trọng để
loại trừ sự ngộ nhận hay nhầm lẫn hay cố ý nhận cha-con, mẹ-con, nhất là trong các
trường hợp người được nhận là cha, mẹ, con có địa vị và tài sản nhất định trong xã
hội; đặc biệt, tránh trường hợp những người cùng huyết thống trong phạm vi ba đời
kết hôn với nhau, vi phạm luân thường đạo lý của người Việt Nam và trái pháp luật.
Nhận thức được rõ tính phức tạp của việc xác định cha, mẹ, con và những tranh
chấp liên quan trong đời sống thực tế, học viên mạnh dạn lựa chọn thực hiện đề tài
“Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2000”
để làm Luận văn Cao học Luật nhằm giải quyết có hệ thống và triệt để vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đề tài trên đã được khai thác, nghiên cứu một cách chung nhất
trong các Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình của các trường Đại học như: Đại
học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh hay các Khoa Luật,… nhằm
cung cấp cho sinh viên có cái nhìn sơ lược về vấn đề này. Ngoài ra, nó cũng là đối
tượng nghiên cứu trong một số bài nghiên cứu trên các Tạp chí chuyên ngành Luật
học hoặc Luận văn như: bài nghiên cứu “Một số suy nghĩ về nguyên tắc xác định
cha, mẹ và con trong giá thú theo pháp luật Việt Nam” của Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ
đăng trên Tạp chí Luật học số 5 năm 1999; “Vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ và
con” đăng trên Tạp chí Luật học số 3 năm 2003 và “Xác định cha, mẹ, con dưới góc
độ bình đẳng giới” đăng trên Tạp chí Luật học số 3 năm 2006 của Thạc sĩ Nguyễn
6. 3
Thị Lan; đặc biệt là Luận văn Thạc sĩ “Xác định cha, mẹ, con theo Luật Hôn nhân
và Gia đình Việt Nam- Cơ sở lí luận và thực tiễn” của Nguyễn Thị Lan- Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2002, Luận án Tiến sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật
Việt Nam” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Lan-Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010.
Các công trình khoa học trên là những tài liệu tham khảo có giá trị nghiên
cứu về vấn đề xác định cha, mẹ, con theo Luật Hôn nhân và Gia đình. Để nghiên
cứu và lý giải thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn (trong phạm vi cả nước nói
chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng), tác giả kế thừa một số vấn đề lý luận của
các tài liệu trên với mục đích nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc xác
định cha, mẹ, con theo Luật Hôn nhân và Gia đình.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài này đã được nghiên cứu khá nhiều, thậm chí là Luận án Tiến sĩ. Do
đó, để đề tài đánh dấu sự khác biệt, mục tiêu tổng quát của đề tài là đi sâu nghiên
cứu nó trên sự phân tích, so sánh, đối chiếu những quy định của pháp luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000 với những quy định của pháp luật trước đó ở Việt Nam cũng
như ở nước ngoài; nghiên cứu thực trạng áp dụng những quy định về xác định cha,
mẹ, con theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 tại Tòa án nhân dân Thành phố
Huế, Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân thị trấn Thuận An tỉnh Thừa Thiên Huế góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát, đề tài được xác định như sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về xác định cha, mẹ, con trong Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000, nội dung các quy định liên quan đến vấn đề đó.
- So sánh, đối chiếu vấn đề xác định cha, mẹ, con trước và sau khi có Luật
Hôn nhân và Gia đình với tư cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp
luật Việt Nam dựa trên những quy định của pháp luật cổ, của các Bộ luật Dân sự
thời Pháp thuộc, của pháp luật Hôn nhân và Gia đình hiện đại, của pháp luật một số
nước phát triển hiện nay. Từ đó, đưa ra quá trình phát triển xuyên suốt của vấn đề
xác định cha, mẹ, con một cách hệ thống, tổng quát, dễ hiểu.
7. 4
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về vấn đề trên tại Ủy
ban nhân dân thị trấn Thuận An, Sở Tư pháp, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên
Huế, Tòa án nhân dân Thành phố Huế từ năm 2003 đến 2010.
- Đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về xác định cha, mẹ, con.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Cơ sỡ lí luận của vấn đề xác định cha, mẹ, con và thực tiễn áp dụng pháp
luật để giải quyết những vụ việc về xác định cha, mẹ, con trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi của Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 không chỉ những quy định pháp luật về xác định cha, mẹ, con trong nước
mà còn những quy định pháp luật xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài.
5. Vấn đề nghiên cứu
Luận văn giải quyết được những vấn đề sau:
- Xác định được hệ thống các khái niệm về “cha”, “mẹ”, “con”, “xác định
cha, mẹ, con” và một số khái niệm liên quan khác.
- Căn cứ vào pháp luật thực định về xác định cha, con và mẹ, con và có sự
so sánh với các thời kỳ ở nước ta để làm nổi bật tính kế thừa và hiện đại của luật
thực định về vấn đề này.
- Có sự so sánh với pháp luật của một số nước như: Pháp, Đức, Nhật Bản để
làm nổi bật tính hiện đại và độc lập của pháp luật Việt Nam quy định về xác định
cha, mẹ, con.
- Có sự so sánh pháp luật cổ và thực định giữa Việt Nam và nước ngoài để
làm nổi bật tiến trình phát triển của chế định xác định cha, mẹ, con một cách thống
nhất và xuyên suốt chiều dài lịch sử.
- Chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành về việc xác định cha-con,
mẹ-con.
8. 5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng, lý luận về nhận thức triết học Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề cải cách
tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài là sự sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của nguyên tắc xác định cha,
mẹ, con, để đưa ra những khái niệm cơ bản trong nguyên tắc xác định cha, mẹ, con
như: khái niệm “cha”, “mẹ”, “con trong giá thú”, “ con ngoài giá thú”, “xác định
cha, mẹ, con”,… và đưa ra những sự so sánh, đối chiếu giữa Luật Hôn nhân và Gia
đình của Việt Nam với một số nước trên thế giới như: Bộ luật Dân sự Pháp, Bộ luật
Dân sự Nhật Bản, Bộ luật Dân sự Đức.
Đồng thời, nghiên cứu quá trình áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 về vấn đề trên từ năm 2003 đến 2010 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Thuận An
và Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế; Tòa án nhân dân Thành phố Huế để rút ra
những vướng mắc, mâu thuẫn, chồng chéo trong hoạt động áp dụng pháp luật giữa
cơ quan Hành pháp và cơ quan Tư pháp nói chung và hoạt động xét xử tại Tòa án
nhân dân Thành phố Huế nói riêng. Từ đó, rút ra những kiến nghị về mặt lí luận để
khắc phục cho những vướng mắc trên.
Luận văn sẽ là cơ sở khoa học nhằm bổ sung những thiếu xót, hạn chế của
các bài nghiên cứu hay Luận văn trước đó và là một nền tảng lí luận cho việc
nghiên cứu vấn đề trên sau này; đồng thời, nó sẽ cùng với những bài nghiên cứu hay
những Luận văn trước bổ trợ cho nhau nhằm tạo ra một hệ thống kiến thức rõ ràng,
chuyên sâu, hoàn chỉnh việc nghiên cứu về vấn đề này hơn.
9. 6
8. Cơ cấu của Luận văn
Luận văn gồm có các phần sau:
+ Mở đầu
+ Chương 1: Khái quát chung về xác định cha, mẹ, con
+ Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về xác định cha, mẹ, con
+ Chương 3: Thực tiễn xác định cha, mẹ, con và một số kiến nghị
+ Kết luận.
10. 7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON
1.1. Khái niệm xác định cha, mẹ, con
1.1.1. Khái niệm cha, mẹ, con
Để việc xác định cha, mẹ, con có căn cứ pháp lý thì trước hết phải xác định
rõ một người thế nào được gọi là cha, là mẹ, là con của nhau.
1.1.1.1. Khái niệm cha, mẹ
Pháp luật Dân sự nói chung và pháp luật Hôn nhân và Gia đình nói riêng của
Việt Nam không có văn bản nào quy định về khái niệm “cha” mà nó chỉ được định
nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt như sau: “người đàn ông có con, trong quan hệ với
con” [61, tr.67].
Lần đầu tiên khái niệm người cha được quy định ngay trong Bộ luật Dân sự
Đức được ban hành năm 2002, được sửa đổi năm 2009 định nghĩa cha là “The
father of a child is the man
1. Who is married to the mother of the child at the date of the birth,
2. Who has acknowledged paternity or
3. Whose paternity has been judicially established under section 1600d or
section 182(1) of the Act on the Procedure in Family Matters and in Matters of non-
contentious Jurisdiction” (Section 1592) [63, tr.297].
Tạm dịch sang tiếng Việt như sau:
“Cha của một đứa trẻ là một người:
1. Người kết hôn với mẹ của đứa trẻ vào ngày sinh,
2. Người đã công nhận quan hệ cha-con hoặc
3. Quan hệ cha-con của người mà đã được thiết lập một cách hợp pháp theo
Mục 1600d hoặc Mục 182(1) của Đạo luật về thủ tục những vấn đề gia đình và vấn
đề của thẩm quyền không tranh cãi” (Mục 1592).
Pháp luật Dân sự Đức dự đoán quan hệ cha-con rằng: người đàn ông có quan
hệ hôn nhân với mẹ của nó tại thời điểm mà nó được sinh ra là cha của nó, thậm chí,
11. 8
nếu người mẹ của đứa trẻ có thai với một người đàn ông khác trước khi kết hôn với
người đàn ông này nhưng chỉ cần tại thời điểm nó được sinh ra, ông ấy là chồng của
mẹ nó. Tức là, vào ngày đứa trẻ được sinh ra, người đàn ông làm chồng của mẹ đứa
trẻ chính là cha của nó.
Mặt khác, pháp luật cũng không quy định về “cha đẻ”, “cha không chính
thức” và “cha chính thức”. Vì theo quy định của pháp luật thì có những người cha
được pháp luật công nhận là cha chính thức của một đứa trẻ nhưng không có quan
hệ huyết thống với nó do người đó có quan hệ hôn nhân hợp pháp với mẹ của đứa
trẻ và công nhận nó là con của họ. Như vậy, người cha đẻ có thể là người cha chính
thức hoặc không chính thức và ngược lại. Đây là một thiếu sót của pháp luật Hôn
nhân và Gia đình.
Vậy, theo ý kiến của chúng tôi, cha của một đứa trẻ là “người có quan hệ
huyết thống với đứa trẻ đó hoặc được pháp luật công nhận”.
Cũng như trường hợp trên, khái niệm mẹ chưa được hệ thống pháp luật nước
ta đưa ra định nghĩa và chỉ có trong các từ điển Tiếng Việt. Theo đó, mẹ là “người
đàn bà sinh ra mình” [61, tr.315]. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự Đức năm 2002 cũng
quy định: “The mother of a child is the woman who gave birth to it” (Section 1591)
[63, tr.297], tạm dịch là: “Mẹ của một đứa trẻ là người sinh ra nó” (Mục 1591). Vậy
một câu hỏi được đặt ra là: “Có phải tất cả những người đàn bà sinh ra mình đều
được gọi là mẹ không?”. Có nhiều khả năng xảy ra như:
Pháp luật một số nước cho phép mang thai hộ nên người mang thai và sinh ra
đứa trẻ lại không phải là mẹ của đứa trẻ mà thực chất là người phụ nữ khác.
Có những trường hợp, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ và bỏ rơi nó cho người
cha của nó ngay sau khi sinh con vì nhiều lý do khác nhau. Ví dụ: chị A sau khi
sinh con đã để lại con cho bố của nó là anh B. Hai người không có đăng ký kết
hôn và chưa làm Giấy Khai sinh cho con. Sau đó, anh B lấy người phụ nữ khác
là chị C làm vợ, đồng thời ghi tên người mẹ là chị C trong Giấy Khai sinh của
con. Tức là, dù chị A là người sinh ra đứa trẻ nhưng người mẹ được pháp luật
công nhận là chị C.
12. 9
Trường hợp khác là sau khi sinh con ngoài ý muốn và bị người đàn ông là
cha của đứa trẻ bỏ rơi, người mẹ không muốn hủy hoại tương lai của mình nên đã
nhờ một trong những người thân của mình đứng ra làm cha mẹ của đứa trẻ và ghi
vào Giấy Khai sinh của nó.
Như vậy, trong các trường hợp trên, người đàn bà sinh ra đứa trẻ không phải
là mẹ của nó về mặt pháp lý. Do đó, chúng ta có các khái niệm cần được định nghĩa
gồm: mẹ, mẹ đẻ (mẹ ruột), mẹ chính thức, mẹ không chính thức. Theo chúng tôi,
mẹ đẻ là “người phụ nữ có cùng huyết thống với đứa con”, mẹ chính thức là “người
phụ nữ được pháp luật công nhận trong Giấy Khai sinh của đứa con”, mẹ không
chính thức là “mẹ đẻ nhưng không có tên trong Giấy Khai sinh của đứa con”. Các
khái niệm trên có quan hệ mật thiết với nhau. Mẹ chính thức có thể hoặc không phải
là mẹ đẻ và ngược lại. Mẹ không chính thức là mẹ đẻ. Vậy, theo chúng tôi, mẹ là
“người có quan hệ huyết thống với đứa con hoặc được pháp luật công nhận”.
1.1.1.2. Khái niệm con
Liên quan đến vấn đề xác định cha, mẹ, con trên phương diện pháp lý gồm
bốn khái niệm về con như: con trong giá thú, con ngoài giá thú, con chung và con
riêng. Điều cốt yếu của vấn đề xác định con cho cha mẹ gồm hai bước là xác định
đứa trẻ đó có phải là con chung của họ không, và nó là con trong hay ngoài giá thú
của họ. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chỉ quy định con chung của vợ chồng
chứ không đưa ra ba khái niệm còn lại. Theo đó, con chung là “con sinh ra trong
thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ
chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là
con chung của vợ chồng” (Khoản 1 Điều 63 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000).
Như vậy, mặc nhiên, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 khẳng định việc xác
định con cho cha mẹ chính là xác định con chung của vợ chồng. Đây là một khái
niệm mang tính chất bình đẳng giới vì dù con được sinh ra là trai hay gái đều có vai
trò, vị trí, quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với cha mẹ của chúng trong gia đình.
“Con riêng của vợ là con mà chỉ người vợ là mẹ đẻ của cháu bé còn người
chồng là bố dượng. Con riêng của chồng là con mà chỉ người chồng là cha đẻ của
13. 10
cháu bé còn người vợ là mẹ kế.” [50, tr.83]. Trong đó, Từ điển Tiếng Việt và lạc
Việt đưa ra định nghĩa về “bố dượng” là “chồng sau của mẹ” [55] hay “bố ghẻ” là
“người làm chồng của mẹ (đối với đứa con khi cha ruột đã chết hoặc ly dị)” [61,
tr.55]; “mẹ kế” là “người phụ nữ trong quan hệ với con người vợ trước của chồng”
[55] hoặc “mẹ ghẻ” là “người vợ kế của cha” [55],[61, tr.142]. Khái niệm trên quá
dài và rườm rà. Thiết nghĩ, chúng ta không nên sử dụng khái niệm trên vì nó có
nhắc đến bố dượng và mẹ kế, là những người không có quan hệ huyết thống với đứa
trẻ nhưng không đưa ra định nghĩa về hai khái niệm trên. Do đó, theo chúng tôi, con
riêng “là con đẻ của vợ hoặc chồng”, rất ngắn gọn và súc tích.
Con trong giá thú là “con mà cha mẹ được pháp luật công nhận là vợ chồng
vì việc kết hôn của cha mẹ được đăng ký và ghi vào sổ đăng ký kết hôn” [50, tr.94].
Quy định trên không những dài mà còn thiếu vì có những trường hợp cha mẹ của
đứa trẻ không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng đứa trẻ đó vẫn
được pháp luật công nhận là con trong giá thú theo quy định của Nghị quyết
35/2000/QH10. Do đó, theo chúng tôi, con trong giá thú là “con của cha mẹ có hôn
nhân được pháp luật công nhận là hợp pháp”.
Con ngoài giá thú là “con mà cha mẹ không được pháp luật công nhận là vợ
chồng” [50, tr.95]. Theo chúng tôi, khi chúng ta đã đưa ra định nghĩa về con trong
giá thú thì con ngoài giá thú là “con không phải là con trong giá thú”. Định nghĩa
này mang tính đơn giản và tổng quát hơn vì theo suy luận loại trừ, khi chúng ta xác
định được các trường hợp mà một đứa trẻ là con trong giá thú thì những trường hợp
còn lại sẽ được coi là con ngoài giá thú. Hiện nay, các quan hệ xã hội phát triển
không ngừng mà pháp luật không thể lường trước hết các trường hợp có thể xảy ra
nên khi xuất hiện các quan hệ xã hội mới mà chưa có pháp luật điều chỉnh thì Quốc
hội lại yêu cầu sửa đổi, bổ sung, thậm chí là làm mới lại toàn bộ. Điều đó sẽ rất tốn
kém về thời gian, ngân sách Nhà nước và công sức của những nhà làm luật. Nhưng
nếu theo định nghĩa trên thì chúng ta không những có thể tránh trường hợp bỏ sót về
xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú mà còn có rất nhiều lợi ích khác.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 2 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì
con trong và ngoài giá thú bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ. Đồng thời,
14. 11
bốn khái niệm trên có quan hệ mật thiết với nhau. Con chung và con riêng có thể là
con trong hoặc ngoài giá thú của cha, mẹ. Con trong hoặc ngoài giá thú có thể là
con chung hoặc con riêng của cha, mẹ. Ngoài ra, trong Thông tư số 81-TANDTC
ngày 24/7/1981 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn tranh chấp về thừa kế có
đưa ra thêm một khái niệm mới so với pháp luật thời kỳ đó là con đẻ “gồm có con
chung và con riêng, kể cả người con được thụ thai khi người bố còn sống và sinh ra
sau khi người bố chết không quá ba trăm ngày. Con riêng gồm con trong giá thú và
con ngoài giá thú (nếu có)” (Điều 1 phần III). Nhưng theo chúng tôi, khái niệm con
có thể được định nghĩa như sau: “con là đứa trẻ có cùng huyết thống với cha mẹ của
nó”. Nó có thể bao hàm hết các trường hợp về con chung, con riêng, con trong giá
thú và con ngoài giá thú theo quy định của pháp luật vì huyết thống là cơ sở khoa
học quan trọng và có ý nghĩa nhất để xác định cha, mẹ, con.
1.1.2. Khái niệm xác định cha, mẹ, con
Xác định cha, mẹ, con là sự kết hợp của Y học và Pháp luật trong quá trình
xem xét, đánh giá mối quan hệ tưởng chừng như đơn giản nhưng khá phức tạp: cha-
con, mẹ-con. Pháp luật phải dựa vào sự hỗ trợ của những lý thuyết về di truyền,
sinh sản của Y học cho sự suy đoán mối quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con
cái của họ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và những người thân thích
của họ. Dựa vào sự kiện pháp lý “sinh đẻ” của người phụ nữ, ta có thể suy đoán
quan hệ mẹ-con còn quan hệ cha-con thì phải dựa vào nguyên tắc suy đoán pháp lý
theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và sự can thiệp của Y học
(nếu có) để xác định quan hệ huyết thống giữa họ.
Tóm lại, theo quan điểm Luật học, “Xác định cha, mẹ, con” là một chế định
pháp luật gồm các quy phạm pháp luật quy định các căn cứ, trình tự và thủ tục
pháp lý về xác định cha, mẹ, con nhằm điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể liên quan theo đúng quy định của pháp luật”.
1.1.3. Sơ lược lịch sử phát triển của chế định xác định cha,mẹ, con trong
hệ thống pháp luật Việt Nam
Kế thừa sự nghiên cứu của các Luận văn Cao học và Luận án Tiến sĩ cũng
như các bài nghiên cứu liên quan đến đề tài xác định cha, mẹ, con, chúng tôi không
15. 12
nghiên cứu sự phát triển của chế định này từ thời kỳ phong kiến đến nay mà nghiên
cứu nó với tư cách là một bộ phận của ngành luật Hôn nhân và Gia đình. Tức là,
chúng tôi không chia nhỏ sự phát triển của nó ra từng thời kỳ để nghiên cứu mà
nghiên cứu nó với hai mốc phát triển điển hình: trước và sau khi có ngành luật Hôn
nhân và Gia đình, một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam gồm
tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Vì
vậy, hai giai đoạn phát triển chính của chế định xác định cha, mẹ, con như sau:
1.1.3.1. Trước khi có ngành luật Hôn nhân và Gia đình
Trước khi có ngành Luật Hôn nhân và Gia đình, vấn đề xác định cha, mẹ,
con chỉ là những điều luật, là một phần trong chế định Hôn nhân thuộc Bộ luật Dân
sự và nó có những tên khác nhau qua các thời kỳ lịch sử.
Các văn bản pháp luật điển hình của thời kỳ này gồm:
- Quốc triều hình luật hay còn gọi Bộ luật Hồng Đức
- Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi Bộ luật Gia Long
- Bộ Dân luật giản yếu năm 1883
- Bộ luật Dân sự Bắc kỳ năm 1931
- Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật từ năm 1936 đến 1939
- Luật Gia đình năm 1959
- Sắc luật số 15/64 năm 1964
- Dân luật Sài Gòn năm 1972
Vấn đề xác định cha, mẹ, con không được quy định trong hai Bộ luật Hồng
Đức và Gia Long một cách trực tiếp mà chỉ được quy định gián tiếp bằng một điều
luật rất khắt khe đối với tội thông gian của người phụ nữ-người vợ (Điều 401 Bộ
luật Hồng Đức và Điều 322 Bộ luật Gia Long) và do sự ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo mà chế độ phụ hệ ngự trị đời sống tinh thần và vật chất của người dân.
Người đàn ông, người chồng được làm tất cả những gì họ muốn, được lấy “năm thê
bảy thiếp” nhưng người phụ nữ, người vợ phải phụng sự trung thành tuyệt đối với
họ trong gia đình. Họ không được là chính mình, không được sống cho bản thân
mình mà phải:
16. 13
“Tại gia tòng phụ
Xuất giá tòng phu
Phu tử tòng tử”.
Do đó, khi một đứa trẻ được sinh ra thì nó sẽ được mang họ cha, tức là việc
xác định cha, mẹ, con được thực hiện ngay lập tức theo đạo đức và phong tục tập
quán. Nếu mẹ của nó bị phát hiện là không chung thủy, không làm tròn đạo lý với
chồng và gia đình chồng như ngoại tình thì họ sẽ mất hết mọi quyền lợi về vật chất
và tinh thần; đồng thời sẽ bị cạo đầu, bôi vôi, thả trôi sông. Còn đứa trẻ bị nghi ngờ
là con ngoài giá thú cũng không có cuộc sống tốt đẹp gì, thậm chí, bị xem như nô lệ
trong gia đình. Đây là quan niệm, sự phân biệt đối xử rất nặng nề và nghiệt ngã đối
với những hành vi bị xem là “trái luân thường đạo lý” của Nho giáo.
Ngoài ra, theo cách truyền thống, người ta dùng giọt máu để xác định huyết
thống như sau: “Hài cốt của cha mẹ thất lạc ở nơi khác, con cái muốn nhận biết thì
trích máu ở cơ thể mình nhỏ lên xương cốt; nếu là xương cốt của thân sinh thì máu
ngầm vào trong xương, không phải thì máu không ngấm vào. Con đẻ, anh chị em
ruột, nếu từ nhỏ phân ly, muốn nhận nhau thật khó phân biệt thật giả thì bắt mỗi
người trích máu ra nhỏ vào trong một bát nước, nếu là ruột thịt thì máu ngưng kết
làm một, không phải thì không ngưng kết. Nhưng máu tươi gặp muối và dấm thì
không máu nào không ngưng kết, cho nên lấy muối và dấm sát vào bát từ trước thì
sẽ thực hiện được gian trá. Phàm khi trích máu trước hết phải rửa sạch bát ngay
trước mặt hoặc lấy bát mới từ nơi khác, thì sẽ vạch được mưu gian.
Cũng có cách hợp huyết, hai người cùng trích máu nhỏ vào trong nước, nếu
là mẹ con, cha con, vợ chồng thì máu sẽ hợp lại, không hợp lại thì không có quan hệ
thân thuộc. Xương cốt đã rửa qua nước muối, thì tuy thực là cha con lấy máu nhỏ
vào cũng không ngấm vào xương, đấy là một cách gian trá không thể không dự
phòng” (“Trích chữ nhỏ huyết” trong “Nhân mạng tra nghiệm pháp thuộc thời Lê”)
[26, tr.285-286]. Đây có thể xem là một kinh nghiệm dân gian của người xưa nhưng
xét trên góc độ y học thì không thể chính xác được vì có thể xác định được quan hệ
huyết thống nhưng không thể xác định quan hệ vợ chồng. Điều này rất vô lý.
17. 14
Sự phát triển của các quan hệ xã hội và sự du nhập của văn hóa phương Tây,
vấn đề xác định cha, mẹ, con đã lần lượt được quy định trong các Bộ luật Dân sự
của thời kỳ Pháp thuộc và Ngụy quyền. Pháp luật dưới hai chế độ này chỉ quy định
vấn đề xác định quan hệ cha-con vì theo quan điểm thời kỳ đó, quan hệ mẹ-con là
đương nhiên xác định bằng sự kiện sinh đẻ nên không có gì phải bận tâm còn quan
hệ cha-con thì phải suy đoán. Để có cơ sở cho việc xác định cha-con, pháp luật thời
kỳ này đã đưa ra những khái niệm cơ bản với những tên gọi khác nhau như:
Con chính (trong thời kỳ Pháp thuộc) hay tử hệ chính thức (dưới chế độ
Ngụy quyền) là con được sinh ra do người mẹ có giá thú chính thức hay trong thời
kỳ hôn thú. Ngược lại là con hoang hay con biệt tình hay tử hệ ngoại hôn. Như vậy,
ranh giới giữa con chính và con hoang chính là “giá thú” hay “hôn thú”. Dù được
gọi với nhưng tên khác nhau nhưng theo tôi, đó là “sự kết hợp giữa một người đàn
ông và một người đàn bà để xây dựng một gia đình nhằm duy trì và phát triển nòi
giống một cách hợp pháp”.
+ Xác định quan hệ cha-con chính thức:
Vậy làm thế nào để xác định quan hệ cha-con chính thức? Pháp luật của hai chế
độ này đều quy định: chỉ những đứa trẻ được sinh ra sau một trăm tám mươi ngày kể
từ ngày hôn thú bắt đầu hoặc không quá ba trăm ngày sau khi hôn thú kết thúc. Đây là
khoảng thời gian tối thiểu và tối đa để một đứa trẻ được thụ thai và ra đời. “Chứng thư
khai sinh” là bằng chứng để chứng minh tư cách là con chính của đứa trẻ. Tuy nhiên,
pháp luật cũng quy định những trường hợp ngoại lệ như: nếu đứa trẻ được sinh ra
trước một trăm tám mươi ngày kể từ ngày hôn thú bắt đầu nhưng được người chồng
thừa nhận; hoặc người vợ có thai trước khi có hôn thú; hoặc người chồng có mặt khi
lập hay ký tên vào chứng thư khai sinh của đứa trẻ thì nó đương nhiên là con chính
của người chồng, người cha đó. Họ không có quyền chối cãi quan hệ cha-con này.
Bên cạnh đó, người chồng, hoặc những người thừa kế của họ hoặc những
người bị người con tranh chấp quyền thừa kế có quyền khởi kiện để chối từ quan hệ
cha-con chính thức với những đứa trẻ được sinh ra trước một trăm tám mươi ngày
khi hôn thú bắt đầu hoặc sau ba trăm ngày khi hôn thú kết thúc, thậm chí, những
18. 15
đứa trẻ được sinh ra trong thời kỳ hôn thú nhưng họ có nghĩa vụ chứng minh đứa
con đó không phải là con chính của người chồng như: trong khoảng thời gian đứa
trẻ được thụ thai, người chồng không hề gần gũi với vợ vì xa cách, tai nạn hay
những nguyên nhân khác đối với trường hợp đứa trẻ được sinh ra trong thời kỳ hôn
thú. Đối với hai trường hợp còn lại thì người chồng hay những người có liên quan
có thể dễ dàng phủ nhận quan hệ cha-con như: người chồng không hề sống chung
với mẹ của đứa trẻ hoặc nghi ngờ sự chung thủy của người mẹ của đứa trẻ.
Thời hiệu khởi kiện cho trường hợp trên là một tháng (thời kỳ Pháp thuộc) hoặc
hai tháng (chế độ Ngụy quyền) từ sự kiện sinh đẻ; hai tháng kể từ khi người chồng đi
vắng trở về nhà hoặc từ khi phát hiện có sự giấu diếm sự kiện sinh đẻ hoặc từ khi phát
hiện bị mắc lừa; ba tháng kể từ ngày biết việc sinh đẻ hoặc hai tháng kể từ khi bị đứa trẻ
tranh chấp di sản thừa kế đối với trường hợp những người được quyền khởi kiện thay
người chồng. Nếu Tòa án phủ nhận quan hệ cha-con chính thức bằng bản án có hiệu lực
pháp luật thì họ tên người cha sẽ bị gạch trong chứng thư khai sinh của đứa trẻ.
Pháp luật chỉ dành cho cha có quyền từ chối quan hệ cha-con còn người con
thì không có quyền này. Điều này có thể xem là một thiếu xót của pháp luật nhưng
đó cũng là sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng phụ quyền đã ăn sâu bám rể vào tư
tưởng, truyền thống của người Việt Nam.
+ Xác định quan hệ cha, mẹ và con hoang:
Căn cứ để xác nhận con hoang là chứng thư khai sinh hoặc chứng thư khai
nhận. Pháp luật dưới hai thời kỳ này vẫn dành cho con hoang một quy định rất khắt
khe, thậm chí vô tình. Con hoang gồm con loạn luân, con ngoại tình hoặc con của cha
mẹ chưa có hôn thú. Riêng đối với con ngoại tình và con loạn luân thì không được
nhận cha mẹ và nếu hộ lại có lỡ ghi vào chứng thư khai sinh thì nó bị vô hiệu. Pháp
luật đã tước bỏ quyền được có một gia đình hạnh phúc như bao đứa trẻ khác của con
loạn luân và con ngoại tình dù chúng hoàn toàn vô tội và đây là tình máu mủ thiêng
liêng không thể tách rời và không ai có quyền tước bỏ. Xã hội dành cho chúng một sự
khinh rẻ, hất hủi và pháp luật không cho chúng có quyền sống như một con người
thật sự, đẩy chúng vào con đường vô gia cư, vô gia đình. Vậy làm sao chúng có thể
19. 16
sống trong cuộc đời đầy rẫy sự khinh miệt ngay từ khi mới chào đời, chúng sẽ trở
thành người tốt hay phạm tội? Sở dĩ có các quy định trên là do hệ thống pháp luật bị
ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo nên các nhà làm luật luôn bảo vệ sự trọn
vẹn, bền vững và hạnh phúc của gia đình, không cho phép những đứa con đó làm ô
uế thanh danh của gia đình và dòng tộc mặc dù đó là lỗi lầm của cha mẹ chúng. Tuy
nhiên, pháp luật của chế độ Ngụy quyền cho phép con ngoại tình có thể nhận cha
hoặc mẹ nếu họ còn độc thân (Điều 223 Bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972).
Đối với con hoang được sinh ra do cha mẹ chưa có hôn thú có thể được cha
mẹ xác nhận là con chính nếu sau đó, họ có hôn thú nhưng khi khai hôn thú thì họ
đồng thời phải khai nhận con hoang đó là con chính của họ. Hay nói cách khác, hôn
thú của cha mẹ là giải pháp duy nhất để con hoang trở thành con chính được sống
với tư cách của một “con người”, có đầy đủ mọi quyền lợi và nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật.
Làm thế nào để tìm cha, mẹ cho con hoang? Nếu muốn tìm cha cho con
hoang thì người con đó hoặc người mẹ, hoặc người giám hộ của đứa con (trong
trường hợp đặc biệt) phải khởi kiện Tòa án để truy tìm cha cho con và chính họ phải
cung cấp chứng cứ chứng minh đứa con đó đích thực là con của người đàn ông
được nhận là cha của đứa trẻ. Tương tự đối với trường hợp khởi kiện truy tìm mẹ
cho con hoang, chẳng hạn như: “khi người đàn bà bị bắt đem đi, hoặc bị hiếp dâm
mà thời kỳ bị bắt, bị hiếp dâm ấy lại đúng vào lúc thụ thai;… khi người đàn ông và
người đàn bà đã ăn ở, tư tình ra mặt với nhau trong thời kỳ thụ thai theo luật
định…” (Điều 175 Bộ Dân luật Bắc kỳ) [17, tr.21]. Thời hiệu khởi kiện là hai năm
trong trường hợp người con hoang đứng đơn kể từ khi trưởng thành; nếu mẹ hoặc
người giám hộ đứng đơn thì thời hiệu là hai năm kể từ khi sinh đẻ (truy tìm cha);
nếu người cha hoặc người giám hộ đứng đơn thì thời hiệu là một năm kể từ khi sinh
đẻ (truy tìm mẹ).
Tóm lại, các quy định của pháp luật về xác định cha, mẹ, con trong giai đoạn
này tuy còn ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến của Nho giáo nhưng cũng có những
điểm tiến bộ, là sự giao thoa giữa văn hóa phương Đông và phương Tây do hoàn
cảnh lịch sử của thời kỳ này.
20. 17
1.1.3.2. Từ khi có ngành Luật Hôn nhân và Gia đình
Theo Nghị quyết về vấn đề Hôn nhân và Gia đình ngày 14/12/1958 của Quốc
hội yêu cầu Chính phủ “nghiên cứu thảo một đạo luật về hôn nhân và gia đình để
trình Quốc hội xem xét…” đánh dấu một bước phát triển đột phá cho hệ thống lập
pháp nước ta trong thời kỳ đầu xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ
này có nhiều văn bản quy định về vấn đề Hôn nhân và Gia đình nói chung và vấn đề
xác định cha, mẹ, con nói riêng.
Các văn bản quy định chung gồm:
- Sắc lệnh 97 ngày 22/5/1950.
- Hiến pháp năm 1946.
- Hiến pháp năm 1959.
- Hiến pháp năm 1980.
- Hiến pháp năm 1992.
Các văn bản quy định cụ thể gồm:
- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959.
- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
- Bộ luật Dân sự năm 1995.
- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
- Bộ luật Dân sự năm 2005.
- Và các văn bản dưới luật có liên quan.
Vấn đề xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật như sau:
Thứ nhất, xác định cha, mẹ, con trong Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 1959
Ngay sau khi giành được độc lập, Quốc hội Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã ban hành Hiến pháp đầu tiên vào năm 1946 để điều chỉnh các quan hệ
đời sống xã hội, trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình. Đây cũng là cơ sở để
Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh 97 ngày 22/5/1950 để sửa đổi một số quy
định trong Dân luật, trong đó có ba điều liên quan đến vấn đề xác định cha, mẹ, con
(Điều 3, 4 và 9) nhưng nó chưa quy định thành một chế định cụ thể mà vẫn áp dụng
21. 18
các quy định của các văn bản luật thời kỳ trước. Đặc biệt, Sắc lệnh này gọi “con
hoang vô thừa nhận” thay cho những các tên gọi có nghĩa tương tự trước đây (Điều
9) và quy định thời gian mang thai tối đa là mười tháng (Điều 3). Do đó, người vợ
góa chỉ được lấy chồng sau mười tháng kể từ khi chồng chết hoặc phải chứng minh
họ không có thai hoặc đã có thai với người chồng trước để đảm bảo không nhầm lẫn
về quan hệ cha-con sau này. Đây chính là cơ sở để Quốc hội yêu cầu Chính phủ
soạn thảo một Đạo luật Hôn nhân và Gia đình vào năm 1958.
Năm 1959 là một mốc thời gian quan trọng của ngành lập pháp nước ta vì
ngay trong kỳ họp của Quốc hội khóa I, hai đạo luật quan trọng đã được Quốc hội
thông qua là Luật Hôn nhân và Gia đình ngày 29/12 và bản Hiến pháp thứ hai của
nước ta ngày 31/12. Tuy nhiên, vấn đề xác định cha, mẹ, con chưa được quy định
thành một chế định cụ thể mà vẫn chỉ là các điều luật nhỏ trong Chương IV “Quan
hệ cha mẹ và con cái” của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959. Theo đó, khái
niệm “con chính thức” và “con ngoài giá thú” đã được sử dụng nhưng không có
phần định nghĩa để giải thích. Mặc dù vậy, pháp luật đã ghi nhận quyền bình đẳng
giữa chúng (Điều 23). Nếu việc nhận cha, mẹ, con ngoài giá thú của chính họ hay
của “người thay mặt” (thay cho người giám hộ) cho trẻ chưa thành niên phải khai
nhận tại Ủy ban hành chính cơ sở trong trường hợp không có tranh chấp và tại Tòa
án khi có tranh chấp (Điều 21,22). Điểm tiến bộ nhất của Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 1959 là không quy định về thời hạn xác định cha, mẹ, con (tức là vô hạn)
vì đây là quan hệ đặc biệt thiêng liêng của tình máu mủ ruột thịt.
Thứ hai, xác định cha, mẹ, con trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986
Với sự phát triển của thời đại và nước ta đã giành được độc lập và thống nhất
hoàn toàn vào năm 1975, bản Hiến pháp thứ ba của Nhà nước ta đã được Quốc hội
ban hành vào ngày 18/12/1980 để phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc đó, trong đó
có quy định các quyền có liên quan đến hôn nhân và gia đình. Đồng thời, Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 1986 cũng được ban hành ngày 29/2/1986 để thay thế, kế thừa
và phát triển những thành tựu lập pháp của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 đã giành toàn bộ Chương V cho chế
22. 19
định xác định cha, mẹ, con gồm sáu điều luật. Các khái niệm là “con chung”, “con
trong giá thú” và “con ngoài giá thú” đã được quy định trong luật nhưng cũng
không định nghĩa về con trong và ngoài giá thú. Quy định về xác định cha, mẹ, con
sau này cũng được quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 1995 như sau:
“1. Người không được nhận là cha, mẹ hoặc là con của người khác có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mình là cha, mẹ hoặc là con của
người đó theo quy định của pháp luật về Hôn nhân và Gia đình và pháp luật về hộ tịch.
2. Người được nhận là cha, mẹ hoặc là con của người khác có quyền yêu cầu
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mình không phải là cha, mẹ hoặc là con
của người đó theo quy định của pháp luật về Hôn nhân và Gia đình và pháp luật về
hộ tịch”.
Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 chỉ cho phép cha, mẹ có
quyền từ chối nhận cha, mẹ, con mà không cho đứa con quyền này. Nếu muốn từ
chối quan hệ trên thì họ phải có chứng cứ chứng minh nhưng pháp luật không quy
định về chứng cứ cho trường hợp này.
Ngoài việc người cha, mẹ, con có quyền xin xác nhận một người là cha, là
mẹ, là con của một người thì pháp luật còn quy định thêm “Viện kiểm sát nhân dân,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công
đoàn Việt Nam” và “người đỡ đầu” có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con cho
người con ngoài giá thú chưa thành niên (Điều 31). Nếu yêu cầu trên không có tranh
chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp xã, nếu có tranh
chấp thì thuộc thẩm quyền của Tòa án. Mặt khác, trong quy định này đã có sự kế
thừa và thay đổi tên gọi của người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con cho
người con ngoài giá thú chưa thành niên: từ “người giám hộ” trong pháp luật thời
Pháp thuộc và Ngụy quyền đến “người thay mặt” trong Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 1959 rồi đến “người đỡ đầu” trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 đã đưa ra nguyên tắc suy
đoán pháp lý xác định quan hệ cha, mẹ, con trong giá thú với việc đưa ra định nghĩa
con chung của vợ chồng tại Điều 28 là “Con sinh ra trong thời ký hôn nhân hoặc do
23. 20
người vợ có thai trong thời kỳ đó”. Đây là sự tiến bộ vượt bậc của pháp luật Hôn
nhân và Gia đình thời kỳ này.
Như vậy, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 cùng với Hiến pháp năm
1980 và Bộ luật Dân sự năm 1995 đã tạo một hành lang pháp lý khá đầy đủ cho vấn
đề xác định cha, mẹ, con trong thời kỳ xây dựng và đổi mới đất nước.
Thứ ba, xác định cha, mẹ, con trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
Sự ra đời và kết hợp của Hiến pháp năm 1992 cùng với Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 1986 và Bộ luật Dân sự năm 1995, sau này là Bộ luật Dân sự năm
2005 đã tạo ra một thay đổi, một sự đột phá trong việc quy định các quan hệ hôn
nhân và gia đình.
Vấn đề xác định cha, mẹ, con đã có một bước tiến rõ rệt trong hệ thống pháp
luật Hôn nhân và Gia đình bằng việc thay đổi tên gọi cho chế định này từ “xác định
cha, mẹ cho con” trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 sang “xác định cha,
mẹ, con” trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, thể hiện sự thay đổi thế giới
quan trong tư tưởng lập pháp của nước ta. Sự thay đổi này hoàn toàn chính xác vì
đây là mối quan hệ hai chiều nên nếu quy định như Luật Hôn nhân và Gia đình năm
1986 thì không thể hiện hết tính chất của mối quan hệ trên.
Sự đột phá của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thể hiện trong việc
thừa nhận việc sinh con theo phương pháp khoa học của các cặp vợ chồng vô sinh
hoặc của các bà mẹ đơn thân và đặc biệt không còn sự phân biệt giữa con trong và
ngoài giá thú mà chỉ có sự tồn tại của “con chung” mà thôi. Đồng thời, ban hành
một loạt các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành các quy định liên quan đến
vấn đề xác định cha, mẹ, con trong thực tế.
Tóm lại, sự phát triển của chế định xác định cha, mẹ, con trong hệ thống
pháp luật Việt Nam là một quá trình lịch sử lâu dài, có sự kế thừa và phát triển qua
từng giai đoạn lịch sử của nước ta nói chung và lịch sử lập pháp nói riêng. Để nó
ngày càng phù hợp với xu thế thời đại và hoàn thiện, các nhà lập pháp cần phải học
hỏi kinh nghiệm lập pháp của các nước bạn và từ thực tiễn và nghiên cứu kỹ lưỡng
để sửa đổi, bổ sung nó.
24. 21
1.2. Ý nghĩa của chế định xác định cha, mẹ, con trong hệ thống pháp
luật Việt Nam
Mục đích của xác định cha, mẹ, con là giúp cho mọi người có một gia đình
hạnh phúc thực sự: có cha mẹ và có con quây quần, vui vẻ thì xã hội mới phồn
thịnh, bình yên vì gia đình là tế bào của xã hội, “là tập hợp những người gắn bó với
nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh
các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” (khoản 10
Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000). Bên cạnh đó, với sự phát triển nhanh
chóng của nền Y học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng không những đã và
đang mang lại niềm hạnh phúc được làm cha mẹ cho những cặp vợ chồng vô sinh
hay những phụ nữ đơn thân mà còn làm cho các quan hệ pháp luật thêm phức tạp
trong việc phải không ngừng cập nhật các quy định pháp luật để điều chỉnh nó một
cách phù hợp nhất. Do đó, quan hệ xác định cha, mẹ, con là một chế định quan
trọng của pháp luật Hôn nhân và Gia đình góp phần bình ổn các mối quan hệ xã hội,
tạo ra sự hài hòa giữa và quan hệ mật thiết các chế định khác như: chế định cấp
dưỡng, chế định thừa kế, pháp luật về hộ tịch.
Mặt khác, Công ước về quyền trẻ em năm 1989 được Việt Nam phê chuẩn
ngày 20/2/1990 quy định: “Trẻ em được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và
có quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời, và trong chừng mực có thể,
quyền được biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc” (Điều 7). Đồng thời,
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2005 cũng quy định: “cấm cha mẹ bỏ
rơi con” (khoản 1 Điều 7) và không được phân biệt đối xử với trẻ em (Điều 4), “Trẻ
em có quyền sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ em cách ly cha
mẹ…” (Điều 13). Đây là những quy định mang tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc
nhằm tạo mọi điều kiên tốt nhất cho sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần
của trẻ em nói riêng và thế hệ trẻ Việt Nam nói chung, quan trọng nhất là một mái ấm
gia đình hạnh phúc trọn vẹn như quy định của Hiến pháp năm 1992: “Trẻ em được
gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục” (Điều 65). Gia đình có
hạnh phúc thì mới có những công dân tốt cho xã hội, cho đất nước. Đồng thời, thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến đời sống của nhân dân.
25. 22
Kết luận chƣơng 1
Qua quá trình nghiên cứu chương 1, chúng ta có hệ thống các khái niệm cơ
bản liên quan đến khái niệm xác định cha, mẹ, con và quá trình phát triển của nó
trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của hệ thống lập pháp Việt Nam. Từ đó, có sự
so sánh, đối chiếu giữa các quá trình phát triển của nó; làm cơ sở để nghiên cứu nó
với hệ thống pháp luật nước ngoài ở chương sau. Khác với các Luận văn, Luận án
hay các Khóa luận trước đó, các tác giả đó đã chia sự phát triển của chế định xác
định cha, mẹ, con theo từng giai đoạn lịch sử như: thời phong kiến, thời Pháp thuộc,
thời Ngụy quyền và thời kỳ xã hội chủ nghĩa; còn Luận văn này chia nó ra thành hai
mốc phát triển là trước khi và từ khi có Luật Hôn nhân và Gia đình với tư cách là
một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Đồng thời, Luận văn cũng đưa ra những định nghĩa để bổ sung cho các khái
niệm còn bị pháp luật Hôn nhân và Gia đình bỏ ngỏ và hệ thống lại các khái niệm
được định nghĩa trong nhiều tài liệu nghiên cứu như: con trong và ngoài giá thú, con
chung và con riêng,..., đặc biệt, Luận văn còn đưa ra khái niệm hoàn toàn mới mẻ
mà các công trình nghiên cứu trước không hề có là hệ thống các khái niệm như:
“cha đẻ”, “cha không chính thức”, “cha chính thức”, “mẹ đẻ”, “mẹ không chính
thức” và “mẹ chính thức” và định nghĩa chúng. Bên cạnh đó, Luận văn so sánh,
phân tích mối quan hệ giữa các khái niệm trên với pháp luật thời kỳ trước và pháp
luật nước ngoài. Đây là tiền đề cho việc nghiên cứu các căn cứ xác định cha, mẹ,
con ở chương sau và làm nên sự khác biệt đặc trưng của Luận văn.
26. 23
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON
2.1. Các căn cứ xác định cha, mẹ, con theo luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000
Bộ luật Dân sự năm 2005 là cơ sở pháp lý cho việc quy định chế định xác
định cha, mẹ, con trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 vì quan hệ pháp luật
Hôn nhân và Gia đình là một bộ phận của quan hệ pháp luật Dân sự theo nghĩa
rộng. Vấn đề này được quy định tại Điều 43 như sau:
“1. Người không được nhận là cha, mẹ hoặc là con của người khác có quyền
yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định mình là cha, mẹ hoặc là con của
người đó.
2. Người được nhận là cha, mẹ hoặc là con của người khác có quyền yêu cầu
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định mình không phải là cha, mẹ hoặc là con
của người đó”.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự Nhật Bản, “Bố hoặc mẹ ngay cả khi bị
mất năng lực hành vi cũng không cần phải có sự đồng ý của người đại diện hợp
pháp trong việc thừa nhận đứa trẻ” (Điều 780) đã thể hiện sự tôn trọng tính thiêng
liêng của quan hệ cha mẹ và con nên nó có quyền có sự ngoại lệ trên nhằm bảo vệ
quyền lợi tuyệt đối, hạnh phúc gia đình cho đứa trẻ được nhận là con. Và “Nếu bố
mẹ đã thừa nhận thì không thể rút lui sự thừa nhận đó” (Điều 785).
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã cụ thể hóa quy định của Bộ luật
Dân sự năm 2005 tại Chương bảy “Xác định cha, mẹ, con” dựa vào các căn cứ xác
định như sau:
2.1.1. Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp cha mẹ có hôn nhân
hợp pháp
Hôn nhân hợp pháp là căn cứ đầu tiên để xác định cha, mẹ, con theo quy
định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Đó là “quan hệ giữa vợ và chồng
27. 24
sau khi đã kết hôn” (khoản 6 Điều 8). Kết hôn là “việc nam và nữ xác lập quan hệ
vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn về đăng ký kết hôn”
(khoản 2 Điều 8). Tức là việc kết hôn của đôi nam nữ chỉ được pháp luật thừa nhận
khi nó được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và không vi phạm điều
kiện kết hôn quy định tại Điều 9 và 10 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
Mọi sự vi phạm các quy định trên đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng
hợp pháp. Như vậy, xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này chính là xác định
mối quan hệ cha-con, mẹ-con khi cha mẹ của đứa trẻ là vợ chồng hợp pháp và đứa
trẻ là con chung của họ.
Chế định xác định cha, mẹ, con trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
có một sự đổi mới và tiến bộ trong tư tưởng lập pháp của nước ta là không có sự
phân biệt giữa con trong và ngoài giá thú mà chỉ có quy định về con chung của vợ
chồng. Sự phân biệt con trong và ngoài giá thú là một định kiến xã hội tồn tại từ
thời phong kiến dưới nhiều tên gọi khác nhau nhưng đã để lại sự tổn thương sâu sắc
trong tâm hồn, tình cảm của những đứa trẻ bị xem là con ngoài giá thú về mặt xã
hội. Người mẹ có con ngoài giá thú và đứa con đó đã luôn phải nhận sự khinh
thường, hắt hủi, thậm chí bị ngược đãi của xã hội. Mặc dù trước pháp luật, con
ngoài giá thú là bình đẳng về mọi mặt với con trong giá thú. Do đó, đây là một sự
tiến bộ đáng ghi nhận như quy định của Hiến pháp năm 1992 “Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52).
Các trường hợp được pháp luật thừa nhận là con chung của vợ chồng: “Con
sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung
của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận
cũng là con chung của vợ chồng.” (khoản 1 Điều 63). Trong đó, thời kỳ hôn nhân là
“khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân” (khoản 7 Điều 8). Ngày đăng ký kết hôn được tính theo ngày
dương lịch ghi trong Giấy đăng ký kết hôn của hai vợ chồng. Riêng đối với những
trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại Nghị quyết
35/2000/QH10 và Thông tư 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP như sau:
28. 25
- Chung sống như vợ chồng trong trường hợp trước ngày 03/01/1987 (ngày
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn nhưng
tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn khác thì khuyến khích đăng ký kết hôn chứ
không bắt buộc. Vì vậy, quan hệ hôn nhân của họ được công nhận là hợp pháp nên
con sinh ra được xác định là con trong giá thú.
- Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày
03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn, nhưng chưa đăng ký kết hôn thì theo
quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, họ có nghĩa vụ đăng ký
kết hôn kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003. Trong khoảng thời gian
này, nếu họ đã đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận là
đã xác lập kể từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không
phải kể từ ngày đăng ký kết hôn (Điều 2 Thông tư).
Như vậy, có hai khả năng xảy ra:
- Nếu họ đăng ký kết hôn trước ngày 01/01/2003 thì đó là hôn nhân hợp
pháp, con của họ là con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng.
- Nếu họ không đăng ký kết hôn thì mối quan hệ của họ không được pháp
luật công nhận nhưng:
+ Nếu con của họ được sinh ra trước ngày 01/01/2003 thì vẫn là con trong
giá thú.
+ Nếu con của họ được sinh ra sau ngày 01/01/2003 thì đó là con ngoài giá
thú (do pháp luật không thừa nhận họ là vợ chồng).
Ví dụ: anh A cưới chị B năm 1990 nhưng không làm thủ tục đăng ký kết
hôn. Năm 1992, chị B sinh ra cháu C và làm thủ tục khai sinh cho cháu C và C là
con trong giá thú của họ (theo Nghị quyết 35/2000/QH10). Năm 2005, chị B sinh
thêm cháu D nhưng khi họ đến Ủy ban nhân dân xã H để đăng ký khai sinh thì cháu
D là con ngoài giá thú vì họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Ngày chấm dứt hôn nhân có nhiều trường hợp xảy ra như:
- Nếu một trong hai bên vợ chồng chết trước thì ngày chấm dứt hôn nhân là
29. 26
ngày người đó bị xác định là đã chết trên thực tế; hoặc là ngày Quyết định tuyên bố
người đó chết của Tòa án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp một trong hai vợ
chồng còn sống có đơn yêu cầu Tòa án xác định một người là đã chết;
- Ngày Bản án ly hôn hay Quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu
lực pháp luật.
Đối chiếu với pháp luật nước ngoài và Điều luật 63 thì con chung chính là
con trong giá thú của vợ chồng. Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định: “Sau khi đứa
con sinh ra và người cha đã thừa nhận nó là con trong gia thú thì sẽ bị mất quyền từ
chối” (Điều 776). Bên cạnh đó, Điều 5 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP và Nghị
định 70/2001/NĐ-CP quy định chi tiết các trường hợp được coi là con chung của vợ
chồng như sau:
- Con sinh ra sau khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến trước khi chấm dứt
quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận và quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc
chồng hoặc của cả hai vợ chồng;
- Con do người vợ đã có thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng được sinh ra
trong vòng ba trăm ngày kể từ khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do người chồng chết
hoặc do Bản án hoặc Quyết định ly hôn có hiệu lực của Tòa án;
- Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn nhưng được cả vợ và chồng
thừa nhận.
Đây chính là nguyên tắc suy đoán pháp lý để xác định cha, mẹ, con khi cha
mẹ có hôn nhân hợp pháp. Hệ thống pháp luật Hôn nhân và Gia đình đã có một
bước tiến rõ rệt trong việc quy định nguyên tắc trên vì đó là cơ sở nhằm xác thực
mối quan hệ cha-con và mẹ-con, là cơ sở để phát sinh các quan hệ tài sản và nhân
thân nếu có tranh chấp phát sinh trong thực tế nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp và
nghĩa vụ của các chủ thể liên quan. Bên cạnh đó, trong guồng quay của nền kinh tế
thị trường, các nền văn hóa phương Tây du nhập vào nước ta một cách đại trà mà
một phần lớn giới trẻ hiện nay không tiếp thu có chọn lọc nên đã gây ra những
trường hợp không hay như: có thai ngoài ý muốn dẫn tới nạo phá thai quá nhiều tại
các bệnh viện và nạo phá thai “chui” tại các phòng khám tư; những ông bố, bà mẹ
30. 27
“trẻ con”; mang thai hộ,… Mặc khác, có những trường hợp người phụ nữ mang thai
trong thời kỳ hôn nhân nhưng sinh con thiếu hoặc thừa tháng, hoặc sinh con chỉ một
thời gian ngắn ngay sau khi kết hôn,… Vậy, nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định
cha, mẹ, con là “chìa khóa” để giải quyết vấn đề xác định cha, mẹ, con cho các
trường hợp trên và đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan.
Các trường hợp xác định con chung của vợ chồng dựa trên nguyên tắc suy
đoán pháp lý gồm:
+ Một là, con do người vợ thụ thai và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân thì
đương nhiên là con chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 63 Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000 “con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân… là con chung của vợ
chồng”, trừ trường hợp một trong hai vợ chồng có chứng cứ chứng minh nó không
phải là con chung của họ. Ví dụ: chị Nguyễn thị Mỹ Hiền và anh Nguyễn Tấn
Chỉnh kết hôn hợp pháp năm 2003 và năm 2005, họ có một con chung là cháu
Nguyễn Tấn Khải. Năm 2007, chị Hiền có đơn xin ly hôn anh Chỉnh và đã được
Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng chấp nhận xử cho ly hôn.
Nhưng năm 2009, chị Hiền có đơn xin tái thẩm đối với Bản án ly hôn trên vì cháu
Khải không phải là con chung giữa chị và anh Chỉnh mà là của anh Phùng Văn Đức.
Qua kết của giám định ADN của Trung tâm phân tích ADN và Công nghệ di truyền
xác định cháu Khải đúng là con ruột của anh Phùng Văn Đức (Quyết định Tái thẩm
số 02/2009/UBTP ngày 11/9/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng) [16,
tr.174-175]. Tức là, không phải mọi trường hợp đứa trẻ do người vợ có thai trong
thời kỳ hôn nhân cũng được xem là con chung của vợ chồng.
+ Hai là, con được người vợ thụ thai trong thời kỳ hôn nhân và sinh ra sau
khi hôn nhân chấm dứt trong thời hạn luật định. Theo quy định của pháp luật, “Con
sinh ra trong vòng ba trăm ngày kể từ ngày người chồng chết hoặc từ ngày Bản án,
Quyết định của Tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật thì được xác
định là con chung của hai người” (Điều 21 Nghị định 70/2001/NĐ-CP của Chính
phủ quy định chi tiết Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000). Quy định trên cũng
tương tự với quy định về thời gian mang thai tối đa của người phụ nữ trong Bộ luật
31. 28
Dân sự Pháp và Đức. Đây là sự liệu của pháp luật nhằm tránh trường hợp nhầm lẫn
về con chung của vợ chồng nếu sau khi hôn nhân kết thúc, người vợ muốn kết hôn
ngay với người đàn ông khác. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng người chồng trước và
sau nghi ngờ về huyết thống của đứa con sắp sinh ra.
+ Ba là, con do người vợ sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ
thừa nhận. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã quy định ngay trong phần đầu
tiên của Điều 63 rằng: “Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ
thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng” (khoản 1). Đây là thực tế đời sống xã
hội hiện nay, đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Quan niệm của một bộ phận giới trẻ ngày nay là muốn sống thử để trải nghiệm cuộc
sống chung giữa nam và nữ trước khi đăng ký kết hôn, đặc biệt là những sinh viên,
công nhân xa nhà nên thiếu thốn tình cảm gia đình và dẫn tới hậu quả có thai và
sinh con ngoài ý muốn do họ không sử dụng các biện pháp tránh thai an toàn. Đứa
trẻ đó sẽ đương nhiên là con chung của vợ chồng nếu sau đó họ đăng ký kết hôn và
thừa nhận khi họ làm Giấy khai sinh cho con.
+ Bốn là, con được người vợ thụ thai trước ngày đăng ký kết hôn và sinh ra
trong thời kỳ hôn nhân. Trường hợp này cũng tương tự như trường hợp trên về thời
gian và nguyên nhân người vợ có thai nhưng đứa con đó lại được sinh ra trong thời
kỳ hôn nhân của vợ chồng. Tức là sau khi biết mình có thai, người phụ nữ đã thông
báo cho người đàn ông biết việc mang thai để tiến hành đăng ký kết hôn theo luật
định trước khi đứa trẻ ra đời nhằm bảo vệ danh dự cho người phụ nữ và gia đình hai
bên nam nữ, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đứa con sắp được sinh ra. Pháp
luật không quy định thời gian mang thai bắt buộc của người phụ nữ trong trường hợp
này. Tức là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 không quy định thời gian mang
thai tối thiểu như pháp luật của một số nước khác như: Pháp (180 ngày-Điều 314 Bộ
luật Dân sự Pháp), Nhật (200 ngày-Điều 772 Bộ luật Dân sự Nhật Bản), Đức (181
ngày-Mục 1600d Bộ luật Dân sự Đức) mà chỉ cần đứa con đó được sinh ra trong thời
kỳ hôn nhân và con chung của vợ chồng vì nó đã được cha mẹ thừa nhận trước khi họ
đăng ký kết hôn.
32. 29
+ Năm là, nếu người vợ có thai trước khi đăng ký kết hôn nhưng sinh con sau
khi hôn nhân kết thúc trong một thời hạn luật định thì đứa con đó có phải là con
chung của vợ chồng? Trường hợp này khá đặc biệt, do nhiều nguyên nhân khách
quan hay chủ quan, các cặp vợ chồng kết hôn với nhau nhưng hôn nhân của họ chấm
dứt nhanh chóng. Chẳng hạn như: một tuần sau khi kết hôn, người chồng bị tai nạn
chết; hoặc sau khi chung sống với nhau, cặp vợ chồng nhận ra cuộc sống hôn nhân
khác xa so với tưởng tượng của họ trước khi kết hôn và thời gian họ tìm hiểu nhau;
hoặc do không điều khiển được hành vi trong lúc say rượu, người đàn ông đã làm cho
người phụ nữ có thai với mình và phải kết hôn nhưng không có tình yêu mà chỉ vì
nghĩa vụ, sau thời gian chung sống, họ không nảy sinh tình yêu mà luôn có mâu
thuẫn,… Do đó, hôn nhân của tất cả các cặp vợ chồng trên chấm dứt trong một thời
gian ngắn dù người vợ đang có thai nhưng “danh phận” của đứa con được sinh ra sau
khi hôn nhân của cha mẹ chấm dứt là gì? Nó vẫn là con chung của vợ chồng dù trước
khi đăng ký kết hôn, người phụ nữ có thai nhưng người đàn ông đã gián tiếp thừa
nhận đứa trẻ đó là con ruột của họ thì mới tiến hành đăng ký kết hôn với mẹ của nó.
Vấn đề chấm dứt hôn nhân của cha mẹ nó không làm ảnh hưởng đến “danh phận”
con chung của nó. Đây là điều hiển nhiên được pháp luật công nhận.
So sánh với quy định của Bộ luật Dân sự Pháp về việc xác nhận con cho cha
mẹ có hôn nhân hợp pháp thì do nó được xây dựng trong thời kỳ phong kiến nên họ
có sự phân biệt giữa con chính thức và con ngoài giá thú. Theo đó, “Đứa trẻ sinh ra
trước ngày thứ một trăm tám mươi kể từ ngày kết hôn là con chính thức và được coi
là con chính thức ngay từ khi thụ thai” (Điều 314). Còn Bộ luật Dân sự Nhật Bản
quy định “con hợp pháp” thay cho con chính thức và định nghĩa nó là “Con được
mẹ thai nghén trong thời gian hôn nhân được coi là con của người chồng. Con sinh
ra sau hai trăm ngày hoặc lâu hơn sau ngày kết hôn hoặc trong phạm vi ba trăm
ngày kể từ ngày hôn nhân bị hủy bỏ hoặc bị vô hiệu được coi là con thai nghén
trong thời kỳ ly hôn” (Điều 772). Tức là, ngay trong Điều luật trên, các nhà lập
pháp Nhật Bản đã không những dự liệu con được thai nghén trong thời kỳ hôn nhân
mà còn trong thời kỳ ly hôn đều được coi là con hợp pháp của người chồng nếu nó
33. 30
đáp ứng đủ điều kiện về thời gian luật định; đồng thời cũng định nghĩa về “thời kỳ
thai nghén” của người phụ nữ tuy nó có một chút khác biệt so với một số Bộ luật
Dân sự các nước khác. Như vậy, cả hai Bộ luật trên đã quy định rất kỹ về vấn đề
xác định con chung của vợ chồng có hôn nhân hợp pháp và chúng ta có thể học hỏi
để điều chỉnh, bổ sung những thiếu xót trong quy định của pháp luật về nguyên tắc
suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con để nó ngày càng hoàn thiện hơn.
2.1.2. Căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp cha mẹ không có
hôn nhân hợp pháp
Vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này khá phức tạp vì do nó ảnh
hưởng đến danh dự, nhân phẩm không những của một con người mà còn của gia đình
họ, là một việc “khó” làm. Các trường hợp được xác định là con ngoài giá thú gồm:
+ Một là, con được những phụ nữ đơn thân sinh ra theo cách tự nhiên;
+ Hai là, người mẹ đã có thai với người đàn ông khác và sinh con trong
thời kỳ hôn nhân. Sau đó, Tòa án xác định người chồng không phải là cha ruột
của đứa trẻ đó;
+ Ba là, con của cha mẹ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không
được pháp luật thừa nhận do không đăng ký kết hôn;
+ Bốn là, con được sinh ra trong thời kỳ cha mẹ tái hợp sau khi đã ly hôn
nhưng không đăng ký kết hôn;
+ Năm là, con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của cha mẹ bị Tòa án hủy
do kết hôn trái pháp luật.
Do không có sự phân biệt giữa các con mà chỉ tồn tại con chung của vợ
chồng theo quy định tại Điều 63 nên Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 không
có quy định về vấn đề xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp
pháp tại chế định xác định cha, mẹ, con. Đây vừa là điểm tiến bộ nhưng cũng là
điểm hạn chế của nó. Tuy nhiên, vấn đề trên được quy định một cách gián tiếp trong
Thông tư số 15/1974/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án tối cao nhắc lại đường lối
xử ly hôn, một vài tranh chấp về Dân sự, Hôn nhân và Gia đình bằng những quy
định về các trường hợp xác định một người là cha của con ngoài già thú như sau:
34. 31
+ Trong thời gian có thể thụ thai đứa con, người đàn ông được khai là cha
của đứa trẻ và người mẹ đứa trẻ đã công nhiên chung sống với nhau như vợ chồng;
+ Hai người đã yêu thương nhau, hứa hẹn kết hôn với nhau và trong thời
gian có thể thụ thai đứa con; đã ăn nằm với nhau như vợ chồng, rồi sau khi có con,
bỏ không cưới hỏi gì nữa;
+ Người mẹ đã bị người này hiếp dâm, cưỡng dâm trong thời gian có thể thụ
thai đứa con;
+ Sau khi sinh đứa con, người này đã thăm nom, chăm sóc đứa con như là
con của mình;
+ Có những thư từ mà người này viết xác nhận đứa con do người phụ nữ đó
sinh ra là con của họ.
Hiện nay, vấn đề về căn cứ xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú theo Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành được dựa trên
cơ sở các căn cứ và chứng cứ như:
Có kết luận giám định gen của tổ chức có thẩm quyền xác định người đàn
ông là cha của đứa trẻ;
Hai người đã chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký
kết hôn theo Nghị quyết 35/2000/QH10;
Có các chứng cứ xuất trình (khi có tranh chấp) như: chứng cứ bằng văn
bản (thư từ, nhật ký, ảnh,…), chứng cứ bằng lời nói (sự thừa nhận của người đàn
ông được khai là cha của đứa trẻ tại Tòa án).
Do đó, khi giải quyết, cơ quan có thẩm quyền phải kết hợp xem xét, đánh giá
đầy đủ các chứng cứ để không có những kết luận mang tính phiến diện, áp đặt nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự, đặc biệt là của đứa trẻ.
Đối chiếu với pháp luật nước ngoài, Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Con
ngoài giá thú có thể được công nhận là con chính thức, miễn là quan hệ giữa cha mẹ
và con cái được xác lập một cách hợp pháp trên cơ sở tự nguyện thừa nhận hoặc có
một bản án” (Điều 329). Đồng thời, theo Điều 340, quan hệ cha-con ngoài giá thú
có thể được Tòa án tuyên bố trong nhiều trường hợp, gồm:
35. 32
“Trong trường hợp việc bắt cóc hay hiếp dâm xảy ra trùng với thời kỳ thụ thai;
Trong trường hợp có sự quyến rũ bằng những thủ đoạn lừa dối, sự lợi
dụng uy quyền, hứa hôn hoặc đính hôn;
Trong trường hợp có những thư từ hoặc có giấy tờ khác của người được
suy đoán là cha chứng minh một cách chắc chắn quan hệ cha-con;
Trong trường hợp người được suy đoán là cha đã chung sống với người
mẹ trong thời gian thụ thai theo luật định như vợ chồng, hoặc nếu không chung
sống thì đã có những quan hệ ổn định và liên tục;
Trong trường hợp người được suy đoán là cha đã tham gia vào việc nuôi
nấng, giáo dục và gây dựng cho con với tư cách người cha”.
Các quy định trên của pháp luật Việt Nam và của Pháp tương đối giống
nhau. Mặt khác, pháp luật Dân sự Pháp còn dự liệu các trường hợp quan hệ cha-con
không thể được xác định tại Điều 340-1 như sau:
“ Nếu chứng minh được trong thời gian thụ thai theo luật định, người mẹ
có hành động vô luân một cách công khai hoặc có quan hệ với một người khác, trừ
phi kết quả thử máu hoặc một biện pháp y học khác cho thấy chắc chắn rằng người
ấy không thể là cha;
Nếu người được suy đoán là cha trong cùng thời gian ấy lại ở trong tình trạng
không thể là cha về mặt thể chất do xa vợ hoặc do hậu quả của một tai nạn nào đó;
Nếu người được suy đoán là cha chứng minh, bằng cách thử máu hoặc
bằng một biện pháp y học khác, rằng mình không thể là cha đứa trẻ”.
Cả hai hệ thống pháp luật của Việt Nam và Pháp đều sử dụng “thời gian thụ
thai” của đứa trẻ là căn cứ chủ yếu để suy đoán quan hệ cha-con ngoài giá thú. Chỉ
khi không thể suy đoán được thì họ mới nhờ đến sự hỗ trợ của Y học.
Không những thế, Bộ luật Dân sự Pháp còn quy định việc xác định quan hệ mẹ-
con ngoài giá thú: “Người con thực hiện quyền đó phải chứng minh rằng mình được
sinh ra từ người được suy đoán là mẹ. Để đạt được điều đó, người ấy phải chứng minh
là có quan hệ thực tế như con ngoài giá thú với người được suy đoán là mẹ. Nếu không,
quan hệ mẹ-con được chứng minh bằng nhân chứng, nếu có, những suy đoán, dấu hiệu
36. 33
quan trọng hoặc chứng cứ sơ bộ bằng văn bản theo quy định tại Điều 324” (Điều 341).
Như vậy, pháp luật Dân sự Pháp đã dự liệu mọi khả năng có thể xảy ra đối
với vấn đề xác nhận cha, mẹ, con ngoài giá thú một cách cẩn thận và lôgic. Trong
khi đó, pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Việt Nam chỉ quy định nó trong một
văn bản dưới luật chưa được cập nhật và còn nhiều thiếu xót. Thiết nghĩ, các nhà
làm luật của Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm lập pháp của các nước phương
Tây về vấn đề này và áp dụng một cách phù hợp vào hoàn cảnh phát triển kinh tế-xã
hội của Việt Nam để bổ sung, sửa đổi và hạn chế tối đa các “lổ hổng” của pháp luật
dù điều đó khá khó.
2.1.3. Căn cứ xác định cha, mẹ, con theo phương pháp khoa học
Sinh con theo phương pháp khoa học không phải là một vấn đề mới mẻ đối
với nền Y học thế giới cũng như Việt Nam nhưng trước ngày 01/01/2001 (ngày
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực pháp luật) thì nó không được
pháp luật ghi nhận. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 ra đời đã có một bước
phát triển đột phá bằng việc hợp pháp hóa vấn đề trên, tạo cơ sở pháp lý vững chắc
không những cho sự phát triển của nền Y học Việt Nam nói chung và của vấn đề
sinh con theo phương pháp khoa học nói riêng mà còn của ngành lập pháp Việt
Nam. Do trước đây, khi pháp luật chưa cho phép các cặp vợ chồng vô sinh hay phụ
nữ độc thân được sinh con theo phương pháp khoa học thì họ không có cơ hội được
làm cha, làm mẹ; không được hưởng niềm hạnh phúc lớn lao và thiêng liêng của
tình cha con, mẹ con. Đây là một tổn thất về mặt tinh thần rất lớn cho họ. Vì thế,
quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 về vấn đề trên cùng với Nghị
định 12/2003/NĐ-CP ngày 12/2/2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp
khoa học và Thông tư 07/2003/TT-BYT của Bộ Y tế hướng dẫn thi hành Nghị định
trên như một “món quà vô giá” cho họ. Theo đó, vấn đề xác định cha, mẹ, con theo
phương pháp khoa học đã được ghi nhận ngay trong khoản 2 Điều 63 như sau:
“Việc xác định cha mẹ cho con được sinh theo ra theo phương pháp khoa học do
Chính phủ quy định”.
Sinh con theo phương pháp khoa học là “việc sinh con được thực hiện bằng
37. 34
các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm”. “Thụ
tinh nhân tạo là thủ thuật bơm tinh trùng của chồng hoặc của người cho tinh trùng
vào tử cung của người phụ nữ có nhu cầu sinh con để tạo phôi”. “Thụ tinh trong ống
nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi”.
“Noãn là tế bào trứng”. “Phôi là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh
trùng” (Điều 3 Nghị định 12/2003/NĐ-CP).
* Điều kiện để được áp dụng các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy
định tại Điều 4 Nghị định 12/2003/NĐ-CP như sau:
- Các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ sống độc thân có quyền sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sỹ chuyên khoa. Cặp vợ chồng bị coi
là vô sinh nếu họ sống gần nhau liên tục, không áp dụng biện pháp tránh thai nào
mà không có thai sau một năm. “Vô sinh” theo Từ điển Y học Anh-Việt là “mất khả
năng mang thai ở người nữ hay gây mang thai ở phái nam. Vô sinh nữ có thể do
không phóng noãn, do tắc các vòi Fallope (vòi tử cung) hay do bệnh ở màng lót tử
cung (nội mạc tử cung). Vô sinh nam có thể do tinh trùng trong dịch phóng ra có
thiếu xót về di động (tinh trùng chết) hay về số lượng (thiếu tinh trùng) hay hoàn
toàn không có tinh trùng (vô tinh trùng)”. Còn theo định nghĩa của Wikipedia thì
“Vô sinh” (infertility) được định nghĩa là tình trạng vợ chồng sau một năm chung
sống, quan hệ tình dục trung bình 2-3 lần/tuần, không sử dụng bất kỳ biện pháp
tránh thai nào mà người vợ vẫn chưa có thai. Có thể hiểu vô sinh là hiện tượng mất
hay thiếu khả năng sinh sản xảy ra trong khoảng 10-15% các cặp nam nữ muốn có
con” [60 ]. Theo quan điểm của chúng tôi, việc quy định thời gian chung sống “một
năm” của vợ chồng cho việc xác định vô sinh là chưa thỏa đáng. Có thể về mặt Y
học, vợ chồng chung sống sau một năm mà có con tức là pháp luật đã dự liệu
khoảng thời gian có thai của phụ nữ là sau khi kết hôn một thời gian không xa; thậm
chí, ngay sau lần quan hệ đầu tiên của vợ chồng. Nhưng thực tế hiện nay, do nhiều
nguyên nhân như: áp lực công việc, điều kiện sức khỏe của vợ chồng,… mà họ
không thể có con trong vòng một năm mà sau hai hoặc ba năm, thậm chí nhiều
trường hợp sau năm năm dù họ không sử dụng các biện pháp tránh thai. Do đó,
38. 35
pháp luật nên điều chỉnh lại thời gian này cho phù hợp với thực trạng này. Mặt
khác, pháp luật không quy định về tình trạng hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh
được phép áp dụng kỹ thuật sinh sản là hợp pháp hay không hợp pháp. Đây là một
thiếu sót nghiêm trọng vì nếu cặp vợ chồng đó bị hủy kết hôn trái pháp luật hoặc
không đăng ký kết hôn mà chỉ chung sống với nhau như vợ chồng thì số phận đứa
trẻ được sinh ra theo phương pháp khoa học sẽ được định đoạt như thế nào?
Bên cạnh đó, do sự phát triển kinh tế, vị trí của phụ nữ ngày càng được
khẳng định trong xã hội, đặc biệt tại các thành phố lớn. Họ ngày càng độc lập hơn,
mạnh mẽ hơn so với trước đây và có điều kiện tài chính khá tốt. Có nhiều phụ nữ
độc thân muốn có con và nuôi con một mình mà không cần kết hôn do họ có điều
kiện tài chính vững chắc và muốn tận hưởng cuộc sống độc thân tự do, không có bất
kỳ sự ràng buộc nào; hoặc vì nhiều lí do khác nhau, họ không thể có kết hôn nhưng
vẫn mong mỏi có một đứa con để thực hiện thiên chức làm mẹ. Có thể khẳng định
pháp luật nước ta đã ngày càng có thế giới quan và nhân sinh quan bắt kịp với sự
phát triển của thời đại. Trong thời kỳ phong kiến và trước khi đất nước đổi mới, xã
hội luôn dành cho người phụ nữ không chồng mà có con một sự khinh miệt, sự kỳ
thị đáng sợ; thậm chí, người phụ nữ đó còn bị cạo đầu, bôi vôi, thả trôi sông một
cách tàn nhẫn. Quan niệm đó đã được thay đổi bằng sự ưu ái, giúp đỡ, bao dung cho
họ để đứa trẻ được sinh ra và phát triển một cách bình thường như bao đứa trẻ khác.
Dường như không tồn tại sự phân biệt đối xử trong tư tưởng, nhận thức của người
dân giữa con trong và ngoài giá thú và được thể hiện ngay trong Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000. Tuy nhiên, pháp luật phải quy định điều kiện nghiêm ngặt để
một phụ nữ độc thân được quyền sinh con theo phương pháp khoa học vì hiện nay,
xã hội đã tồn tại những “cặp vợ chồng đồng tính nữ” và nếu họ muốn có con thì quá
dễ dàng nhưng để lại hậu quả pháp lý rất phức tạp sau này.
- Việc thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; cho noãn, nhận noãn; cho
tinh tùng, nhận tinh trùng; cho phôi, nhận phôi phải được tiến hành trên nguyên
tắc tự nguyện.
- Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên
tắc bí mật.
39. 36
* Các trường hợp không được phép thực hiện các biện pháp hỗ trợ sinh sản
được Thông tư 07/2003/TT-BYT quy định gồm:
- Một là, mang thai hộ. Có nên cho phép việc mang thai hộ ở nước ta, một
đất nước giàu truyền thống luôn coi trọng và gìn giữ các giá trị văn hóa gia đình?
Hiện nay, có khá nhiều tranh luận về vấn đề này trên các phương tiện thông tin đại
chúng và các bài nghiên cứu chuyên ngành. Các trường hợp mang thai hộ do người
vợ trong cặp vợ chồng vô sinh không thể mang thai được nên phải nhờ người phụ
nữ khác nhận cấy phôi của cặp vợ chồng vô sinh hoặc tinh trùng của người chồng
để có thai. Đây là một vấn đề rất phức tạp cả về mặt Y học lẫn pháp lý liên quan.
Xét về mặt Y học và pháp lý, có hai trường hợp xảy ra:
Nếu người phụ nữ mang thai hộ nhận cấy phôi của cặp vợ chồng vô sinh thì
không có quan hệ huyết thống giữa người đó và đứa trẻ họ đang mang thai trong
bụng. Vì người phụ nữ đó chỉ giúp cặp vợ chồng vô sinh mang thai và sinh con nên
chỉ có thể phát sinh các phạm trù đạo đức xã hội như: lòng biết ơn mà thôi.
Nếu người phụ nữ mang thai hộ nhận cấy tinh trùng của người chồng thì tồn
tại quan hệ mẹ-con theo huyết thống giữa người phụ nữ đó và đứa trẻ được sinh ra
sau này. Đây là trường hợp đặc biệt vì trong thực tế, cặp vợ chồng vô sinh sẽ thỏa
thuận với người phụ nữ mang thai hộ rằng: mẹ của đứa trẻ là người vợ trong cặp vợ
chồng vô sinh và người phụ nữ đó sẽ không có bất kỳ sự liên quan nào đối với đứa
trẻ sau khi giao con cho họ. Nhưng tình mẫu tử là một thứ tình cảm vô cùng thiêng
liêng nên có nhiều trường hợp người phụ nữ được nhờ mang thai hộ không giao con
sau khi sinh. Cặp vợ chồng vô sinh đó không thể nhờ sự can thiệp của pháp luật để
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ. Ngoài ra, có những trường hợp sinh đôi, người
phụ nữ mang thai hộ chỉ giao cho cặp vợ chồng đó một đứa con và giữ lại một đứa.
Nếu cặp song sinh đó cùng là con trai hoặc con gái thì vấn đề sẽ ít phức tạp hơn nếu
là một trai và một gái vì có thể sẽ xảy ra trường hợp anh em cùng huyết thống yêu
nhau thì hậu quả pháp lý liên quan sẽ khôn lường và vi phạm đạo đức xã hội
nghiêm trọng, đặc biệt sẽ phá vỡ hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh đó, ưu điểm của mang thai hộ là mang lại cơ hội được làm cha mẹ cho