SlideShare a Scribd company logo
1 of 128
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN KIM THOA
HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN KIM THOA
HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phƣơng Lan
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn Kim Thoa
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH
KẾT HÔN
7
1.1. Khái niệm chung về chế định kết hôn 7
1.1.1. Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn 7
1.1.2. Kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái pháp luật 10
1.1.3. Chế định kết hôn 12
1.2. Cơ sở quy định chế định kết hôn 14
1.2.1. Kinh tế - xã hội 14
1.2.2. Văn hóa truyền thống, phong tục tập quán 16
1.2.3. Hội nhập quốc tế 19
1.2.4. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ 20
1.3. Ý nghĩa của chế định kết hôn 21
1.4. Khái quát chế định kết hôn theo pháp luật Việt Nam 22
1.4.1. Chế định kết hôn trong pháp luật phong kiến Việt Nam 22
1.4.2. Chế định kết hôn trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc 26
1.4.3. Chế định kết hôn trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay 29
Chương 2: CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA
ĐÌNH NĂM 2000
38
2.1. Điều kiện kết hôn 38
2.1.1. Về độ tuổi kết hôn 38
5
2.1.2. Sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn 41
2.1.3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn 43
2.2. Đăng ký kết hôn và việc chung sống như vợ chồng không
đăng ký kết hôn
53
2.2.1. Thẩm quyền và thủ tục đăng ký kết hôn 54
2.2.2. Chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn 57
2.3. Hủy kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000
61
2.3.1. Nguyên tắc xử lý đối với việc kết hôn trái pháp luật 61
2.3.2. Căn cứ hủy kết hôn trái pháp luật 62
2.3.3. Quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật 67
2.3.4. Đường lối giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật 68
2.3.5. Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật 74
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH
KẾT HÔN
76
3.1. Những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thực hiện chế định
kết hôn
76
3.1.1. Thực tiễn thực hiện điều kiện kết hôn 76
3.1.2. Thực tiễn thực hiện việc đăng ký kết hôn 91
3.1.3. Áp dụng pháp luật xử hủy việc kết hôn trái pháp luật 98
3.2. Một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện chế định kết hôn
trong pháp luật hôn nhân và gia đình
100
3.2.1. Hoàn thiện quy định về điều kiện kết hôn trong pháp luật hôn
nhân và gia đình
101
3.3.2. Kiến nghị về tổ chức thực hiện 111
KẾT LUẬN 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình
UBND : Ủy ban nhân dân
7
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
3.1 Tỷ lệ chưa đăng ký kết hôn theo dân tộc của các cặp vợ
chồng từ 18-60 tuổi
92
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Không phải ngẫu nhiên năm 1994 được Liên hợp quốc chọn là năm
quốc tế gia đình với chủ đề "Gia đình trong thế giới biến đổi". Điều đó thể
hiện sự quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới về vấn đề gia đình. Họ
nhận thấy rằng khủng hoảng về gia đình cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến khủng hoảng về xã hội. Không ai có thể phủ nhận được vị trí
quan trọng của gia đình đối với mỗi người, đối với xã hội. Bởi vì gia đình là
cái nôi nuôi dưỡng cho những thế hệ tương lai của đất nước. Gia đình là tế
bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Các công ước quốc tế đều thừa nhận tầm quan trọng của gia đình đối
với xã hội, nền tảng gia đình có tốt đẹp vững chắc thì xã hội mới văn minh
tiến bộ. Việt Nam cũng vậy, Điều 64 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định: "Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình…". Để cụ
thể hóa quy định của Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành Luật Hôn nhân và gia
đình (HN&GĐ) năm 2000 bao gồm nhiều chế định nhằm điều chỉnh các quan
hệ phát sinh trong lĩnh vực này.
Kết hôn là một chế định quan trọng của Luật HN&GĐ năm 2000. Kết
hôn là cơ sở hình thành gia đình, tế bào của xã hội. Pháp luật đã quy định điều
kiện kết hôn, thủ tục, cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn, trình tự kết hôn và
đang từng bước hoàn chỉnh hơn nữa về chế định này. Thực tiễn hơn 13 năm
áp dụng chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000 đạt được nhiều thành
tựu: việc thực hiện quy định về điều kiện kết hôn đã hạn chế việc kết hôn trái
pháp luật hoặc chung sống như vợ, chồng khi đang có vợ, có chồng; nguyên
tắc tự nguyện đã khẳng định sự bình đẳng giữa nam và nữ, đảm bảo sự xây
dựng gia đình bền vững và hạnh phúc… Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ
năm 2000 là cơ sở pháp lý xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, là tế
bào lành mạnh của xã hội.
9
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 đã cho thấy
một số quy định về chế định kết hôn đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không
còn phù hợp trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay. Quy định về
độ tuổi kết hôn chưa thống nhất với các văn bản trong hệ thống pháp luật của
nhà nước ta. Các quy định về giải quyết hậu quả phát sinh từ việc chung sống
như vợ chồng không có đăng ký kết hôn chưa được ghi nhận trong Luật
HN&GĐ năm 2000 và chưa đảm bảo tính đồng bộ. Việc công nhận hay
không công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính đang là hiện
tượng xã hội nhạy cảm và thời sự cũng cần nghiên cứu nghiêm túc trên nhiều
khía cạnh xã hội và pháp lý. Đường lối hủy kết hôn trái pháp luật còn chưa
thống nhất khiến Tòa án các cấp khi giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật vẫn
còn gặp khó khăn.
Yêu cầu tất yếu đặt ra là phải hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp
luật điều chỉnh chế định kết hôn nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân; cụ thể hóa
Hiến pháp, Chiến lược của Chính phủ về phát triển gia đình Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030 về xây dựng và phát triển gia đình; đảm bảo tính đồng bộ,
ổn định trong hệ thống pháp luật, vừa đáp ứng được các yêu cầu khách quan
của thực tiễn, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế trên cơ sở kế thừa và phát huy
các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
Xuất phát từ tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Hoàn thiện chế định
kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000" là cần thiết,
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định kết hôn là một chế định có vị trí, vai trò quan trọng trong
Luật HN&GĐ năm 2000. Vì vậy, từ trước đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về toàn bộ nội dung chế định kết hôn hoặc một nội dung của chế
định này. Có thể chia các công trình nghiên cứu về chế định kết hôn trong
Luật HN&GĐ năm 2000 thành ba nhóm lớn:
10
- Nhóm luận văn: Ở nhóm này có thể liệt kê một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu như: "Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000", Luận văn thạc sĩ Luật học của Khuất Thị Thu Hạnh, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2008; "Những khía cạnh pháp lý của chung sống như
vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của
Hoàng Hạnh Nguyên, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huyền Trang, 2012... Hầu
hết các luận văn nghiên cứu một nội dung riêng lẻ nào đó của chế định kết
hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000. Chỉ có duy nhất một luận văn thạc sĩ
nghiên cứu về chế định này, tuy nhiên cũng đã khá lâu và không đặt trong bối
cảnh sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000.
- Nhóm giáo trình, sách: Trong nhóm này phải kể đến Giáo trình Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2009. Về sách, có thể kể tới một số sách chuyên sâu
như: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 của hai tác giả Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình của tác giả
Nguyễn Ngọc Điện, tập 1, tập 2, Nxb Trẻ, 2002. Ngoài ra, còn rất nhiều sách
nghiên cứu chuyên sâu khác nhưng cũng chưa có công trình nào nghiên cứu riêng,
đầy đủ và toàn diện về lý luận cũng như đánh giá những mặt tích cực, hạn chế,
những bất cập cần sửa đổi của chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ 2000.
- Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các bài nghiên cứu
thuộc nhóm này được đề cập trên một số tạp chí như Tạp chí Luật học, Tạp
chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp. Trong đó có thể kể đến bài viết của TS. Nguyễn Văn
Cừ: "Hoàn thiện quy định về điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2013; TS. Ngô Thị Hường
11
"Mấy vấn đề về quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính", Tạp
chí Luật học, số 06/2001; ThS. Bùi Thị Mừng "Chế định kết hôn trong pháp
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam qua các thời kì dưới góc nhìn lập pháp",
Tạp chí Luật học, số 11/2012… Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đăng trên các
báo điện tử.
Nhìn chung, mỗi công trình nghiên cứu đã nhìn nhận, giải quyết vấn
đề kết hôn ở một nội dung, góc độ khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về việc hoàn thiện chế
định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000 đặt trong bối cảnh sửa đổi Luật
HN&GĐ năm 2000. Nhận diện được vấn đề này, luận văn đề cập đến việc
nghiên cứu vấn đề lý luận về kết hôn, điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp
luật, cơ sở quy định và ý nghĩa của chế định kết hôn cũng như đánh giá những
mặt tích cực, hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng chế định kết hôn để từ
đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này cho phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội hiện nay, khi có nhiều yếu tố tác động, chi phối đến việc
kết hôn của các bên nam - nữ. Do đó, công trình sẽ không phải là sự lặp lại
của bất kỳ công trình nào trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về chế định kết hôn; nghiên cứu,
phân tích nội dung, ý nghĩa chế định kết hôn và đánh giá việc áp dụng chế định
kết hôn trong thực tiễn, đồng thời phát hiện những bất cập, hạn chế của chế
định kết hôn, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện
chế định này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về chế định kết hôn, tìm
hiểu sự phát triển của chế định kết hôn qua các thời kỳ lịch sử.
12
- Phân tích các quy định của pháp luật về chế định kết hôn như điều
kiện kết hôn, đăng ký kết hôn và hủy kết hôn trái pháp luật.
- Đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật về chế định kết
hôn trong thực tiễn, làm rõ những điểm chưa hợp lý, còn bất cập, chưa có tính
khả thi cũng như chỉ ra những điểm chưa tương đồng với các văn bản pháp
luật khác có liên quan điều chỉnh về chế định kết hôn (về độ tuổi kết hôn, kết
hôn đồng giới, hủy kết hôn trái pháp luật,...).
- Chỉ ra những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung chế định kết hôn trong
Luật HN&GĐ từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về chế định này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận chung về chế
định kết hôn, các quy định của pháp luật về chế định kết hôn cũng như các
văn bản pháp luật khác có liên quan và thực tiễn áp dụng chế định kết hôn qua
các vụ, việc cụ thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế định kết hôn theo
Luật HN&GĐ năm 2000 (từ Điều 9 đến Điều 17) mà không bao gồm vấn đề
kết hôn có yếu tố nước ngoài và có liên hệ với Luật HN&GĐ năm 2014.
Đồng thời, đề tài nghiên cứu một số vụ việc thực tế trong thực tiễn áp dụng
các điều kiện kết hôn và hủy việc kết hôn trái pháp luật khi Luật HN&GĐ
năm 2000 có hiệu lực. Trên cơ sở đó, luận văn đánh giá việc áp dụng các quy
định của chế định kết hôn trong thực tiễn, phát hiện những bất cập cần sửa đổi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh
về gia đình, về quyền con người trong lĩnh vực HN&GĐ.
13
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy
nạp v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu đi sâu phân tích một cách toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống về những vấn đề lý luận về chế định kết hôn;
những quy định của pháp luật hiện hành và đánh giá việc áp dụng các quy
định này trong thực tiễn. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra những điểm còn hạn
chế, bất cập trong quy định của pháp luật điều chỉnh chế định kết hôn. Trong
quá trình viết tác giả đã đề xuất một số nội dung nhằm hoàn thiện chế định kết
hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000, có sự so sánh với các quy định của chế
định này theo Luật HN&GĐ sửa đổi năm 2014, do đó đảm bảo tính thời sự,
khoa học của vấn đề nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chế định kết hôn.
Chương 2: Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện chế định kết hôn và một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện chế định kết hôn.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
1.1.1. Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn
* Khái niệm kết hôn
Khái niệm kết hôn có thể hiểu dưới hai góc độ:
- Dưới góc độ xã hội, kết hôn là một sự kiện thực tế, là việc nam nữ
lấy nhau thành vợ thành chồng theo những nghi thức nhất định, thường bị
chi phối bởi phong tục, tập quán, đạo đức, tư tưởng, tôn giáo của xã hội
đương thời. Quan hệ hôn nhân gia đình là một hình thức của quan hệ xã hội
được xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, quan hệ này tồn tại và phát triển
theo quy luật của tự nhiên với mục đích đảm bảo sự sinh tồn, phát triển của
xã hội loài người. Ngay cả khi không có bất kỳ một quy tắc, một quy định
nào thì quan hệ hôn nhân gia đình từ trước đến nay vẫn được xác lập, con
người vẫn chung sống, vẫn sinh con đẻ cái và tiếp nối từ thế hệ này qua thế
hệ khác. Do đó, quyền kết hôn là một quyền tự nhiên, quyền con người. Tuy
nhiên, trải qua các giai đoạn lịch sử, với sự xuất hiện của các hình thái kinh
tế xã hội khác nhau, những quy tắc xử sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
dần dần xuất hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội. Kết hôn không còn
là một quyền tự do, bản năng của con người mà trở thành một quan hệ xã hội
bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước luôn sử dụng pháp luật
để điều chỉnh các mặt của quan hệ HN&GĐ. Sự điều chỉnh này ở mỗi Nhà
nước, mỗi chế độ là khác nhau. Nó có thể là sự quy định rõ ràng bằng quy
phạm pháp luật hoặc thừa nhận bằng tập quán. Nhà nước kiểm soát quyền tự
do kết hôn của công dân bằng cách đặt ra các quy định làm cơ sở cho việc xác
lập quan hệ vợ chồng được thể hiện qua các quy định về kết hôn và điều kiện
kết hôn.
15
- Dưới góc độ pháp lý, Luật HN&GĐ năm 1986 đưa ra định nghĩa như
sau: "Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo quy định của pháp
luật. Việc kết hôn phải thuận theo các Điều 5, 6, 7, 8 của Luật Hôn nhân và
gia đình" [40]. Luật HN&GĐ năm 2000 định nghĩa: "Kết hôn là việc nam và
nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn
và đăng ký kết hôn" [42, Khoản 2, Điều 8]. Vậy có thể hiểu kết hôn là một sự
kiện pháp lý, bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất, sự thể hiện ý chí tự nguyện của các bên nam nữ mong muốn
được kết hôn với nhau. Trong giấy khai xin đăng ký kết hôn và trước cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ thể hiện rằng họ
hoàn toàn tự nguyện và mong muốn được kết hôn, sự thể hiện đó phải hoàn
toàn phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của hai người. Nam, nữ kết hôn là
mong muốn được gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng và cùng nhau xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Vì vậy, ý chí
tự nguyện của nam, nữ trong việc kết hôn là điều kiện đảm bảo cho hôn nhân
có giá trị pháp lý đồng thời là cơ sở xây dựng gia đình bền vững.
Thứ hai, các bên nam nữ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn.
Theo Từ điển Luật học thì điều kiện kết hôn là quy định của pháp luật mà khi
kết hôn các bên nam, nữ cần phải có hoặc không có điều kiện đó mới có
quyền được kết hôn. Khi hai bên nam nữ đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi, về
sự tự nguyện và không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn thì có
quyền kết hôn với nhau. Việc quy định các điều kiện kết hôn là cần thiết, đảm
bảo trật tự trong gia đình, xã hội; giữ gìn thuần phong mỹ tục, đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam; đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên trong
quan hệ hôn nhân.
Thứ ba, có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ
quan đăng ký kết hôn xem xét yêu cầu đăng ký kết hôn của nam nữ, nếu các
bên có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tiến hành đăng ký
16
việc kết hôn, ghi vào Sổ kết hôn và cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho nam,
nữ. Thông qua sự kiện đăng ký kết hôn, Nhà nước đã công nhận hôn nhân của
đôi nam nữ. Giấy chứng nhận kết hôn là cơ sở pháp lý ghi nhận rằng hai bên
nam, nữ đã phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng để từ đó Nhà nước có biện
pháp bảo hộ quyền lợi cho vợ, chồng, đặc biệt là quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em. Về mặt quản lý nhà nước thì đăng ký kết hôn là biện pháp để Nhà nước
kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong việc kết hôn và ngăn chặn các hiện
tượng vi phạm các điều kiện kết hôn.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, kết hôn là một sự kiện pháp lý bao gồm
các yếu tố cấu thành mà nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì việc kết hôn
không có hiệu lực, không làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm kết hôn như sau:
Kết hôn là một sự kiện pháp lý, thể hiện nam nữ lấy nhau thành vợ chồng trên
cơ sở các bên đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn do pháp luật quy định và
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo trình tự, thủ tục nhất
định làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ.
* Khái niệm điều kiện kết hôn
Việc kết hôn luôn gắn liền với các điều kiện kết hôn, "không ai bị buộc
phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người
đó kết hôn...hôn nhân không thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn mà trái
lại sự tùy tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân" [61, tr. 90].
Điều kiện kết hôn là những yêu cầu, tiêu chuẩn, chuẩn mực đặt ra đối
với các bên nam nữ khi xác lập quan hệ hôn nhân. Trong xã hội chưa có giai
cấp, các điều kiện kết hôn bị chi phối bởi các quy phạm xã hội như đạo đức,
phong tục tập quán, tôn giáo, truyền thống, văn hóa của xã hội đương thời.
Khi Nhà nước xuất hiện, Nhà nước sử dụng pháp luật để quy định các điều
kiện kết hôn đòi hỏi các bên phải đáp ứng. Những quy định này thể hiện mục
đích của giai cấp thống trị nhằm xây dựng mô hình gia đình phù hợp với lợi
17
ích của giai cấp mình. Điều kiện kết hôn phản ánh điều kiện kinh tế xã hội, sự
phát triển khoa học kỹ thuật, văn hóa truyền thống, phong tục tập quán của xã
hội đương thời và ý chí của giai cấp thống trị thông qua mô hình gia đình. Do
đó, ở mỗi một thời kì, một quốc gia có những điều kiện kết hôn khác nhau.
Nhưng dù thời kỳ nào thì những điều kiện kết hôn đó đều đặt ra đối với các
bên khi muốn xác lập quan hệ vợ chồng. Khi đáp ứng các điều kiện kết hôn
thì họ sẽ trở thành chủ thể của việc kết hôn. Có nhiều quy phạm xã hội như
đạo đức, phong tục tập quán điều chỉnh điều kiện kết hôn, tuy nhiên chỉ có
quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra là có tính bắt buộc, áp dụng chung
cho tất cả mọi người.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Điều kiện kết hôn là yêu cầu
pháp lý được thể hiện thông qua quy phạm pháp luật, đặt ra đối với các bên
nam nữ buộc họ phải đáp ứng, trên cơ sở đó việc kết hôn của họ mới được
công nhận là hợp pháp.
1.1.2. Kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái pháp luật
* Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Việc kết hôn chịu sự điều chỉnh của pháp luật trong mỗi thời kỳ
nhằm đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị, phù hợp với mục đích xây dựng
gia đình mà giai cấp thống trị nhằm đạt được. Vì vậy, từ góc độ lý luận, để
tìm hiểu quy định về kết hôn, kết hôn trái pháp luật thì cần xem xét trong sự
tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của mỗi thời kỳ.
Thông qua Nhà nước, bằng pháp luật, giai cấp thống trị tác động vào các
quan hệ HN&GĐ làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù
hợp với lợi ích của giai cấp đó. Trong bất cứ xã hội nào việc vi phạm các
điều kiện kết hôn cũng gây ra những bất lợi cho các bên (người kết hôn, gia
đình, Nhà nước và xã hội), vì vậy pháp luật luôn quy định việc xử lý các
trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn.
18
"Kết hôn trái pháp luật chính là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký
kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định" [42, Điều 8].
Theo định nghĩa này thì việc kết hôn bị coi là trái pháp luật khi có điều kiện
cần là việc đăng ký kết hôn đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và điều
kiện đủ là một trong hai bên vi phạm một trong những điều kiện kết hôn do
pháp luật quy định. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì không được coi
là kết hôn trái pháp luật. Ví dụ hai trường hợp sau sẽ không được coi là kết
hôn trái pháp luật: trường hợp hai bên nam nữ không đăng ký kết hôn và một
trong hai bên nam nữ vi phạm một trong những điều kiện kết hôn hoặc trường
hợp việc đăng ký kết hôn không đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và các
bên không vi phạm điều kiện kết hôn.
Như vậy, có thể hiểu: Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ
vợ chồng trong đó thực hiện đầy đủ nghi thức kết hôn và thẩm quyền đăng ký
kết hôn theo đúng quy định pháp luật nhưng có sự vi phạm một trong những
điều kiện kết hôn của một trong hai bên nam nữ kết hôn.
* Khái niệm hủy kết hôn trái pháp luật
Xét dưới góc độ pháp lý, hành vi kết hôn trái pháp luật xâm phạm đến
quyền và lợi ích chính đáng của công dân, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản
lý của các cơ quan nhà nước. Những cuộc hôn nhân không hợp pháp, kết hôn
không có đăng ký kết hôn khiến cho các cơ quan nhà nước khó có thể nắm bắt
và quản lý được các vấn đề liên quan đến hộ tịch, khai sinh hay giải quyết những
tranh chấp khác. Bên cạnh đó, việc kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng xấu tới
nhiều mặt của đời sống xã hội như vi phạm nghiêm trọng về đạo đức, nhân
cách, lối sống của gia đình Việt Nam, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình,
ảnh hưởng đến sức khỏe và việc duy trì nòi giống của dân tộc. Do đó, Nhà
nước ta đã thể hiện thái độ nghiêm khắc thông qua hủy kết hôn trái pháp luật.
Về bản chất pháp lý thì hủy kết hôn trái pháp luật là một chế tài vì nó
thể hiện ý chí của Nhà nước, buộc các bên kết hôn phải tuân theo mà không
19
phụ thuộc ý chí của họ và hủy kết hôn trái pháp luật đưa lại sự bất lợi cho các
bên. Hủy kết hôn trái pháp luật đồng nghĩa với việc không công nhận việc kết
hôn có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên
nam nữ kể từ thời điểm kết hôn. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì
buộc phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng giữa hai bên...Như vậy, hủy kết
hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Nhà nước thể hiện sự không công
nhận của Nhà nước giữa hai bên nam nữ có quan hệ vợ chồng kể từ thời điểm
đăng ký kết hôn.
1.1.3. Chế định kết hôn
Hệ thống pháp luật Việt Nam phân chia thành các ngành luật điều
chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Mỗi ngành luật được tập hợp bởi
nhiều chế định khác nhau, mỗi chế định bao gồm nhiều quy phạm pháp luật
giống nhau điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội cùng loại.
Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm
chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng [62].
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, chế định pháp luật là tổng thể các
quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội giống nhau trong
phạm vi một ngành luật. Theo đó, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì chế định pháp
luật được coi là các yếu tố cấu thành hệ thống pháp luật. Còn hiểu theo nghĩa
hẹp thì chế định pháp luật là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề
pháp lý.
Luật HN&GĐ là ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được
tạo thành bởi nhiều chế định pháp luật khác nhau như chế định kết hôn, chế
định quan hệ giữa vợ và chồng, chế định ly hôn…Các chế định đều điều
chỉnh chung cho nhóm quan hệ xã hội trong lĩnh vực HN&GĐ, là sự tổng
hợp của nhiều quy phạm pháp luật HN&GĐ. Như vậy, chế định kết hôn là
tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
quan đến kết hôn bao gồm: điều kiện kết hôn, thẩm quyền, thủ tục đăng ký
20
kết hôn, các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn và vấn đề xử lý vi phạm
điều kiện kết hôn.
Chế định kết hôn là hệ thống các quy phạm pháp luật về kết hôn. Các
quy phạm pháp luật của chế định kết hôn có đặc điểm là:
- Các quy phạm điều chỉnh về kết hôn là những quy tắc xử sự chung.
Có nghĩa là những quy tắc này không phải dành cho một cá nhân đơn lẻ nào
mà phải dành cho mọi cá nhân tham gia vào việc kết hôn. Các cá nhân khi
tham gia vào quan hệ này sẽ có những quyền, nghĩa vụ pháp lý nhất định. Nhà
nước bảo đảm cho những quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện bằng quyền
lực của Nhà nước.
- Chế định kết hôn điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội tương đối
giống nhau liên quan đến việc kết hôn như điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn,
các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn và xử lý đối với những trường hợp
vi phạm đó. Chế định kết hôn mang tính chất nhóm, tuy có những đặc điểm
riêng nhưng đều có mối liên hệ nội tại, thống nhất và chịu sự ảnh hưởng, tác
động của chế định khác trong Luật HN&GĐ. Chế định kết hôn phải tuân theo
các quy luật vận động khách quan và chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế,
văn hóa, xã hội.
- Chế định kết hôn thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc xác lập và
xây dựng gia đình phù hợp với lợi ích của Nhà nước.
Kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng, nền tảng cơ bản quan trọng
để tạo dựng gia đình. Vì vậy, ở bất cứ xã hội nào, vấn đề kết hôn cũng được
coi trọng. Khi nhà nước xuất hiện, các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng
pháp luật, vấn đề kết hôn được pháp luật điều chỉnh và trở thành những quy
tắc xử sự chung, buộc mọi người phải tuân thủ. Nhờ đó, quyền và nghĩa vụ
của người kết hôn được pháp luật bảo vệ, trật tự gia đình được gìn giữ, tạo
tiền đề vững chắc để xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ.
21
1.2. CƠ SỞ QUY ĐỊNH CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
Nhiệm vụ quan trọng nhất của pháp luật là điều chỉnh, định hướng các
quan hệ xã hội theo lợi ích và trật tự chung mà Nhà nước đã đặt ra. Vì vậy,
Luật HN&GĐ, với tư cách là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân gia đình là cơ sở pháp lý vững chắc
góp phần xây dựng, duy trì, phát triển và bảo vệ chế độ HN&GĐ tiến bộ phù
hợp với điều kiện và bản chất của xã hội Việt Nam. Chế định kết hôn là một
chế định rất quan trọng của Luật HN&GĐ Việt Nam. Chế định này được quy
định trên cơ sở các yếu tố sau:
1.2.1. Kinh tế - xã hội
Pháp luật là thượng tầng kiến trúc luôn bị chi phối bởi hạ tầng cơ sở.
Nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định, chế độ
kinh tế là cơ sở của pháp luật. Kinh tế, xã hội mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch
sử chi phối đến việc xây dựng pháp luật, trong đó có chế định kết hôn. Chế
định kết hôn cũng biến đổi theo sự biến đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội.
Ở nước ta dưới chế độ phong kiến, thực dân trước năm 1945, kinh tế
Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân ta phải sống trong
cảnh nô lệ và đói nghèo cả về vật chất và tinh thần, 90% dân số mù chữ. Giai
cấp phong kiến quan niệm hôn nhân là một loại quan hệ xuất phát từ quyền
lợi gia đình, dòng họ. Mục đích của hôn nhân là nhằm duy trì sự giao kết giữa
hai dòng họ, nhằm thờ phụng tổ tiên và kế tục dòng dõi tông tộc. Vì vậy, các
quy định về kết hôn thời kì này thể hiện rõ sự trọng nam khinh nữ, bảo vệ chế
độ gia trưởng của người đàn ông. Các quy định kết hôn theo sự sắp đặt của
cha mẹ hay quan niệm "gái chính chuyên chỉ có một chồng" còn đàn ông
được phép lấy nhiều vợ... thể hiện rõ sự bất bình đẳng nam - nữ nhưng phản
ánh đúng thực trạng kinh tế, xã hội thời bấy giờ. Sở dĩ còn tồn tại những hạn
chế đó là do tiếp thu triết lý nho giáo từ Trung Quốc với tư tưởng gia đình gia
trưởng. Bên cạnh những hạn chế nhất định, các quy định về kết hôn của pháp
22
luật Việt Nam vẫn có những đóng góp nhất định nhằm củng cố trật tự gia đình
phong kiến.
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để
phù hợp với nhiệm vụ kinh tế, chính trị thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Luật HN&GĐ năm 1959 đã ra đời, đây là luật HN&GĐ đầu tiên của nước ta,
một trong những đạo luật được ban hành sớm nhất và là công cụ pháp lý để
Nhà nước ta xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, xây dựng chế độ
HN&GĐ kiểu mới, dân chủ và tiến bộ. Bắt đầu từ những năm cuối thập kỷ 80,
nền kinh tế của đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới với cơ chế
kinh tế hàng hóa thị trường thay cho cơ chế kinh tế kế hoạch hóa bao cấp. Sự
thay đổi này tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan hệ
HN&GĐ cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng, đòi hỏi phải có sự thay đổi
thích hợp trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Luật HN&GĐ năm
1986 ra đời vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, kế thừa những nguyên
tắc dân chủ, tiến bộ của chế độ HN&GĐ trong Luật HN&GĐ năm 1959 và
những truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, góp phần xóa bỏ những
tập tục lạc hậu, tàn dư của chế độ HN&GĐ tư sản, phong kiến.
Sau gần 14 năm thi hành Luật HN&GĐ năm 1986, văn bản này cũng
đã bộc lộ những điểm không còn phù hợp. Luật HN&GĐ năm 1986 được ban
hành trong thời kì đầu đổi mới chưa có điều kiện thể chế hóa đường lối đổi
mới của Đảng trong Hiến pháp năm 1992 nên nhiều quy định của Luật chưa
phù hợp với sự vận động của các quan hệ HN&GĐ trong cơ chế kinh tế thị
trường và sự giao lưu kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển
kinh tế - xã hội, Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời, đã có những sửa đổi, bổ sung
đáng kể. Như quy định: cấm người chưa có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ tại Khoản 2 Điều 4
Luật HN&GĐ năm 2000 là rất cụ thể so với Luật HN&GĐ năm 1986; bổ
sung quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính...
23
Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thì chất lượng cuộc sống
của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt tại các đô thị đã được cải thiện một cách
đáng kể so với thời điểm ban hành Luật HN&GĐ năm 2000. Theo đó, thực
trạng về thể chất cũng như về tâm sinh lý của lứa tuổi thanh niên hiện nay phát
triển rất sớm, điều này là một trong những cơ sở để quy định về độ tuổi kết
hôn. Sự phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến một bộ phận giới trẻ, tình
trạng chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn xảy ra phổ biến, phát
sinh nhiều tranh chấp về tài sản, con cái. Vì vậy, Luật HN&GĐ cần bổ sung
những quy định mới điều chỉnh hậu quả pháp lý phát sinh từ các quan hệ này.
1.2.2. Văn hóa truyền thống, phong tục tập quán
Quan hệ HN&GĐ, đặc biệt là việc lấy vợ lấy chồng chịu ảnh hưởng
sâu sắc của văn hóa, phong tục tập quán. Vì vậy, các quy định về điều kiện
kết hôn, công nhận việc kết hôn không đăng ký hay xử lý kết hôn vi phạm
điều kiện kết hôn đều ít nhiều chịu sự chi phối của văn hóa, phong tục tập
quán. Trong xã hội phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh nữ, bổn phận tam
tòng của người phụ nữ chi phối các quy định về điều kiện kết hôn như: kết
hôn phải có sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng hay người đàn ông được phép lấy
nhiều vợ, khuyến khích người vợ góa thủ tiết thờ chồng nuôi con... Ngày nay,
cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa học, xã hội, văn hóa Việt Nam cũng
đã có những biến chuyển sâu sắc, ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống, cách
sống của những cá nhân trong xã hội. Sự suy thoái về lối sống với cách sống
"thoáng" hơn nên những mối quan hệ ngoài giá thú, quan hệ ngoại tình ngày
một gia tăng. Những hiện tượng chưa từng xuất hiện, hay trước kia chỉ dám
lén lút, thì nay đang có xu hướng công khai và gia tăng như việc chung sống
giữa những người đồng giới, việc sống "thử", ngoại tình… Điều đó đòi hỏi
phải có những quy định pháp luật điều chỉnh những hậu quả phát sinh từ
những quan hệ này.
24
Ngoài ra, văn hóa truyền thống dân tộc còn ảnh hưởng nhiều đến nhận
thức và hành vi ứng xử của mỗi cá nhân. Truyền thống của người Việt Nam
luôn mang nặng đạo lý: tôn trọng tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới, vợ
chồng, con cái yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Những truyền thống, đạo đức
này tác động đến tư duy của các nhà làm luật khi xây dựng các nguyên tắc,
quy phạm pháp luật về cấm kết hôn đối với những người có quan hệ thích
thuộc về trực hệ hay giữa những người cùng giới tính.
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, phong tục, tập quán không
chỉ là yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc, mà còn là một
trong những yếu tố rất quan trọng, có ảnh hưởng và tác động to lớn, chi phối
cách ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng đối với những quan hệ phát
sinh trong đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực HN&GĐ. Dưới thời phong
biến, người dân thường có câu "phép vua thua lệ làng" với hàm ý những quy
định của triều đình nếu không phù hợp với cuộc sống sẽ không thể phát huy
tác dụng và thực thi trong thực tiễn. Có những phong tục đã ăn sâu vào tiềm
thức của cộng đồng dân cư từ đời này qua đời khác, chi phối cách sống, ứng
xử của con người và khó có thể thay đổi được. Theo báo cáo của Ủy ban Dân
tộc, ở các địa phương Lai Châu, Cao Bằng, Sơn La, Tuyên Quang, Thanh
Hóa, Quảng Ninh hiện nay vẫn còn tồn tại một số phong tục ở những thôn bản
vùng cao, vùng sâu, vùng xa như: hiện tượng đặt dâu trước, tục ở rể (mặc dù
các phong tục này chỉ mang tính hình thức); tình trạng tảo hôn và hôn nhân
cận huyết; việc đăng ký kết hôn không do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã
thực hiện; cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở
lên; bắt buộc người phụ nữ góa chồng hoặc người đàn ông góa vợ, nếu kết
hôn với người khác thì phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ hoặc nhà vợ
cũ... [64]. Đối với các đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết hôn chủ yếu được
thực hiện theo phong tục, tập quán, tức là tổ chức hôn lễ có sự chứng kiến của
gia đình, cộng đồng dân cư và được những người này thừa nhận, việc đăng ký
25
kết hôn chưa được coi trọng. Theo số liệu thống kê của tỉnh Sơn La: số lượng
các đôi không đăng ký kết hôn ngày càng tăng: năm 2000: 28 trường hợp;
năm 2003: 76 trường hợp; năm 2005: 159 trường hợp, năm 2007: 182 trường
hợp [64].
Vấn đề đặt ra là Nhà nước cần có thái độ và định hướng như thế nào
để một mặt vừa có thể duy trì, phát huy được những phong tục, tập quán tốt
đẹp về HN&GĐ - coi đó là công cụ đắc lực để điều chỉnh quan hệ HN&GĐ,
mặt khác, vừa có định hướng xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, nhằm
từng bước xây dựng quan hệ HN&GĐ tiến bộ. Ví dụ như tục nối dây (Juê
nuê) của một số tộc người bản địa ở Tây Nguyên, chủ yếu là người Ê Đê;
trước đây, tục nối dây vốn được cho là cổ hủ, lạc hậu, cần phải loại bỏ. Cùng
với sự phát triển của xã hội thì tục nối dây không còn phổ biến và cũng đã có
những biến đổi theo hướng tích cực để cộng đồng chấp nhận, duy trì. Theo
tập tục Juê nuê, người vợ được phép lấy anh hoặc em trai trong dòng họ của
chồng khi chồng chết; hay ngược lại, người chồng được phép lấy chị hoặc em
gái trong dòng họ của vợ khi vợ mất đi. Trước đây hôn nhân là ép buộc, dù
người em gái rất nhỏ tuổi nhưng vẫn bị ép buộc kết hôn. Ngày nay, tục nối
dây không vi phạm quyền tự do hôn nhân mà vẫn đảm bảo được tính dân chủ,
tự nguyện, người được họ hàng chọn lựa để kết hôn với anh/em rể hoặc chị/em
vợ hoàn toàn có thể từ chối cuộc hôn nhân nếu cảm thấy không phù hợp với
mình. Thay vì lấy anh rể, cô gái hoặc gia đình cô sẽ nuôi dưỡng những đứa con
của chị gái để anh rể đi tìm hạnh phúc mới. Và trong trường hợp này, người anh
rể phải để lại con cái cùng toàn bộ tài sản mà trước đó hai vợ chồng gây dựng
được cho gia đình bên vợ để có điều kiện chăm sóc cho bọn trẻ. TS. Tuyết
Nhung (Trường Đại học Tây Nguyên) cho rằng: tục nối dây thể hiện rất cao
tính nhân văn, bởi đối với con cái chưa trưởng thành của người quá cố thì
cuộc hôn nhân mới sẽ đem lại cho những đứa trẻ mất cha, hoặc mất mẹ sự
chăm sóc nuôi dưỡng ân cần và chu đáo từ chính người thân thiết trong gia
26
đình, có chung dòng máu với cha hoặc mẹ chúng. Nhà nước cần nghiên cứu,
có những quy định nhằm phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp này [51].
Có thể nói, pháp luật điều chỉnh vấn đề kết hôn có mối liên hệ sâu sắc
với văn hóa truyền thống và phong tục tập quán. Các quy định về điều kiện
kết hôn trong các văn bản luật HN&GĐ đều được xây dựng dựa trên nền tảng
văn hóa, phong tục tập quán, đạo đức của người Việt Nam trong các thời kỳ
khác nhau. Điều đó có tác dụng củng cố nét đẹp của bản sắc dân tộc trong các
gia đình Việt Nam.
1.2.3. Hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là xu thế toàn cầu trong thời đại ngày nay. Hội nhập
giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc
tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội; hội nhập
giúp tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển
giao công nghệ từ các nước tiên tiến; giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ
của văn hóa, văn minh của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến
bộ xã hội… Chúng ta cũng không thể không kể đến những bất lợi, thách thức
mà chính sự hội nhập quốc tế đã đặt ra. Trong đó, một sự tác động khá mạnh
mẽ đó là tác động tới văn hóa truyền thống, tới các quan hệ xã hội nói chung
và quan hệ hôn nhân gia đình nói riêng. Văn hóa thế giới thâm nhập vào Việt
Nam cùng với sự tăng cường giao lưu quốc tế như tham quan, du lịch, sách
báo, hoặc sự phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đa quốc gia như
truyền hình, mạng Internet… Văn hóa Âu Mỹ, văn hóa các nước phát triển,
lối sống, nếp sống của họ được du nhập bằng nhiều con đường khác nhau và
có ảnh hưởng lớn đến nhân dân ta, tạo ra những xu thế mới trong giới trẻ như:
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, kết hôn đồng giới hay
hôn nhân vi phạm chế độ một vợ một chồng...
Bên cạnh đó, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, sự mở rộng quan
hệ hợp tác, giao lưu trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam với các nước trên thế
27
giới là cơ hội để nhiều người nước ngoài đến Việt Nam học tập, công tác cũng
như công dân Việt Nam ra nước ngoài gặp gỡ, giao lưu, tìm hiểu nhau... Quan
hệ về HN&GĐ có yếu tố nước ngoài nói chung, quan hệ kết hôn giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài nói riêng ngày càng gia tăng về số lượng
và có tính chất, nội dung ngày càng phức tạp, đây là xu thế phát triển tất yếu
của xã hội, là hệ quả khách quan của quá trình mở rộng hợp tác, giao lưu giữa
các quốc gia với nhau. Vì vậy, pháp luật ghi nhận và có cơ chế bảo đảm thực
hiện nghiêm minh quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài là một yêu cầu khách quan trong xu thế hội nhập quốc tế.
1.2.4. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ
Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển trong đó có sự phát triển
của y học đã cho phép xác định được một cách khoa học phạm vi những
người bị cấm kết hôn trong quan hệ họ hàng huyết thống để việc kết hôn
không làm ảnh hưởng đến chất lượng nòi giống, đến các con. Đồng thời, y
học phát triển có thể chữa được một số bệnh trước đó coi là bệnh nan y. Nếu
như Luật HN&GĐ năm 1959 quy định cấm kết hôn đối với những người bị
bất lực hoàn toàn về sinh lý, bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc thì đến Luật HN&GĐ
năm 1986 chỉ quy định cấm kết hôn đối với người bị bệnh hoa liễu. Năm 2000,
khi ban hành Luật HN&GĐ thì bệnh hoa liễu không được coi là bệnh nan y
và có thể chữa khỏi, vì vậy người bị bệnh hoa liễu không còn là đối tượng bị
cấm kết hôn.
Mặt khác, y học phát triển đã giúp con người xác định lại được giới
tính thật của mình. Ở một số quốc gia trên thế giới đã cho phép chuyển đổi
giới tính và kết hôn đồng giới như ở Đan Mạch, Anh, Ý… Chính sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học hiện đại đã tạo điều kiện cho con người có thể thực
hiện được những quyền tự do cá nhân một cách tối đa nhất. Tuy nhiên, ở Việt
Nam mới chỉ chấp nhận việc xác định lại giới tính mà chưa thừa nhận việc
chuyển giới hay kết hôn đồng giới.
28
Ngày nay, các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, cụ thể là thụ tinh nhân
tạo và thụ tinh trong ống nghiệm, cho phép lấy tinh trùng và noãn của một cặp
vợ chồng ra khỏi cơ thể, cho tinh trùng và noãn thụ tinh để tạo phôi, nuôi cấy
phôi và cho đưa phôi vào tử cung một phụ nữ khác để mang thai. Nhờ đó, việc
mang thai hộ có thể được thực hiện. Trong điều kiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh, việc pháp luật ghi nhận và điều chỉnh
vấn đề mang thai hộ là hết sức cần thiết. Đồng thời, trên cơ sở khoa học, pháp
luật quy định mối quan hệ của cha, mẹ, con để từ đó xác định mối quan hệ anh,
chị, em và các quan hệ thân thích khác. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới quy
định phạm vi cấm kết hôn giữa những người thân thích. Việc sinh con theo
phương pháp khoa học đã đặt ra một thực tế là có sự khác biệt giữa người cha,
người mẹ về mặt pháp lý và người cha, người mẹ về mặt huyết thống. Do vậy,
để phòng ngừa hậu quả của kết hôn cận huyết, pháp luật cần có quy định giám
định gen di truyền đối với những người được sinh ra theo phương pháp khoa
học trước khi kết hôn. Như vậy, sự phát triển của khoa học kĩ thuật công nghệ là
một yếu tố có tác động sâu sắc và là cơ sở để quy định các điều kiện kết hôn.
Các quy định về kết hôn trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến nay được xây dựng dựa trên sự kết hợp hài
hòa giữa điều kiện kinh tế - xã hội, cơ sở khoa học và phong tục tập quán, đạo
đức, văn hóa truyền thống tạo nên một chế định kết hôn vừa đảm bảo sự phù
hợp, tính khoa học nhưng vẫn có sự gắn kết hài hòa với các yếu tố văn hóa
truyền thống, góp phần thúc đẩy các quan hệ HN&GĐ phát triển lành mạnh vì
lợi ích của gia đình và xã hội.
1.3. Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
Kết hôn là sự kiện pháp lý qua đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thừa nhận quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ, làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ vợ chồng giữa họ với nhau. Để gia đình thực sự đầm ấm, bền vững
và hạnh phúc, Nhà nước quản lý việc kết hôn của cá nhân thông qua quy định
29
của pháp luật về điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn cùng những quy định giải
quyết vi phạm trong lĩnh vực kết hôn. Chỉ có thể nói tới quan hệ giữa vợ và
chồng, vấn đề cấp dưỡng, giám hộ, vấn đề ly hôn,… cũng như các quan hệ
khác trong cuộc sống gia đình khi có sự kiện kết hôn giữa nam và nữ, khi Nhà
nước công nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai bên khi kết hôn. Kết
hôn là tiền đề để xây dựng gia đình, thiết lập các mối quan hệ gia đình, vì vậy
chế định kết hôn có ý nghĩa quan trọng trong Luật HN&GĐ.
Chế định kết hôn nhằm xác định mô hình gia đình phù hợp lợi ích của
Nhà nước trong sự hài hòa với lợi ích gia đình. Hiện nay, quy định về kết hôn
nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và củng cố chế độ HN&GĐ xã
hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp của dân tộc
trong các quan hệ HN&GĐ, chống lại ảnh hưởng tiêu cực của chế độ HN&GĐ
tư sản, xóa bỏ những tàn dư lạc hậu của chế độ HN&GĐ phong kiến. Chế
định kết hôn ghi nhận và bảo vệ quyền tự do kết hôn cho các bên nam nữ, bảo
vệ quyền con người và các giá trị nhân văn trong đời sống HN&GĐ.
Đồng thời, việc ghi nhận và cơ chế để đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh
chế định kết hôn sẽ góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
trong quan hệ đó và là cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết yêu cầu của các
bên đương sự và tranh chấp khi phát sinh liên quan đến lĩnh vực HN&GĐ.
Các quy định trong chế định kết hôn còn là căn cứ để xử lý các trường
hợp vi phạm điều kiện kết hôn nhằm đảm bảo trật tự gia đình, xã hội, phù hợp
với thuần phong mỹ tục, bảo vệ được pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân song cũng lại rất mềm dẻo, linh hoạt
phù hợp với thực tế cuộc sống.
1.4. KHÁI QUÁT CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.4.1. Chế định kết hôn trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Khi nghiên cứu các quy định pháp luật nói chung cũng như quy định
về kết hôn nói riêng không thể không tìm hiểu các quy định mang tính lịch sử
30
từ thời phong kiến. Bởi nghiên cứu theo chiều dài lịch sử giúp chúng ta có cái
nhìn khái quát hơn, sâu sắc hơn. Dưới thời phong kiến có hai bộ luật tiêu biểu
đó là Quốc triều hình luật của triều Lê và Hoàng Việt luật lệ của triều Nguyễn.
Theo Viện Sử học Việt Nam, Bộ Quốc triều hình luật hay còn gọi là
Bộ luật Hồng Đức được khởi thảo từ thời Lê Thái Tổ, sau đó được bổ sung
dưới các thời Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Đến thời Lê Thánh Tông thì
luật hoàn chỉnh. Bộ luật này là tập hợp nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh
nhiều lĩnh vực: hình sự, dân sự, tố tụng, HN&GĐ... Quốc triều hình luật có 13
chương gồm 722 Điều (200 Điều phỏng theo Luật nhà Đường, 17 Điều phỏng
theo Luật nhà Minh). Trong đó, Chương hộ hôn gồm 58 điều quy định về hộ
tịch, hộ khẩu, hôn nhân gia đình và các tội phạm trong lĩnh vực này [66]. Bộ
luật Hồng Đức có được sức sống lâu dài, được nhiều nhà khoa học đánh giá
cao vì nó chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp
lý hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng thời, có những điểm tiếp cận gần
với kỹ thuật pháp lý hiện đại. Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ, những nét
độc đáo rất riêng của xã hội Việt Nam đặc biệt là sự anh minh, tấm lòng nhân
ái của các vua Lê được thể hiện rất rõ ở các quy định đặc sắc trong lĩnh vực
HN&GĐ tập trung chủ yếu ở hai chương Hộ hôn và Điền sản.
Hoàng Việt luật lệ, hay còn gọi là Bộ luật Gia Long là bộ luật chính
thức của nước ta dưới thời nhà Nguyễn do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành soạn
thảo và Vua Gia Long ban hành năm 1815. Hoàng Việt luật lệ được sử dụng
suốt thời nhà Nguyễn và áp dụng ở Trung Kỳ trong thời kỳ thực dân Pháp
chiếm đóng Việt Nam. Theo bản dịch khắc in từ chữ Hán, Hoàng Việt luật lệ
gồm 398 điều chia thành 22 cuốn. Các điều luật được phân loại và sắp xếp
theo 06 lĩnh vực: quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại (lại luật);
quy định về tội danh và hình phạt (hình luật); quy định về quản lý dân cư và
đất đai (hộ luật); quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình (lễ luật); quy
định về tổ chức quân đội và quốc phòng (binh luật); quy định về xây dựng và
31
bảo vệ đê điều (công luật). Trong đó, cuốn 6,7 và 8 quy định về hộ hôn gồm
66 điều luật [52].
Cả hai bộ luật trên đều dành những chương lớn quy định về vấn đề
HN&GĐ cũng như các tội phạm trong lĩnh vực này. Điều này thể hiện sự
quan tâm của giai cấp thống trị trong xã hội nhằm duy trì sự thống trị của
vương triều, củng cố trật tự xã hội và chế độ gia đình gia trưởng trong xã hội
phong kiến.
Các quy định về kết hôn được hai bộ luật Quốc triều hình luật và
Hoàng Việt luật lệ quy định như sau:
* Về điều kiện kết hôn: Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ
không có quy định cụ thể độ tuổi kết hôn. Tuy nhiên, trong Thiên Nam dư hạ
tập (phần lệ Hồng Đức hôn giá) có viết: "Con trai 18 tuổi, con gái 16 tuổi mới
có thể thành hôn" [Dẫn theo 50]. Như vậy, pháp luật thời kỳ này cũng đã có
sự phân biệt độ tuổi kết hôn giữa nam, nữ và đưa ra độ tuổi tối thiểu khi kết
hôn của con trai và con gái. Bên cạnh đó, cả hai bộ luật đều quy định điều
kiện kết hôn chỉ được thực hiện khi có cha mẹ hoặc một người đứng đầu dòng
họ làm chủ hôn (Điều 413 Quốc triều hình luật và Điều 94 Hoàng Việt luật
lệ). Tuy nhiên, quy định này có ngoại lệ: kết hôn có thể do hai bên nam nữ
quyết định khi họ chỉ còn bà con xa hoặc họ ở xa nhà. Pháp luật thời kì này
chưa ghi nhận sự tự nguyện kết hôn của hai bên nam nữ.
* Về các trường hợp cấm kết hôn: Việc kết hôn không vi phạm những
điều mà pháp luật cấm. Những điều cấm mà hai bộ luật đưa ra khác với
những điều cấm của pháp luật Việt Nam hiện hành: Cấm kết hôn khi có tang,
cha, mẹ bị giam cầm, tù tội (Điều 317, Điều 318 Quốc triều hình luật, Điều 99
Hoàng Việt luật lệ); cấm kết hôn giữa những người thân thích (Điều 319
Quốc triều hình luật, Điều 100, 101, 102 Hoàng Việt luật lệ). Ngoài ra, tại
mỗi bộ luật lại đưa ra một điều cấm riêng. Ví dụ: Điều 324 Quốc triều hình
luật cấm anh em lấy vợ góa của nhau, trò lấy vợ góa của thầy... Các điều cấm
32
của luật này thể hiện tư tưởng phong kiến, nhằm bảo vệ tôn ti trật tự trong xã
hội của các triều đình lúc bấy giờ.
* Về thủ tục kết hôn: Cả hai bộ luật đều quy định thủ tục kết hôn bao
gồm hình thức đính hôn và nghi lễ kết hôn.
- Hình thức đính hôn: Quốc triều hình luật chỉ coi hôn nhân có giá trị
pháp lý khi nhà trai đã nộp đủ sính lễ cho nhà gái, tức là phải có sự hứa hôn của
hai họ (gồm vàng, bạc, tiền, lụa, heo, rượu). Việc nạp sính lễ mang tính chất
long trọng và phải cáo tổ trước từ đường của hai họ. Khác với Quốc triều hình
luật, Hoàng Việt luật lệ quy định hình thức đính hôn là các "hôn thư" hoặc "tư
ước". Đó là cam kết của hai người chủ hôn (Điều 94 Hoàng Việt luật lệ).
Như vậy, cả hai bộ luật đã xem hình thức của việc kết hôn là một điều
kiện quan trọng để cuộc hôn nhân của hai bên nam nữ có giá trị pháp lý. Quốc
triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ quy định hình thức đính hôn mang ảnh
hưởng của lễ nghi Nho giáo.
- Nghi lễ kết hôn: Hoàng Việt luật lệ không quy định cụ thể các nghi
lễ kết hôn như Quốc triều hình luật. Theo Quốc triều hình luật, kết hôn gồm
bốn lễ: lễ nghị hôn (nhờ mối lái đi lại bàn bạc), lễ định thân (mang lễ vật vấn
danh nhà gái), lễ nạp trưng (mang sính lễ dẫn cưới đến nhà gái), lễ thân
nghinh (rước dâu). Những nghi lễ này phản ánh rõ nét phong tục tập quán của
người Việt Nam thời kỳ bấy giờ và vẫn còn ảnh hưởng tới ngày nay.
Có thể thấy, cả hai bộ cổ luật đều mang nhiều giá trị đối với pháp luật
đương đại. Quốc triều hình luật so với Hoàng Việt luật lệ chưa có tính khái
quát và phân ngành rõ ràng. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ người phụ nữ trong
pháp luật nhà Lê được coi trọng hơn so với luật nhà Nguyễn. Giáo sư Vũ Văn
Mẫu đã viết: "bao nhiêu sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều Lê đã không còn
lưu lại một chút dấu tích nào trong Luật nhà Nguyễn. Không còn những điều
khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư, đến các điều kiện về giá thú,
đến chế độ tài sản của vợ chồng" [31].
33
Các quy định về HN&GĐ trong hai bộ luật này tuy còn hạn chế nhưng
đủ để minh chứng rằng nhà nước phong kiến Việt Nam ở thời kì này rất coi
trọng vấn đề hôn nhân. Nền tảng của việc quy định chế định kết hôn chính là
phong tục, tập quán, đạo đức Nho giáo với mục đích xây dựng gia đình gia
trưởng theo chế độ phụ quyền.
1.4.2. Chế định kết hôn trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc
Sau ngày 25/8/1883, ngày triều đình Huế ký kết với thực dân Pháp
"Hiệp định hòa bình" thì Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến đặt
dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Thực hiện chính sách chia để trị, thực
dân Pháp chia nước ta thành ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ở mỗi
miền áp dụng Bộ luật dân sự (BLDS) riêng, trong đó có quy định điều chỉnh
các quan hệ về HN&GĐ: Tại Bắc Kỳ có Bộ dân luật Bắc Kỳ, tại Trung Kỳ có
BLSDTK, tại Nam Kỳ có Bộ dân luật giản yếu. Những quy định về kết hôn
nằm rải rác trong các điều luật khác nhau, chưa được xây dựng thành chế định
riêng và đều chịu ảnh hưởng của pháp luật Pháp. Các quy định điều chỉnh
quan hệ hôn nhân đều là chế định của luật dân sự. Về nội dung, Bộ dân luật
Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ đều phản ánh phong tục, tập quán truyền
thống của Việt Nam về HN&GĐ. Riêng Bộ dân luật giản yếu chịu nhiều ảnh
hưởng của BLDS Pháp năm 1804 nên có nhiều điểm cách tân theo quan niệm
của các nhà làm luật phương Tây.
Ba văn bản này có một số nội dung cơ bản sau:
* Về điều kiện kết hôn: Trong Bộ dân luật giản yếu quy định "con trai
16 tuổi, con gái 14 tuổi" được phép kết hôn [5, tr. 13]; Bộ dân luật Bắc Kỳ và
Bộ dân luật Trung Kỳ quy định độ tuổi để hai bên nam nữ được phép kết hôn
cao hơn là "nam tròn 18 tuổi, nữ tròn 15 tuổi" (Điều 73). Tuy nhiên có trường
hợp ngoại lệ: khi có lý do chính đáng thì quan tỉnh có thể đặc cách cho phép
nam tròn 15 tuổi, nữ tròn 12 tuổi kết hôn (Điều 75 Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ
dân luật Trung Kỳ). Điều này đã phản ảnh xu thế phát triển các quy định về
34
điều kiện kết hôn trong pháp luật theo ảnh hưởng của các nước phương Tây. Vì
cho đến thời điểm đó, các nước phương Tây đều coi độ tuổi là một điều kiện
bắt buộc để hôn nhân có hiệu lực. Như vậy, sự khác biệt trong quy định độ
tuổi được phép kết hôn gây ra tình trạng không thống nhất trong cả nước dẫn
đến việc áp dụng gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, việc quy định độ tuổi kết hôn
trong các bộ luật này cho thấy thời kỳ này chưa quan tâm đến vấn đề người
chưa thành niên kết hôn và hậu quả pháp lý của vấn đề này.
Đồng thời Điều 76 Bộ dân luật Bắc Kỳ quy định: "Kết hôn tất phải cả
hai bên nam nữ bằng lòng nhau mới được" [4]. Tuy nhiên, bên cạnh sự bằng
lòng của hai bên thì sự ưng thuận của cha, mẹ, người thân thích hay người đỡ
đầu vẫn là yếu tố cần thiết đảm bảo cho cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý.
Điều 77 Bộ dân luật Bắc Kỳ ghi nhận: "Phàm con cái đã thành niên hay chưa
thành niên, không khi nào không có cha mẹ bằng lòng mà kết hôn được" [4].
Nếu thiếu sự đồng ý của cha mẹ, việc kết hôn sẽ bị xử tiêu hôn khi cha mẹ
yêu cầu. Như vậy, pháp luật thời kỳ này vẫn duy trì chế độ hôn nhân cưỡng ép
phụ thuộc vào cha mẹ hoặc các bậc thân trưởng trong gia đình. Tuy nhiên,
việc ghi nhận một phần ý chí tự nguyện của các bên nam nữ trong việc xác
lập hôn nhân thể hiện sự tiến bộ so với pháp luật thời Lê và thời Nguyễn, là
sự khác biệt về tư duy của các nhà làm luật so với trước.
* Về các trường hợp cấm kết hôn: Về cơ bản, các trường hợp cấm kết
hôn trong cả ba BLDS thời Pháp thuộc đều có những điểm tương đồng, thể
hiện việc chuyển tiếp những giá trị truyền thống từ pháp luật thời kỳ phong
kiến như:
Cấm kết hôn trong thời kỳ cư tang - khi có tang cha mẹ hoặc tang
chồng là 27 tháng, tang vợ là 12 tháng (Điều 84 Bộ dân luật Bắc Kỳ).
Không được lấy người khác làm vợ nếu việc kết hôn hiện hữu với
người vợ chính chưa được giải tiêu; nếu người vợ chính chết thì người chồng
chỉ được lấy vợ khác khi đã hết tang vợ chính (01 năm). Đàn bà góa phải để
35
tang chồng 27 tháng mới được tái giá, sau khi ly dị 10 tháng, người vợ mới
được kết hôn với người khác.
Pháp luật thời kỳ này thừa nhận chế độ đa thê. Vì quyền lợi của gia
đình, duy trì sự trường tồn thịnh vượng của gia đình nên pháp luật thời kì này
khuyến khích chế độ đa thê để gia đình có nhiều con cháu. Người đàn ông có
quyền lấy nhiều vợ, gồm chính thất (vợ cả) và thứ thất (vợ lẽ) Điều 79 Bộ dân
luật Bắc Kỳ quy định: "Có hai cách giá thú hợp pháp: Giá thú về chính thất và
giá thú về thứ thất" và Điều 80 quy định: "chưa lấy vợ chính thì không được
lấy vợ thứ" [4]. Trật tự thê, thiếp không thể thay đổi, đảo lộn được. Điều này
được bảo vệ cả bằng phong tục tập quán và pháp luật. Những quy định này
thể hiện sự phân biệt địa vị, bất bình đẳng giữa nam và nữ.
Về cấm kết hôn giữa những người thân thích, Bộ dân luật Bắc Kỳ và
Bộ dân luật Trung Kỳ chỉ cấm kết hôn giữa chị dâu với em chồng, giữa em
dâu với anh chồng, còn cho phép người đàn ông được lấy em vợ hay chị vợ
"cấm lấy người thân thuộc trực hệ và một số người thuộc bàng hệ (anh, chị,
em cùng cha mẹ; cùng cha khác mẹ; cùng mẹ khác cha, chị dâu, em dâu, anh
chồng, em chồng..." [4, Điều 74]. Điều này thể hiện rõ quan niệm "nội thân,
ngoại thích" của người Việt Nam. Người đàn bà lấy chồng thuộc về nhà
chồng nhưng người đàn ông lấy vợ thì không thuộc về nhà vợ, khi vợ chết thì
không còn mối liên hệ nào với chị em nhà vợ.
Bộ dân luật giản yếu quy định cởi mở hơn trong việc cấm kết hôn đối
với những người thuộc bàng hệ. Bộ dân luật giản yếu cấm kết hôn giữa anh,
chị, em cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha; giữa anh, chị, em họ đến
bậc thứ sáu; giữa cháu gái với chú, bác hay cậu hoặc giữa cháu trai với cô hay
dì. Như vậy, theo Bộ dân luật giản yếu thì giữa chị dâu và em chồng, em dâu
với anh chồng không bị cấm kết hôn.
Có thể nói, so với các quy định cấm kết hôn trong pháp luật thời kì
phong kiến, phạm vi cấm kết hôn ở cả ba bộ luật thời Pháp thuộc đều được
thu hẹp hơn.
36
* Về nghi lễ kết hôn: pháp luật thời kì này ở cả ba miền đều đặt ra điều
kiện về mặt hình thức để hôn nhân có giá trị như pháp luật thời nhà Lê và nhà
Nguyễn. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này có một số điểm mới sau:
- Bộ dân luật Bắc Kỳ quy định: "Việc kết hôn phải được khai với
chính quyền (hộ lại) mới có giá trị" [4, Điều 69].
- Bộ dân luật Trung Kỳ quy định: nghi lễ kết hôn gồm ước hôn (lễ hỏi)
và kết hôn (hôn lễ). Trước hôn lễ phải thi hành thủ tục công bố trong thời hạn
tám ngày tại nơi cư trú của nam và nữ và đăng ký vào nhân thế bộ địa phương.
Hiện nay, theo phong tục, tập quán Việt Nam, một lễ cưới đầy đủ theo truyền
thống cũng cần có lễ hỏi và hôn lễ.
Nhìn chung, các quy định của ba bộ luật này đã có những quy định theo
hướng tiến bộ hơn so với thời kỳ trước như thu hẹp phạm vi cấm kết hôn, thừa
nhận sự bằng lòng của hai bên nam, nữ khi kết hôn... Tuy nhiên, chế độ HN&GĐ
thời kỳ này là công cụ pháp lý của nhà nước thực dân phong kiến nhằm củng
cố và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến và thực dân. Đồng thời,
ba bộ luật này đều được xây dựng dựa trên BLDS Napoleon năm 1804 của
Pháp, chính vì vậy khi áp dụng vào Việt Nam có nhiều điểm chưa phù hợp.
1.4.3. Chế định kết hôn trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945
đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời. Ngay khi ra đời, Nhà nước ta đã rất quan tâm và coi trọng việc soạn
thảo, xây dựng một hệ thống pháp luật, củng cố và bảo vệ thành quả của Cách
mạng. Từ đó đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về
HN&GĐ, phù hợp với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống pháp
luật HN&GĐ cũng dần được hoàn chỉnh.
* Chế định kết hôn trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
(từ 1945-1954)
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta.
37
Hiến pháp đã ghi nhận quyền bình đẳng của nam và nữ về mọi mặt. Đó là cơ
sở pháp lý vô cùng quan trọng để xây dựng chế độ HN&GĐ mới dân chủ và
tiến bộ. Năm 1950, Nhà nước ta đã ban hành hai sắc lệnh đầu tiên về
HN&GĐ. Sắc lệnh số 90-SL ngày 10/10/1945 cho phép vận dụng những quy
định trong pháp luật cũ một cách có chọn lọc theo nguyên tắc không đi ngược
lại với lợi ích của nhân dân, của Nhà nước; Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950
về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật, trong đó có quy định về
kết hôn như: Cho phép người con đã thành niên lấy vợ, lấy chồng không cần
phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc của các bậc tôn trưởng trong gia đình
(Điều 2); Xóa bỏ việc cấm kết hôn trong thời kỳ có tang (Điều 3)… Những
quy định trên đã góp phần xóa bỏ những quy định lạc hậu của chế độ HN&GĐ
phong kiến, góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thúc đẩy sự phát triển
của xã hội Việt Nam trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
* Chế định kết hôn trong giai đoạn cách mạng nước ta thực hiện hai
nhiệm vụ: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam (từ 1954-1975).
- Ở miền Bắc: Sự ra đời của Luật HN&GĐ năm 1959 (còn gọi là đạo
luật số 13 về HN&GĐ) - đạo luật đầu tiên về HN&GĐ trong lịch sử pháp luật
của Việt Nam như một bước tiến mới làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của
quan hệ pháp luật này. Luật HN&GĐ năm 1959 trên tinh thần kế thừa hai Sắc
lệnh trên, có nhiệm vụ xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến
và xây dựng chế độ HN&GĐ mới xã hội chủ nghĩa. Luật gồm 6 chương và
35 điều. Các quy định về vấn đề kết hôn được quy định tại Chương II, gồm
8 điều từ Điều 4 đến Điều 11 [39]. Một số điểm tiến bộ của Luật HN&GĐ
năm 1959 so với thời kỳ trước thể hiện tại các điều sau:
+ Về tự nguyện kết hôn: điều kiện này được quy định tại điều đầu tiên
của Chương II, "Con trai và con gái đến tuổi được hoàn toàn tự nguyện quyết
định việc kết hôn của mình; không bên nào được ép buộc bên nào, không một
38
ai được cưỡng ép hoặc cản trở" [39, Điều 4]. Quy định này là điểm tiến bộ nổi
bật của Luật so với những quy định trước. Nếu như trước đây, có văn bản đề
cập đến sự tự nguyện của hai bên nhưng vẫn còn bị ràng buộc bởi sự đồng ý
của cha mẹ, thì tại Điều 4 này, lần đầu tiên sự tự nguyện được nâng lên thành
nguyên tắc cơ bản trong vấn đề kết hôn của hai bên nam nữ, tức là thừa nhận
tuyệt đối sự tự nguyện khi kết hôn của hai bên mà không bị chi phối bởi ý
kiến của bất kì ai.
+ Về độ tuổi kết hôn: Điều 6 Luật HN&GĐ năm 1959 quy định "Con
gái từ 18 tuổi trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn" [39]. So với
các quy định trước đây, độ tuổi được phép kết hôn trong Luật này được nâng
lên, phản ảnh nhận thức mới về sự phát triển tâm sinh lý của con người trong
nhận thức của các nhà làm luật.
+ Về các trường hợp cấm kết hôn: Luật HN&GĐ năm 1959 quy định:
"Việc để tang không cản trở việc kết hôn" [39, Điều 7] và "Đàn bà góa có
quyền tái giá" [39, Điều 8]. Những quy định này đã xóa bỏ các điều luật
không còn phù hợp trước đây, giải phóng người phụ nữ khỏi tư tưởng phong
kiến lạc hậu.
Luật HN&GĐ năm 1959 quy định cấm kết hôn trong các trường hợp:
"Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác" [39, Điều 5].
Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi. Cấm kết hôn giữa anh chị em ruột, anh
chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Đối với những
người khác có họ trong phạm vi năm đời hoặc có quan hệ thích
thuộc về trực hệ, thì việc kết hôn sẽ giải quyết theo phong tục tập
quán [39, Điều 9].
Đồng thời quy định: "Những người sau đây không được kết hôn: bất
lực hoàn toàn về sinh lý, mắc một trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc mà
chưa chữa khỏi" [39, Điều 9].
39
+ Về hình thức kết hôn: Luật HN&GĐ năm 1959 quy định rõ "Việc kết
hôn phải được Ủy ban hành chính cơ sở nơi cư trú quán của bên người con
trai hoặc người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết
hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp luật" [39, Điều 11]. Đây là điểm mới
của Luật so với thời kỳ trước, thể hiện quan điểm về việc hôn nhân có giá trị
pháp lý là hôn nhân phải được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước công nhận.
Với nhiều điểm tiến bộ như trên, Luật HN&GĐ năm 1959 đã khẳng
định bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ pháp lý của nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động.
- Ở miền Nam: Chế độ HN&GĐ được điều chỉnh bởi ba văn bản:
Bộ luật gia đình ngày 02/01/1959 (Luật số 1/59) dưới chế độ Ngô
Đình Diệm, Sắc luật 15/64 đã thay thế Bộ luật gia đình và Bộ dân luật Sài
Gòn dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Các văn bản pháp luật này là công cụ
pháp lý của chế độ thực dân mới phản động, đi ngược lại với lợi ích của quốc
gia, dân tộc. Các văn bản này đã xóa bỏ chế độ đa thê song vẫn thể hiện
nguyên tắc bất bình đẳng giữa nam và nữ.
+ Về độ tuổi kết hôn: các văn bản này đều quy định rõ độ tuổi kết hôn
của nam, nữ "con gái 16 tuổi, con trai 18 tuổi" [6, Điều 104], [27, Điều 10],
Tuy nhiên, Điều 104 Bộ dân luật Sài Gòn cũng quy định ngoại lệ "nếu có lý
do trọng đại, nguyên thủ quốc gia có thể đặc cách cho miễn tuổi" [6]. Ngoài
ra, việc kết hôn ngoài yếu tố đủ độ tuổi còn phải đáp ứng yếu tố về sức khỏe.
+ Về sự tự nguyện: Tự nguyện kết hôn được các văn bản trên quy định
là một trong các điều kiện cần thiết để thiết lập hôn thú. Điều 103 Bộ dân luật
Sài Gòn quy định "Sự ưng thuận của hai bên nam nữ là một điều kiện thiết yếu
cho sự kết lập hôn thú" [6]. Ngoài ra, Điều 105 Bộ luật này cũng quy định "vị
thành niên không thể kết hôn nếu không có sự ưng thuận của cha, mẹ" [6]. Ngoài
cha, mẹ thì trong trường hợp "cha mẹ đều mệnh một hoặc ở trong tình trạng
không thể phát biểu ý kiến, sự ưng thuận sẽ do ông bà nội hay ông bà ngoại" [6].
40
Có thể thấy, các văn bản pháp luật nêu trên đã ghi nhận sự ưng thuận
kết hôn của đôi bên nam nữ và xem đây là một điều kiện thiết yếu khi lập hôn
thú. Tuy nhiên, trong trường hợp con "vị thành niên" kết hôn cần phải có sự
đồng ý của cha, mẹ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại.
+ Về các trường hợp cấm kết hôn: Điều 5 Luật số 1/59 quy định "Cấm
người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác". Điều 9 Luật này cũng
quy định các trường hợp cấm khác như cấm kết hôn giữa anh chị em ruột, anh
chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Đối với những người khác
có họ trong phạm vi năm đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ thì việc
kết hôn sẽ giải quyết theo phong tục tập quán.
Bộ dân luật Sài Gòn quy định về vấn đề cấm kết hôn từ Điều 108 đến
Điều 111. Ngay ở Điều 99 đã khẳng định "Luật pháp không chấp nhận chế độ
đa thê. Không ai được phép kết hôn nếu hôn thú trước chưa đoạn tiêu" [6].
Ngoài ra, các trường hợp cấm kết hôn khác cũng được ghi nhận cụ thể: Đối
với người thân thuộc trong trực hệ, không cứ chính thức hay ngoại hôn và
không cứ thứ bậc nào, không thể kết hôn với nhau (Điều 108). Quy định tại
Điều 108 thể hiện tinh thần không phân biệt con trong giá thú hay ngoài giá
thú, không phân biệt thứ bậc trong trực hệ, những người này đều không được
phép kết hôn với nhau. Đối với người trong bàng hệ, Điều 109 quy định hôn
thú bị cấm giữa những người sau: Anh chị em (đồng phụ mẫu, cùng cha khác
mẹ hoặc cùng mẹ khác cha); chú, bác, cậu, ông chú, ông bác, ông cậu - cháu
gái; cô, dì, bà cô, bà dì với cháu trai; Anh chị em con chú, con bác, con cậu,
con cô, con dì anh chị em cháu chú, cháu bác. Ngoài ra, Bộ dân luật Sài Gòn
còn cấm kết hôn giữa những người phối ngẫu với một người tôn thuộc, hay ti
thuộc, trực hệ của người phối ngẫu kia; giữa chị dâu, em dâu với em chồng,
anh chồng; giữa bác gái, thím, mợ, bà bác, bà thím, bà mợ - chú chồng; giữa
bác, chú, cậu ông chú, ông bác, ông cậu - vợ cháu trai; giữa cha mẹ nuôi với
con nuôi cũng như với ti thuộc trực hệ của người này với người phối ngẫu của
41
con nuôi; giữa những người con nuôi của cùng một người hoặc người con
nuôi của người đứng nuôi. (Điều 110, 111 Bộ dân luật Sài Gòn).
+ Về hình thức kết hôn: điều kiện về hình thức được chính quyền
ngụy quyền Sài Gòn quy định rất chặt chẽ. Tại chương thứ III Bộ dân luật Sài
Gòn, từ Điều 113 đến Điều 126 quy định hình thức kết hôn rất rõ ràng: Việc
kết hôn phải được niêm yết tại công sở nơi trú ngụ thường xuyên... và phải
niêm yết trong vòng 10 ngày liên tục (Điều 114). Phải xuất trình bản toàn sao
giấy khai sinh được cấp lâu nhất là ba tháng nếu cấp ở Việt Nam và sáu tháng
nếu cấp ở ngoại quốc... Có thể thấy việc kết hôn không còn giới hạn trong
phạm vi gia đình nữa mà đòi hỏi phải có sự công nhận của chính quyền. Điều
này thể hiện sự quản lý ngày càng chặt chẽ của pháp luật.
Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này ở miền Nam vẫn duy trì một số quy
định cấm kết hôn đối với người vợ như: cấm người vợ kết hôn khi hôn nhân
chấm dứt trước pháp luật chưa được 300 ngày. Điều đó có nghĩa là người vợ
phải chờ đợi 300 ngày sau khi hôn nhân trước chấm dứt mới được quyền kết
hôn với người khác, trừ trường hợp chứng minh rằng mình không có thai khi
chồng chết hoặc khi ly hôn với chồng. Quy định này nhằm để tránh sự nhầm
lẫn trong việc xác định quan hệ cha con. Những văn bản pháp luật này quy
định phạm vi cấm kết hôn giữa những người thân thuộc khá rộng (phạm vi
năm đời)... Như vậy, dù đã có những điểm tiến bộ như ghi nhận sự tự nguyện
kết hôn, thừa nhận chế độ một vợ một chồng song nhìn chung hệ thống các
văn bản thời kỳ này vẫn thể hiện những nguyên tắc bất bình đẳng giữa nam và
nữ, bảo vệ quyền gia trưởng trong gia đình.
* Luật HN&GĐ trong giai đoạn thống nhất đất nước, cả nước bước
vào chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975
đến nay).
- Luật HN&GĐ năm 1986 được Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ 12
thông qua ngày 29/12/1986 có hiệu lực thi hành từ ngày 03/01/1987. Chế định
42
kết hôn được quy định tại chương 2 từ Điều 5 đến Điều 9. So với Luật HN&GĐ
năm 1959 thì Luật HN&GĐ năm 1986 có nhiều điểm mới phù hợp hơn.
Trong Luật HN&GĐ năm 1959, chế định kết hôn tuy đã được xây dựng thành
một chế định nhưng các quy định còn đơn giản. Luật HN&GĐ năm 1986 trên
cơ sở kế thừa Luật HN&GĐ năm 1959 các quy định về vấn đề kết hôn sắp
xếp trong một chế định theo hướng chặt chẽ hơn, hoàn thiện hơn.
+ Về độ tuổi kết hôn: Luật HN&GĐ năm 1986 quy định độ tuổi tối thiểu
để hai bên nam nữ đủ điều kiện kết hôn là "nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi
trở lên" [40, Điều 5]. Quy định này là sự kế thừa của Luật HN&GĐ năm 1959.
+ Về sự tự nguyện kết hôn: Luật HN&GĐ năm 1986 kế thừa quy định
của Luật năm 1959 ghi nhận nguyên tắc kết hôn tự nguyện, không bên nào
được ép buộc, cản trở hay lừa dối bên nào. Đây cũng được xem là cơ sở để
quy định nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng (Điều 6).
+ Về các trường hợp cấm kết hôn: Điều 7 quy định rõ các trường hợp
sau thì bị cấm kết hôn:
a) Đang có vợ hoặc có chồng; b) Đang mắc bệnh tâm thần
không có khả năng nhận thức hành vi của mình, đang mắc bệnh hoa
liễu; c) Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa anh chị
em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; giữa
những người khác có họ trong phạm vi ba đời; d) Giữa cha, mẹ nuôi
với con nuôi [40].
Như vậy so với Luật HN&GĐ năm 1959, các điều cấm kết hôn trong
Luật HN&GĐ năm 1986 đã được quy định tập hợp trong một điều luật. Phạm
vi cấm kết hôn cũng được thu hẹp hơn. Theo đó, về điều kiện kết hôn liên
quan đến thể chất của người kết hôn, Luật HN&GĐ năm 1986 chỉ cấm kết
hôn đối với người đang mắc bệnh tâm thần, không có khả năng nhận thức và
làm chủ hành vi của mình và người mắc bệnh hoa liễu. Người bị bất lực hoàn
toàn về sinh lý hay mắc bệnh hủi không bị cấm kết hôn. Thêm vào đó, việc
43
cấm kết hôn giữa người có họ trong phạm vi 3 đời. Bên cạnh đó, Điều 4 Luật
HN&GĐ năm 1986 còn quy định: Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi...Cấm người
đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.
+ Về hình thức kết hôn: Điều 8 Luật HN&GĐ năm 1986 quy định rõ:
Việc kết hôn do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi
thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ
kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định. Việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài do cơ quan đại diện
ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công
nhận. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý [40].
Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời đã đáp ứng được vai trò lịch sử trong
thời kì đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Luật đã kế thừa những nguyên
tắc dân chủ của Luật HN&GĐ năm 1959, những truyền thống tốt đẹp của gia
đình Việt Nam. Đồng thời Luật có những bước phát triển hơn điều chỉnh quan
hệ xã hội về HN&GĐ, trong đó có quy định về kết hôn của hai bên nam nữ.
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thi hành, Luật HN&GĐ năm 1986 đã bộc lộ nhiều
điểm yếu trước những biến đổi của xã hội như: vẫn còn tồn tại trường hợp tảo
hôn, kết hôn không đăng ký, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một
chồng...Tình hình này đòi hỏi Nhà nước cần phải sửa đổi một cách toàn diện
Luật HN&GĐ. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 1992 được ban hành, thay thế
các điều 30, 35, 40, 58, 63 và 64 so với Hiến pháp năm 1980, là cơ sở pháp lý
quan trọng cho Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời.
Luật HN&GĐ năm 2000 được Quốc hội thông qua ngày 09/6/2000 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2001. Luật gồm 13 chương, 110 điều. Khác
với Luật HN&GĐ trước đó, Luật HN&GĐ năm 2000 được xây dựng hoàn
thiện hơn, đáp ứng được yêu cầu của tình hình cách mạng mới. Chế định kết
hôn được quy định tại Chương 2, từ Điều 9 đến Điều 17 của Luật HN&GĐ
44
năm 2000. Chế định kết hôn được sửa đổi, bổ sung thêm một số quy định mới
cho phù hợp với tình hình thực tiễn như: trường hợp cấm kết hôn giữa những
người cùng giới tính, giữa những người đã từng có quan hệ nuôi dưỡng như
cha mẹ nuôi với con nuôi, bố dượng và con riêng của vợ, giữa mẹ kế với con
riêng của chồng… (Điều 10); không công nhận quan hệ hôn nhân đối với
trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn (Điều 11).
Thực thi Luật HN&GĐ năm 2000, Nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản hướng dẫn. Những văn bản này đã đóng vai trò tích cực, bảo đảm tính cụ
thể và khả thi của các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 trong cuộc sống,
bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, từ đó quyền, nghĩa vụ của
người dân về HN&GĐ được thực hiện, bảo vệ tốt hơn.
Như vậy, trong từng thời kỳ, để phù hợp với sự nghiệp cách mạng của
đất nước, phù hợp với tình hình phát triển của các điều kiện kinh tế, xã hội và
thực tế các quan hệ HN&GĐ, Nhà nước ta đã kịp thời ban hành các văn bản
pháp luật về HN&GĐ, trong đó có các quy định về kết hôn. Quy định pháp
luật về chế định kết hôn dần được hoàn thiện, là công cụ pháp lý của Nhà
nước ta, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân lao động.
Qua quá trình tìm hiểu hệ thống pháp luật Việt Nam trong từng giai
đoạn lịch sử cho thấy các quy định về chế định kết hôn ngày càng được xây
dựng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với sự phát triển của các quan hệ xã hội
trên cơ sở phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của gia đình Việt Nam,
tiếp thu các thành tựu nghiên cứu khoa học để quy định các điều kiện kết hôn
một cách khoa học và phù hợp, đáp ứng được nhu cầu tất yếu khách quan của
xã hội.
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT

More Related Content

What's hot

THỰC HIỆN THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, THỰC TIỄN TẠI UBND PHƯỜNG TRƯỜNG THỌ, QUẬN...
THỰC HIỆN THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, THỰC TIỄN TẠI UBND PHƯỜNG TRƯỜNG THỌ, QUẬN...THỰC HIỆN THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, THỰC TIỄN TẠI UBND PHƯỜNG TRƯỜNG THỌ, QUẬN...
THỰC HIỆN THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, THỰC TIỄN TẠI UBND PHƯỜNG TRƯỜNG THỌ, QUẬN...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Quản lý về hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo pháp luật - Gửi miễn ...
Luận văn: Quản lý về hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo pháp luật - Gửi miễn ...Luận văn: Quản lý về hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo pháp luật - Gửi miễn ...
Luận văn: Quản lý về hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo pháp luật - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đìnhLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HAY
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HAYLuận án: Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HAY
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
 
THỰC HIỆN THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, THỰC TIỄN TẠI UBND PHƯỜNG TRƯỜNG THỌ, QUẬN...
THỰC HIỆN THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, THỰC TIỄN TẠI UBND PHƯỜNG TRƯỜNG THỌ, QUẬN...THỰC HIỆN THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, THỰC TIỄN TẠI UBND PHƯỜNG TRƯỜNG THỌ, QUẬN...
THỰC HIỆN THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, THỰC TIỄN TẠI UBND PHƯỜNG TRƯỜNG THỌ, QUẬN...
 
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đìnhĐề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luậtLuận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đìnhĐề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
 
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônGiải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Quản lý về hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo pháp luật - Gửi miễn ...
Luận văn: Quản lý về hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo pháp luật - Gửi miễn ...Luận văn: Quản lý về hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo pháp luật - Gửi miễn ...
Luận văn: Quản lý về hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo pháp luật - Gửi miễn ...
 
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOT
Luận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOTLuận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOT
Luận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docxBáo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
 
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAYHậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
 
Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện
Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyệnMô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện
Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện
 

Similar to Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT

Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễnChế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễnhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
[123doc] - nhung-khia-canh-phap-ly-cua-thuc-te-nam-nu-chung-song-nhu-vo-chong...
[123doc] - nhung-khia-canh-phap-ly-cua-thuc-te-nam-nu-chung-song-nhu-vo-chong...[123doc] - nhung-khia-canh-phap-ly-cua-thuc-te-nam-nu-chung-song-nhu-vo-chong...
[123doc] - nhung-khia-canh-phap-ly-cua-thuc-te-nam-nu-chung-song-nhu-vo-chong...NuioKila
 
VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6103198.pdf
VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6103198.pdfVẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6103198.pdf
VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6103198.pdfNuioKila
 
Những khia cạnh pháp lý của thực tế nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng...
Những khia cạnh pháp lý của thực tế nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng...Những khia cạnh pháp lý của thực tế nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng...
Những khia cạnh pháp lý của thực tế nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng...NuioKila
 
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngườ...
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngườ...Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngườ...
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngườ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực TiễnThừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực TiễnViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 

Similar to Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT (20)

Luận văn: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân, HOT
 
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ, HAY
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ, HAYLuận án: Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ, HAY
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ, HAY
 
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễnChế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễn
 
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA 
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA 
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA 
 
[123doc] - nhung-khia-canh-phap-ly-cua-thuc-te-nam-nu-chung-song-nhu-vo-chong...
[123doc] - nhung-khia-canh-phap-ly-cua-thuc-te-nam-nu-chung-song-nhu-vo-chong...[123doc] - nhung-khia-canh-phap-ly-cua-thuc-te-nam-nu-chung-song-nhu-vo-chong...
[123doc] - nhung-khia-canh-phap-ly-cua-thuc-te-nam-nu-chung-song-nhu-vo-chong...
 
VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6103198.pdf
VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6103198.pdfVẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6103198.pdf
VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6103198.pdf
 
Những khia cạnh pháp lý của thực tế nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng...
Những khia cạnh pháp lý của thực tế nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng...Những khia cạnh pháp lý của thực tế nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng...
Những khia cạnh pháp lý của thực tế nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng...
 
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
 
Thực Tiễn Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án Nhân Dân Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố ...
Thực Tiễn Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án Nhân Dân Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố ...Thực Tiễn Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án Nhân Dân Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố ...
Thực Tiễn Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án Nhân Dân Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố ...
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
 
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hônĐề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận Văn Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Luật Hôn Nhân
Luận Văn Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Luật Hôn NhânLuận Văn Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Luật Hôn Nhân
Luận Văn Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Luật Hôn Nhân
 
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
 
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOTCăn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
 
Khóa luận: Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng, HAY, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng, HAY, 9 ĐIỂMKhóa luận: Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng, HAY, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng, HAY, 9 ĐIỂM
 
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
 
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngườ...
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngườ...Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngườ...
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngườ...
 
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực TiễnThừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 

Recently uploaded (19)

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 

Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN KIM THOA HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN KIM THOA HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phƣơng Lan HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn Kim Thoa
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN 7 1.1. Khái niệm chung về chế định kết hôn 7 1.1.1. Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn 7 1.1.2. Kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái pháp luật 10 1.1.3. Chế định kết hôn 12 1.2. Cơ sở quy định chế định kết hôn 14 1.2.1. Kinh tế - xã hội 14 1.2.2. Văn hóa truyền thống, phong tục tập quán 16 1.2.3. Hội nhập quốc tế 19 1.2.4. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ 20 1.3. Ý nghĩa của chế định kết hôn 21 1.4. Khái quát chế định kết hôn theo pháp luật Việt Nam 22 1.4.1. Chế định kết hôn trong pháp luật phong kiến Việt Nam 22 1.4.2. Chế định kết hôn trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc 26 1.4.3. Chế định kết hôn trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay 29 Chương 2: CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2000 38 2.1. Điều kiện kết hôn 38 2.1.1. Về độ tuổi kết hôn 38
  • 5. 5 2.1.2. Sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn 41 2.1.3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn 43 2.2. Đăng ký kết hôn và việc chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn 53 2.2.1. Thẩm quyền và thủ tục đăng ký kết hôn 54 2.2.2. Chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn 57 2.3. Hủy kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 61 2.3.1. Nguyên tắc xử lý đối với việc kết hôn trái pháp luật 61 2.3.2. Căn cứ hủy kết hôn trái pháp luật 62 2.3.3. Quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật 67 2.3.4. Đường lối giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật 68 2.3.5. Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật 74 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN 76 3.1. Những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thực hiện chế định kết hôn 76 3.1.1. Thực tiễn thực hiện điều kiện kết hôn 76 3.1.2. Thực tiễn thực hiện việc đăng ký kết hôn 91 3.1.3. Áp dụng pháp luật xử hủy việc kết hôn trái pháp luật 98 3.2. Một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện chế định kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình 100 3.2.1. Hoàn thiện quy định về điều kiện kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình 101 3.3.2. Kiến nghị về tổ chức thực hiện 111 KẾT LUẬN 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
  • 6. 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình UBND : Ủy ban nhân dân
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 3.1 Tỷ lệ chưa đăng ký kết hôn theo dân tộc của các cặp vợ chồng từ 18-60 tuổi 92
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Không phải ngẫu nhiên năm 1994 được Liên hợp quốc chọn là năm quốc tế gia đình với chủ đề "Gia đình trong thế giới biến đổi". Điều đó thể hiện sự quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới về vấn đề gia đình. Họ nhận thấy rằng khủng hoảng về gia đình cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng về xã hội. Không ai có thể phủ nhận được vị trí quan trọng của gia đình đối với mỗi người, đối với xã hội. Bởi vì gia đình là cái nôi nuôi dưỡng cho những thế hệ tương lai của đất nước. Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Các công ước quốc tế đều thừa nhận tầm quan trọng của gia đình đối với xã hội, nền tảng gia đình có tốt đẹp vững chắc thì xã hội mới văn minh tiến bộ. Việt Nam cũng vậy, Điều 64 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: "Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình…". Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000 bao gồm nhiều chế định nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Kết hôn là một chế định quan trọng của Luật HN&GĐ năm 2000. Kết hôn là cơ sở hình thành gia đình, tế bào của xã hội. Pháp luật đã quy định điều kiện kết hôn, thủ tục, cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn, trình tự kết hôn và đang từng bước hoàn chỉnh hơn nữa về chế định này. Thực tiễn hơn 13 năm áp dụng chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000 đạt được nhiều thành tựu: việc thực hiện quy định về điều kiện kết hôn đã hạn chế việc kết hôn trái pháp luật hoặc chung sống như vợ, chồng khi đang có vợ, có chồng; nguyên tắc tự nguyện đã khẳng định sự bình đẳng giữa nam và nữ, đảm bảo sự xây dựng gia đình bền vững và hạnh phúc… Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000 là cơ sở pháp lý xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, là tế bào lành mạnh của xã hội.
  • 9. 9 Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 đã cho thấy một số quy định về chế định kết hôn đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không còn phù hợp trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay. Quy định về độ tuổi kết hôn chưa thống nhất với các văn bản trong hệ thống pháp luật của nhà nước ta. Các quy định về giải quyết hậu quả phát sinh từ việc chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn chưa được ghi nhận trong Luật HN&GĐ năm 2000 và chưa đảm bảo tính đồng bộ. Việc công nhận hay không công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính đang là hiện tượng xã hội nhạy cảm và thời sự cũng cần nghiên cứu nghiêm túc trên nhiều khía cạnh xã hội và pháp lý. Đường lối hủy kết hôn trái pháp luật còn chưa thống nhất khiến Tòa án các cấp khi giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật vẫn còn gặp khó khăn. Yêu cầu tất yếu đặt ra là phải hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp luật điều chỉnh chế định kết hôn nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân; cụ thể hóa Hiến pháp, Chiến lược của Chính phủ về phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 về xây dựng và phát triển gia đình; đảm bảo tính đồng bộ, ổn định trong hệ thống pháp luật, vừa đáp ứng được các yêu cầu khách quan của thực tiễn, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Xuất phát từ tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000" là cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chế định kết hôn là một chế định có vị trí, vai trò quan trọng trong Luật HN&GĐ năm 2000. Vì vậy, từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về toàn bộ nội dung chế định kết hôn hoặc một nội dung của chế định này. Có thể chia các công trình nghiên cứu về chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000 thành ba nhóm lớn:
  • 10. 10 - Nhóm luận văn: Ở nhóm này có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: "Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", Luận văn thạc sĩ Luật học của Khuất Thị Thu Hạnh, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008; "Những khía cạnh pháp lý của chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của Hoàng Hạnh Nguyên, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huyền Trang, 2012... Hầu hết các luận văn nghiên cứu một nội dung riêng lẻ nào đó của chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000. Chỉ có duy nhất một luận văn thạc sĩ nghiên cứu về chế định này, tuy nhiên cũng đã khá lâu và không đặt trong bối cảnh sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000. - Nhóm giáo trình, sách: Trong nhóm này phải kể đến Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009. Về sách, có thể kể tới một số sách chuyên sâu như: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 của hai tác giả Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình của tác giả Nguyễn Ngọc Điện, tập 1, tập 2, Nxb Trẻ, 2002. Ngoài ra, còn rất nhiều sách nghiên cứu chuyên sâu khác nhưng cũng chưa có công trình nào nghiên cứu riêng, đầy đủ và toàn diện về lý luận cũng như đánh giá những mặt tích cực, hạn chế, những bất cập cần sửa đổi của chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ 2000. - Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các bài nghiên cứu thuộc nhóm này được đề cập trên một số tạp chí như Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Trong đó có thể kể đến bài viết của TS. Nguyễn Văn Cừ: "Hoàn thiện quy định về điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2013; TS. Ngô Thị Hường
  • 11. 11 "Mấy vấn đề về quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính", Tạp chí Luật học, số 06/2001; ThS. Bùi Thị Mừng "Chế định kết hôn trong pháp Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam qua các thời kì dưới góc nhìn lập pháp", Tạp chí Luật học, số 11/2012… Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đăng trên các báo điện tử. Nhìn chung, mỗi công trình nghiên cứu đã nhìn nhận, giải quyết vấn đề kết hôn ở một nội dung, góc độ khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về việc hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000 đặt trong bối cảnh sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000. Nhận diện được vấn đề này, luận văn đề cập đến việc nghiên cứu vấn đề lý luận về kết hôn, điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp luật, cơ sở quy định và ý nghĩa của chế định kết hôn cũng như đánh giá những mặt tích cực, hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng chế định kết hôn để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, khi có nhiều yếu tố tác động, chi phối đến việc kết hôn của các bên nam - nữ. Do đó, công trình sẽ không phải là sự lặp lại của bất kỳ công trình nào trước đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về chế định kết hôn; nghiên cứu, phân tích nội dung, ý nghĩa chế định kết hôn và đánh giá việc áp dụng chế định kết hôn trong thực tiễn, đồng thời phát hiện những bất cập, hạn chế của chế định kết hôn, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện chế định này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về chế định kết hôn, tìm hiểu sự phát triển của chế định kết hôn qua các thời kỳ lịch sử.
  • 12. 12 - Phân tích các quy định của pháp luật về chế định kết hôn như điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn và hủy kết hôn trái pháp luật. - Đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật về chế định kết hôn trong thực tiễn, làm rõ những điểm chưa hợp lý, còn bất cập, chưa có tính khả thi cũng như chỉ ra những điểm chưa tương đồng với các văn bản pháp luật khác có liên quan điều chỉnh về chế định kết hôn (về độ tuổi kết hôn, kết hôn đồng giới, hủy kết hôn trái pháp luật,...). - Chỉ ra những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chế định này. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận chung về chế định kết hôn, các quy định của pháp luật về chế định kết hôn cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan và thực tiễn áp dụng chế định kết hôn qua các vụ, việc cụ thể. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế định kết hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 (từ Điều 9 đến Điều 17) mà không bao gồm vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài và có liên hệ với Luật HN&GĐ năm 2014. Đồng thời, đề tài nghiên cứu một số vụ việc thực tế trong thực tiễn áp dụng các điều kiện kết hôn và hủy việc kết hôn trái pháp luật khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực. Trên cơ sở đó, luận văn đánh giá việc áp dụng các quy định của chế định kết hôn trong thực tiễn, phát hiện những bất cập cần sửa đổi. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình, về quyền con người trong lĩnh vực HN&GĐ.
  • 13. 13 Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy nạp v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu đi sâu phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về những vấn đề lý luận về chế định kết hôn; những quy định của pháp luật hiện hành và đánh giá việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật điều chỉnh chế định kết hôn. Trong quá trình viết tác giả đã đề xuất một số nội dung nhằm hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000, có sự so sánh với các quy định của chế định này theo Luật HN&GĐ sửa đổi năm 2014, do đó đảm bảo tính thời sự, khoa học của vấn đề nghiên cứu. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chế định kết hôn. Chương 2: Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Chương 3: Thực tiễn thực hiện chế định kết hôn và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định kết hôn.
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN 1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN 1.1.1. Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn * Khái niệm kết hôn Khái niệm kết hôn có thể hiểu dưới hai góc độ: - Dưới góc độ xã hội, kết hôn là một sự kiện thực tế, là việc nam nữ lấy nhau thành vợ thành chồng theo những nghi thức nhất định, thường bị chi phối bởi phong tục, tập quán, đạo đức, tư tưởng, tôn giáo của xã hội đương thời. Quan hệ hôn nhân gia đình là một hình thức của quan hệ xã hội được xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, quan hệ này tồn tại và phát triển theo quy luật của tự nhiên với mục đích đảm bảo sự sinh tồn, phát triển của xã hội loài người. Ngay cả khi không có bất kỳ một quy tắc, một quy định nào thì quan hệ hôn nhân gia đình từ trước đến nay vẫn được xác lập, con người vẫn chung sống, vẫn sinh con đẻ cái và tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác. Do đó, quyền kết hôn là một quyền tự nhiên, quyền con người. Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn lịch sử, với sự xuất hiện của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, những quy tắc xử sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị dần dần xuất hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội. Kết hôn không còn là một quyền tự do, bản năng của con người mà trở thành một quan hệ xã hội bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước luôn sử dụng pháp luật để điều chỉnh các mặt của quan hệ HN&GĐ. Sự điều chỉnh này ở mỗi Nhà nước, mỗi chế độ là khác nhau. Nó có thể là sự quy định rõ ràng bằng quy phạm pháp luật hoặc thừa nhận bằng tập quán. Nhà nước kiểm soát quyền tự do kết hôn của công dân bằng cách đặt ra các quy định làm cơ sở cho việc xác lập quan hệ vợ chồng được thể hiện qua các quy định về kết hôn và điều kiện kết hôn.
  • 15. 15 - Dưới góc độ pháp lý, Luật HN&GĐ năm 1986 đưa ra định nghĩa như sau: "Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo quy định của pháp luật. Việc kết hôn phải thuận theo các Điều 5, 6, 7, 8 của Luật Hôn nhân và gia đình" [40]. Luật HN&GĐ năm 2000 định nghĩa: "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn" [42, Khoản 2, Điều 8]. Vậy có thể hiểu kết hôn là một sự kiện pháp lý, bao gồm các yếu tố sau: Thứ nhất, sự thể hiện ý chí tự nguyện của các bên nam nữ mong muốn được kết hôn với nhau. Trong giấy khai xin đăng ký kết hôn và trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ thể hiện rằng họ hoàn toàn tự nguyện và mong muốn được kết hôn, sự thể hiện đó phải hoàn toàn phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của hai người. Nam, nữ kết hôn là mong muốn được gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng và cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Vì vậy, ý chí tự nguyện của nam, nữ trong việc kết hôn là điều kiện đảm bảo cho hôn nhân có giá trị pháp lý đồng thời là cơ sở xây dựng gia đình bền vững. Thứ hai, các bên nam nữ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn. Theo Từ điển Luật học thì điều kiện kết hôn là quy định của pháp luật mà khi kết hôn các bên nam, nữ cần phải có hoặc không có điều kiện đó mới có quyền được kết hôn. Khi hai bên nam nữ đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi, về sự tự nguyện và không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn thì có quyền kết hôn với nhau. Việc quy định các điều kiện kết hôn là cần thiết, đảm bảo trật tự trong gia đình, xã hội; giữ gìn thuần phong mỹ tục, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam; đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân. Thứ ba, có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ quan đăng ký kết hôn xem xét yêu cầu đăng ký kết hôn của nam nữ, nếu các bên có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tiến hành đăng ký
  • 16. 16 việc kết hôn, ghi vào Sổ kết hôn và cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho nam, nữ. Thông qua sự kiện đăng ký kết hôn, Nhà nước đã công nhận hôn nhân của đôi nam nữ. Giấy chứng nhận kết hôn là cơ sở pháp lý ghi nhận rằng hai bên nam, nữ đã phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng để từ đó Nhà nước có biện pháp bảo hộ quyền lợi cho vợ, chồng, đặc biệt là quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Về mặt quản lý nhà nước thì đăng ký kết hôn là biện pháp để Nhà nước kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong việc kết hôn và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm các điều kiện kết hôn. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, kết hôn là một sự kiện pháp lý bao gồm các yếu tố cấu thành mà nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì việc kết hôn không có hiệu lực, không làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ. Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm kết hôn như sau: Kết hôn là một sự kiện pháp lý, thể hiện nam nữ lấy nhau thành vợ chồng trên cơ sở các bên đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn do pháp luật quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo trình tự, thủ tục nhất định làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ. * Khái niệm điều kiện kết hôn Việc kết hôn luôn gắn liền với các điều kiện kết hôn, "không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn...hôn nhân không thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn mà trái lại sự tùy tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân" [61, tr. 90]. Điều kiện kết hôn là những yêu cầu, tiêu chuẩn, chuẩn mực đặt ra đối với các bên nam nữ khi xác lập quan hệ hôn nhân. Trong xã hội chưa có giai cấp, các điều kiện kết hôn bị chi phối bởi các quy phạm xã hội như đạo đức, phong tục tập quán, tôn giáo, truyền thống, văn hóa của xã hội đương thời. Khi Nhà nước xuất hiện, Nhà nước sử dụng pháp luật để quy định các điều kiện kết hôn đòi hỏi các bên phải đáp ứng. Những quy định này thể hiện mục đích của giai cấp thống trị nhằm xây dựng mô hình gia đình phù hợp với lợi
  • 17. 17 ích của giai cấp mình. Điều kiện kết hôn phản ánh điều kiện kinh tế xã hội, sự phát triển khoa học kỹ thuật, văn hóa truyền thống, phong tục tập quán của xã hội đương thời và ý chí của giai cấp thống trị thông qua mô hình gia đình. Do đó, ở mỗi một thời kì, một quốc gia có những điều kiện kết hôn khác nhau. Nhưng dù thời kỳ nào thì những điều kiện kết hôn đó đều đặt ra đối với các bên khi muốn xác lập quan hệ vợ chồng. Khi đáp ứng các điều kiện kết hôn thì họ sẽ trở thành chủ thể của việc kết hôn. Có nhiều quy phạm xã hội như đạo đức, phong tục tập quán điều chỉnh điều kiện kết hôn, tuy nhiên chỉ có quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra là có tính bắt buộc, áp dụng chung cho tất cả mọi người. Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Điều kiện kết hôn là yêu cầu pháp lý được thể hiện thông qua quy phạm pháp luật, đặt ra đối với các bên nam nữ buộc họ phải đáp ứng, trên cơ sở đó việc kết hôn của họ mới được công nhận là hợp pháp. 1.1.2. Kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái pháp luật * Khái niệm kết hôn trái pháp luật Việc kết hôn chịu sự điều chỉnh của pháp luật trong mỗi thời kỳ nhằm đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị, phù hợp với mục đích xây dựng gia đình mà giai cấp thống trị nhằm đạt được. Vì vậy, từ góc độ lý luận, để tìm hiểu quy định về kết hôn, kết hôn trái pháp luật thì cần xem xét trong sự tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của mỗi thời kỳ. Thông qua Nhà nước, bằng pháp luật, giai cấp thống trị tác động vào các quan hệ HN&GĐ làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Trong bất cứ xã hội nào việc vi phạm các điều kiện kết hôn cũng gây ra những bất lợi cho các bên (người kết hôn, gia đình, Nhà nước và xã hội), vì vậy pháp luật luôn quy định việc xử lý các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn.
  • 18. 18 "Kết hôn trái pháp luật chính là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định" [42, Điều 8]. Theo định nghĩa này thì việc kết hôn bị coi là trái pháp luật khi có điều kiện cần là việc đăng ký kết hôn đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và điều kiện đủ là một trong hai bên vi phạm một trong những điều kiện kết hôn do pháp luật quy định. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì không được coi là kết hôn trái pháp luật. Ví dụ hai trường hợp sau sẽ không được coi là kết hôn trái pháp luật: trường hợp hai bên nam nữ không đăng ký kết hôn và một trong hai bên nam nữ vi phạm một trong những điều kiện kết hôn hoặc trường hợp việc đăng ký kết hôn không đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và các bên không vi phạm điều kiện kết hôn. Như vậy, có thể hiểu: Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng trong đó thực hiện đầy đủ nghi thức kết hôn và thẩm quyền đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật nhưng có sự vi phạm một trong những điều kiện kết hôn của một trong hai bên nam nữ kết hôn. * Khái niệm hủy kết hôn trái pháp luật Xét dưới góc độ pháp lý, hành vi kết hôn trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước. Những cuộc hôn nhân không hợp pháp, kết hôn không có đăng ký kết hôn khiến cho các cơ quan nhà nước khó có thể nắm bắt và quản lý được các vấn đề liên quan đến hộ tịch, khai sinh hay giải quyết những tranh chấp khác. Bên cạnh đó, việc kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng xấu tới nhiều mặt của đời sống xã hội như vi phạm nghiêm trọng về đạo đức, nhân cách, lối sống của gia đình Việt Nam, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hưởng đến sức khỏe và việc duy trì nòi giống của dân tộc. Do đó, Nhà nước ta đã thể hiện thái độ nghiêm khắc thông qua hủy kết hôn trái pháp luật. Về bản chất pháp lý thì hủy kết hôn trái pháp luật là một chế tài vì nó thể hiện ý chí của Nhà nước, buộc các bên kết hôn phải tuân theo mà không
  • 19. 19 phụ thuộc ý chí của họ và hủy kết hôn trái pháp luật đưa lại sự bất lợi cho các bên. Hủy kết hôn trái pháp luật đồng nghĩa với việc không công nhận việc kết hôn có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ kể từ thời điểm kết hôn. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì buộc phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng giữa hai bên...Như vậy, hủy kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Nhà nước thể hiện sự không công nhận của Nhà nước giữa hai bên nam nữ có quan hệ vợ chồng kể từ thời điểm đăng ký kết hôn. 1.1.3. Chế định kết hôn Hệ thống pháp luật Việt Nam phân chia thành các ngành luật điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Mỗi ngành luật được tập hợp bởi nhiều chế định khác nhau, mỗi chế định bao gồm nhiều quy phạm pháp luật giống nhau điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội cùng loại. Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng [62]. Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, chế định pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội giống nhau trong phạm vi một ngành luật. Theo đó, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì chế định pháp luật được coi là các yếu tố cấu thành hệ thống pháp luật. Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì chế định pháp luật là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý. Luật HN&GĐ là ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được tạo thành bởi nhiều chế định pháp luật khác nhau như chế định kết hôn, chế định quan hệ giữa vợ và chồng, chế định ly hôn…Các chế định đều điều chỉnh chung cho nhóm quan hệ xã hội trong lĩnh vực HN&GĐ, là sự tổng hợp của nhiều quy phạm pháp luật HN&GĐ. Như vậy, chế định kết hôn là tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến kết hôn bao gồm: điều kiện kết hôn, thẩm quyền, thủ tục đăng ký
  • 20. 20 kết hôn, các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn và vấn đề xử lý vi phạm điều kiện kết hôn. Chế định kết hôn là hệ thống các quy phạm pháp luật về kết hôn. Các quy phạm pháp luật của chế định kết hôn có đặc điểm là: - Các quy phạm điều chỉnh về kết hôn là những quy tắc xử sự chung. Có nghĩa là những quy tắc này không phải dành cho một cá nhân đơn lẻ nào mà phải dành cho mọi cá nhân tham gia vào việc kết hôn. Các cá nhân khi tham gia vào quan hệ này sẽ có những quyền, nghĩa vụ pháp lý nhất định. Nhà nước bảo đảm cho những quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện bằng quyền lực của Nhà nước. - Chế định kết hôn điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội tương đối giống nhau liên quan đến việc kết hôn như điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn, các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn và xử lý đối với những trường hợp vi phạm đó. Chế định kết hôn mang tính chất nhóm, tuy có những đặc điểm riêng nhưng đều có mối liên hệ nội tại, thống nhất và chịu sự ảnh hưởng, tác động của chế định khác trong Luật HN&GĐ. Chế định kết hôn phải tuân theo các quy luật vận động khách quan và chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội. - Chế định kết hôn thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc xác lập và xây dựng gia đình phù hợp với lợi ích của Nhà nước. Kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng, nền tảng cơ bản quan trọng để tạo dựng gia đình. Vì vậy, ở bất cứ xã hội nào, vấn đề kết hôn cũng được coi trọng. Khi nhà nước xuất hiện, các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật, vấn đề kết hôn được pháp luật điều chỉnh và trở thành những quy tắc xử sự chung, buộc mọi người phải tuân thủ. Nhờ đó, quyền và nghĩa vụ của người kết hôn được pháp luật bảo vệ, trật tự gia đình được gìn giữ, tạo tiền đề vững chắc để xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ.
  • 21. 21 1.2. CƠ SỞ QUY ĐỊNH CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN Nhiệm vụ quan trọng nhất của pháp luật là điều chỉnh, định hướng các quan hệ xã hội theo lợi ích và trật tự chung mà Nhà nước đã đặt ra. Vì vậy, Luật HN&GĐ, với tư cách là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân gia đình là cơ sở pháp lý vững chắc góp phần xây dựng, duy trì, phát triển và bảo vệ chế độ HN&GĐ tiến bộ phù hợp với điều kiện và bản chất của xã hội Việt Nam. Chế định kết hôn là một chế định rất quan trọng của Luật HN&GĐ Việt Nam. Chế định này được quy định trên cơ sở các yếu tố sau: 1.2.1. Kinh tế - xã hội Pháp luật là thượng tầng kiến trúc luôn bị chi phối bởi hạ tầng cơ sở. Nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Kinh tế, xã hội mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử chi phối đến việc xây dựng pháp luật, trong đó có chế định kết hôn. Chế định kết hôn cũng biến đổi theo sự biến đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội. Ở nước ta dưới chế độ phong kiến, thực dân trước năm 1945, kinh tế Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân ta phải sống trong cảnh nô lệ và đói nghèo cả về vật chất và tinh thần, 90% dân số mù chữ. Giai cấp phong kiến quan niệm hôn nhân là một loại quan hệ xuất phát từ quyền lợi gia đình, dòng họ. Mục đích của hôn nhân là nhằm duy trì sự giao kết giữa hai dòng họ, nhằm thờ phụng tổ tiên và kế tục dòng dõi tông tộc. Vì vậy, các quy định về kết hôn thời kì này thể hiện rõ sự trọng nam khinh nữ, bảo vệ chế độ gia trưởng của người đàn ông. Các quy định kết hôn theo sự sắp đặt của cha mẹ hay quan niệm "gái chính chuyên chỉ có một chồng" còn đàn ông được phép lấy nhiều vợ... thể hiện rõ sự bất bình đẳng nam - nữ nhưng phản ánh đúng thực trạng kinh tế, xã hội thời bấy giờ. Sở dĩ còn tồn tại những hạn chế đó là do tiếp thu triết lý nho giáo từ Trung Quốc với tư tưởng gia đình gia trưởng. Bên cạnh những hạn chế nhất định, các quy định về kết hôn của pháp
  • 22. 22 luật Việt Nam vẫn có những đóng góp nhất định nhằm củng cố trật tự gia đình phong kiến. Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để phù hợp với nhiệm vụ kinh tế, chính trị thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Luật HN&GĐ năm 1959 đã ra đời, đây là luật HN&GĐ đầu tiên của nước ta, một trong những đạo luật được ban hành sớm nhất và là công cụ pháp lý để Nhà nước ta xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, xây dựng chế độ HN&GĐ kiểu mới, dân chủ và tiến bộ. Bắt đầu từ những năm cuối thập kỷ 80, nền kinh tế của đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới với cơ chế kinh tế hàng hóa thị trường thay cho cơ chế kinh tế kế hoạch hóa bao cấp. Sự thay đổi này tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan hệ HN&GĐ cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng, đòi hỏi phải có sự thay đổi thích hợp trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, kế thừa những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ của chế độ HN&GĐ trong Luật HN&GĐ năm 1959 và những truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, góp phần xóa bỏ những tập tục lạc hậu, tàn dư của chế độ HN&GĐ tư sản, phong kiến. Sau gần 14 năm thi hành Luật HN&GĐ năm 1986, văn bản này cũng đã bộc lộ những điểm không còn phù hợp. Luật HN&GĐ năm 1986 được ban hành trong thời kì đầu đổi mới chưa có điều kiện thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng trong Hiến pháp năm 1992 nên nhiều quy định của Luật chưa phù hợp với sự vận động của các quan hệ HN&GĐ trong cơ chế kinh tế thị trường và sự giao lưu kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế - xã hội, Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời, đã có những sửa đổi, bổ sung đáng kể. Như quy định: cấm người chưa có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ tại Khoản 2 Điều 4 Luật HN&GĐ năm 2000 là rất cụ thể so với Luật HN&GĐ năm 1986; bổ sung quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính...
  • 23. 23 Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thì chất lượng cuộc sống của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt tại các đô thị đã được cải thiện một cách đáng kể so với thời điểm ban hành Luật HN&GĐ năm 2000. Theo đó, thực trạng về thể chất cũng như về tâm sinh lý của lứa tuổi thanh niên hiện nay phát triển rất sớm, điều này là một trong những cơ sở để quy định về độ tuổi kết hôn. Sự phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến một bộ phận giới trẻ, tình trạng chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn xảy ra phổ biến, phát sinh nhiều tranh chấp về tài sản, con cái. Vì vậy, Luật HN&GĐ cần bổ sung những quy định mới điều chỉnh hậu quả pháp lý phát sinh từ các quan hệ này. 1.2.2. Văn hóa truyền thống, phong tục tập quán Quan hệ HN&GĐ, đặc biệt là việc lấy vợ lấy chồng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa, phong tục tập quán. Vì vậy, các quy định về điều kiện kết hôn, công nhận việc kết hôn không đăng ký hay xử lý kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn đều ít nhiều chịu sự chi phối của văn hóa, phong tục tập quán. Trong xã hội phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh nữ, bổn phận tam tòng của người phụ nữ chi phối các quy định về điều kiện kết hôn như: kết hôn phải có sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng hay người đàn ông được phép lấy nhiều vợ, khuyến khích người vợ góa thủ tiết thờ chồng nuôi con... Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa học, xã hội, văn hóa Việt Nam cũng đã có những biến chuyển sâu sắc, ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống, cách sống của những cá nhân trong xã hội. Sự suy thoái về lối sống với cách sống "thoáng" hơn nên những mối quan hệ ngoài giá thú, quan hệ ngoại tình ngày một gia tăng. Những hiện tượng chưa từng xuất hiện, hay trước kia chỉ dám lén lút, thì nay đang có xu hướng công khai và gia tăng như việc chung sống giữa những người đồng giới, việc sống "thử", ngoại tình… Điều đó đòi hỏi phải có những quy định pháp luật điều chỉnh những hậu quả phát sinh từ những quan hệ này.
  • 24. 24 Ngoài ra, văn hóa truyền thống dân tộc còn ảnh hưởng nhiều đến nhận thức và hành vi ứng xử của mỗi cá nhân. Truyền thống của người Việt Nam luôn mang nặng đạo lý: tôn trọng tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới, vợ chồng, con cái yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Những truyền thống, đạo đức này tác động đến tư duy của các nhà làm luật khi xây dựng các nguyên tắc, quy phạm pháp luật về cấm kết hôn đối với những người có quan hệ thích thuộc về trực hệ hay giữa những người cùng giới tính. Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, phong tục, tập quán không chỉ là yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc, mà còn là một trong những yếu tố rất quan trọng, có ảnh hưởng và tác động to lớn, chi phối cách ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng đối với những quan hệ phát sinh trong đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực HN&GĐ. Dưới thời phong biến, người dân thường có câu "phép vua thua lệ làng" với hàm ý những quy định của triều đình nếu không phù hợp với cuộc sống sẽ không thể phát huy tác dụng và thực thi trong thực tiễn. Có những phong tục đã ăn sâu vào tiềm thức của cộng đồng dân cư từ đời này qua đời khác, chi phối cách sống, ứng xử của con người và khó có thể thay đổi được. Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, ở các địa phương Lai Châu, Cao Bằng, Sơn La, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Quảng Ninh hiện nay vẫn còn tồn tại một số phong tục ở những thôn bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa như: hiện tượng đặt dâu trước, tục ở rể (mặc dù các phong tục này chỉ mang tính hình thức); tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết; việc đăng ký kết hôn không do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã thực hiện; cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở lên; bắt buộc người phụ nữ góa chồng hoặc người đàn ông góa vợ, nếu kết hôn với người khác thì phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ hoặc nhà vợ cũ... [64]. Đối với các đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết hôn chủ yếu được thực hiện theo phong tục, tập quán, tức là tổ chức hôn lễ có sự chứng kiến của gia đình, cộng đồng dân cư và được những người này thừa nhận, việc đăng ký
  • 25. 25 kết hôn chưa được coi trọng. Theo số liệu thống kê của tỉnh Sơn La: số lượng các đôi không đăng ký kết hôn ngày càng tăng: năm 2000: 28 trường hợp; năm 2003: 76 trường hợp; năm 2005: 159 trường hợp, năm 2007: 182 trường hợp [64]. Vấn đề đặt ra là Nhà nước cần có thái độ và định hướng như thế nào để một mặt vừa có thể duy trì, phát huy được những phong tục, tập quán tốt đẹp về HN&GĐ - coi đó là công cụ đắc lực để điều chỉnh quan hệ HN&GĐ, mặt khác, vừa có định hướng xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, nhằm từng bước xây dựng quan hệ HN&GĐ tiến bộ. Ví dụ như tục nối dây (Juê nuê) của một số tộc người bản địa ở Tây Nguyên, chủ yếu là người Ê Đê; trước đây, tục nối dây vốn được cho là cổ hủ, lạc hậu, cần phải loại bỏ. Cùng với sự phát triển của xã hội thì tục nối dây không còn phổ biến và cũng đã có những biến đổi theo hướng tích cực để cộng đồng chấp nhận, duy trì. Theo tập tục Juê nuê, người vợ được phép lấy anh hoặc em trai trong dòng họ của chồng khi chồng chết; hay ngược lại, người chồng được phép lấy chị hoặc em gái trong dòng họ của vợ khi vợ mất đi. Trước đây hôn nhân là ép buộc, dù người em gái rất nhỏ tuổi nhưng vẫn bị ép buộc kết hôn. Ngày nay, tục nối dây không vi phạm quyền tự do hôn nhân mà vẫn đảm bảo được tính dân chủ, tự nguyện, người được họ hàng chọn lựa để kết hôn với anh/em rể hoặc chị/em vợ hoàn toàn có thể từ chối cuộc hôn nhân nếu cảm thấy không phù hợp với mình. Thay vì lấy anh rể, cô gái hoặc gia đình cô sẽ nuôi dưỡng những đứa con của chị gái để anh rể đi tìm hạnh phúc mới. Và trong trường hợp này, người anh rể phải để lại con cái cùng toàn bộ tài sản mà trước đó hai vợ chồng gây dựng được cho gia đình bên vợ để có điều kiện chăm sóc cho bọn trẻ. TS. Tuyết Nhung (Trường Đại học Tây Nguyên) cho rằng: tục nối dây thể hiện rất cao tính nhân văn, bởi đối với con cái chưa trưởng thành của người quá cố thì cuộc hôn nhân mới sẽ đem lại cho những đứa trẻ mất cha, hoặc mất mẹ sự chăm sóc nuôi dưỡng ân cần và chu đáo từ chính người thân thiết trong gia
  • 26. 26 đình, có chung dòng máu với cha hoặc mẹ chúng. Nhà nước cần nghiên cứu, có những quy định nhằm phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp này [51]. Có thể nói, pháp luật điều chỉnh vấn đề kết hôn có mối liên hệ sâu sắc với văn hóa truyền thống và phong tục tập quán. Các quy định về điều kiện kết hôn trong các văn bản luật HN&GĐ đều được xây dựng dựa trên nền tảng văn hóa, phong tục tập quán, đạo đức của người Việt Nam trong các thời kỳ khác nhau. Điều đó có tác dụng củng cố nét đẹp của bản sắc dân tộc trong các gia đình Việt Nam. 1.2.3. Hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế là xu thế toàn cầu trong thời đại ngày nay. Hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội; hội nhập giúp tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến; giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội… Chúng ta cũng không thể không kể đến những bất lợi, thách thức mà chính sự hội nhập quốc tế đã đặt ra. Trong đó, một sự tác động khá mạnh mẽ đó là tác động tới văn hóa truyền thống, tới các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ hôn nhân gia đình nói riêng. Văn hóa thế giới thâm nhập vào Việt Nam cùng với sự tăng cường giao lưu quốc tế như tham quan, du lịch, sách báo, hoặc sự phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đa quốc gia như truyền hình, mạng Internet… Văn hóa Âu Mỹ, văn hóa các nước phát triển, lối sống, nếp sống của họ được du nhập bằng nhiều con đường khác nhau và có ảnh hưởng lớn đến nhân dân ta, tạo ra những xu thế mới trong giới trẻ như: chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, kết hôn đồng giới hay hôn nhân vi phạm chế độ một vợ một chồng... Bên cạnh đó, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, sự mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam với các nước trên thế
  • 27. 27 giới là cơ hội để nhiều người nước ngoài đến Việt Nam học tập, công tác cũng như công dân Việt Nam ra nước ngoài gặp gỡ, giao lưu, tìm hiểu nhau... Quan hệ về HN&GĐ có yếu tố nước ngoài nói chung, quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài nói riêng ngày càng gia tăng về số lượng và có tính chất, nội dung ngày càng phức tạp, đây là xu thế phát triển tất yếu của xã hội, là hệ quả khách quan của quá trình mở rộng hợp tác, giao lưu giữa các quốc gia với nhau. Vì vậy, pháp luật ghi nhận và có cơ chế bảo đảm thực hiện nghiêm minh quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài là một yêu cầu khách quan trong xu thế hội nhập quốc tế. 1.2.4. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển trong đó có sự phát triển của y học đã cho phép xác định được một cách khoa học phạm vi những người bị cấm kết hôn trong quan hệ họ hàng huyết thống để việc kết hôn không làm ảnh hưởng đến chất lượng nòi giống, đến các con. Đồng thời, y học phát triển có thể chữa được một số bệnh trước đó coi là bệnh nan y. Nếu như Luật HN&GĐ năm 1959 quy định cấm kết hôn đối với những người bị bất lực hoàn toàn về sinh lý, bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc thì đến Luật HN&GĐ năm 1986 chỉ quy định cấm kết hôn đối với người bị bệnh hoa liễu. Năm 2000, khi ban hành Luật HN&GĐ thì bệnh hoa liễu không được coi là bệnh nan y và có thể chữa khỏi, vì vậy người bị bệnh hoa liễu không còn là đối tượng bị cấm kết hôn. Mặt khác, y học phát triển đã giúp con người xác định lại được giới tính thật của mình. Ở một số quốc gia trên thế giới đã cho phép chuyển đổi giới tính và kết hôn đồng giới như ở Đan Mạch, Anh, Ý… Chính sự phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại đã tạo điều kiện cho con người có thể thực hiện được những quyền tự do cá nhân một cách tối đa nhất. Tuy nhiên, ở Việt Nam mới chỉ chấp nhận việc xác định lại giới tính mà chưa thừa nhận việc chuyển giới hay kết hôn đồng giới.
  • 28. 28 Ngày nay, các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, cụ thể là thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm, cho phép lấy tinh trùng và noãn của một cặp vợ chồng ra khỏi cơ thể, cho tinh trùng và noãn thụ tinh để tạo phôi, nuôi cấy phôi và cho đưa phôi vào tử cung một phụ nữ khác để mang thai. Nhờ đó, việc mang thai hộ có thể được thực hiện. Trong điều kiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh, việc pháp luật ghi nhận và điều chỉnh vấn đề mang thai hộ là hết sức cần thiết. Đồng thời, trên cơ sở khoa học, pháp luật quy định mối quan hệ của cha, mẹ, con để từ đó xác định mối quan hệ anh, chị, em và các quan hệ thân thích khác. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới quy định phạm vi cấm kết hôn giữa những người thân thích. Việc sinh con theo phương pháp khoa học đã đặt ra một thực tế là có sự khác biệt giữa người cha, người mẹ về mặt pháp lý và người cha, người mẹ về mặt huyết thống. Do vậy, để phòng ngừa hậu quả của kết hôn cận huyết, pháp luật cần có quy định giám định gen di truyền đối với những người được sinh ra theo phương pháp khoa học trước khi kết hôn. Như vậy, sự phát triển của khoa học kĩ thuật công nghệ là một yếu tố có tác động sâu sắc và là cơ sở để quy định các điều kiện kết hôn. Các quy định về kết hôn trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay được xây dựng dựa trên sự kết hợp hài hòa giữa điều kiện kinh tế - xã hội, cơ sở khoa học và phong tục tập quán, đạo đức, văn hóa truyền thống tạo nên một chế định kết hôn vừa đảm bảo sự phù hợp, tính khoa học nhưng vẫn có sự gắn kết hài hòa với các yếu tố văn hóa truyền thống, góp phần thúc đẩy các quan hệ HN&GĐ phát triển lành mạnh vì lợi ích của gia đình và xã hội. 1.3. Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN Kết hôn là sự kiện pháp lý qua đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng giữa họ với nhau. Để gia đình thực sự đầm ấm, bền vững và hạnh phúc, Nhà nước quản lý việc kết hôn của cá nhân thông qua quy định
  • 29. 29 của pháp luật về điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn cùng những quy định giải quyết vi phạm trong lĩnh vực kết hôn. Chỉ có thể nói tới quan hệ giữa vợ và chồng, vấn đề cấp dưỡng, giám hộ, vấn đề ly hôn,… cũng như các quan hệ khác trong cuộc sống gia đình khi có sự kiện kết hôn giữa nam và nữ, khi Nhà nước công nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai bên khi kết hôn. Kết hôn là tiền đề để xây dựng gia đình, thiết lập các mối quan hệ gia đình, vì vậy chế định kết hôn có ý nghĩa quan trọng trong Luật HN&GĐ. Chế định kết hôn nhằm xác định mô hình gia đình phù hợp lợi ích của Nhà nước trong sự hài hòa với lợi ích gia đình. Hiện nay, quy định về kết hôn nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và củng cố chế độ HN&GĐ xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp của dân tộc trong các quan hệ HN&GĐ, chống lại ảnh hưởng tiêu cực của chế độ HN&GĐ tư sản, xóa bỏ những tàn dư lạc hậu của chế độ HN&GĐ phong kiến. Chế định kết hôn ghi nhận và bảo vệ quyền tự do kết hôn cho các bên nam nữ, bảo vệ quyền con người và các giá trị nhân văn trong đời sống HN&GĐ. Đồng thời, việc ghi nhận và cơ chế để đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh chế định kết hôn sẽ góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ đó và là cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết yêu cầu của các bên đương sự và tranh chấp khi phát sinh liên quan đến lĩnh vực HN&GĐ. Các quy định trong chế định kết hôn còn là căn cứ để xử lý các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn nhằm đảm bảo trật tự gia đình, xã hội, phù hợp với thuần phong mỹ tục, bảo vệ được pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân song cũng lại rất mềm dẻo, linh hoạt phù hợp với thực tế cuộc sống. 1.4. KHÁI QUÁT CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.4.1. Chế định kết hôn trong pháp luật phong kiến Việt Nam Khi nghiên cứu các quy định pháp luật nói chung cũng như quy định về kết hôn nói riêng không thể không tìm hiểu các quy định mang tính lịch sử
  • 30. 30 từ thời phong kiến. Bởi nghiên cứu theo chiều dài lịch sử giúp chúng ta có cái nhìn khái quát hơn, sâu sắc hơn. Dưới thời phong kiến có hai bộ luật tiêu biểu đó là Quốc triều hình luật của triều Lê và Hoàng Việt luật lệ của triều Nguyễn. Theo Viện Sử học Việt Nam, Bộ Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức được khởi thảo từ thời Lê Thái Tổ, sau đó được bổ sung dưới các thời Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Đến thời Lê Thánh Tông thì luật hoàn chỉnh. Bộ luật này là tập hợp nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực: hình sự, dân sự, tố tụng, HN&GĐ... Quốc triều hình luật có 13 chương gồm 722 Điều (200 Điều phỏng theo Luật nhà Đường, 17 Điều phỏng theo Luật nhà Minh). Trong đó, Chương hộ hôn gồm 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân gia đình và các tội phạm trong lĩnh vực này [66]. Bộ luật Hồng Đức có được sức sống lâu dài, được nhiều nhà khoa học đánh giá cao vì nó chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng thời, có những điểm tiếp cận gần với kỹ thuật pháp lý hiện đại. Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ, những nét độc đáo rất riêng của xã hội Việt Nam đặc biệt là sự anh minh, tấm lòng nhân ái của các vua Lê được thể hiện rất rõ ở các quy định đặc sắc trong lĩnh vực HN&GĐ tập trung chủ yếu ở hai chương Hộ hôn và Điền sản. Hoàng Việt luật lệ, hay còn gọi là Bộ luật Gia Long là bộ luật chính thức của nước ta dưới thời nhà Nguyễn do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành soạn thảo và Vua Gia Long ban hành năm 1815. Hoàng Việt luật lệ được sử dụng suốt thời nhà Nguyễn và áp dụng ở Trung Kỳ trong thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam. Theo bản dịch khắc in từ chữ Hán, Hoàng Việt luật lệ gồm 398 điều chia thành 22 cuốn. Các điều luật được phân loại và sắp xếp theo 06 lĩnh vực: quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại (lại luật); quy định về tội danh và hình phạt (hình luật); quy định về quản lý dân cư và đất đai (hộ luật); quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình (lễ luật); quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng (binh luật); quy định về xây dựng và
  • 31. 31 bảo vệ đê điều (công luật). Trong đó, cuốn 6,7 và 8 quy định về hộ hôn gồm 66 điều luật [52]. Cả hai bộ luật trên đều dành những chương lớn quy định về vấn đề HN&GĐ cũng như các tội phạm trong lĩnh vực này. Điều này thể hiện sự quan tâm của giai cấp thống trị trong xã hội nhằm duy trì sự thống trị của vương triều, củng cố trật tự xã hội và chế độ gia đình gia trưởng trong xã hội phong kiến. Các quy định về kết hôn được hai bộ luật Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ quy định như sau: * Về điều kiện kết hôn: Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ không có quy định cụ thể độ tuổi kết hôn. Tuy nhiên, trong Thiên Nam dư hạ tập (phần lệ Hồng Đức hôn giá) có viết: "Con trai 18 tuổi, con gái 16 tuổi mới có thể thành hôn" [Dẫn theo 50]. Như vậy, pháp luật thời kỳ này cũng đã có sự phân biệt độ tuổi kết hôn giữa nam, nữ và đưa ra độ tuổi tối thiểu khi kết hôn của con trai và con gái. Bên cạnh đó, cả hai bộ luật đều quy định điều kiện kết hôn chỉ được thực hiện khi có cha mẹ hoặc một người đứng đầu dòng họ làm chủ hôn (Điều 413 Quốc triều hình luật và Điều 94 Hoàng Việt luật lệ). Tuy nhiên, quy định này có ngoại lệ: kết hôn có thể do hai bên nam nữ quyết định khi họ chỉ còn bà con xa hoặc họ ở xa nhà. Pháp luật thời kì này chưa ghi nhận sự tự nguyện kết hôn của hai bên nam nữ. * Về các trường hợp cấm kết hôn: Việc kết hôn không vi phạm những điều mà pháp luật cấm. Những điều cấm mà hai bộ luật đưa ra khác với những điều cấm của pháp luật Việt Nam hiện hành: Cấm kết hôn khi có tang, cha, mẹ bị giam cầm, tù tội (Điều 317, Điều 318 Quốc triều hình luật, Điều 99 Hoàng Việt luật lệ); cấm kết hôn giữa những người thân thích (Điều 319 Quốc triều hình luật, Điều 100, 101, 102 Hoàng Việt luật lệ). Ngoài ra, tại mỗi bộ luật lại đưa ra một điều cấm riêng. Ví dụ: Điều 324 Quốc triều hình luật cấm anh em lấy vợ góa của nhau, trò lấy vợ góa của thầy... Các điều cấm
  • 32. 32 của luật này thể hiện tư tưởng phong kiến, nhằm bảo vệ tôn ti trật tự trong xã hội của các triều đình lúc bấy giờ. * Về thủ tục kết hôn: Cả hai bộ luật đều quy định thủ tục kết hôn bao gồm hình thức đính hôn và nghi lễ kết hôn. - Hình thức đính hôn: Quốc triều hình luật chỉ coi hôn nhân có giá trị pháp lý khi nhà trai đã nộp đủ sính lễ cho nhà gái, tức là phải có sự hứa hôn của hai họ (gồm vàng, bạc, tiền, lụa, heo, rượu). Việc nạp sính lễ mang tính chất long trọng và phải cáo tổ trước từ đường của hai họ. Khác với Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ quy định hình thức đính hôn là các "hôn thư" hoặc "tư ước". Đó là cam kết của hai người chủ hôn (Điều 94 Hoàng Việt luật lệ). Như vậy, cả hai bộ luật đã xem hình thức của việc kết hôn là một điều kiện quan trọng để cuộc hôn nhân của hai bên nam nữ có giá trị pháp lý. Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ quy định hình thức đính hôn mang ảnh hưởng của lễ nghi Nho giáo. - Nghi lễ kết hôn: Hoàng Việt luật lệ không quy định cụ thể các nghi lễ kết hôn như Quốc triều hình luật. Theo Quốc triều hình luật, kết hôn gồm bốn lễ: lễ nghị hôn (nhờ mối lái đi lại bàn bạc), lễ định thân (mang lễ vật vấn danh nhà gái), lễ nạp trưng (mang sính lễ dẫn cưới đến nhà gái), lễ thân nghinh (rước dâu). Những nghi lễ này phản ánh rõ nét phong tục tập quán của người Việt Nam thời kỳ bấy giờ và vẫn còn ảnh hưởng tới ngày nay. Có thể thấy, cả hai bộ cổ luật đều mang nhiều giá trị đối với pháp luật đương đại. Quốc triều hình luật so với Hoàng Việt luật lệ chưa có tính khái quát và phân ngành rõ ràng. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ người phụ nữ trong pháp luật nhà Lê được coi trọng hơn so với luật nhà Nguyễn. Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết: "bao nhiêu sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong Luật nhà Nguyễn. Không còn những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư, đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng" [31].
  • 33. 33 Các quy định về HN&GĐ trong hai bộ luật này tuy còn hạn chế nhưng đủ để minh chứng rằng nhà nước phong kiến Việt Nam ở thời kì này rất coi trọng vấn đề hôn nhân. Nền tảng của việc quy định chế định kết hôn chính là phong tục, tập quán, đạo đức Nho giáo với mục đích xây dựng gia đình gia trưởng theo chế độ phụ quyền. 1.4.2. Chế định kết hôn trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc Sau ngày 25/8/1883, ngày triều đình Huế ký kết với thực dân Pháp "Hiệp định hòa bình" thì Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến đặt dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp chia nước ta thành ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ở mỗi miền áp dụng Bộ luật dân sự (BLDS) riêng, trong đó có quy định điều chỉnh các quan hệ về HN&GĐ: Tại Bắc Kỳ có Bộ dân luật Bắc Kỳ, tại Trung Kỳ có BLSDTK, tại Nam Kỳ có Bộ dân luật giản yếu. Những quy định về kết hôn nằm rải rác trong các điều luật khác nhau, chưa được xây dựng thành chế định riêng và đều chịu ảnh hưởng của pháp luật Pháp. Các quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân đều là chế định của luật dân sự. Về nội dung, Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ đều phản ánh phong tục, tập quán truyền thống của Việt Nam về HN&GĐ. Riêng Bộ dân luật giản yếu chịu nhiều ảnh hưởng của BLDS Pháp năm 1804 nên có nhiều điểm cách tân theo quan niệm của các nhà làm luật phương Tây. Ba văn bản này có một số nội dung cơ bản sau: * Về điều kiện kết hôn: Trong Bộ dân luật giản yếu quy định "con trai 16 tuổi, con gái 14 tuổi" được phép kết hôn [5, tr. 13]; Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ quy định độ tuổi để hai bên nam nữ được phép kết hôn cao hơn là "nam tròn 18 tuổi, nữ tròn 15 tuổi" (Điều 73). Tuy nhiên có trường hợp ngoại lệ: khi có lý do chính đáng thì quan tỉnh có thể đặc cách cho phép nam tròn 15 tuổi, nữ tròn 12 tuổi kết hôn (Điều 75 Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ). Điều này đã phản ảnh xu thế phát triển các quy định về
  • 34. 34 điều kiện kết hôn trong pháp luật theo ảnh hưởng của các nước phương Tây. Vì cho đến thời điểm đó, các nước phương Tây đều coi độ tuổi là một điều kiện bắt buộc để hôn nhân có hiệu lực. Như vậy, sự khác biệt trong quy định độ tuổi được phép kết hôn gây ra tình trạng không thống nhất trong cả nước dẫn đến việc áp dụng gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, việc quy định độ tuổi kết hôn trong các bộ luật này cho thấy thời kỳ này chưa quan tâm đến vấn đề người chưa thành niên kết hôn và hậu quả pháp lý của vấn đề này. Đồng thời Điều 76 Bộ dân luật Bắc Kỳ quy định: "Kết hôn tất phải cả hai bên nam nữ bằng lòng nhau mới được" [4]. Tuy nhiên, bên cạnh sự bằng lòng của hai bên thì sự ưng thuận của cha, mẹ, người thân thích hay người đỡ đầu vẫn là yếu tố cần thiết đảm bảo cho cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý. Điều 77 Bộ dân luật Bắc Kỳ ghi nhận: "Phàm con cái đã thành niên hay chưa thành niên, không khi nào không có cha mẹ bằng lòng mà kết hôn được" [4]. Nếu thiếu sự đồng ý của cha mẹ, việc kết hôn sẽ bị xử tiêu hôn khi cha mẹ yêu cầu. Như vậy, pháp luật thời kỳ này vẫn duy trì chế độ hôn nhân cưỡng ép phụ thuộc vào cha mẹ hoặc các bậc thân trưởng trong gia đình. Tuy nhiên, việc ghi nhận một phần ý chí tự nguyện của các bên nam nữ trong việc xác lập hôn nhân thể hiện sự tiến bộ so với pháp luật thời Lê và thời Nguyễn, là sự khác biệt về tư duy của các nhà làm luật so với trước. * Về các trường hợp cấm kết hôn: Về cơ bản, các trường hợp cấm kết hôn trong cả ba BLDS thời Pháp thuộc đều có những điểm tương đồng, thể hiện việc chuyển tiếp những giá trị truyền thống từ pháp luật thời kỳ phong kiến như: Cấm kết hôn trong thời kỳ cư tang - khi có tang cha mẹ hoặc tang chồng là 27 tháng, tang vợ là 12 tháng (Điều 84 Bộ dân luật Bắc Kỳ). Không được lấy người khác làm vợ nếu việc kết hôn hiện hữu với người vợ chính chưa được giải tiêu; nếu người vợ chính chết thì người chồng chỉ được lấy vợ khác khi đã hết tang vợ chính (01 năm). Đàn bà góa phải để
  • 35. 35 tang chồng 27 tháng mới được tái giá, sau khi ly dị 10 tháng, người vợ mới được kết hôn với người khác. Pháp luật thời kỳ này thừa nhận chế độ đa thê. Vì quyền lợi của gia đình, duy trì sự trường tồn thịnh vượng của gia đình nên pháp luật thời kì này khuyến khích chế độ đa thê để gia đình có nhiều con cháu. Người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, gồm chính thất (vợ cả) và thứ thất (vợ lẽ) Điều 79 Bộ dân luật Bắc Kỳ quy định: "Có hai cách giá thú hợp pháp: Giá thú về chính thất và giá thú về thứ thất" và Điều 80 quy định: "chưa lấy vợ chính thì không được lấy vợ thứ" [4]. Trật tự thê, thiếp không thể thay đổi, đảo lộn được. Điều này được bảo vệ cả bằng phong tục tập quán và pháp luật. Những quy định này thể hiện sự phân biệt địa vị, bất bình đẳng giữa nam và nữ. Về cấm kết hôn giữa những người thân thích, Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ chỉ cấm kết hôn giữa chị dâu với em chồng, giữa em dâu với anh chồng, còn cho phép người đàn ông được lấy em vợ hay chị vợ "cấm lấy người thân thuộc trực hệ và một số người thuộc bàng hệ (anh, chị, em cùng cha mẹ; cùng cha khác mẹ; cùng mẹ khác cha, chị dâu, em dâu, anh chồng, em chồng..." [4, Điều 74]. Điều này thể hiện rõ quan niệm "nội thân, ngoại thích" của người Việt Nam. Người đàn bà lấy chồng thuộc về nhà chồng nhưng người đàn ông lấy vợ thì không thuộc về nhà vợ, khi vợ chết thì không còn mối liên hệ nào với chị em nhà vợ. Bộ dân luật giản yếu quy định cởi mở hơn trong việc cấm kết hôn đối với những người thuộc bàng hệ. Bộ dân luật giản yếu cấm kết hôn giữa anh, chị, em cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha; giữa anh, chị, em họ đến bậc thứ sáu; giữa cháu gái với chú, bác hay cậu hoặc giữa cháu trai với cô hay dì. Như vậy, theo Bộ dân luật giản yếu thì giữa chị dâu và em chồng, em dâu với anh chồng không bị cấm kết hôn. Có thể nói, so với các quy định cấm kết hôn trong pháp luật thời kì phong kiến, phạm vi cấm kết hôn ở cả ba bộ luật thời Pháp thuộc đều được thu hẹp hơn.
  • 36. 36 * Về nghi lễ kết hôn: pháp luật thời kì này ở cả ba miền đều đặt ra điều kiện về mặt hình thức để hôn nhân có giá trị như pháp luật thời nhà Lê và nhà Nguyễn. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này có một số điểm mới sau: - Bộ dân luật Bắc Kỳ quy định: "Việc kết hôn phải được khai với chính quyền (hộ lại) mới có giá trị" [4, Điều 69]. - Bộ dân luật Trung Kỳ quy định: nghi lễ kết hôn gồm ước hôn (lễ hỏi) và kết hôn (hôn lễ). Trước hôn lễ phải thi hành thủ tục công bố trong thời hạn tám ngày tại nơi cư trú của nam và nữ và đăng ký vào nhân thế bộ địa phương. Hiện nay, theo phong tục, tập quán Việt Nam, một lễ cưới đầy đủ theo truyền thống cũng cần có lễ hỏi và hôn lễ. Nhìn chung, các quy định của ba bộ luật này đã có những quy định theo hướng tiến bộ hơn so với thời kỳ trước như thu hẹp phạm vi cấm kết hôn, thừa nhận sự bằng lòng của hai bên nam, nữ khi kết hôn... Tuy nhiên, chế độ HN&GĐ thời kỳ này là công cụ pháp lý của nhà nước thực dân phong kiến nhằm củng cố và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến và thực dân. Đồng thời, ba bộ luật này đều được xây dựng dựa trên BLDS Napoleon năm 1804 của Pháp, chính vì vậy khi áp dụng vào Việt Nam có nhiều điểm chưa phù hợp. 1.4.3. Chế định kết hôn trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngay khi ra đời, Nhà nước ta đã rất quan tâm và coi trọng việc soạn thảo, xây dựng một hệ thống pháp luật, củng cố và bảo vệ thành quả của Cách mạng. Từ đó đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về HN&GĐ, phù hợp với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống pháp luật HN&GĐ cũng dần được hoàn chỉnh. * Chế định kết hôn trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (từ 1945-1954) Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta.
  • 37. 37 Hiến pháp đã ghi nhận quyền bình đẳng của nam và nữ về mọi mặt. Đó là cơ sở pháp lý vô cùng quan trọng để xây dựng chế độ HN&GĐ mới dân chủ và tiến bộ. Năm 1950, Nhà nước ta đã ban hành hai sắc lệnh đầu tiên về HN&GĐ. Sắc lệnh số 90-SL ngày 10/10/1945 cho phép vận dụng những quy định trong pháp luật cũ một cách có chọn lọc theo nguyên tắc không đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, của Nhà nước; Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật, trong đó có quy định về kết hôn như: Cho phép người con đã thành niên lấy vợ, lấy chồng không cần phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc của các bậc tôn trưởng trong gia đình (Điều 2); Xóa bỏ việc cấm kết hôn trong thời kỳ có tang (Điều 3)… Những quy định trên đã góp phần xóa bỏ những quy định lạc hậu của chế độ HN&GĐ phong kiến, góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. * Chế định kết hôn trong giai đoạn cách mạng nước ta thực hiện hai nhiệm vụ: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam (từ 1954-1975). - Ở miền Bắc: Sự ra đời của Luật HN&GĐ năm 1959 (còn gọi là đạo luật số 13 về HN&GĐ) - đạo luật đầu tiên về HN&GĐ trong lịch sử pháp luật của Việt Nam như một bước tiến mới làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của quan hệ pháp luật này. Luật HN&GĐ năm 1959 trên tinh thần kế thừa hai Sắc lệnh trên, có nhiệm vụ xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến và xây dựng chế độ HN&GĐ mới xã hội chủ nghĩa. Luật gồm 6 chương và 35 điều. Các quy định về vấn đề kết hôn được quy định tại Chương II, gồm 8 điều từ Điều 4 đến Điều 11 [39]. Một số điểm tiến bộ của Luật HN&GĐ năm 1959 so với thời kỳ trước thể hiện tại các điều sau: + Về tự nguyện kết hôn: điều kiện này được quy định tại điều đầu tiên của Chương II, "Con trai và con gái đến tuổi được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình; không bên nào được ép buộc bên nào, không một
  • 38. 38 ai được cưỡng ép hoặc cản trở" [39, Điều 4]. Quy định này là điểm tiến bộ nổi bật của Luật so với những quy định trước. Nếu như trước đây, có văn bản đề cập đến sự tự nguyện của hai bên nhưng vẫn còn bị ràng buộc bởi sự đồng ý của cha mẹ, thì tại Điều 4 này, lần đầu tiên sự tự nguyện được nâng lên thành nguyên tắc cơ bản trong vấn đề kết hôn của hai bên nam nữ, tức là thừa nhận tuyệt đối sự tự nguyện khi kết hôn của hai bên mà không bị chi phối bởi ý kiến của bất kì ai. + Về độ tuổi kết hôn: Điều 6 Luật HN&GĐ năm 1959 quy định "Con gái từ 18 tuổi trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn" [39]. So với các quy định trước đây, độ tuổi được phép kết hôn trong Luật này được nâng lên, phản ảnh nhận thức mới về sự phát triển tâm sinh lý của con người trong nhận thức của các nhà làm luật. + Về các trường hợp cấm kết hôn: Luật HN&GĐ năm 1959 quy định: "Việc để tang không cản trở việc kết hôn" [39, Điều 7] và "Đàn bà góa có quyền tái giá" [39, Điều 8]. Những quy định này đã xóa bỏ các điều luật không còn phù hợp trước đây, giải phóng người phụ nữ khỏi tư tưởng phong kiến lạc hậu. Luật HN&GĐ năm 1959 quy định cấm kết hôn trong các trường hợp: "Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác" [39, Điều 5]. Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Cấm kết hôn giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Đối với những người khác có họ trong phạm vi năm đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ, thì việc kết hôn sẽ giải quyết theo phong tục tập quán [39, Điều 9]. Đồng thời quy định: "Những người sau đây không được kết hôn: bất lực hoàn toàn về sinh lý, mắc một trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc mà chưa chữa khỏi" [39, Điều 9].
  • 39. 39 + Về hình thức kết hôn: Luật HN&GĐ năm 1959 quy định rõ "Việc kết hôn phải được Ủy ban hành chính cơ sở nơi cư trú quán của bên người con trai hoặc người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp luật" [39, Điều 11]. Đây là điểm mới của Luật so với thời kỳ trước, thể hiện quan điểm về việc hôn nhân có giá trị pháp lý là hôn nhân phải được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước công nhận. Với nhiều điểm tiến bộ như trên, Luật HN&GĐ năm 1959 đã khẳng định bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ pháp lý của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. - Ở miền Nam: Chế độ HN&GĐ được điều chỉnh bởi ba văn bản: Bộ luật gia đình ngày 02/01/1959 (Luật số 1/59) dưới chế độ Ngô Đình Diệm, Sắc luật 15/64 đã thay thế Bộ luật gia đình và Bộ dân luật Sài Gòn dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Các văn bản pháp luật này là công cụ pháp lý của chế độ thực dân mới phản động, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Các văn bản này đã xóa bỏ chế độ đa thê song vẫn thể hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa nam và nữ. + Về độ tuổi kết hôn: các văn bản này đều quy định rõ độ tuổi kết hôn của nam, nữ "con gái 16 tuổi, con trai 18 tuổi" [6, Điều 104], [27, Điều 10], Tuy nhiên, Điều 104 Bộ dân luật Sài Gòn cũng quy định ngoại lệ "nếu có lý do trọng đại, nguyên thủ quốc gia có thể đặc cách cho miễn tuổi" [6]. Ngoài ra, việc kết hôn ngoài yếu tố đủ độ tuổi còn phải đáp ứng yếu tố về sức khỏe. + Về sự tự nguyện: Tự nguyện kết hôn được các văn bản trên quy định là một trong các điều kiện cần thiết để thiết lập hôn thú. Điều 103 Bộ dân luật Sài Gòn quy định "Sự ưng thuận của hai bên nam nữ là một điều kiện thiết yếu cho sự kết lập hôn thú" [6]. Ngoài ra, Điều 105 Bộ luật này cũng quy định "vị thành niên không thể kết hôn nếu không có sự ưng thuận của cha, mẹ" [6]. Ngoài cha, mẹ thì trong trường hợp "cha mẹ đều mệnh một hoặc ở trong tình trạng không thể phát biểu ý kiến, sự ưng thuận sẽ do ông bà nội hay ông bà ngoại" [6].
  • 40. 40 Có thể thấy, các văn bản pháp luật nêu trên đã ghi nhận sự ưng thuận kết hôn của đôi bên nam nữ và xem đây là một điều kiện thiết yếu khi lập hôn thú. Tuy nhiên, trong trường hợp con "vị thành niên" kết hôn cần phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại. + Về các trường hợp cấm kết hôn: Điều 5 Luật số 1/59 quy định "Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác". Điều 9 Luật này cũng quy định các trường hợp cấm khác như cấm kết hôn giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Đối với những người khác có họ trong phạm vi năm đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ thì việc kết hôn sẽ giải quyết theo phong tục tập quán. Bộ dân luật Sài Gòn quy định về vấn đề cấm kết hôn từ Điều 108 đến Điều 111. Ngay ở Điều 99 đã khẳng định "Luật pháp không chấp nhận chế độ đa thê. Không ai được phép kết hôn nếu hôn thú trước chưa đoạn tiêu" [6]. Ngoài ra, các trường hợp cấm kết hôn khác cũng được ghi nhận cụ thể: Đối với người thân thuộc trong trực hệ, không cứ chính thức hay ngoại hôn và không cứ thứ bậc nào, không thể kết hôn với nhau (Điều 108). Quy định tại Điều 108 thể hiện tinh thần không phân biệt con trong giá thú hay ngoài giá thú, không phân biệt thứ bậc trong trực hệ, những người này đều không được phép kết hôn với nhau. Đối với người trong bàng hệ, Điều 109 quy định hôn thú bị cấm giữa những người sau: Anh chị em (đồng phụ mẫu, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha); chú, bác, cậu, ông chú, ông bác, ông cậu - cháu gái; cô, dì, bà cô, bà dì với cháu trai; Anh chị em con chú, con bác, con cậu, con cô, con dì anh chị em cháu chú, cháu bác. Ngoài ra, Bộ dân luật Sài Gòn còn cấm kết hôn giữa những người phối ngẫu với một người tôn thuộc, hay ti thuộc, trực hệ của người phối ngẫu kia; giữa chị dâu, em dâu với em chồng, anh chồng; giữa bác gái, thím, mợ, bà bác, bà thím, bà mợ - chú chồng; giữa bác, chú, cậu ông chú, ông bác, ông cậu - vợ cháu trai; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi cũng như với ti thuộc trực hệ của người này với người phối ngẫu của
  • 41. 41 con nuôi; giữa những người con nuôi của cùng một người hoặc người con nuôi của người đứng nuôi. (Điều 110, 111 Bộ dân luật Sài Gòn). + Về hình thức kết hôn: điều kiện về hình thức được chính quyền ngụy quyền Sài Gòn quy định rất chặt chẽ. Tại chương thứ III Bộ dân luật Sài Gòn, từ Điều 113 đến Điều 126 quy định hình thức kết hôn rất rõ ràng: Việc kết hôn phải được niêm yết tại công sở nơi trú ngụ thường xuyên... và phải niêm yết trong vòng 10 ngày liên tục (Điều 114). Phải xuất trình bản toàn sao giấy khai sinh được cấp lâu nhất là ba tháng nếu cấp ở Việt Nam và sáu tháng nếu cấp ở ngoại quốc... Có thể thấy việc kết hôn không còn giới hạn trong phạm vi gia đình nữa mà đòi hỏi phải có sự công nhận của chính quyền. Điều này thể hiện sự quản lý ngày càng chặt chẽ của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này ở miền Nam vẫn duy trì một số quy định cấm kết hôn đối với người vợ như: cấm người vợ kết hôn khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật chưa được 300 ngày. Điều đó có nghĩa là người vợ phải chờ đợi 300 ngày sau khi hôn nhân trước chấm dứt mới được quyền kết hôn với người khác, trừ trường hợp chứng minh rằng mình không có thai khi chồng chết hoặc khi ly hôn với chồng. Quy định này nhằm để tránh sự nhầm lẫn trong việc xác định quan hệ cha con. Những văn bản pháp luật này quy định phạm vi cấm kết hôn giữa những người thân thuộc khá rộng (phạm vi năm đời)... Như vậy, dù đã có những điểm tiến bộ như ghi nhận sự tự nguyện kết hôn, thừa nhận chế độ một vợ một chồng song nhìn chung hệ thống các văn bản thời kỳ này vẫn thể hiện những nguyên tắc bất bình đẳng giữa nam và nữ, bảo vệ quyền gia trưởng trong gia đình. * Luật HN&GĐ trong giai đoạn thống nhất đất nước, cả nước bước vào chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến nay). - Luật HN&GĐ năm 1986 được Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ 12 thông qua ngày 29/12/1986 có hiệu lực thi hành từ ngày 03/01/1987. Chế định
  • 42. 42 kết hôn được quy định tại chương 2 từ Điều 5 đến Điều 9. So với Luật HN&GĐ năm 1959 thì Luật HN&GĐ năm 1986 có nhiều điểm mới phù hợp hơn. Trong Luật HN&GĐ năm 1959, chế định kết hôn tuy đã được xây dựng thành một chế định nhưng các quy định còn đơn giản. Luật HN&GĐ năm 1986 trên cơ sở kế thừa Luật HN&GĐ năm 1959 các quy định về vấn đề kết hôn sắp xếp trong một chế định theo hướng chặt chẽ hơn, hoàn thiện hơn. + Về độ tuổi kết hôn: Luật HN&GĐ năm 1986 quy định độ tuổi tối thiểu để hai bên nam nữ đủ điều kiện kết hôn là "nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên" [40, Điều 5]. Quy định này là sự kế thừa của Luật HN&GĐ năm 1959. + Về sự tự nguyện kết hôn: Luật HN&GĐ năm 1986 kế thừa quy định của Luật năm 1959 ghi nhận nguyên tắc kết hôn tự nguyện, không bên nào được ép buộc, cản trở hay lừa dối bên nào. Đây cũng được xem là cơ sở để quy định nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng (Điều 6). + Về các trường hợp cấm kết hôn: Điều 7 quy định rõ các trường hợp sau thì bị cấm kết hôn: a) Đang có vợ hoặc có chồng; b) Đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình, đang mắc bệnh hoa liễu; c) Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời; d) Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi [40]. Như vậy so với Luật HN&GĐ năm 1959, các điều cấm kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 1986 đã được quy định tập hợp trong một điều luật. Phạm vi cấm kết hôn cũng được thu hẹp hơn. Theo đó, về điều kiện kết hôn liên quan đến thể chất của người kết hôn, Luật HN&GĐ năm 1986 chỉ cấm kết hôn đối với người đang mắc bệnh tâm thần, không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình và người mắc bệnh hoa liễu. Người bị bất lực hoàn toàn về sinh lý hay mắc bệnh hủi không bị cấm kết hôn. Thêm vào đó, việc
  • 43. 43 cấm kết hôn giữa người có họ trong phạm vi 3 đời. Bên cạnh đó, Điều 4 Luật HN&GĐ năm 1986 còn quy định: Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi...Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. + Về hình thức kết hôn: Điều 8 Luật HN&GĐ năm 1986 quy định rõ: Việc kết hôn do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý [40]. Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời đã đáp ứng được vai trò lịch sử trong thời kì đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Luật đã kế thừa những nguyên tắc dân chủ của Luật HN&GĐ năm 1959, những truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Đồng thời Luật có những bước phát triển hơn điều chỉnh quan hệ xã hội về HN&GĐ, trong đó có quy định về kết hôn của hai bên nam nữ. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thi hành, Luật HN&GĐ năm 1986 đã bộc lộ nhiều điểm yếu trước những biến đổi của xã hội như: vẫn còn tồn tại trường hợp tảo hôn, kết hôn không đăng ký, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng...Tình hình này đòi hỏi Nhà nước cần phải sửa đổi một cách toàn diện Luật HN&GĐ. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 1992 được ban hành, thay thế các điều 30, 35, 40, 58, 63 và 64 so với Hiến pháp năm 1980, là cơ sở pháp lý quan trọng cho Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời. Luật HN&GĐ năm 2000 được Quốc hội thông qua ngày 09/6/2000 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2001. Luật gồm 13 chương, 110 điều. Khác với Luật HN&GĐ trước đó, Luật HN&GĐ năm 2000 được xây dựng hoàn thiện hơn, đáp ứng được yêu cầu của tình hình cách mạng mới. Chế định kết hôn được quy định tại Chương 2, từ Điều 9 đến Điều 17 của Luật HN&GĐ
  • 44. 44 năm 2000. Chế định kết hôn được sửa đổi, bổ sung thêm một số quy định mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn như: trường hợp cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, giữa những người đã từng có quan hệ nuôi dưỡng như cha mẹ nuôi với con nuôi, bố dượng và con riêng của vợ, giữa mẹ kế với con riêng của chồng… (Điều 10); không công nhận quan hệ hôn nhân đối với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (Điều 11). Thực thi Luật HN&GĐ năm 2000, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn. Những văn bản này đã đóng vai trò tích cực, bảo đảm tính cụ thể và khả thi của các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 trong cuộc sống, bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, từ đó quyền, nghĩa vụ của người dân về HN&GĐ được thực hiện, bảo vệ tốt hơn. Như vậy, trong từng thời kỳ, để phù hợp với sự nghiệp cách mạng của đất nước, phù hợp với tình hình phát triển của các điều kiện kinh tế, xã hội và thực tế các quan hệ HN&GĐ, Nhà nước ta đã kịp thời ban hành các văn bản pháp luật về HN&GĐ, trong đó có các quy định về kết hôn. Quy định pháp luật về chế định kết hôn dần được hoàn thiện, là công cụ pháp lý của Nhà nước ta, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân lao động. Qua quá trình tìm hiểu hệ thống pháp luật Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử cho thấy các quy định về chế định kết hôn ngày càng được xây dựng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với sự phát triển của các quan hệ xã hội trên cơ sở phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của gia đình Việt Nam, tiếp thu các thành tựu nghiên cứu khoa học để quy định các điều kiện kết hôn một cách khoa học và phù hợp, đáp ứng được nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội.