SlideShare a Scribd company logo
1 of 99
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
NĂM 2000 - VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Nhận Viết Thuê Luận Văn
Điểm Cao – Chất Lượng
Uy Tín – Đúng Hẹn
Zalo trao đổi : 0932.091.562
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan dưới đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Thị Lan Anh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN
TRÁI PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...............................8
1.1. Khái quát chung về kết hôn, kết hôn trái pháp luật và vấn đề
điều chỉnh pháp luật ................................................................................8
1.1.1 Khái niệm kết hôn, điều kiện kết hôn.............................................8
1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật ...................................................14
1.1.3. Khái niệm hủy việc kết hôn trái pháp luật......................................16
1.2. Điều chỉnh pháp luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật ở Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử....................................................................18
1.2.1. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong cổ luật
Việt Nam..............................................................................................18
1.2.2. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật thời kỳ
Pháp thuộc ...........................................................................................20
1.2.3. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn
từ năm 1945 đến năm 1975....................................................................22
1.2.4. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn
từ năm 1975 đến nay .............................................................................28
Chƣơng 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT...............................................32
2.1. Nguyên tắc xử lý đối với hủy việc kết hôn trái pháp luật..................32
2.2. Ngƣời có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật........................... 34
2.2.1. Bên bị cƣỡng ép, bị lừa dốikết hôn...............................................36
2.2.2. Viện kiểm sát ..............................................................................37
2.2.3. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ...............37
2.2.4. Vợ, chồng, cha, mẹ, con cái của các bên kết hôn...........................39
2.3.Thẩm quyềncủa Tòa án và thủ tục huỷ việckếthôntrái pháp luật............................ 41
2.4. Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật và đƣờng lối giải quyết đối vớicác
trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật................................................................................... 44
2.4.1. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn..........................44
2.4.2. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện.............................51
2.4.3. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm các trƣờng hợp cấm kết hôn.......55
2.5. Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật.......................75
2.5.1. Quan hệ nhân thân .......................................................................75
2.5.2. Quan hệ cha, mẹ và con...............................................................76
2.5.3. Quan hệ tài sản............................................................................77
Chƣơng 3. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI
PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI
PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠNHIỆN NAY..................................80
3.1. Thực tiễn giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp luật trong 05 năm gần đây
(2009 - 2013)...................................................................................................................80
3.2. Phƣơng hƣớng cơ bản để hoàn thiện pháp luật về hủy kết hôn trái pháp luật .... 85
3.2.1. Nhu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật.........................85
3.2.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về huỷ việc kết hôn trái
pháp luật...............................................................................................87
3.3. Một số giải pháp cơ bản hoàn thiện quy định về hủy kết hôn trái
pháp luật.................................................................................................98
KẾT LUẬN..................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................93
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nƣớc bảo hộ hôn nhân và gia
đình” [22, Khoản 2 Điều 36]. Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế
bào của xã hội. "Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng
tốt"[19]. Từ ý nghĩa sâu sắc đó Nhà nƣớc ta rất quan tâm đến việc xây dựng
các chuẩn mực để tạo nên gia đình văn hoá, tiến bộ mang đậm bản sắc văn
hoá truyền thống dân tộc. Mục tiêu này đã đƣợc luật hoá trong các văn bản
pháp luật nói chung, đặc biệt là trong pháp luật Hôn nhân và gia đình. Luật
Hôn nhân và gia đình đã tạo hành lang pháp lý để điều chỉnh các quan hệ hôn
nhân và gia đình phát triển theo đúng hƣớng mà Nhà nƣớc đã đề ra. Kết hônlà
bƣớc khởi đầu để hình thành nên gia đình, vì vậy việc quy định các điều kiện
kết hôn là yêu cầu tất yếu của xã hội. Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tố
kinh tế, chính trị, xã hội, việc không tuân thủ các điều kiện kết hôn vẫn đang
diễn ra hàng ngày trong đời sống gây nên hiện tƣợng kết hôn trái pháp luật.
Các trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật đã có những tác động tiêu cực đếncác
mặt của xã hội, ảnh hƣởng tới đạo đức, nhân cách, lối sống của con ngƣời,
phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hƣởng tới quyền và lợi íchhợp pháp
của công dân, ảnh hƣởng tới sức khoẻ và việc duy trì nòi giống của dân tộc.
Vì vậy, Nhà nƣớc ta đã điều chỉnh hiện tƣợng này bằng chế tài Huỷviệc kết
hôn trái pháp luật. Là chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình nên hậu quả của
huỷ việc kết hôn trái pháp luật là rất nặng nề, ảnh hƣởng tới cuộc sống của
chủ thể kết hôn, tới quyền lợi cuả con cái họ, quyền lợi của mọi ngƣời và ảnh
hƣởng tới trật tự xã hội. Do đó, nghiên cứu về vấn đề huỷ việc kết hôn trái
pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình là vô cùng cần thiết. Không chỉ
nhằm giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật đƣợc hiệu quả, mà quan trọng
hơn đó là hoàn thiện hơn nữa chế tài này. Có nhƣ vậy ý nghĩa của
2
chế tài mới đƣợc phát huy, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm
bảo trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, dù là chế tài đã đƣợc quy định rất có hệ
thống, nhƣng thực tiễn xét xử cho thấy có rất ít trƣờng hợp hủy việc kết hôn
trái pháp luật. Thực trạng này phản ánh tính đặc thù của thi hành và áp dụng
pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung, áp dụng các quy định về hủy
việc kết hôn trái pháp luật nói riêng. Nhằm làm rõ hơn một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của hủy việc việc kết hôn trái pháp luật, qua đó đề xuất những
luận cứ cho việc hoàn thiện pháp luật về hôn nhân và gia đình mà cụ thể là
chế định hủy việc kết hôn trái pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài “Hủy việc kết
hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000-
Vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Huỷ việc kết hôn trái pháp luật là một vấn đề cần đƣợc quan tâm trong
thực tiễn cuộc sống và trong hệ thống pháp luật. Bởi ngoài việc xử lý kịp thời
các hành vi vi phạm thì đây còn là biện pháp răn đe, giáo dục, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của mọi công dân, bảo đảm tính hiệu quả của pháp
luật. Do vậy, trong thời gian qua cũng đã có một số công trình nghiên cứu về
vấn đề này. Đã có một số bài viết mang tính chất nghiên cứu một số nội dung
của vấn đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật đƣợc đăng tải trên tạp chí Luật học,
Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật… kể cả một số luận văn thạc sĩ và luận văn tiến
sĩ luật học nghiên cứuliên quan. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu chủ
yếu nhƣ: Hủy kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, Khóa luận tốt nghiệp của Phạm Thị Thu, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội,
năm 2002. Khóa luận này chỉ trình bày vấn đề mang tính chất khái quát về hủy
việc kết hôn trái pháp luật mà không đi sâu phân tích vấn đề lý luận và thực
tiễn. Hay nhƣ: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật
trong tình hình xã hội hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2012 của Nguyễn Huyền Trang. Ở luận văn này, tác giả
3
đánh giá thực trạng của việc kết hôn trái pháp luật nhƣng chỉ đề cập mang tính
sơ lƣợc về vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật. Một số các bài báo, tạp chí
chuyên ngành luật đƣợc đăng tải trên các Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí
Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí
Luật học… cũng đã có đề cập tới vấn đề này, tuy nhiên chỉ dừng lại một khía
cạnh nào đó. Ví dụ nhƣ "Bàn về huỷ kết hôn trái pháp luật" của tác giả Thái
CôngKhanh trên Tạp chí Toà ánnhân dân số 4, tháng 2/2007; "Có thể tuyên bố
huỷ việc kết hôn trái pháp luật khi một bên kết hôn chết" của tác giả Trần
Thiện Hoàng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 14, tháng 7/2011; "Nên cấm kết
hôn giữa những người có họ trong phạm vi mấy đời?" của tác giả Ngô Cƣờng
trên Tạp chí Toà án nhân dân số 7, tháng 4/2013; "Thẩm quyền giải quyết yêu
cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật thuộc Toà án nào?" của tác giả Nguyễn
Thị Hƣơng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 20 tháng 10/2009; "Giải quyết
việc kết hôn trái pháp luật như thế nào trong vụ án thừa kế" của tác giả
Nguyễn Thị Hạnh trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23 tháng 12/2011; "Kết
hôn - hậu quả pháp lý theo Luật Hôn nhân và gia đình" của tác giả Nguyễn
Quang Hiền trên Tạp chí Toà án nhân dân số 10, tháng 5/2013; "Hoàn thiện
quy định về các điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000" cuả tác giả TS. Nguyễn Văn Cừ trên Tạp chí Toà án nhân dân số
24, tháng 12/2013…
Nhƣ vậy, có thể nhận thấy mỗi công trình nghiên cứu là sự khai thác
khác nhau, nhìn nhận vấn đề dƣới các góc độ khác nhau. Với công trình của
mình, tác giả tiếp cận vấn đề một cách tổng quan và đi sâu phân tích về lý
luận cũng nhƣ thực tiễn của huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Do đó, công trình
sẽ không phải là sự lặp lại của bất kỳ công trình nào trƣớc đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ khái niệm huỷ
việc kết hôn trái pháp luật, căn cứ và đƣờng lối giải quyết huỷ việc kết hôn
4
trái pháp luật. Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cũng nhƣ
các quy định pháp lý về vấn đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Đồng thời,
phân tích, đánh giá, nhìn nhận thực trạng và xu hƣớng phát triển các quyđịnh
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trên cơ sở đó đƣa ra các giải pháp,
kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật của Nhà nƣớc về vấn
đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết
đƣợc những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về huỷ việc kết hôn trái pháp luật
nhƣ: Quan niệm kết hôn, điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp luật; huỷ việc
kết hôn trái pháp luật;
- Nghiên cứu vấn đề điều chỉnh pháp luật trong việc huỷ việc kết hôn
trái pháp luật nhƣ: nguyên tắc huỷ việc kết hôn trái pháp luật; các quy định về
ngƣời có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật; các căn cứ huỷ việc
kết hôn trái pháp luật; đƣờng lối giải quyết; hậu quả pháp lý của huỷ việc kết
hôn trái pháp luật.
- Đánh giá chung thực tiễn giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật trong
giai đoạn hiện nay, trên cơ sở làm rõ nhu cầu và phƣơng hƣớng hoàn thiện
pháp luật hôn nhân và gia đình về huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Qua đó kiến
nghị và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là các quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình 2000; văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam qua
các thời kỳ; thực tiễn áp dụng pháp luật trong huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong pháp luật hôn nhân và gia đình,
vấn đề huỷ việc kết hôn tráipháp luật có thể đƣợc nghiên cứu dƣớinhiều góc độ
khác nhau. Tuy nhiên, với tên đề tài: Huỷviệckếthôn trái pháp luật theo Luật
Hôn nhân và gia đìnhViệtNam năm 2000- Vấn đề lý luậnvà thực tiễn, luận
5
văn sẽchủyếu đềcập đến các vấn đề lý luận xung quanh khái niệm huỷ việc kết
hôn trái pháp luật; những quy định về huỷ việc kết hôn trái pháp luật trong Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cũng nhƣ thực tiễn giải quyết huỷ
việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, từ đó tìm ra
những bất cập và đƣa ra các phƣơng hƣớng giải quyết.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Cũng nhƣ mọi công trình khoa học khác phƣơng pháp luận sử dụng
trong việc nghiên cứu đề tài là phƣơng pháp biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp bổ trợ
nhƣ phƣơng pháp so sánh, tổng hợp, đối chiếu, lịch sử để nhằm đánh giá vấn
đề một cách khách quan, toàn diện nhất. Trên cơ sở phƣơng pháp phân tích,
tổng hợp, đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh vấn
đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật, đặc biệt đánh giá, phân tích về thực trạng
pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề này, để rút ra những ƣu điểm, tồn tại
trong việc thi hành pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
6. Những điểm mới của luận văn
So với những công trình nghiên cứu về hủy việc kết hôn trái pháp luật
trƣớc đây, luận văn có những điểm mới nhƣ sau:
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật của quy định hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000.
- Luận văn nêu ra những hạn chế, vƣớng mắc trong quá trình thực
hiện áp dụng pháp luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000.
- Luận văn đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hủy việc
kết hôn trái pháp luật.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6
Với tƣ cách là một công trình khoa học nghiên cứu về vấn đềhủy việc
kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000,
kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ mang lại những đóng góp về mặt khoa học
và thực tiễn.
* Ý nghĩa khoa học
- Luận văn phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000.
- Luận văn là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này
về vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật
- Luận văn chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập và kiến nghị hƣớng hoàn
thiện về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000. Những ý kiến này có thể đƣợc sử dụng tham khảo trong quá trình sửa
đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình trong thời gian sắp tới.
* Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn, luận văn đã chỉ
ra những vƣớng mắc, bất cập của vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đồng thời luận văn còn chỉ rõ sự cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Những ý kiến về phƣơng hƣớng
hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình trong luận văn có thể góp phần quan
trọng trong thực tiễn thực hiện và áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1:Một số vấn đề lý luận về huỷ việc kết hôn trái pháp luật
theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2:Nội dung pháp luật Việt Nam hiện hành về huỷ việc kết
7
hôn trái pháp luật.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết, phƣơng hƣớng và giải pháp tăng
cƣờng hiệu quả điều chỉnh pháp luật về huỷ việc kết hôn trái pháp luật ở Việt
Nam hiện nay.
8
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI
PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT HÔN, KẾT HÔN TRÁI PHÁP
LUẬT VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT.
1.1.1 Khái niệm kết hôn, điều kiện kết hôn.
Sự kết hợp giữa ngƣời đàn ông và đàn bà là quy luật của tự nhiên.
Trong lịch sử phát triển của loài ngƣời, từ thời kỳ sơ khai, khái niệm kết hôn
chƣa hình thành, quan hệ giữa đàn ông và đàn bà là quan hệ tính giao bừa bãi,
nhằm thỏa mãn nhu cầu bản năng và duy trì nòi giống. Khi con ngƣời thoát
khỏi thời kỳ đồ đá, con ngƣời đã biết tổ chức cuộc sống dƣới hình thức thị
tộc, bộ lạc. Mỗi thị tộc, bộ lạc tự đặt ra các quy tắc nhằm điều chỉnh các mối
quan hệ trong tổ chức của mình và phù hợp với tổ chức chung của cộng đồng.
Khi đó, quan hệ giữa ngƣời đàn ông và đàn bà không chỉ mang tính bản năng
mà còn mang tính xã hội. Quan hệ đó chịu sự điều chỉnh bởi các tục lệ của thị
tộc, bộ lạc và hình thành trên cơ sở huyết thống. Khái niệm kết hôn đơn giản
chỉ là sự kết hợp rất tự nhiên của hai chủ thể nam - nữ, đƣợc xác lập trên cơ
sở chung sống thực tế. Việc kết hôn đƣợc coi là hợp pháp khi nó tuân thủ các
quy tắc đã đặt ra và đƣợc cả cộng đồng thừa nhận, cho phép.
Cùng với sự phát triển của kinh tế và sự xuất hiện chế độ tƣ hữu dẫn
đến sự ra đời của Nhà nƣớc, pháp luật đƣợc ban hành và trở thành công cụ
của giai cấp thống trị để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mỗi một giai đoạn
lịch sử, giai cấp thống trị điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật kết
hợp với phong tục tập quán, các quy định tôn giáo cho phù hợp với ý chí của
giai cấp mình nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp và nhằm ổn định trật tự
xã hội nói chung. Các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật điều chỉnh phát triển
thành các quan hệ pháp luật. Các quy tắc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và
9
gia đình do nhà nƣớc ban hành hoặc thể chế hóa trở thành pháp luật hôn nhân
và gia đình. Thông qua Nhà nƣớc và pháp luật giai cấp thống trị tác động vào
các quan hệ hôn nhân gia đình làm cho những quan hệ này phát sinh, thay đổi
và chấm dứt phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Khi đó sự kết hợp giữa
ngƣời nam và ngƣời nữ đƣợc điều chỉnh bởi pháp luật và khái niệm kết hôn
dƣới góc độ pháp lý đƣợc hình thành.
Dƣới góc độ pháp luật, kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ
vợ chồng và theo nghi thức đƣợc pháp luật quy định. Việc nam nữ xác lập
quan hệ vợ chồng phải đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận mới đƣợc coi là kết hôn hợp
pháp. Kết hôn là điểm khởi đầu, là cánh cửa mở ra cuộc sống hôn nhân. Kết
hôn làm xác lập quan hệ hôn nhân, là cơ sở để hình thành gia đình. Từ sự kiện
kết hôn sẽ làm phát sinh quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ - chồng. Cũng
từ sự kiện kết hôn giữa hai ngƣời khác giới sẽ hình thành một gia đình với
nhiệm vụ thực hiện đầy đủ các chức năng đối với xã hội, đó là chức năng sinh
sản; chức năng giáo dục và chức năng kinh tế.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của sự kiện kết hôn, pháp luật nƣớc ta
đã có những quy định chặt chẽ về điều kiện để việc kết hôn đƣợc coi là hợp
pháp và đƣợc Nhà nƣớc công nhận, bảo hộ. Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định: “Kết hôn là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo
quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”[19]. Nhƣ
vậy, pháp luật nƣớc ta quy định kết hôn hợp pháp phải thỏa mãn hai điều
kiện.
Thứ nhất, chủ thể kết hôn phải thể hiện ý chí là mong muốn đƣợc kết
hôn với nhau. Việc kết hôn, trƣớc tiên phải là sự thể hiện ý chí tự nguyện của
hai bên nam nữ mong muốn xác lập quan hệ vợ chồng. Sự mong muốn ấy
xuất phát từ tình cảm, từ tình yêu thƣơng của hai bên mà không phải bởi sự
tác động của bất cứ ai, bất cứ động lực nào. Hai bên mong muốn kết hôn với
nhau với mục đích cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc và cùng nhau sinh
10
con đẻ cái. Và ý chí của hai bên phải thống nhất với sự thể hiện ý chí. Sự thể
hiện đó phải thông qua hành vi thực hiện các thủ tục nhất định do pháp luật
quy định. Đó là việc cả hai bên cùng nhau thực hiện nghi thức đăng ký kết
hôn tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền.
Thứ hai: Việc kết hôn phải đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận. Việc kết hôn hay
không là phụ thuộc vào ý muốn của mỗi ngƣời, không pháp luật hay Nhà
nƣớc nào bắt buộc họ phải kết hôn. Nhƣng chủ thể khi kết hôn họ phải chịusự
điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và gia đình. Ngoài việc phải tuân thủ đầy
đủ điều kiện kết hôn họ còn phải thực hiện theo hình thức do pháp luật quy
định, đó là việc đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn chính là hình thức thể
hiện sự thừa nhận và bảo hộ của Nhà nƣớc.
Có hai nghi thức kết hôn thƣờng đƣợc các nƣớc quy định là nghi thức
dân sự và nghi thức tôn giáo. Có những nƣớc chỉ thừa nhận nghi thức dân sự
nhƣ Pháp, Bỉ, Hà Lan Có những nƣớc chỉ thừa nhận nghi thức tôn giáo nhƣ
các quốc gia Hồi giáo. Có những nƣớc chấp nhận cả hai nghi thức và ngƣời
kết hôn có quyền lựa chọn một trong hai nghi thức khi kết hôn nhƣ Mỹ, Ý,
Thuỵ Điển.... Có những nƣớc buộc phải thực hiện lần lƣợt cả hai nghi thức
tôn giáo và dân sự nhƣ Vƣơng quốc Anh.
Ở Việt Nam thời hiện đại, pháp luật chỉ thừa nhận nghi thức dân sự, đó
là việc kết hôn phải đƣợc đăng ký tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Chỉ
khi nào nam nữ đăng ký kết hôn và đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền
đăng ký kết hôn công nhận bằng hình thức cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn thì họ mới đƣợc coi là vợ chồng và khi đó quan hệ của họ mới đƣợc Nhà
nƣớc thừa nhận và bảo hộ. Việc đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn
có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là biện pháp để Nhà nƣớc kiểm soát việc tuân
theo pháp luật của công dân trong việc kết hôn, đồng thời ngăn chặn những
hiện tƣợng kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật.
Đăng ký kết hôn còn là biện pháp bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho hai
11
bên nam nữ. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn có giá trị pháp lý quan trọng,
là chứng cứ viết xác nhận giữa hai bên nam nữ đã phát sinh và tồn tại quan hệ
vợ chồng, là cơ sở xác định thời điểm phát sinh quan hệ vợ chồng, là cơ sở
giải quyết khi phát sinh tranh chấp, là căn cứ để Nhà nƣớc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Mọi nghi thức khác nhƣ tổ chức lễ cƣới tại
gia đình hoặc kết hôn theo nghi thức tôn giáo đƣợc tiến hành tại nhà thờ mà
không có giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cấp
thì không đƣợc công nhận là hợp pháp.
Nhƣ vậy, kết hôn là cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ
chồng. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác nhận chủ thể của
quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và xác định rõ thời điểm làm
phát sinh các quan hệ đó. Kết hôn phù hợp với các điều kiện luật định là căn
cứ để Nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình đó.
Từ khái niệm kết hôn, có thể thấy kết hôn và điều kiện kết hôn có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết hôn chỉ đƣợc coi là hợp pháp khi nó thỏa mãn
điều kiện của kết hôn. Điều kiện là những yêu cầu buộc phải thực hiện trƣớc
khi tiến hành một việc nào đó. Điều kiện kết hôn là tất cả những gì ngƣời kết
hôn phải tuân thủ.
Cùng với sự ra đời và phát triển của khái niệm kết hôn, các điều kiện
kết hôn cũng đƣợc hình thành. Từ trƣớc khi có Nhà nƣớc, các điều kiện kết
hôn chính là những quy tắc, tục lệ đƣợc đặt trong khuôn khổ của các tổ chức
xã hội nhƣ thị tộc, bộ lạc. Khi chế độ tƣ hữu xuất hiện, Nhà nƣớc ra đời v
à
pháp luật đƣợc đặt ra nhằm thiết lập một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp
thống trị. Mỗi một kiểu nhà nƣớc khác nhau quy định về điều kiện kết hôn
khác nhau, pháp luật đã hƣớng việc kết hôn vào khuôn phép và các điều kiện
hà khắc nhằm duy trì chế độ hôn nhân cƣỡng ép phụ thuộc vào cha mẹ hoặc
các bậc thân trƣởng trong gia đình; thừa nhận chế độ đa thê; duy trì sự bất
12
bình đẳng giữa ngƣời đàn ông và ngƣời phụ nữ.
Trong xã hội đƣơng đại, pháp luật thể hiện tính giai cấp nhƣng đồng
thời cũng theo xu hƣớng chung, tính xã hội, tính nhân loại ngày càng thể hiện
rõ nét hơn, pháp luật là sự kết tinh của các giá trị truyền thống, văn hóa, đạo
đức dân tộc và tinh hoa nhân loại. Vì vậy, các điều kiện kết hôn cũng đƣợc
quy định phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục, tập quán
và tự nhiên của mỗi quốc gia. Nội dung các điều kiện kết hôn cũng bị chi phối
bởi bản chất Nhà nƣớc và truyền thống dân tộc.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trên cơ sở kế thừa và phát triển
các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1986 đã có những điều chỉnh và bổ sung đáng kể về điều kiện
kết hôn tại Điều 9 và Điều 10 nhƣ sau: Về tuổi kết hôn, nam từ 20 tuổi trở lên,
nữ từ 18 tuổi trở lên; Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định không
bên nào đƣợc ép buộc, lừa dối bên nào, không ai đƣợc cƣỡng ép hoặc cản trở;
cấm ngƣời đang có vợ hoặc có chồng kết hôn hoặc chung sống nhƣ vợ chồng
với ngƣời khác; cấm ngƣời mất năng lực hành vi dân sự kết hôn; cấm kết hôn
giữa những ngƣời có cùng dòng máu về trực hệ, giữa những ngƣời có họ
trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa những ngƣời đã
từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố
dƣợng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; cấm kết hôn giữa
những ngƣời cùng giới tính.
So với các đạo luật trƣớc, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể
hiện những điểm mới tiến bộ. Nhƣ, đã bỏ trƣờng hợp cấm kết hôn đối với
ngƣời đang mắc bệnh hoa liễu. Bởi sự phát triển của y học đã có phƣơng pháp
chữa trị căn bệnh này, việc bỏ điều kiện cấm kết hôn của ngƣời mắc bệnh hoa
liễu nhằm bảo vệ quyền kết hôn của công dân.
Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thay cụm từ
“đang mắc bệnh tâm thần, không có khả năng nhận thức hành vi của mình”
13
cuả Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 bằng cụm từ “mất năng lực hành vi
dân sự”. Sự thay đổi này để bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với các quan hệ
pháp luật khác nhƣ quan hệ dân sự, đất đai, hành chính, hình sự….
Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình bổ sung thêm việc cấm kết hôn
giữa những ngƣời đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi; cấm kết hôn giữa bố
chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dƣợng với con riêng của vợ, mẹ kế
với con riêng của chồng. Đây là sự bổ sung nhằm giữ ổn định các mối quan
hệ trong gia đình và củng cố hơn nền tảng đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Luật còn quy định: cấm kết hôn giữa những ngƣời cùng giới tính. Đây là quy
định mới, bởi trƣờng hợp nam, nữ cùng giới tính chung sống với nhau nhƣ vợ
chồng đang diễn ra ngày càng nhiều và phổ biến. Việc quy định này thể hiện
sự điều chỉnh kịp thời của pháp luật đối với những quan hệ xã hội mới phát
sinh này.
Về nghi thức kết hôn, ở các văn bản pháp luật trên đều quy định thủ tục
đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp
cơ sở nơi cƣ trú của bên nam hoặc bên nữ. Trong trƣờng hợp kết hôn có yếu
tố nƣớc ngoài thì cơ quan đại diện, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nƣớc ngoài
thực hiện việc đăng ký kết hôn. Khi yêu cầu đăng ký kết hôn hai bên nam nữ
phải cùng có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn nộp tờ khai đăng ký kết hôn và
những giấy tờ cần thiết khác. Trong trƣờng hợp có lý do chính đáng, một
trong hai bên không thể đến nộp hồ sơ đăng ký kết hôn thì có thể gửi đơn xin
nộp hồ sơ tạm vắng mặt và phải có xác nhận của UBND cấp cơ sở nơi ngƣời
vắng mặt cƣ trú. Khi các bên toàn tất thủ tục xin đăng ký kết hôn, đƣợc cơ
quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký kết hôn cấp cho Giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn và ghi vào Sổ đăng ký kết hôn thì việc kết hôn mới có giá trị
pháp lý. Đây là cơ sở pháp lý để Nhà nƣớc bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời
kết hôn.
Nhƣ vậy, trải qua những bƣớc thăng trầm của đất nƣớc pháp luật về
14
hôn nhân và gia đình cũng có những biến đổi đa dạng. Xuyên suốt chiều dài
lịch sử lập pháp Việt Nam có thể thấy vấn đề kết hôn và điều kiện kết hôn
luôn đƣợc đặt ra và có sự điều chỉnh cho phù hợp với mỗi kiểu Nhà nƣớc nhất
định. Điều kiện kết hôn là những quy định của pháp luật do Nhà nƣớc ban
hành buộc các chủ thể kết hôn phải tuân theo, đó là cơ sở xác định việc kết
hôn là hợp pháp hay trái pháp luật.
1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật.
Từ khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn có thể thấy khi việc kết hôn
của hai bên nam nữ tuân thủ các điều kiện theo pháp luật quy định thì việc kết
hôn đó đƣợc coi là hợp pháp. Các trƣờng hợp kết hôn không thỏa mãn điều
kiện kết hôn thì đƣợc coi là kết hôn trái pháp luật. Theo khoản 3 Điều 8 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Kết hôn trái pháp luật là việc xác
lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhƣng vi phạm điều kiện kết hôn do
pháp luật quy định"[19]. Nhƣ vậy, chỉ coi là kết hôn trái pháp luật khi mang
hai dấu hiệu cần và đủ, đó là, vi phạm một trong các điều kiện kết hôn đƣợc
quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và có
đăng ký kết hôn. Dấu hiệu có đăng ký kết hôn là để phân biệt với trƣờng hợp
hai bên nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng dù có tuân thủ các điều kiện kết hôn
hay không nhƣng không đăng ký kết hôn thì cũng không coi là kết hôn trái
pháp luật. Bởi, về mặt pháp lý trong quan hệ này các chủ thể chƣa thực hiện
hành vi kết hôn thì không thể coisự viphạm đó là kết hôn trái pháp luật đƣợc.
Tại Bản dự luật về ly hôn, Các Mác khẳng định: "Không ai bị buộc
phải kết hôn nhƣng ai cũng buộc phải tuân theo Luật Hôn nhân một khi ngƣời
đó kết hôn. Ngƣời kết hôn không sáng tạo ra hôn nhân, cũng nhƣ ngƣời bơi
lội không sáng tạo, không phát minh ra tự nhiên và những quy luật về nƣớc và
trọng lực. Vì thế, hôn nhân không thể phục tùng sự tuỳ tiện của ngƣời kết hôn
mà trái lại sự tuỳ tiện của ngƣời kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn
nhân." [6]. Quyền kết hôn là quyền của mỗi con ngƣời, nhƣng khi kết hôn
15
thì họ phải tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật, phải tuân thủ các điều kiện
mà Nhà nƣớc quy định. Nếu vi phạm thì việc kết hôn của họ là trái pháp luật.
Việc kết hôn trái pháp luật gây ảnh hƣởng tiêu cực tới sự ổn định của xã hội,
tới sự quản lý của Nhà nƣớc. Về góc độ pháp lý, kết hôn trái pháp luật ảnh
hƣởng trực tiếp tới quyền lợi chính đáng của công dân, ảnh hƣởng tới nhân
quyền, tới sự nghiêm minh của pháp luật.
Về mặt xã hội, một gia đình đƣợc xây dựng từ những "viên gạch" của
sự tự nguyện, của tình yêu thƣơng của hai bên nam nữ, của sự bảo đảmvề thể
lực và trí lực, của các giá trị đạo đức xã hội, phù hợp với thuần phong mỹ tục
của dân tộc. Khi gia đình đƣợc xây dựng trên nền tảng đó mới bảo đảm đƣợc
sự bền vững, ổn định, hạnh phúc và có thể thực hiện tốt đƣợc các chức năng
đối với xã hội. Nếu thiếu một trong các điều kiện đó gia đình sẽ không thể là
một tế bào tốt cho xã hội, không bảo đảm đƣợc sự bền vững, hạnh phúc và
không thể thực hiện đƣợc các chức năng đối với xã hội. Mặt khác, hành vi kết
hôn trái pháp luật còn tác động tiêu cực tới các trật tự xã hội, là nguyên nhân
của tình trạng ly hôn, tệ nạn xã hội, tội phạm gia tăng.
Ngoài ra, điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong pháp luật là kết tinh
của truyền thống văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Vì
vậy, việc vi phạm điều kiện kết hôn sẽ làm ảnh hƣởng tới những giá trị văn
hoá tốt đẹp của con ngƣời Việt Nam, ảnh hƣởng tới đạo đức, tƣ tƣởng, l
ối
sống của mỗi cá nhân.
Kết hôn trái pháp luật là một hiện tƣợng xã hội và diễn ra ngày càng
nhiều trong cuộc sống, nguyên nhân dẫn của hiện tƣợng đó xuất phát từ nhiều
yếu tố khác nhau nhƣ yếu tố kinh tế - xã hội, văn hoá, pháp luật và conngƣời.
Có thể thấy, kết hôn trái pháp luật là hành vi vi phạm quy định về điều
kiện kết hôn, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong
xã hội, tới sự ổn định và bền vững của gia đình, xâm phạm trật tự kỷ cƣơng
của Nhà nƣớc và pháp luật, đến truyền thống đạo đức, phong tục, văn hoá của
16
dân tộc.
1.1.3. Khái niệm hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Xuất phát từ hệ quả của việc kết hôn trái pháp luật, yêu cầu ngăn chặn,
xử lý và hạn chế kết hôn trái pháp luật là hết sức cần thiết và có ý nghĩa to
lớn. Pháp luật quy định các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật gồm: huỷ
việc kết hôn trái pháp luật hoặc xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Tuỳ
từng trƣờng hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm,
chủ thể thực hiện mà áp dụng các biện pháp khác nhau. Tuy nhiên trong phạm
vi luận văn, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Huỷ việc kết hôn trái pháp luật hay còn gọi là biện pháp tiêu hôn đƣợc
đề cập khá sớm trong lịch sử phát luật Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam,
tuy nhiên chƣa có văn bản pháp luật nào giải nghĩa "huỷ việc kết hôn trái
pháp luật".
Theo Từ điển Tiếng Việt, huỷ có nghĩa là làm cho không còn tồn tại
hoặc không có giá trị nữa [30]. Có thể hiểu huỷ việc kết hôn trái pháp luật là
biện pháp làm cho việc kết hôn trái pháp luật không còn tồn tại hoặc làm cho
việc kết hôn trái pháp luật không có giá trị nữa. Theo Từ điển giải thích thuật
ngữ Luật học của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã có sự giải thích khá đầy đủ:
"Huỷ việc kết hôn trái pháp luật đƣợc hiểu là biện pháp chế tài của Luật Hôn
nhân và gia đình đối với trƣờng hợp nam nữ kết hôn nhƣng không tuân thủ
đầy đủ các điều kiện đƣợc Luật Hôn nhân và gia đình quy định" [26]. Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định nào giải thích cụm từ
“hủy việc kết hôn trái pháp luật” nhƣng tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 quy định: "Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy
định tại Điều 15 của Luật này, Toà án xem xét và quyết định việc huỷ kết hôn
trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng
ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Toà án, cơ quan đăng ký kết hôn xoá
17
đăng ký kết hôn trong Sổ đăng ký kết hôn"[19]. Có thể thấy, hủy việc kết
hôn trái pháp luật là việc Tòa án theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền tác động tới việc kết hôn trái pháp luật làm cho quan hệ đó
không còn tồn tại hoặc không có giá trị pháp lý nữa. Đây là sự thể hiện thái
độ không thừa nhận của Nhà nƣớc đối với việc nam nữ xác lập quan hệ vợ
chồng nhƣng không tuân thủ các quy định về điều kiện kết hôn. Là biện pháp
chế tài nên các bên phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi từ hành vi vi
phạm đó, giữa các bên không phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng.
Nhƣ vậy, hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Luật
Hôn nhân và gia đình, áp dụng cho các chủ thể có đăng ký kết hôn nhƣng
không tuân thủ các điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và
gia đình, thể hiện thái độ phủ nhận của Nhà nƣớc đối với quan hệ đó, các bên
trong quan hệ không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.
Từ định nghĩa trên, cho thấy, hủy việc kết hôn trái pháp luật mang
những đặc điểm cơ bản. Đó là, hủy việc kết hôn trái pháp luật thể hiện thái độ
của Nhà nƣớc đối với quan hệ kết hôn trái pháp luật. Nhà nƣớc ta là nhà nƣớc
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả các chính sách,
pháp luật của Nhà nƣớc đều đƣợc xây dựng và thực hiện xuất phát từ lợi ích
của con ngƣời, cho con ngƣời, vì con ngƣời. Ngoài mục đích bảo vệ quyền
con ngƣời, pháp luật còn bảo đảm trật tự xã hội, lợi ích chung của cả xã hội.
Để đạt đƣợc mục đích đó thì mỗi công dân phải có ý thức tuân thủ pháp luật.
Việc tuân thủ của mỗi cá thể trong xã hội sẽ đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận và bảo
hộ. Còn các hành vi vi phạm quy định pháp luật đều phải xử lý. Hành vi
không tuân thủ các điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và
gia đình cũng sẽ bị xử lý. “Hủy” chính là sự thể hiện thái độ không đồng tình
của Nhà nƣớc đối với hành vi vi phạm pháp luật.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Luật Hôn nhân
và gia đình áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn
18
đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Đây là loại chế tài phủ định
pháp luật. Chế tài phủ định pháp luật là sự phản ứng tiêu cực của Nhà nƣớc
đối với việc thực hiện không đúng các quy định pháp luật. Chế tài này thể
hiện sự không thừa nhận tính chất pháp lý của quan hệ mới phát sinh. Nhƣ
vậy, các chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi đối với hành vi vi
phạm của mình.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật mang tính chất linh hoạt và mềm dẻo.
Sự linh hoạt, mềm dẻo thể hiện trong nguyên tắc xử lý của Tòa án. Không
phải tất cả các trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật Tòa án đều hủy, mà khi giải
quyết Tòa án phải căn cứ vào hoàn cảnh, mức độ vi phạm, hậu quả để quyết
định hủy hay không quan hệ đó.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Với tƣ cách
là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng, do Nhà nƣớc
ban hành, xuất phát từ thực tiễn xã hội, pháp luật nƣớc ta tất yếu phải đƣợc
bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp chế tài. Biện pháp chế tài đƣợc áp
dụng đối với những ngƣời vi phạm pháp luật trên cơ sở kết hợp giáo dục,
thuyết phục, thu hút sự tham gia của xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống
các vi phạm. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài với mục đích
xử lý những ngƣời có hành vi vi phạm thể hiện tính nghiêm minh của pháp
luật, tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần vào việc xây dựng chế độ hôn
nhân gia đình tự nguyện, tiến bộ, xây dựng gia đình mới xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm thuần phong mỹ tục Việt Nam, đem lại hiệu quả điều chỉnh của pháp luật
trong đời sống xã hội. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp để loại bỏ
những mặt trái của pháp luật hôn nhân gia đình đồng thời có tác dụng ngăn
chặn hành vi vi phạm các quy định điều kiện kết hôn.
1.2. ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI
PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ.
1.2.1. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong cổ
19
luật Việt Nam.
Nhà nƣớc Việt Nam thời kỳ phong kiến với chế độ quân chủ, mọi
quyền lực tập trung vào tay Vua, pháp luật ban hành là để bảo vệ vị trí đặc
quyền của vua và các tầng lớp quan lại, gia trƣởng. Các đạo luật đều do vua
ban hành. Di sản pháp luật thời kỳ này không còn đƣợc lƣu giữ nhiều, tiêu
biểu cho pháp luật thời kỳ nà là hai bộ luật Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều
hình luật) đƣợc ban hành dƣới triều Lê (1428 – 1788) và Bộ luật Gia Long
(Hoàng Việt luật lệ) đƣợc ban hành năm 1815 dƣới thời Nguyễn. Đây là hai
bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều Lê và triều Nguyễn, ban hành
nhằm điều chỉnh những mối quan hệ hình sự và dân sự phát sinh trong đời
sống xã hội phong kiến. Hai bộ luật này có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp
luật Việt Nam, thể hiện sự tiến bộ và tinh hoa trong kỹ thuật lập pháp của ông
cha ta.
Bộ luật Hồng Đức gồm 13 chƣơng, ghi chép trong 6 quyển, 722 điều,
quy định các vấn đề nhƣ Danh lệ, cấm vệ, quân lính, điều sản, hôn nhân và
gia đình .... Bộ luật Gia Long gồm 398 điều, chia thành 22 quyển; 01 quyển
phụ lục với những nội dung chính nhƣ Biểu kê các luật lệ, Danh lệ, Lại luật,
Hộ luật, Hình luật...Trong cả hai bộ luật đều có quy định về các trƣờng hợp
tiêu hôn. Tiêu hôn là biện pháp xử lý trƣờng hợp vi phạm các điều kiện về
cấm kết hôn. Tuy nhiên hôn nhân là một quan hệ có ý nghĩa quan trọng trong
đời sống xã hội, đặc biệt đốivới vợ chồng, các con và gia đình. Do vậy, mà cả
hai bộ luật trên đều có những điều kiện nhằm giới hạn những trƣờng hợp có
thể tiêu hủy hôn nhân. Pháp luật có sự phân biệt trƣờng hợp vi phạm điều
kiện thƣờng và trƣờng hợp vi phạm các điều kiện chủ yếu để có những biện
pháp xử lý tƣơng ứng. Đối với trƣờng hợp điều kiện thiết yếu thì pháp luật
không công nhận tính hợp pháp và bị tiêu hủy. Còn đối với trƣờng hợp vi
phạm điều kiện thƣờng thì có thể chỉ bị phạt mà hôn nhân vẫn tồn tại, không
bị tiêu hủy. Ví dụ, Điều 316 Bộ luật Hồng Đức quy định: Đối với những
20
trƣờng hợp khi các bên kết hôn đã vi phạm nghiêm trọng các điều kiện cấm
kết hôn, tức là đã vi phạm vào các điều kiện thiết yếu thì pháp luật không
công nhận tính hợp pháp của việc kết hôn đó và cần phải tiêu hủy [32]. Điều
317 và Điều 323 quy định: các bên sẽ phải chia lìa hoặc phải ly dị khi vi
phạm vào các điều kiện quan trọng của việc xác lập hôn nhân [32]. Theo quy
định của hai bộ luật này, việc tiêu hủy chỉ có hiệu lực trong tƣơng lai mà
không có giá trị trở về trƣớc, tức là kể từ thời điểm kết hôn đến khi bị tiêu hủy
thì hôn nhân vẫn đƣợc coi là có giá trị pháp lý. Đây là điểm khác với pháp
luật hiện hành, pháp luật hiện hành không công nhận quan hệ vợ chồng kể từ
thời điểm kết hôn. Hậu quả pháp lý của việc tiêu hôn là các bên phải chia lìa
hoặc ly dị, tức là hậu quả pháp lý của việc tiêu hôn đƣợc giải quyết nhƣ
trƣờng hợp ly hôn trong pháp luật hiện hành.
Nhƣ vậy, có thể thấy trong cổ luật kết hôn bị coi là vô hiệu khi vi phạm
một trong các điều kiện cấm kết hôn. Tuy nhiên, không phải tất cả các trƣờng
hợp kết hôn vô hiệu đều bị tiêu hủy, chỉ những trƣờng hợp vi phạm nghiêm
trọng các điều kiện kết hôn mới bị tiêu hủy, còn những trƣờng hợp vi phạm
những điều kiện thƣờng thì không bị tiêu hủy mà đƣơng sự có thể phải chịu
những hình phạt nhất định. Hậu quả của việc tiêu hủy hôn nhân là buộc các
bên phải chấm dứt quan hệ chung sống. Hai bộ luật này thể hiện sự tiến bộ
trong việc bảo vệ quyền lợi của gia đình và sự ổn định của xã hội, thể hiện
những nét đặc thù mang đậm phong tục, tập quán của ngƣời Việt Nam. Pháp
luật hiện hành cũng là sự kế thừa có chặt lọc những tinh hoa đó.
1.2.2. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật thời kỳ Pháp
thuộc.
Thời kỳ Pháp thuộc là thời kỳ Việt Nam chịu sự cai trị của thực dân
Pháp, thực hiện chính sách "chia để trị" nên thực dân Pháp bắt tay với triều
đình nhà Nguyễn ký kết bản "Hiệp ƣớc hoà bình" ngày 25/8/1883, theo đó
nƣớc ta đƣợc chia làm ba miền: Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Bắc Kỳ và
21
Trung Kỳ là xứ bảo hộ của Pháp. Dựa theo Bộ luật Dân sự của Cộng hòa
Pháp (1804), thực dân Pháp đã ban hành ba Bộ luật dân sự. Trong đó, tại Bắc
Kỳ là Bộ Dân luật năm 1931; tại Trung Kỳ là Bộ Dân luật Trung Kỳ năm
1936; tại Nam Kỳ là Bộ Dân luật Giản yếu năm 1883. Ba bộ luật đều có
những quy định khác nhau về điều kiện kết hôn song cùng chung đặc điểm là
tập trung vào các vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của ngƣời kết hôn, con
cái, gia đình và xã hội. Nếu vi phạm các điều kiện kết hôn thì việc kết hôn là
vô hiệu và có thể bị tiêu hủy. Ba bộ luật trên phân biệt hôn nhân vô hiệu thành
hai loại là vô hiệu tƣơng đối và vô hiệu tuyệt đối. Vô hiệu tƣơng đối chỉ do
một số ngƣời nhất định mà pháp luật quy định mới có quyền yêu cầu tiêu hủy
hôn nhân đó và sự vô hiệu ấy có thể bị mất đi do một sự kiện nào đó xuất
hiện. Vô hiệu tuyệt đối thì có thể bất cứ ngƣời nào cũng có quyền yêu cầu tiêu
hủy và sự vô hiệu ấy không bị mất đi do một thời hiệu hoặc một sự kiện nào.
Thẩm quyền tuyên bố tiêu hủy hôn nhân vô hiệu thuộc về Tòa án. Hậu quả
của việc tiêu hủy có sự quy định khác nhau trong ba Bộ Dân luật này. Bộ Dân
luật Bắc Kỳ và Bộ Dân luật Trung Kỳ đều dựa trên nguyên tắc giảm bớt hậu
quả đối với các chủ thể kết hôn cũng nhƣ đối với con cái họ. Vì vậy, quy định
về hậu quả cũng không quá nghiêm ngặt, nhƣ khi việc kết hôn bị tiêu hủy thì
việc tiêu hủy đó chỉ có hiệu lực trong tƣơng lai, có nghĩa là trƣớc khi bị tiêu
hủy quan hệ hôn nhân giữa họ vẫn phát sinh hiệu lực pháp lý, quan hệ vợ
chồng, cha, mẹ - con cũng đƣợc công nhận, con sinh ra vẫn là con trong giá
thú (con chính thức). Điều 89 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định: Phàm có giá thú
mà sinh con dẫu sau có sự tiêu hôn, không cớ vì duyên cớ gì, những đứa con
ấy vẫn là con chính thức, thuộc về quyền lợi, nghĩa vụ của cha mẹ, những đứa
con ấy thì cũng theo một lệ định nhƣ khi ly hôn. Các bên chỉ chấm dứt quan
hệ vợ chồng kể từ khi kết hôn bị tiêu hủy. Tức là, hậu quả pháp lý của tiêu
hủy việc kết hôn trái pháp luật cũng giống nhƣ giải quyết trƣờng hợp ly hôn.
Trái lại, trong Bộ Dân luật giản yếu lại quy định rất khắt khe, nghiêm khắc
22
hơn rất nhiều so với hai bộ luật trên: Khi việc kết hôn bị tiêu hủy thì nó không
có hiệu lực gì, không những trong tƣơng lai mà cả trong quá khứ nữa. Đối với
hai vợ chồng thì kể từ ngày họ kết hôn cho đến khi việc kết hôn đó bị tiêu hủy
họ không phải là vợ chồng của nhau, có nghĩa là hai bên chƣa hề xác lập quan
hệ hôn nhân với nhau. Nhƣ vậy, về quan hệ nhân thân, giữa họ không tồn tại
quan hệ vợ chồng, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.
Về quan hệ cha, mẹ - con, cũng không phát sinh quan hệ cha, mẹ - con trong
giá thú mà chỉ coi là con ngoài giá thú. Đối với tài sản, nếu họ có tài sản
chung là tài sản đó đƣợc thanh toán nhƣ trong trƣờng hợp hai ngƣời góp sức,
góp công làm ra. Nhƣ vậy, ở Bộ Dân luật Nam Kỳ là sự phủ nhận hoàn toàn
các quan hệ phát sinh từ việc kết hôn trái pháp luật.
Có thể thấy, pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về hôn nhân và
gia đình nói riêng trong thời kỳ Pháp thuộc phản ánh những đặc điểm riêng
biệt của lịch sử. Pháp luật khi đó chịu tác động bởi hai luồng tƣ tƣởng là t
ƣ
tƣởng phong kiến và tƣ tƣởng thực dân. Ở khu vực Trung Kỳ và Bắc Kỳ,
ngoài những quy định bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị thì còn có
những quy định mang đậm màu sắc phong kiến, phong tục tập quán của Việt
Nam; Riêng khu vực Nam Kỳ, do chịu tác động của quy chế thuộc địa Pháp,
chế độ cai trị thể hiện sự áp đặt hoàn toàn pháp luật thực dân. Những quy
định của pháp luật thời kỳ này đã làm phong phú thêm kho tàng pháp lý của
nƣớc ta.
1.2.3. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai
đoạn từ năm 1945 đến năm 1975.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đánh dấu sự ra đời của nƣớc
Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nƣớc dân chủ độc lập đầu tiên của nƣớc ta.
Nhà nƣớc mới non trẻ và đầy những thách thức, đòi hỏi một hệ thống pháp
luật mới. Vào thời kỳ này, quan hệ sản xuất phong kiến vẫn còn tồn tại, việc
xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu không phải dễ dàng,
23
nhanh chóng và không thể thực hiện bằng các văn bản pháp luật mang tính
mệnh lệnh. Việc thay đổi đòi hỏi phải kiên trì, bởi những tƣ tƣởng, phong tục,
tập quán lạc hậu tồn tại từ lâu đã ăn sâu vào trong tiềm thức của nhân dân ta.
Vì vậy, sau cách mạng tháng 8/1945 Nhà nƣớc ta chƣa ban hành ngay một
đạo luật cụ thể nào để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình mà tiến
hành phong trào “vận động đời sống mới”, nhằm vận động quần chúng nhân
dân tự nguyện xóa bỏ những hủ tục phong kiến lạc hậu trong đời sống hôn
nhân và gia đình.
Vì vậy, ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc
lệnh số 90/SL cho phép vận dụng những quy định trong pháp luật cũ có
chọn lọc quy lệ và chế định trong các bộ dân luật cũ, theo nguyên tắc
không trái với lợi ích của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa và lợi ích
của nhân dân lao động.
Năm 1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nƣớc Việt Nam ban hành, đánh
dấu một bƣớc ngoặt mới trong lịch sử lập pháp của nƣớc ta. Với tính chất là
đạo luật nguồn, Hiến pháp năm 1946 là cơ sở pháp lý quan trọng để Nhà nƣớc
ta ban hành các văn bản pháp luật khác, trong đó có Luật Hôn nhân và gia
đình. Đó cũng là cơ sở pháp lý để đấu tranh xóa bỏ những hủ tục của chế độ
hôn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới
dân chủ và tiến bộ. Tình hình phát triển của xã hội về mọi mặt kinh tế, chính
trị, quân sự trong quá trình đấu tranh cách mạng chống đế quốc và phong
kiến, cùng với sự phát triển của phong trào giải phóng phụ nữ, đòi hỏi phải
xóa bỏ một số chế định trong các bộ dân luật cũ về các quan hệ hôn nhân và
gia đình đang cản trở bƣớc tiến của xã hội, đồng thời Nhà nƣớc ta cần phải
quy định những nguyên tắc mới về hôn nhân và gia đình cho phù hợp với
thực tế. Năm 1950 Nhà nƣớc ta đã ban hành hai Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh
các quan hệ hôn nhân và gia đình, đó là Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950
sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159-SL ngày
24
17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn. Hai Sắc lệnh này đã góp phần vào việc
xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, thể hiện tính dân chủ
và tiến bộ của nền pháp chế mới. Tuy nhiên, cả hai Sắc lệnh này đều không
có quy định về hủy việc việc kết hôn trái pháp luật.
Từ năm 1954, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nƣớc
tạm chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Miền Bắc đƣợc
giải phóng bƣớc vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam
tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, đấu tranh thống nhất đất nƣớc.
Ở miền Bắc, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đƣợc Quốc hội khóa
I kỳ họp thứ 11 thông qua vào này 29/12/1959. Đây là đạo luật đầu tiên của
Nhà nƣớc ta về hôn nhân và gia đình, khẳng định bản chất của pháp luật xã
hội chủ nghĩa, là công cụ của Nhà nƣớc ta, phục vụ lợi ích của nhân dân lao
động, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động, nhằm thực hiện hai
nhiệm vụ chính là xóa bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình
phong kiến lạc hậu; xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ
nghĩa. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định cụ thể những điều kiện
kết hôn và trƣờng hợp cấm kết hôn để bảo đảm hôn nhân thực sự an toàn, lành
mạnh và tiến bộ. Nhƣ vậy, những trƣờng hợp vi phạm điều kiện kết hônchính
là vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa cần phải xử lý.
Tuy nhiên, trong văn bản pháp luật này không có quy định về hủy việc kết
hôn trái pháp luật. Biện pháp xử lý đối với việc kết hôn trái pháp luật đƣợc
ghi nhận tại văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm1959.
Tại công văn số 1264 ngày 01/11/1966, Tòa án nhân dân Tối cao đã gửi các
Tòa án địa phƣơng dự thảo thông tƣ hƣớng dẫn việc xử lý về dân sựnhững
hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn do luật định. Dự thảo này có tác dụng
bƣớc đầu hƣớng dẫn về đƣờng lối và thủ tục xét xử. Qua kinh nghiệm thực
tiễn xét xử và đóng góp ý kiến của Tòa án nhân dân địa phƣơng, Tòa ánnhân
dân Tối cao đã có hƣớng dẫn đầy đủ hơn việc xử lý về dân sự những
25
hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn tại Thông tƣ số 112-NCPL ngày
19/8/1972. Theo hƣớng dẫn này thì đƣờng lối chung là khi xử lý về dân sựđối
với những vi phạm điều kiện kết hôn xảy ra sau khi Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959 ban hành cần căn cứ vào tình hình thực tế mà có sự phân biệt
khác nhau nhƣ:
Cần xử tiêu hôn những vi phạm điều kiện kết hôn đang tiếp diễn và
tính chất nghiêm trọng nhƣ tảo hôn, cƣỡng ép kết hôn, đang có vợ, có chồng
mà lấy vợ hoặc chồng khác, lấy ngƣời trong họ hàng mà Luật tuyệt đối cấm
kết hôn; ngƣời đang mắc một trong những bệnh tật mà Luật cấm kết hôn.
Với những hôn nhân trƣớc đây vi phạm điều kiện kết hôn nhƣng nay đã
chấm dứt hoặc vi phạm không có tính chất nghiêm trọng và có thể sửa chữa
dễ dàng nhƣ: kết hôn không đăng ký thì xử lý theo đƣờng lối ly hôn nhằm
chiếu cố đến quyền lợi của đƣơng sự nhất là phụ nữ và con cái của họ, cũng
nhƣ chiếu cố đến phong tục tập quán của địaphƣơng
Những trƣờng hợp kết hôn do vi phạm điều kiện kết hôn theo luật định
thì hôn nhân đó cần phải xử tiêu hôn. “Xử tiêu hôn là quyết định chấm dứt
những hôn nhân bất hợp pháp” [16]. Điều đó có nghĩa là hôn nhân vi phạm
điều kiện kết hôn là hôn nhân bất hợp pháp cần phải xử tiêu hôn. Đó là biện
pháp nhằm đấu tranh chống việc vi phạm pháp luật, đồng thời thể hiện thái độ
của Nhà nƣớc không thừa nhận quan hệ vợ chống đối với nam nữ kết hôn
không tuân thủ quy định về điều kiện kết hôn. Việc tiêu hôn sẽ dẫn đến hậu
quả nghiêm trọng đối với chủ thể kết hôn về quan hệ nhân thân và quan hệ tài
sản. Về nguyên tắc, khi hôn nhân bị Tòa án tiêu hủy thì có hiệu lực cả trong
quá khứ và tƣơng lai, tức là giữa họ không phát sinh quan hệ vợ chồng kể từ
khi chung sống với nhau. Khi Tòa án hủy hôn nhân, họ phải chấm dứt quan
hệ chung sống bất hợp pháp, mọi quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng
không phát sinh. Quan hệ cấp dƣỡng giữa hai bên không đƣợc đặt ra. Về quan
hệ tài sản, tài sản riêng của ai thuộc về ngƣời đấy, tài sản chung đƣợc chia
26
theo công sức đóng góp, những khoản chi tiêu riêng của ai thì ngƣời đó phải
trả. Bởi tính khắt khe đó nên Tòa án nhân dân Tối cao đã hƣớng dẫn cụ thể
đối với một số trƣờng hợp, mặc dù có vi phạm điều kiện kết hôn nhƣng không
nghiêm trọng thì không tiêu hôn mà chỉ xử theo thủ tục ly hôn nếu các đƣơng
sự yêu cầu nhằm bảo đảm quyền lợi của đƣơng sự, nhất là quyền lợi của phụ
nữ và trẻ em.
Ở miền Nam, từ năm 1954 đến năm 1975, chế độ Ngụy quyền Sài Gòn
ban hành một hệ thống pháp luật riêng. Pháp luật về hôn nhân và gia đình tập
trung trong ba văn bản pháp luật là Luật Gia đình ngày 02/1/1959 dƣới chế độ
Ngô Đình Diệm, Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản
cộng đồng và Bộ dân luật ngày 20/12/1972 của chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Trong thời kỳ này việc kết hôn của hai bên nam nữ phải tuân theo các quy
định về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn nếu một trong hai bên vi phạm thì
hôn thú sẽ vô hiệu và sẽ bị tiêu hủy. Hôn thú vô hiệu khi vi phạm độ tuổi; sự
tự nguyện của các bên kết hôn, không có sự ƣng thuận của cha mẹ, ông bà,
ngƣời giám hộ; vi phạm điều cấm kết hôn; vi phạm hình thức kết hôn: Hôn lễ
cử hành không công khai hay do một hộ lại vô thẩm quyền, với điều kiện cử
hành hôn lễ trái phép có tính cách gian lận. Khi hôn thú vô hiệu thì vợ chồng,
cha, mẹ, ông bà, ngƣời giám hộ, công tố viên có quyền yêu cầu tiêu hôn. Hôn
thú sẽ không bị tiêu hủy đối với trƣờng hợp ngƣời kết lập hôn thú đã đến tuổi
trƣởng thành, hơặc nếu ngƣời đàn bà đã thụ thai hoặc có con hoặc trƣờng hợp
hôn thú đã đƣợc thừa nhận một cách công nhiên, hoặc mặc nhiên, hoặc biết
việc lập hôn thú mà để yên một năm không khiếu nại. Hậu quả của việc tiêu
hủy hôn thú, tại Bộ dân luật năm 1972 quy định: Mặc dù hôn thú bị tiêu hủy,
các con, nếu có, vẫn đƣợc coi là con chính thức. Về quan hệ vợ chồng, phát
luật vẫn thừa nhận quan hệ vợ chồng từ khi kết hôn đến khi bị tuyên hủy, sự
tiêu hủy không có hiệu lực hồi tố đối với vợ chồng. Về quan hệ tài sản, giải
quyết nhƣ đối với trƣờng hợp ly hôn, sự thanh toán tài sản sau khi tiêu hôn sẽ
27
làm nhƣ trong trƣờng hợp ly hôn.
Luật Gia đình năm 1959 quy định hôn thú có thể bị vô hiệu trong
những trƣờng hợp sau: khi không có sự ƣng thuận của một hoặc hai bên, nếu
một bên đã ƣng thuận vì bị nhầm lẫn về ngƣời hoặc về căn cƣớc thì bên bị
nhầm lẫn có thể kiện xin tiêu hôn. Tƣơng tự, trƣờng hợp bị cƣỡng bức kết hôn
cũng có thể xin tiêu hôn. Nếu ngƣời bị nhầm lẫn hoặc bị cƣỡng bức còn vị
thành niên thì cha mẹ của ngƣời đó có quyền khởi tố xin tiêu hôn. Quyền kiện
xin tiêu hôn chỉ có giá trị trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày phát hiện sự
nhầm lẫn, hoặc hết sự cƣỡng bức. Hôn thú có thể bị kiện xin xửtiêu hôn vì sự
bất lực vĩnh viễn đã có trƣớc khi lập hôn thú của một trong hai bên. Quyền
kiện tiêu hôn trong trƣờng hợp này chỉ có giá trị trong thời hạn một năm, kể
từ khi khám phá ra sự bất lực. Nếu nam chƣa đủ 18 tuổi, nữ chƣa đủ 15 tuổi
đã kết hôn mà không đƣợc đặc cách cho miễn tuổi thì cũng bị xử tiêu hôn.
Tuy nhiên, đến thời điểm bị phát giác mà hai bên đã đủ tuổi kết hôn, hoặc
ngƣời vợ đã thụ thai thì sẽ không bị tiêu hôn. Những ngƣời bị cấm kết hôn mà
kết hôn thì hôn thú đó bị vô hiệu. Hôn thú cũng có thể bị tiêu hôn nếu sau khi
ly hôn lần trƣớc mà ngƣời vợ đã tái hôn trƣớc mƣời tháng, kể từ ngày bản á
n
có
hiệu lực; hoặc khi quả phụ tái giá trƣớc mƣờitháng, kể từ ngày chồng chết. Con
sinh trong các cuộc hôn thú bị tuyên là vô hiệu bị coi nhƣ con ngoạihôn. Nếu
hôn thú bị vô hiệu do lỗi của một bên có gian ý thì ngƣời có gian ý có thể bị
phạt giam từ ba tháng đến một năm và có thể bị phạt tiền từ một ngàn đến 100
ngàn đồng. Bên ngay tình có thể đƣợc tòa án tuyên bên có gian ý bồithƣờng
thiệt hại một khoản tiền.
Nhƣ vậy, hủy việc kết hôn trái pháp luật hay còn gọi là tiêu hôn thời kỳ
này có nhiều nét tƣơng đồng với các bộ dân luật thời Pháp thuộc nhƣng có
pha trộn những nét phong tục tập quán của ngƣời Việt Nam. Mặc dù pháp luật
của chế độ Ngụy quyền Sài Gòn là pháp luật của chính quyền bù nhìn tay sai
do Mỹ dựng lên nhƣng không chịu ảnh hƣởng của pháp luật Mỹ, đây là đặc
28
điểm khác biệt so với thời kỳ Pháp thuộc.
1.2.4. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai
đoạn từ năm 1975 đến nay.
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc năm
1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nƣớc thống nhất. Năm 1980 Hiến
pháp mới đƣợc ban hành thay thế cho Hiến pháp năm 1959. Tình hình kinh tế
xã hội có nhiều thay đổi, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 bắt đầu thể
hiện những bất cập cần phải sửa đổi cho phù hợp với các quan hệ hôn nhân và
gia đình trong tình hình mới. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời thay
thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 bao gồm 10 chƣơng 57 điều,
đƣợc xây dựng và thực hiện trên các nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến
bộ; hôn nhân một vợ một chồng; vợ chồng bình đẳng; bảo vệ quyền lợi của
cha mẹ và con; bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Trong đó có các quy định cụ thể về
các điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp luật, hình thức xử lý đối với kết hôn
trái pháp luật. Các quy định về điều kiện kết hôn về cơ bản vẫn giống nhƣ
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 nhƣ độ tuổi kết hôn, sự tự nguyện ..
nhƣng có những sửa đổi phù hợp hơn. Diện cấm kết hôn đƣợc quy định theo
hƣớng thu hẹp hơn nhƣng vẫn trên nguyên tắc gìn giữ thuần phong mỹ tục
của dân tộc. Có thể khẳng định Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là văn
bản đầu tiên đề cập đến khái niệm “hủy việc kết hôn trái pháp luật”. Tại Điều
9 quy định:
“Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của Luật
này là trái pháp luật.
Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc
con của ngƣời đang có vợ, có chồng mà kết hôn với ngƣời khác,
Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền
29
yêu cầu Toà án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Tài sản của những ngƣời mà hôn nhân bị huỷ đƣợc giải
quyết theo nguyên tắc: tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở
hữu của ngƣời ấy; tài sản chung đƣợc chia căn cứ vào công sức
đóng góp của mỗi bên; quyền lợi chính đáng của bên bị lừa dối
hoặc bị cƣỡng ép kết hôn đƣợc bảo vệ. Quyền lợi của con đƣợc
giải quyết nhƣ trong trƣờng hợp cha mẹ ly hôn” [17].
Nhƣ vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có những quy định
chi tiết hơn rất nhiều so với các văn bản trƣớc đây về hủy việc kết hôn trái
pháp luật. Trƣờng hợp kết hôn vi phạm một trong các điều 5, điều 6, điều 7
của Luật này là trái pháp luật. Đó là một số những trƣờng hợp nhƣ: kết hôn
giữa những ngƣời đang có vợ hoặc có chồng; đang mắc bệnh tâm thần không
có khả năng nhận thức hành vi của mình; đang mắc bệnh hoa liễu; giữa những
ngƣời cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha
khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; giữa những ngƣời có họ trong phạm vi ba
đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi ... Pháp luật quy định ngƣời có quyền yêu
cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật gồm có hai nhóm, cá nhân và cơ
quan, tổ chức. Cá nhân gồm: Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ,
chồng hoặc con của ngƣời đang có vợ, có chồng mà kết hôn với ngƣời khác.
Cơ quan, tổ chức gồm Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam [17].
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có quy định khá cụ thể đối với các
chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, bảo đảm thuận lợi
và cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền yêu cầu. Tuy nhiên phạm vi chủ
thể có quyền yêu cầu còn hẹp, không bảo đảm đƣợc hết quyền lợi của những
ngƣời có liên quan đến việc kết hôn trái pháp luật. Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986 còn quy định về hậu quả cuả hủy việc kết hôn trái pháp luật. Về tài
sản, theo nguyên tắc: tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của
30
ngƣời ấy; tài sản chung đƣợc chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗibên.
Nhƣ vậy, quan hệ tài sản phát sinh đƣợc xác định là tài sản chung theo phần,
không phải là tài sản chung hợp nhất nhƣ đối với vợ chồng. Về con cái, giải
quyết nhƣ đối với trƣờng hợp ly hôn. Tức là việc kết hôn trái pháp luật không
ảnh hƣởng tới quan hệ cha, mẹ - con.
Nhƣ vậy, những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã tạo nền tảng cho những quy định chi tiết
của Luật Hôn nhân và gia đình giai đoạn kế tiếp. Tuy nhiên, những quy định
này còn nhiều hạn chế, mang tính khái quát, định khung, chƣa cụ thể gây khó
khăn trong việc áp dụng.
Qua 10 năm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã bộc lộ
những hạn chế, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự vận động
của các quan hệ hôn nhân và gia đình trong cơ chế thị trƣờng. Vì vậy, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đƣợc Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 7 thông
qua vào ngày 09/6/2000, có hiệu lực ngày 01/01/2001. Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 đƣợc cấu thành bởi 13 chƣơng, 110 điều là bƣớc tiến đáng kể
đạt tầm vóc của một bộ luật. Bên cạnh sự hoàn chỉnh về quy mô, hình thức,
những nội dung của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đƣợc quy định
hoàn chỉnh và chặt chẽ hơn, trong đó phải kể đến quy định về hủy việc kết
hôn trái pháp luật. Trƣớc đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, vấn đề
hủy việc kết hôn trái pháp luật đƣợc quy định gói gọn tại một điều (Điều 9)
của Luật thì tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đƣợc quy định chi
tiết tại ba điều (Điều 15, Điều 16, Điều 17). Nội dung các quy định cũng có
sự chi tiết, cụ thể hơn. Phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái
pháp luật cũng mở rộng hơn, bảo đảm quyền lợi cho ngƣời liên quan, bảođảm
cho việc phát hiện hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn kịp thời, hiệu quả.
Việc quy định đƣờng lối giải quyết và hậu quả pháp lý thể hiện sự chi tiết và dễ
áp dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, qua hơn mƣời năm thi hành, áp dụng cho
31
đến thời điểm hiện nay, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã thể hiện
những hạn chế nhất định, ảnh hƣởng đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về
hủy việc kết hôn trái pháp luật. Vì lẽ đó, cần phải có những nghiên cứu để sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Nhƣ vậy, nhìn lại quá trình lập pháp Việt Nam từ cổ luật cho đến hiện
đại, trải qua những biến động của lịch sử vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp
luật cũng có những nét thăng trầm riêng. Vấn đề điều kiện kết hôn luôn đƣợc
quan tâm trong tất cả các quy định pháp luật từ cổ đến kim nhƣng không phải
ở bất cứ văn bản pháp luật nào hủy việc kết hôn trái pháp luật cũng đƣợc đặt
ra. Trong thời kỳ phong kiến, thực dân, để củng cố địa vị của giai cấp thống
trị nên việc xử lý các hành vi vi phạm về điều kiện kết hôn bằng biện pháp
tiêu hôn cũng rất đƣợc quan tâm. Đến thời kỳ Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ
cộng hòa đƣợc thành lập, đất nƣớc vừa bắt đầu chuyển sang một chế độ mới
vừa là nhà nƣớc non trẻ vừa phải tập trung thực hiện nhiệm vụ quan trọng
chống giặc và xây dựng đất nƣớc nên vấn đề xử lý vi phạm pháp luật về điều
kiện kết hôn không đƣợc mấy chú trọng. Khi đất nƣớc thống nhất, mọi quan
hệ kinh tế xã hội, chính trị dần ổn định, vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật
đƣợc quan tâm hơn. Và đến giai đoạn hiện nay, đất nƣớc đang vƣơn lên, kinhtế
phát triển với nhiều quan hệ xã hội cũ và mới đan xen, các vi phạm về điều
kiện kết hôn diễn ra phổ biến và có những biến thể đa dạng. Vì vậy, việc ngăn
ngừa và xử lý các vi phạm đó là điều đƣợc cả Nhà nƣớc và xã hội quan tâm.
Cùng với sự phát triển chung của hệ thống pháp luật, những văn bản quy định
về hủy việc kết hôn trái pháp luật đƣợc quy định tại Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 và các văn bản dƣới luật đã thể hiện sự phù hợp, linh hoạt và
tiến bộ khẳng định đƣợc bản chất của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa.
32
CHƢƠNG 2
NỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
2.1. NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI
PHÁP LUẬT.
Mọi trƣờng hợp kết hôn không tuân thủ một trong các điều kiện kết hôn
do pháp luật quy định đều bị coi là kết hôn trái pháp luật. Về nguyên tắc, mối
quan hệ đó không đƣợc Nhà nƣớc công nhận và bảo vệ. Ngoài ra, mối quan
hệ này còn bị điều chỉnh bởi các biện pháp chế tài do Nhà nƣớc quy định.
Biện pháp chế tài đối với việc kết hôn trái pháp luật là hủy việc việc kết hôn
trái pháp luật đó. Thẩm quyền huỷ chỉ thuộc về một cơ quan Nhà nƣớc duy
nhất có chức năng xét xử là Tòa án nhân dân.
Có thể nói, hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Luật
Hôn nhân và gia đình thể hiện thái độ phủ định của Nhà nƣớc đối với các
trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật. Theo Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định: “Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại
Điều 15 của Luật này, tòa án xem xét và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp
luật ...” [19]. Về nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm một trong các điều kiện kết
hôn đƣợc quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình là trái
pháp luật, khi có yêu cầu, Tòa án có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật đó.
Tuy nhiên, hủy việc kết hôn trái pháp luật không những ảnh hƣởng trực
tiếp tới cuộc sống của chủ thể đã thực hiện hành vi kết hôn trái pháp luật mà
còn ảnh hƣởng tới gia đình, xã hội và đặc biệt là con cái họ. Bởi vậy, nhiệm
vụ của cơ quan Tòa án rất nặng nề, đằng sau mỗi quyết định của Tòa án là
bƣớc ngoặt cuộc đời của bao nhiêu con ngƣời, mỗi quyết định là một minh
chứng cho tính hiệu quả của cả hệ thống pháp luật. Vì vậy, khi xử lý các
trƣờng hợp này, Tòa án phải có trách nhiệm làm rõ từng hành vi, chỉ ra từng
hoàn cảnh vi phạm, phân tích mọi chi tiết, tính chất, mức độ vi phạm, tìm
33
hiểu sâu sắc tâm lý chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, đặc biệt, cần phải xem
xét, đánh giá thực tế cuộc sống chung đó. Trên cơ sở đó áp dụng một cách
linh hoạt các chế tài tƣơng ứng để có sự định đoạt thấu tình đạt lý nhằm đạt
đƣợc mục tiêu chung.
Xuất phát từ tính chất đặc thù của đối tƣợng điều chỉnh trong quan hệ
hôn nhân và gia đình, khi giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật Tòa án
cần phải áp dụng nguyên tắc sau:
Chỉ hủy việc kết hôn trái pháp luật đối với những trƣờng hợp vi phạm
điều kiện kết hôn đang tiếp diễn và có tính nghiêm trọng. Tức là, tại thời điểm
có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì các chủ thể vẫn đang tiếp tục vi
phạm các điều kiện kết hôn. Tính nghiêm trọng đƣợc thể hiện ở việc kết hôn
trái pháp luật đã và sẽ ảnh hƣởng tới quyền lợi chính đáng của ngƣời kết hôn,
ảnh hƣởng tới thuần phong mỹ tục của dân tộc, tới trật tự xã hội, hậu quả của
hành vi vi phạm là không thể ngăn chặn và khắc phục đƣợc. Vì vậy, đối với
trƣờng hợp này Tòa án cần hủy để bảo vệ cá nhân, gia đình và xã hội.
Đối với các trƣờng hợp trƣớc đây vi phạm điều kiện kết hôn nhƣng nay
đã chấm dứt hoặc vi phạm không có tính nghiêm trọng và có thể khắc phục
đƣợc các hậu quả phát sinh thì không nhất thiết phải hủy. Tại Nghị quyết số
02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân Tối cao đã hƣớng dẫn, việc miễn hủy kết hôn trái pháp luật đƣợc áp dụng
trong trƣờng hợp tại thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà
đƣơng sự đã đạt độ tuổi kết hôn, với điều kiện là “trong thời gian đã qua, họ
chung sống bình thƣờng, đã có con, có tài sản chung” [29] thì không bị hủy
việc kết hôn trái pháp luật đó.
Nhƣ vậy, nguyên tắc để Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật rất mềm
dẻo, khi giải quyết cơ quan xét xử cần phải có sự áp dụng linh hoạt nhƣng vẫn
bảo đảm đúng nguyên tắc để việc giải quyết đƣợc hiệu quả, đạt đƣợc mục tiêu
là bảo vệ lợi ích của cá nhân, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam văn hóa,
34
tiến bộ và gìn giữ sự ổn định xã hội.
2.2. NGƢỜI CÓ QUYỀN YÊU CẦU TÕA ÁN HỦY VIỆC KẾT HÔN
TRÁI PHÁP LUẬT.
Để hạn chế đƣợc tình trạng kết hôn trái pháp luật đang diễn ra ngày
càng nhiều thì việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm
điều kiện kết hôn có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nƣớc đã quy định cụ thể
những chủ thể có quyền yêu cầu cơ quan Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp
luật. Trong tố tụng dân sự, về nguyên tắc, Tòa án chỉ xem xét giải quyết khi
có đơn khởi kiện hoặc yêu cầu của cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức. Trong hủy
việc kết hôn trái pháp luật, Luật Hôn nhân và gia đình quy định các cá nhân,
cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật. Tại
Điều 15 Luật này quy định những chủ thể sau có quyền yêu cầu hủy việc kết
hôn trái pháp luật:
1. Bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sựcó quyềntự mìnhyêu cầu Tòaán hoặc đề
nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòaán hủy việc kết hôn trái pháp luật do
việc kết hôn vi phạm quy định tạikhoản 2 Điều 9 của Luật này.
2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do
vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án
hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái
pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10
của Luật này:
a. Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn;
b. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
c. Hội Liên hiệp Phụ nữ.
35
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị
Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái
pháp luật [19].
Nhƣ vậy, theo điều luật trên chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn
trái pháp luật rất rộng, gồm có bốn nhóm: bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết
hôn; Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn; Viện kiểm sát; và Ủy ban
bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội Liên hiệp Phụ nữ. Việc kết hôn trái pháp
luật không những vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chính những
ngƣời kết hôn mà còn ảnh hƣởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời
khác nhƣ vợ, chồng, con ... của họ và ảnh hƣởng tới lợi ích xã hội. Vìvậy, để
bảo vệ quyền lợi của các cá nhân, bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội, pháp
luật cần quy định rộng rãi những ngƣời có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái
pháp luật.
Ngoài ra, pháp luật quy định rõ quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái
pháp luật của chủ thể trong từng trƣờng hợp cụ thể nhằm bảo đảm quyền định
đoạt của các chủ thể, đồng thời đảm bảo tính hiệu quả trong việc xử lý những
hành vi vi phạm điều kiện kết hôn ở mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức. Có ý kiến
cho rằng để bảo đảm tính khả thi của quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái
pháp luật nên hạn chế phạm vi các chủ thể. Vì thực tế, chủ yếu ngƣời khởi
kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật là các cá nhân. Các cơ quan, tổ
chức có quyền yêu cầu chƣa thực sự chủ động trong việc thực hiện vai trò yêu
cầu của mình. Tuy nhiên, cần có cái nhìn thực tế và toàn diện, vì nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong nhiều trƣờng hợp ngƣời kết hôn không muốn
thay đổi cuộc sống nên không chủ động thực hiện quyền yêu cầu của mình.
Do đó, pháp luật quy định ngoài cá nhân thì các cơ quan, tổ chức với chức
năng, nhiệm vụ bảo vệ phụ nữ, trẻ em và gia đình có quyền yêu cầu. Đó là
một trong những phƣơng pháp để Nhà nƣớc thể hiện sự kiên quyết trong việc
đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn, góp phần bảo đảm
36
pháp luật của Nhà nƣớc và sự ổn định của xã hội.
Để làm rõ hơn vai trò, ý nghĩa của quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái
pháp luật, chúng ta sẽ nghiên cứu từng loại chủ thể cụ thể.
2.2.1. Bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn
Bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn là nạn nhân trực tiếp của việc kết
hôn trái pháp luật. Vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định cho họ
quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi quyền kết hôn bị
xâm phạm thì họ tự bảo vệ mình bằng cách trực tiếp yêu cầu Tòa án hoặc đề
nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. Quyền
chủ động này còn thể hiện tính thực tế và mềm dẻo của pháp luật. Bởi, chỉ có
ngƣời bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn mới ý thức đƣợc yêu cầu hủy việc kết
hôn trái pháp luật đó là cần thiết cho cuộc sống gia đình họ hay không. Nhất
là đối với trƣờng hợp cuộc sống chung đã ổn định, hai bên đã thực sự thông
cảm, yêu thƣơng nhau, giữa họ đã có con cái chung, tài sản chung thì việc yêu
cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật nên để cho họ tự quyết định.
Tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hƣớng dẫn các hành vi vi phạm khoản 2
điều 9 gồm các hành vi sau: hành vi ép buộc, hành vi lừa dối, hành vi cƣỡng
ép và hành vi cản trở. Trong khi đó khoản 1 Điều 15 quy định chủ thể có
quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật là bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối.
Đối với ngƣời bị ép buộc kết hôn luật không quy định họ có quyền yêu cầu
hủy việc kết hôn trái pháp luật. Nhƣ vậy, là đã thiếu cơ sở pháp lý để chủ thể
này tự bảo vệ quyền lợi của mình.
Ngoài ra, ngƣời bị cƣỡng ép, lừa dối có quyền yêu cầu nhƣng bản thân
ngƣời cƣỡng ép, lừa dối, ép buộc thì có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái
pháp luật của mình hay không. Khi họ thực hiện hành vi cƣỡng ép, ép buộc,
lừa dối ngƣời khác kết hôn với mình là để mong muốn đạt đƣợc mục đích kết
hôn với ngƣời đó nhƣng trong qúa trình chung sống gia đình không hạnh phúc
37
không đƣợc theo ý muốn hoặc với một lý do nào đó, họ muốn huỷ việc kết
hôn trái pháp luật của chính mình. Theo quy định của điều luật này thì bản
thân ngƣời đó không có quyền yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật
đó. Có thể xem đây là một điểm khuyết của quy định này, chƣa bao quát đƣợc
hết mọi tình huống có thể xảy ra trên thực tế nên pháp luật đã không đƣa ra
đƣợc biện pháp dự liệu. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đƣợc Quốc
hội thông qua ngày 19/6/2014 và đến ngày 01/01/2015 có hiệu lực thi hành
nhƣng điều này cũng không đƣợc xem xét bổ sung.
2.2.2. Viện kiểm sát
Khoản 2 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Viện
kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa
án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và
Điều 10 của Luật này"[19]. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 162 Bộ
luật Tố tụng Dân sự năm 2005 chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự để
bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời khác, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nƣớc
thì cơ quan về Dân số, gia đình và trẻ em có quyền khởi kiện vụ án về hôn
nhân và gia đình. Nhƣ vậy, chủ thể có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia
đình không có Viện kiểm sát.
Ngoài ra, trong quy định tại điều 21 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Viện kiểm
sát nhân dân kiểm sát thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị
theo quy định của pháp luật ... Nhƣ vậy, theo pháp luật về thủ tục tố tụng hiện
hành, Viện kiểm sát không có quyền yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái
pháp luật. Sự mâu thuẫn này là do quá trình lập pháp, cần nhanh chóng sửa
đổi, khắc phục. Hiện tại, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã loại bỏ
quyền yêu cầu của Viện kiểm sát để phù hợp với quy định của Bộ luật Tố
tụng Dân sự.
2.2.3. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ
Theo quy định tại khoản 2 Điều 162 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2005
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình

More Related Content

Similar to Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình

Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế anh hieu
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huếluanvantrust
 
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Luật
Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. LuậtCấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Luật
Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Luậtnataliej4
 
Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân d...
Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân d...Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân d...
Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân d...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình (20)

Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly HônLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ ÁnLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
 
Hôn Nhân Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Năm 2014.doc
Hôn Nhân Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Năm 2014.docHôn Nhân Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Năm 2014.doc
Hôn Nhân Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Năm 2014.doc
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Luận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếLuận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Luận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOTCăn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
 
Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý Của Hôn Nhân Trái Ph...
Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý Của Hôn Nhân Trái Ph...Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý Của Hôn Nhân Trái Ph...
Nghiên Cứu Về Hôn Nhân Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý Của Hôn Nhân Trái Ph...
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
 
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAYHậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
 
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
 
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAYNhững bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
 
TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT.docx
TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT.docxTIỂU LUẬN THỰC TRẠNG HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT.docx
TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT.docx
 
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo luật hôn nhân và giađình việt nam năm 20...
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo luật hôn nhân và giađình việt nam năm 20...Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo luật hôn nhân và giađình việt nam năm 20...
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo luật hôn nhân và giađình việt nam năm 20...
 
NỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT.doc
NỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT.docNỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT.doc
NỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT.doc
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
 
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAYLuận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
 
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Luật
Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. LuậtCấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Luật
Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Luật
 
Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân d...
Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân d...Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân d...
Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân d...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 

Recently uploaded (20)

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 

Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 - VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Nhận Viết Thuê Luận Văn Điểm Cao – Chất Lượng Uy Tín – Đúng Hẹn Zalo trao đổi : 0932.091.562 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan dưới đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thị Lan Anh
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU.....................................................................................................1 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...............................8 1.1. Khái quát chung về kết hôn, kết hôn trái pháp luật và vấn đề điều chỉnh pháp luật ................................................................................8 1.1.1 Khái niệm kết hôn, điều kiện kết hôn.............................................8 1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật ...................................................14 1.1.3. Khái niệm hủy việc kết hôn trái pháp luật......................................16 1.2. Điều chỉnh pháp luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử....................................................................18 1.2.1. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong cổ luật Việt Nam..............................................................................................18 1.2.2. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật thời kỳ Pháp thuộc ...........................................................................................20 1.2.3. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975....................................................................22 1.2.4. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay .............................................................................28 Chƣơng 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT...............................................32 2.1. Nguyên tắc xử lý đối với hủy việc kết hôn trái pháp luật..................32 2.2. Ngƣời có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật........................... 34 2.2.1. Bên bị cƣỡng ép, bị lừa dốikết hôn...............................................36 2.2.2. Viện kiểm sát ..............................................................................37 2.2.3. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ...............37 2.2.4. Vợ, chồng, cha, mẹ, con cái của các bên kết hôn...........................39 2.3.Thẩm quyềncủa Tòa án và thủ tục huỷ việckếthôntrái pháp luật............................ 41
  • 4. 2.4. Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật và đƣờng lối giải quyết đối vớicác trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật................................................................................... 44 2.4.1. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn..........................44 2.4.2. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện.............................51 2.4.3. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm các trƣờng hợp cấm kết hôn.......55 2.5. Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật.......................75 2.5.1. Quan hệ nhân thân .......................................................................75 2.5.2. Quan hệ cha, mẹ và con...............................................................76 2.5.3. Quan hệ tài sản............................................................................77 Chƣơng 3. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠNHIỆN NAY..................................80 3.1. Thực tiễn giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp luật trong 05 năm gần đây (2009 - 2013)...................................................................................................................80 3.2. Phƣơng hƣớng cơ bản để hoàn thiện pháp luật về hủy kết hôn trái pháp luật .... 85 3.2.1. Nhu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật.........................85 3.2.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về huỷ việc kết hôn trái pháp luật...............................................................................................87 3.3. Một số giải pháp cơ bản hoàn thiện quy định về hủy kết hôn trái pháp luật.................................................................................................98 KẾT LUẬN..................................................................................................92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................93
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nƣớc bảo hộ hôn nhân và gia đình” [22, Khoản 2 Điều 36]. Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội. "Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt"[19]. Từ ý nghĩa sâu sắc đó Nhà nƣớc ta rất quan tâm đến việc xây dựng các chuẩn mực để tạo nên gia đình văn hoá, tiến bộ mang đậm bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc. Mục tiêu này đã đƣợc luật hoá trong các văn bản pháp luật nói chung, đặc biệt là trong pháp luật Hôn nhân và gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình đã tạo hành lang pháp lý để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình phát triển theo đúng hƣớng mà Nhà nƣớc đã đề ra. Kết hônlà bƣớc khởi đầu để hình thành nên gia đình, vì vậy việc quy định các điều kiện kết hôn là yêu cầu tất yếu của xã hội. Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, việc không tuân thủ các điều kiện kết hôn vẫn đang diễn ra hàng ngày trong đời sống gây nên hiện tƣợng kết hôn trái pháp luật. Các trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật đã có những tác động tiêu cực đếncác mặt của xã hội, ảnh hƣởng tới đạo đức, nhân cách, lối sống của con ngƣời, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, ảnh hƣởng tới quyền và lợi íchhợp pháp của công dân, ảnh hƣởng tới sức khoẻ và việc duy trì nòi giống của dân tộc. Vì vậy, Nhà nƣớc ta đã điều chỉnh hiện tƣợng này bằng chế tài Huỷviệc kết hôn trái pháp luật. Là chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình nên hậu quả của huỷ việc kết hôn trái pháp luật là rất nặng nề, ảnh hƣởng tới cuộc sống của chủ thể kết hôn, tới quyền lợi cuả con cái họ, quyền lợi của mọi ngƣời và ảnh hƣởng tới trật tự xã hội. Do đó, nghiên cứu về vấn đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình là vô cùng cần thiết. Không chỉ nhằm giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật đƣợc hiệu quả, mà quan trọng hơn đó là hoàn thiện hơn nữa chế tài này. Có nhƣ vậy ý nghĩa của
  • 6. 2 chế tài mới đƣợc phát huy, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, dù là chế tài đã đƣợc quy định rất có hệ thống, nhƣng thực tiễn xét xử cho thấy có rất ít trƣờng hợp hủy việc kết hôn trái pháp luật. Thực trạng này phản ánh tính đặc thù của thi hành và áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung, áp dụng các quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật nói riêng. Nhằm làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn của hủy việc việc kết hôn trái pháp luật, qua đó đề xuất những luận cứ cho việc hoàn thiện pháp luật về hôn nhân và gia đình mà cụ thể là chế định hủy việc kết hôn trái pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài “Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000- Vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Huỷ việc kết hôn trái pháp luật là một vấn đề cần đƣợc quan tâm trong thực tiễn cuộc sống và trong hệ thống pháp luật. Bởi ngoài việc xử lý kịp thời các hành vi vi phạm thì đây còn là biện pháp răn đe, giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của mọi công dân, bảo đảm tính hiệu quả của pháp luật. Do vậy, trong thời gian qua cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Đã có một số bài viết mang tính chất nghiên cứu một số nội dung của vấn đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật đƣợc đăng tải trên tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật… kể cả một số luận văn thạc sĩ và luận văn tiến sĩ luật học nghiên cứuliên quan. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu chủ yếu nhƣ: Hủy kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp của Phạm Thị Thu, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2002. Khóa luận này chỉ trình bày vấn đề mang tính chất khái quát về hủy việc kết hôn trái pháp luật mà không đi sâu phân tích vấn đề lý luận và thực tiễn. Hay nhƣ: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012 của Nguyễn Huyền Trang. Ở luận văn này, tác giả
  • 7. 3 đánh giá thực trạng của việc kết hôn trái pháp luật nhƣng chỉ đề cập mang tính sơ lƣợc về vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật. Một số các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật đƣợc đăng tải trên các Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Luật học… cũng đã có đề cập tới vấn đề này, tuy nhiên chỉ dừng lại một khía cạnh nào đó. Ví dụ nhƣ "Bàn về huỷ kết hôn trái pháp luật" của tác giả Thái CôngKhanh trên Tạp chí Toà ánnhân dân số 4, tháng 2/2007; "Có thể tuyên bố huỷ việc kết hôn trái pháp luật khi một bên kết hôn chết" của tác giả Trần Thiện Hoàng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 14, tháng 7/2011; "Nên cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi mấy đời?" của tác giả Ngô Cƣờng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 7, tháng 4/2013; "Thẩm quyền giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật thuộc Toà án nào?" của tác giả Nguyễn Thị Hƣơng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 20 tháng 10/2009; "Giải quyết việc kết hôn trái pháp luật như thế nào trong vụ án thừa kế" của tác giả Nguyễn Thị Hạnh trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23 tháng 12/2011; "Kết hôn - hậu quả pháp lý theo Luật Hôn nhân và gia đình" của tác giả Nguyễn Quang Hiền trên Tạp chí Toà án nhân dân số 10, tháng 5/2013; "Hoàn thiện quy định về các điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000" cuả tác giả TS. Nguyễn Văn Cừ trên Tạp chí Toà án nhân dân số 24, tháng 12/2013… Nhƣ vậy, có thể nhận thấy mỗi công trình nghiên cứu là sự khai thác khác nhau, nhìn nhận vấn đề dƣới các góc độ khác nhau. Với công trình của mình, tác giả tiếp cận vấn đề một cách tổng quan và đi sâu phân tích về lý luận cũng nhƣ thực tiễn của huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Do đó, công trình sẽ không phải là sự lặp lại của bất kỳ công trình nào trƣớc đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ khái niệm huỷ việc kết hôn trái pháp luật, căn cứ và đƣờng lối giải quyết huỷ việc kết hôn
  • 8. 4 trái pháp luật. Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cũng nhƣ các quy định pháp lý về vấn đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Đồng thời, phân tích, đánh giá, nhìn nhận thực trạng và xu hƣớng phát triển các quyđịnh của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trên cơ sở đó đƣa ra các giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật của Nhà nƣớc về vấn đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết đƣợc những nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về huỷ việc kết hôn trái pháp luật nhƣ: Quan niệm kết hôn, điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp luật; huỷ việc kết hôn trái pháp luật; - Nghiên cứu vấn đề điều chỉnh pháp luật trong việc huỷ việc kết hôn trái pháp luật nhƣ: nguyên tắc huỷ việc kết hôn trái pháp luật; các quy định về ngƣời có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật; các căn cứ huỷ việc kết hôn trái pháp luật; đƣờng lối giải quyết; hậu quả pháp lý của huỷ việc kết hôn trái pháp luật. - Đánh giá chung thực tiễn giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở làm rõ nhu cầu và phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình về huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Qua đó kiến nghị và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000; văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam qua các thời kỳ; thực tiễn áp dụng pháp luật trong huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong pháp luật hôn nhân và gia đình, vấn đề huỷ việc kết hôn tráipháp luật có thể đƣợc nghiên cứu dƣớinhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, với tên đề tài: Huỷviệckếthôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đìnhViệtNam năm 2000- Vấn đề lý luậnvà thực tiễn, luận
  • 9. 5 văn sẽchủyếu đềcập đến các vấn đề lý luận xung quanh khái niệm huỷ việc kết hôn trái pháp luật; những quy định về huỷ việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cũng nhƣ thực tiễn giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, từ đó tìm ra những bất cập và đƣa ra các phƣơng hƣớng giải quyết. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Cũng nhƣ mọi công trình khoa học khác phƣơng pháp luận sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài là phƣơng pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp bổ trợ nhƣ phƣơng pháp so sánh, tổng hợp, đối chiếu, lịch sử để nhằm đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện nhất. Trên cơ sở phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh vấn đề huỷ việc kết hôn trái pháp luật, đặc biệt đánh giá, phân tích về thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề này, để rút ra những ƣu điểm, tồn tại trong việc thi hành pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật. 6. Những điểm mới của luận văn So với những công trình nghiên cứu về hủy việc kết hôn trái pháp luật trƣớc đây, luận văn có những điểm mới nhƣ sau: - Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của quy định hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. - Luận văn nêu ra những hạn chế, vƣớng mắc trong quá trình thực hiện áp dụng pháp luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. - Luận văn đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
  • 10. 6 Với tƣ cách là một công trình khoa học nghiên cứu về vấn đềhủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ mang lại những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn. * Ý nghĩa khoa học - Luận văn phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. - Luận văn là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này về vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật - Luận văn chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập và kiến nghị hƣớng hoàn thiện về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Những ý kiến này có thể đƣợc sử dụng tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình trong thời gian sắp tới. * Ý nghĩa thực tiễn Qua nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn, luận văn đã chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập của vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đồng thời luận văn còn chỉ rõ sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Những ý kiến về phƣơng hƣớng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình trong luận văn có thể góp phần quan trọng trong thực tiễn thực hiện và áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1:Một số vấn đề lý luận về huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo pháp luật Việt Nam. Chương 2:Nội dung pháp luật Việt Nam hiện hành về huỷ việc kết
  • 11. 7 hôn trái pháp luật. Chương 3: Thực tiễn giải quyết, phƣơng hƣớng và giải pháp tăng cƣờng hiệu quả điều chỉnh pháp luật về huỷ việc kết hôn trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
  • 12. 8 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT HÔN, KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT. 1.1.1 Khái niệm kết hôn, điều kiện kết hôn. Sự kết hợp giữa ngƣời đàn ông và đàn bà là quy luật của tự nhiên. Trong lịch sử phát triển của loài ngƣời, từ thời kỳ sơ khai, khái niệm kết hôn chƣa hình thành, quan hệ giữa đàn ông và đàn bà là quan hệ tính giao bừa bãi, nhằm thỏa mãn nhu cầu bản năng và duy trì nòi giống. Khi con ngƣời thoát khỏi thời kỳ đồ đá, con ngƣời đã biết tổ chức cuộc sống dƣới hình thức thị tộc, bộ lạc. Mỗi thị tộc, bộ lạc tự đặt ra các quy tắc nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong tổ chức của mình và phù hợp với tổ chức chung của cộng đồng. Khi đó, quan hệ giữa ngƣời đàn ông và đàn bà không chỉ mang tính bản năng mà còn mang tính xã hội. Quan hệ đó chịu sự điều chỉnh bởi các tục lệ của thị tộc, bộ lạc và hình thành trên cơ sở huyết thống. Khái niệm kết hôn đơn giản chỉ là sự kết hợp rất tự nhiên của hai chủ thể nam - nữ, đƣợc xác lập trên cơ sở chung sống thực tế. Việc kết hôn đƣợc coi là hợp pháp khi nó tuân thủ các quy tắc đã đặt ra và đƣợc cả cộng đồng thừa nhận, cho phép. Cùng với sự phát triển của kinh tế và sự xuất hiện chế độ tƣ hữu dẫn đến sự ra đời của Nhà nƣớc, pháp luật đƣợc ban hành và trở thành công cụ của giai cấp thống trị để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mỗi một giai đoạn lịch sử, giai cấp thống trị điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật kết hợp với phong tục tập quán, các quy định tôn giáo cho phù hợp với ý chí của giai cấp mình nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp và nhằm ổn định trật tự xã hội nói chung. Các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật điều chỉnh phát triển thành các quan hệ pháp luật. Các quy tắc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và
  • 13. 9 gia đình do nhà nƣớc ban hành hoặc thể chế hóa trở thành pháp luật hôn nhân và gia đình. Thông qua Nhà nƣớc và pháp luật giai cấp thống trị tác động vào các quan hệ hôn nhân gia đình làm cho những quan hệ này phát sinh, thay đổi và chấm dứt phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Khi đó sự kết hợp giữa ngƣời nam và ngƣời nữ đƣợc điều chỉnh bởi pháp luật và khái niệm kết hôn dƣới góc độ pháp lý đƣợc hình thành. Dƣới góc độ pháp luật, kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng và theo nghi thức đƣợc pháp luật quy định. Việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng phải đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận mới đƣợc coi là kết hôn hợp pháp. Kết hôn là điểm khởi đầu, là cánh cửa mở ra cuộc sống hôn nhân. Kết hôn làm xác lập quan hệ hôn nhân, là cơ sở để hình thành gia đình. Từ sự kiện kết hôn sẽ làm phát sinh quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ - chồng. Cũng từ sự kiện kết hôn giữa hai ngƣời khác giới sẽ hình thành một gia đình với nhiệm vụ thực hiện đầy đủ các chức năng đối với xã hội, đó là chức năng sinh sản; chức năng giáo dục và chức năng kinh tế. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của sự kiện kết hôn, pháp luật nƣớc ta đã có những quy định chặt chẽ về điều kiện để việc kết hôn đƣợc coi là hợp pháp và đƣợc Nhà nƣớc công nhận, bảo hộ. Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Kết hôn là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”[19]. Nhƣ vậy, pháp luật nƣớc ta quy định kết hôn hợp pháp phải thỏa mãn hai điều kiện. Thứ nhất, chủ thể kết hôn phải thể hiện ý chí là mong muốn đƣợc kết hôn với nhau. Việc kết hôn, trƣớc tiên phải là sự thể hiện ý chí tự nguyện của hai bên nam nữ mong muốn xác lập quan hệ vợ chồng. Sự mong muốn ấy xuất phát từ tình cảm, từ tình yêu thƣơng của hai bên mà không phải bởi sự tác động của bất cứ ai, bất cứ động lực nào. Hai bên mong muốn kết hôn với nhau với mục đích cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc và cùng nhau sinh
  • 14. 10 con đẻ cái. Và ý chí của hai bên phải thống nhất với sự thể hiện ý chí. Sự thể hiện đó phải thông qua hành vi thực hiện các thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Đó là việc cả hai bên cùng nhau thực hiện nghi thức đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Thứ hai: Việc kết hôn phải đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận. Việc kết hôn hay không là phụ thuộc vào ý muốn của mỗi ngƣời, không pháp luật hay Nhà nƣớc nào bắt buộc họ phải kết hôn. Nhƣng chủ thể khi kết hôn họ phải chịusự điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và gia đình. Ngoài việc phải tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn họ còn phải thực hiện theo hình thức do pháp luật quy định, đó là việc đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn chính là hình thức thể hiện sự thừa nhận và bảo hộ của Nhà nƣớc. Có hai nghi thức kết hôn thƣờng đƣợc các nƣớc quy định là nghi thức dân sự và nghi thức tôn giáo. Có những nƣớc chỉ thừa nhận nghi thức dân sự nhƣ Pháp, Bỉ, Hà Lan Có những nƣớc chỉ thừa nhận nghi thức tôn giáo nhƣ các quốc gia Hồi giáo. Có những nƣớc chấp nhận cả hai nghi thức và ngƣời kết hôn có quyền lựa chọn một trong hai nghi thức khi kết hôn nhƣ Mỹ, Ý, Thuỵ Điển.... Có những nƣớc buộc phải thực hiện lần lƣợt cả hai nghi thức tôn giáo và dân sự nhƣ Vƣơng quốc Anh. Ở Việt Nam thời hiện đại, pháp luật chỉ thừa nhận nghi thức dân sự, đó là việc kết hôn phải đƣợc đăng ký tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Chỉ khi nào nam nữ đăng ký kết hôn và đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký kết hôn công nhận bằng hình thức cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn thì họ mới đƣợc coi là vợ chồng và khi đó quan hệ của họ mới đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận và bảo hộ. Việc đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là biện pháp để Nhà nƣớc kiểm soát việc tuân theo pháp luật của công dân trong việc kết hôn, đồng thời ngăn chặn những hiện tƣợng kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Đăng ký kết hôn còn là biện pháp bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho hai
  • 15. 11 bên nam nữ. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn có giá trị pháp lý quan trọng, là chứng cứ viết xác nhận giữa hai bên nam nữ đã phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng, là cơ sở xác định thời điểm phát sinh quan hệ vợ chồng, là cơ sở giải quyết khi phát sinh tranh chấp, là căn cứ để Nhà nƣớc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Mọi nghi thức khác nhƣ tổ chức lễ cƣới tại gia đình hoặc kết hôn theo nghi thức tôn giáo đƣợc tiến hành tại nhà thờ mà không có giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cấp thì không đƣợc công nhận là hợp pháp. Nhƣ vậy, kết hôn là cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác nhận chủ thể của quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và xác định rõ thời điểm làm phát sinh các quan hệ đó. Kết hôn phù hợp với các điều kiện luật định là căn cứ để Nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình đó. Từ khái niệm kết hôn, có thể thấy kết hôn và điều kiện kết hôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết hôn chỉ đƣợc coi là hợp pháp khi nó thỏa mãn điều kiện của kết hôn. Điều kiện là những yêu cầu buộc phải thực hiện trƣớc khi tiến hành một việc nào đó. Điều kiện kết hôn là tất cả những gì ngƣời kết hôn phải tuân thủ. Cùng với sự ra đời và phát triển của khái niệm kết hôn, các điều kiện kết hôn cũng đƣợc hình thành. Từ trƣớc khi có Nhà nƣớc, các điều kiện kết hôn chính là những quy tắc, tục lệ đƣợc đặt trong khuôn khổ của các tổ chức xã hội nhƣ thị tộc, bộ lạc. Khi chế độ tƣ hữu xuất hiện, Nhà nƣớc ra đời v à pháp luật đƣợc đặt ra nhằm thiết lập một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị. Mỗi một kiểu nhà nƣớc khác nhau quy định về điều kiện kết hôn khác nhau, pháp luật đã hƣớng việc kết hôn vào khuôn phép và các điều kiện hà khắc nhằm duy trì chế độ hôn nhân cƣỡng ép phụ thuộc vào cha mẹ hoặc các bậc thân trƣởng trong gia đình; thừa nhận chế độ đa thê; duy trì sự bất
  • 16. 12 bình đẳng giữa ngƣời đàn ông và ngƣời phụ nữ. Trong xã hội đƣơng đại, pháp luật thể hiện tính giai cấp nhƣng đồng thời cũng theo xu hƣớng chung, tính xã hội, tính nhân loại ngày càng thể hiện rõ nét hơn, pháp luật là sự kết tinh của các giá trị truyền thống, văn hóa, đạo đức dân tộc và tinh hoa nhân loại. Vì vậy, các điều kiện kết hôn cũng đƣợc quy định phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục, tập quán và tự nhiên của mỗi quốc gia. Nội dung các điều kiện kết hôn cũng bị chi phối bởi bản chất Nhà nƣớc và truyền thống dân tộc. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có những điều chỉnh và bổ sung đáng kể về điều kiện kết hôn tại Điều 9 và Điều 10 nhƣ sau: Về tuổi kết hôn, nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên; Việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định không bên nào đƣợc ép buộc, lừa dối bên nào, không ai đƣợc cƣỡng ép hoặc cản trở; cấm ngƣời đang có vợ hoặc có chồng kết hôn hoặc chung sống nhƣ vợ chồng với ngƣời khác; cấm ngƣời mất năng lực hành vi dân sự kết hôn; cấm kết hôn giữa những ngƣời có cùng dòng máu về trực hệ, giữa những ngƣời có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa những ngƣời đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dƣợng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; cấm kết hôn giữa những ngƣời cùng giới tính. So với các đạo luật trƣớc, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể hiện những điểm mới tiến bộ. Nhƣ, đã bỏ trƣờng hợp cấm kết hôn đối với ngƣời đang mắc bệnh hoa liễu. Bởi sự phát triển của y học đã có phƣơng pháp chữa trị căn bệnh này, việc bỏ điều kiện cấm kết hôn của ngƣời mắc bệnh hoa liễu nhằm bảo vệ quyền kết hôn của công dân. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thay cụm từ “đang mắc bệnh tâm thần, không có khả năng nhận thức hành vi của mình”
  • 17. 13 cuả Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 bằng cụm từ “mất năng lực hành vi dân sự”. Sự thay đổi này để bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với các quan hệ pháp luật khác nhƣ quan hệ dân sự, đất đai, hành chính, hình sự…. Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình bổ sung thêm việc cấm kết hôn giữa những ngƣời đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi; cấm kết hôn giữa bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dƣợng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Đây là sự bổ sung nhằm giữ ổn định các mối quan hệ trong gia đình và củng cố hơn nền tảng đạo đức của dân tộc Việt Nam. Luật còn quy định: cấm kết hôn giữa những ngƣời cùng giới tính. Đây là quy định mới, bởi trƣờng hợp nam, nữ cùng giới tính chung sống với nhau nhƣ vợ chồng đang diễn ra ngày càng nhiều và phổ biến. Việc quy định này thể hiện sự điều chỉnh kịp thời của pháp luật đối với những quan hệ xã hội mới phát sinh này. Về nghi thức kết hôn, ở các văn bản pháp luật trên đều quy định thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền là Ủy ban nhân dân cấp cơ sở nơi cƣ trú của bên nam hoặc bên nữ. Trong trƣờng hợp kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài thì cơ quan đại diện, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nƣớc ngoài thực hiện việc đăng ký kết hôn. Khi yêu cầu đăng ký kết hôn hai bên nam nữ phải cùng có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn nộp tờ khai đăng ký kết hôn và những giấy tờ cần thiết khác. Trong trƣờng hợp có lý do chính đáng, một trong hai bên không thể đến nộp hồ sơ đăng ký kết hôn thì có thể gửi đơn xin nộp hồ sơ tạm vắng mặt và phải có xác nhận của UBND cấp cơ sở nơi ngƣời vắng mặt cƣ trú. Khi các bên toàn tất thủ tục xin đăng ký kết hôn, đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký kết hôn cấp cho Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và ghi vào Sổ đăng ký kết hôn thì việc kết hôn mới có giá trị pháp lý. Đây là cơ sở pháp lý để Nhà nƣớc bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời kết hôn. Nhƣ vậy, trải qua những bƣớc thăng trầm của đất nƣớc pháp luật về
  • 18. 14 hôn nhân và gia đình cũng có những biến đổi đa dạng. Xuyên suốt chiều dài lịch sử lập pháp Việt Nam có thể thấy vấn đề kết hôn và điều kiện kết hôn luôn đƣợc đặt ra và có sự điều chỉnh cho phù hợp với mỗi kiểu Nhà nƣớc nhất định. Điều kiện kết hôn là những quy định của pháp luật do Nhà nƣớc ban hành buộc các chủ thể kết hôn phải tuân theo, đó là cơ sở xác định việc kết hôn là hợp pháp hay trái pháp luật. 1.1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật. Từ khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn có thể thấy khi việc kết hôn của hai bên nam nữ tuân thủ các điều kiện theo pháp luật quy định thì việc kết hôn đó đƣợc coi là hợp pháp. Các trƣờng hợp kết hôn không thỏa mãn điều kiện kết hôn thì đƣợc coi là kết hôn trái pháp luật. Theo khoản 3 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhƣng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định"[19]. Nhƣ vậy, chỉ coi là kết hôn trái pháp luật khi mang hai dấu hiệu cần và đủ, đó là, vi phạm một trong các điều kiện kết hôn đƣợc quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và có đăng ký kết hôn. Dấu hiệu có đăng ký kết hôn là để phân biệt với trƣờng hợp hai bên nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng dù có tuân thủ các điều kiện kết hôn hay không nhƣng không đăng ký kết hôn thì cũng không coi là kết hôn trái pháp luật. Bởi, về mặt pháp lý trong quan hệ này các chủ thể chƣa thực hiện hành vi kết hôn thì không thể coisự viphạm đó là kết hôn trái pháp luật đƣợc. Tại Bản dự luật về ly hôn, Các Mác khẳng định: "Không ai bị buộc phải kết hôn nhƣng ai cũng buộc phải tuân theo Luật Hôn nhân một khi ngƣời đó kết hôn. Ngƣời kết hôn không sáng tạo ra hôn nhân, cũng nhƣ ngƣời bơi lội không sáng tạo, không phát minh ra tự nhiên và những quy luật về nƣớc và trọng lực. Vì thế, hôn nhân không thể phục tùng sự tuỳ tiện của ngƣời kết hôn mà trái lại sự tuỳ tiện của ngƣời kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân." [6]. Quyền kết hôn là quyền của mỗi con ngƣời, nhƣng khi kết hôn
  • 19. 15 thì họ phải tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật, phải tuân thủ các điều kiện mà Nhà nƣớc quy định. Nếu vi phạm thì việc kết hôn của họ là trái pháp luật. Việc kết hôn trái pháp luật gây ảnh hƣởng tiêu cực tới sự ổn định của xã hội, tới sự quản lý của Nhà nƣớc. Về góc độ pháp lý, kết hôn trái pháp luật ảnh hƣởng trực tiếp tới quyền lợi chính đáng của công dân, ảnh hƣởng tới nhân quyền, tới sự nghiêm minh của pháp luật. Về mặt xã hội, một gia đình đƣợc xây dựng từ những "viên gạch" của sự tự nguyện, của tình yêu thƣơng của hai bên nam nữ, của sự bảo đảmvề thể lực và trí lực, của các giá trị đạo đức xã hội, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Khi gia đình đƣợc xây dựng trên nền tảng đó mới bảo đảm đƣợc sự bền vững, ổn định, hạnh phúc và có thể thực hiện tốt đƣợc các chức năng đối với xã hội. Nếu thiếu một trong các điều kiện đó gia đình sẽ không thể là một tế bào tốt cho xã hội, không bảo đảm đƣợc sự bền vững, hạnh phúc và không thể thực hiện đƣợc các chức năng đối với xã hội. Mặt khác, hành vi kết hôn trái pháp luật còn tác động tiêu cực tới các trật tự xã hội, là nguyên nhân của tình trạng ly hôn, tệ nạn xã hội, tội phạm gia tăng. Ngoài ra, điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong pháp luật là kết tinh của truyền thống văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Vì vậy, việc vi phạm điều kiện kết hôn sẽ làm ảnh hƣởng tới những giá trị văn hoá tốt đẹp của con ngƣời Việt Nam, ảnh hƣởng tới đạo đức, tƣ tƣởng, l ối sống của mỗi cá nhân. Kết hôn trái pháp luật là một hiện tƣợng xã hội và diễn ra ngày càng nhiều trong cuộc sống, nguyên nhân dẫn của hiện tƣợng đó xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau nhƣ yếu tố kinh tế - xã hội, văn hoá, pháp luật và conngƣời. Có thể thấy, kết hôn trái pháp luật là hành vi vi phạm quy định về điều kiện kết hôn, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội, tới sự ổn định và bền vững của gia đình, xâm phạm trật tự kỷ cƣơng của Nhà nƣớc và pháp luật, đến truyền thống đạo đức, phong tục, văn hoá của
  • 20. 16 dân tộc. 1.1.3. Khái niệm hủy việc kết hôn trái pháp luật. Xuất phát từ hệ quả của việc kết hôn trái pháp luật, yêu cầu ngăn chặn, xử lý và hạn chế kết hôn trái pháp luật là hết sức cần thiết và có ý nghĩa to lớn. Pháp luật quy định các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật gồm: huỷ việc kết hôn trái pháp luật hoặc xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Tuỳ từng trƣờng hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, chủ thể thực hiện mà áp dụng các biện pháp khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật hay còn gọi là biện pháp tiêu hôn đƣợc đề cập khá sớm trong lịch sử phát luật Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, tuy nhiên chƣa có văn bản pháp luật nào giải nghĩa "huỷ việc kết hôn trái pháp luật". Theo Từ điển Tiếng Việt, huỷ có nghĩa là làm cho không còn tồn tại hoặc không có giá trị nữa [30]. Có thể hiểu huỷ việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp làm cho việc kết hôn trái pháp luật không còn tồn tại hoặc làm cho việc kết hôn trái pháp luật không có giá trị nữa. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã có sự giải thích khá đầy đủ: "Huỷ việc kết hôn trái pháp luật đƣợc hiểu là biện pháp chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình đối với trƣờng hợp nam nữ kết hôn nhƣng không tuân thủ đầy đủ các điều kiện đƣợc Luật Hôn nhân và gia đình quy định" [26]. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định nào giải thích cụm từ “hủy việc kết hôn trái pháp luật” nhƣng tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của Luật này, Toà án xem xét và quyết định việc huỷ kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của Toà án, cơ quan đăng ký kết hôn xoá
  • 21. 17 đăng ký kết hôn trong Sổ đăng ký kết hôn"[19]. Có thể thấy, hủy việc kết hôn trái pháp luật là việc Tòa án theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tác động tới việc kết hôn trái pháp luật làm cho quan hệ đó không còn tồn tại hoặc không có giá trị pháp lý nữa. Đây là sự thể hiện thái độ không thừa nhận của Nhà nƣớc đối với việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng nhƣng không tuân thủ các quy định về điều kiện kết hôn. Là biện pháp chế tài nên các bên phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi từ hành vi vi phạm đó, giữa các bên không phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng. Nhƣ vậy, hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình, áp dụng cho các chủ thể có đăng ký kết hôn nhƣng không tuân thủ các điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình, thể hiện thái độ phủ nhận của Nhà nƣớc đối với quan hệ đó, các bên trong quan hệ không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng. Từ định nghĩa trên, cho thấy, hủy việc kết hôn trái pháp luật mang những đặc điểm cơ bản. Đó là, hủy việc kết hôn trái pháp luật thể hiện thái độ của Nhà nƣớc đối với quan hệ kết hôn trái pháp luật. Nhà nƣớc ta là nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả các chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đều đƣợc xây dựng và thực hiện xuất phát từ lợi ích của con ngƣời, cho con ngƣời, vì con ngƣời. Ngoài mục đích bảo vệ quyền con ngƣời, pháp luật còn bảo đảm trật tự xã hội, lợi ích chung của cả xã hội. Để đạt đƣợc mục đích đó thì mỗi công dân phải có ý thức tuân thủ pháp luật. Việc tuân thủ của mỗi cá thể trong xã hội sẽ đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận và bảo hộ. Còn các hành vi vi phạm quy định pháp luật đều phải xử lý. Hành vi không tuân thủ các điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình cũng sẽ bị xử lý. “Hủy” chính là sự thể hiện thái độ không đồng tình của Nhà nƣớc đối với hành vi vi phạm pháp luật. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn
  • 22. 18 đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Đây là loại chế tài phủ định pháp luật. Chế tài phủ định pháp luật là sự phản ứng tiêu cực của Nhà nƣớc đối với việc thực hiện không đúng các quy định pháp luật. Chế tài này thể hiện sự không thừa nhận tính chất pháp lý của quan hệ mới phát sinh. Nhƣ vậy, các chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi đối với hành vi vi phạm của mình. Hủy việc kết hôn trái pháp luật mang tính chất linh hoạt và mềm dẻo. Sự linh hoạt, mềm dẻo thể hiện trong nguyên tắc xử lý của Tòa án. Không phải tất cả các trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật Tòa án đều hủy, mà khi giải quyết Tòa án phải căn cứ vào hoàn cảnh, mức độ vi phạm, hậu quả để quyết định hủy hay không quan hệ đó. Hủy việc kết hôn trái pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Với tƣ cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng, do Nhà nƣớc ban hành, xuất phát từ thực tiễn xã hội, pháp luật nƣớc ta tất yếu phải đƣợc bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp chế tài. Biện pháp chế tài đƣợc áp dụng đối với những ngƣời vi phạm pháp luật trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục, thu hút sự tham gia của xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống các vi phạm. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài với mục đích xử lý những ngƣời có hành vi vi phạm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần vào việc xây dựng chế độ hôn nhân gia đình tự nguyện, tiến bộ, xây dựng gia đình mới xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thuần phong mỹ tục Việt Nam, đem lại hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong đời sống xã hội. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp để loại bỏ những mặt trái của pháp luật hôn nhân gia đình đồng thời có tác dụng ngăn chặn hành vi vi phạm các quy định điều kiện kết hôn. 1.2. ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ. 1.2.1. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong cổ
  • 23. 19 luật Việt Nam. Nhà nƣớc Việt Nam thời kỳ phong kiến với chế độ quân chủ, mọi quyền lực tập trung vào tay Vua, pháp luật ban hành là để bảo vệ vị trí đặc quyền của vua và các tầng lớp quan lại, gia trƣởng. Các đạo luật đều do vua ban hành. Di sản pháp luật thời kỳ này không còn đƣợc lƣu giữ nhiều, tiêu biểu cho pháp luật thời kỳ nà là hai bộ luật Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) đƣợc ban hành dƣới triều Lê (1428 – 1788) và Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) đƣợc ban hành năm 1815 dƣới thời Nguyễn. Đây là hai bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều Lê và triều Nguyễn, ban hành nhằm điều chỉnh những mối quan hệ hình sự và dân sự phát sinh trong đời sống xã hội phong kiến. Hai bộ luật này có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam, thể hiện sự tiến bộ và tinh hoa trong kỹ thuật lập pháp của ông cha ta. Bộ luật Hồng Đức gồm 13 chƣơng, ghi chép trong 6 quyển, 722 điều, quy định các vấn đề nhƣ Danh lệ, cấm vệ, quân lính, điều sản, hôn nhân và gia đình .... Bộ luật Gia Long gồm 398 điều, chia thành 22 quyển; 01 quyển phụ lục với những nội dung chính nhƣ Biểu kê các luật lệ, Danh lệ, Lại luật, Hộ luật, Hình luật...Trong cả hai bộ luật đều có quy định về các trƣờng hợp tiêu hôn. Tiêu hôn là biện pháp xử lý trƣờng hợp vi phạm các điều kiện về cấm kết hôn. Tuy nhiên hôn nhân là một quan hệ có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt đốivới vợ chồng, các con và gia đình. Do vậy, mà cả hai bộ luật trên đều có những điều kiện nhằm giới hạn những trƣờng hợp có thể tiêu hủy hôn nhân. Pháp luật có sự phân biệt trƣờng hợp vi phạm điều kiện thƣờng và trƣờng hợp vi phạm các điều kiện chủ yếu để có những biện pháp xử lý tƣơng ứng. Đối với trƣờng hợp điều kiện thiết yếu thì pháp luật không công nhận tính hợp pháp và bị tiêu hủy. Còn đối với trƣờng hợp vi phạm điều kiện thƣờng thì có thể chỉ bị phạt mà hôn nhân vẫn tồn tại, không bị tiêu hủy. Ví dụ, Điều 316 Bộ luật Hồng Đức quy định: Đối với những
  • 24. 20 trƣờng hợp khi các bên kết hôn đã vi phạm nghiêm trọng các điều kiện cấm kết hôn, tức là đã vi phạm vào các điều kiện thiết yếu thì pháp luật không công nhận tính hợp pháp của việc kết hôn đó và cần phải tiêu hủy [32]. Điều 317 và Điều 323 quy định: các bên sẽ phải chia lìa hoặc phải ly dị khi vi phạm vào các điều kiện quan trọng của việc xác lập hôn nhân [32]. Theo quy định của hai bộ luật này, việc tiêu hủy chỉ có hiệu lực trong tƣơng lai mà không có giá trị trở về trƣớc, tức là kể từ thời điểm kết hôn đến khi bị tiêu hủy thì hôn nhân vẫn đƣợc coi là có giá trị pháp lý. Đây là điểm khác với pháp luật hiện hành, pháp luật hiện hành không công nhận quan hệ vợ chồng kể từ thời điểm kết hôn. Hậu quả pháp lý của việc tiêu hôn là các bên phải chia lìa hoặc ly dị, tức là hậu quả pháp lý của việc tiêu hôn đƣợc giải quyết nhƣ trƣờng hợp ly hôn trong pháp luật hiện hành. Nhƣ vậy, có thể thấy trong cổ luật kết hôn bị coi là vô hiệu khi vi phạm một trong các điều kiện cấm kết hôn. Tuy nhiên, không phải tất cả các trƣờng hợp kết hôn vô hiệu đều bị tiêu hủy, chỉ những trƣờng hợp vi phạm nghiêm trọng các điều kiện kết hôn mới bị tiêu hủy, còn những trƣờng hợp vi phạm những điều kiện thƣờng thì không bị tiêu hủy mà đƣơng sự có thể phải chịu những hình phạt nhất định. Hậu quả của việc tiêu hủy hôn nhân là buộc các bên phải chấm dứt quan hệ chung sống. Hai bộ luật này thể hiện sự tiến bộ trong việc bảo vệ quyền lợi của gia đình và sự ổn định của xã hội, thể hiện những nét đặc thù mang đậm phong tục, tập quán của ngƣời Việt Nam. Pháp luật hiện hành cũng là sự kế thừa có chặt lọc những tinh hoa đó. 1.2.2. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật thời kỳ Pháp thuộc. Thời kỳ Pháp thuộc là thời kỳ Việt Nam chịu sự cai trị của thực dân Pháp, thực hiện chính sách "chia để trị" nên thực dân Pháp bắt tay với triều đình nhà Nguyễn ký kết bản "Hiệp ƣớc hoà bình" ngày 25/8/1883, theo đó nƣớc ta đƣợc chia làm ba miền: Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Bắc Kỳ và
  • 25. 21 Trung Kỳ là xứ bảo hộ của Pháp. Dựa theo Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp (1804), thực dân Pháp đã ban hành ba Bộ luật dân sự. Trong đó, tại Bắc Kỳ là Bộ Dân luật năm 1931; tại Trung Kỳ là Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936; tại Nam Kỳ là Bộ Dân luật Giản yếu năm 1883. Ba bộ luật đều có những quy định khác nhau về điều kiện kết hôn song cùng chung đặc điểm là tập trung vào các vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích của ngƣời kết hôn, con cái, gia đình và xã hội. Nếu vi phạm các điều kiện kết hôn thì việc kết hôn là vô hiệu và có thể bị tiêu hủy. Ba bộ luật trên phân biệt hôn nhân vô hiệu thành hai loại là vô hiệu tƣơng đối và vô hiệu tuyệt đối. Vô hiệu tƣơng đối chỉ do một số ngƣời nhất định mà pháp luật quy định mới có quyền yêu cầu tiêu hủy hôn nhân đó và sự vô hiệu ấy có thể bị mất đi do một sự kiện nào đó xuất hiện. Vô hiệu tuyệt đối thì có thể bất cứ ngƣời nào cũng có quyền yêu cầu tiêu hủy và sự vô hiệu ấy không bị mất đi do một thời hiệu hoặc một sự kiện nào. Thẩm quyền tuyên bố tiêu hủy hôn nhân vô hiệu thuộc về Tòa án. Hậu quả của việc tiêu hủy có sự quy định khác nhau trong ba Bộ Dân luật này. Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Bộ Dân luật Trung Kỳ đều dựa trên nguyên tắc giảm bớt hậu quả đối với các chủ thể kết hôn cũng nhƣ đối với con cái họ. Vì vậy, quy định về hậu quả cũng không quá nghiêm ngặt, nhƣ khi việc kết hôn bị tiêu hủy thì việc tiêu hủy đó chỉ có hiệu lực trong tƣơng lai, có nghĩa là trƣớc khi bị tiêu hủy quan hệ hôn nhân giữa họ vẫn phát sinh hiệu lực pháp lý, quan hệ vợ chồng, cha, mẹ - con cũng đƣợc công nhận, con sinh ra vẫn là con trong giá thú (con chính thức). Điều 89 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định: Phàm có giá thú mà sinh con dẫu sau có sự tiêu hôn, không cớ vì duyên cớ gì, những đứa con ấy vẫn là con chính thức, thuộc về quyền lợi, nghĩa vụ của cha mẹ, những đứa con ấy thì cũng theo một lệ định nhƣ khi ly hôn. Các bên chỉ chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ khi kết hôn bị tiêu hủy. Tức là, hậu quả pháp lý của tiêu hủy việc kết hôn trái pháp luật cũng giống nhƣ giải quyết trƣờng hợp ly hôn. Trái lại, trong Bộ Dân luật giản yếu lại quy định rất khắt khe, nghiêm khắc
  • 26. 22 hơn rất nhiều so với hai bộ luật trên: Khi việc kết hôn bị tiêu hủy thì nó không có hiệu lực gì, không những trong tƣơng lai mà cả trong quá khứ nữa. Đối với hai vợ chồng thì kể từ ngày họ kết hôn cho đến khi việc kết hôn đó bị tiêu hủy họ không phải là vợ chồng của nhau, có nghĩa là hai bên chƣa hề xác lập quan hệ hôn nhân với nhau. Nhƣ vậy, về quan hệ nhân thân, giữa họ không tồn tại quan hệ vợ chồng, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng. Về quan hệ cha, mẹ - con, cũng không phát sinh quan hệ cha, mẹ - con trong giá thú mà chỉ coi là con ngoài giá thú. Đối với tài sản, nếu họ có tài sản chung là tài sản đó đƣợc thanh toán nhƣ trong trƣờng hợp hai ngƣời góp sức, góp công làm ra. Nhƣ vậy, ở Bộ Dân luật Nam Kỳ là sự phủ nhận hoàn toàn các quan hệ phát sinh từ việc kết hôn trái pháp luật. Có thể thấy, pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng trong thời kỳ Pháp thuộc phản ánh những đặc điểm riêng biệt của lịch sử. Pháp luật khi đó chịu tác động bởi hai luồng tƣ tƣởng là t ƣ tƣởng phong kiến và tƣ tƣởng thực dân. Ở khu vực Trung Kỳ và Bắc Kỳ, ngoài những quy định bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị thì còn có những quy định mang đậm màu sắc phong kiến, phong tục tập quán của Việt Nam; Riêng khu vực Nam Kỳ, do chịu tác động của quy chế thuộc địa Pháp, chế độ cai trị thể hiện sự áp đặt hoàn toàn pháp luật thực dân. Những quy định của pháp luật thời kỳ này đã làm phong phú thêm kho tàng pháp lý của nƣớc ta. 1.2.3. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975. Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đánh dấu sự ra đời của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nƣớc dân chủ độc lập đầu tiên của nƣớc ta. Nhà nƣớc mới non trẻ và đầy những thách thức, đòi hỏi một hệ thống pháp luật mới. Vào thời kỳ này, quan hệ sản xuất phong kiến vẫn còn tồn tại, việc xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu không phải dễ dàng,
  • 27. 23 nhanh chóng và không thể thực hiện bằng các văn bản pháp luật mang tính mệnh lệnh. Việc thay đổi đòi hỏi phải kiên trì, bởi những tƣ tƣởng, phong tục, tập quán lạc hậu tồn tại từ lâu đã ăn sâu vào trong tiềm thức của nhân dân ta. Vì vậy, sau cách mạng tháng 8/1945 Nhà nƣớc ta chƣa ban hành ngay một đạo luật cụ thể nào để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình mà tiến hành phong trào “vận động đời sống mới”, nhằm vận động quần chúng nhân dân tự nguyện xóa bỏ những hủ tục phong kiến lạc hậu trong đời sống hôn nhân và gia đình. Vì vậy, ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 90/SL cho phép vận dụng những quy định trong pháp luật cũ có chọn lọc quy lệ và chế định trong các bộ dân luật cũ, theo nguyên tắc không trái với lợi ích của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa và lợi ích của nhân dân lao động. Năm 1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nƣớc Việt Nam ban hành, đánh dấu một bƣớc ngoặt mới trong lịch sử lập pháp của nƣớc ta. Với tính chất là đạo luật nguồn, Hiến pháp năm 1946 là cơ sở pháp lý quan trọng để Nhà nƣớc ta ban hành các văn bản pháp luật khác, trong đó có Luật Hôn nhân và gia đình. Đó cũng là cơ sở pháp lý để đấu tranh xóa bỏ những hủ tục của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới dân chủ và tiến bộ. Tình hình phát triển của xã hội về mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự trong quá trình đấu tranh cách mạng chống đế quốc và phong kiến, cùng với sự phát triển của phong trào giải phóng phụ nữ, đòi hỏi phải xóa bỏ một số chế định trong các bộ dân luật cũ về các quan hệ hôn nhân và gia đình đang cản trở bƣớc tiến của xã hội, đồng thời Nhà nƣớc ta cần phải quy định những nguyên tắc mới về hôn nhân và gia đình cho phù hợp với thực tế. Năm 1950 Nhà nƣớc ta đã ban hành hai Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, đó là Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159-SL ngày
  • 28. 24 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn. Hai Sắc lệnh này đã góp phần vào việc xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, thể hiện tính dân chủ và tiến bộ của nền pháp chế mới. Tuy nhiên, cả hai Sắc lệnh này đều không có quy định về hủy việc việc kết hôn trái pháp luật. Từ năm 1954, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nƣớc tạm chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Miền Bắc đƣợc giải phóng bƣớc vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, đấu tranh thống nhất đất nƣớc. Ở miền Bắc, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đƣợc Quốc hội khóa I kỳ họp thứ 11 thông qua vào này 29/12/1959. Đây là đạo luật đầu tiên của Nhà nƣớc ta về hôn nhân và gia đình, khẳng định bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, là công cụ của Nhà nƣớc ta, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động, nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chính là xóa bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu; xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định cụ thể những điều kiện kết hôn và trƣờng hợp cấm kết hôn để bảo đảm hôn nhân thực sự an toàn, lành mạnh và tiến bộ. Nhƣ vậy, những trƣờng hợp vi phạm điều kiện kết hônchính là vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa cần phải xử lý. Tuy nhiên, trong văn bản pháp luật này không có quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật. Biện pháp xử lý đối với việc kết hôn trái pháp luật đƣợc ghi nhận tại văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm1959. Tại công văn số 1264 ngày 01/11/1966, Tòa án nhân dân Tối cao đã gửi các Tòa án địa phƣơng dự thảo thông tƣ hƣớng dẫn việc xử lý về dân sựnhững hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn do luật định. Dự thảo này có tác dụng bƣớc đầu hƣớng dẫn về đƣờng lối và thủ tục xét xử. Qua kinh nghiệm thực tiễn xét xử và đóng góp ý kiến của Tòa án nhân dân địa phƣơng, Tòa ánnhân dân Tối cao đã có hƣớng dẫn đầy đủ hơn việc xử lý về dân sự những
  • 29. 25 hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn tại Thông tƣ số 112-NCPL ngày 19/8/1972. Theo hƣớng dẫn này thì đƣờng lối chung là khi xử lý về dân sựđối với những vi phạm điều kiện kết hôn xảy ra sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ban hành cần căn cứ vào tình hình thực tế mà có sự phân biệt khác nhau nhƣ: Cần xử tiêu hôn những vi phạm điều kiện kết hôn đang tiếp diễn và tính chất nghiêm trọng nhƣ tảo hôn, cƣỡng ép kết hôn, đang có vợ, có chồng mà lấy vợ hoặc chồng khác, lấy ngƣời trong họ hàng mà Luật tuyệt đối cấm kết hôn; ngƣời đang mắc một trong những bệnh tật mà Luật cấm kết hôn. Với những hôn nhân trƣớc đây vi phạm điều kiện kết hôn nhƣng nay đã chấm dứt hoặc vi phạm không có tính chất nghiêm trọng và có thể sửa chữa dễ dàng nhƣ: kết hôn không đăng ký thì xử lý theo đƣờng lối ly hôn nhằm chiếu cố đến quyền lợi của đƣơng sự nhất là phụ nữ và con cái của họ, cũng nhƣ chiếu cố đến phong tục tập quán của địaphƣơng Những trƣờng hợp kết hôn do vi phạm điều kiện kết hôn theo luật định thì hôn nhân đó cần phải xử tiêu hôn. “Xử tiêu hôn là quyết định chấm dứt những hôn nhân bất hợp pháp” [16]. Điều đó có nghĩa là hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn là hôn nhân bất hợp pháp cần phải xử tiêu hôn. Đó là biện pháp nhằm đấu tranh chống việc vi phạm pháp luật, đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nƣớc không thừa nhận quan hệ vợ chống đối với nam nữ kết hôn không tuân thủ quy định về điều kiện kết hôn. Việc tiêu hôn sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối với chủ thể kết hôn về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Về nguyên tắc, khi hôn nhân bị Tòa án tiêu hủy thì có hiệu lực cả trong quá khứ và tƣơng lai, tức là giữa họ không phát sinh quan hệ vợ chồng kể từ khi chung sống với nhau. Khi Tòa án hủy hôn nhân, họ phải chấm dứt quan hệ chung sống bất hợp pháp, mọi quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng không phát sinh. Quan hệ cấp dƣỡng giữa hai bên không đƣợc đặt ra. Về quan hệ tài sản, tài sản riêng của ai thuộc về ngƣời đấy, tài sản chung đƣợc chia
  • 30. 26 theo công sức đóng góp, những khoản chi tiêu riêng của ai thì ngƣời đó phải trả. Bởi tính khắt khe đó nên Tòa án nhân dân Tối cao đã hƣớng dẫn cụ thể đối với một số trƣờng hợp, mặc dù có vi phạm điều kiện kết hôn nhƣng không nghiêm trọng thì không tiêu hôn mà chỉ xử theo thủ tục ly hôn nếu các đƣơng sự yêu cầu nhằm bảo đảm quyền lợi của đƣơng sự, nhất là quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Ở miền Nam, từ năm 1954 đến năm 1975, chế độ Ngụy quyền Sài Gòn ban hành một hệ thống pháp luật riêng. Pháp luật về hôn nhân và gia đình tập trung trong ba văn bản pháp luật là Luật Gia đình ngày 02/1/1959 dƣới chế độ Ngô Đình Diệm, Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng và Bộ dân luật ngày 20/12/1972 của chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Trong thời kỳ này việc kết hôn của hai bên nam nữ phải tuân theo các quy định về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn nếu một trong hai bên vi phạm thì hôn thú sẽ vô hiệu và sẽ bị tiêu hủy. Hôn thú vô hiệu khi vi phạm độ tuổi; sự tự nguyện của các bên kết hôn, không có sự ƣng thuận của cha mẹ, ông bà, ngƣời giám hộ; vi phạm điều cấm kết hôn; vi phạm hình thức kết hôn: Hôn lễ cử hành không công khai hay do một hộ lại vô thẩm quyền, với điều kiện cử hành hôn lễ trái phép có tính cách gian lận. Khi hôn thú vô hiệu thì vợ chồng, cha, mẹ, ông bà, ngƣời giám hộ, công tố viên có quyền yêu cầu tiêu hôn. Hôn thú sẽ không bị tiêu hủy đối với trƣờng hợp ngƣời kết lập hôn thú đã đến tuổi trƣởng thành, hơặc nếu ngƣời đàn bà đã thụ thai hoặc có con hoặc trƣờng hợp hôn thú đã đƣợc thừa nhận một cách công nhiên, hoặc mặc nhiên, hoặc biết việc lập hôn thú mà để yên một năm không khiếu nại. Hậu quả của việc tiêu hủy hôn thú, tại Bộ dân luật năm 1972 quy định: Mặc dù hôn thú bị tiêu hủy, các con, nếu có, vẫn đƣợc coi là con chính thức. Về quan hệ vợ chồng, phát luật vẫn thừa nhận quan hệ vợ chồng từ khi kết hôn đến khi bị tuyên hủy, sự tiêu hủy không có hiệu lực hồi tố đối với vợ chồng. Về quan hệ tài sản, giải quyết nhƣ đối với trƣờng hợp ly hôn, sự thanh toán tài sản sau khi tiêu hôn sẽ
  • 31. 27 làm nhƣ trong trƣờng hợp ly hôn. Luật Gia đình năm 1959 quy định hôn thú có thể bị vô hiệu trong những trƣờng hợp sau: khi không có sự ƣng thuận của một hoặc hai bên, nếu một bên đã ƣng thuận vì bị nhầm lẫn về ngƣời hoặc về căn cƣớc thì bên bị nhầm lẫn có thể kiện xin tiêu hôn. Tƣơng tự, trƣờng hợp bị cƣỡng bức kết hôn cũng có thể xin tiêu hôn. Nếu ngƣời bị nhầm lẫn hoặc bị cƣỡng bức còn vị thành niên thì cha mẹ của ngƣời đó có quyền khởi tố xin tiêu hôn. Quyền kiện xin tiêu hôn chỉ có giá trị trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày phát hiện sự nhầm lẫn, hoặc hết sự cƣỡng bức. Hôn thú có thể bị kiện xin xửtiêu hôn vì sự bất lực vĩnh viễn đã có trƣớc khi lập hôn thú của một trong hai bên. Quyền kiện tiêu hôn trong trƣờng hợp này chỉ có giá trị trong thời hạn một năm, kể từ khi khám phá ra sự bất lực. Nếu nam chƣa đủ 18 tuổi, nữ chƣa đủ 15 tuổi đã kết hôn mà không đƣợc đặc cách cho miễn tuổi thì cũng bị xử tiêu hôn. Tuy nhiên, đến thời điểm bị phát giác mà hai bên đã đủ tuổi kết hôn, hoặc ngƣời vợ đã thụ thai thì sẽ không bị tiêu hôn. Những ngƣời bị cấm kết hôn mà kết hôn thì hôn thú đó bị vô hiệu. Hôn thú cũng có thể bị tiêu hôn nếu sau khi ly hôn lần trƣớc mà ngƣời vợ đã tái hôn trƣớc mƣời tháng, kể từ ngày bản á n có hiệu lực; hoặc khi quả phụ tái giá trƣớc mƣờitháng, kể từ ngày chồng chết. Con sinh trong các cuộc hôn thú bị tuyên là vô hiệu bị coi nhƣ con ngoạihôn. Nếu hôn thú bị vô hiệu do lỗi của một bên có gian ý thì ngƣời có gian ý có thể bị phạt giam từ ba tháng đến một năm và có thể bị phạt tiền từ một ngàn đến 100 ngàn đồng. Bên ngay tình có thể đƣợc tòa án tuyên bên có gian ý bồithƣờng thiệt hại một khoản tiền. Nhƣ vậy, hủy việc kết hôn trái pháp luật hay còn gọi là tiêu hôn thời kỳ này có nhiều nét tƣơng đồng với các bộ dân luật thời Pháp thuộc nhƣng có pha trộn những nét phong tục tập quán của ngƣời Việt Nam. Mặc dù pháp luật của chế độ Ngụy quyền Sài Gòn là pháp luật của chính quyền bù nhìn tay sai do Mỹ dựng lên nhƣng không chịu ảnh hƣởng của pháp luật Mỹ, đây là đặc
  • 32. 28 điểm khác biệt so với thời kỳ Pháp thuộc. 1.2.4. Những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay. Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nƣớc thống nhất. Năm 1980 Hiến pháp mới đƣợc ban hành thay thế cho Hiến pháp năm 1959. Tình hình kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 bắt đầu thể hiện những bất cập cần phải sửa đổi cho phù hợp với các quan hệ hôn nhân và gia đình trong tình hình mới. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 bao gồm 10 chƣơng 57 điều, đƣợc xây dựng và thực hiện trên các nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ; hôn nhân một vợ một chồng; vợ chồng bình đẳng; bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con; bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Trong đó có các quy định cụ thể về các điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp luật, hình thức xử lý đối với kết hôn trái pháp luật. Các quy định về điều kiện kết hôn về cơ bản vẫn giống nhƣ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 nhƣ độ tuổi kết hôn, sự tự nguyện .. nhƣng có những sửa đổi phù hợp hơn. Diện cấm kết hôn đƣợc quy định theo hƣớng thu hẹp hơn nhƣng vẫn trên nguyên tắc gìn giữ thuần phong mỹ tục của dân tộc. Có thể khẳng định Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là văn bản đầu tiên đề cập đến khái niệm “hủy việc kết hôn trái pháp luật”. Tại Điều 9 quy định: “Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của Luật này là trái pháp luật. Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của ngƣời đang có vợ, có chồng mà kết hôn với ngƣời khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền
  • 33. 29 yêu cầu Toà án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Tài sản của những ngƣời mà hôn nhân bị huỷ đƣợc giải quyết theo nguyên tắc: tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của ngƣời ấy; tài sản chung đƣợc chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên; quyền lợi chính đáng của bên bị lừa dối hoặc bị cƣỡng ép kết hôn đƣợc bảo vệ. Quyền lợi của con đƣợc giải quyết nhƣ trong trƣờng hợp cha mẹ ly hôn” [17]. Nhƣ vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có những quy định chi tiết hơn rất nhiều so với các văn bản trƣớc đây về hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trƣờng hợp kết hôn vi phạm một trong các điều 5, điều 6, điều 7 của Luật này là trái pháp luật. Đó là một số những trƣờng hợp nhƣ: kết hôn giữa những ngƣời đang có vợ hoặc có chồng; đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình; đang mắc bệnh hoa liễu; giữa những ngƣời cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; giữa những ngƣời có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi ... Pháp luật quy định ngƣời có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật gồm có hai nhóm, cá nhân và cơ quan, tổ chức. Cá nhân gồm: Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của ngƣời đang có vợ, có chồng mà kết hôn với ngƣời khác. Cơ quan, tổ chức gồm Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam [17]. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có quy định khá cụ thể đối với các chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, bảo đảm thuận lợi và cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền yêu cầu. Tuy nhiên phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu còn hẹp, không bảo đảm đƣợc hết quyền lợi của những ngƣời có liên quan đến việc kết hôn trái pháp luật. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 còn quy định về hậu quả cuả hủy việc kết hôn trái pháp luật. Về tài sản, theo nguyên tắc: tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của
  • 34. 30 ngƣời ấy; tài sản chung đƣợc chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗibên. Nhƣ vậy, quan hệ tài sản phát sinh đƣợc xác định là tài sản chung theo phần, không phải là tài sản chung hợp nhất nhƣ đối với vợ chồng. Về con cái, giải quyết nhƣ đối với trƣờng hợp ly hôn. Tức là việc kết hôn trái pháp luật không ảnh hƣởng tới quan hệ cha, mẹ - con. Nhƣ vậy, những quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã tạo nền tảng cho những quy định chi tiết của Luật Hôn nhân và gia đình giai đoạn kế tiếp. Tuy nhiên, những quy định này còn nhiều hạn chế, mang tính khái quát, định khung, chƣa cụ thể gây khó khăn trong việc áp dụng. Qua 10 năm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã bộc lộ những hạn chế, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự vận động của các quan hệ hôn nhân và gia đình trong cơ chế thị trƣờng. Vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đƣợc Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 7 thông qua vào ngày 09/6/2000, có hiệu lực ngày 01/01/2001. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đƣợc cấu thành bởi 13 chƣơng, 110 điều là bƣớc tiến đáng kể đạt tầm vóc của một bộ luật. Bên cạnh sự hoàn chỉnh về quy mô, hình thức, những nội dung của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đƣợc quy định hoàn chỉnh và chặt chẽ hơn, trong đó phải kể đến quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trƣớc đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật đƣợc quy định gói gọn tại một điều (Điều 9) của Luật thì tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đƣợc quy định chi tiết tại ba điều (Điều 15, Điều 16, Điều 17). Nội dung các quy định cũng có sự chi tiết, cụ thể hơn. Phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật cũng mở rộng hơn, bảo đảm quyền lợi cho ngƣời liên quan, bảođảm cho việc phát hiện hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn kịp thời, hiệu quả. Việc quy định đƣờng lối giải quyết và hậu quả pháp lý thể hiện sự chi tiết và dễ áp dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, qua hơn mƣời năm thi hành, áp dụng cho
  • 35. 31 đến thời điểm hiện nay, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã thể hiện những hạn chế nhất định, ảnh hƣởng đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về hủy việc kết hôn trái pháp luật. Vì lẽ đó, cần phải có những nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Nhƣ vậy, nhìn lại quá trình lập pháp Việt Nam từ cổ luật cho đến hiện đại, trải qua những biến động của lịch sử vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật cũng có những nét thăng trầm riêng. Vấn đề điều kiện kết hôn luôn đƣợc quan tâm trong tất cả các quy định pháp luật từ cổ đến kim nhƣng không phải ở bất cứ văn bản pháp luật nào hủy việc kết hôn trái pháp luật cũng đƣợc đặt ra. Trong thời kỳ phong kiến, thực dân, để củng cố địa vị của giai cấp thống trị nên việc xử lý các hành vi vi phạm về điều kiện kết hôn bằng biện pháp tiêu hôn cũng rất đƣợc quan tâm. Đến thời kỳ Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa đƣợc thành lập, đất nƣớc vừa bắt đầu chuyển sang một chế độ mới vừa là nhà nƣớc non trẻ vừa phải tập trung thực hiện nhiệm vụ quan trọng chống giặc và xây dựng đất nƣớc nên vấn đề xử lý vi phạm pháp luật về điều kiện kết hôn không đƣợc mấy chú trọng. Khi đất nƣớc thống nhất, mọi quan hệ kinh tế xã hội, chính trị dần ổn định, vấn đề hủy việc kết hôn trái pháp luật đƣợc quan tâm hơn. Và đến giai đoạn hiện nay, đất nƣớc đang vƣơn lên, kinhtế phát triển với nhiều quan hệ xã hội cũ và mới đan xen, các vi phạm về điều kiện kết hôn diễn ra phổ biến và có những biến thể đa dạng. Vì vậy, việc ngăn ngừa và xử lý các vi phạm đó là điều đƣợc cả Nhà nƣớc và xã hội quan tâm. Cùng với sự phát triển chung của hệ thống pháp luật, những văn bản quy định về hủy việc kết hôn trái pháp luật đƣợc quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản dƣới luật đã thể hiện sự phù hợp, linh hoạt và tiến bộ khẳng định đƣợc bản chất của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa.
  • 36. 32 CHƢƠNG 2 NỘI DUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT 2.1. NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT. Mọi trƣờng hợp kết hôn không tuân thủ một trong các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định đều bị coi là kết hôn trái pháp luật. Về nguyên tắc, mối quan hệ đó không đƣợc Nhà nƣớc công nhận và bảo vệ. Ngoài ra, mối quan hệ này còn bị điều chỉnh bởi các biện pháp chế tài do Nhà nƣớc quy định. Biện pháp chế tài đối với việc kết hôn trái pháp luật là hủy việc việc kết hôn trái pháp luật đó. Thẩm quyền huỷ chỉ thuộc về một cơ quan Nhà nƣớc duy nhất có chức năng xét xử là Tòa án nhân dân. Có thể nói, hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình thể hiện thái độ phủ định của Nhà nƣớc đối với các trƣờng hợp kết hôn trái pháp luật. Theo Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của Luật này, tòa án xem xét và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật ...” [19]. Về nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm một trong các điều kiện kết hôn đƣợc quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình là trái pháp luật, khi có yêu cầu, Tòa án có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. Tuy nhiên, hủy việc kết hôn trái pháp luật không những ảnh hƣởng trực tiếp tới cuộc sống của chủ thể đã thực hiện hành vi kết hôn trái pháp luật mà còn ảnh hƣởng tới gia đình, xã hội và đặc biệt là con cái họ. Bởi vậy, nhiệm vụ của cơ quan Tòa án rất nặng nề, đằng sau mỗi quyết định của Tòa án là bƣớc ngoặt cuộc đời của bao nhiêu con ngƣời, mỗi quyết định là một minh chứng cho tính hiệu quả của cả hệ thống pháp luật. Vì vậy, khi xử lý các trƣờng hợp này, Tòa án phải có trách nhiệm làm rõ từng hành vi, chỉ ra từng hoàn cảnh vi phạm, phân tích mọi chi tiết, tính chất, mức độ vi phạm, tìm
  • 37. 33 hiểu sâu sắc tâm lý chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, đặc biệt, cần phải xem xét, đánh giá thực tế cuộc sống chung đó. Trên cơ sở đó áp dụng một cách linh hoạt các chế tài tƣơng ứng để có sự định đoạt thấu tình đạt lý nhằm đạt đƣợc mục tiêu chung. Xuất phát từ tính chất đặc thù của đối tƣợng điều chỉnh trong quan hệ hôn nhân và gia đình, khi giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật Tòa án cần phải áp dụng nguyên tắc sau: Chỉ hủy việc kết hôn trái pháp luật đối với những trƣờng hợp vi phạm điều kiện kết hôn đang tiếp diễn và có tính nghiêm trọng. Tức là, tại thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì các chủ thể vẫn đang tiếp tục vi phạm các điều kiện kết hôn. Tính nghiêm trọng đƣợc thể hiện ở việc kết hôn trái pháp luật đã và sẽ ảnh hƣởng tới quyền lợi chính đáng của ngƣời kết hôn, ảnh hƣởng tới thuần phong mỹ tục của dân tộc, tới trật tự xã hội, hậu quả của hành vi vi phạm là không thể ngăn chặn và khắc phục đƣợc. Vì vậy, đối với trƣờng hợp này Tòa án cần hủy để bảo vệ cá nhân, gia đình và xã hội. Đối với các trƣờng hợp trƣớc đây vi phạm điều kiện kết hôn nhƣng nay đã chấm dứt hoặc vi phạm không có tính nghiêm trọng và có thể khắc phục đƣợc các hậu quả phát sinh thì không nhất thiết phải hủy. Tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã hƣớng dẫn, việc miễn hủy kết hôn trái pháp luật đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp tại thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà đƣơng sự đã đạt độ tuổi kết hôn, với điều kiện là “trong thời gian đã qua, họ chung sống bình thƣờng, đã có con, có tài sản chung” [29] thì không bị hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. Nhƣ vậy, nguyên tắc để Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật rất mềm dẻo, khi giải quyết cơ quan xét xử cần phải có sự áp dụng linh hoạt nhƣng vẫn bảo đảm đúng nguyên tắc để việc giải quyết đƣợc hiệu quả, đạt đƣợc mục tiêu là bảo vệ lợi ích của cá nhân, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam văn hóa,
  • 38. 34 tiến bộ và gìn giữ sự ổn định xã hội. 2.2. NGƢỜI CÓ QUYỀN YÊU CẦU TÕA ÁN HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT. Để hạn chế đƣợc tình trạng kết hôn trái pháp luật đang diễn ra ngày càng nhiều thì việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm điều kiện kết hôn có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nƣớc đã quy định cụ thể những chủ thể có quyền yêu cầu cơ quan Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trong tố tụng dân sự, về nguyên tắc, Tòa án chỉ xem xét giải quyết khi có đơn khởi kiện hoặc yêu cầu của cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức. Trong hủy việc kết hôn trái pháp luật, Luật Hôn nhân và gia đình quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật. Tại Điều 15 Luật này quy định những chủ thể sau có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật: 1. Bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sựcó quyềntự mìnhyêu cầu Tòaán hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòaán hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tạikhoản 2 Điều 9 của Luật này. 2. Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này. 3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này: a. Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn; b. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; c. Hội Liên hiệp Phụ nữ.
  • 39. 35 4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật [19]. Nhƣ vậy, theo điều luật trên chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật rất rộng, gồm có bốn nhóm: bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn; Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn; Viện kiểm sát; và Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội Liên hiệp Phụ nữ. Việc kết hôn trái pháp luật không những vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chính những ngƣời kết hôn mà còn ảnh hƣởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác nhƣ vợ, chồng, con ... của họ và ảnh hƣởng tới lợi ích xã hội. Vìvậy, để bảo vệ quyền lợi của các cá nhân, bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội, pháp luật cần quy định rộng rãi những ngƣời có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Ngoài ra, pháp luật quy định rõ quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật của chủ thể trong từng trƣờng hợp cụ thể nhằm bảo đảm quyền định đoạt của các chủ thể, đồng thời đảm bảo tính hiệu quả trong việc xử lý những hành vi vi phạm điều kiện kết hôn ở mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức. Có ý kiến cho rằng để bảo đảm tính khả thi của quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật nên hạn chế phạm vi các chủ thể. Vì thực tế, chủ yếu ngƣời khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật là các cá nhân. Các cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu chƣa thực sự chủ động trong việc thực hiện vai trò yêu cầu của mình. Tuy nhiên, cần có cái nhìn thực tế và toàn diện, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong nhiều trƣờng hợp ngƣời kết hôn không muốn thay đổi cuộc sống nên không chủ động thực hiện quyền yêu cầu của mình. Do đó, pháp luật quy định ngoài cá nhân thì các cơ quan, tổ chức với chức năng, nhiệm vụ bảo vệ phụ nữ, trẻ em và gia đình có quyền yêu cầu. Đó là một trong những phƣơng pháp để Nhà nƣớc thể hiện sự kiên quyết trong việc đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn, góp phần bảo đảm
  • 40. 36 pháp luật của Nhà nƣớc và sự ổn định của xã hội. Để làm rõ hơn vai trò, ý nghĩa của quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, chúng ta sẽ nghiên cứu từng loại chủ thể cụ thể. 2.2.1. Bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn Bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn là nạn nhân trực tiếp của việc kết hôn trái pháp luật. Vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định cho họ quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi quyền kết hôn bị xâm phạm thì họ tự bảo vệ mình bằng cách trực tiếp yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. Quyền chủ động này còn thể hiện tính thực tế và mềm dẻo của pháp luật. Bởi, chỉ có ngƣời bị cƣỡng ép, bị lừa dối kết hôn mới ý thức đƣợc yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật đó là cần thiết cho cuộc sống gia đình họ hay không. Nhất là đối với trƣờng hợp cuộc sống chung đã ổn định, hai bên đã thực sự thông cảm, yêu thƣơng nhau, giữa họ đã có con cái chung, tài sản chung thì việc yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật nên để cho họ tự quyết định. Tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hƣớng dẫn các hành vi vi phạm khoản 2 điều 9 gồm các hành vi sau: hành vi ép buộc, hành vi lừa dối, hành vi cƣỡng ép và hành vi cản trở. Trong khi đó khoản 1 Điều 15 quy định chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật là bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối. Đối với ngƣời bị ép buộc kết hôn luật không quy định họ có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Nhƣ vậy, là đã thiếu cơ sở pháp lý để chủ thể này tự bảo vệ quyền lợi của mình. Ngoài ra, ngƣời bị cƣỡng ép, lừa dối có quyền yêu cầu nhƣng bản thân ngƣời cƣỡng ép, lừa dối, ép buộc thì có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật của mình hay không. Khi họ thực hiện hành vi cƣỡng ép, ép buộc, lừa dối ngƣời khác kết hôn với mình là để mong muốn đạt đƣợc mục đích kết hôn với ngƣời đó nhƣng trong qúa trình chung sống gia đình không hạnh phúc
  • 41. 37 không đƣợc theo ý muốn hoặc với một lý do nào đó, họ muốn huỷ việc kết hôn trái pháp luật của chính mình. Theo quy định của điều luật này thì bản thân ngƣời đó không có quyền yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó. Có thể xem đây là một điểm khuyết của quy định này, chƣa bao quát đƣợc hết mọi tình huống có thể xảy ra trên thực tế nên pháp luật đã không đƣa ra đƣợc biện pháp dự liệu. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đƣợc Quốc hội thông qua ngày 19/6/2014 và đến ngày 01/01/2015 có hiệu lực thi hành nhƣng điều này cũng không đƣợc xem xét bổ sung. 2.2.2. Viện kiểm sát Khoản 2 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này"[19]. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 162 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2005 chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời khác, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nƣớc thì cơ quan về Dân số, gia đình và trẻ em có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình. Nhƣ vậy, chủ thể có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình không có Viện kiểm sát. Ngoài ra, trong quy định tại điều 21 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật ... Nhƣ vậy, theo pháp luật về thủ tục tố tụng hiện hành, Viện kiểm sát không có quyền yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Sự mâu thuẫn này là do quá trình lập pháp, cần nhanh chóng sửa đổi, khắc phục. Hiện tại, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã loại bỏ quyền yêu cầu của Viện kiểm sát để phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. 2.2.3. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ Theo quy định tại khoản 2 Điều 162 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2005