SlideShare a Scribd company logo
1 of 117
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VƢƠNG THỊ VÂN ANH
NGHIÊN CỨU, PHÁT HIỆN NHỮNG
BẤT CẬP TRONG CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VƢƠNG THỊ VÂN ANH
NGHIÊN CỨU, PHÁT HIỆN NHỮNG
BẤT CẬP TRONG CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHÙNG TRUNG TẬP
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vƣơng Thị Vân Anh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1.......................................................................................................... 6
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ......................................... 6
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở
VIỆT NAM .......................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm Pháp luật về thừa kế ........................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm Pháp luật thừa kế Việt Nam................................................. 8
1.2. NHỮNGNGUYÊNTẮCPHÁPLUẬTVỀTHỪAKẾỞVIỆTNAM....... 9
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công
dân......................................................................................................10
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế............11
1.2.3. Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế ...................12
1.2.4. Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm
mở thừa kế..........................................................................................15
1.3. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM ...........................................................16
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 8/1945 ........................................17
1.3.2. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8/1945 đến trước 01/7/1996............27
1.3.3. Giai đoạn từ 01/07/1996 đến nay.......................................................33
Kết luận Chƣơng 1........................................................................................37
5
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM.....38
2.1. PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................38
2.1.1. Nhóm quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung về
thừa kế ................................................................................................38
2.1.2. Nhóm quy phạm pháp luật quy định về thừa kế theo di chúc
(bao gồm 28 điều, từ Điều 646 đến Điều 673 BLDS 2005). .............43
2.1.3. Nhóm quy phạm pháp luật quy định thừa kế theo pháp luật .............45
2.2. NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ THỪA KẾ TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN THỪA KẾ ...................................................61
2.2.1. Phần những quy định chung...............................................................62
2.2.2. Những quy định về Thừa kế theo Di chúc.........................................66
2.2.3. Những quy định về Thừa kế theo pháp luật.......................................68
2.2.4. Những quy định về thanh toán và phân chia di sản ...........................71
Kết luận Chƣơng 2........................................................................................77
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỪA
KẾ Ở VIỆT NAM............................................................................78
3.1. NGƯỜI THỪA KẾ ............................................................................78
3.2. TỪ CHỐI DI SẢN .............................................................................80
3.3. VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN............................................................82
3.4. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT........................................................84
3.4.1. Thừa kế thế vị.....................................................................................84
3.4.2. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế.........................86
3.5. HẠN CHẾ PHÂN CHIA DI SẢN .....................................................86
3.6. THỪA KẾ THEO DI CHÚC .............................................................87
3.6.1. Truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.....................................87
3.6.2. Di sản dùng vào việc thờ cúng...........................................................88
6
3.7. THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT...............................................92
3.8. GIẢI QUYẾT THỪA KẾ CỔ PHẦN NGÂN HÀNG PHẢI
PHÙ HỢP VỚI PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN...............................96
3.8.1. Xác định hình thức thừa kế và người thừa kế ....................................97
3.8.2. Một số tồn tại thực tế thường gặp trong hồ sơ thừa kế cổ phần
ngân hàng ...........................................................................................99
KẾT LUẬN..................................................................................................102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................104
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nội dung
BLDS Bộ luật dân sự
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
DSTC Di sản thờ cúng
HĐTP Hội đồng thẩm phán
HNGĐ Hôn nhân gia đình
HVLL Hoàng Việt luật lệ
Luật HN & GĐ Luật Hôn nhân và gia đình
NN Nhà nước
NVTS Nghĩa vụ tài sản
PLTK Pháp lệnh thừa kế
PLVTK Pháp luật về thừa kế
QTHL Quốc triều hình luật
Quyết định Quyết định
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
Ths Thạc sỹ
Tố tụng dân sự Tố tụng dân sự
Ts Tiến sỹ
TTLK Trung tâm lưu ký
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, Thừa kế là một trong
những chế định có vai trò quan trọng trong việc dịch chuyển tài sản của người
chết để lại cho những người thừa kế của họ theo di chúc hoặc theo quy định
của pháp luật.
Có thể nói, Chế định Thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 được
Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày
01/01/2006 là một chế định khá hoàn chỉnh. Để đảm bảo việc thi hành Bộ
luật, hiện nay Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ đang soạn
thảo, chuẩn bị ban hành các luật chuyên ngành, các pháp lệnh và nghị định
hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm
2005 hiện nay vẫn chưa có kế hoạch sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các văn
bản dưới luật quy định chi tiết hay hướng dẫn thi hành. Trong khi đó, việc áp
dụng chế định này trong thực tiễn vẫn còn gặp nhiều vướng mắc do đa số các
vụ việc về thừa kế đều khá phức tạp, qui định của pháp luật trong việc điều
chỉnh các quan hệ về thừa kế chưa thật sự đầy đủ và mang tính cụ thể nên quá
trình áp dụng pháp luật về thừa kế để giải quyết các tranh chấp còn gặp nhiều
khó khăn. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn
chưa dự liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Một số quy
định pháp luật về thừa kế chung chung, mang tính chất khung, chưa chi tiết,
chưa rõ ràng, lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể.
Theo thống kê của Ngành Tòa án nhân dân, hiện nay các tranh chấp về thừa
kế có xu hướng ngày càng gia tăng và phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy
đủ, việc áp dụng pháp luật về thừa kế không thống nhất giữa các cấp Tòa án
làm cho việc giải quyết các tranh chấp thừa kế gặp nhiều khó khăn, thời gian
2
giải quyết kéo dài, vụ việc giải quyết không đươc triệt để, không giải quyết
được dứt điểm được những mâu thuẫn về lợi ích của các bên tranh chấp, bên
cạnh đó một số quyết định của cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết các
tranh chấp về thừa kế gây hoang mang cho người dân.
Nhu cầu cụ thể hóa và hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế
là một nhu cầu cấp thiết. Việc tìm ra những vướng mắc, bất cập của chế định
thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 2005 là một việc làm thiết thực, nhằm hướng
tới việc sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa chế định thừa kế, đáp ứng được việc giải
quyết các mâu thuẫn về thừa kế, đảm bảo việc giải quyết các tranh chấp về thừa
kế nhanh chóng, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: "Nghiên cứu,
phát hiện những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005"
để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan
trọng cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thừa kế là một chế định quan trọng và phức tạp trong hệ thống pháp
luật dân sự Việt Nam. Chế định này có lịch sử hình thành và phát triển khá
phong phú. Do vậy, Thừa kế đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm
nghiên cứu.
Các đề tài nghiên cứu về Thừa kế khá nhiều và được thực hiện ở các cấp
độ khác nhau như khóa luận tốt nghiệp, luận văn cao học, luận án tiến sĩ…
Trước khi BLDS được ban hành, đã có rất nhiều nghiên cứu về thừa kế
dưới góc độ sách pháp luật thường thức như: "Câu hỏi và giải đáp PLTK"
năm 1994 của Luật sư Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về PLTK" năm 1995 của Trần
Hữu Bền và TS. Đinh Văn Thành.
Sau khi BLDS 1995 được ban hành thì việc nghiên cứu đề tài về Thừa
kế vẫn nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có rất nhiều tác giả nghiên cứu về
3
Thừa kế để làm luận văn thạc sĩ, tiến sĩ. Tiểu biểu là: TS. Phùng Trung Tập
với đề tài "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam" năm 2001; TS.
Phạm Ánh Tuyết với đề tài "Thừa kế theo di chúc theo quy định BLDS Việt
Nam" năm 2003; Ths. Nguyễn Hải An nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về
thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam" năm 2004;
Ths. Nguyễn Hồng Nam nghiên cứu đề tài "Các điều kiện có hiệu lực di
chúc" năm 2005... Ngoài ra, đề tài về Thừa kế còn được nghiên cứu và đăng
trên các báo, tạp chí như Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Đặc san
khoa học pháp lý… Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các tác giả
nói trên mới dừng lại phân tích các quy định của pháp luật về Thừa kế ở một
góc độ, một khía cạnh nhất định. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ lý
luận hoàn thiện PLVTK còn ít, chưa có tính chất hệ thống, khái quát. Vì vậy,
có thể khẳng định rằng, luận văn này là một công trình khoa học đầu tiên,
nghiên cứu chuyên sâu phát hiện những vướng mắc, bất cập trong chế định
thừa kế của BLDS năm 2005 là một đề tài hoàn toàn độc lập, không có sự
trùng lắp với bất kỳ một công trình nào của người khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích: Phân tích cơ sở lý luận chế định thừa kế trong BLDS năm
2005 và đánh giá thực trạng PLVTK ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, nêu
lên những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện PLVTK ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có nhiệm vụ phân tích những qui định của pháp luật về Thừa
kế trong BLDS năm 2005 để tìm ra những vướng mắc, bất cập của chế định
này. Qua đó, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản
chất qui định của pháp luật về Thừa kế trong BLDS năm 2005 nhằm phát hiện
ra những vướng mắc, bất cập của chế định thừa kế.
4
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư
nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới.
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, một số phương
pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp lịch sử, phương pháp
logic, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng
hợp...cũng được sử dụng trong việc nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu, phát hiện những bất cập trong
chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005” trong luận văn này có những
điểm mới như sau:
Trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm của những qui định pháp luật về
thừa kế trong BLDS năm 2005 về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng, qua đó
nêu lên những vướng mắc, bất cập của chế định thừa kế và đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện chế định thừa kế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở
lý luận cho việc sửa đổi, bổ sung BLDS 2005. Ngoài ra, luận văn còn là
tài liệu tham khảo phục vụ công việc nghiên cứu giảng dạy và học tập của
cán bộ, giáo viên và sinh viên các Trường đại học, Cao đẳng, Trung học
chuyên nghiệp.
- Về thực tiễn: Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện PLVTK,
giúp cho việc áp dụng pháp luật về thừa kế có hiệu quả.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn được bố cục 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của chế định thừa kế
Chương 2. Thực trạng pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm Pháp luật về thừa kế
Theo pháp luật dân sự Việt Nam, Thừa kế chính là việc chuyển dịch tài
sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có
quyền hưởng thừa kế.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế, có mầm mống và xuất
hiện ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Ở thời kỳ này, việc thừa kế
nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến
hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục, tập quán riêng của
từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Nghiên cứu về thừa kế, Ph.Ăngghen viết:
Theo chế độ mẫu quyền nghĩa là chừng nào mà huyết tộc
chỉ kể về bên mẹ theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc
mới được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để
lại trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn, nên lâu nay
trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà
con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc
với người mẹ [50, tr.79].
Như vậy, thời kỳ đầu của xã hội loài người, việc thừa kế được hình
thành theo tập quán của Thị tộc. Thừa kế được phát sinh dựa trên quan hệ
huyết thống theo dòng máu của người mẹ. Khi người mẹ chết đi thì di sản
được chuyển cho những người thân thích trong thị tộc. Sự thừa kế tài sản
trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã đặt nền móng ban đầu cho sự hình
thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài sản theo huyết thống.
Quá trình phát triển của xã hội loài người đã dần làm thay đổi địa vị
7
của người đàn ông trong xã hội. Người đàn ông đã tạo ra được nhiều của cải
hơn, không những đủ nuôi sống gia đình mà còn dư thừa, nhờ đó địa vị của
người đàn ông trong gia đình và thị tộc, bộ lạc dần được thiết lập. Khi người
đàn ông đã chiếm vị trí chủ đạo của đời sống xã hội thì chế độ mẫu hệ mờ
nhạt dần và được thay thế bằng chế độ phụ hệ. Các con trong gia đình có
huyết thống với người cha mang họ của cha và được thừa kế tài sản của cha.
Như vậy, tương ứng với mỗi giai đoạn lịch sử phát triển nhất định là sự phát
triển của lực lượng sản xuất, hình thức gia đình,.. sự thay đổi quan hệ sở hữu
và theo đó việc thừa kế tài sản cũng thay đổi.
Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và
thừa kế đã xuất hiện như một yếu tố khách quan và nó thuộc về phạm trù kinh
tế. Thừa kế xuất hiện dựa trên chế độ sở hữu. Sở hữu và thừa kế có mối quan
hệ vô cùng mật thiết, nếu yếu tố sở hữu là tiền đề phát sinh thừa kế thì thừa kế
chính là phương tiện duy trì, củng cố quan hệ sở hữu.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, năng suất lao động ngày càng được nâng cao, của cải xã hội
ngày càng được làm ra nhiều hơn, không chỉ đảm bảo cho sinh hoạt gia đình
và cộng đồng thị tộc, bộ lạc mà còn dư thừa sản phẩm. Từ khi có của cải dư
thừa, những người có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc đã lợi dụng địa vị của
mình để chiếm hữu số của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất
hiện, xã hội nguyên thuỷ bắt đầu tan rã và nhường chỗ cho một chế độ xã hội
mới trong đó đã có sự phân hoá giai cấp.
Khi giai cấp đã xuất hiện trong xã hội, các giai cấp có quyền lợi đối lập
nhau (giai cấp thống trị và giai cấp bị trị), sự đối kháng giai cấp là điều tất
yếu. Các giai cấp luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt để bảo vệ lợi ích của
giai cấp mình. Tổ chức thị tộc trở nên bất lực trước yêu cầu giải quyết mâu
thuẫn xã hội, lúc này "xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức để
8
dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy hoặc cùng lắm là để cho
cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi
là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện" [15, tr.38].
Thừa kế được hình thành từ khi xã hội chưa phân chia giai cấp, nhưng
khái niệm pháp luật về thừa kế chỉ ra đời và tồn tại trong những xã hội đã
phân chia giai cấp và có nhà nước. Mỗi xã hội khác nhau thì quy định về thừa
kế cũng khác nhau. Thậm chí, trong cùng một chế độ xã hội của một nhà
nước, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, để cho phù hợp với sự phát triển của
xã hội thì pháp luật về thừa kế cũng được quy định khác nhau. Như vậy, Thừa
kế là một phạm trù pháp luật khả biến. Tùy thuộc vào sự phát triển của xã hội
mà Thừa kế có những quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ
thừa kế. Pháp luật của Nhà nước ta bảo vệ lợi ích cơ bản của mỗi người lao
động trên cơ sở bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội,
góp phần xóa bỏ những tàn tích của chế độ thừa kế do xã hội thực dân phong
kiến để lại. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, làm cho nhân dân lao động yên
tâm lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.
1.1.2. Đặc điểm Pháp luật thừa kế Việt Nam
Căn cứ vào những qui định của pháp luật về thừa kế Việt Nam từ
Thông tư số 81 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết những tranh
chấp về quyền thừa kế, Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật dân sự năm
1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 đang có hiệu lực thi hành, luật thừa kế Việt
Nam có những đặc điểm sau đây:
Đặc điểm thứ nhất, thừa kế theo pháp luật Việt Nam là chuyển dịch di
sản thừa kế và quyền sở hữu di sản được thừa kế cho chủ thể có quyền hưởng
di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật (Riêng đất đai là chuyển dịch quyền
sử dụng). Như vậy, thừa kế là căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa
kế mà người thừa kế được hưởng [84, phần 4].
9
Đặc điểm thứ hai, căn cứ vào qui định tại Điều 676 Bộ luật dân sự, các
hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam được xác định theo quan hệ huyết
thống và trong hàng thừa kế thứ hai và thứ ba, các cháu nội, cháu ngoại, chắt
nội, chắt ngoại của người để lại di sản được xác định là những người thừa kế
theo hàng nhận di sản của ông, bà nội, ngoại, các cụ nội, ngoại. Đây là một
qui định rất đặc thù, bởi vì cháu, chắt của người để lại di sản đã là những
người thừa kế thế vị theo qui định tại điều 677 rồi. Lợi ích của cháu, của chắt
nội, ngoại của người để lại di sản được bảo đảm thực hiện theo những qui
định tại các Điều 676 và 677 Bộ luật dân sự [84, phần 4].
Đặc điểm thứ ba, pháp luật thừa kế Việt Nam quan tâm đến phong
tục phổ biến trong nhân dân và bảo đảm cho phong tục tốt đẹp đó được
thực hiện theo qui định của pháp luật. Pháp luật thừa kế Việt Nam qui định
về người lập di chúc có quyền để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng theo qui định tại Điều 670. Đây là một qui định mang tính kế thừa các
luật Cổ Việt Nam, nhưng được qui định rộng rãi và có thể áp dụng một
cách linh hoạt hơn những qui định về di sản thờ cúng trong các đạo luật
của các thời kỳ trước đây [84, phần 4].
1.2.NHỮNGNGUYÊNTẮCPHÁPLUẬTVỀTHỪAKẾỞVIỆTNAM
Nguyên tắc PLVTK là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt
trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện PLVTK. Từ khi hình thành đến
nay, những nguyên tắc PLVTK ở nước ta có sự thay đổi phù hợp với bản chất
của nhà nước ở từng giai đoạn lịch sử. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở
Việt Nam được áp dụng chung cho hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa
kế theo pháp luật. Những nguyên tắc này xuất hiện trong các văn bản pháp
luật đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Dựa trên Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 97-SL ngày 22.5.1950 đã
qui định những nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ: “đàn bà ngang quyền
10
với đàn ông về mọi phương diện” [48, Điều 5]. Nguyên tắc này được coi như
một định hướng chủ đạo trong việc xây dựng các qui phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thừa kế tài sản nói riêng trong
các văn bản pháp luật sau này.
Những nguyên tắc pháp luật thừa kế đã thể hiện rõ bản chất và những
đặc trưng pháp luật về thừa kế ở nước ta, có thể nói, từ năm 1945 đến nay về
cơ bản những nguyên tắc đó không thay đổi. Pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
có những nguyên tắc cơ bản sau đây:
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà
nước bảo vệ. Gắn liền với các bản Hiến pháp, quyền thừa kế cũng như các
quyền khác của công dân được qui định khá cụ thể. Tuy Hiến pháp năm 1946
chưa quy định rõ ràng về quyền thừa kế, nhưng quyền tư hữu về tài sản được
thừa nhận. Tại Điều 12 Hiến pháp năm 1946 quy định “Quyền tư hữu tài sản
của công dân Việt Nam được bảo hộ” [54, Điều 12]. Hiến pháp 1959 Nhà
nước ta đã quy định rõ ràng hơn về quyền thừa kế. Tại Hiến pháp 1959, Nhà
nước đã chính thức ghi nhận về quyền thừa kế, tại Điều 19 Hiến pháp 1959
“Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của
công dân” [55, Điều 19]; đến Hiến pháp 1980 kế thừa và phát huy Hiến pháp 1946,
1959, tiếp tục khẳng định về quyền tư hữu tài sản của công dân và đến Hiến pháp
1992 quyền thừa kế tiếp tục khẳng định tại Điều 58 Hiến pháp 1992 "Nhà nước bảo
hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" [65, Điều 58].
Trên cơ sở các qui định của Hiến pháp, ngay điều luật đầu tiên trong phần
thừa kế (Điều 631 BLDS 2005) đã đưa ra nguyên tắc chung nhất, đó là “Quyền
thừa kế cá nhân”. Nguyên tắc này được thể hiện như sau: pháp luật đảm bảo cho
mọi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, đều có
quyền để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, mỗi cá nhân đều
11
có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Cá nhân không những
có quyền để lại tài sản hay được hưởng di sản mà còn quyền từ chối di sản thừa
kế. Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế còn thể hiện trong việc đảm bảo cho mọi
công dân có quyền sở hữu hợp pháp như của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất, không giới hạn về số lượng hay giá trị ... Tất cả mọi tài sản
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân là di sản thừa kế khi người đó chết,
được Nhà nước tôn trọng và pháp luật bảo vệ [67, Điều 631].
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân là một trong những
nguyên tắc Hiến định. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên đã qui định “Tất cả công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế,văn hóa”.
Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều kế thừa và phát triển nguyên tắc này.
Ngay khi Sắc Lệnh 97-SL ra đời, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
của công dân về thừa kế đã được ghi nhận. Theo Điều 11 của Sắc lệnh 97
Trong lúc sinh thời, người chồng góa hay người vợ góa, các con
đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của
người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung. Sắc lệnh cũng quy định
rằng “vợ và chồng có địa vị bình đẳng trong gia đình” và “người đàn bà
có chồng có toàn năng lực về hộ” [48, Điều 11].
So với các qui định của chế độ thực dân, phong kiến thì qui định này đã
loại bỏ được quan điểm trọng nam khinh nữ, đảm bảo quyền công dân.
Kế thừa và phát huy các văn bản pháp luật trước đó, trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung, trong các văn bản pháp luật nguyên tắc này vẫn được ghi
nhận và ngày càng cụ thể hóa hơn. Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa một phần
các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự. Điều 52 Hiến pháp 1992 ghi nhận
"mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" [65, Điều 52] và Điều 5 BLDS
2005 qui định "trong quan hệ dân sự các bên đều bình đẳng, không được lấy
lý do về khác biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín
12
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng
với nhau" [67, Điều 5].
Trên cơ sở các nguyên tắc định hướng, chế định thừa kế qui định trong
BLDS và một số qui định trong Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định nội dung
nguyên tắc này như sau: "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của
mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật"
[63, Điều 32]. "Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau" [63, Điều 31] "có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung [63, Điều 27, Khoản 1].
“Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi,
phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật. Những qui
định trên của pháp luật nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng trong
việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế. Pháp luật cũng qui định, không
phân biệt là con đẻ hay con nuôi, con trong giá thú, con ngoài giá thú, không
phân biệt con trai hay con gái, độ tuổi, có năng lực hành vi dân sự hay không có
năng lực hành vi dân sự... đều có quyền thừa kế tài sản của cha mẹ, đều được
hưởng thừa kế bằng nhau, nếu di sản thừa kế được chia theo pháp luật.
Những gì phân tích ở trên cho thấy, nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ
thể trong việc để lại di sản và nhận di sản thừa kế nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của công dân trong quan hệ tài sản, qua đó củng cố, nâng cao
tinh thần đoàn kết tình thân tộc, loại trừ tư tưởng trọng nam khinh nữ, phân
biệt đối xử giữa các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng một gia
đình ấm no, hạnh phúc, bền vững, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.3. Nguyên tắc tôn trọng ý chí của ngƣời có quyền thừa kế
Đây là một trong các nguyên tắc vô cùng quan trọng, nguyên tắc này
vừa ghi nhận sự bảo hộ của pháp luật đối với quyền thừa kế, vừa thể hiện
quyền của mỗi cá nhân trong việc định đoạt toàn bộ tài sản của mình.
Theo qui định của pháp luật Việt Nam, người có quyền thừa kế là công
13
dân, tổ chức. Quyền thừa kế thuộc về cá nhân được hiểu theo hai chủ thể nhất
định, đó là chủ thể để lại tài sản và chủ thể hưởng thừa kế di sản.
Trên cơ sở của nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận
được qui định tại Điều 7 BLDS, pháp luật thừa kế tôn trọng ý chí của
người có quyền thừa kế và bảo đảm một cách nhất quán nguyên tắc này
với các qui định cụ thể về quyền của cá nhân để lại tài sản và quyền của
cá nhân hưởng thừa kế [67, Điều 7].
- Đối với cá nhân người để lại tài sản với tư cách là chủ sở hữu hợp
pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực
hiện quyền định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Pháp luật không cho phép
bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng ép, đe doạ... người lập di chúc. Người để
lại thừa kế có thể thực hiện quyền định đoạt thông qua hình thức di chúc viết
hoặc di chúc miệng, có thể nhờ người làm chứng cho việc lập di chúc, có thể
yêu cầu công chứng viên đến chỗ ở của mình để lập di chúc. Di chúc chính là
hình thức xác định ý chí của một người định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu
của họ trước khi chết. Quyền định đoạt này được nêu tại Điều 648 BLDS, khi
thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có quyền chỉ định
người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di
sản cho từng người thừa kế, dành một phần tài sản trong khối di sản để di
tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định người giữ di chúc;
người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Quyền định đoạt của người có tài sản lập di chúc có hiệu lực pháp luật
khi di chúc thỏa mãn các điều kiện được qui định tại Điều 652 BLDS.
Trong trường hợp di chúc đã được xác lập, nếu muốn, người lập di
chúc vẫn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ
lúc nào [67, Điều 662].
Ý chí của cá nhân người để lại di sản được pháp luật bảo hộ và tôn trọng,
tuy nhiên, trong một số trường hợp, pháp luật qui định quyền của những người
14
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc và như vậy quyền định đoạt
của người để lại di sản cũng chỉ mang tính tương đối [67, Điều 9].
Quyền định đoạt của cá nhân để lại di sản được thể hiện không những
trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà còn thể hiện ngay trong
việc họ không lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây
cũng là một cách thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc không lập di chúc để
định đoạt tài sản của họ, mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để lại di sản của họ
cho những người có quyền thừa kế theo pháp luật.
- Đối với cá nhân có quyền hưởng di sản, pháp luật quy định người
thừa kế có quyền nhận di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản của người để lại
thừa kế nếu sự từ chối quyền hưởng di sản của người thừa kế phù hợp với
những điều kiện, nguyên tắc, thời hạn mà pháp luật đã quy định. Tuy nhiên,
nếu người được thừa kế từ chối hưởng di sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài
sản của bản thân cá nhân họ với người khác thì pháp luật không chấp nhận.
"Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác",
"việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, người từ chối phải báo
cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phải chia di sản,
công chứng nhà nước, UBND xã, phường nơi có địa điểm mở thừa kế về việc
từ chối nhận di sản", "thời điểm từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ thời điểm
mở thừa kế" [67, Điều 642].
Trước năm 1945, ở nước ta quyền định đoạt của người được hưởng di
sản bị hạn chế rất nhiều so với pháp luật hiện hành. Theo Điều 376 Dân luật
Bắc kỳ và Điều 308 Dân luật Trung kỳ, những người thừa kế thuộc diện là
con, cháu, vợ hay chồng của người chết không có quyền từ chối nhận di sản.
Dân luật Trung kỳ buộc vợ hay chồng và con, cháu trai phải nhận di sản. Ở
miền Nam, theo án lệ đã định con không có quyền khước từ di sản của người
cha để lại, con cháu của người khước từ không được hưởng di sản do cha mẹ
15
của mình đã khước từ. Hình thức khước từ phải thực hiện ở phòng lục sự Tòa
sơ thẩm tại địa điểm mở thừa kế của người chết [4, Điều 376].
Như vậy, trong thời kỳ phong kiến, do tục lệ cổ hủ mà con cháu, vợ hay
chồng của người chết bắt buộc nhận lấy tài sản riêng của mình để trả các
khoản nợ của người chết vô thời hạn. Chỉ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa nay là Nước CHXHCN Việt Nam được thiết lập thì quyền công dân
nói chung và quyền tự định đoạt về thừa kế nói riêng ngày càng được bảo
đảm một cách thực tế.
1.2.4. Nguyên tắc cá nhân ngƣời thừa kế phải còn sống vào thời
điểm mở thừa kế
Quan hệ thừa kế hình thành với những đặc thù riêng của nó. Đặc thù
đó được ghi nhận ngay trong các quy định của pháp luật như là một nguyên
tắc. Nguyên tắc này đã được quy định ở Điều 11 Sắc lệnh số 97-SL: "Trong
lúc sinh thời, người chồng góa hay người vợ góa, các con đã thành niên có
quyền xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết sau khi đã thanh
toán tài sản chung" [48, Điều 11].
Pháp luật không quy định về độ tuổi và năng lực nhận di sản thừa kế,
mà chỉ quy định quyền của cá nhân được hưởng di sản. Do vậy, người có
năng lực hành vi hay không có năng lực hành vi dân sự đều được nhận di
sản thừa kế theo pháp luật phần ngang nhau nếu họ cùng thuộc hàng thừa
kế được hưởng.
Đối với người đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì chưa có năng lực
pháp luật dân sự. Bởi vì, theo qui định của pháp luật thì: "Năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết"
[67, Điều 13]. Pháp luật cũng có quy định bảo vệ quyền thừa kế của người
con ra đời sau khi người bố chết, mà người con đó còn sống thì được hưởng
di sản của bố. Quy định tại khoản 1 Điều 635 BLDS phù hợp và thống nhất
16
với Điều 63 Luật HN & GĐ: "Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do
người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng" [67, Điều 634].
Dựa trên nguyên tắc này, Điều 685 BLDS có quy định: "Khi phân chia di sản
nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra, thì phải
dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để
nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, thì được hưởng; nếu chết trước khi
sinh ra, thì những người thừa kế khác được hưởng" [67, Điều 685]. Pháp luật
còn qui định: "Trẻ em sinh ra sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết, thì cũng
phải đăng ký khai sinh theo qui định của Nghị định này, nếu chết trước khi
khai sinh (chết lưu) hoặc sinh ra mà sống chưa được 24 giờ, thì không phải
đăng ký khai sinh" [22, Điều 20]. Như vậy, trong trường hợp đứa trẻ sinh ra
được 24 giờ trở lên rồi sau đó chết, thì đứa trẻ đó vẫn là người được thừa kế.
Người thừa kế là người có khả năng được hưởng theo quy định của
pháp luật và là người phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế để được hưởng
di sản. Nguyên tắc này đã loại trừ những người có quyền thừa kế di sản của
nhau nhưng đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong
cùng một thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước, thì họ
không được thừa kế di sản của nhau [67, Điều 641]. Những người theo quy
định tại khoản 1 Điều 643 BLDS, cũng không phải là người thừa kế theo pháp
luật do đã bị tước quyền thừa kế. Những người từ chối nhận di sản thừa kế
hợp pháp cũng không được hưởng thừa kế di sản [67, Điều 642]. Người thừa
kế theo quy định của BLDS không thể nhường quyền hưởng di sản cho người
thừa kế khác, như đã từng được quy định tại Điều 31 PLTK.
1.3. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
Pháp luật luôn nắm giữ vai trò quan trọng trong bất kỳ Nhà nước nào.
Để quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giai cấp thống trị luôn đặt ra các qui
định buộc các giai cấp khác tuân thủ, trong lĩnh vực thừa kế cũng vậy.
17
PLVTK ở Việt Nam có bề dày lịch sử, phát triển cùng với quá trình
dựng nước và giữ nước.
Để có cơ sở cho việc xem xét đối chiếu, so sánh với những quy định
của pháp luật về thừa kế hiện hành, theo tác giả việc nêu sơ lược về pháp luật
thừa kế thời kỳ trước năm 1945 là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, tác giả không
có tham vọng nghiên cứu toàn diện về vấn đề này mà chỉ xin điểm qua những
mốc thời gian quan trọng có ý nghĩa liên quan đến lịch sử xây dựng, kế thừa
và phát triển các quy định về thừa kế.
Quá trình phát triển PLVTK ở Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn sau:
1.3.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng Tháng 8/1945
* Thừa kế trong giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam
Chế độ phong kiến Việt Nam tồn tại qua rất nhiều thế kỷ, mỗi Nhà
nước phong kiến đều ban hành các văn bản pháp luật để củng cố quyền lực và
phục vụ cho công việc quản lý đất nước.
Khó có thể xác định chính xác thời điểm xuất hiện những quy định về
thừa kế trong pháp luật Việt Nam. Có ý kiến cho rằng: "PLVTK ở nước ta đã
có từ thời Hùng Vương - trước Công nguyên". Thời Hùng Vương đã quy định
việc chia tài sản... luật dân sự và tranh chấp dân sự dưới thời Hùng Vương đã
có những quy định bắt buộc [90, tr.40]. Tuy nhiên, ý kiến trên lại chưa có đủ
cơ sở để khẳng định mà chỉ là sự suy đoán logic của quá trình luật hoá các
quan hệ thừa kế. Có tác giả khác lại dựa vào sách Hậu Hán Thư để khẳng
định dưới thời Trưng Vương (40 - 43) đã có pháp luật. Trong quyển Cổ luật
Việt Nam Thông Khảo quyển 1, ông Vũ Văn Mẫn trích trong sách Hậu Hán
Thư "Mã Viện đi xứ nào, liền đặt thành quận, huyện, xây thành quách..." Có
điều trần tấu về luật viết của người Việt, so sánh với luật Hán hơn mười điều
và ông kết luận "Thời ấy đã có luật thành văn như nhà Hán". Tuy nhiên, đây
chỉ là sự phỏng đoán của ông Mẫn, cho rằng dưới thời Trưng Vương đã có
18
luật thành văn, nhưng lại không biết rõ nội dung của pháp luật thời kỳ này
quy định về những vấn đề gì.
Tuy nhiên, có thể khẳng định ở nước ta pháp luật thành văn về thừa kế
đã có từ rất sớm, đáng chú ý là các bộ luật của các triều đại phong kiến.
Thời nhà Trần, nhà nước đã ban hành pháp luật như: "Quốc Triều
Thống Chế", "Quốc Triều Thống Lễ", "Bộ Hình Thư"... tuy nhiên những bộ
luật này bị thất truyền nên không thể xác định được nội dung PLVTK.
Đến thời nhà Lê (1428 - 1787), với những thành tựu rực rỡ trên nhiều
lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, đặc biệt trong lĩnh vực lập
pháp và điển chế đã để lại nhiều văn bản pháp lý, đó chính là các bộ luật sau:
QTHL, Luật Thư (1440 - 1442), Quốc Triều Luật Lệnh (1440 - 1442), Hồng
Đức, Thiện Chính Thư (1470 - 1497), Quốc Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính
(1619 - 1705), Cảnh Hưng Điều luật (1740 - 1786).
Trong số các bộ luật trên, có thể nói QTHL là văn bản sớm nhất hiện
còn lưu giữ được, đã chứa đựng nhiều quy định khá hoàn chỉnh về thừa kế.
QTHL là di sản văn hóa đồ sộ, đặc sắc, độc nhất vô nhị của Việt Nam và có vị
trí xứng đáng trong lịch sử lập pháp thế giới. Đây là bộ luật bao trùm nhiều
nội dung khác nhau, có sức sống lâu bền và tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu
sắc tới tới các lĩnh vực của xã hội đương thời.
QTHL được xem là bộ luật quan trọng và chính thống nhất. Chính vì
vậy, khi nghiên cứu những quy định về thừa kế của pháp luật Việt Nam, các
nhà khoa học pháp lý đã lấy QTHL làm cơ sở để kết luận rằng: "PLVTK ở
Việt Nam được hình thành chính thức từ triều Hậu Lê (1428 - 1788), cụ thể
được ghi nhận trong QTHL" [91, tr.9].
Trong QTHL, các quy định thừa kế được quy định trong chương Điền
sản từ Điều 374 đến Điều 399. Theo đó, có 2 hình thức thừa kế được qui định,
19
đó là thừa kế theo di chúc (phân chia di sản theo chúc thư) và thừa kế theo
pháp luật (phân chia di sản theo pháp luật).
Về phân chia di sản theo di chúc
Bộ QTHL tôn trọng quyền tự do định đoạt của người có tài sản. Người
có tài sản có thể thể hiện ý chí của mình sau khi chết bằng chúc thư. Tại Điều
390-QTHL qui định: “Cha mẹ làm chúc thư phân chia tài sản, thiết lập hương
hỏa trong chúc thư”. Theo Điều 390 thì cha mẹ có trách nhiệm làm chúc thư để
lại tài sản cho con cái, nhằm tránh sự tranh chấp tài sản về sau. Việc lập chúc
thư được Bộ luật qui định chặt chẽ, nếu cha mẹ lập chúc thư thì phải tuân theo
quy định của pháp luật về hình thức để đảm bảo tính giá trị của chúc thư.
Khi lập chúc thư mà không biết chữ phải nhờ quan trưởng trong
làng viết và phải nhờ người làm chứng xác nhận nội dung di chúc đó
đúng với ý chí của người lập chúc thư. Nếu vi phạm điều này thì chúc
thư không có giá trị. Trong trường hợp người biết chữ mà tự viết chúc
thư thì chúc thư có giá trị [91, Điều 366].
Ngoài hình di chúc bằng văn bản, pháp luật còn cho phép lập di chúc
miệng đó là "lệnh" của ông bà, cha mẹ. Điều 388 quy định "nếu có lệnh của ông
bà và chúc thư thì phải theo đúng, trái thì mất phần mình" [91, Điều 388]. Như
vậy, mệnh lệnh của ông bà, cha mẹ chính là chúc ngôn trước khi chết. Tuy
nhiên, bộ QTHL không quy định mệnh lệnh này được phát ra trong tình trạng
sức khoẻ và hoàn cảnh nào, nhưng theo quan điểm nho giáo thì các con cháu
tuyệt đối phải nghe theo lời ông bà, cha mẹ. Vì vậy, theo phỏng đoán logic,
mệnh lệnh này có thể được ban phát ra bất cứ lúc nào đều có giá trị. Trong
trường hợp cháu con vi phạm mệnh lệnh hoặc chúc thư của ông bà, cha mẹ thì
mất quyền thừa kế.
Về chia di sản theo pháp luật
Mặc dù là Bộ luật được ra đời trong thời kỳ nhà nước phong kiến,
20
tuy nhiên QTHL có những qui định rất tiến bộ, tôn trọng thực sự quyền
định đoạt của người có di sản và đảm bảo quyền lợi của những người có
quyền hưởng di sản. Bộ QTHL qui định, trường hợp thừa kế theo pháp luật
chỉ áp dụng khi không có di chúc (Điều 388) hoặc có chúc thư nhưng chúc
thư vô hiệu [91, Điều 366].
Người thừa kế theo pháp luật là con cháu (hàng 1), nếu không có con,
cháu thì chia cho cha mẹ (hàng 2). Người vợ goá hoặc chồng goá không thuộc
diện thừa kế của người chồng hoặc vợ. Mặc dù pháp luật không qui định cho
người chồng giá, vợ góa được hưởng thừa kế nhưng để đảm bảo cho cuộc
sống của người vợ goá, chồng goá, pháp luật cho phép người vợ goá, chồng
goá sẽ được hưởng một phần điền sản của người chồng hoặc người vợ để nuôi
sống một đời người. Phần điền sản này người vợ goá, chồng goá không được
quyền sở hữu. Nếu người vợ goá, chồng goá chết thì phải trả lại điền sản cho
họ hàng người chết trước [91, Điều 376].
Bên cạnh những quy định về quyền thừa kế giữa vợ chồng, QTHL có
rất nhiều qui định về quyền thừa kế của các con đối với tài sản của cha mẹ.
Theo Điều 377, Điều 378, Điều 380, Điều 388 QTHL khi bố mẹ chết con cái
được hưởng thừa kế toàn bộ tài sản và được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất,
dù đó là con trai hay con gái, con vợ lẽ hay con vợ chính, con nuôi hay con
đẻ. Tuy nhiên, mức độ và phần hưởng có thể khác nhau, con trai (nhất là con
trai trưởng) con vợ cả, con đẻ thường được hưởng nhiều hơn. Quyền thừa kế
tuyệt đối này được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đều bị nghiêm
trị. Trường hợp khi bố hoặc mẹ chết, con cái còn nhỏ thì phần tài sản của
chúng được bố hoặc mẹ còn sống hoặc đại diện họ hàng quản lý giúp và giao
lại cho con cái khi chúng đã trưởng thành [91, Điều 377, 378, 380, 388].
QTHL cũng qui định về di sản dành cho việc thờ cúng (hương hỏa).
Trong QTHL có 13 điều luật quy định về hương hoả. Hương hoả là một phần
21
điền sản của người chết dành lại giao cho người con để lo phần mộ của người
chết và họ hàng. Số Điền sản dùng làm hương hoả là 1/20 điền sản. Theo
nguyên tắc chung là giao cho con trai trưởng, không có con trai trưởng thì
giao cho con trai thứ, không có con trai thì giao cho con gái trưởng. Trường
hợp bị tuyệt tự thì dòng họ sẽ cử người thừa tự giữ hương hoả. Người con gái
trưởng chỉ được hưởng đất hương hoả một đời mình, sau đó phải trả lại cho
nội tộc để đảm bảo dòng chảy liên tục về huyết thống, đất hương hoả bao giờ
cũng thuộc về một dòng họ nội [91, Điều 354].
Với những qui định được nêu ở trên, chúng ta thấy rằng, QTHL mặc dù
ra đời trong xã hội chịu ảnh hưởng nặng nề bởi quan niệm nho giáo nhưng
vẫn chứa đựng những tư tưởng tiến bộ của xã hội phong kiến Việt Nam. Đó là
sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản. Vợ chồng có quyền có
tài sản riêng hoặc vợ chồng có quyền sở hữu chung những tài sản do vợ
chồng làm ra, con trai, con gái đều được hưởng một kỷ phần như nhau, con
gái được giữ của hương hoả để thờ cúng ông bà, cha mẹ. Con vợ lẽ, cũng như
con vợ chính, con đẻ cũng như con nuôi đều có quyền thừa kế. Ngoài ra,
QTHL còn quy định những người không nghe lệnh của ông bà, cha mẹ thì
mất quyền thừa kế.
Những qui định này không chỉ là những qui định mang tính pháp lý mà
còn mang tính nhân văn rất cao. Tư tưởng trong QTHL khá rõ ràng, Thừa kế
di sản chính là sự kế thừa tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, vừa củng cố
sở hữu của công dân, vừa củng cố quan hệ hôn nhân và gia đình; giáo huấn
các thế hệ con cháu biết giữ gìn và phát huy di sản của tổ tiên để lại, giữ đạo
làm con. Con cháu phải biết vâng lời cha mẹ, ông bà, không được tranh giành
của cải gây mất đoàn kết trong gia tộc. Việc Bộ luật quy định trích 1/20 di sản
dùng vào thờ cúng là một nét bản sắc văn hoá của người Việt Nam, thể hiện
tấm lòng thờ kính tổ tiên, ông bà, cha mẹ của thế hệ sau...
22
Cũng như nhiều lĩnh vực khác, trong lĩnh vực lập pháp, Nhà Lê đã
truyền lại cho đời sau những công trình độc đáo, có giá trị rất lớn cho việc
nghiên cứu đối với hoạt động xây dựng pháp luật nói chung và trong lĩnh vực
thừa kế nói riêng.
Như phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng, thời nhà Lê, pháp luật mang
tính nhân văn rất cao, tôn trọng quyền con người, đặt con người vào vị trí
trung tâm của mọi hoạt động.
Thời nhà Nguyễn, do sự lệ thuộc về chính trị nên pháp luật triều
Nguyễn là bản sao chép pháp luật của nhà Thanh (Trung Quốc). Bộ luật
Gia Long (1815) chỉ là sự sao chép gần như nguyên vẹn Bộ luật của triều
Mãn Thanh. Bộ luật Gia Long không những không kế thừa mà còn phủ
nhận toàn bộ những thành tựu mà luật pháp thời Lê đã gây dựng được.
Trong Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử diễn giảng, ông Vũ Văn Mẫn đã
nhận xét: "... Bộ luật ấy mất hết cả tính đặc thù của nền pháp luật Việt Nam.
Bao nhiêu sự tân kỳ mới lạ trong Bộ luật triều Lê không còn lưu lại một chút
dấu tích nào trong Bộ luật nhà Nguyễn, như những điều khoản liên quan đến
hương hoả, đến chúc thư" [47, tr.153].
Luật pháp thời Nguyễn có ít các quy định về thừa kế. Nguyên tắc
truyền thống công nhận sự bình đẳng giữa các con trong việc hưởng di sản
của cha mẹ không được thừa nhận. Bộ luật Gia Long không thừa nhận quyền
thừa kế của con gái mà chỉ chú trọng đến quyền lợi của con trai. Các qui định
về thừa kế theo Bộ luật Gia Long thể hiện rõ nét chế độ hôn nhân - gia đình
phong kiến phương Đông: "Tứ đức tam tòng"; "Quyền huynh thế phụ"; "Nữ
sinh ngoại tộc"; "chồng chúa vợ tôi"... con gái chỉ có quyền thừa kế gia tài khi
cha mẹ di chúc cho tài sản mà thôi.
Do đề cao vai trò của trưởng nam nên tài sản của cha mẹ chủ yếu là để
lại cho con trai, đất hương hoả nhất thiết phải dành phần cho con trưởng nam
23
và cháu đích tôn, con gái chỉ được thừa hưởng khi một gia đình tuyệt tự. Cha
mẹ với tư cách là chủ sở hữu, cũng không có quyền làm khác, không thể để
cho một người con gái hưởng hoa lợi hương hoả, dù người con gái ấy là chị
cả và dù người con gái ấy sống độc thân đến khi chết.
"Đối với tài sản của vợ chồng, kể từ khi có chồng người đàn bà mất hết
nặng lực hành vi dân sự. Sau khi thành vợ chồng chính thức, người chồng trở
nên người chủ tất cả tài sản chung của vợ chồng, làm chủ luôn tất cả tài sản
của người vợ đem về nhà chồng, động sản cũng như bất động sản" [43, tr.24].
Nếu vợ chết trước, dĩ nhiên chồng tiếp tục làm chủ tài sản ấy với tư cách là
chủ sở hữu. Nhưng trong trường hợp chồng chết trước, người vợ không được
quyền thừa kế, vợ chỉ được tiếp tục hưởng hoa lợi trên tài sản của chồng để
lại cho đến chết, nếu không tái giá, không làm điều bất xứng. Đồng thời người
vợ goá có nghĩa vụ phải trả hết các khoản nợ của chồng, dù nợ nhiều hơn của
để lại. Trong trường hợp vợ không "thủ tiết" thờ chồng, thì tự nhiên người
goá phụ mất hết quyền hưởng hoa lợi, bị bên nhà chồng trưng bằng cớ để lấy
lại ruộng đất.
Như vậy, do bị lệ thuộc, pháp luật triều Nguyễn nói chung và Bộ HVLL
nói riêng đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của luật nhà Thanh, "mất hết cá tính của
nền pháp luật Việt Nam" [47, tr.257]. Có thể nói, pháp luật triều Nguyễn cũng
như những quy định PLVTK thời này không những không có sự tiến bộ mà
còn thụt lùi hơn so với những thành tựu của triều Lê trước đó đã đạt được.
* Thừa kế trong giai đoạn Pháp thuộc đến tháng 8/1945
Giai đoạn này Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Do
phải chịu chế độ đô hộ của thực dân Pháp, pháp luật nói chung và PLVTK nói
riêng của thời kỳ này thể hiện hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu và ảnh hưởng
tư tưởng Tư sản "nền cộng hoà Pháp" với chính sách "chia để trị". Hệ thống
pháp luật trong giai đoạn này chỉ là công cụ của thực dân pháp nhằm thực
24
hiện chính sách thuộc địa. Bản chất của chế độ nô dịch thuộc địa được bộc lộ
công khai không những trong những chính sách cai trị của thực dân Pháp, mà
cả trong các qui phạm pháp luật. So với pháp luật thời nhà Lê và thời nhà
Nguyễn thì PLVTK thời Pháp thuộc (1858 - 1945) theo khuôn mẫu của
BLDS Napoleon, được quy định một cách chi tiết trong Bộ luật Dân luật Bắc
kỳ và Trung kỳ. Hai Bộ luật này đều quy định hai hình thức thừa kế, đó là
thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Về thừa kế theo di chúc: Bộ dân luật Bắc kỳ và Trung kỳ đều quy định
người thành niên hoặc đã thoát quyền, nếu có đủ trí khôn đều có thể làm di
chúc để xử trí tất cả tài sản của mình (Điều 321 Dân luật Bắc kỳ; Điều 313 Dân
luật Trung kỳ). Người cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình,
nhưng phải giữ quyền lợi cho vợ chính. Vợ chính, vợ thứ trong khi đương giá
thú có thể định đoạt tài sản riêng của mình nếu chồng ưng thuận (Điều 320 Dân
luật Bắc kỳ, Điều 312 Dân luật Trung kỳ). Người lập di chúc có thể truất quyền
thừa kế của một hay nhiều người trong những người được thừa kế. Việc truất
quyền thừa kế phải được lập thành văn bản do Viên quản lý văn khế lập hoặc
do Lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư [4, Điều 321].
Hình thức di chúc phải lập thành văn bản, do Viên quản lý văn khế
hoặc công chức thị thực làm ra. Di chúc không có viên chức thị thực phải do
người lập di chúc viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người
khác viết thay thì phải có ít nhất hai người thành niên làm chứng. Người làm
chứng thường là Lý trưởng tại nơi trú quán của người lập chúc thư, nếu ở xa
không về nơi trú quán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý
trưởng nơi hiện ở của người lập chúc thư (Điều 326 Dân luật Bắc kỳ và Điều
315, Điều 316 Dân luật Trung kỳ). Ngoài ra các vấn đề nội dung di chúc,
năng lực chủ thể của người lập di chúc, vấn đề hương hoả... cũng đều được
quy định rõ trong hai bộ luật này [5, Điều 316].
25
Về thừa kế theo pháp luật: Trong thời kỳ thực dân phong kiến, vị trí
của người vợ không được xem trọng và bị đẩy xuống hàng thứ yếu, nên
không có sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân. Tư tưởng
duy trì và bảo vệ sự tồn tại của gia đình, dòng tộc được đặt lên hàng đầu, nên
chế định thừa kế luôn bảo vệ quyền hưởng di sản của những người trong quan
hệ huyết thống nội tộc. Do vậy, theo quy định từ Điều 337 đến Điều 343 Dân
luật Bắc kỳ và từ Điều 332 đến Điều 338 Dân luật Trung kỳ thứ tự ưu tiên
hưởng di sản, khi chia theo pháp luật như sau:
Thứ tự thứ nhất: Các con (con đẻ, con nuôi, con vợ cả, con vợ lẽ, con
trai, con gái); nếu không còn con thì cháu của người để lại di sản mới được
hưởng di sản của ông bà.
Thứ tự thứ hai: cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người để lại di
sản, nếu người để lại di sản không còn con cháu.
Thứ tự thứ ba: ông nội, bà nội; nếu ông bà nội không còn thì các cụ nội
của người để lại di sản được hưởng.
Thứ tự thứ tư: anh, chị, em ruột. Nếu anh, chị, em ruột chết trước thì
con của anh, chị, em ruột được hưởng và cháu của anh, chị, em ruột sẽ được
hưởng di sản, nếu con của anh, chị, em ruột cũng đã chết.
Thứ tự thứ năm: Những người bên họ ngoại của người để lại di sản chỉ
được hưởng sau khi đã xác định bên họ nội không còn ai thừa kế hoặc có
nhưng đều bị coi là người không xứng đáng được hưởng di sản [4, Điều 337].
Với thứ tự những người được chỉ định thừa kế theo hàng như vậy, ta
thấy không có bóng dáng của người vợ hoặc chồng khi một bên chết trước.
Theo quy định Bộ Dân luật Bắc kỳ, Bộ Dân luật Trung kỳ thì người vợ goá
chỉ là người thừa kế cuối cùng của người chồng khi không còn thân thuộc nào
khác bên họ nội của người chồng. Xét trong xã hội phong kiến, quy định này
khó mà thực thi, bởi lẽ xã hội thừa nhận chế độ đa thê và trong gia đình
26
thường có rất nhiều con, thử hỏi trong thứ tự hưởng di sản bao giờ mới đến
người vợ goá.
Ngoài quy định hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp
luật, Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Dân luật Trung kỳ còn quy định rất cụ thể vấn
đề hương hoả. Theo Điều 395, Điều 398 Bộ Dân luật Bắc kỳ và và Điều 401,
402 Bộ Dân luật Trung kỳ thì người có tài sản có thể lập hương hoả để thờ
cúng người đó. Tài sản để hương hoả có thể là động sản, có thể là bất động
sản sinh lời. Việc lập hương hoả có thể làm ngay vào chúc thư hoặc biên vào
giấy chia gia tài, hoặc lập thành giấy tờ riêng [5, Điều 401].
Tài sản làm hương hoả không được quá 1/5 tổng số tài sản của người
lập hương hoả. Tài sản hương hoả được giao cho người con trai trưởng của
người vợ chính. Nếu con trai trưởng không còn thì giao cho cháu đích tôn.
Nếu con trai trưởng không có con trai thì người được hưởng là con trai thứ
tiếp theo của người vợ chính. Nếu vợ chính không có con trai thì người được
hưởng của hương hoả là người con trai lớn tuổi nhất trong các con của người
vợ thứ. Nếu người mệnh một là con thứ không có con trai trưởng để thừa tự
thì có thể lập con gái trưởng đứng thừa hưởng hương hoả để phụng tự mình.
Trong trường hợp trưởng nữ đứng thừa hưởng hương hoả chết, thì của hương
hoả lại truyền cho trưởng nữ, nếu không có trưởng nữ thì giao cho đích tôn
của người trưởng nữ [12, tr.139].
Với một số nội dung chính của hai Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Dân luật
Trung kỳ vừa trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng các quy định về thừa kế
theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, di sản dùng làm hương hoả được quy
định rất cụ thể. Riêng ở Nam kỳ Bộ Dân luật giản yếu (1883) lại không có
quy định về thừa kế. Văn bản này là sự sao chép chủ yếu Bộ Dân luật cộng
hoà Pháp (1804) và nó tập trung làm rõ các vấn đề chung về chủ thể, năng lực
pháp luật dân sự, tư cách đương sự... Chỉ đến năm 1925 theo Sắc lệnh ngày
27
21/7/1925 thì vấn đề thừa kế mới được ghi nhận. Song sự quy định ấy lại
chưa rõ ràng, quá sơ lược.
Tóm lại, PLVTK trong giai đoạn trước tháng 8/1945 đã ghi nhận phù
hợp với hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam qua các triều đại, thể hiện bản chất
giai cấp của chế độ phong kiến và thực dân – phong kiến. Vấn đề bất bình
đẳng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ chưa được giải quyết. Tuy nhiên,
trong một chừng mực nhất định, PLVTK trong giai đoàn này cũng đã phản
ánh được những phong tục, tập quán tiến bộ cùng với các thành tựu trong lĩnh
vực lập pháp của châu Âu lục địa (mà chủ yếu là Bộ Dân luật Pháp).
1.3.2. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8/1945 đến trƣớc 01/7/1996
1.3.2.1. Giai đoạn 1945 - 1975
Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, một nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Ngay từ đầu thành lập, Nhà nước non trẻ phải đối phó bao nhiêu vấn đề
phức tạp về chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội…. Nhiệm vụ chủ yếu của
Nhà nước là phải bảo vệ củng cố thành quả cách mạng, kể các các vấn đề
liên quan đến vấn đề dân sự. Tuy nhiên, do điều kiện thời điểm lịch sử lúc
đó chưa cho phép chúng ta xây dựng và ban hành kịp thời các văn bản pháp
luật mới. Để đảm bảo cho các quan hệ xã hội về dân sự phát triển bình
thường, Nhà nước cần phải có hệ thống pháp luật. Vì vậy, ngày 10/10/1945
Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành Sắc
lệnh 90/SL cho phép áp dụng luật lệ cũ, nếu nó không trái với nguyên tắc
"Độc lập của nước Việt Nam và chủ thể dân chủ cộng hoà". Như vậy, khi
giải quyết tranh chấp về thừa kế trong thời kỳ này chủ yếu vẫn áp dụng
những quy định trong Bộ luật Dân luật Bắc, Trung, Nam kỳ.
Ngày 9.11.1946, Hiến pháp 1946 ra đời với mục đích ghi nhận những
thành tích vẻ vang của Cách mạng và xây dựng đất nước, xóa bỏ tàn tích của
28
chế độ cũ, thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp
với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại.
Ngày 22/5/1950, Hồ Chủ tịch đã ký ban hành Sắc lệnh 97/SL về việc sửa
đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật cũ, qui định một số nguyên tắc mới
để áp dụng trong điều kiện của nền dân chủ nước ta. Bằng Sắc lệnh 97, PLVTK
ở Việt Nam đã có những nguyên tắc hết sức tiến bộ, phá vỡ sự cổ hủ, lỗi thời
trong PLVTK trước đó. Các nguyên tắc được quy định trong Sắc lệnh 97/SL như
con cháu hoặc vợ chồng của người chết cũng không bắt buộc phải nhận thừa kế
của người ấy; các chủ nợ của người chết không có quyền đòi nợ qúa số di sản để
lại, con trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha mẹ; người đàn bà có
chồng, có toàn năng về mặt hộ; các quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người
ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân... [48, tr.72].
Những nội dung trên của Sắc lệnh số 97 đã cụ thể hoá Điều 9 Hiến
pháp năm 1946 "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" và
Điều 12 Hiến pháp 1946 "Quyền sở hữu tài sản của công dân Việt Nam được
bảo đảm". Có thể nói, Sắc lệnh 97 đã đảm bảo quyền bình đẳng về thừa kế
của công dân. Tư tưởng tiến bộ này cho đến ngày nay vẫn còn được giữ
nguyên ý nghĩa chủ đạo trong việc xây dựng, phát triển và vận dụng các quy
định của PLVTK nói riêng và pháp luật dân sự nói chung.
Để giải quyết tranh chấp thừa kế một cách thống nhất đối với Tòa án các
cấp, dựa trên các qui định của Hiến pháp 1946 và tinh thần của Sắc lệnh 97, Bộ
tư pháp đã ban hành Thông tư số 1742 ngày 18/9/1956 hướng dẫn như sau:
Vợ hoặc chồng của người chết có quyền thừa kế ngang với các con, vợ lẽ
và con nuôi chính thức của người để lại di sản có quyền thừa kế như vợ cả và con
đẻ của người đó. Vợ goá của người để lại di sản đều có quyền thừa kế di sản của
chồng và hưởng phần di sản ngang với các thừa kế cùng hàng khác [71, tr.37].
Quy định trong thông tư số 1742 nói trên đã cũng cố và phát triển thêm
29
nguyên tắc "người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ" mà Sắc lệnh
97 đã quy định [71].
Sau khi hòa bình lặp lại ở Miền Bắc, nhân dân miền Bắc đã thu được
nhiều thành tích to lớn trong việc khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá. Trong
giai đoạn mới của cách mạng, Quốc hội đã sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946
cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.
Ngày 31.12.1959, Hiến pháp 1959 ra đời. Bên cạnh những qui định
nhằm phát huy sức mạnh toàn dân, ngoài ra cũng có rất nhiều qui định về thừa
kế, đảm bảo quyền sở hữu của nhân dân.
Hiến pháp 1959 đã công nhận vấn đề thừa kế thành nguyên tắc, tại
Điều 14 của Hiến pháp đã chính thức ghi nhận: Pháp luật bảo hộ quyền sở
hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân, đồng thời pháp
luật bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác, quyền thừa kế tài sản tư hữu
của công dân được bảo đảm. Điều 19 qui định "Nhà nước chiếu theo pháp luật
bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân" và Điều 16 Luật HNGĐ năm
1959 qui định "vợ và chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau"; "các con có
nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong quy định nói chung và trong lĩnh vực
hưởng thừa kế nói riêng" [55, Điều 19].
Sau này, để đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác xét xử trong phạm vi
chức năng do Luật tổ chức Tòa án qui định, Tòa án nhân dân tối cao đã ban
hành nhiều thông tư hướng dẫn cụ thể để Toà án các cấp có sự thống nhất
chung về đường lối xét xử. Thông tư 594/NCPL ngày 27/8/1968 hướng dẫn
đường lối xét xử các việc tranh chấp về thừa kế. Thông tư số 594 hướng dẫn
giải quyết tranh chấp về thừa kế có quy định cụ thể: Quyền bình đẳng nam nữ
trong việc hưởng di sản; các con của người chết không phân biệt giới tính, trẻ
già, có năng lực hành vi hay không có năng lực hành vi dân sự đều được
hưởng phần di sản ngang nhau; vợ hoặc chồng của người để lại di sản được
30
thừa kế ở hàng thứ nhất cùng với các con của người đó. Thông tư 02/TATC
ngày 2/8/1973 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế di sản liệt sĩ...
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, PLVTK trong giai đoạn 1945-1975
về cơ bản vẫn áp dụng các qui định của Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ
và Pháp quy giản yếu (1873), tuy nhiên có sự áp dụng linh hoạt, mang nội
dung mới tiến bộ, hướng tới việc xoá bỏ những quan niệm lạc hậu, tư tưởng
trọng nam, khinh nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ, bình đẳng mọi công dân
trong lĩnh vực thừa kế.
1.3.2.2. Giai đoạn từ 1975 - 1990
Kể từ sau 30.4.1975, nhân dân Việt Nam bước vào một giai đoạn vô cùng
đặc biệt. "Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam chuyển
sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập thống nhất... tiến hành cách
mạng XHCN, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH" [77, tr.75].
Khác hẳn với các quy định của pháp luật trước đó, cá nhân không còn
quyền sở hữu đối với đất đai, kể từ ngày Hiến pháp năm 1980 có hiệu lực thi
hành. Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế của công dân, tuy nhiên trong di sản
thừa kế của công dân Việt Nam trong giai đoạn này không còn tài sản là đất
đai nữa. Từ quy định cơ bản này, quyền sở hữu của công dân Việt Nam trong
giai đoạn 1975-1990 chỉ giới hạn trong phạm vi các tài sản như "thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng
trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ" [81, Điều 27].
Để có đường lối áp dụng thống nhất cho Toà án các cấp trong công tác
xét xử giải quyết tranh chấp về thừa kế, đồng thời bổ sung một số vấn đề cho
phù hợp với quy định của Hiến pháp mới, qua tổng kết rút kinh nghiệm công
tác xét xử, ngày 24/7/1981 TANDTC đã ban hành Thông tư 81 để hướng
dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Thông tư 81 đã có những đóng góp
nhất định trong việc hoàn thiện PLVTK. Thông tư đã quy định nhiều vấn đề
như: xác định di sản thừa kế, trình tự thừa kế theo di chúc và theo pháp luật,
31
thừa kế thế vị, việc thừa kế của những người chết cùng vào một thời điểm,
chia di sản thừa kế.
Tuy chỉ là một văn bản hướng dẫn đường lối giải quyết những tranh
chấp về quyền thừa kế, nhưng nội dung của Thông tư số 81 đã bao quát
tương đối đầy đủ và toàn diện các vấn đề về thừa kế so với các văn bản
trước đó. Theo Thông tư 81 thì quan niệm về di sản thừa kế bao gồm toàn bộ
tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết. Thông tư 81 cũng
quy định về thừa kế theo di chúc cụ thể hơn so với thông tư 594, tại chương
IV hướng dẫn chi tiết về thừa kế theo di chúc; trong đó quy định rõ về hình
thức di chúc, quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc, nghĩa vụ phải
dành lại một phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc của người lập di
chúc. Về thừa kế theo pháp luật, Thông tư 81 quy định có 2 hàng thừa kế.
Hàng thừa kế thứ nhất: vợ goá hoặc chồng goá, các con đẻ và con nuôi, bố
đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi. Hàng thừa kế thứ hai: ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ và cùng mẹ
khác cha, anh chị em nuôi. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất được thừa
kế trước và thừa kế toàn bộ di sản. Nếu ở hàng thứ nhất không có ai hoặc tuy
có nhưng họ đều không nhận thì mới đến những người thừa kế ở hàng thứ
hai. Các người thừa kế trong cùng một hàng, được hưởng một suất ngang
nhau. Ngoài ra, Thông tư 81 còn quy định trong trường hợp những người
thừa kế lẫn nhau chết trong cùng một thời điểm hoặc không thể xác định
được ai chết trước thì không ai được thừa kế của ai, di sản của người nào
chia cho người thừa kế của người đó. Có thể nói rằng Thông tư 81/TANDTC
ngày 24/7/1981 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định khá chi tiết về thừa kế
từ sau cách mạng tháng 8 đến trước khi có PLVTK 1990. Thông tư 81 là văn
bản thừa kế được áp dụng thống nhất cho cả nước, đóng vai trò là căn cứ
pháp lý để giải quyết các tranh chấp về thừa kế [75, A,phần III ].
32
- Thông tư số 81 chỉ là một văn bản hướng dẫn đường lối giải quyết
những tranh chấp về quyền thừa kế trong bối cảnh một đất nước mới được
thống nhất. Những nguyên tắc cơ bản về quyền thừa kế của công dân được quy
định tại Điều 27 Hiến pháp năm 1980 là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng
nội dung của Thông tư số 81. Nội dung của Thông tư số 81 không thể giải
quyết được toàn diện các yếu tố khách quan phát sinh trong quan hệ thừa kế.
- Thông tư số 81 được ban hành trong thời kỳ nền kinh tế ở nước ta
được quản lý theo cơ chế tập trung, bao cấp. Theo cơ chế này, quyền sở hữu
của Nhà nước và của tập thể được ưu tiên bảo vệ, còn quyền sở hữu và quyền
thừa kế của công dân chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện.
Việt Nam nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng, Thông tư số 81 đã
là một Dù có những hạn chế trên, nhưng trong lịch sử phát triển luật dân sự
văn bản tương đối hoàn chỉnh về các quy phạm liên quan đến quyền thừa kế
của công dân trước khi có PLTK năm 1990, đánh dấu một bước trưởng thành
và đáp ứng được yêu cầu của một thời kỳ lịch sử.
Đáp ứng sự phát triển không ngừng của xã hội, khắc phục những hạn
chế của các văn bản hướng dẫn giải quyết tranh chấp thừa kế trước đó, ngày
30/8/1990 Hội đồng Nhà nước CHXHCNVN đã thông qua Pháp lệnh thừa kế,
có hiệu lực từ ngày 10/9/1990. PLTK 1990 được ban hành là một văn bản
pháp luật có hiệu lực pháp lý cao đầu tiên quy định khá đầy đủ về thừa kế ở
nước ta kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi có BLDS của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1995.
Pháp lệnh thừa kế gồm 38 điều, chia làm 6 chương, trong đó đã xác
định được những nguyên tắc cơ bản về thừa kế, về quyền bình đẳng thừa kế
của công dân, thừa kế theo di chúc, diện và hàng thừa kế, thời hiệu, yêu cầu
chia di sản thừa kế...
Về thừa kế theo di chúc: Quy định tại chương II từ Điều 10 đến Điều 23
33
của Pháp lệnh thừa kế 1990. Theo pháp lệnh công dân có quyền lập di chúc để
chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một người
hoặc nhiều người trong hoặc ngoài các hàng thừa kế theo pháp luật, cũng như
cho cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội. Người lập di chúc có
quyền chỉ định người thừa kế, phân định tài sản cho người thừa kế, giao nghĩa
vụ cho người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của một hoặc nhiều người thừa
kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lý do. Đặc biệt Pháp lệnh thừa
kế còn quy định cụ thể hơn về nội dung di chúc (Điều 13), hiệu lực di chúc (Điều 23),
hình thức di chúc (Điều 14, 15, 16, 17, 18), về những người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc (Điều 20). Sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc (Điều 22), các
điều kiện có hiệu lực di chúc [87, Điều 13, 14,15,16,17,18,20,22,23].
1.3.3. Giai đoạn từ 01/07/1996 đến nay
Để phù hợp với sự đổi mới mọi mặt của đất nước và đáp ứng nhu cầu
phát triển của toàn xã hội, Hiến pháp năm 1992 đã được ban hành. Chế độ sở
hữu đã được Hiến pháp năm 1992 quy định tương ứng với các thành phần
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và
kinh tế gia đình. Theo quy định tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992, công dân
không những có quyền sở hữu về tư liệu tiêu dùng, mà còn có quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác không bị hạn chế trong những ngành, nghề có lợi cho quốc
kế dân sinh [65].
Bộ luật Dân sự của nước ta đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1-
7-1996. Với tinh thần kế thừa và phát triển pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ
1945 đến nay, quyền thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam được quy
định trong BLDS là một bước phát triển và hoàn thiện pháp luật thừa kế ở
Việt Nam. BLDS 1995 ra đời là kết quả của quá trình kiểm nghiệm, sàng lọc
thực tiễn của đời sống xã hội và hệ thống hoá, pháp điển hoá, pháp luật dân sự
của chính quyền nhân dân.
34
- Về thừa kế theo di chúc: BLDS 1995 quy định gồm 28 điều, từ Điều
649 đến Điều 676, tăng thêm 14 điều so với Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Một
số vấn đề chưa được đề cập trong Pháp lệnh thừa kế, nay được quy định rõ
như: định nghĩa di chúc (Điều 649); người làm chứng cho việc lập di chúc
(Điều 657); di chúc chung cho vợ chồng (Điều 666, Điều 667, Điều 671); di
tặng (Điều 674); di chúc bị thất lạc, hư hại (Điều 669); gửi giữ di chúc, công
bố di chúc, giải thích nội dung di chúc (Điều 668, Điều 675, Điều 676);
Đối với trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc (Điều 672) đã được quy định trong Pháp lệnh thừa kế, BLDS 1995 tiếp
tục kế thừa và có sự sửa đổi so với Pháp lệnh thừa kế ở chỗ không đòi hỏi
người thừa kế là cha, mẹ, vợ, chồng phải là người túng thiếu và không đủ khả
năng lao động như Pháp lệnh thừa kế quy định [60, Điều 672].
Có thể nói, BLDS 1995 nói chung và các quy định về thừa kế trong bộ
luật này nói riêng là một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp
luật dân sự, hoàn thiện PLVTK ở Việt Nam. Bộ luật đã khắc phục kịp thời
những vướng mắc, bất cập, sự thiếu tập trung, không đầy đủ của PLVTK
được quy định trước đó. Những quy định này đã củng cố quyền sở hữu và
quyền thừa kế tài sản của công dân phù hợp với công cuộc công nghiệp hóa-
hiện đại hóa đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Quyền thừa kế của công dân được quy định trong BLDS 1995 đã góp phần
bảo vệ các quyền dân sự và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày
càng đa dạng của các quan hệ xã hội, tranh chấp về thừa kế có xu hướng gia
tăng về số lượng, phức tạp về nội dung, giá trị về di sản thừa kế ngày càng
lớn. Lúc này, khi giải quyết tranh chấp về thừa kế không chỉ đơn giản là áp
35
dụng BLDS 1995 mà còn bị chi phối các văn bản pháp luật liên quan khác.
Do vậy, để hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự, PLVTK, ngày 14/6/2005, tại
kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI đã thông qua BLDS sửa đổi 2005, có hiệu lực
thi hành từ ngày 1/1/2006.
Các quy định về thừa kế trong BLDS 2005 cơ bản kế thừa các quan
điểm cũ và quy định một số điểm mới như sau:
- Về hàng thừa kế: theo Điều 676 - BLDS năm 2005 quy định về người
thừa kế theo pháp luật và số lượng hàng thừa kế vẫn là ba hàng thừa kế như
BLDS năm 1995. Những người thừa kế theo quan hệ huyết thống bàng hệ và
trực hệ vẫn được giữ nguyên và cũng bao gồm những người như quy định
trong BLDS năm 1995. Tuy nhiên, tại hàng thừa kế thứ hai, BLDS năm 2005
bổ sung cháu nội, cháu ngoại của người để lại di sản được hưởng di sản theo
trình tự hàng và tại hàng thừa kế thứ 3 là chắt ruột của người chết mà người
chết là cụ nội, cụ ngoại. Đây là điểm mới so với quy định về thừa kế theo
hàng tại Điều 679 - BLDS năm 1995. Tại Điểm b, Điểm c khoản 1 Điều 676
BLDS năm 2005 đã quy định mở rộng phạm vi người thừa kế theo hàng,
nhằm giải quyết có hiệu quả những quan hệ xã hội có liên quan đến việc chia
di sản và nhận di sản thừa kế.
- Về việc từ chối nhận di sản: Điều 642 trong BLDS 2005 đã quy định
tương tự như Điều 645 trong BLDS 1995 là: trong trường hợp người có quyền
thừa kế từ chối quyền hưởng di sản trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày mở thừa
kế nhưng có bổ sung thêm là: "sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không
có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận di sản" [67, Điều 645].
- Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế: Điều 645 BLDS 2005 đã quy định
tương tự như Điều 648 BLDS 1995 là: "thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế", có bổ sung thêm: "thời hiệu khởi kiện
để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại
là 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế" [67, Điều 648] . Việc bổ sung quy định
36
này đã xác định quyền về tài sản của các chủ nợ cũng như những người khác
có liên quan đến di sản chỉ được bảo vệ trong thời hiệu là 3 năm. Sau 3 năm
kể từ khi mở thừa kế (khi con nợ chết), nếu người có quyền không yêu cầu thì
khi đó họ mới bị mất quyền lợi của mình. Việc quy định như vậy không chỉ
đảm bảo được tính ổn định trong giao lưu dân sự của người thừa kế mà còn
làm rõ và phân biệt giữa các thời hiệu.
- Về thừa kế theo di chúc: Những quy định về thừa kế theo di chúc
trong BLDS 2005 đã khắc phục được những hạn chế và bất cập của những
quy định trong BLDS 1995 đó là các quy định cụ thể về quyền của người lập
di chúc (Điều 648); về di chúc bằng văn bản (Điều 650); về di chúc hợp pháp
(Điều 652); về nội dung của di chúc bằng văn bản (Điều 653); về công bố di
chúc (Điều 672).
- Về thừa kế quyền sử dụng đất: Theo BLDS 1995, để được thừa kế đất
nông nghiệp, người được thừa kế phải có điều kiện, có nhu cầu sử dụng đất,
có điều kiện tiếp tục sản xuất nông nghiệp, chưa có đất hoặc đang sử dụng đất
dưới hạn mức theo quy định của pháp luật về đất đai. BLDS 2005 không quy
định về điều kiện thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp mà quy định những
người thuộc hàng thừa kế đều được thừa kế đất nông nghiệp: "cá nhân được
nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất, quyền để
thừa kế quyền sử dụng đất" [67, Điều 734].
- Về phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có
người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế (Điều 687). Đây là quy định mới được
đưa vào BLDS 2005 nhằm giải quyết sự bất cập trong thực tiễn. Quy định
mới này đã giải quyết bằng cách không chia bằng hiện vật mà thanh toán lại
bằng tiền tại thời điểm chia thừa kế cho những trường hợp có người thừa kế
mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế. Quy định này không chỉ
bảo vệ quyền lợi cho người thừa kế mà còn tôn trọng tính ổn định trong giao
dịch dân sự [67, Điều 687].
37
Kết luận Chƣơng 1
Qua phân tích như trên có thể đi đến kết luận: Thừa kế là một bộ phận
không thể thiếu được đối với pháp luật của mỗi quốc gia, nên nghiên cứu về
thừa kế đã được các nhà khoa học ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới quan
tâm. Ở chương 1 luận văn đã xây dựng được khái niệm, đặc điểm PLVTK cũng
như chỉ ra các nguyên tắc của PLVTK, từ đó làm căn cứ đánh giá giá trị
PLVTK hiện hành, cũng như tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện PLVTK.
38
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
2.1. PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.1. Nhóm quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung về
thừa kế
Bao gồm 15 điều, từ Điều 631 đến Điều 645 BLDS 2005 có những nội
dung cơ bản như: thời điểm, địa điểm mở thừa kế, di sản thừa kế, thời hiệu
khởi kiện về quyền thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản.
- Về thời điểm mở thừa kế:
Theo BLDS 2005, thời điểm mở thừa kế là: "thời điểm người có tài sản
chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người đã chết thì thời điểm mở
thừa kế là ngày được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 81 Bộ luật này"
[67, Điều 633, khoản 1].
Việc xác định thời điểm mở thừa kế là rất quan trọng, kể từ thời điểm
mở thửa kế, xác định được chính xác tài sản, quyền và nghĩa vụ về tài sản của
người để lại thừa kế.
Thời điểm mở thừa kế là căn cứ xác định những người thừa kế của
người đã chết, vì người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở
thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế, nhưng đã thành
thai trước khi người để lại di sản chết. Bên cạnh đó, thời điểm mở thừa kế còn
là căn cứ để xác định thời điểm bắt đầu khởi kiện và thời hiệu từ chối nhận di
sản của người thừa kế trong mối quan hệ thừa kế.
- Về địa điểm mở thừa kế:
Theo khoản 2 Điều 633 BLDS 2005: "địa điểm mở thừa kế là nơi
cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu không xác định được nơi
cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần di
sản"[67, Điều 633, khoản2].
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hônĐề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAYLuận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAY
Luận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAYLuận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAY
Luận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAY
 
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đìnhĐề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
 
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân - Gửi miễn ph...
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân - Gửi miễn ph...Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân - Gửi miễn ph...
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân - Gửi miễn ph...
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
 
Luận án: Hòa giải trong giải quyết tranh chấp lao động, HAY
Luận án: Hòa giải trong giải quyết tranh chấp lao động, HAYLuận án: Hòa giải trong giải quyết tranh chấp lao động, HAY
Luận án: Hòa giải trong giải quyết tranh chấp lao động, HAY
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOTLuận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOT
 
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOTLuận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đLuận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đ
 

Similar to Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY

Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docxLuận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
DV viết đề tài trọn gói Zalo/Tele: 0973.287.149
 

Similar to Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY (20)

Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAYLuận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
 
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOT
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOTLuận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOT
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOT
 
Luận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOTLuận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ ÁnLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly HônLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
 
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docxLuận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
 
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình
 
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đìnhĐề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
 
NGHĨA VỤ CẤP DUỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 
NGHĨA VỤ CẤP DUỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 NGHĨA VỤ CẤP DUỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 
NGHĨA VỤ CẤP DUỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 
 
Quyền thừa kế của con nuôi theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.docx
Quyền thừa kế của con nuôi theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.docxQuyền thừa kế của con nuôi theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.docx
Quyền thừa kế của con nuôi theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.docx
 
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TAND (QUA THỰC TIỄN TẠI...
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TAND (QUA THỰC TIỄN TẠI...GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TAND (QUA THỰC TIỄN TẠI...
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TAND (QUA THỰC TIỄN TẠI...
 
Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý Của Hôn Nhân Trái Ph...
Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý Của Hôn Nhân Trái Ph...Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý Của Hôn Nhân Trái Ph...
Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý Của Hôn Nhân Trái Ph...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly HônLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ ÁnLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
 
Giải Quyết Các Tranh Chấp Về Hôn Nhân Và Gia Đình Của Tand (Qua Thực Tiễn Tại...
Giải Quyết Các Tranh Chấp Về Hôn Nhân Và Gia Đình Của Tand (Qua Thực Tiễn Tại...Giải Quyết Các Tranh Chấp Về Hôn Nhân Và Gia Đình Của Tand (Qua Thực Tiễn Tại...
Giải Quyết Các Tranh Chấp Về Hôn Nhân Và Gia Đình Của Tand (Qua Thực Tiễn Tại...
 
Luận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAY
Luận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAYLuận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAY
Luận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAY
 
Khóa Luận Giải Quyết Tranh Chấp Thừa Kế Theo Di Chúc Tại Tand Tp Vinh
Khóa Luận Giải Quyết Tranh Chấp Thừa Kế Theo Di Chúc Tại Tand Tp VinhKhóa Luận Giải Quyết Tranh Chấp Thừa Kế Theo Di Chúc Tại Tand Tp Vinh
Khóa Luận Giải Quyết Tranh Chấp Thừa Kế Theo Di Chúc Tại Tand Tp Vinh
 
Quyền Của Người Lập Di Chúc Theo Pháp Luật, HOT.doc
Quyền Của Người Lập Di Chúc Theo Pháp Luật, HOT.docQuyền Của Người Lập Di Chúc Theo Pháp Luật, HOT.doc
Quyền Của Người Lập Di Chúc Theo Pháp Luật, HOT.doc
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 

Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VƢƠNG THỊ VÂN ANH NGHIÊN CỨU, PHÁT HIỆN NHỮNG BẤT CẬP TRONG CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VƢƠNG THỊ VÂN ANH NGHIÊN CỨU, PHÁT HIỆN NHỮNG BẤT CẬP TRONG CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 Chuyên ngành: Luật dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHÙNG TRUNG TẬP HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Vƣơng Thị Vân Anh
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1.......................................................................................................... 6 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ......................................... 6 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM .......................................................................................... 6 1.1.1. Khái niệm Pháp luật về thừa kế ........................................................... 6 1.1.2. Đặc điểm Pháp luật thừa kế Việt Nam................................................. 8 1.2. NHỮNGNGUYÊNTẮCPHÁPLUẬTVỀTHỪAKẾỞVIỆTNAM....... 9 1.2.1. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân......................................................................................................10 1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế............11 1.2.3. Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế ...................12 1.2.4. Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế..........................................................................................15 1.3. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM ...........................................................16 1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 8/1945 ........................................17 1.3.2. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8/1945 đến trước 01/7/1996............27 1.3.3. Giai đoạn từ 01/07/1996 đến nay.......................................................33 Kết luận Chƣơng 1........................................................................................37
  • 5. 5 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM.....38 2.1. PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................38 2.1.1. Nhóm quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung về thừa kế ................................................................................................38 2.1.2. Nhóm quy phạm pháp luật quy định về thừa kế theo di chúc (bao gồm 28 điều, từ Điều 646 đến Điều 673 BLDS 2005). .............43 2.1.3. Nhóm quy phạm pháp luật quy định thừa kế theo pháp luật .............45 2.2. NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN THỪA KẾ ...................................................61 2.2.1. Phần những quy định chung...............................................................62 2.2.2. Những quy định về Thừa kế theo Di chúc.........................................66 2.2.3. Những quy định về Thừa kế theo pháp luật.......................................68 2.2.4. Những quy định về thanh toán và phân chia di sản ...........................71 Kết luận Chƣơng 2........................................................................................77 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM............................................................................78 3.1. NGƯỜI THỪA KẾ ............................................................................78 3.2. TỪ CHỐI DI SẢN .............................................................................80 3.3. VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN............................................................82 3.4. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT........................................................84 3.4.1. Thừa kế thế vị.....................................................................................84 3.4.2. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế.........................86 3.5. HẠN CHẾ PHÂN CHIA DI SẢN .....................................................86 3.6. THỪA KẾ THEO DI CHÚC .............................................................87 3.6.1. Truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.....................................87 3.6.2. Di sản dùng vào việc thờ cúng...........................................................88
  • 6. 6 3.7. THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT...............................................92 3.8. GIẢI QUYẾT THỪA KẾ CỔ PHẦN NGÂN HÀNG PHẢI PHÙ HỢP VỚI PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN...............................96 3.8.1. Xác định hình thức thừa kế và người thừa kế ....................................97 3.8.2. Một số tồn tại thực tế thường gặp trong hồ sơ thừa kế cổ phần ngân hàng ...........................................................................................99 KẾT LUẬN..................................................................................................102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................104
  • 7. BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nội dung BLDS Bộ luật dân sự CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CNXH Chủ nghĩa xã hội DSTC Di sản thờ cúng HĐTP Hội đồng thẩm phán HNGĐ Hôn nhân gia đình HVLL Hoàng Việt luật lệ Luật HN & GĐ Luật Hôn nhân và gia đình NN Nhà nước NVTS Nghĩa vụ tài sản PLTK Pháp lệnh thừa kế PLVTK Pháp luật về thừa kế QTHL Quốc triều hình luật Quyết định Quyết định TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao Ths Thạc sỹ Tố tụng dân sự Tố tụng dân sự Ts Tiến sỹ TTLK Trung tâm lưu ký UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, Thừa kế là một trong những chế định có vai trò quan trọng trong việc dịch chuyển tài sản của người chết để lại cho những người thừa kế của họ theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Có thể nói, Chế định Thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 là một chế định khá hoàn chỉnh. Để đảm bảo việc thi hành Bộ luật, hiện nay Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ đang soạn thảo, chuẩn bị ban hành các luật chuyên ngành, các pháp lệnh và nghị định hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 hiện nay vẫn chưa có kế hoạch sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các văn bản dưới luật quy định chi tiết hay hướng dẫn thi hành. Trong khi đó, việc áp dụng chế định này trong thực tiễn vẫn còn gặp nhiều vướng mắc do đa số các vụ việc về thừa kế đều khá phức tạp, qui định của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ về thừa kế chưa thật sự đầy đủ và mang tính cụ thể nên quá trình áp dụng pháp luật về thừa kế để giải quyết các tranh chấp còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn chưa dự liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Một số quy định pháp luật về thừa kế chung chung, mang tính chất khung, chưa chi tiết, chưa rõ ràng, lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Theo thống kê của Ngành Tòa án nhân dân, hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ, việc áp dụng pháp luật về thừa kế không thống nhất giữa các cấp Tòa án làm cho việc giải quyết các tranh chấp thừa kế gặp nhiều khó khăn, thời gian
  • 9. 2 giải quyết kéo dài, vụ việc giải quyết không đươc triệt để, không giải quyết được dứt điểm được những mâu thuẫn về lợi ích của các bên tranh chấp, bên cạnh đó một số quyết định của cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết các tranh chấp về thừa kế gây hoang mang cho người dân. Nhu cầu cụ thể hóa và hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế là một nhu cầu cấp thiết. Việc tìm ra những vướng mắc, bất cập của chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 2005 là một việc làm thiết thực, nhằm hướng tới việc sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa chế định thừa kế, đáp ứng được việc giải quyết các mâu thuẫn về thừa kế, đảm bảo việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế nhanh chóng, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: "Nghiên cứu, phát hiện những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005" để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thừa kế là một chế định quan trọng và phức tạp trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Chế định này có lịch sử hình thành và phát triển khá phong phú. Do vậy, Thừa kế đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu. Các đề tài nghiên cứu về Thừa kế khá nhiều và được thực hiện ở các cấp độ khác nhau như khóa luận tốt nghiệp, luận văn cao học, luận án tiến sĩ… Trước khi BLDS được ban hành, đã có rất nhiều nghiên cứu về thừa kế dưới góc độ sách pháp luật thường thức như: "Câu hỏi và giải đáp PLTK" năm 1994 của Luật sư Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về PLTK" năm 1995 của Trần Hữu Bền và TS. Đinh Văn Thành. Sau khi BLDS 1995 được ban hành thì việc nghiên cứu đề tài về Thừa kế vẫn nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có rất nhiều tác giả nghiên cứu về
  • 10. 3 Thừa kế để làm luận văn thạc sĩ, tiến sĩ. Tiểu biểu là: TS. Phùng Trung Tập với đề tài "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam" năm 2001; TS. Phạm Ánh Tuyết với đề tài "Thừa kế theo di chúc theo quy định BLDS Việt Nam" năm 2003; Ths. Nguyễn Hải An nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam" năm 2004; Ths. Nguyễn Hồng Nam nghiên cứu đề tài "Các điều kiện có hiệu lực di chúc" năm 2005... Ngoài ra, đề tài về Thừa kế còn được nghiên cứu và đăng trên các báo, tạp chí như Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Đặc san khoa học pháp lý… Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên mới dừng lại phân tích các quy định của pháp luật về Thừa kế ở một góc độ, một khía cạnh nhất định. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ lý luận hoàn thiện PLVTK còn ít, chưa có tính chất hệ thống, khái quát. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, luận văn này là một công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu chuyên sâu phát hiện những vướng mắc, bất cập trong chế định thừa kế của BLDS năm 2005 là một đề tài hoàn toàn độc lập, không có sự trùng lắp với bất kỳ một công trình nào của người khác. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Mục đích: Phân tích cơ sở lý luận chế định thừa kế trong BLDS năm 2005 và đánh giá thực trạng PLVTK ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, nêu lên những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện PLVTK ở nước ta hiện nay. * Nhiệm vụ của luận văn Luận văn có nhiệm vụ phân tích những qui định của pháp luật về Thừa kế trong BLDS năm 2005 để tìm ra những vướng mắc, bất cập của chế định này. Qua đó, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện. * Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất qui định của pháp luật về Thừa kế trong BLDS năm 2005 nhằm phát hiện ra những vướng mắc, bất cập của chế định thừa kế.
  • 11. 4 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới. Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, một số phương pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp...cũng được sử dụng trong việc nghiên cứu và hoàn thành luận văn. 5. Những đóng góp về khoa học của luận văn Việc nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu, phát hiện những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005” trong luận văn này có những điểm mới như sau: Trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm của những qui định pháp luật về thừa kế trong BLDS năm 2005 về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng, qua đó nêu lên những vướng mắc, bất cập của chế định thừa kế và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện chế định thừa kế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn - Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho việc sửa đổi, bổ sung BLDS 2005. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ công việc nghiên cứu giảng dạy và học tập của cán bộ, giáo viên và sinh viên các Trường đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp. - Về thực tiễn: Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện PLVTK, giúp cho việc áp dụng pháp luật về thừa kế có hiệu quả.
  • 12. 5 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn được bố cục 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận của chế định thừa kế Chương 2. Thực trạng pháp luật về thừa kế ở Việt Nam Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
  • 13. 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm Pháp luật về thừa kế Theo pháp luật dân sự Việt Nam, Thừa kế chính là việc chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế, có mầm mống và xuất hiện ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Ở thời kỳ này, việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục, tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Nghiên cứu về thừa kế, Ph.Ăngghen viết: Theo chế độ mẫu quyền nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc với người mẹ [50, tr.79]. Như vậy, thời kỳ đầu của xã hội loài người, việc thừa kế được hình thành theo tập quán của Thị tộc. Thừa kế được phát sinh dựa trên quan hệ huyết thống theo dòng máu của người mẹ. Khi người mẹ chết đi thì di sản được chuyển cho những người thân thích trong thị tộc. Sự thừa kế tài sản trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã đặt nền móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài sản theo huyết thống. Quá trình phát triển của xã hội loài người đã dần làm thay đổi địa vị
  • 14. 7 của người đàn ông trong xã hội. Người đàn ông đã tạo ra được nhiều của cải hơn, không những đủ nuôi sống gia đình mà còn dư thừa, nhờ đó địa vị của người đàn ông trong gia đình và thị tộc, bộ lạc dần được thiết lập. Khi người đàn ông đã chiếm vị trí chủ đạo của đời sống xã hội thì chế độ mẫu hệ mờ nhạt dần và được thay thế bằng chế độ phụ hệ. Các con trong gia đình có huyết thống với người cha mang họ của cha và được thừa kế tài sản của cha. Như vậy, tương ứng với mỗi giai đoạn lịch sử phát triển nhất định là sự phát triển của lực lượng sản xuất, hình thức gia đình,.. sự thay đổi quan hệ sở hữu và theo đó việc thừa kế tài sản cũng thay đổi. Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và thừa kế đã xuất hiện như một yếu tố khách quan và nó thuộc về phạm trù kinh tế. Thừa kế xuất hiện dựa trên chế độ sở hữu. Sở hữu và thừa kế có mối quan hệ vô cùng mật thiết, nếu yếu tố sở hữu là tiền đề phát sinh thừa kế thì thừa kế chính là phương tiện duy trì, củng cố quan hệ sở hữu. Theo tiến trình phát triển của xã hội, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động ngày càng được nâng cao, của cải xã hội ngày càng được làm ra nhiều hơn, không chỉ đảm bảo cho sinh hoạt gia đình và cộng đồng thị tộc, bộ lạc mà còn dư thừa sản phẩm. Từ khi có của cải dư thừa, những người có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc đã lợi dụng địa vị của mình để chiếm hữu số của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội nguyên thuỷ bắt đầu tan rã và nhường chỗ cho một chế độ xã hội mới trong đó đã có sự phân hoá giai cấp. Khi giai cấp đã xuất hiện trong xã hội, các giai cấp có quyền lợi đối lập nhau (giai cấp thống trị và giai cấp bị trị), sự đối kháng giai cấp là điều tất yếu. Các giai cấp luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Tổ chức thị tộc trở nên bất lực trước yêu cầu giải quyết mâu thuẫn xã hội, lúc này "xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức để
  • 15. 8 dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy hoặc cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện" [15, tr.38]. Thừa kế được hình thành từ khi xã hội chưa phân chia giai cấp, nhưng khái niệm pháp luật về thừa kế chỉ ra đời và tồn tại trong những xã hội đã phân chia giai cấp và có nhà nước. Mỗi xã hội khác nhau thì quy định về thừa kế cũng khác nhau. Thậm chí, trong cùng một chế độ xã hội của một nhà nước, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, để cho phù hợp với sự phát triển của xã hội thì pháp luật về thừa kế cũng được quy định khác nhau. Như vậy, Thừa kế là một phạm trù pháp luật khả biến. Tùy thuộc vào sự phát triển của xã hội mà Thừa kế có những quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ thừa kế. Pháp luật của Nhà nước ta bảo vệ lợi ích cơ bản của mỗi người lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội, góp phần xóa bỏ những tàn tích của chế độ thừa kế do xã hội thực dân phong kiến để lại. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, làm cho nhân dân lao động yên tâm lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. 1.1.2. Đặc điểm Pháp luật thừa kế Việt Nam Căn cứ vào những qui định của pháp luật về thừa kế Việt Nam từ Thông tư số 81 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết những tranh chấp về quyền thừa kế, Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 đang có hiệu lực thi hành, luật thừa kế Việt Nam có những đặc điểm sau đây: Đặc điểm thứ nhất, thừa kế theo pháp luật Việt Nam là chuyển dịch di sản thừa kế và quyền sở hữu di sản được thừa kế cho chủ thể có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật (Riêng đất đai là chuyển dịch quyền sử dụng). Như vậy, thừa kế là căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế mà người thừa kế được hưởng [84, phần 4].
  • 16. 9 Đặc điểm thứ hai, căn cứ vào qui định tại Điều 676 Bộ luật dân sự, các hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam được xác định theo quan hệ huyết thống và trong hàng thừa kế thứ hai và thứ ba, các cháu nội, cháu ngoại, chắt nội, chắt ngoại của người để lại di sản được xác định là những người thừa kế theo hàng nhận di sản của ông, bà nội, ngoại, các cụ nội, ngoại. Đây là một qui định rất đặc thù, bởi vì cháu, chắt của người để lại di sản đã là những người thừa kế thế vị theo qui định tại điều 677 rồi. Lợi ích của cháu, của chắt nội, ngoại của người để lại di sản được bảo đảm thực hiện theo những qui định tại các Điều 676 và 677 Bộ luật dân sự [84, phần 4]. Đặc điểm thứ ba, pháp luật thừa kế Việt Nam quan tâm đến phong tục phổ biến trong nhân dân và bảo đảm cho phong tục tốt đẹp đó được thực hiện theo qui định của pháp luật. Pháp luật thừa kế Việt Nam qui định về người lập di chúc có quyền để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng theo qui định tại Điều 670. Đây là một qui định mang tính kế thừa các luật Cổ Việt Nam, nhưng được qui định rộng rãi và có thể áp dụng một cách linh hoạt hơn những qui định về di sản thờ cúng trong các đạo luật của các thời kỳ trước đây [84, phần 4]. 1.2.NHỮNGNGUYÊNTẮCPHÁPLUẬTVỀTHỪAKẾỞVIỆTNAM Nguyên tắc PLVTK là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện PLVTK. Từ khi hình thành đến nay, những nguyên tắc PLVTK ở nước ta có sự thay đổi phù hợp với bản chất của nhà nước ở từng giai đoạn lịch sử. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam được áp dụng chung cho hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Những nguyên tắc này xuất hiện trong các văn bản pháp luật đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Dựa trên Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 97-SL ngày 22.5.1950 đã qui định những nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ: “đàn bà ngang quyền
  • 17. 10 với đàn ông về mọi phương diện” [48, Điều 5]. Nguyên tắc này được coi như một định hướng chủ đạo trong việc xây dựng các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thừa kế tài sản nói riêng trong các văn bản pháp luật sau này. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế đã thể hiện rõ bản chất và những đặc trưng pháp luật về thừa kế ở nước ta, có thể nói, từ năm 1945 đến nay về cơ bản những nguyên tắc đó không thay đổi. Pháp luật về thừa kế ở Việt Nam có những nguyên tắc cơ bản sau đây: 1.2.1. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà nước bảo vệ. Gắn liền với các bản Hiến pháp, quyền thừa kế cũng như các quyền khác của công dân được qui định khá cụ thể. Tuy Hiến pháp năm 1946 chưa quy định rõ ràng về quyền thừa kế, nhưng quyền tư hữu về tài sản được thừa nhận. Tại Điều 12 Hiến pháp năm 1946 quy định “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo hộ” [54, Điều 12]. Hiến pháp 1959 Nhà nước ta đã quy định rõ ràng hơn về quyền thừa kế. Tại Hiến pháp 1959, Nhà nước đã chính thức ghi nhận về quyền thừa kế, tại Điều 19 Hiến pháp 1959 “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân” [55, Điều 19]; đến Hiến pháp 1980 kế thừa và phát huy Hiến pháp 1946, 1959, tiếp tục khẳng định về quyền tư hữu tài sản của công dân và đến Hiến pháp 1992 quyền thừa kế tiếp tục khẳng định tại Điều 58 Hiến pháp 1992 "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" [65, Điều 58]. Trên cơ sở các qui định của Hiến pháp, ngay điều luật đầu tiên trong phần thừa kế (Điều 631 BLDS 2005) đã đưa ra nguyên tắc chung nhất, đó là “Quyền thừa kế cá nhân”. Nguyên tắc này được thể hiện như sau: pháp luật đảm bảo cho mọi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, đều có quyền để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, mỗi cá nhân đều
  • 18. 11 có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Cá nhân không những có quyền để lại tài sản hay được hưởng di sản mà còn quyền từ chối di sản thừa kế. Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế còn thể hiện trong việc đảm bảo cho mọi công dân có quyền sở hữu hợp pháp như của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, không giới hạn về số lượng hay giá trị ... Tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân là di sản thừa kế khi người đó chết, được Nhà nước tôn trọng và pháp luật bảo vệ [67, Điều 631]. 1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân là một trong những nguyên tắc Hiến định. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên đã qui định “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế,văn hóa”. Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều kế thừa và phát triển nguyên tắc này. Ngay khi Sắc Lệnh 97-SL ra đời, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế đã được ghi nhận. Theo Điều 11 của Sắc lệnh 97 Trong lúc sinh thời, người chồng góa hay người vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung. Sắc lệnh cũng quy định rằng “vợ và chồng có địa vị bình đẳng trong gia đình” và “người đàn bà có chồng có toàn năng lực về hộ” [48, Điều 11]. So với các qui định của chế độ thực dân, phong kiến thì qui định này đã loại bỏ được quan điểm trọng nam khinh nữ, đảm bảo quyền công dân. Kế thừa và phát huy các văn bản pháp luật trước đó, trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, trong các văn bản pháp luật nguyên tắc này vẫn được ghi nhận và ngày càng cụ thể hóa hơn. Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa một phần các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự. Điều 52 Hiến pháp 1992 ghi nhận "mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" [65, Điều 52] và Điều 5 BLDS 2005 qui định "trong quan hệ dân sự các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do về khác biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín
  • 19. 12 ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau" [67, Điều 5]. Trên cơ sở các nguyên tắc định hướng, chế định thừa kế qui định trong BLDS và một số qui định trong Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định nội dung nguyên tắc này như sau: "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [63, Điều 32]. "Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau" [63, Điều 31] "có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung [63, Điều 27, Khoản 1]. “Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi, phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật. Những qui định trên của pháp luật nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế. Pháp luật cũng qui định, không phân biệt là con đẻ hay con nuôi, con trong giá thú, con ngoài giá thú, không phân biệt con trai hay con gái, độ tuổi, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự... đều có quyền thừa kế tài sản của cha mẹ, đều được hưởng thừa kế bằng nhau, nếu di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Những gì phân tích ở trên cho thấy, nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong việc để lại di sản và nhận di sản thừa kế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân trong quan hệ tài sản, qua đó củng cố, nâng cao tinh thần đoàn kết tình thân tộc, loại trừ tư tưởng trọng nam khinh nữ, phân biệt đối xử giữa các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.2.3. Nguyên tắc tôn trọng ý chí của ngƣời có quyền thừa kế Đây là một trong các nguyên tắc vô cùng quan trọng, nguyên tắc này vừa ghi nhận sự bảo hộ của pháp luật đối với quyền thừa kế, vừa thể hiện quyền của mỗi cá nhân trong việc định đoạt toàn bộ tài sản của mình. Theo qui định của pháp luật Việt Nam, người có quyền thừa kế là công
  • 20. 13 dân, tổ chức. Quyền thừa kế thuộc về cá nhân được hiểu theo hai chủ thể nhất định, đó là chủ thể để lại tài sản và chủ thể hưởng thừa kế di sản. Trên cơ sở của nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được qui định tại Điều 7 BLDS, pháp luật thừa kế tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế và bảo đảm một cách nhất quán nguyên tắc này với các qui định cụ thể về quyền của cá nhân để lại tài sản và quyền của cá nhân hưởng thừa kế [67, Điều 7]. - Đối với cá nhân người để lại tài sản với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Pháp luật không cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng ép, đe doạ... người lập di chúc. Người để lại thừa kế có thể thực hiện quyền định đoạt thông qua hình thức di chúc viết hoặc di chúc miệng, có thể nhờ người làm chứng cho việc lập di chúc, có thể yêu cầu công chứng viên đến chỗ ở của mình để lập di chúc. Di chúc chính là hình thức xác định ý chí của một người định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của họ trước khi chết. Quyền định đoạt này được nêu tại Điều 648 BLDS, khi thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di sản cho từng người thừa kế, dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định người giữ di chúc; người quản lý di sản, người phân chia di sản. Quyền định đoạt của người có tài sản lập di chúc có hiệu lực pháp luật khi di chúc thỏa mãn các điều kiện được qui định tại Điều 652 BLDS. Trong trường hợp di chúc đã được xác lập, nếu muốn, người lập di chúc vẫn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào [67, Điều 662]. Ý chí của cá nhân người để lại di sản được pháp luật bảo hộ và tôn trọng, tuy nhiên, trong một số trường hợp, pháp luật qui định quyền của những người
  • 21. 14 thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc và như vậy quyền định đoạt của người để lại di sản cũng chỉ mang tính tương đối [67, Điều 9]. Quyền định đoạt của cá nhân để lại di sản được thể hiện không những trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà còn thể hiện ngay trong việc họ không lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây cũng là một cách thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc không lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để lại di sản của họ cho những người có quyền thừa kế theo pháp luật. - Đối với cá nhân có quyền hưởng di sản, pháp luật quy định người thừa kế có quyền nhận di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản của người để lại thừa kế nếu sự từ chối quyền hưởng di sản của người thừa kế phù hợp với những điều kiện, nguyên tắc, thời hạn mà pháp luật đã quy định. Tuy nhiên, nếu người được thừa kế từ chối hưởng di sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của bản thân cá nhân họ với người khác thì pháp luật không chấp nhận. "Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác", "việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phải chia di sản, công chứng nhà nước, UBND xã, phường nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản", "thời điểm từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ thời điểm mở thừa kế" [67, Điều 642]. Trước năm 1945, ở nước ta quyền định đoạt của người được hưởng di sản bị hạn chế rất nhiều so với pháp luật hiện hành. Theo Điều 376 Dân luật Bắc kỳ và Điều 308 Dân luật Trung kỳ, những người thừa kế thuộc diện là con, cháu, vợ hay chồng của người chết không có quyền từ chối nhận di sản. Dân luật Trung kỳ buộc vợ hay chồng và con, cháu trai phải nhận di sản. Ở miền Nam, theo án lệ đã định con không có quyền khước từ di sản của người cha để lại, con cháu của người khước từ không được hưởng di sản do cha mẹ
  • 22. 15 của mình đã khước từ. Hình thức khước từ phải thực hiện ở phòng lục sự Tòa sơ thẩm tại địa điểm mở thừa kế của người chết [4, Điều 376]. Như vậy, trong thời kỳ phong kiến, do tục lệ cổ hủ mà con cháu, vợ hay chồng của người chết bắt buộc nhận lấy tài sản riêng của mình để trả các khoản nợ của người chết vô thời hạn. Chỉ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là Nước CHXHCN Việt Nam được thiết lập thì quyền công dân nói chung và quyền tự định đoạt về thừa kế nói riêng ngày càng được bảo đảm một cách thực tế. 1.2.4. Nguyên tắc cá nhân ngƣời thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế Quan hệ thừa kế hình thành với những đặc thù riêng của nó. Đặc thù đó được ghi nhận ngay trong các quy định của pháp luật như là một nguyên tắc. Nguyên tắc này đã được quy định ở Điều 11 Sắc lệnh số 97-SL: "Trong lúc sinh thời, người chồng góa hay người vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết sau khi đã thanh toán tài sản chung" [48, Điều 11]. Pháp luật không quy định về độ tuổi và năng lực nhận di sản thừa kế, mà chỉ quy định quyền của cá nhân được hưởng di sản. Do vậy, người có năng lực hành vi hay không có năng lực hành vi dân sự đều được nhận di sản thừa kế theo pháp luật phần ngang nhau nếu họ cùng thuộc hàng thừa kế được hưởng. Đối với người đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì chưa có năng lực pháp luật dân sự. Bởi vì, theo qui định của pháp luật thì: "Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết" [67, Điều 13]. Pháp luật cũng có quy định bảo vệ quyền thừa kế của người con ra đời sau khi người bố chết, mà người con đó còn sống thì được hưởng di sản của bố. Quy định tại khoản 1 Điều 635 BLDS phù hợp và thống nhất
  • 23. 16 với Điều 63 Luật HN & GĐ: "Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng" [67, Điều 634]. Dựa trên nguyên tắc này, Điều 685 BLDS có quy định: "Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra, thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, thì được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra, thì những người thừa kế khác được hưởng" [67, Điều 685]. Pháp luật còn qui định: "Trẻ em sinh ra sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết, thì cũng phải đăng ký khai sinh theo qui định của Nghị định này, nếu chết trước khi khai sinh (chết lưu) hoặc sinh ra mà sống chưa được 24 giờ, thì không phải đăng ký khai sinh" [22, Điều 20]. Như vậy, trong trường hợp đứa trẻ sinh ra được 24 giờ trở lên rồi sau đó chết, thì đứa trẻ đó vẫn là người được thừa kế. Người thừa kế là người có khả năng được hưởng theo quy định của pháp luật và là người phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế để được hưởng di sản. Nguyên tắc này đã loại trừ những người có quyền thừa kế di sản của nhau nhưng đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong cùng một thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước, thì họ không được thừa kế di sản của nhau [67, Điều 641]. Những người theo quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS, cũng không phải là người thừa kế theo pháp luật do đã bị tước quyền thừa kế. Những người từ chối nhận di sản thừa kế hợp pháp cũng không được hưởng thừa kế di sản [67, Điều 642]. Người thừa kế theo quy định của BLDS không thể nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế khác, như đã từng được quy định tại Điều 31 PLTK. 1.3. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM Pháp luật luôn nắm giữ vai trò quan trọng trong bất kỳ Nhà nước nào. Để quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giai cấp thống trị luôn đặt ra các qui định buộc các giai cấp khác tuân thủ, trong lĩnh vực thừa kế cũng vậy.
  • 24. 17 PLVTK ở Việt Nam có bề dày lịch sử, phát triển cùng với quá trình dựng nước và giữ nước. Để có cơ sở cho việc xem xét đối chiếu, so sánh với những quy định của pháp luật về thừa kế hiện hành, theo tác giả việc nêu sơ lược về pháp luật thừa kế thời kỳ trước năm 1945 là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, tác giả không có tham vọng nghiên cứu toàn diện về vấn đề này mà chỉ xin điểm qua những mốc thời gian quan trọng có ý nghĩa liên quan đến lịch sử xây dựng, kế thừa và phát triển các quy định về thừa kế. Quá trình phát triển PLVTK ở Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn sau: 1.3.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng Tháng 8/1945 * Thừa kế trong giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam Chế độ phong kiến Việt Nam tồn tại qua rất nhiều thế kỷ, mỗi Nhà nước phong kiến đều ban hành các văn bản pháp luật để củng cố quyền lực và phục vụ cho công việc quản lý đất nước. Khó có thể xác định chính xác thời điểm xuất hiện những quy định về thừa kế trong pháp luật Việt Nam. Có ý kiến cho rằng: "PLVTK ở nước ta đã có từ thời Hùng Vương - trước Công nguyên". Thời Hùng Vương đã quy định việc chia tài sản... luật dân sự và tranh chấp dân sự dưới thời Hùng Vương đã có những quy định bắt buộc [90, tr.40]. Tuy nhiên, ý kiến trên lại chưa có đủ cơ sở để khẳng định mà chỉ là sự suy đoán logic của quá trình luật hoá các quan hệ thừa kế. Có tác giả khác lại dựa vào sách Hậu Hán Thư để khẳng định dưới thời Trưng Vương (40 - 43) đã có pháp luật. Trong quyển Cổ luật Việt Nam Thông Khảo quyển 1, ông Vũ Văn Mẫn trích trong sách Hậu Hán Thư "Mã Viện đi xứ nào, liền đặt thành quận, huyện, xây thành quách..." Có điều trần tấu về luật viết của người Việt, so sánh với luật Hán hơn mười điều và ông kết luận "Thời ấy đã có luật thành văn như nhà Hán". Tuy nhiên, đây chỉ là sự phỏng đoán của ông Mẫn, cho rằng dưới thời Trưng Vương đã có
  • 25. 18 luật thành văn, nhưng lại không biết rõ nội dung của pháp luật thời kỳ này quy định về những vấn đề gì. Tuy nhiên, có thể khẳng định ở nước ta pháp luật thành văn về thừa kế đã có từ rất sớm, đáng chú ý là các bộ luật của các triều đại phong kiến. Thời nhà Trần, nhà nước đã ban hành pháp luật như: "Quốc Triều Thống Chế", "Quốc Triều Thống Lễ", "Bộ Hình Thư"... tuy nhiên những bộ luật này bị thất truyền nên không thể xác định được nội dung PLVTK. Đến thời nhà Lê (1428 - 1787), với những thành tựu rực rỡ trên nhiều lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, đặc biệt trong lĩnh vực lập pháp và điển chế đã để lại nhiều văn bản pháp lý, đó chính là các bộ luật sau: QTHL, Luật Thư (1440 - 1442), Quốc Triều Luật Lệnh (1440 - 1442), Hồng Đức, Thiện Chính Thư (1470 - 1497), Quốc Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính (1619 - 1705), Cảnh Hưng Điều luật (1740 - 1786). Trong số các bộ luật trên, có thể nói QTHL là văn bản sớm nhất hiện còn lưu giữ được, đã chứa đựng nhiều quy định khá hoàn chỉnh về thừa kế. QTHL là di sản văn hóa đồ sộ, đặc sắc, độc nhất vô nhị của Việt Nam và có vị trí xứng đáng trong lịch sử lập pháp thế giới. Đây là bộ luật bao trùm nhiều nội dung khác nhau, có sức sống lâu bền và tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc tới tới các lĩnh vực của xã hội đương thời. QTHL được xem là bộ luật quan trọng và chính thống nhất. Chính vì vậy, khi nghiên cứu những quy định về thừa kế của pháp luật Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý đã lấy QTHL làm cơ sở để kết luận rằng: "PLVTK ở Việt Nam được hình thành chính thức từ triều Hậu Lê (1428 - 1788), cụ thể được ghi nhận trong QTHL" [91, tr.9]. Trong QTHL, các quy định thừa kế được quy định trong chương Điền sản từ Điều 374 đến Điều 399. Theo đó, có 2 hình thức thừa kế được qui định,
  • 26. 19 đó là thừa kế theo di chúc (phân chia di sản theo chúc thư) và thừa kế theo pháp luật (phân chia di sản theo pháp luật). Về phân chia di sản theo di chúc Bộ QTHL tôn trọng quyền tự do định đoạt của người có tài sản. Người có tài sản có thể thể hiện ý chí của mình sau khi chết bằng chúc thư. Tại Điều 390-QTHL qui định: “Cha mẹ làm chúc thư phân chia tài sản, thiết lập hương hỏa trong chúc thư”. Theo Điều 390 thì cha mẹ có trách nhiệm làm chúc thư để lại tài sản cho con cái, nhằm tránh sự tranh chấp tài sản về sau. Việc lập chúc thư được Bộ luật qui định chặt chẽ, nếu cha mẹ lập chúc thư thì phải tuân theo quy định của pháp luật về hình thức để đảm bảo tính giá trị của chúc thư. Khi lập chúc thư mà không biết chữ phải nhờ quan trưởng trong làng viết và phải nhờ người làm chứng xác nhận nội dung di chúc đó đúng với ý chí của người lập chúc thư. Nếu vi phạm điều này thì chúc thư không có giá trị. Trong trường hợp người biết chữ mà tự viết chúc thư thì chúc thư có giá trị [91, Điều 366]. Ngoài hình di chúc bằng văn bản, pháp luật còn cho phép lập di chúc miệng đó là "lệnh" của ông bà, cha mẹ. Điều 388 quy định "nếu có lệnh của ông bà và chúc thư thì phải theo đúng, trái thì mất phần mình" [91, Điều 388]. Như vậy, mệnh lệnh của ông bà, cha mẹ chính là chúc ngôn trước khi chết. Tuy nhiên, bộ QTHL không quy định mệnh lệnh này được phát ra trong tình trạng sức khoẻ và hoàn cảnh nào, nhưng theo quan điểm nho giáo thì các con cháu tuyệt đối phải nghe theo lời ông bà, cha mẹ. Vì vậy, theo phỏng đoán logic, mệnh lệnh này có thể được ban phát ra bất cứ lúc nào đều có giá trị. Trong trường hợp cháu con vi phạm mệnh lệnh hoặc chúc thư của ông bà, cha mẹ thì mất quyền thừa kế. Về chia di sản theo pháp luật Mặc dù là Bộ luật được ra đời trong thời kỳ nhà nước phong kiến,
  • 27. 20 tuy nhiên QTHL có những qui định rất tiến bộ, tôn trọng thực sự quyền định đoạt của người có di sản và đảm bảo quyền lợi của những người có quyền hưởng di sản. Bộ QTHL qui định, trường hợp thừa kế theo pháp luật chỉ áp dụng khi không có di chúc (Điều 388) hoặc có chúc thư nhưng chúc thư vô hiệu [91, Điều 366]. Người thừa kế theo pháp luật là con cháu (hàng 1), nếu không có con, cháu thì chia cho cha mẹ (hàng 2). Người vợ goá hoặc chồng goá không thuộc diện thừa kế của người chồng hoặc vợ. Mặc dù pháp luật không qui định cho người chồng giá, vợ góa được hưởng thừa kế nhưng để đảm bảo cho cuộc sống của người vợ goá, chồng goá, pháp luật cho phép người vợ goá, chồng goá sẽ được hưởng một phần điền sản của người chồng hoặc người vợ để nuôi sống một đời người. Phần điền sản này người vợ goá, chồng goá không được quyền sở hữu. Nếu người vợ goá, chồng goá chết thì phải trả lại điền sản cho họ hàng người chết trước [91, Điều 376]. Bên cạnh những quy định về quyền thừa kế giữa vợ chồng, QTHL có rất nhiều qui định về quyền thừa kế của các con đối với tài sản của cha mẹ. Theo Điều 377, Điều 378, Điều 380, Điều 388 QTHL khi bố mẹ chết con cái được hưởng thừa kế toàn bộ tài sản và được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất, dù đó là con trai hay con gái, con vợ lẽ hay con vợ chính, con nuôi hay con đẻ. Tuy nhiên, mức độ và phần hưởng có thể khác nhau, con trai (nhất là con trai trưởng) con vợ cả, con đẻ thường được hưởng nhiều hơn. Quyền thừa kế tuyệt đối này được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đều bị nghiêm trị. Trường hợp khi bố hoặc mẹ chết, con cái còn nhỏ thì phần tài sản của chúng được bố hoặc mẹ còn sống hoặc đại diện họ hàng quản lý giúp và giao lại cho con cái khi chúng đã trưởng thành [91, Điều 377, 378, 380, 388]. QTHL cũng qui định về di sản dành cho việc thờ cúng (hương hỏa). Trong QTHL có 13 điều luật quy định về hương hoả. Hương hoả là một phần
  • 28. 21 điền sản của người chết dành lại giao cho người con để lo phần mộ của người chết và họ hàng. Số Điền sản dùng làm hương hoả là 1/20 điền sản. Theo nguyên tắc chung là giao cho con trai trưởng, không có con trai trưởng thì giao cho con trai thứ, không có con trai thì giao cho con gái trưởng. Trường hợp bị tuyệt tự thì dòng họ sẽ cử người thừa tự giữ hương hoả. Người con gái trưởng chỉ được hưởng đất hương hoả một đời mình, sau đó phải trả lại cho nội tộc để đảm bảo dòng chảy liên tục về huyết thống, đất hương hoả bao giờ cũng thuộc về một dòng họ nội [91, Điều 354]. Với những qui định được nêu ở trên, chúng ta thấy rằng, QTHL mặc dù ra đời trong xã hội chịu ảnh hưởng nặng nề bởi quan niệm nho giáo nhưng vẫn chứa đựng những tư tưởng tiến bộ của xã hội phong kiến Việt Nam. Đó là sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản. Vợ chồng có quyền có tài sản riêng hoặc vợ chồng có quyền sở hữu chung những tài sản do vợ chồng làm ra, con trai, con gái đều được hưởng một kỷ phần như nhau, con gái được giữ của hương hoả để thờ cúng ông bà, cha mẹ. Con vợ lẽ, cũng như con vợ chính, con đẻ cũng như con nuôi đều có quyền thừa kế. Ngoài ra, QTHL còn quy định những người không nghe lệnh của ông bà, cha mẹ thì mất quyền thừa kế. Những qui định này không chỉ là những qui định mang tính pháp lý mà còn mang tính nhân văn rất cao. Tư tưởng trong QTHL khá rõ ràng, Thừa kế di sản chính là sự kế thừa tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, vừa củng cố sở hữu của công dân, vừa củng cố quan hệ hôn nhân và gia đình; giáo huấn các thế hệ con cháu biết giữ gìn và phát huy di sản của tổ tiên để lại, giữ đạo làm con. Con cháu phải biết vâng lời cha mẹ, ông bà, không được tranh giành của cải gây mất đoàn kết trong gia tộc. Việc Bộ luật quy định trích 1/20 di sản dùng vào thờ cúng là một nét bản sắc văn hoá của người Việt Nam, thể hiện tấm lòng thờ kính tổ tiên, ông bà, cha mẹ của thế hệ sau...
  • 29. 22 Cũng như nhiều lĩnh vực khác, trong lĩnh vực lập pháp, Nhà Lê đã truyền lại cho đời sau những công trình độc đáo, có giá trị rất lớn cho việc nghiên cứu đối với hoạt động xây dựng pháp luật nói chung và trong lĩnh vực thừa kế nói riêng. Như phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng, thời nhà Lê, pháp luật mang tính nhân văn rất cao, tôn trọng quyền con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Thời nhà Nguyễn, do sự lệ thuộc về chính trị nên pháp luật triều Nguyễn là bản sao chép pháp luật của nhà Thanh (Trung Quốc). Bộ luật Gia Long (1815) chỉ là sự sao chép gần như nguyên vẹn Bộ luật của triều Mãn Thanh. Bộ luật Gia Long không những không kế thừa mà còn phủ nhận toàn bộ những thành tựu mà luật pháp thời Lê đã gây dựng được. Trong Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử diễn giảng, ông Vũ Văn Mẫn đã nhận xét: "... Bộ luật ấy mất hết cả tính đặc thù của nền pháp luật Việt Nam. Bao nhiêu sự tân kỳ mới lạ trong Bộ luật triều Lê không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong Bộ luật nhà Nguyễn, như những điều khoản liên quan đến hương hoả, đến chúc thư" [47, tr.153]. Luật pháp thời Nguyễn có ít các quy định về thừa kế. Nguyên tắc truyền thống công nhận sự bình đẳng giữa các con trong việc hưởng di sản của cha mẹ không được thừa nhận. Bộ luật Gia Long không thừa nhận quyền thừa kế của con gái mà chỉ chú trọng đến quyền lợi của con trai. Các qui định về thừa kế theo Bộ luật Gia Long thể hiện rõ nét chế độ hôn nhân - gia đình phong kiến phương Đông: "Tứ đức tam tòng"; "Quyền huynh thế phụ"; "Nữ sinh ngoại tộc"; "chồng chúa vợ tôi"... con gái chỉ có quyền thừa kế gia tài khi cha mẹ di chúc cho tài sản mà thôi. Do đề cao vai trò của trưởng nam nên tài sản của cha mẹ chủ yếu là để lại cho con trai, đất hương hoả nhất thiết phải dành phần cho con trưởng nam
  • 30. 23 và cháu đích tôn, con gái chỉ được thừa hưởng khi một gia đình tuyệt tự. Cha mẹ với tư cách là chủ sở hữu, cũng không có quyền làm khác, không thể để cho một người con gái hưởng hoa lợi hương hoả, dù người con gái ấy là chị cả và dù người con gái ấy sống độc thân đến khi chết. "Đối với tài sản của vợ chồng, kể từ khi có chồng người đàn bà mất hết nặng lực hành vi dân sự. Sau khi thành vợ chồng chính thức, người chồng trở nên người chủ tất cả tài sản chung của vợ chồng, làm chủ luôn tất cả tài sản của người vợ đem về nhà chồng, động sản cũng như bất động sản" [43, tr.24]. Nếu vợ chết trước, dĩ nhiên chồng tiếp tục làm chủ tài sản ấy với tư cách là chủ sở hữu. Nhưng trong trường hợp chồng chết trước, người vợ không được quyền thừa kế, vợ chỉ được tiếp tục hưởng hoa lợi trên tài sản của chồng để lại cho đến chết, nếu không tái giá, không làm điều bất xứng. Đồng thời người vợ goá có nghĩa vụ phải trả hết các khoản nợ của chồng, dù nợ nhiều hơn của để lại. Trong trường hợp vợ không "thủ tiết" thờ chồng, thì tự nhiên người goá phụ mất hết quyền hưởng hoa lợi, bị bên nhà chồng trưng bằng cớ để lấy lại ruộng đất. Như vậy, do bị lệ thuộc, pháp luật triều Nguyễn nói chung và Bộ HVLL nói riêng đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của luật nhà Thanh, "mất hết cá tính của nền pháp luật Việt Nam" [47, tr.257]. Có thể nói, pháp luật triều Nguyễn cũng như những quy định PLVTK thời này không những không có sự tiến bộ mà còn thụt lùi hơn so với những thành tựu của triều Lê trước đó đã đạt được. * Thừa kế trong giai đoạn Pháp thuộc đến tháng 8/1945 Giai đoạn này Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Do phải chịu chế độ đô hộ của thực dân Pháp, pháp luật nói chung và PLVTK nói riêng của thời kỳ này thể hiện hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu và ảnh hưởng tư tưởng Tư sản "nền cộng hoà Pháp" với chính sách "chia để trị". Hệ thống pháp luật trong giai đoạn này chỉ là công cụ của thực dân pháp nhằm thực
  • 31. 24 hiện chính sách thuộc địa. Bản chất của chế độ nô dịch thuộc địa được bộc lộ công khai không những trong những chính sách cai trị của thực dân Pháp, mà cả trong các qui phạm pháp luật. So với pháp luật thời nhà Lê và thời nhà Nguyễn thì PLVTK thời Pháp thuộc (1858 - 1945) theo khuôn mẫu của BLDS Napoleon, được quy định một cách chi tiết trong Bộ luật Dân luật Bắc kỳ và Trung kỳ. Hai Bộ luật này đều quy định hai hình thức thừa kế, đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Về thừa kế theo di chúc: Bộ dân luật Bắc kỳ và Trung kỳ đều quy định người thành niên hoặc đã thoát quyền, nếu có đủ trí khôn đều có thể làm di chúc để xử trí tất cả tài sản của mình (Điều 321 Dân luật Bắc kỳ; Điều 313 Dân luật Trung kỳ). Người cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình, nhưng phải giữ quyền lợi cho vợ chính. Vợ chính, vợ thứ trong khi đương giá thú có thể định đoạt tài sản riêng của mình nếu chồng ưng thuận (Điều 320 Dân luật Bắc kỳ, Điều 312 Dân luật Trung kỳ). Người lập di chúc có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người trong những người được thừa kế. Việc truất quyền thừa kế phải được lập thành văn bản do Viên quản lý văn khế lập hoặc do Lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư [4, Điều 321]. Hình thức di chúc phải lập thành văn bản, do Viên quản lý văn khế hoặc công chức thị thực làm ra. Di chúc không có viên chức thị thực phải do người lập di chúc viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người thành niên làm chứng. Người làm chứng thường là Lý trưởng tại nơi trú quán của người lập chúc thư, nếu ở xa không về nơi trú quán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởng nơi hiện ở của người lập chúc thư (Điều 326 Dân luật Bắc kỳ và Điều 315, Điều 316 Dân luật Trung kỳ). Ngoài ra các vấn đề nội dung di chúc, năng lực chủ thể của người lập di chúc, vấn đề hương hoả... cũng đều được quy định rõ trong hai bộ luật này [5, Điều 316].
  • 32. 25 Về thừa kế theo pháp luật: Trong thời kỳ thực dân phong kiến, vị trí của người vợ không được xem trọng và bị đẩy xuống hàng thứ yếu, nên không có sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân. Tư tưởng duy trì và bảo vệ sự tồn tại của gia đình, dòng tộc được đặt lên hàng đầu, nên chế định thừa kế luôn bảo vệ quyền hưởng di sản của những người trong quan hệ huyết thống nội tộc. Do vậy, theo quy định từ Điều 337 đến Điều 343 Dân luật Bắc kỳ và từ Điều 332 đến Điều 338 Dân luật Trung kỳ thứ tự ưu tiên hưởng di sản, khi chia theo pháp luật như sau: Thứ tự thứ nhất: Các con (con đẻ, con nuôi, con vợ cả, con vợ lẽ, con trai, con gái); nếu không còn con thì cháu của người để lại di sản mới được hưởng di sản của ông bà. Thứ tự thứ hai: cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người để lại di sản, nếu người để lại di sản không còn con cháu. Thứ tự thứ ba: ông nội, bà nội; nếu ông bà nội không còn thì các cụ nội của người để lại di sản được hưởng. Thứ tự thứ tư: anh, chị, em ruột. Nếu anh, chị, em ruột chết trước thì con của anh, chị, em ruột được hưởng và cháu của anh, chị, em ruột sẽ được hưởng di sản, nếu con của anh, chị, em ruột cũng đã chết. Thứ tự thứ năm: Những người bên họ ngoại của người để lại di sản chỉ được hưởng sau khi đã xác định bên họ nội không còn ai thừa kế hoặc có nhưng đều bị coi là người không xứng đáng được hưởng di sản [4, Điều 337]. Với thứ tự những người được chỉ định thừa kế theo hàng như vậy, ta thấy không có bóng dáng của người vợ hoặc chồng khi một bên chết trước. Theo quy định Bộ Dân luật Bắc kỳ, Bộ Dân luật Trung kỳ thì người vợ goá chỉ là người thừa kế cuối cùng của người chồng khi không còn thân thuộc nào khác bên họ nội của người chồng. Xét trong xã hội phong kiến, quy định này khó mà thực thi, bởi lẽ xã hội thừa nhận chế độ đa thê và trong gia đình
  • 33. 26 thường có rất nhiều con, thử hỏi trong thứ tự hưởng di sản bao giờ mới đến người vợ goá. Ngoài quy định hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Dân luật Trung kỳ còn quy định rất cụ thể vấn đề hương hoả. Theo Điều 395, Điều 398 Bộ Dân luật Bắc kỳ và và Điều 401, 402 Bộ Dân luật Trung kỳ thì người có tài sản có thể lập hương hoả để thờ cúng người đó. Tài sản để hương hoả có thể là động sản, có thể là bất động sản sinh lời. Việc lập hương hoả có thể làm ngay vào chúc thư hoặc biên vào giấy chia gia tài, hoặc lập thành giấy tờ riêng [5, Điều 401]. Tài sản làm hương hoả không được quá 1/5 tổng số tài sản của người lập hương hoả. Tài sản hương hoả được giao cho người con trai trưởng của người vợ chính. Nếu con trai trưởng không còn thì giao cho cháu đích tôn. Nếu con trai trưởng không có con trai thì người được hưởng là con trai thứ tiếp theo của người vợ chính. Nếu vợ chính không có con trai thì người được hưởng của hương hoả là người con trai lớn tuổi nhất trong các con của người vợ thứ. Nếu người mệnh một là con thứ không có con trai trưởng để thừa tự thì có thể lập con gái trưởng đứng thừa hưởng hương hoả để phụng tự mình. Trong trường hợp trưởng nữ đứng thừa hưởng hương hoả chết, thì của hương hoả lại truyền cho trưởng nữ, nếu không có trưởng nữ thì giao cho đích tôn của người trưởng nữ [12, tr.139]. Với một số nội dung chính của hai Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Dân luật Trung kỳ vừa trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng các quy định về thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, di sản dùng làm hương hoả được quy định rất cụ thể. Riêng ở Nam kỳ Bộ Dân luật giản yếu (1883) lại không có quy định về thừa kế. Văn bản này là sự sao chép chủ yếu Bộ Dân luật cộng hoà Pháp (1804) và nó tập trung làm rõ các vấn đề chung về chủ thể, năng lực pháp luật dân sự, tư cách đương sự... Chỉ đến năm 1925 theo Sắc lệnh ngày
  • 34. 27 21/7/1925 thì vấn đề thừa kế mới được ghi nhận. Song sự quy định ấy lại chưa rõ ràng, quá sơ lược. Tóm lại, PLVTK trong giai đoạn trước tháng 8/1945 đã ghi nhận phù hợp với hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam qua các triều đại, thể hiện bản chất giai cấp của chế độ phong kiến và thực dân – phong kiến. Vấn đề bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ chưa được giải quyết. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định, PLVTK trong giai đoàn này cũng đã phản ánh được những phong tục, tập quán tiến bộ cùng với các thành tựu trong lĩnh vực lập pháp của châu Âu lục địa (mà chủ yếu là Bộ Dân luật Pháp). 1.3.2. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8/1945 đến trƣớc 01/7/1996 1.3.2.1. Giai đoạn 1945 - 1975 Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, một nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngay từ đầu thành lập, Nhà nước non trẻ phải đối phó bao nhiêu vấn đề phức tạp về chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội…. Nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước là phải bảo vệ củng cố thành quả cách mạng, kể các các vấn đề liên quan đến vấn đề dân sự. Tuy nhiên, do điều kiện thời điểm lịch sử lúc đó chưa cho phép chúng ta xây dựng và ban hành kịp thời các văn bản pháp luật mới. Để đảm bảo cho các quan hệ xã hội về dân sự phát triển bình thường, Nhà nước cần phải có hệ thống pháp luật. Vì vậy, ngày 10/10/1945 Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành Sắc lệnh 90/SL cho phép áp dụng luật lệ cũ, nếu nó không trái với nguyên tắc "Độc lập của nước Việt Nam và chủ thể dân chủ cộng hoà". Như vậy, khi giải quyết tranh chấp về thừa kế trong thời kỳ này chủ yếu vẫn áp dụng những quy định trong Bộ luật Dân luật Bắc, Trung, Nam kỳ. Ngày 9.11.1946, Hiến pháp 1946 ra đời với mục đích ghi nhận những thành tích vẻ vang của Cách mạng và xây dựng đất nước, xóa bỏ tàn tích của
  • 35. 28 chế độ cũ, thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại. Ngày 22/5/1950, Hồ Chủ tịch đã ký ban hành Sắc lệnh 97/SL về việc sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật cũ, qui định một số nguyên tắc mới để áp dụng trong điều kiện của nền dân chủ nước ta. Bằng Sắc lệnh 97, PLVTK ở Việt Nam đã có những nguyên tắc hết sức tiến bộ, phá vỡ sự cổ hủ, lỗi thời trong PLVTK trước đó. Các nguyên tắc được quy định trong Sắc lệnh 97/SL như con cháu hoặc vợ chồng của người chết cũng không bắt buộc phải nhận thừa kế của người ấy; các chủ nợ của người chết không có quyền đòi nợ qúa số di sản để lại, con trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha mẹ; người đàn bà có chồng, có toàn năng về mặt hộ; các quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân... [48, tr.72]. Những nội dung trên của Sắc lệnh số 97 đã cụ thể hoá Điều 9 Hiến pháp năm 1946 "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" và Điều 12 Hiến pháp 1946 "Quyền sở hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm". Có thể nói, Sắc lệnh 97 đã đảm bảo quyền bình đẳng về thừa kế của công dân. Tư tưởng tiến bộ này cho đến ngày nay vẫn còn được giữ nguyên ý nghĩa chủ đạo trong việc xây dựng, phát triển và vận dụng các quy định của PLVTK nói riêng và pháp luật dân sự nói chung. Để giải quyết tranh chấp thừa kế một cách thống nhất đối với Tòa án các cấp, dựa trên các qui định của Hiến pháp 1946 và tinh thần của Sắc lệnh 97, Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư số 1742 ngày 18/9/1956 hướng dẫn như sau: Vợ hoặc chồng của người chết có quyền thừa kế ngang với các con, vợ lẽ và con nuôi chính thức của người để lại di sản có quyền thừa kế như vợ cả và con đẻ của người đó. Vợ goá của người để lại di sản đều có quyền thừa kế di sản của chồng và hưởng phần di sản ngang với các thừa kế cùng hàng khác [71, tr.37]. Quy định trong thông tư số 1742 nói trên đã cũng cố và phát triển thêm
  • 36. 29 nguyên tắc "người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ" mà Sắc lệnh 97 đã quy định [71]. Sau khi hòa bình lặp lại ở Miền Bắc, nhân dân miền Bắc đã thu được nhiều thành tích to lớn trong việc khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá. Trong giai đoạn mới của cách mạng, Quốc hội đã sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Ngày 31.12.1959, Hiến pháp 1959 ra đời. Bên cạnh những qui định nhằm phát huy sức mạnh toàn dân, ngoài ra cũng có rất nhiều qui định về thừa kế, đảm bảo quyền sở hữu của nhân dân. Hiến pháp 1959 đã công nhận vấn đề thừa kế thành nguyên tắc, tại Điều 14 của Hiến pháp đã chính thức ghi nhận: Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân, đồng thời pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác, quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân được bảo đảm. Điều 19 qui định "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân" và Điều 16 Luật HNGĐ năm 1959 qui định "vợ và chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau"; "các con có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong quy định nói chung và trong lĩnh vực hưởng thừa kế nói riêng" [55, Điều 19]. Sau này, để đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác xét xử trong phạm vi chức năng do Luật tổ chức Tòa án qui định, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều thông tư hướng dẫn cụ thể để Toà án các cấp có sự thống nhất chung về đường lối xét xử. Thông tư 594/NCPL ngày 27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp về thừa kế. Thông tư số 594 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế có quy định cụ thể: Quyền bình đẳng nam nữ trong việc hưởng di sản; các con của người chết không phân biệt giới tính, trẻ già, có năng lực hành vi hay không có năng lực hành vi dân sự đều được hưởng phần di sản ngang nhau; vợ hoặc chồng của người để lại di sản được
  • 37. 30 thừa kế ở hàng thứ nhất cùng với các con của người đó. Thông tư 02/TATC ngày 2/8/1973 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế di sản liệt sĩ... Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, PLVTK trong giai đoạn 1945-1975 về cơ bản vẫn áp dụng các qui định của Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ và Pháp quy giản yếu (1873), tuy nhiên có sự áp dụng linh hoạt, mang nội dung mới tiến bộ, hướng tới việc xoá bỏ những quan niệm lạc hậu, tư tưởng trọng nam, khinh nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ, bình đẳng mọi công dân trong lĩnh vực thừa kế. 1.3.2.2. Giai đoạn từ 1975 - 1990 Kể từ sau 30.4.1975, nhân dân Việt Nam bước vào một giai đoạn vô cùng đặc biệt. "Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập thống nhất... tiến hành cách mạng XHCN, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH" [77, tr.75]. Khác hẳn với các quy định của pháp luật trước đó, cá nhân không còn quyền sở hữu đối với đất đai, kể từ ngày Hiến pháp năm 1980 có hiệu lực thi hành. Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế của công dân, tuy nhiên trong di sản thừa kế của công dân Việt Nam trong giai đoạn này không còn tài sản là đất đai nữa. Từ quy định cơ bản này, quyền sở hữu của công dân Việt Nam trong giai đoạn 1975-1990 chỉ giới hạn trong phạm vi các tài sản như "thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ" [81, Điều 27]. Để có đường lối áp dụng thống nhất cho Toà án các cấp trong công tác xét xử giải quyết tranh chấp về thừa kế, đồng thời bổ sung một số vấn đề cho phù hợp với quy định của Hiến pháp mới, qua tổng kết rút kinh nghiệm công tác xét xử, ngày 24/7/1981 TANDTC đã ban hành Thông tư 81 để hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Thông tư 81 đã có những đóng góp nhất định trong việc hoàn thiện PLVTK. Thông tư đã quy định nhiều vấn đề như: xác định di sản thừa kế, trình tự thừa kế theo di chúc và theo pháp luật,
  • 38. 31 thừa kế thế vị, việc thừa kế của những người chết cùng vào một thời điểm, chia di sản thừa kế. Tuy chỉ là một văn bản hướng dẫn đường lối giải quyết những tranh chấp về quyền thừa kế, nhưng nội dung của Thông tư số 81 đã bao quát tương đối đầy đủ và toàn diện các vấn đề về thừa kế so với các văn bản trước đó. Theo Thông tư 81 thì quan niệm về di sản thừa kế bao gồm toàn bộ tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết. Thông tư 81 cũng quy định về thừa kế theo di chúc cụ thể hơn so với thông tư 594, tại chương IV hướng dẫn chi tiết về thừa kế theo di chúc; trong đó quy định rõ về hình thức di chúc, quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc, nghĩa vụ phải dành lại một phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc của người lập di chúc. Về thừa kế theo pháp luật, Thông tư 81 quy định có 2 hàng thừa kế. Hàng thừa kế thứ nhất: vợ goá hoặc chồng goá, các con đẻ và con nuôi, bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi. Hàng thừa kế thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ và cùng mẹ khác cha, anh chị em nuôi. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất được thừa kế trước và thừa kế toàn bộ di sản. Nếu ở hàng thứ nhất không có ai hoặc tuy có nhưng họ đều không nhận thì mới đến những người thừa kế ở hàng thứ hai. Các người thừa kế trong cùng một hàng, được hưởng một suất ngang nhau. Ngoài ra, Thông tư 81 còn quy định trong trường hợp những người thừa kế lẫn nhau chết trong cùng một thời điểm hoặc không thể xác định được ai chết trước thì không ai được thừa kế của ai, di sản của người nào chia cho người thừa kế của người đó. Có thể nói rằng Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định khá chi tiết về thừa kế từ sau cách mạng tháng 8 đến trước khi có PLVTK 1990. Thông tư 81 là văn bản thừa kế được áp dụng thống nhất cho cả nước, đóng vai trò là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp về thừa kế [75, A,phần III ].
  • 39. 32 - Thông tư số 81 chỉ là một văn bản hướng dẫn đường lối giải quyết những tranh chấp về quyền thừa kế trong bối cảnh một đất nước mới được thống nhất. Những nguyên tắc cơ bản về quyền thừa kế của công dân được quy định tại Điều 27 Hiến pháp năm 1980 là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng nội dung của Thông tư số 81. Nội dung của Thông tư số 81 không thể giải quyết được toàn diện các yếu tố khách quan phát sinh trong quan hệ thừa kế. - Thông tư số 81 được ban hành trong thời kỳ nền kinh tế ở nước ta được quản lý theo cơ chế tập trung, bao cấp. Theo cơ chế này, quyền sở hữu của Nhà nước và của tập thể được ưu tiên bảo vệ, còn quyền sở hữu và quyền thừa kế của công dân chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện. Việt Nam nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng, Thông tư số 81 đã là một Dù có những hạn chế trên, nhưng trong lịch sử phát triển luật dân sự văn bản tương đối hoàn chỉnh về các quy phạm liên quan đến quyền thừa kế của công dân trước khi có PLTK năm 1990, đánh dấu một bước trưởng thành và đáp ứng được yêu cầu của một thời kỳ lịch sử. Đáp ứng sự phát triển không ngừng của xã hội, khắc phục những hạn chế của các văn bản hướng dẫn giải quyết tranh chấp thừa kế trước đó, ngày 30/8/1990 Hội đồng Nhà nước CHXHCNVN đã thông qua Pháp lệnh thừa kế, có hiệu lực từ ngày 10/9/1990. PLTK 1990 được ban hành là một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao đầu tiên quy định khá đầy đủ về thừa kế ở nước ta kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi có BLDS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1995. Pháp lệnh thừa kế gồm 38 điều, chia làm 6 chương, trong đó đã xác định được những nguyên tắc cơ bản về thừa kế, về quyền bình đẳng thừa kế của công dân, thừa kế theo di chúc, diện và hàng thừa kế, thời hiệu, yêu cầu chia di sản thừa kế... Về thừa kế theo di chúc: Quy định tại chương II từ Điều 10 đến Điều 23
  • 40. 33 của Pháp lệnh thừa kế 1990. Theo pháp lệnh công dân có quyền lập di chúc để chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một người hoặc nhiều người trong hoặc ngoài các hàng thừa kế theo pháp luật, cũng như cho cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội. Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, phân định tài sản cho người thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lý do. Đặc biệt Pháp lệnh thừa kế còn quy định cụ thể hơn về nội dung di chúc (Điều 13), hiệu lực di chúc (Điều 23), hình thức di chúc (Điều 14, 15, 16, 17, 18), về những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (Điều 20). Sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc (Điều 22), các điều kiện có hiệu lực di chúc [87, Điều 13, 14,15,16,17,18,20,22,23]. 1.3.3. Giai đoạn từ 01/07/1996 đến nay Để phù hợp với sự đổi mới mọi mặt của đất nước và đáp ứng nhu cầu phát triển của toàn xã hội, Hiến pháp năm 1992 đã được ban hành. Chế độ sở hữu đã được Hiến pháp năm 1992 quy định tương ứng với các thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế gia đình. Theo quy định tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992, công dân không những có quyền sở hữu về tư liệu tiêu dùng, mà còn có quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác không bị hạn chế trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh [65]. Bộ luật Dân sự của nước ta đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1- 7-1996. Với tinh thần kế thừa và phát triển pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ 1945 đến nay, quyền thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam được quy định trong BLDS là một bước phát triển và hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam. BLDS 1995 ra đời là kết quả của quá trình kiểm nghiệm, sàng lọc thực tiễn của đời sống xã hội và hệ thống hoá, pháp điển hoá, pháp luật dân sự của chính quyền nhân dân.
  • 41. 34 - Về thừa kế theo di chúc: BLDS 1995 quy định gồm 28 điều, từ Điều 649 đến Điều 676, tăng thêm 14 điều so với Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Một số vấn đề chưa được đề cập trong Pháp lệnh thừa kế, nay được quy định rõ như: định nghĩa di chúc (Điều 649); người làm chứng cho việc lập di chúc (Điều 657); di chúc chung cho vợ chồng (Điều 666, Điều 667, Điều 671); di tặng (Điều 674); di chúc bị thất lạc, hư hại (Điều 669); gửi giữ di chúc, công bố di chúc, giải thích nội dung di chúc (Điều 668, Điều 675, Điều 676); Đối với trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (Điều 672) đã được quy định trong Pháp lệnh thừa kế, BLDS 1995 tiếp tục kế thừa và có sự sửa đổi so với Pháp lệnh thừa kế ở chỗ không đòi hỏi người thừa kế là cha, mẹ, vợ, chồng phải là người túng thiếu và không đủ khả năng lao động như Pháp lệnh thừa kế quy định [60, Điều 672]. Có thể nói, BLDS 1995 nói chung và các quy định về thừa kế trong bộ luật này nói riêng là một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật dân sự, hoàn thiện PLVTK ở Việt Nam. Bộ luật đã khắc phục kịp thời những vướng mắc, bất cập, sự thiếu tập trung, không đầy đủ của PLVTK được quy định trước đó. Những quy định này đã củng cố quyền sở hữu và quyền thừa kế tài sản của công dân phù hợp với công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Quyền thừa kế của công dân được quy định trong BLDS 1995 đã góp phần bảo vệ các quyền dân sự và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng đa dạng của các quan hệ xã hội, tranh chấp về thừa kế có xu hướng gia tăng về số lượng, phức tạp về nội dung, giá trị về di sản thừa kế ngày càng lớn. Lúc này, khi giải quyết tranh chấp về thừa kế không chỉ đơn giản là áp
  • 42. 35 dụng BLDS 1995 mà còn bị chi phối các văn bản pháp luật liên quan khác. Do vậy, để hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự, PLVTK, ngày 14/6/2005, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI đã thông qua BLDS sửa đổi 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006. Các quy định về thừa kế trong BLDS 2005 cơ bản kế thừa các quan điểm cũ và quy định một số điểm mới như sau: - Về hàng thừa kế: theo Điều 676 - BLDS năm 2005 quy định về người thừa kế theo pháp luật và số lượng hàng thừa kế vẫn là ba hàng thừa kế như BLDS năm 1995. Những người thừa kế theo quan hệ huyết thống bàng hệ và trực hệ vẫn được giữ nguyên và cũng bao gồm những người như quy định trong BLDS năm 1995. Tuy nhiên, tại hàng thừa kế thứ hai, BLDS năm 2005 bổ sung cháu nội, cháu ngoại của người để lại di sản được hưởng di sản theo trình tự hàng và tại hàng thừa kế thứ 3 là chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Đây là điểm mới so với quy định về thừa kế theo hàng tại Điều 679 - BLDS năm 1995. Tại Điểm b, Điểm c khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2005 đã quy định mở rộng phạm vi người thừa kế theo hàng, nhằm giải quyết có hiệu quả những quan hệ xã hội có liên quan đến việc chia di sản và nhận di sản thừa kế. - Về việc từ chối nhận di sản: Điều 642 trong BLDS 2005 đã quy định tương tự như Điều 645 trong BLDS 1995 là: trong trường hợp người có quyền thừa kế từ chối quyền hưởng di sản trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế nhưng có bổ sung thêm là: "sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận di sản" [67, Điều 645]. - Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế: Điều 645 BLDS 2005 đã quy định tương tự như Điều 648 BLDS 1995 là: "thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế", có bổ sung thêm: "thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế" [67, Điều 648] . Việc bổ sung quy định
  • 43. 36 này đã xác định quyền về tài sản của các chủ nợ cũng như những người khác có liên quan đến di sản chỉ được bảo vệ trong thời hiệu là 3 năm. Sau 3 năm kể từ khi mở thừa kế (khi con nợ chết), nếu người có quyền không yêu cầu thì khi đó họ mới bị mất quyền lợi của mình. Việc quy định như vậy không chỉ đảm bảo được tính ổn định trong giao lưu dân sự của người thừa kế mà còn làm rõ và phân biệt giữa các thời hiệu. - Về thừa kế theo di chúc: Những quy định về thừa kế theo di chúc trong BLDS 2005 đã khắc phục được những hạn chế và bất cập của những quy định trong BLDS 1995 đó là các quy định cụ thể về quyền của người lập di chúc (Điều 648); về di chúc bằng văn bản (Điều 650); về di chúc hợp pháp (Điều 652); về nội dung của di chúc bằng văn bản (Điều 653); về công bố di chúc (Điều 672). - Về thừa kế quyền sử dụng đất: Theo BLDS 1995, để được thừa kế đất nông nghiệp, người được thừa kế phải có điều kiện, có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện tiếp tục sản xuất nông nghiệp, chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định của pháp luật về đất đai. BLDS 2005 không quy định về điều kiện thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp mà quy định những người thuộc hàng thừa kế đều được thừa kế đất nông nghiệp: "cá nhân được nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất, quyền để thừa kế quyền sử dụng đất" [67, Điều 734]. - Về phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế (Điều 687). Đây là quy định mới được đưa vào BLDS 2005 nhằm giải quyết sự bất cập trong thực tiễn. Quy định mới này đã giải quyết bằng cách không chia bằng hiện vật mà thanh toán lại bằng tiền tại thời điểm chia thừa kế cho những trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế. Quy định này không chỉ bảo vệ quyền lợi cho người thừa kế mà còn tôn trọng tính ổn định trong giao dịch dân sự [67, Điều 687].
  • 44. 37 Kết luận Chƣơng 1 Qua phân tích như trên có thể đi đến kết luận: Thừa kế là một bộ phận không thể thiếu được đối với pháp luật của mỗi quốc gia, nên nghiên cứu về thừa kế đã được các nhà khoa học ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới quan tâm. Ở chương 1 luận văn đã xây dựng được khái niệm, đặc điểm PLVTK cũng như chỉ ra các nguyên tắc của PLVTK, từ đó làm căn cứ đánh giá giá trị PLVTK hiện hành, cũng như tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện PLVTK.
  • 45. 38 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM 2.1. PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1.1. Nhóm quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung về thừa kế Bao gồm 15 điều, từ Điều 631 đến Điều 645 BLDS 2005 có những nội dung cơ bản như: thời điểm, địa điểm mở thừa kế, di sản thừa kế, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản. - Về thời điểm mở thừa kế: Theo BLDS 2005, thời điểm mở thừa kế là: "thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 81 Bộ luật này" [67, Điều 633, khoản 1]. Việc xác định thời điểm mở thừa kế là rất quan trọng, kể từ thời điểm mở thửa kế, xác định được chính xác tài sản, quyền và nghĩa vụ về tài sản của người để lại thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là căn cứ xác định những người thừa kế của người đã chết, vì người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế, nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Bên cạnh đó, thời điểm mở thừa kế còn là căn cứ để xác định thời điểm bắt đầu khởi kiện và thời hiệu từ chối nhận di sản của người thừa kế trong mối quan hệ thừa kế. - Về địa điểm mở thừa kế: Theo khoản 2 Điều 633 BLDS 2005: "địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần di sản"[67, Điều 633, khoản2].