SlideShare a Scribd company logo
1 of 182
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong TTHS nước ta, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan
trọng đối với cả tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Kết quả của giai đoạn điều tra
vụ án hình sự đóng vai trò quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của hoạt động
buộc tội và là cơ sở, nền tảng để các chức năng TTHS khác trong các giai đoạn tố
tụng tiếp theo được tiến hành. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự với hoạt động tố
tụng chủ đạo là hoạt động của CQĐT, được đánh giá là giai đoạn tố tụng tiềm ẩn
nhiều nhất nguy cơ sai sót, vi phạm pháp luật, kể cả những sai sót, vi phạm pháp
luật nghiêm trọng dẫn đến việc truy cứu TNHS oan, sai.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có chức năng, nhiệm vụ
THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Với chức năng, nhiệm vụ đó, VKS
giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra, đảm bảo tính pháp chế của hoạt động
điều tra, ngay từ khi khởi tố, bắt giữ người phạm tội, yêu cầu điều tra thu thập
chứng cứ cho đến khi kết thúc điều tra nhằm làm rõ toàn bộ sự thật khách quan của
vụ án, nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng, chính xác, điều tra để truy tố mọi tội
phạm. Hoạt động THQCT và KSĐT của VKS hướng đến tính chính xác, khách
quan của quá trình chứng minh sự thật của vụ án hình sự thuộc phạm vi trách nhiệm
của CQĐT, bảo đảm việc truy cứu TNHS có căn cứ và hợp pháp, ngăn ngừa xảy ra
các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội.
Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, từ khi có Nghị quyết
số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã
có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng phê chuẩn việc bắt, tạm giữ, tạm giam,
phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, kiểm sát các hoạt động điều tra ngày
càng nâng cao, đưa tỷ lệ bắt giữ xử lý hình sự đạt 96%, tỷ lệ truy tố đạt 98-99%;
2
hạn chế đáng kể các trường hợp phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội và
tòa án tuyên bị cáo vô tội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động THQCT và KSHĐTP trong
giai đoạn điều tra cũng như các hoạt động tiến hành tố tụng khác như điều tra, truy
tố, xét xử, còn có những hạn chế, yếu kém chung là còn được tiến hành theo nếp
cũ, chưa kịp đổi mới tư duy; nhiều thủ tục còn rườm rà, phức tạp làm cho quá
trình giải quyết vụ án chậm chạp, kéo dài, chi phí tiến hành tố tụng tốn kém; tình
trạng áp dụng BPNC bắt, tạm giam quá phổ biến; Chưa có sự phân định hợp lý
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng; Cơ chế đảm
bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng còn bất cập, nhất là
quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Riêng đối với hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra còn có những
những hạn chế, yếu kém, trì trệ đặc thù như: kém năng động trong việc thực thi
nhiệm vụ quyền hạn – THQCT và KSHĐTP, mà pháp luật giao cho, thể hiện qua
việc quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can chưa đạt hiệu quả do hoạt động quản
lý tố giác, tin báo về tội phạm của VKS ở một số địa phương thụ động, lúng túng
về phương thức kiểm sát, dẫn đến nguy cơ bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; tình
trạng đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội còn xảy ra và có trường hợp rất
nghiêm trọng (theo Báo cáo Tổng kết công tác kiểm sát trong các năm 2004 –
2013, số vụ đình chỉ do bị can không phạm tội vẫn còn xảy ra, khoảng 0,14 %
tổng số án thụ lý khởi tố, điều tra hàng năm); chưa quản lý, chi phối chặt chẽ được
quá trình điều tra vụ án hình sự nên chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và
KSHĐTP còn thấp, thể hiện qua tình trạng: còn có những trường hợp truy tố
không đúng, tòa án tuyên không phạm tội hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung phải
đình chỉ vụ án (theo số liệu của Cục Thống kê VKSNDTC, trong 10 năm qua, số
trường hợp VKS truy tố, tòa án tuyên không phạm tội là 532 trường hợp, đạt tỷ lệ
0,05% tổng số bị can bị khởi tố, điều tra); tình trạng trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ
sung thời gian qua đã phản ánh chất lượng hoạt động của CQĐT và VKS, tuy từng
bước đã được hạn chế nhưng chuyển biến còn chậm, số lượng vụ bị trả hồ sơ
3
nhiều lần mà vẫn chưa đủ chứng cứ kết tội bị cáo còn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số
vụ án đã quyết định truy tố (trong 10 năm, tòa án các cấp trả hồ sơ cho VKS để
điều tra bổ sung là 22.262 vụ, chiếm tỷ lệ 3,8% trên tổng số 584.457 vụ VKS đã
truy tố. Số vụ án do tòa án cấp tỉnh các địa phương trả lại các đơn vị nghiệp vụ
của VKSND tối cao trong các năm 2008 và 2009 lên tới 44,5%); hiệu quả về mặt
xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của hoạt động thực thi chức năng,
nhiệm vụ của VKS trong điều tra vụ án hình sự chưa cao, thể hiện qua thực tế:
hoạt động KSĐT ở một số đơn vị kiểm sát còn mang tính hình thức, nặng về phát
hiện vi phạm có tính thủ tục mà chưa phân tích sâu để làm rõ bản chất vi phạm
pháp luật đó đã ảnh hưởng như thế nào đến tính khách quan, tính toàn diện của vụ
án để có thể kiến nghị CQĐT có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục; công tác kiến
nghị phòng ngừa tội phạm ở cả ba cấp kiểm sát còn hạn chế, chưa gắn thống kê tội
phạm với việc phân tích tình hình tội phạm, các đặc điểm, đặc trưng, thủ đoạn của
từng loại tội phạm để tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong việc đề ra các biện
pháp phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả, gắn đấu tranh phòng, chống tội
phạm với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với những tồn tại, hạn chế nêu trên, hoạt động của VKS hiện nay
đang đứng trước nhiều thách thức lớn lao xuất phát từ những yếu cầu, đòi hỏi của
công cuộc đổi mới, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, xã hội của Việt Nam theo
hương hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hóa. Hệ lụy nghiêm trọng trước mắt
của những thách thức này là tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp, khó
tiên liệu, dự báo với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm
tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt; tội phạm tham nhũng, gian lận thương mại vẫn là
những vấn nạn lớn chưa được ngăn chặn có hiệu quả; tội phạm có tổ chức, tội
phạm xuyên biên giới, đa quốc gia và tội phạm có yếu tố nước ngoài có xu hướng
gia tăng. Trước đòi hỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với HĐTP, VKS
phải thực sự là chuẩn mực của việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, và là chỗ dựa
tin cậy của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đấu tranh
phòng chống có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật.
4
Trước yêu cầu khách quan đó và do chính vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
của giai đoạn điều tra, của hoạt động điều tra đối với cả tiến trình TTHS, việc đổi
mới hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trở nên cấp thiết và
được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công cuộc cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cải cách tư
pháp đều nhấn mạnh đến việc nâng cao trách nhiệm của VKS trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/2/2002 của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”, đã nhấn
mạnh “Hoạt động công tố phải được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự
và trong suốt quá trình tố tụng…”. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2010 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và
Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đều chỉ rõ: “Tăng cường trách
nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra; xây dựng cơ chế công tố gắn với hoạt
động điều tra”.
Để thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, khắc phục
những tồn tại, hạn chế các hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, về phương diện lý luận đã đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu như đổi mới việc
thực hiện hoạt động THQCT theo phương hướng gắn với hoạt động điều tra; đổi
mới phương thức KSĐT ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và
trong suốt quá trình điều tra, nhằm bảo đảm không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp
luật; góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ chức Việt Nam XHCN.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của đấu tranh phòng, chống tội
phạm, của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, tác
5
giả chọn vấn đề “Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Từ thực tiễn công tác kiểm sát cho thấy số lượng vụ án thuộc thẩm quyền
thụ lý của TAND các cấp chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu thụ lý án hình sự chung
của các CQĐT. Điều này kéo theo hoạt động điều tra và hoạt động THQCT và
KSHĐTP trong giai đoạn điều tra do CQĐT thuộc lực lượng Công an nhân dân và
VKSND thực hiện là chủ yếu trong thực trạng điều tra, truy tố nói chung. Nhằm
đạt được tính đại diện, tiêu biểu của kết quả và sự thuận lợi trong nghiên cứu, tác
giả luận án chọn đối tượng nghiên cứu là hoạt động của VKSND theo qui định của
BLTTHS năm 2003 trong điều tra vụ án hình sự. Đây là hoạt động nhằm thực hiện
chức năng THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn điều tra được tiến hành bởi người
tiến hành tố tụng của VKS.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận án nghiên cứu hoạt động của VKSND trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, từ khi vụ việc vi phạm pháp luật bị CQĐT trong lực lượng
Công an nhân dân hoặc bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền khởi động
hoặc tái khởi động tiến trình điều tra vụ án hình sự bằng các quyết định khởi tố vụ
án, điều tra bổ sung, phục hồi điều tra, điều tra lại đến khi CQĐT hoàn thành
nhiệm vụ điều tra bằng việc kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình
chỉ điều tra vụ án.
Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng hoạt động của VKS trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự từ năm 2004 (năm BLTTHS năm 2003 có hiệu lực)
đến 2013 (thời điểm 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003), nhằm đảm bảo tính
sâu sắc, toàn diện cho việc nghiên cứu.
Về không gian, luận án nghiên cứu hoạt động của VKS trên địa bàn toàn quốc,
nhưng có chú trọng ở một số địa bàn trọng điểm, có số lượng án hình sự thụ lý hàng
năm lớn nhất Việt Nam, mang nhiều sắc thái tiêu biểu của tình hình đấu tranh phòng,
6
chống tội phạm như: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí
Minh và tỉnh Đồng Nai.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động của VKS trong điều tra
vụ án hình sự; từ đó tạo cơ sở cho việc nhận thức thống nhất về chức năng, nhiệm
vụ, vị trí, vai trò của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu
cải cách tư pháp.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu
của cán bộ giảng dạy, sinh viên trong các Trường đại học Luật, các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng các chức danh tư pháp như Học Viện tư pháp, Trường đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ kiểm sát hoặc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người
quan tâm, nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố Việt Nam trong
điều tra hình sự.
Những kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể dùng tham khảo trong
quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của
VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như Luật tổ chức VKS, BLTTHS,
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự...
4. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần tổng quan tình hình và kết quả nghiên cứu liên
quan đến luận án, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
kết quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động của viện kiểm sát trong điều tra
vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong điều tra vụ án hình sự.
Chương 3: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của viện kiểm sát
trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp.
7
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH VÀ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự để tăng cường khả năng phát hiện và xử lý hiệu quả các loại
tội phạm, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự luôn dành được sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước, và
được tranh luận ở nhiều diễn đàn khoa học.
1. T nh h nh nghiên cứu nƣ c ngoài
Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố trong hệ thống
pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như vấn để hoàn thiện nó không phải
là vấn đề mới. Tuy nhiên việc nghiên cứu thực tiễn và lý luận để nâng cao hiệu
quả hoạt động của cơ quan công tố, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giữ
vững trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh yếu tố quốc tế ngày càng trở nên quan
trọng và được mở rộng trong nền tư pháp của từng quốc gia như các mục tiêu: hợp
tác kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế; phòng chống tội phạm xuyên biên giới, mở
rộng dân chủ, đảm bảo tốt hơn quyền con người, chống nghèo đói,…là các vấn đề
được quan tâm, chú trọng thảo luận trong các diễn đàn pháp lý quốc tế. Chức
năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của cơ quan công tố trong TTHS của một số quốc
gia tiêu biểu cho những hệ thống pháp luật hiện đại đều được thể hiện một cách
tập trung, rõ ràng nhất tại các BLTTHS của các quốc gia này. Do vậy, việc nghiên
cứu về các cơ quan công tố nước ngoài nhằm tìm kiếm những giá trị tiến bộ, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam khi giải quyết các yêu cầu, đòi
hỏi của tiến trình cải cách tư pháp thì không thể không nghiên cứu BLTTHS nước
ngoài. Qua nghiên cứu BLTTHS của Liên bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc,... có thể kết luận được rằng ở một số quốc gia có sự thay đổi chế độ chính
trị trong thập niên 1990 đặc biệt là Nga; hoặc ở một số quốc gia đã tiến hành cải
cách tư pháp để đẩy mạnh cải cách kinh tế, củng cố chính trị, trật tự an toàn xã hội
sau chiến tranh nhằm chấn hưng đất nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc,Trung Quốc,
8
Việt Nam,…việc cải cách các cơ quan công tố - một bộ phận của cải cách tư pháp,
đã làm xuất hiện một hình thức tổ chức và hoạt động mới của cơ quan công tố nói
riêng và mô hình TTHS nói chung đó là mô hình TTHS kết hợp. Đó là mô hình
TTHS có sự kết hợp các ưu điểm của hai mô hình TTHS tranh tụng và thẩm vấn
trên cơ sở điều kiện riêng biệt về địa lý, chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống
tiến hành TTHS và mục tiêu phát triển của từng quốc gia. Đây có thể xem là một
kinh nghiệm quí, một hướng cải cách tư pháp khả thi vì có thể phù hợp với các
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Các nghiên cứu về hoạt động của viện công tố/ VKS trong điều tra hình sự
ở nước ngoài, đặc biệt là việc nghiên cứu BLTTHS của một số nước cùng với việc
nghiên cứu các ý kiến đánh giá tổng quan của một số học giả nước ngoài thể hiện
qua các trang thông tin điện tử là hoạt động nghiên cứu có giá trị rất quan trọng
trong việc xây dựng và đề xuất các phương hướng, biện pháp hoàn thiện về pháp
luật, chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, các kinh nghiệm có
được từ việc nghiên cứu pháp luật nước ngoài nói chung đều có điểm hạn chế là
tính tương thích, phù hợp đối với điều kiện, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội,
truyền thống pháp luật của Nhà nước ta không phải ở khía cạnh, vấn đề nào cũng
đạt được mà đòi hỏi sự chọn lọc, biến đổi nhất định. Trên thế giới hiện nay, không
có nước nào có cơ quan công tố/ VKS với tư cách như là một hệ thống cơ quan
độc lập và phục vụ cho chính thể nhất nguyên như ở Việt nam; Hệ thống cơ quan
công tố, VKS ở một số nước tuy có nhiều điểm tương đồng hoặc về văn hóa, hoặc
về truyền thống pháp luật, hoặc về các mục tiêu chính trị, kinh tế, nhưng chỉ có giá
trị tham khảo khi nghiên cứu để chọn lọc những giá trị tốt đẹp nhằm tìm kiếm và
xây dựng các phương hướng và hoàn thiện theo yêu cầu cải cách tư pháp, như:
Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,…đã thực
hiện. Cũng cần chú ý hạn chế xu hướng trọng vọng các yếu tố nước ngoài trong
khoa học pháp lý, nên việc đề xuất sửa đổi chính sách, pháp luật cần phải thận
trọng và phải được đặt dưới tiêu chí đánh giá quan trọng, là sự phù hợp với điều
kiện chính trị, kinh tế xã hội và truyền thống pháp luật Việt Nam.
9
Tuy nhiên, với sự hạn chế thường thấy của việc nghiên cứu trong nước,
nghiên cứu sinh không có nhiều cơ hội tiếp cận trực tiếp với các công trình nghiên
cứu chuyên sâu ở nước ngoài liên quan đến đề tài. Cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu
trực tiếp với các nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài của nghiên cứu sinh là
việc tham dự khóa học ngắn hạn do United Nations Asia and Far East Institute
(UNAFEI) tổ chức tại Nhật bản trong năm 2009 về vấn đề "Luật và Đạo đức nghề
nghiệp của Thẩm phán, Công tố viên và các nhân viên thực thi pháp luật" (Ethics
and Codes of Conduct for Judges, Prosecutors and Law Enforcement Officers).
Kiến thức và kinh nghiệm có được từ các giảng viên đến từ Nhật, Pháp, Mỹ, Hàn
Quốc có giá trị tham khảo rất lớn khi nghiên cứu, đề xuất các phương hướng, giải
pháp nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của VKS, đặc biệt là các giải pháp
liên quan đến yếu tố con người; Việc tham gia các hội thảo khoa học về cải cách
tư pháp, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 do Viện khoa học kiểm sát tổ chức
dưới sự tài trợ của tổ chức SIDA trong năm 2012; tham gia hội thảo phòng, chống
tiêu cực trong HĐTP - Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới do Bộ tư pháp
tổ chức ngày 03/4/2014 dưới sự tài trợ của Chương trình đối tác tư pháp Liên
minh Châu Âu, cũng là nguồn tài liệu nghiên cứu rất có giá trị trong việc định
hình, xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học của tác giả đối với các vấn
đề nghiên cứu của đề tài.
2. T nh h nh nghiên cứu Việt Nam
Về các công trình nghiên cứu lớn như đề tài khoa học cấp bộ của tập thể
các tác giả (Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học VKSND tối cao, Hà
Nội, 1999), đã đề cập đến các vấn đề lớn, cơ bản, nền tảng của không chỉ hoạt
động của VKS trong TTHS mà còn của tất cả các hoạt động TTHS khác. Công
trình nghiên cứu này đa dạng, phức tạp, đó là sự tổng hợp rất rộng các quan điểm
khoa học TTHS đối với chức năng, nhiệm vụ của VKS không chỉ trong giai đoạn
điều tra mà cả trong tiến trình TTHS với nhiều ý kiến mâu thuẫn, trái chiều, đòi
hỏi người đọc phải có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học nhất định mới có khả
năng có được nhận định, đánh giá, chính xác. Mặt khác, các quan điểm khoa học
10
TTHS này xuất hiện trên cơ sở sự kế thừa các quan điểm của nền khoa học pháp
lý ở các nước Đông Âu trước đây, được thể hiện qua lăng kính yêu cầu “đổi mới”
của Việt Nam thập niên 90 thế kỷ XX nên còn nhiều điểm chưa phù hợp với xu
hướng hội nhập và học hỏi lẫn nhau về ưu điểm giữa các truyền thống pháp luật
thể hiện khá phổ biến trong các quan điểm về cải cách, đổi mới trong khoa học
hình sự, TTHS hiện nay; Các công trình nghiên cứu có nhiều ảnh hưởng đến đề tài
như: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra của Lê Hữu Thể và các tác giả năm 2008; Tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học
cấp bộ, Hà Nội, 2008; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục
TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, 2011; Một số
vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nguyễn Hải Phong và
các tác giả. Đây là những nghiên cứu có tính toàn diện khái quát rất cao về lý luận
và thực tiễn của hoạt động của VKS không chỉ trong điều tra hình sự mà còn ở các
giai đoạn tố tụng khác (như Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học
VKSND tối cao, Hà Nội, 1999; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi
mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ,
2011). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này hoặc quá rộng, quá bao quát,
toàn diện nên không trùng lặp về phạm vi nghiên cứu với đề tài, hoặc quá hẹp,
chuyên sâu, chi tiết, mang nặng tính mô phạm và thiên về diễn giải, hướng dẫn
thực hiện các thao tác nghiệp vụ kiểm sát đối với cán bộ kiểm sát (như Một số vấn
đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp). Các công trình nghiên cứu trên
chưa chỉ rõ sự bất cập, hạn chế của pháp luật thực định về hoạt động của VKS
trong điều tra vụ án hình sự. Điểm mà tác giả chưa tìm thấy trong các nghiên cứu
trên là sự nhìn nhận, đánh giá về ưu điểm, hạn chế cả về lý luận và thực tiễn hoạt
động của VKS trong điều tra vụ án hình sự từ góc độ thực tiễn. Trong đó, không
chỉ là những hạn chế của những quan điểm, lý luận hiện được công nhận một cách
11
rộng rãi, phổ biến về vị trí, vai trò của VKS và những hạn chế của pháp luật thực
định, đặc biệt là của BLTTHS năm 2003, trong thực tiễn áp dụng pháp luật về
hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự, để từ đó có những đề xuất đổi
mới, cải cách khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật.
Nhiều bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như
tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Kiểm sát của các học giả nổi tiếng trong và
ngoài ngành kiểm sát, bàn về từng khía cạnh, từng hoạt động của VKS cũng như
của các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đây
là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với các vấn đề nghiên cứu của đề tài kể
cả hai khía cạnh ủng hộ và phản biện quan điểm nghiên cứu của tác giả. Ví dụ
như: Lý Văn Chính, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra”, tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 6/2005; Đỗ Văn Đương, “Cơ quan thực hành quyền công
tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
7/7/ 2006; Lê Văn Cảm, "Bàn về hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng và thi
hành án trong chiến lược cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 01/2009; Trần
Công Phàn, "Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp", tạp chí Kiểm sát 03/2012; Trịnh Tiến Việt, "Khái niệm và các tiêu chí đánh
giá hiệu quả kiểm soát xã hội đối với tội phạm", tạp chí Kiểm sát số 15/2012;
Hoàng Nghĩa Mai, "Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách tư
pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng
tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 16/2012; Nguyễn Hòa
Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012;
Nguyễn Thị Thủy, "Sửa đổi bổ sung BLTTHS nhằm thực hiện chủ trương của
Đảng - Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ
chế gắn công tố với điều tra”, tạp chí Kiểm sát 21/2012; Nguyễn Thái Phúc, "Sửa
12
đổi nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành kiểm sát nhân dân", tạp chí
Kiểm sát 17/2012; Trần Văn Độ, "Hoàn thiện các qui định của BLTTHS về biện
pháp tạm giam", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Trần Đình Nhã, "Chế định điều tra tội
phạm trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Đỗ Văn Đương, "Phân định rõ
thẩm quyển quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ
sung chế định chứng cứ trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 16/2012; Đào Trí Úc,
"Đề xuất đổi mới VKS ở Việt nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới", tạp
chí Kiểm sát số 12/2013; Lê Đức Xuân, Phạm Lan Phương, "Vai trò cơ quan công
tố các nước trên thế giới trong việc KSĐT các vụ án hình sự", tạp chí Kiểm sát số
13/2013; Lê Thị Tuyết Hoa, "Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra", tạp chí Kiểm sát số 08/2014;...Bên cạnh đó, tác giả còn tìm thấy một số tài
liệu có ý nghĩa là những đánh giá tổng kết, khái quát cao kết quả và những hạn
chế, yếu kém của công tác kiểm sát trong quá trình hình thành và phát triển (như
Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các công tác của ngành kiểm sát
nhân dân qua 50 tổ chức và hoạt động, Hà Nội, 2010; Báo cáo kết quả tổng kết 8
năm thi hành BLTTHS năm 2003, Hà Nội, 2012). Theo quan điểm của tác giả các
nghiên cứu này thiên về đúc kết kinh nghiệm, tổng hợp, đánh giá ưu, khuyết điểm
của hoạt động kiểm sát theo hai hướng hoặc quá bao quát, toàn diện đến toàn bộ
hoạt động nghiệp vụ kiểm sát hoặc quá tỉ mỉ đối với từng hoạt động kiểm sát cụ
thể nên không có cùng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, các bài báo
được đăng tải trong các tạp chí trong và ngoài ngành kiểm sát, đặc biệt là của
Lãnh đạo VKSND tối cao, trở thành nguồn tài liệu tham khảo có tính chất định
hướng nghiên cứu quan trọng đối với đề tài.
Trong những năm gần đây, các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tối
cao đã triển khai nghiên cứu nhiều chuyên đề nghiệp vụ nhằm phân tích, đánh giá
thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các loại án
hình sự; cụ thể như: “Một số kinh nghiệm về Công tác THQCT và KSĐT án xâm
phạm an ninh quốc gia từ năm 2005 đến năm 2007” của Vụ THQCT và KSĐT án
13
an ninh năm 2007; chuyên đề “Nâng cao chất lượng THQCT, KSĐT và kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng” của Vụ THQCT và KSĐT án ma túy năm
2008; chuyên đề “Nâng cao năng lực của Kiểm sát viên trong công tác KSĐT án
giết người” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự về trật tự xã hội năm 2008;
chuyên đề “Tổ chức bộ máy và tình hình hoạt động THQCT và KSĐT án tham
nhũng của ngành Kiểm sát trong hai năm 2007-2008” của Vụ THQCT và KSĐT
án tham nhũng năm 2009; chuyên đề “Thực trạng công tác KSĐT tội phạm công
nghệ cao - Một số giải pháp và kiến nghị” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự
về kinh tế và chức vụ năm 2009; chuyên đề “Tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra” của Vụ THQCT và KSĐT án trật tự xã hội” năm 2011.
Đây là các nghiên cứu chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm sát trong giới hạn không
gian và thời gian xác định nên kết quả nghiên cứu nêu trên có giá trị tham khảo
quan trọng đối với việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra.
Đặc biệt, Viện khoa học kiểm sát với sự giúp đỡ của các chuyên gia pháp
lý Nhật Bản và Cộng đồng Châu Âu thực hiện một số đề án, đề tài nghiên cứu
khoa học TTHS có qui mô lớn nhằm thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp trong
ngành kiểm sát (như: Mô hình TTHS thế giới; Mô hình TTHS Việt nam; Nghiên
cứu về một số cơ quan công tố trên thế giới; So sánh pháp luật TTHS Việt nam và
một số nước trên thế giới; Chỉ dẫn về công tác công tố; Định hướng sửa đổi luật
tổ chức VKSND năm 2002 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp;...), cũng là nguồn
tài liệu đảm bảo tính phong phú, đa dạng của đề tài khi đề xuất phương hướng,
biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS.
Các nghiên cứu học thuật về VKS nói chung và các nghiên cứu về hoạt
động của VKS trong điều tra hình sự nói riêng không nhiều. Luận văn thạc sĩ luật
học điển hình là: Vũ Thị Xuân Nhuệ "Một số hoạt động KSĐT án kinh tế tại
TP.Hồ Chí Minh 1991-1996"; Đoàn Tạ Cửu Long "Công tác KSĐT án trị an tại
Thành phố Hồ Chí Minh từ 1996 -2000 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"; Võ
14
Phước Long "Chức năng của VKSND trong TTHS" năm 2007; Đoàn Tấn Minh
"Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự mà bị can là
người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Tiền giang" năm 2008; Nguyễn Văn Tấn
"Hoạt động KSĐT các tội phạm về ma túy tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay" năm 2008. Công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ, có: Nguyễn Thị
Mai Nga "Cơ sở lý luận và thực trạng của điều tra và truy tố các tội phạm về ma
túy", Nhà xuất bản thông tin và truyền thông năm 2012; Đào Hữu Dân Mối quan
hệ giữa cơ quan cảnh sát điều tra với VKS trong điều tra vụ án hình sự, Luận án
tiến sĩ luật học Trường Đại học cảnh sát nhân dân năm 2006;...Các kết quả nghiên
cứu thể hiện trong các Luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, tuy có một số vấn đề
thuộc cơ sở lý luận có quan điểm, đánh giá khá tương đồng với đề tài, như các vấn
đề về Công tố; THQCT; KSHĐTP;… Tuy nhiên, các nghiên cứu này, so với đề
tài, có nhiều quan điểm khác biệt và khác về phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
Các nghiên cứu khoa học về VKS nói chung là khá hiếm, hiện chưa có công trình
nghiên cứu về lý luận và thực tiễn ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ về hoạt động của
VKS trong điều tra vụ án hình sự.
Về hoạt động nghiên cứu riêng của nghiên cứu sinh nhằm thực hiện đề tài,
gồm có: chuyên đề "Cơ sở khoa học của hoạt động THQCT và KSHĐTP trong
điều tra hình sự" năm 2010; chuyên đề "Chức năng, nhiệm vụ và phương hướng
hoàn thiện hoạt động THQCT, KSHĐTP trong điều tra hình sự theo yêu cầu cải
cách tư pháp" năm 2011; chuyên đề "Thực trạng hoạt động của VKS trong điều
tra hình sự" năm 2011; tiến hành khảo sát bằng phiếu điều tra đối với Kiểm sát
viên, Luật sư, Lãnh đạo VKS hai cấp tại một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải
Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Long An;...Các kết quả nghiên cứu
trên đều được trình bày thành các nội dung của luận án.
3. Giả thuyết, mục tiêu, mục đích nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài có giá trị định hướng và
tham khảo nhất định đến việc nghiên cứu của đề tài, nhưng ít hoặc không trùng
lắp với mục tiêu, phạm vi, cách tiếp cận trong nghiên cứu của đề tài. Để giải quyết
15
các vấn đề đặt ra của đề tài “Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp”, giả thuyết rằng pháp luật hiện hành kể cả trong lý luận
và thực tiễn áp dụng tồn tại một số vấn đề sau đây:
Trong nhận thức chung về quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về nhiệm
vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò của VKS trong từng lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ nói
chung và trong lĩnh vực TTHS nói riêng còn khác nhau, tồn tại nhiều luận điểm khác
biệt, mâu thuẫn. Nguyên nhân cốt lõi là do còn tồn tại sự khác biệt về nhận thức lý luận
về các vấn đề khoa học mang tính sơ sở, nền tảng cho hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, như: QCT, HĐTP, THQCT, KSHĐTP, mối quan hệ
giữa THQCT và KSHĐTP, cũng như tính đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Từ sự nhận thức khác biệt về nhận
thức này kéo theo hệ quả là việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật về tổ chức, hoạt
động chức năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS chưa được hợp lý nên tất yếu chưa
đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tế công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm.
Sự chưa hoàn thiện này còn là một trong những nguyên nhân tạo ra nguy cơ hiểu và
vận dụng khác nhau trên thực tế các qui định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong TTHS. Điều này càng làm trầm trọng thêm hạn chế, thiếu
hiệu quả của hoạt động tác nghiệp kiểm sát trong TTHS.
Để góp phần xác định được những cơ sở cần thiết cho việc cải cách, nâng cao
hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự thì trước hết những vấn đề
trong nhận thức chung và thực tiễn của hoạt động THQCT, KSHĐTP phải được xác
định rõ. Tiếp đến, cần làm việc làm rõ các yếu tố của yêu cầu cải cách tư pháp đối với
hoạt động của VKS trong TTHS cũng như những kinh nghiệm tiến bộ, phù hợp với
điều kiện, hoàn cải cải cách tư pháp thực tế của Việt Nam để xây dựng cơ sở cho việc
đề xuất phương hướng, biện pháp mang tính cấp thiết, toàn diện, khả thi nhằm nâng
cao chất, lượng hiệu quả cho hoạt động của VKS trong TTHS.
Để hoàn thành đề tài "Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", mục tiêu nghiên cứu của đề tài, kết quả
nghiên cứu phải trả lời được những câu hỏi:
16
- Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của VKS trong điều tra vụ án
hình, có những vấn đề gì cần nghiên cứu để đảm bảo tính nhất quán trong nhận
thức và thực hiện?
- Ưu điểm và hạn chế của truyền thống tổ chức, hoạt động của VKSND
Việt Nam là gì và những kinh nghiệm quí của thế giới có tính khả thi đối với Việt
nam trong việc tổ chức, hoạt động của cơ quan công tố nhằm thực hiện cải cách để
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự
như thế nào?
- Mục đích, yêu cầu, nội dung của công cuộc cải cách tư pháp đối với nền
tư pháp nói chung và đối với VKS trong điều tra vụ án hình sự là gì?
- Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, hoạt động THQCT và KSĐT vụ án
hình sự có những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nào?
- Những phương hướng, nội dung, giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới, nâng
cao hiệu quả hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp là gì?
Giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, kết quả mà luận văn
hướng tới là: trở thành nguồn tài liệu tham khảo kể trên cả hai phương diện lý luận
và thực tiễn đối với những ai quan tâm nghiên cứu về một loạt hoạt động TTHS
đặc biệt - hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự; và cao hơn nữa hướng
tới sự đóng góp nhất định đối với công cuộc cải cách tư pháp của Nhà nước ta
hiện nay, thông qua việc đề xuất hoàn thiện BLTTHS năm 2003.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận thực hiện đề tài dựa trên nền tảng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng; quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng,
chống tội phạm, về vị trí, vai trò của VKS trong bộ máy nhà nước và trong TTHS;
và các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân
chủ của công dân.
17
Để chứng minh giả thuyết và trả lời câu hỏi nghiên cứu, tác giả sử dụng
chủ yếu hai phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tài liệu tham khảo và điều tra xã
hội học, để nghiên cứu, làm rõ các vấn đề thuộc phạm vi các câu hỏi nghiên cứu,
qua đó xác định hoặc bác bỏ các giả thuyết nghiên cứu. Hai phương pháp này
được sử dụng dưới các hình thức phân tích, nhằm định tính và định lượng các vấn
đề nghiên cứu trên cơ sở đó, thông tin được tổng hợp, đánh giá để kết luận vấn đề
nghiên cứu.
Đối với các vấn đề lý luận, cách tiếp cận là từ vấn đề tổng quan đến cụ thể,
từ chung đến riêng, nghiên cứu vấn đề thông qua các yếu tố của một quan hệ pháp
luật (khái niệm, đặc điểm, tính chất, chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung). Đối
với các vấn đề thực tiễn, cách tiếp cận là việc đi từ khía cạnh cụ thể đến khía cạnh
tổng quan, chú trọng đến yếu tố pháp lý, vai trò, hiệu quả tố tụng của chúng. Một
số vấn đề quan trọng, phức tạp được kết hợp cả hai cách tiếp cận nêu trên nhằm
làm rõ được vấn đề nghiên cứu một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tác giải không
lựa chọn pháp pháp nghiên cứu, luận giải các vấn đề của luận án như các công
trình nghiên cứu về hoạt động của VKS thường sử dụng. Đó là hoặc qua thiên về
khía cạnh học thuật hoặc quá thiên về khía cạnh thực tiễn khi nghiên cứu các vấn
đề lý luận. Việc giải quyết các vấn đề thực tiễn thì thiên về khía cạnh mô tả, giải
thích mang tính mô phạm cho người đọc hiểu về thực tiễn tác nghiệp kiểm sát.
Tác giả lựa chọn cách nhìn nhận, nghiên cứu, đánh giá vấn đề về nhận thức và
thực tiễn hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn, thông qua
các yếu tố của một quan hệ pháp luật (khái niệm, mục đích, chủ thể, đối tượng,
phạm vi, nội dung, hình thức thể hiện) mà không phân tích sâu vào việc diễn giải
thực tiễn công tác kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự, nhằm đạt được kết quả
nghiên cứu có giá trị.
18
Chƣơng 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Điều tra vụ án h nh sự
1.1.1 Khái niệm điều tra vụ án hình sự
Để hiểu rõ khái niệm điều tra vụ án hình sự, trước hết cần phải nghiên cứu,
làm rõ các khái niệm liên quan, đó là: Điều tra và điều tra vụ án hình sự.
Theo từ điển tiếng Việt [53], điều tra là hoạt động tìm hỏi, xem xét để biết
rõ sự thật. Với ý nghĩa là một loại hoạt động nhận thức của con người, điều tra
được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, để nghiên cứu, tìm
hiểu, thu thập thông tin, xác định mức độ kiến thức, hiểu biết về một vấn đề, lĩnh
vực nào đó mà con người quan tâm. Có thể thấy, khái niệm điều tra đã trở nên phổ
biến trong đời sống chính trị, khoa học, kinh tế, xã hội, như: điều tra dân số, điều
tra về nhà ở, điều tra mức độ tiêu thụ sản phẩm, điều tra thị hiếu tiêu dùng, điều
tra xã hội học,…
Trong khoa học hình sự, khái niệm điều tra đã được nhiều tác giả nghiên
cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Có ý kiến cho rằng “Điều tra là công tác trong TTHS được tiến hành nhằm
xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”[49].
Ý kiến khác cho rằng “Điều tra là một giai đoạn của quá trình TTHS, trong
đó CQĐT áp dụng các biện pháp do Luật TTHS quy định để xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội, VKS kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định
truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của tòa án” [12]; hoặc, “Điều tra vụ án
hình sự là một giai đoạn TTHS, trong giai đoạn này CQĐT áp dụng mọi biện
pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người phạm tội”[16]. Quan
điểm này, hoàn toàn trùng lắp về mặt nội dung khái niệm điều tra vụ án hình sự
theo qui định của khoản 1, Điều 65 BLTTHS năm 2003.
19
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005 thì điều
tra được hiểu là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, tình hình... phản ánh sự thật
về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực
phạm vi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Điều tra do cơ quan Công an tiến hành
có thể dưới hai hình thức: Điều tra công khai do CQĐT hoặc một số cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành một cách công
khai theo quy định của luật TTHS. Điều tra bí mật (điều tra trinh sát) do lực lượng
trinh sát tiến hành, thường diễn ra trước khi khởi tố vụ án hình sự, phải tuân theo
trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà các văn bản của ngành Công an quy định. Mỗi
hình thức điều tra có sự khác nhau cơ bản về chủ thể, thời hạn, hình thức cũng như
trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra.
Theo từ điển tiếng Việt [64, tr: 05, 1090], nghĩa chung nhất của vụ án hình
sự được hiểu là sự việc vi phạm pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định cần được xét xử trước tòa án. Do vậy, chỉ khi nào một hành vi vi phạm
pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc truy cứu TNHS
(điều tra, truy tố, xét xử) đối với chủ thể thực hiện hành vi đó thì việc truy cứu
trách nhiệm đó mới trở thành vụ án hình sự.
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của TTHS, trong đó CQĐT và
những cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng mọi
biện pháp điều tra do pháp luật TTHS quy định nhằm thu thập chứng cứ chứng
minh làm rõ vụ án hình sự. So với khái niệm điều tra hình sự, khái niệm, điều tra
vụ án hình sự có phạm vi hẹp hơn điều tra hình sự về không gian và thời gian.
Như vậy, để làm rõ khái niệm điều tra, cần tiếp cận ở hai giác độ: Điều tra
với nghĩa là một giai đoạn tố tụng và điều tra với nghĩa là hoạt động tố tụng.
Khi phân tích điều tra với nghĩa là một giai đoạn tố tụng, cần phải đề cập
đến các khía cạnh sau: Thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc, thời hạn, chủ thể
tiến hành, chủ thể tham gia tố tụng, nhiệm vụ của giai đoạn này.
20
- Thứ nhất, về thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc và thời hạn điều tra.
Đối với tất cả các vụ án hình sự, thời điểm bắt đầu của giai đoạn điều tra là
khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi hoàn thành nhiệm vụ điều tra. Tuy
nhiên, trách nhiệm điều tra chủ yếu nhưng không chỉ bắt đầu tại thời điểm ban
hành quyết định khởi tố vụ án mà còn được tiếp tục duy trì khi xuất hiện một số
quyết định tố tụng có hiệu lực, như: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết
định hủy bản án để điều tra lại của tòa án cấp phúc thẩm và của tòa án xét xử theo
thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm; quyết định phục hồi điều tra. Tương tự, trách
nhiệm điều tra vụ án hình sự không chỉ kết thúc khi CQĐT kết luận điều tra và đề
nghị truy tố mà còn chấm dứt hay tạm dừng khi vụ án được đình chỉ điều tra hay
tạm đình chỉ điều tra.
Thời hạn điều tra các vụ án hình sự tùy từng trường hợp được luật xác định
cụ thể. Trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn theo quy định của pháp luật
Về phương diện lý luận, khi có dấu hiệu tội phạm xuất hiện, Nhà nước, với
hệ thống pháp luật của mình, đặt ra yêu cầu điều tra làm rõ hành vi và người phạm
tội. Tuy nhiên, trong TTHS, việc điều tra hình sự này được chia nhiều giai đoạn
với chủ thể, nhiệm vụ khác nhau. Khi nghiên cứu, cần phân biệt giai đoạn điều tra
vụ án hình sự với giai đoạn khởi tố vụ án – phạm vi mà hoạt động điều tra ban đầu
được thực hiện.
Giai đoạn khởi tố vụ án bắt đầu từ khi có thông tin về tội phạm và kết thúc
khi ra quyết định khởi tố vụ án với thời hạn được Bộ luật TTHS quy định. Như
vậy, điều tra vụ án hình sự là giai đoạn kế tiếp giai đoạn khởi tố vụ án. Trong giai
đoạn khởi tố vụ án cũng có hoạt động điều tra, tức là hoạt động thu thập chứng cứ,
tài liệu. Tuy vậy hai giai đoạn này khác nhau về nhiệm vụ, chủ thể tiến hành tố
tụng, chủ thể tham gia tố tụng v.v… Việc thu thập chứng cứ, tài liệu trong giai
đoạn khởi tố vụ án có nhiệm vụ là phục vụ cho việc xác định căn cứ khởi tố vụ án,
còn nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rộng hơn. Nói cách khác, hoạt động điều tra
vụ án hình sự chính là hoạt động của CQĐT trong giai đoạn điều tra theo qui định
của BLTTHS năm 2003.
21
Điều tra ban đầu là khái niệm mà nội hàm của nó trong trong khoa học luật
TTHS có sự khác biệt so với cách hiểu trong khoa học điều tra hình sự.
Theo cơ cấu qui định của BLTTHS năm 2003, có thể thấy rằng điều tra ban
đầu được bắt đầu từ khi tiếp nhận, tố giác, tin báo về tội phạm đến khi khởi tố vụ
án hoặc không khởi tố vụ án, thời hạn điều tra ban đầu rất ngắn. Chủ thể tiến hành
tố tụng trong điều tra ban đầu là các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra. Điều tra ban đầu được tiến hành trong một số trường hợp khi mà
thông tin về tội phạm chưa rõ ràng và chưa đầy đủ để có thể quyết định khởi tố vụ
án hình sự.
Trong khoa học điều tra hình sự, giai đoạn điều tra được nhiều giáo trình,
tài liệu chia ra: “điều tra ban đầu” và “điều tra tiếp theo” - điều tra vụ án hình sự.
Tuy vậy, về phương diện lý luận, điều tra ban đầu với ý nghĩa là một giai đoạn
điều tra trong khoa học điều tra hình sự vẫn còn là vấn đề cần phải trao đổi. Một
xu hướng được nhiều sự đồng tình của cả học giả lẫn cán bộ thực tiễn pháp lý là
xây dựng và phát triển các hoạt động quan trọng, then chốt trong TTHS thành các
giai đoạn tố tụng cụ thể để đẩm bảo hiệu quả của từng hoạt động chức năng tố
tụng lẫn cả quá trình tố tụng và điều tra ban đầu cũng nằm trong xu hướng đó.
Mặc dù chưa được xác định rõ ràng nhưng thuật ngữ “điều tra ban đầu” cho
phép được hiểu đây là một giai đoạn. Sau điều tra ban đầu là giai đoạn “điều tra
tiếp theo”. Tuy vậy sự khác nhau, căn cứ để phân biệt “điều tra ban đầu” và “điều
tra tiếp theo” trong khoa học điều tra hình sự chưa được làm rõ. Về phương diện
lý luận và thực tiễn, việc phân chia quá trình thực hiện hoạt động điều tra thành
các giai đoạn khác nhau là vấn đề phức tạp, cần phải tiếp tục nghiên cứu. Mặt
khác, phạm vi đề tài này không cho phép đề cập sâu về khái niệm điều tra ban đầu
trong khoa học điều tra hình sự nên tác giả chỉ nêu ra mà không làm rõ nội hàm
của khái niệm này.
- Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra
So với giai đoạn khởi tố vụ án, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rộng hơn và
phức tạp hơn.
22
Các giáo trình, tài liệu về TTHS và về khoa học điều tra hình sự trình bày
về nhiệm vụ của giai đoạn điều tra còn có sự khác nhau. Theo giáo trình Luật
TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra có 04
nhiệm vụ là: Xác định tội phạm và người phạm tội; Xác định tội phạm do người
phạm tội gây ra, tạo điều kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án; Lập hồ sơ, đề
nghị truy tố bị can; Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ
quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn chặn.
Tuy nhiên, qua tổng hợp các tài liệu và từ thực tiễn hoạt động điều tra, có
thể khái quát nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là:
- Xác định diện bị can
Xác định diện bị can là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong điều tra các vụ
án hình sự. Khi khởi tố vụ án, có thể khởi tố một số bị can, nhưng thông thường
qua quá trình điều tra việc khởi tố ai, khởi tố bao nhiêu người mới được xác định
cụ thể. Không phải bất cứ ai tham gia vụ án đều bị khởi tố mà việc xác định diện
khởi tố cần phải tính toán cụ thể, phải xem xét các yêu cầu chính trị, nghiệp vụ.
- Thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh làm rõ toàn bộ vụ án
Làm rõ toàn bộ vụ án là làm rõ tất cả những vấn đề cần phải chứng minh
trong vụ án, gồm: Các dấu hiệu định tội; các tình tiết định khung hình phạt; các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và các tình tiết khác (các tình tiết là cơ sở cho
việc miễn TNHS, miễn giảm hình phạt, cơ sở loại trừ TNHS,…).
Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn, phức tạp nhất. Chất lượng,
hiệu quả của giai đoạn điều tra cao hay thấp phụ thuộc vào việc thực hiện nhiệm
vụ này như thế nào.
- Xác định diện bị can cần truy tố và đề nghị VKS truy tố
Khởi tố bị can và đề nghị truy tố là hai vấn đề có quan hệ chặt chẽ nhưng
không phải là một.
Qua kết quả điều tra, nếu thấy rằng có căn cứ miễn TNHS hay tạm đình
chỉ, đình chỉ điều tra thì CQĐT không đề nghị VKS truy tố. Việc đề nghị hay
23
không đề nghị truy tố bị can nào đó trong vụ án phải có căn cứ pháp lý và phải
được xem xét một cách cẩn trọng.
- Xây dựng kết luận điều tra và hoàn thiện hồ sơ vụ án
- Tiến hành các biện pháp cần thiết phục vụ cho việc điều tra, xử lý người
phạm tội (áp dụng BPNC, áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác như
khám xét, kê biên tài sản…)
Hoạt động của CQĐT bao gồm hoạt động điều tra và các hoạt động khác.
Hoạt động điều tra là các hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm làm rõ vụ án.
Hoạt động khác là những hoạt động phục vụ cho công tác điều tra làm rõ vụ án và
truy cứu TNHS đối với bị can, bảo đảm quyền cho bị can và những người tham
gia TTHS. Mặc dù cũng do Điều tra viên tiến hành nhưng theo nghĩa hẹp đây
không phải là hoạt động điều tra vì không nhằm thu thập chứng cứ.
- Thứ ba, chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra
Chủ thể chính của hoạt động điều tra là CQĐT có thẩm quyền theo qui định
của BLTTHS năm 2003. Mặc dù theo qui định của pháp luật, tiến hành hoạt động
điều tra còn có VKS có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui
định của Điều 112 BLTTHS năm 2003 và một số cơ quan khác được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra ban đầu theo qui định của BLTTHS năm 2003 và
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Tuy nhiên, chỉ có CQĐT có thẩm quyền mới là
chủ thể chính của hoạt động điều tra vụ án hình sự.
Xét về chức năng tố tụng hoạt động của CQĐT và VKS là hoạt động của
Cơ quan tiến hành tố tụng, có cùng chức năng buộc tội nhưng mỗi cơ quan có
chức năng nghiệp vụ khác nhau.
Tham gia tố tụng vào giai đoạn điều tra có thể bao gồm tất cả các diện
người tham gia tố tụng theo qui định của BLTTHS năm 2003, tùy theo phạm vi và
tính chất của từng vụ án. Tuy nhiên, hai dạng người tham gia tố tụng là bị can, bị
hại là hai dạng người tham gia tố tụng chính, và đều phải được xác định khi tiến
hành điều tra của tất cả các vụ án.
24
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động điều tra vụ án hình sự
Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng phức tạp, phong phú
và đa dạng như đã được phân tích ở phần trên. Sự phức tạp, đa dạng của hoạt động
điều tra vụ án hình sự hàm chứa trong các đặc điểm nổi bật sau đây:
- Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thực hiện công khai theo
trình tự, thủ tục TTHS
Hoạt động điều tra vụ án hình sự được tiến hành công khai theo các trình
tự, thủ tục và theo những biện pháp do pháp luật TTHS quy định. Tính công khai
của hoạt động điều tra thể hiện chỉ được tiến hành các biện pháp điều tra với sự có
mặt của những người mà luật quy định và ký vào biên bản các hoạt động điều tra
(như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,
người bị hại...). Tính công khai ở đây là công khai tiến hành các thủ tục tố tụng
điều tra, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải giữ bí mật. Việc giữ bí mật điều tra
có ý nghĩa quan trọng, có tính nguyên tắc quyết định sự thành công hay thất bại
của cuộc điều tra, khám phá sự thật khách quan của vụ án.
Đặc điểm này để phân biệt với những biện pháp điều tra khác như điều tra
trinh sát là dạng hoạt động nghiệp vụ được tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí
mật để thu thập tin tức về hoạt động tội phạm nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn và nhanh chóng khám phá vụ án.
Phạm vi chứng minh trong hoạt động điều tra vụ án hình sự rộng hơn phạm
vi những vấn đề phải chứng minh do BLTTHS qui định.
Để xác định được một tình tiết do luật định, CQĐT phải làm rõ nhiều nội
dung, chứng cứ có liên quan, phải thu thập đầy đủ các tài liệu chứng cứ để chứng
minh tính xác thực, tính liên quan của từng tình tiết cấu thành tội phạm và các tình
tiết khác để giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan, toàn diện chứ không đơn giản
là chứng minh các vấn đề được qui định tại các Điều 63, 302 BLTTHS năm 2003.
Chẳng hạn, để xác định người nào đó trực tiếp thực hiện tội phạm, trước tiên phải
có chứng cứ khẳng định người đó có mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ
án; Do đó, CQĐT phải truy tìm dấu vết con người, lấy lời khai người bị hại, lời
25
khai người làm chứng khẳng định chính mắt mình nhìn thấy người này thực hiện
tội phạm... Phạm vi chứng minh những vấn đề thực tế của vụ án trong giai đoạn
điều tra rộng hơn phạm vi những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự do
pháp luật TTHS quy định.
Khi thực hiện hoạt động điều tra vụ án hình sự thường phải áp dụng các
biện pháp cưỡng chế TTHS
Để kịp thời ngăn chặn người phạm tội tiếp tục gây án hoặc gây cản trở cho
việc thu thập chứng cứ vụ án, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thường phải
áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét chỗ ở,
khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể; tiến hành các hoạt động điều tra khác
liên quan đến quyền cơ bản của công dân như triệu tập để lấy lời khai những
người có liên quan, hỏi cung bị can. Do đó, hoạt động điều tra thường tiềm ẩn
nguy cơ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người đối với
người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội.
Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thu thập chứng cứ phục vụ
cho hoạt động buộc tội
Trong tố tụng theo truyền thống thẩm vấn cũng như trong tố tụng theo
truyền thống tranh tụng, hoạt động điều tra nói chung bao giờ cũng là bộ phận hợp
thành chức năng buộc tội của Nhà nước nhưng về bản chất, THQCT là chức năng
của cơ quan công tố (VKS) giữ vai trò quyết định, còn điều tra là hỗ trợ, thu thập
chứng cứ, mở đường cho cơ quan công tố đưa người phạm tội ra tòa và thực hiện
việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa xét xử. Tùy theo từng truyền thống tố
tụng mà vị trí, vai trò của cơ quan công tố (VKS) và quan hệ tố tụng với CQĐT
trong giai đoạn điều tra có khác nhau, mang nét đặc thù riêng thích ứng với hoàn
cảnh, đặc điểm của mỗi quốc gia.
- Đối với hoạt động điều tra vụ án hình sự, VKS vừa THQCT vừa KSĐT
Khác với cơ quan công tố nhiều nước, VKS Việt Nam vừa THQCT, vừa
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra. Ở giai đoạn này, pháp
luật hiện hành quy định VKS có quyền năng rất lớn, chi phối các nhiệm vụ, hoạt
26
động điều tra như: phê chuẩn; không phê chuẩn các quyết định tố tụng của CQĐT;
yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC; quyết định gia
hạn điều tra, gia hạn tạm giam; yêu cầu truy nã bị can; hủy bỏ các quyết định
không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; quyết định chuyển vụ án; trả hồ sơ
để điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; quyết định phục
hồi điều tra; quyết định xử lý vật chứng…. Đây là đặc điểm rất quan trọng cần
được nhận thức đúng đắn để xác định rõ những hoạt động của VKS và phân định
rõ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền giữa CQĐT và VKS trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự.
- Hoạt động điều tra vụ án hình sự đòi hỏi phải tuân thủ yêu cầu về pháp
luật, chính trị, nghiệp vụ
Trong điều tra vụ án hình sự, yêu cầu pháp luật, yêu cầu chính trị và yêu
cầu nghiệp vụ có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau, tạo nên một chỉnh thể
hoàn chỉnh. Khi xét về mối quan hệ giữa các yêu cầu, cần thấy rằng không thể
tách rời giữa các yêu cầu. Tùy từng vụ án, từng biện pháp, từng tình huống điều
tra cụ thể mà giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các yêu cầu, đưa ra nội dung cần
quán triệt sát hợp, hài hòa, không dập khuôn, máy móc. Khi gặp trường hợp giữa
các yêu cầu có mâu thuẫn phải cân nhắc một cách thận trọng mặt lợi, mặt hại của
các yêu cầu để quyết định yêu cầu nào sẽ chi phối. Thông thường, yêu cầu nghiệp
vụ phải phục tùng yêu cầu chính trị, vì mục đích cao nhất trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung thì hoạt động điều tra là phải phục vụ đắc lực
cho nhiệm vụ chính trị, không được làm phương hại hoặc ảnh hưởng xấu đến lợi
ích quốc gia, dân tộc. Nhưng không vì yêu cầu chính trị mà CQĐT tiến hành các
hoạt động điều tra khi cơ sở pháp luật chưa bảo đảm hoặc làm ảnh hưởng lớn đến
công tác nghiệp vụ vì quá chú trọng, theo đuổi yêu cầu chính trị.
1.1.3 Nội dung hoạt động điều tra vụ án hình sự
Điều tra theo nghĩa chung nhất là thu thập thông tin nhưng trong TTHS
điều tra là các hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm làm rõ vụ án. Tuy nhiên,
cần phân biệt hoạt động điều tra với hoạt động của CQĐT. Trong nhiều trường
27
hợp, nếu không chú ý, ta có thể nhầm lẫn. Ví dụ: để tiến hành hoạt động điều tra
hỏi cung bị can thì CQĐT phải thực hiện hoạt động không phải là hoạt động điều
tra như: triệu tập bị can, trích xuất bị can đang bị tạm giam, áp giải bị can tại
ngoại. Hoạt động của CQĐT với hoạt động điều tra có quan hệ chặt chẽ với nhau,
nhưng không phải là một. Nếu không chú ý, ta dễ nhầm lẫn hoặc đồng nhất hoạt
động điều tra với hoạt động của CQĐT, cũng như đồng nhất hoạt động của VKS
với hoạt động truy tố.
Hoạt động điều tra trong điều tra vụ án hình sự gồm các hoạt động cụ thể sau:
+ Hỏi cung bị can;
+ Lấy lời khai của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác;
+ Khám xét (khám người, khám chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc);
+ Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện;
+ Khám nghiệm (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi);
+ Xem xét dấu vết trên thân thể;
+ Thực nghiệm điều tra;
+ Trưng cầu giám định.
Hoạt động của CQĐT rộng hơn hoạt động điều tra. Ngoài những hoạt động
điều tra nêu trên, hoạt động của CQĐT còn bao gồm các hoạt động khác phục vụ
cho hoạt động điều tra như: Phân công Điều tra viên, áp dụng BPNC; xử lý vật
chứng; phát hiện và khắc phục nguyên nhân, điều kiện phạm tội; giải quyết khiếu
nại của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; thực hiện các quy định liên quan đến quyền
lợi của người tham gia tố tụng và thân nhân của họ (như thanh toán chi phí cho
người làm chứng, giải quyết vấn đề thăm nuôi người bị tạm giam, v.v…)
Trong điều tra vụ án hình sự, hoạt động điều tra còn được hiểu theo nghĩa
rộng, tức là hoạt động thu thập thông tin về tội phạm và người phạm tội. Theo
nghĩa này, ngoài những hoạt động thu thập chứng cứ theo trình tự thủ tục TTHS
như đã nêu trên, hoạt động điều tra còn bao gồm cả các biện pháp thu thập thông
tin tài liệu bằng biện pháp nghiệp vụ trinh sát như: thu thập lời khai người biết
việc, biện pháp trinh sát kỹ thuật…
28
1.2. Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án h nh sự
Theo qui định của Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND
năm 2002, Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND có chức năng, nhiệm vụ
THQCT, KSHĐTP. Như vậy THQCT và KSHĐTP là chức năng Hiến định của
VKS. Việc thể hiện trên thực tế chức năng Hiến định này thành các chức năng tố tụng
của VKS trong từng hoạt động cụ thể có sự khác nhau, nhưng đều dựa trên cơ sở là
QCT và KSHĐTP. Có thể thấy rằng từ việc xác định hình thức tổ chức, hoạt động,
nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan VKS nói chung đến việc tổ chức, hoạt
động và việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong từng lĩnh vực HĐTP cụ
thể đều phụ thuộc vào bản chất, phạm vi, nội dung của hoạt động THQCT và
KSHĐTP. Đối với hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, việc
xác định một cách đúng đắn và khoa học các vấn đề nhận thức trong hai lĩnh vực hoạt
động THQCT, KSHĐTP và các vấn đề liên quan như: hoạt động tổ chức và chỉ đạo
hoạt động THQCT và KSHĐTP, mối quan hệ biện chứng giữa hai lĩnh vực hoạt động
này, có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tổ chức và hoạt động của hệ
thống VKS để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Bởi đây là lĩnh vực hoạt động chủ yếu và thể hiện rõ nhất bản chất, vai trò, vị trí của
VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Mặc dù thời gian qua, trong khoa học
pháp lý nước ta đã có sự nghiên cứu sâu về quyền năng của VKS nhưng việc nhận
thức về chức năng, nhiệm vụ của VKS vẫn còn có những hạn chế nhất định. Do vậy,
việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau để
nhận thức đúng đắn, đầy đủ về hoạt động của VKS, phù hợp với bản chất, định
hướng nhiệm vụ của Nhà nước ta hiện nay, là một vấn đề cần thiết, có ý nghĩa quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của VKSND. Thực tế đã đặt
ra yêu cầu phải có nhận thức đúng đắn về các yếu tố của hoạt động THQCT,
KSHĐTP trong giai đoạn điều tra để góp phần tạo ra cơ sở lý luận cho việc triển khai
thực hiện hiệu quả hoạt động cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
1.2.1 Thực hành quyền công tố
Để có khái niệm đúng đắn, toàn diện về khái niệm "Thực hành quyền công
29
tố" với ý nghĩa là một chức năng Hiến định, một nội dung hoạt động của VKS trong
TTHS, cần bắt đầu tìm hiểu các thành tố của nó như: công tố; quyền công tố.
1.2.1.1 Những vấn đề cơ bản về quyền công tố
Trong lịch sử pháp luật thế giới, khái niệm “công tố” đã được đề cập rất
sớm như là hoạt động tố tụng trong các vụ án mà trong đó có những hành vi vi
phạm pháp luật, xâm hại đến các lợi ích của Nhà nước. Ở nước ta, thuật ngữ
“quyền công tố” được ghi nhận lần đầu tiên tại Hiến pháp năm 1980 và tiếp theo
sau đó, được ghi nhận tại Điều 23 BLTTHS năm 1988, Điều 15, Điều 16 Luật tổ
chức VKSND năm 1992. Tuy nhiên, cho đến nay, Pháp luật Việt Nam chưa có
văn bản pháp luật nào chính thức giải thích khái niệm công tố, quyền công tố.
Về mặt ngôn ngữ, theo Từ điển Hán Việt thì "công tố" hiểu theo là: "Quan
kiểm sát đã xét xử hình sự, bên thay mặt quốc gia để buộc tội trước tòa án"[1].
Công tố là một từ Hán Việt được hình thành bởi hai từ đơn công và tố. Theo Từ
điển Tiếng Việt, thì: "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước, chung cho mọi người
và khác với tư". Còn "tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi người biết việc làm
sai trái, phạm pháp của người khác”. Công tố là "Truy tố, buộc bị cáo và phát biểu
ý kiến trước tòa án"[64]. Hiểu theo nghĩa đầy đủ “tố” là "sự cáo buộc công khai
của một người hoặc một nhóm người, của cơ quan hoặc tổ chức về hành vi vi
phạm pháp luật, hành vi sai trái khác của người, tổ chức hoặc cơ quan trước người
hoặc cơ quan có thẩm quyền". Công tố có nội hàm gồm "sự buộc tội" và “công”.
Trong đó, "sự buộc tội" có nghĩa là "nội dung của sự buộc tội nêu trong quyết định
khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng và bản án" và là "một loại hoạt động của
người buộc tội của Nhà nước, của xã hội hoặc thậm chí của người bị hại hay
người đại diện của người này trong việc chứng minh lỗi của bị cáo". "Sự buộc tội"
và "công" ghép lại với nhau thành "công tố" thì có nghĩa là sự buộc tội của Nhà
nước đối với người bị truy cứu TNHS [10].
Nhìn chung cách diễn giải của các từ điển có thể cho ta một nhận thức
chung là công tố khác với tư tố vì có sự hiện diện của Nhà nước trong việc cáo
30
buộc một cá nhân, tổ chức nào đó đã phạm tội hoặc gây thiệt hại cho cá nhân, tổ
chức khác. Do vậy, đặc điểm của công tố theo cách hiểu chung nhất là:
+ Về biểu hiện ra bên ngoài, công tố là một trong những hình thức cáo buộc
người khác thực hiện hành vi sai trái hoặc vi phạm pháp luật. Công tố là hình thức
nhân danh lợi ích công để phát giác, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật ra
trước tòa án để xét xử, nên công tố được hiểu là sản phẩm của xã hội có Nhà nước.
- Về chủ thể thực hiện, công tố được thể hiện thông qua người thực hiện sự
cáo buộc ấy là Nhà nước.
- Về đối tượng, công tố nhằm vào không chỉ là một con người cụ thể mà
còn có thể là một pháp nhân.
- Về lĩnh vực công tố, việc cáo buộc không hạn chế chỉ trong một lĩnh vực
mà nó có thể được thể hiện và tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau tùy theo
hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới từng loại quan hệ pháp luật khác
nhau. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, việc cáo buộc một cá nhân là có tội thì phải
buộc tội cá nhân đó đã vi phạm quy định trong BLHS. Do đó, hiểu theo nghĩa hẹp
thì lĩnh vực hình sự sẽ là lĩnh vực chủ yếu để Nhà nước thực hiện QCT của mình.
- Về phạm vi, công tố là thẩm quyền được Nhà nước thực hiện qua các giai
đoạn khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử.
Như vậy, công tố, hiểu theo nghĩa chung nhất đó là sự cáo buộc của Nhà
nước đối với người đã có hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Khái niệm QCT hiện nay trong khoa học pháp lý nước ta hiện còn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau. Một số quan điểm tiêu biểu như:
- Công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một
quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật [47].
- QCT là quyền của nhà nước giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra tòa
án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa [45].
- QCT là quyền đại diện cho nhà nước đưa các vụ việc vi phạm trật tự
pháp luật ra cơ quan xét xừ đề bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ trật tự pháp
31
luật [47].
- QCT là quyền được nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc truy cứu TNHS và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm
tội [66].
- Theo quan điểm của các luật gia theo truyền thống pháp luật của
Cộng hoà Pháp, QCT bao gồm quyền khởi tố, điều tra vụ án, quyền truy tố và
buộc tội bị cáo trước tòa án [30].
- QCT là quyền cáo buộc của nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã
vi phạm pháp luật, bao gồm hành vi hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, luật
kinh tề và luật hình sự. Và, QCT là quyền của nhà nước thực hiện các cáo buộc
đó [18].
- QCT là quyền lực công, đòi hỏi phải xử lý các vụ việc xâm phạm lợi
ích chung một cách công khai bằng con đường tòa án. Vì thế, QCT thường gắn
liền với quyền tài phán của tòa án [66].
- QCT là quyền được hành xử nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã
hội, với mục đích là tòa án tuyên một hình phạt đối với người phạm pháp [46].
Các quan điểm hoặc cách diễn đạt nêu trên mặc dù chưa thống nhất, tuy vậy
mỗi quan điểm đều có những hạt nhân hợp lý riêng của nó. Tuy nhiên, nếu xem xét
đến cơ sở khoa học của mỗi quan điểm nêu trên, các quy định của pháp luật hiện
hành, thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức
và hoạt động công tố ở các hệ thống pháp luật trên thế giới, có thể rút ra một số
nhận xét về các quan điểm về QCT như sau:
Còn đồng nhất QCT với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
VKS, dẫn đến tình trạng mở rộng quá mức phạm vi QCT sang các lĩnh vực tư
pháp khác như dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.
Xem QCT là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTHS, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của QCT như là
một hoạt động độc lập của VKS nhân danh quyền lực công.
32
Quá thu hẹp phạm vi QCT và chỉ xem QCT như là quyền của VKS truy tố
kẻ phạm tội ra tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Điểm hạn chế chung nhất của hầu hết các quan điểm hay cách diễn đạt về
QCT nêu trên là không phân định rõ ràng và hợp lý về bản chất, nội dung, phạm vi
của QCT, của hoạt động THQCT và của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Để có cách hiểu đúng đắn về QCT, cần phải căn cứ vào lịch sử ra đời của
QCT; những đặc trưng khác biệt giữa hoạt động công tố và tư tố cũng như sự khác
nhau về cách thức tổ chức thực hiện QCT. Nói cách khác, việc đưa ra khái niệm
đúng đắn về QCT cần phải xuất phát từ những luận điểm mang tính nguyên tắc
sau đây về đặc trưng của QCT:
Một là, QCT là một loại quyền của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra đời
của Nhà nước, được tổ chức thực hiện khác nhau tùy theo kiểu Nhà nước bản chất
và hình thức Nhà nước.
Hai là, QCT là quyền lực công gắn liền với các quyền tài phán của tòa án.
Bởi lẽ, QCT không chỉ là quyền tố giác công mà còn là việc xử lý các vụ việc xâm
phạm lợi ích chung một cách công khai của tòa án. Về mặt lý luận, đây cũng là
điểm gặp nhau rất cơ bản giữa các quan điểm khác nhau về QCT - quyền đưa vụ
án ra tòa và "buộc tội" người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Tuy nhiên
cũng cần nhận thức rằng, không phải chỉ riêng quyền đưa vụ án ra tòa mới là
QCT. Cần phải xác định chủ thể nào được giao nhiệm vụ đưa vụ án ra tòa thì
chủ thể ấy chính là cơ quan THQCT, vì QCT là quyền nhân danh Nhà nước
đưa vụ án ra tòa. Do đó, chủ thể của QCT chỉ có thể là cơ quan được Nhà
nước giao cho thẩm quyền thực hiện QCT, cho dù có tên gọi khác nhau.
Ba là, QCT là sự thể hiện quyền lực của Nhà nước, đòi hỏi phải trừng trị công
khai những hành vi phạm pháp liên quan đến lợi ích chung. Để bảo đảm tính
khách quan và sự công bằng thì quyền này phải độc lập với quyền tài phán của tòa
án. Như vậy, QCT và quyền xét xử phải được tổ chức thực hiện một cách độc lập
với nhau. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để phân biệt QCT với các
33
thẩm quyền tố tụng khác của cơ quan công tố, của các cơ quan tiến hành tố tụng
khác hoặc với quyền khởi kiện, quyền yêu cầu khởi tố của đương sự.
Bốn là, về lợi ích, QCT có mục đích bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích
chung của xã hội, lợi ích hợp pháp của công dân. Các lợi ích trên được bảo đảm bằng
sức mạnh Nhà nước. QCT thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trước toàn xã hội.
Năm là, QCT là một quyền năng được thực hiện không chỉ giới hạn ở
một giai đoạn tố tụng mà được thể hiện trong tất cả các giai đoạn tố tụng.
Việc chia cắt hoặc lấy một vài quyền năng thuộc nội dung QCT và giới hạn
QCT trong một vài giai đoạn tố tụng là quan điểm chưa xác đáng. QCT cũng
như các quyền năng tố tụng khác, có thể bị triệt tiêu khi xuất hiện căn cứ chấm dứt
hiệu lực theo qui định của pháp luật. Như vậy, để làm rõ khái niệm QCT không
thể không xem xét đến các căn cứ làm triệt tiêu QCT cũng như quyền cấm dứt
việc THQCT.
Sáu là, về lĩnh vực cần xác định rằng, Nhà nước chỉ sử dụng QCT đối với
hành vi phạm tội, nên QCT được thể hiện trong các giai đoạn TTHS, còn trong
các lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, hành chính, lao động thì QCT cần phải
nhường chỗ cho quyền tự định đoạt của các đương sự. Nói cách khác, quyền công
tố chỉ bảo vệ các quan hệ xã hội khi các hành vi xâm hại các quan hệ xã hội đó
được xác định là tội phạm.
Tuy nhiên, việc tổ chức THQCT được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc
gia, ở mỗi thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào các điều kiện và hoàn cảnh về kinh tế,
chính trị, xã hội cụ thể. Trên thế giới, phần lớn các nước chỉ giao quyền này cho
Viện công tố. Nhưng có nước như Vương quốc Anh, ngoài Viện công tố người ta
còn giao cho cơ quan Hải quan, Thuế vụ có quyền trực tiếp đưa vụ án ra tòa trong
lĩnh vực mà các cơ quan đó phụ trách. Ở Pháp, Công tố viên khởi tố những việc
gây thiệt hại đến trật tự chung như: yêu cầu hạn chế quyền của một số người, hủy
bỏ một cuộc hôn nhân bất hợp pháp, tham gia một số việc kiện khác. Trong lĩnh
vực dân sự, Công tố viên nhân danh Nhà nước là một bên trong các vụ án, có
34
nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em, những người tàn tật, tâm thần, hủy bỏ hôn nhân bất
hợp pháp, lập hội bất chính.
Sở dĩ có sự khác nhau về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố ở một
số nước là do QCT chỉ thuộc về Nhà nước. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng
bản chất của việc tham gia các hoạt động tố tụng khác ngoài hình sự, cơ quan
công tố cũng chỉ có quyền thực hiện hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật mà
thôi. Việc khởi kiện có tính chất công này khác về bản chất với việc khởi tố để
bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại bởi những hành vi vi phạm pháp luật có tính
nguy hiểm đáng kể, được xác định là tội phạm.
Tóm lại, QCT là quyền năng của cơ quan có thẩm quyền buộc tội nhân
danh nhà nước đối với cá nhân phạm tội để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội
và lợi ích của công dân [42, tr.40].
1.2.1.2 Những vấn đề cơ bản của thực hành quyền công tố
Để bảo đảm THQCT, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, trong đó
quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT. Các quyền năng đó được
giao cho cơ quan Nhà nước thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối
với người phạm tội, cơ quan ấy được gọi là cơ quan có trách nhiệm THQCT.
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật thì VKSND là cơ quan
được giao chức năng THQCT. Nếu như QCT là một quyền năng cơ bản trong hệ
thống quyền lực tư pháp của Nhà nước thì THQCT cũng được coi là một chức
năng cơ bản của VKSND. Đây là một chức năng Hiến định cơ bản của VKS mà
không có cơ quan Nhà nước nào có được nhằm mục đích bảo đảm việc chấp hành
pháp luật nghiêm chỉnh, thống nhất trong việc truy cứu TNHS đối với người phạm
tội và không để lọt tội phạm.
Thực tiễn hoạt động THQCT hơn 50 năm của VKSND các cấp cho thấy
việc khởi tố do VKSND thực hiện chỉ chiếm 3- 4% tổng số vụ án được khởi tố.
Các vụ án hình sự đều do VKS truy tố và thực hiện sự buộc tội trước phiên tòa,
đưa ra lời kết luận của mình tại phiên tòa. Cùng với những hoạt động đó, VKS các
cấp còn có trách nhiệm xem xét, bảo đảm cho việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ
35
BPNC có căn cứ và hợp pháp; có quyền khởi tố, yêu cầu khởi tố, xem xét việc
khởi tố của CQĐT và tòa án.
Theo tác giả Lê Hữu Thể, THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung QCT để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người
phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử [42]. Đây là quan điểm,
phù hợp với truyền thống pháp luật của nước ta hiện nay.
Theo Điều 3, Luật tổ chức VKSND 2014, "Thực hành quyền công tố là
hoạt động của VKS trong TTHS để thực hiện việc buộc tội Nhà nước đối với
người phạm tội".
Khi nghiên cứu hoạt động THQCT với ý nghĩa là một hoạt động tố tụng cụ
thể, tùy theo phạm vi và mục đích nghiên cứu mà xác định yếu tố cần phải được
xem xét để làm sáng tỏ các khía cạnh, nội dung của khái niệm THQCT. Ở góc độ
là một hoạt động TTHS thuộc chức năng của cơ quan công tố, các yếu tố cơ bản
của THQCT như chủ thể, đặc điểm, đối tượng, phạm vi, nội dung của THQCT là
những yếu tố có ý nghĩa quan trọng về mặt nhận thức cần phải được làm sáng tỏ.
Mục đích của thực hành quyền công tố
Theo Điều 1 BLTTHS năm 2003, có thể xác định được rằng THQCT là
hoạt động của VKS nhằm mục đích phát xử lý nhanh chóng, kịp thời, công minh,
mọi hành vi phạm tội. Để đạt được mục đích chung này, từng nhiệm vụ, quyền
hạn THQCT cụ thể có những mục đích tố tụng cụ thể, riêng biệt của hoạt động
buộc tội và đặt chúng trong mối quan hệ tổng thể thì cấu thành mục đích chung
nêu trên.
Chủ thể thực hành quyền công tố
Thực hành quyền công được pháp luật giao cho một chủ thể duy nhất,
đó là VKSND. Ở Việt Nam, việc xác định chủ thể THQCT xuất phát từ cơ
sở thực tiễn và lý luận cụ thể. Xét ở phương diện lịch sử Việt Nam, căn cứ
vào các quy định của pháp luật thì chỉ có VKS là cơ quan duy nhất THQCT.
Về phương diện lý luận, cần phải thấy rằng trong cơ chế tổ chức quyền lực
Nhà nước ta hiện nay, không chỉ VKS mà vẫn có một số cơ quan khác được thực
36
hiện các hoạt động liên quan đến QCT, như: hoạt động khởi tố vụ án hình sự của
CQĐT và tòa án. Tuy nhiên, các hoạt động này chỉ là giai đoạn ban đầu của quá
trình tố tụng, có tính chất phát động QCT của VKS. Hoạt động khởi tố vụ án, nhìn
về hình thức dễ lầm tưởng là hoạt động công tố, song thực chất, không có ý nghĩa,
mục đích, vai trò quyết định đến việc buộc tội tại tòa án. Quyết định khởi tố của
CQĐT chỉ thực sự có ý nghĩa phát động QCT sau khi được VKS xem xét; nếu
quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ và trái pháp luật thì
VKS có quyền hủy bỏ. Tòa án có quyền khởi tố vụ án, nhưng các quyết định khởi
tố vụ án hình sự của tòa án đều phải được gửi cho VKS xem xét và sẽ bị VKS
kháng nghị nếu có vi phạm pháp luật. CQĐT có quyền thu thập tài liệu chứng cứ,
nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu chứng cứ ấy có đủ cơ sở để truy tố bị can hay
không là do VKS chịu trách nhiệm. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh và xét
thấy cần xử lý về hình sự, VKS quyết định truy tố bị can ra tòa. Như vậy, về mặt
pháp lý chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động QCT mà không chịu sự
can thiệp của bất cứ cơ quan Nhà nước nào. Do vậy, một số hoạt động của các cơ
quan trên chỉ là bổ trợ cho QCT của VKS, chứ không phải là hoạt động THQCT.
THQCT là việc thông qua VKS, Nhà nước tiến hành thực hiện quyền truy
cứu trách nhiệm pháp lý đối với người có hành vi phạm tội. Cơ quan được giao thẩm
quyền đưa vụ án ra tòa được gọi là cơ quan THQCT. Vì vậy, THQCT là chức năng
thể hiện tính quyền lực Nhà nước mà không một cơ quan nào có thể làm thay VKS.
Pháp luật giao cho VKS quyền thực thi QCT theo trình tự thủ tục nhất định
nhưng về mặt thực tế THQCT được tổ chức thực hiện bởi các diện người tiến
hành tố tụng của VKS có thẩm quyền. Người tiến hành tố tụng của VKS có thẩm
quyền thực hiện cách nhiệm vụ quyền hạn được BLTTHS năm 2003 qui định với
tư cách đại diện cho VKS (thực chất là đại diện cho Nhà nước) khi được phân
công thụ lý vụ án. Mặc dù BLTTHS năm 2003 chỉ qui định chung chủ thể thực thi
nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT là VKS, tuy nhiên căn cứ qui định của Điều 36
và Điều 112 thì có thể hiểu rằng chủ thể thực tế và chủ yếu của hoạt động THQCT
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự

More Related Content

What's hot

What's hot (19)

Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luậtLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luậtLuận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đTranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩmLuận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
 
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụngLuận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 

Similar to Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự

VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
 VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ... VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...OnTimeVitThu
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...OnTimeVitThu
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...Luận Văn 1800
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...nataliej4
 

Similar to Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự (20)

Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sựLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sựNâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
 
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sátQuyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
 
VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
 VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ... VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨ...
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 
Luận Văn Viện Kiểm Sát Khởi Tố Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình Sự
Luận Văn Viện Kiểm Sát Khởi Tố Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình SựLuận Văn Viện Kiểm Sát Khởi Tố Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình Sự
Luận Văn Viện Kiểm Sát Khởi Tố Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình Sự
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
 
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmLuận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, HAY
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, HAYKiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, HAY
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, HAY
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luậtLuận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dânMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy PhươngLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phươnglamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...
Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...
Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...VnTh47
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...songtoan982017
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdflevanthu03031984
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1mskellyworkmail
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy PhươngLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
 
Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...
Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...
Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 

Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự

  • 1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong TTHS nước ta, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan trọng đối với cả tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Kết quả của giai đoạn điều tra vụ án hình sự đóng vai trò quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của hoạt động buộc tội và là cơ sở, nền tảng để các chức năng TTHS khác trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo được tiến hành. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự với hoạt động tố tụng chủ đạo là hoạt động của CQĐT, được đánh giá là giai đoạn tố tụng tiềm ẩn nhiều nhất nguy cơ sai sót, vi phạm pháp luật, kể cả những sai sót, vi phạm pháp luật nghiêm trọng dẫn đến việc truy cứu TNHS oan, sai. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Với chức năng, nhiệm vụ đó, VKS giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra, đảm bảo tính pháp chế của hoạt động điều tra, ngay từ khi khởi tố, bắt giữ người phạm tội, yêu cầu điều tra thu thập chứng cứ cho đến khi kết thúc điều tra nhằm làm rõ toàn bộ sự thật khách quan của vụ án, nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng, chính xác, điều tra để truy tố mọi tội phạm. Hoạt động THQCT và KSĐT của VKS hướng đến tính chính xác, khách quan của quá trình chứng minh sự thật của vụ án hình sự thuộc phạm vi trách nhiệm của CQĐT, bảo đảm việc truy cứu TNHS có căn cứ và hợp pháp, ngăn ngừa xảy ra các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội. Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, từ khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng phê chuẩn việc bắt, tạm giữ, tạm giam, phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, kiểm sát các hoạt động điều tra ngày càng nâng cao, đưa tỷ lệ bắt giữ xử lý hình sự đạt 96%, tỷ lệ truy tố đạt 98-99%;
  • 2. 2 hạn chế đáng kể các trường hợp phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội và tòa án tuyên bị cáo vô tội. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra cũng như các hoạt động tiến hành tố tụng khác như điều tra, truy tố, xét xử, còn có những hạn chế, yếu kém chung là còn được tiến hành theo nếp cũ, chưa kịp đổi mới tư duy; nhiều thủ tục còn rườm rà, phức tạp làm cho quá trình giải quyết vụ án chậm chạp, kéo dài, chi phí tiến hành tố tụng tốn kém; tình trạng áp dụng BPNC bắt, tạm giam quá phổ biến; Chưa có sự phân định hợp lý chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng; Cơ chế đảm bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng còn bất cập, nhất là quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Riêng đối với hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra còn có những những hạn chế, yếu kém, trì trệ đặc thù như: kém năng động trong việc thực thi nhiệm vụ quyền hạn – THQCT và KSHĐTP, mà pháp luật giao cho, thể hiện qua việc quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can chưa đạt hiệu quả do hoạt động quản lý tố giác, tin báo về tội phạm của VKS ở một số địa phương thụ động, lúng túng về phương thức kiểm sát, dẫn đến nguy cơ bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; tình trạng đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội còn xảy ra và có trường hợp rất nghiêm trọng (theo Báo cáo Tổng kết công tác kiểm sát trong các năm 2004 – 2013, số vụ đình chỉ do bị can không phạm tội vẫn còn xảy ra, khoảng 0,14 % tổng số án thụ lý khởi tố, điều tra hàng năm); chưa quản lý, chi phối chặt chẽ được quá trình điều tra vụ án hình sự nên chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và KSHĐTP còn thấp, thể hiện qua tình trạng: còn có những trường hợp truy tố không đúng, tòa án tuyên không phạm tội hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung phải đình chỉ vụ án (theo số liệu của Cục Thống kê VKSNDTC, trong 10 năm qua, số trường hợp VKS truy tố, tòa án tuyên không phạm tội là 532 trường hợp, đạt tỷ lệ 0,05% tổng số bị can bị khởi tố, điều tra); tình trạng trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung thời gian qua đã phản ánh chất lượng hoạt động của CQĐT và VKS, tuy từng bước đã được hạn chế nhưng chuyển biến còn chậm, số lượng vụ bị trả hồ sơ
  • 3. 3 nhiều lần mà vẫn chưa đủ chứng cứ kết tội bị cáo còn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số vụ án đã quyết định truy tố (trong 10 năm, tòa án các cấp trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung là 22.262 vụ, chiếm tỷ lệ 3,8% trên tổng số 584.457 vụ VKS đã truy tố. Số vụ án do tòa án cấp tỉnh các địa phương trả lại các đơn vị nghiệp vụ của VKSND tối cao trong các năm 2008 và 2009 lên tới 44,5%); hiệu quả về mặt xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của hoạt động thực thi chức năng, nhiệm vụ của VKS trong điều tra vụ án hình sự chưa cao, thể hiện qua thực tế: hoạt động KSĐT ở một số đơn vị kiểm sát còn mang tính hình thức, nặng về phát hiện vi phạm có tính thủ tục mà chưa phân tích sâu để làm rõ bản chất vi phạm pháp luật đó đã ảnh hưởng như thế nào đến tính khách quan, tính toàn diện của vụ án để có thể kiến nghị CQĐT có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục; công tác kiến nghị phòng ngừa tội phạm ở cả ba cấp kiểm sát còn hạn chế, chưa gắn thống kê tội phạm với việc phân tích tình hình tội phạm, các đặc điểm, đặc trưng, thủ đoạn của từng loại tội phạm để tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong việc đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả, gắn đấu tranh phòng, chống tội phạm với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với những tồn tại, hạn chế nêu trên, hoạt động của VKS hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức lớn lao xuất phát từ những yếu cầu, đòi hỏi của công cuộc đổi mới, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, xã hội của Việt Nam theo hương hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hóa. Hệ lụy nghiêm trọng trước mắt của những thách thức này là tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp, khó tiên liệu, dự báo với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt; tội phạm tham nhũng, gian lận thương mại vẫn là những vấn nạn lớn chưa được ngăn chặn có hiệu quả; tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên biên giới, đa quốc gia và tội phạm có yếu tố nước ngoài có xu hướng gia tăng. Trước đòi hỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với HĐTP, VKS phải thực sự là chuẩn mực của việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, và là chỗ dựa tin cậy của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đấu tranh phòng chống có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật.
  • 4. 4 Trước yêu cầu khách quan đó và do chính vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của giai đoạn điều tra, của hoạt động điều tra đối với cả tiến trình TTHS, việc đổi mới hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trở nên cấp thiết và được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cải cách tư pháp đều nhấn mạnh đến việc nâng cao trách nhiệm của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/2/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”, đã nhấn mạnh “Hoạt động công tố phải được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình tố tụng…”. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2010 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đều chỉ rõ: “Tăng cường trách nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra; xây dựng cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra”. Để thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, khắc phục những tồn tại, hạn chế các hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, về phương diện lý luận đã đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu như đổi mới việc thực hiện hoạt động THQCT theo phương hướng gắn với hoạt động điều tra; đổi mới phương thức KSĐT ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và trong suốt quá trình điều tra, nhằm bảo đảm không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật; góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ chức Việt Nam XHCN. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của đấu tranh phòng, chống tội phạm, của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, tác
  • 5. 5 giả chọn vấn đề “Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Từ thực tiễn công tác kiểm sát cho thấy số lượng vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý của TAND các cấp chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu thụ lý án hình sự chung của các CQĐT. Điều này kéo theo hoạt động điều tra và hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra do CQĐT thuộc lực lượng Công an nhân dân và VKSND thực hiện là chủ yếu trong thực trạng điều tra, truy tố nói chung. Nhằm đạt được tính đại diện, tiêu biểu của kết quả và sự thuận lợi trong nghiên cứu, tác giả luận án chọn đối tượng nghiên cứu là hoạt động của VKSND theo qui định của BLTTHS năm 2003 trong điều tra vụ án hình sự. Đây là hoạt động nhằm thực hiện chức năng THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn điều tra được tiến hành bởi người tiến hành tố tụng của VKS. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, luận án nghiên cứu hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ khi vụ việc vi phạm pháp luật bị CQĐT trong lực lượng Công an nhân dân hoặc bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền khởi động hoặc tái khởi động tiến trình điều tra vụ án hình sự bằng các quyết định khởi tố vụ án, điều tra bổ sung, phục hồi điều tra, điều tra lại đến khi CQĐT hoàn thành nhiệm vụ điều tra bằng việc kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ năm 2004 (năm BLTTHS năm 2003 có hiệu lực) đến 2013 (thời điểm 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003), nhằm đảm bảo tính sâu sắc, toàn diện cho việc nghiên cứu. Về không gian, luận án nghiên cứu hoạt động của VKS trên địa bàn toàn quốc, nhưng có chú trọng ở một số địa bàn trọng điểm, có số lượng án hình sự thụ lý hàng năm lớn nhất Việt Nam, mang nhiều sắc thái tiêu biểu của tình hình đấu tranh phòng,
  • 6. 6 chống tội phạm như: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai. 3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự; từ đó tạo cơ sở cho việc nhận thức thống nhất về chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu của cán bộ giảng dạy, sinh viên trong các Trường đại học Luật, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp như Học Viện tư pháp, Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát hoặc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người quan tâm, nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố Việt Nam trong điều tra hình sự. Những kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể dùng tham khảo trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như Luật tổ chức VKS, BLTTHS, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự... 4. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, phần tổng quan tình hình và kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung kết quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động của viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình sự. Chương 3: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp.
  • 7. 7 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để tăng cường khả năng phát hiện và xử lý hiệu quả các loại tội phạm, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự luôn dành được sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước, và được tranh luận ở nhiều diễn đàn khoa học. 1. T nh h nh nghiên cứu nƣ c ngoài Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như vấn để hoàn thiện nó không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên việc nghiên cứu thực tiễn và lý luận để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan công tố, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giữ vững trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh yếu tố quốc tế ngày càng trở nên quan trọng và được mở rộng trong nền tư pháp của từng quốc gia như các mục tiêu: hợp tác kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế; phòng chống tội phạm xuyên biên giới, mở rộng dân chủ, đảm bảo tốt hơn quyền con người, chống nghèo đói,…là các vấn đề được quan tâm, chú trọng thảo luận trong các diễn đàn pháp lý quốc tế. Chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của cơ quan công tố trong TTHS của một số quốc gia tiêu biểu cho những hệ thống pháp luật hiện đại đều được thể hiện một cách tập trung, rõ ràng nhất tại các BLTTHS của các quốc gia này. Do vậy, việc nghiên cứu về các cơ quan công tố nước ngoài nhằm tìm kiếm những giá trị tiến bộ, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam khi giải quyết các yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình cải cách tư pháp thì không thể không nghiên cứu BLTTHS nước ngoài. Qua nghiên cứu BLTTHS của Liên bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,... có thể kết luận được rằng ở một số quốc gia có sự thay đổi chế độ chính trị trong thập niên 1990 đặc biệt là Nga; hoặc ở một số quốc gia đã tiến hành cải cách tư pháp để đẩy mạnh cải cách kinh tế, củng cố chính trị, trật tự an toàn xã hội sau chiến tranh nhằm chấn hưng đất nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc,Trung Quốc,
  • 8. 8 Việt Nam,…việc cải cách các cơ quan công tố - một bộ phận của cải cách tư pháp, đã làm xuất hiện một hình thức tổ chức và hoạt động mới của cơ quan công tố nói riêng và mô hình TTHS nói chung đó là mô hình TTHS kết hợp. Đó là mô hình TTHS có sự kết hợp các ưu điểm của hai mô hình TTHS tranh tụng và thẩm vấn trên cơ sở điều kiện riêng biệt về địa lý, chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống tiến hành TTHS và mục tiêu phát triển của từng quốc gia. Đây có thể xem là một kinh nghiệm quí, một hướng cải cách tư pháp khả thi vì có thể phù hợp với các điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Các nghiên cứu về hoạt động của viện công tố/ VKS trong điều tra hình sự ở nước ngoài, đặc biệt là việc nghiên cứu BLTTHS của một số nước cùng với việc nghiên cứu các ý kiến đánh giá tổng quan của một số học giả nước ngoài thể hiện qua các trang thông tin điện tử là hoạt động nghiên cứu có giá trị rất quan trọng trong việc xây dựng và đề xuất các phương hướng, biện pháp hoàn thiện về pháp luật, chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, các kinh nghiệm có được từ việc nghiên cứu pháp luật nước ngoài nói chung đều có điểm hạn chế là tính tương thích, phù hợp đối với điều kiện, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, truyền thống pháp luật của Nhà nước ta không phải ở khía cạnh, vấn đề nào cũng đạt được mà đòi hỏi sự chọn lọc, biến đổi nhất định. Trên thế giới hiện nay, không có nước nào có cơ quan công tố/ VKS với tư cách như là một hệ thống cơ quan độc lập và phục vụ cho chính thể nhất nguyên như ở Việt nam; Hệ thống cơ quan công tố, VKS ở một số nước tuy có nhiều điểm tương đồng hoặc về văn hóa, hoặc về truyền thống pháp luật, hoặc về các mục tiêu chính trị, kinh tế, nhưng chỉ có giá trị tham khảo khi nghiên cứu để chọn lọc những giá trị tốt đẹp nhằm tìm kiếm và xây dựng các phương hướng và hoàn thiện theo yêu cầu cải cách tư pháp, như: Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,…đã thực hiện. Cũng cần chú ý hạn chế xu hướng trọng vọng các yếu tố nước ngoài trong khoa học pháp lý, nên việc đề xuất sửa đổi chính sách, pháp luật cần phải thận trọng và phải được đặt dưới tiêu chí đánh giá quan trọng, là sự phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế xã hội và truyền thống pháp luật Việt Nam.
  • 9. 9 Tuy nhiên, với sự hạn chế thường thấy của việc nghiên cứu trong nước, nghiên cứu sinh không có nhiều cơ hội tiếp cận trực tiếp với các công trình nghiên cứu chuyên sâu ở nước ngoài liên quan đến đề tài. Cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu trực tiếp với các nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài của nghiên cứu sinh là việc tham dự khóa học ngắn hạn do United Nations Asia and Far East Institute (UNAFEI) tổ chức tại Nhật bản trong năm 2009 về vấn đề "Luật và Đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán, Công tố viên và các nhân viên thực thi pháp luật" (Ethics and Codes of Conduct for Judges, Prosecutors and Law Enforcement Officers). Kiến thức và kinh nghiệm có được từ các giảng viên đến từ Nhật, Pháp, Mỹ, Hàn Quốc có giá trị tham khảo rất lớn khi nghiên cứu, đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của VKS, đặc biệt là các giải pháp liên quan đến yếu tố con người; Việc tham gia các hội thảo khoa học về cải cách tư pháp, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 do Viện khoa học kiểm sát tổ chức dưới sự tài trợ của tổ chức SIDA trong năm 2012; tham gia hội thảo phòng, chống tiêu cực trong HĐTP - Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới do Bộ tư pháp tổ chức ngày 03/4/2014 dưới sự tài trợ của Chương trình đối tác tư pháp Liên minh Châu Âu, cũng là nguồn tài liệu nghiên cứu rất có giá trị trong việc định hình, xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học của tác giả đối với các vấn đề nghiên cứu của đề tài. 2. T nh h nh nghiên cứu Việt Nam Về các công trình nghiên cứu lớn như đề tài khoa học cấp bộ của tập thể các tác giả (Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học VKSND tối cao, Hà Nội, 1999), đã đề cập đến các vấn đề lớn, cơ bản, nền tảng của không chỉ hoạt động của VKS trong TTHS mà còn của tất cả các hoạt động TTHS khác. Công trình nghiên cứu này đa dạng, phức tạp, đó là sự tổng hợp rất rộng các quan điểm khoa học TTHS đối với chức năng, nhiệm vụ của VKS không chỉ trong giai đoạn điều tra mà cả trong tiến trình TTHS với nhiều ý kiến mâu thuẫn, trái chiều, đòi hỏi người đọc phải có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học nhất định mới có khả năng có được nhận định, đánh giá, chính xác. Mặt khác, các quan điểm khoa học
  • 10. 10 TTHS này xuất hiện trên cơ sở sự kế thừa các quan điểm của nền khoa học pháp lý ở các nước Đông Âu trước đây, được thể hiện qua lăng kính yêu cầu “đổi mới” của Việt Nam thập niên 90 thế kỷ XX nên còn nhiều điểm chưa phù hợp với xu hướng hội nhập và học hỏi lẫn nhau về ưu điểm giữa các truyền thống pháp luật thể hiện khá phổ biến trong các quan điểm về cải cách, đổi mới trong khoa học hình sự, TTHS hiện nay; Các công trình nghiên cứu có nhiều ảnh hưởng đến đề tài như: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của Lê Hữu Thể và các tác giả năm 2008; Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2008; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, 2011; Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nguyễn Hải Phong và các tác giả. Đây là những nghiên cứu có tính toàn diện khái quát rất cao về lý luận và thực tiễn của hoạt động của VKS không chỉ trong điều tra hình sự mà còn ở các giai đoạn tố tụng khác (như Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học VKSND tối cao, Hà Nội, 1999; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, 2011). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này hoặc quá rộng, quá bao quát, toàn diện nên không trùng lặp về phạm vi nghiên cứu với đề tài, hoặc quá hẹp, chuyên sâu, chi tiết, mang nặng tính mô phạm và thiên về diễn giải, hướng dẫn thực hiện các thao tác nghiệp vụ kiểm sát đối với cán bộ kiểm sát (như Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp). Các công trình nghiên cứu trên chưa chỉ rõ sự bất cập, hạn chế của pháp luật thực định về hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự. Điểm mà tác giả chưa tìm thấy trong các nghiên cứu trên là sự nhìn nhận, đánh giá về ưu điểm, hạn chế cả về lý luận và thực tiễn hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự từ góc độ thực tiễn. Trong đó, không chỉ là những hạn chế của những quan điểm, lý luận hiện được công nhận một cách
  • 11. 11 rộng rãi, phổ biến về vị trí, vai trò của VKS và những hạn chế của pháp luật thực định, đặc biệt là của BLTTHS năm 2003, trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự, để từ đó có những đề xuất đổi mới, cải cách khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật. Nhiều bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Kiểm sát của các học giả nổi tiếng trong và ngoài ngành kiểm sát, bàn về từng khía cạnh, từng hoạt động của VKS cũng như của các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đây là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với các vấn đề nghiên cứu của đề tài kể cả hai khía cạnh ủng hộ và phản biện quan điểm nghiên cứu của tác giả. Ví dụ như: Lý Văn Chính, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2005; Đỗ Văn Đương, “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/7/ 2006; Lê Văn Cảm, "Bàn về hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án trong chiến lược cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 01/2009; Trần Công Phàn, "Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 03/2012; Trịnh Tiến Việt, "Khái niệm và các tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm soát xã hội đối với tội phạm", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Hoàng Nghĩa Mai, "Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách tư pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 16/2012; Nguyễn Hòa Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012; Nguyễn Thị Thủy, "Sửa đổi bổ sung BLTTHS nhằm thực hiện chủ trương của Đảng - Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với điều tra”, tạp chí Kiểm sát 21/2012; Nguyễn Thái Phúc, "Sửa
  • 12. 12 đổi nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành kiểm sát nhân dân", tạp chí Kiểm sát 17/2012; Trần Văn Độ, "Hoàn thiện các qui định của BLTTHS về biện pháp tạm giam", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Trần Đình Nhã, "Chế định điều tra tội phạm trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Đỗ Văn Đương, "Phân định rõ thẩm quyển quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ sung chế định chứng cứ trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 16/2012; Đào Trí Úc, "Đề xuất đổi mới VKS ở Việt nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới", tạp chí Kiểm sát số 12/2013; Lê Đức Xuân, Phạm Lan Phương, "Vai trò cơ quan công tố các nước trên thế giới trong việc KSĐT các vụ án hình sự", tạp chí Kiểm sát số 13/2013; Lê Thị Tuyết Hoa, "Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra", tạp chí Kiểm sát số 08/2014;...Bên cạnh đó, tác giả còn tìm thấy một số tài liệu có ý nghĩa là những đánh giá tổng kết, khái quát cao kết quả và những hạn chế, yếu kém của công tác kiểm sát trong quá trình hình thành và phát triển (như Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các công tác của ngành kiểm sát nhân dân qua 50 tổ chức và hoạt động, Hà Nội, 2010; Báo cáo kết quả tổng kết 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003, Hà Nội, 2012). Theo quan điểm của tác giả các nghiên cứu này thiên về đúc kết kinh nghiệm, tổng hợp, đánh giá ưu, khuyết điểm của hoạt động kiểm sát theo hai hướng hoặc quá bao quát, toàn diện đến toàn bộ hoạt động nghiệp vụ kiểm sát hoặc quá tỉ mỉ đối với từng hoạt động kiểm sát cụ thể nên không có cùng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, các bài báo được đăng tải trong các tạp chí trong và ngoài ngành kiểm sát, đặc biệt là của Lãnh đạo VKSND tối cao, trở thành nguồn tài liệu tham khảo có tính chất định hướng nghiên cứu quan trọng đối với đề tài. Trong những năm gần đây, các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tối cao đã triển khai nghiên cứu nhiều chuyên đề nghiệp vụ nhằm phân tích, đánh giá thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các loại án hình sự; cụ thể như: “Một số kinh nghiệm về Công tác THQCT và KSĐT án xâm phạm an ninh quốc gia từ năm 2005 đến năm 2007” của Vụ THQCT và KSĐT án
  • 13. 13 an ninh năm 2007; chuyên đề “Nâng cao chất lượng THQCT, KSĐT và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng” của Vụ THQCT và KSĐT án ma túy năm 2008; chuyên đề “Nâng cao năng lực của Kiểm sát viên trong công tác KSĐT án giết người” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự về trật tự xã hội năm 2008; chuyên đề “Tổ chức bộ máy và tình hình hoạt động THQCT và KSĐT án tham nhũng của ngành Kiểm sát trong hai năm 2007-2008” của Vụ THQCT và KSĐT án tham nhũng năm 2009; chuyên đề “Thực trạng công tác KSĐT tội phạm công nghệ cao - Một số giải pháp và kiến nghị” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự về kinh tế và chức vụ năm 2009; chuyên đề “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra” của Vụ THQCT và KSĐT án trật tự xã hội” năm 2011. Đây là các nghiên cứu chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm sát trong giới hạn không gian và thời gian xác định nên kết quả nghiên cứu nêu trên có giá trị tham khảo quan trọng đối với việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra. Đặc biệt, Viện khoa học kiểm sát với sự giúp đỡ của các chuyên gia pháp lý Nhật Bản và Cộng đồng Châu Âu thực hiện một số đề án, đề tài nghiên cứu khoa học TTHS có qui mô lớn nhằm thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp trong ngành kiểm sát (như: Mô hình TTHS thế giới; Mô hình TTHS Việt nam; Nghiên cứu về một số cơ quan công tố trên thế giới; So sánh pháp luật TTHS Việt nam và một số nước trên thế giới; Chỉ dẫn về công tác công tố; Định hướng sửa đổi luật tổ chức VKSND năm 2002 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp;...), cũng là nguồn tài liệu đảm bảo tính phong phú, đa dạng của đề tài khi đề xuất phương hướng, biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS. Các nghiên cứu học thuật về VKS nói chung và các nghiên cứu về hoạt động của VKS trong điều tra hình sự nói riêng không nhiều. Luận văn thạc sĩ luật học điển hình là: Vũ Thị Xuân Nhuệ "Một số hoạt động KSĐT án kinh tế tại TP.Hồ Chí Minh 1991-1996"; Đoàn Tạ Cửu Long "Công tác KSĐT án trị an tại Thành phố Hồ Chí Minh từ 1996 -2000 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"; Võ
  • 14. 14 Phước Long "Chức năng của VKSND trong TTHS" năm 2007; Đoàn Tấn Minh "Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Tiền giang" năm 2008; Nguyễn Văn Tấn "Hoạt động KSĐT các tội phạm về ma túy tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay" năm 2008. Công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ, có: Nguyễn Thị Mai Nga "Cơ sở lý luận và thực trạng của điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy", Nhà xuất bản thông tin và truyền thông năm 2012; Đào Hữu Dân Mối quan hệ giữa cơ quan cảnh sát điều tra với VKS trong điều tra vụ án hình sự, Luận án tiến sĩ luật học Trường Đại học cảnh sát nhân dân năm 2006;...Các kết quả nghiên cứu thể hiện trong các Luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, tuy có một số vấn đề thuộc cơ sở lý luận có quan điểm, đánh giá khá tương đồng với đề tài, như các vấn đề về Công tố; THQCT; KSHĐTP;… Tuy nhiên, các nghiên cứu này, so với đề tài, có nhiều quan điểm khác biệt và khác về phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Các nghiên cứu khoa học về VKS nói chung là khá hiếm, hiện chưa có công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ về hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự. Về hoạt động nghiên cứu riêng của nghiên cứu sinh nhằm thực hiện đề tài, gồm có: chuyên đề "Cơ sở khoa học của hoạt động THQCT và KSHĐTP trong điều tra hình sự" năm 2010; chuyên đề "Chức năng, nhiệm vụ và phương hướng hoàn thiện hoạt động THQCT, KSHĐTP trong điều tra hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2011; chuyên đề "Thực trạng hoạt động của VKS trong điều tra hình sự" năm 2011; tiến hành khảo sát bằng phiếu điều tra đối với Kiểm sát viên, Luật sư, Lãnh đạo VKS hai cấp tại một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Long An;...Các kết quả nghiên cứu trên đều được trình bày thành các nội dung của luận án. 3. Giả thuyết, mục tiêu, mục đích nghiên cứu Các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài có giá trị định hướng và tham khảo nhất định đến việc nghiên cứu của đề tài, nhưng ít hoặc không trùng lắp với mục tiêu, phạm vi, cách tiếp cận trong nghiên cứu của đề tài. Để giải quyết
  • 15. 15 các vấn đề đặt ra của đề tài “Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, giả thuyết rằng pháp luật hiện hành kể cả trong lý luận và thực tiễn áp dụng tồn tại một số vấn đề sau đây: Trong nhận thức chung về quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò của VKS trong từng lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ nói chung và trong lĩnh vực TTHS nói riêng còn khác nhau, tồn tại nhiều luận điểm khác biệt, mâu thuẫn. Nguyên nhân cốt lõi là do còn tồn tại sự khác biệt về nhận thức lý luận về các vấn đề khoa học mang tính sơ sở, nền tảng cho hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, như: QCT, HĐTP, THQCT, KSHĐTP, mối quan hệ giữa THQCT và KSHĐTP, cũng như tính đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Từ sự nhận thức khác biệt về nhận thức này kéo theo hệ quả là việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật về tổ chức, hoạt động chức năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS chưa được hợp lý nên tất yếu chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tế công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Sự chưa hoàn thiện này còn là một trong những nguyên nhân tạo ra nguy cơ hiểu và vận dụng khác nhau trên thực tế các qui định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong TTHS. Điều này càng làm trầm trọng thêm hạn chế, thiếu hiệu quả của hoạt động tác nghiệp kiểm sát trong TTHS. Để góp phần xác định được những cơ sở cần thiết cho việc cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự thì trước hết những vấn đề trong nhận thức chung và thực tiễn của hoạt động THQCT, KSHĐTP phải được xác định rõ. Tiếp đến, cần làm việc làm rõ các yếu tố của yêu cầu cải cách tư pháp đối với hoạt động của VKS trong TTHS cũng như những kinh nghiệm tiến bộ, phù hợp với điều kiện, hoàn cải cải cách tư pháp thực tế của Việt Nam để xây dựng cơ sở cho việc đề xuất phương hướng, biện pháp mang tính cấp thiết, toàn diện, khả thi nhằm nâng cao chất, lượng hiệu quả cho hoạt động của VKS trong TTHS. Để hoàn thành đề tài "Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", mục tiêu nghiên cứu của đề tài, kết quả nghiên cứu phải trả lời được những câu hỏi:
  • 16. 16 - Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình, có những vấn đề gì cần nghiên cứu để đảm bảo tính nhất quán trong nhận thức và thực hiện? - Ưu điểm và hạn chế của truyền thống tổ chức, hoạt động của VKSND Việt Nam là gì và những kinh nghiệm quí của thế giới có tính khả thi đối với Việt nam trong việc tổ chức, hoạt động của cơ quan công tố nhằm thực hiện cải cách để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự như thế nào? - Mục đích, yêu cầu, nội dung của công cuộc cải cách tư pháp đối với nền tư pháp nói chung và đối với VKS trong điều tra vụ án hình sự là gì? - Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự có những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nào? - Những phương hướng, nội dung, giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp là gì? Giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, kết quả mà luận văn hướng tới là: trở thành nguồn tài liệu tham khảo kể trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn đối với những ai quan tâm nghiên cứu về một loạt hoạt động TTHS đặc biệt - hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự; và cao hơn nữa hướng tới sự đóng góp nhất định đối với công cuộc cải cách tư pháp của Nhà nước ta hiện nay, thông qua việc đề xuất hoàn thiện BLTTHS năm 2003. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận thực hiện đề tài dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng; quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về vị trí, vai trò của VKS trong bộ máy nhà nước và trong TTHS; và các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
  • 17. 17 Để chứng minh giả thuyết và trả lời câu hỏi nghiên cứu, tác giả sử dụng chủ yếu hai phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tài liệu tham khảo và điều tra xã hội học, để nghiên cứu, làm rõ các vấn đề thuộc phạm vi các câu hỏi nghiên cứu, qua đó xác định hoặc bác bỏ các giả thuyết nghiên cứu. Hai phương pháp này được sử dụng dưới các hình thức phân tích, nhằm định tính và định lượng các vấn đề nghiên cứu trên cơ sở đó, thông tin được tổng hợp, đánh giá để kết luận vấn đề nghiên cứu. Đối với các vấn đề lý luận, cách tiếp cận là từ vấn đề tổng quan đến cụ thể, từ chung đến riêng, nghiên cứu vấn đề thông qua các yếu tố của một quan hệ pháp luật (khái niệm, đặc điểm, tính chất, chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung). Đối với các vấn đề thực tiễn, cách tiếp cận là việc đi từ khía cạnh cụ thể đến khía cạnh tổng quan, chú trọng đến yếu tố pháp lý, vai trò, hiệu quả tố tụng của chúng. Một số vấn đề quan trọng, phức tạp được kết hợp cả hai cách tiếp cận nêu trên nhằm làm rõ được vấn đề nghiên cứu một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tác giải không lựa chọn pháp pháp nghiên cứu, luận giải các vấn đề của luận án như các công trình nghiên cứu về hoạt động của VKS thường sử dụng. Đó là hoặc qua thiên về khía cạnh học thuật hoặc quá thiên về khía cạnh thực tiễn khi nghiên cứu các vấn đề lý luận. Việc giải quyết các vấn đề thực tiễn thì thiên về khía cạnh mô tả, giải thích mang tính mô phạm cho người đọc hiểu về thực tiễn tác nghiệp kiểm sát. Tác giả lựa chọn cách nhìn nhận, nghiên cứu, đánh giá vấn đề về nhận thức và thực tiễn hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn, thông qua các yếu tố của một quan hệ pháp luật (khái niệm, mục đích, chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung, hình thức thể hiện) mà không phân tích sâu vào việc diễn giải thực tiễn công tác kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự, nhằm đạt được kết quả nghiên cứu có giá trị.
  • 18. 18 Chƣơng 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Điều tra vụ án h nh sự 1.1.1 Khái niệm điều tra vụ án hình sự Để hiểu rõ khái niệm điều tra vụ án hình sự, trước hết cần phải nghiên cứu, làm rõ các khái niệm liên quan, đó là: Điều tra và điều tra vụ án hình sự. Theo từ điển tiếng Việt [53], điều tra là hoạt động tìm hỏi, xem xét để biết rõ sự thật. Với ý nghĩa là một loại hoạt động nhận thức của con người, điều tra được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, để nghiên cứu, tìm hiểu, thu thập thông tin, xác định mức độ kiến thức, hiểu biết về một vấn đề, lĩnh vực nào đó mà con người quan tâm. Có thể thấy, khái niệm điều tra đã trở nên phổ biến trong đời sống chính trị, khoa học, kinh tế, xã hội, như: điều tra dân số, điều tra về nhà ở, điều tra mức độ tiêu thụ sản phẩm, điều tra thị hiếu tiêu dùng, điều tra xã hội học,… Trong khoa học hình sự, khái niệm điều tra đã được nhiều tác giả nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có ý kiến cho rằng “Điều tra là công tác trong TTHS được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”[49]. Ý kiến khác cho rằng “Điều tra là một giai đoạn của quá trình TTHS, trong đó CQĐT áp dụng các biện pháp do Luật TTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, VKS kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của tòa án” [12]; hoặc, “Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS, trong giai đoạn này CQĐT áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người phạm tội”[16]. Quan điểm này, hoàn toàn trùng lắp về mặt nội dung khái niệm điều tra vụ án hình sự theo qui định của khoản 1, Điều 65 BLTTHS năm 2003.
  • 19. 19 Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005 thì điều tra được hiểu là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, tình hình... phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực phạm vi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Điều tra do cơ quan Công an tiến hành có thể dưới hai hình thức: Điều tra công khai do CQĐT hoặc một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành một cách công khai theo quy định của luật TTHS. Điều tra bí mật (điều tra trinh sát) do lực lượng trinh sát tiến hành, thường diễn ra trước khi khởi tố vụ án hình sự, phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà các văn bản của ngành Công an quy định. Mỗi hình thức điều tra có sự khác nhau cơ bản về chủ thể, thời hạn, hình thức cũng như trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra. Theo từ điển tiếng Việt [64, tr: 05, 1090], nghĩa chung nhất của vụ án hình sự được hiểu là sự việc vi phạm pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định cần được xét xử trước tòa án. Do vậy, chỉ khi nào một hành vi vi phạm pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc truy cứu TNHS (điều tra, truy tố, xét xử) đối với chủ thể thực hiện hành vi đó thì việc truy cứu trách nhiệm đó mới trở thành vụ án hình sự. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của TTHS, trong đó CQĐT và những cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng mọi biện pháp điều tra do pháp luật TTHS quy định nhằm thu thập chứng cứ chứng minh làm rõ vụ án hình sự. So với khái niệm điều tra hình sự, khái niệm, điều tra vụ án hình sự có phạm vi hẹp hơn điều tra hình sự về không gian và thời gian. Như vậy, để làm rõ khái niệm điều tra, cần tiếp cận ở hai giác độ: Điều tra với nghĩa là một giai đoạn tố tụng và điều tra với nghĩa là hoạt động tố tụng. Khi phân tích điều tra với nghĩa là một giai đoạn tố tụng, cần phải đề cập đến các khía cạnh sau: Thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc, thời hạn, chủ thể tiến hành, chủ thể tham gia tố tụng, nhiệm vụ của giai đoạn này.
  • 20. 20 - Thứ nhất, về thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc và thời hạn điều tra. Đối với tất cả các vụ án hình sự, thời điểm bắt đầu của giai đoạn điều tra là khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi hoàn thành nhiệm vụ điều tra. Tuy nhiên, trách nhiệm điều tra chủ yếu nhưng không chỉ bắt đầu tại thời điểm ban hành quyết định khởi tố vụ án mà còn được tiếp tục duy trì khi xuất hiện một số quyết định tố tụng có hiệu lực, như: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định hủy bản án để điều tra lại của tòa án cấp phúc thẩm và của tòa án xét xử theo thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm; quyết định phục hồi điều tra. Tương tự, trách nhiệm điều tra vụ án hình sự không chỉ kết thúc khi CQĐT kết luận điều tra và đề nghị truy tố mà còn chấm dứt hay tạm dừng khi vụ án được đình chỉ điều tra hay tạm đình chỉ điều tra. Thời hạn điều tra các vụ án hình sự tùy từng trường hợp được luật xác định cụ thể. Trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn theo quy định của pháp luật Về phương diện lý luận, khi có dấu hiệu tội phạm xuất hiện, Nhà nước, với hệ thống pháp luật của mình, đặt ra yêu cầu điều tra làm rõ hành vi và người phạm tội. Tuy nhiên, trong TTHS, việc điều tra hình sự này được chia nhiều giai đoạn với chủ thể, nhiệm vụ khác nhau. Khi nghiên cứu, cần phân biệt giai đoạn điều tra vụ án hình sự với giai đoạn khởi tố vụ án – phạm vi mà hoạt động điều tra ban đầu được thực hiện. Giai đoạn khởi tố vụ án bắt đầu từ khi có thông tin về tội phạm và kết thúc khi ra quyết định khởi tố vụ án với thời hạn được Bộ luật TTHS quy định. Như vậy, điều tra vụ án hình sự là giai đoạn kế tiếp giai đoạn khởi tố vụ án. Trong giai đoạn khởi tố vụ án cũng có hoạt động điều tra, tức là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu. Tuy vậy hai giai đoạn này khác nhau về nhiệm vụ, chủ thể tiến hành tố tụng, chủ thể tham gia tố tụng v.v… Việc thu thập chứng cứ, tài liệu trong giai đoạn khởi tố vụ án có nhiệm vụ là phục vụ cho việc xác định căn cứ khởi tố vụ án, còn nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rộng hơn. Nói cách khác, hoạt động điều tra vụ án hình sự chính là hoạt động của CQĐT trong giai đoạn điều tra theo qui định của BLTTHS năm 2003.
  • 21. 21 Điều tra ban đầu là khái niệm mà nội hàm của nó trong trong khoa học luật TTHS có sự khác biệt so với cách hiểu trong khoa học điều tra hình sự. Theo cơ cấu qui định của BLTTHS năm 2003, có thể thấy rằng điều tra ban đầu được bắt đầu từ khi tiếp nhận, tố giác, tin báo về tội phạm đến khi khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án, thời hạn điều tra ban đầu rất ngắn. Chủ thể tiến hành tố tụng trong điều tra ban đầu là các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Điều tra ban đầu được tiến hành trong một số trường hợp khi mà thông tin về tội phạm chưa rõ ràng và chưa đầy đủ để có thể quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong khoa học điều tra hình sự, giai đoạn điều tra được nhiều giáo trình, tài liệu chia ra: “điều tra ban đầu” và “điều tra tiếp theo” - điều tra vụ án hình sự. Tuy vậy, về phương diện lý luận, điều tra ban đầu với ý nghĩa là một giai đoạn điều tra trong khoa học điều tra hình sự vẫn còn là vấn đề cần phải trao đổi. Một xu hướng được nhiều sự đồng tình của cả học giả lẫn cán bộ thực tiễn pháp lý là xây dựng và phát triển các hoạt động quan trọng, then chốt trong TTHS thành các giai đoạn tố tụng cụ thể để đẩm bảo hiệu quả của từng hoạt động chức năng tố tụng lẫn cả quá trình tố tụng và điều tra ban đầu cũng nằm trong xu hướng đó. Mặc dù chưa được xác định rõ ràng nhưng thuật ngữ “điều tra ban đầu” cho phép được hiểu đây là một giai đoạn. Sau điều tra ban đầu là giai đoạn “điều tra tiếp theo”. Tuy vậy sự khác nhau, căn cứ để phân biệt “điều tra ban đầu” và “điều tra tiếp theo” trong khoa học điều tra hình sự chưa được làm rõ. Về phương diện lý luận và thực tiễn, việc phân chia quá trình thực hiện hoạt động điều tra thành các giai đoạn khác nhau là vấn đề phức tạp, cần phải tiếp tục nghiên cứu. Mặt khác, phạm vi đề tài này không cho phép đề cập sâu về khái niệm điều tra ban đầu trong khoa học điều tra hình sự nên tác giả chỉ nêu ra mà không làm rõ nội hàm của khái niệm này. - Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra So với giai đoạn khởi tố vụ án, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rộng hơn và phức tạp hơn.
  • 22. 22 Các giáo trình, tài liệu về TTHS và về khoa học điều tra hình sự trình bày về nhiệm vụ của giai đoạn điều tra còn có sự khác nhau. Theo giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra có 04 nhiệm vụ là: Xác định tội phạm và người phạm tội; Xác định tội phạm do người phạm tội gây ra, tạo điều kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án; Lập hồ sơ, đề nghị truy tố bị can; Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn chặn. Tuy nhiên, qua tổng hợp các tài liệu và từ thực tiễn hoạt động điều tra, có thể khái quát nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là: - Xác định diện bị can Xác định diện bị can là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong điều tra các vụ án hình sự. Khi khởi tố vụ án, có thể khởi tố một số bị can, nhưng thông thường qua quá trình điều tra việc khởi tố ai, khởi tố bao nhiêu người mới được xác định cụ thể. Không phải bất cứ ai tham gia vụ án đều bị khởi tố mà việc xác định diện khởi tố cần phải tính toán cụ thể, phải xem xét các yêu cầu chính trị, nghiệp vụ. - Thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh làm rõ toàn bộ vụ án Làm rõ toàn bộ vụ án là làm rõ tất cả những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, gồm: Các dấu hiệu định tội; các tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và các tình tiết khác (các tình tiết là cơ sở cho việc miễn TNHS, miễn giảm hình phạt, cơ sở loại trừ TNHS,…). Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn, phức tạp nhất. Chất lượng, hiệu quả của giai đoạn điều tra cao hay thấp phụ thuộc vào việc thực hiện nhiệm vụ này như thế nào. - Xác định diện bị can cần truy tố và đề nghị VKS truy tố Khởi tố bị can và đề nghị truy tố là hai vấn đề có quan hệ chặt chẽ nhưng không phải là một. Qua kết quả điều tra, nếu thấy rằng có căn cứ miễn TNHS hay tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra thì CQĐT không đề nghị VKS truy tố. Việc đề nghị hay
  • 23. 23 không đề nghị truy tố bị can nào đó trong vụ án phải có căn cứ pháp lý và phải được xem xét một cách cẩn trọng. - Xây dựng kết luận điều tra và hoàn thiện hồ sơ vụ án - Tiến hành các biện pháp cần thiết phục vụ cho việc điều tra, xử lý người phạm tội (áp dụng BPNC, áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác như khám xét, kê biên tài sản…) Hoạt động của CQĐT bao gồm hoạt động điều tra và các hoạt động khác. Hoạt động điều tra là các hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm làm rõ vụ án. Hoạt động khác là những hoạt động phục vụ cho công tác điều tra làm rõ vụ án và truy cứu TNHS đối với bị can, bảo đảm quyền cho bị can và những người tham gia TTHS. Mặc dù cũng do Điều tra viên tiến hành nhưng theo nghĩa hẹp đây không phải là hoạt động điều tra vì không nhằm thu thập chứng cứ. - Thứ ba, chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra Chủ thể chính của hoạt động điều tra là CQĐT có thẩm quyền theo qui định của BLTTHS năm 2003. Mặc dù theo qui định của pháp luật, tiến hành hoạt động điều tra còn có VKS có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của Điều 112 BLTTHS năm 2003 và một số cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu theo qui định của BLTTHS năm 2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Tuy nhiên, chỉ có CQĐT có thẩm quyền mới là chủ thể chính của hoạt động điều tra vụ án hình sự. Xét về chức năng tố tụng hoạt động của CQĐT và VKS là hoạt động của Cơ quan tiến hành tố tụng, có cùng chức năng buộc tội nhưng mỗi cơ quan có chức năng nghiệp vụ khác nhau. Tham gia tố tụng vào giai đoạn điều tra có thể bao gồm tất cả các diện người tham gia tố tụng theo qui định của BLTTHS năm 2003, tùy theo phạm vi và tính chất của từng vụ án. Tuy nhiên, hai dạng người tham gia tố tụng là bị can, bị hại là hai dạng người tham gia tố tụng chính, và đều phải được xác định khi tiến hành điều tra của tất cả các vụ án.
  • 24. 24 1.1.2 Đặc điểm của hoạt động điều tra vụ án hình sự Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng phức tạp, phong phú và đa dạng như đã được phân tích ở phần trên. Sự phức tạp, đa dạng của hoạt động điều tra vụ án hình sự hàm chứa trong các đặc điểm nổi bật sau đây: - Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thực hiện công khai theo trình tự, thủ tục TTHS Hoạt động điều tra vụ án hình sự được tiến hành công khai theo các trình tự, thủ tục và theo những biện pháp do pháp luật TTHS quy định. Tính công khai của hoạt động điều tra thể hiện chỉ được tiến hành các biện pháp điều tra với sự có mặt của những người mà luật quy định và ký vào biên bản các hoạt động điều tra (như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại...). Tính công khai ở đây là công khai tiến hành các thủ tục tố tụng điều tra, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải giữ bí mật. Việc giữ bí mật điều tra có ý nghĩa quan trọng, có tính nguyên tắc quyết định sự thành công hay thất bại của cuộc điều tra, khám phá sự thật khách quan của vụ án. Đặc điểm này để phân biệt với những biện pháp điều tra khác như điều tra trinh sát là dạng hoạt động nghiệp vụ được tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí mật để thu thập tin tức về hoạt động tội phạm nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và nhanh chóng khám phá vụ án. Phạm vi chứng minh trong hoạt động điều tra vụ án hình sự rộng hơn phạm vi những vấn đề phải chứng minh do BLTTHS qui định. Để xác định được một tình tiết do luật định, CQĐT phải làm rõ nhiều nội dung, chứng cứ có liên quan, phải thu thập đầy đủ các tài liệu chứng cứ để chứng minh tính xác thực, tính liên quan của từng tình tiết cấu thành tội phạm và các tình tiết khác để giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan, toàn diện chứ không đơn giản là chứng minh các vấn đề được qui định tại các Điều 63, 302 BLTTHS năm 2003. Chẳng hạn, để xác định người nào đó trực tiếp thực hiện tội phạm, trước tiên phải có chứng cứ khẳng định người đó có mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ án; Do đó, CQĐT phải truy tìm dấu vết con người, lấy lời khai người bị hại, lời
  • 25. 25 khai người làm chứng khẳng định chính mắt mình nhìn thấy người này thực hiện tội phạm... Phạm vi chứng minh những vấn đề thực tế của vụ án trong giai đoạn điều tra rộng hơn phạm vi những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự do pháp luật TTHS quy định. Khi thực hiện hoạt động điều tra vụ án hình sự thường phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS Để kịp thời ngăn chặn người phạm tội tiếp tục gây án hoặc gây cản trở cho việc thu thập chứng cứ vụ án, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thường phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể; tiến hành các hoạt động điều tra khác liên quan đến quyền cơ bản của công dân như triệu tập để lấy lời khai những người có liên quan, hỏi cung bị can. Do đó, hoạt động điều tra thường tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người đối với người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thu thập chứng cứ phục vụ cho hoạt động buộc tội Trong tố tụng theo truyền thống thẩm vấn cũng như trong tố tụng theo truyền thống tranh tụng, hoạt động điều tra nói chung bao giờ cũng là bộ phận hợp thành chức năng buộc tội của Nhà nước nhưng về bản chất, THQCT là chức năng của cơ quan công tố (VKS) giữ vai trò quyết định, còn điều tra là hỗ trợ, thu thập chứng cứ, mở đường cho cơ quan công tố đưa người phạm tội ra tòa và thực hiện việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa xét xử. Tùy theo từng truyền thống tố tụng mà vị trí, vai trò của cơ quan công tố (VKS) và quan hệ tố tụng với CQĐT trong giai đoạn điều tra có khác nhau, mang nét đặc thù riêng thích ứng với hoàn cảnh, đặc điểm của mỗi quốc gia. - Đối với hoạt động điều tra vụ án hình sự, VKS vừa THQCT vừa KSĐT Khác với cơ quan công tố nhiều nước, VKS Việt Nam vừa THQCT, vừa kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra. Ở giai đoạn này, pháp luật hiện hành quy định VKS có quyền năng rất lớn, chi phối các nhiệm vụ, hoạt
  • 26. 26 động điều tra như: phê chuẩn; không phê chuẩn các quyết định tố tụng của CQĐT; yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC; quyết định gia hạn điều tra, gia hạn tạm giam; yêu cầu truy nã bị can; hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; quyết định chuyển vụ án; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; quyết định phục hồi điều tra; quyết định xử lý vật chứng…. Đây là đặc điểm rất quan trọng cần được nhận thức đúng đắn để xác định rõ những hoạt động của VKS và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền giữa CQĐT và VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. - Hoạt động điều tra vụ án hình sự đòi hỏi phải tuân thủ yêu cầu về pháp luật, chính trị, nghiệp vụ Trong điều tra vụ án hình sự, yêu cầu pháp luật, yêu cầu chính trị và yêu cầu nghiệp vụ có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau, tạo nên một chỉnh thể hoàn chỉnh. Khi xét về mối quan hệ giữa các yêu cầu, cần thấy rằng không thể tách rời giữa các yêu cầu. Tùy từng vụ án, từng biện pháp, từng tình huống điều tra cụ thể mà giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các yêu cầu, đưa ra nội dung cần quán triệt sát hợp, hài hòa, không dập khuôn, máy móc. Khi gặp trường hợp giữa các yêu cầu có mâu thuẫn phải cân nhắc một cách thận trọng mặt lợi, mặt hại của các yêu cầu để quyết định yêu cầu nào sẽ chi phối. Thông thường, yêu cầu nghiệp vụ phải phục tùng yêu cầu chính trị, vì mục đích cao nhất trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung thì hoạt động điều tra là phải phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chính trị, không được làm phương hại hoặc ảnh hưởng xấu đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Nhưng không vì yêu cầu chính trị mà CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra khi cơ sở pháp luật chưa bảo đảm hoặc làm ảnh hưởng lớn đến công tác nghiệp vụ vì quá chú trọng, theo đuổi yêu cầu chính trị. 1.1.3 Nội dung hoạt động điều tra vụ án hình sự Điều tra theo nghĩa chung nhất là thu thập thông tin nhưng trong TTHS điều tra là các hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm làm rõ vụ án. Tuy nhiên, cần phân biệt hoạt động điều tra với hoạt động của CQĐT. Trong nhiều trường
  • 27. 27 hợp, nếu không chú ý, ta có thể nhầm lẫn. Ví dụ: để tiến hành hoạt động điều tra hỏi cung bị can thì CQĐT phải thực hiện hoạt động không phải là hoạt động điều tra như: triệu tập bị can, trích xuất bị can đang bị tạm giam, áp giải bị can tại ngoại. Hoạt động của CQĐT với hoạt động điều tra có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không phải là một. Nếu không chú ý, ta dễ nhầm lẫn hoặc đồng nhất hoạt động điều tra với hoạt động của CQĐT, cũng như đồng nhất hoạt động của VKS với hoạt động truy tố. Hoạt động điều tra trong điều tra vụ án hình sự gồm các hoạt động cụ thể sau: + Hỏi cung bị can; + Lấy lời khai của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; + Khám xét (khám người, khám chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc); + Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện; + Khám nghiệm (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi); + Xem xét dấu vết trên thân thể; + Thực nghiệm điều tra; + Trưng cầu giám định. Hoạt động của CQĐT rộng hơn hoạt động điều tra. Ngoài những hoạt động điều tra nêu trên, hoạt động của CQĐT còn bao gồm các hoạt động khác phục vụ cho hoạt động điều tra như: Phân công Điều tra viên, áp dụng BPNC; xử lý vật chứng; phát hiện và khắc phục nguyên nhân, điều kiện phạm tội; giải quyết khiếu nại của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; thực hiện các quy định liên quan đến quyền lợi của người tham gia tố tụng và thân nhân của họ (như thanh toán chi phí cho người làm chứng, giải quyết vấn đề thăm nuôi người bị tạm giam, v.v…) Trong điều tra vụ án hình sự, hoạt động điều tra còn được hiểu theo nghĩa rộng, tức là hoạt động thu thập thông tin về tội phạm và người phạm tội. Theo nghĩa này, ngoài những hoạt động thu thập chứng cứ theo trình tự thủ tục TTHS như đã nêu trên, hoạt động điều tra còn bao gồm cả các biện pháp thu thập thông tin tài liệu bằng biện pháp nghiệp vụ trinh sát như: thu thập lời khai người biết việc, biện pháp trinh sát kỹ thuật…
  • 28. 28 1.2. Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án h nh sự Theo qui định của Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2002, Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND có chức năng, nhiệm vụ THQCT, KSHĐTP. Như vậy THQCT và KSHĐTP là chức năng Hiến định của VKS. Việc thể hiện trên thực tế chức năng Hiến định này thành các chức năng tố tụng của VKS trong từng hoạt động cụ thể có sự khác nhau, nhưng đều dựa trên cơ sở là QCT và KSHĐTP. Có thể thấy rằng từ việc xác định hình thức tổ chức, hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan VKS nói chung đến việc tổ chức, hoạt động và việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong từng lĩnh vực HĐTP cụ thể đều phụ thuộc vào bản chất, phạm vi, nội dung của hoạt động THQCT và KSHĐTP. Đối với hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, việc xác định một cách đúng đắn và khoa học các vấn đề nhận thức trong hai lĩnh vực hoạt động THQCT, KSHĐTP và các vấn đề liên quan như: hoạt động tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và KSHĐTP, mối quan hệ biện chứng giữa hai lĩnh vực hoạt động này, có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống VKS để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bởi đây là lĩnh vực hoạt động chủ yếu và thể hiện rõ nhất bản chất, vai trò, vị trí của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Mặc dù thời gian qua, trong khoa học pháp lý nước ta đã có sự nghiên cứu sâu về quyền năng của VKS nhưng việc nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của VKS vẫn còn có những hạn chế nhất định. Do vậy, việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau để nhận thức đúng đắn, đầy đủ về hoạt động của VKS, phù hợp với bản chất, định hướng nhiệm vụ của Nhà nước ta hiện nay, là một vấn đề cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của VKSND. Thực tế đã đặt ra yêu cầu phải có nhận thức đúng đắn về các yếu tố của hoạt động THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn điều tra để góp phần tạo ra cơ sở lý luận cho việc triển khai thực hiện hiệu quả hoạt động cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 1.2.1 Thực hành quyền công tố Để có khái niệm đúng đắn, toàn diện về khái niệm "Thực hành quyền công
  • 29. 29 tố" với ý nghĩa là một chức năng Hiến định, một nội dung hoạt động của VKS trong TTHS, cần bắt đầu tìm hiểu các thành tố của nó như: công tố; quyền công tố. 1.2.1.1 Những vấn đề cơ bản về quyền công tố Trong lịch sử pháp luật thế giới, khái niệm “công tố” đã được đề cập rất sớm như là hoạt động tố tụng trong các vụ án mà trong đó có những hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến các lợi ích của Nhà nước. Ở nước ta, thuật ngữ “quyền công tố” được ghi nhận lần đầu tiên tại Hiến pháp năm 1980 và tiếp theo sau đó, được ghi nhận tại Điều 23 BLTTHS năm 1988, Điều 15, Điều 16 Luật tổ chức VKSND năm 1992. Tuy nhiên, cho đến nay, Pháp luật Việt Nam chưa có văn bản pháp luật nào chính thức giải thích khái niệm công tố, quyền công tố. Về mặt ngôn ngữ, theo Từ điển Hán Việt thì "công tố" hiểu theo là: "Quan kiểm sát đã xét xử hình sự, bên thay mặt quốc gia để buộc tội trước tòa án"[1]. Công tố là một từ Hán Việt được hình thành bởi hai từ đơn công và tố. Theo Từ điển Tiếng Việt, thì: "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước, chung cho mọi người và khác với tư". Còn "tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người khác”. Công tố là "Truy tố, buộc bị cáo và phát biểu ý kiến trước tòa án"[64]. Hiểu theo nghĩa đầy đủ “tố” là "sự cáo buộc công khai của một người hoặc một nhóm người, của cơ quan hoặc tổ chức về hành vi vi phạm pháp luật, hành vi sai trái khác của người, tổ chức hoặc cơ quan trước người hoặc cơ quan có thẩm quyền". Công tố có nội hàm gồm "sự buộc tội" và “công”. Trong đó, "sự buộc tội" có nghĩa là "nội dung của sự buộc tội nêu trong quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng và bản án" và là "một loại hoạt động của người buộc tội của Nhà nước, của xã hội hoặc thậm chí của người bị hại hay người đại diện của người này trong việc chứng minh lỗi của bị cáo". "Sự buộc tội" và "công" ghép lại với nhau thành "công tố" thì có nghĩa là sự buộc tội của Nhà nước đối với người bị truy cứu TNHS [10]. Nhìn chung cách diễn giải của các từ điển có thể cho ta một nhận thức chung là công tố khác với tư tố vì có sự hiện diện của Nhà nước trong việc cáo
  • 30. 30 buộc một cá nhân, tổ chức nào đó đã phạm tội hoặc gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác. Do vậy, đặc điểm của công tố theo cách hiểu chung nhất là: + Về biểu hiện ra bên ngoài, công tố là một trong những hình thức cáo buộc người khác thực hiện hành vi sai trái hoặc vi phạm pháp luật. Công tố là hình thức nhân danh lợi ích công để phát giác, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật ra trước tòa án để xét xử, nên công tố được hiểu là sản phẩm của xã hội có Nhà nước. - Về chủ thể thực hiện, công tố được thể hiện thông qua người thực hiện sự cáo buộc ấy là Nhà nước. - Về đối tượng, công tố nhằm vào không chỉ là một con người cụ thể mà còn có thể là một pháp nhân. - Về lĩnh vực công tố, việc cáo buộc không hạn chế chỉ trong một lĩnh vực mà nó có thể được thể hiện và tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau tùy theo hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới từng loại quan hệ pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, việc cáo buộc một cá nhân là có tội thì phải buộc tội cá nhân đó đã vi phạm quy định trong BLHS. Do đó, hiểu theo nghĩa hẹp thì lĩnh vực hình sự sẽ là lĩnh vực chủ yếu để Nhà nước thực hiện QCT của mình. - Về phạm vi, công tố là thẩm quyền được Nhà nước thực hiện qua các giai đoạn khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử. Như vậy, công tố, hiểu theo nghĩa chung nhất đó là sự cáo buộc của Nhà nước đối với người đã có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Khái niệm QCT hiện nay trong khoa học pháp lý nước ta hiện còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Một số quan điểm tiêu biểu như: - Công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [47]. - QCT là quyền của nhà nước giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa [45]. - QCT là quyền đại diện cho nhà nước đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xừ đề bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ trật tự pháp
  • 31. 31 luật [47]. - QCT là quyền được nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu TNHS và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội [66]. - Theo quan điểm của các luật gia theo truyền thống pháp luật của Cộng hoà Pháp, QCT bao gồm quyền khởi tố, điều tra vụ án, quyền truy tố và buộc tội bị cáo trước tòa án [30]. - QCT là quyền cáo buộc của nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm hành vi hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, luật kinh tề và luật hình sự. Và, QCT là quyền của nhà nước thực hiện các cáo buộc đó [18]. - QCT là quyền lực công, đòi hỏi phải xử lý các vụ việc xâm phạm lợi ích chung một cách công khai bằng con đường tòa án. Vì thế, QCT thường gắn liền với quyền tài phán của tòa án [66]. - QCT là quyền được hành xử nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã hội, với mục đích là tòa án tuyên một hình phạt đối với người phạm pháp [46]. Các quan điểm hoặc cách diễn đạt nêu trên mặc dù chưa thống nhất, tuy vậy mỗi quan điểm đều có những hạt nhân hợp lý riêng của nó. Tuy nhiên, nếu xem xét đến cơ sở khoa học của mỗi quan điểm nêu trên, các quy định của pháp luật hiện hành, thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và hoạt động công tố ở các hệ thống pháp luật trên thế giới, có thể rút ra một số nhận xét về các quan điểm về QCT như sau: Còn đồng nhất QCT với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS, dẫn đến tình trạng mở rộng quá mức phạm vi QCT sang các lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, hành chính, lao động. Xem QCT là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của QCT như là một hoạt động độc lập của VKS nhân danh quyền lực công.
  • 32. 32 Quá thu hẹp phạm vi QCT và chỉ xem QCT như là quyền của VKS truy tố kẻ phạm tội ra tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Điểm hạn chế chung nhất của hầu hết các quan điểm hay cách diễn đạt về QCT nêu trên là không phân định rõ ràng và hợp lý về bản chất, nội dung, phạm vi của QCT, của hoạt động THQCT và của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Để có cách hiểu đúng đắn về QCT, cần phải căn cứ vào lịch sử ra đời của QCT; những đặc trưng khác biệt giữa hoạt động công tố và tư tố cũng như sự khác nhau về cách thức tổ chức thực hiện QCT. Nói cách khác, việc đưa ra khái niệm đúng đắn về QCT cần phải xuất phát từ những luận điểm mang tính nguyên tắc sau đây về đặc trưng của QCT: Một là, QCT là một loại quyền của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước, được tổ chức thực hiện khác nhau tùy theo kiểu Nhà nước bản chất và hình thức Nhà nước. Hai là, QCT là quyền lực công gắn liền với các quyền tài phán của tòa án. Bởi lẽ, QCT không chỉ là quyền tố giác công mà còn là việc xử lý các vụ việc xâm phạm lợi ích chung một cách công khai của tòa án. Về mặt lý luận, đây cũng là điểm gặp nhau rất cơ bản giữa các quan điểm khác nhau về QCT - quyền đưa vụ án ra tòa và "buộc tội" người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng, không phải chỉ riêng quyền đưa vụ án ra tòa mới là QCT. Cần phải xác định chủ thể nào được giao nhiệm vụ đưa vụ án ra tòa thì chủ thể ấy chính là cơ quan THQCT, vì QCT là quyền nhân danh Nhà nước đưa vụ án ra tòa. Do đó, chủ thể của QCT chỉ có thể là cơ quan được Nhà nước giao cho thẩm quyền thực hiện QCT, cho dù có tên gọi khác nhau. Ba là, QCT là sự thể hiện quyền lực của Nhà nước, đòi hỏi phải trừng trị công khai những hành vi phạm pháp liên quan đến lợi ích chung. Để bảo đảm tính khách quan và sự công bằng thì quyền này phải độc lập với quyền tài phán của tòa án. Như vậy, QCT và quyền xét xử phải được tổ chức thực hiện một cách độc lập với nhau. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để phân biệt QCT với các
  • 33. 33 thẩm quyền tố tụng khác của cơ quan công tố, của các cơ quan tiến hành tố tụng khác hoặc với quyền khởi kiện, quyền yêu cầu khởi tố của đương sự. Bốn là, về lợi ích, QCT có mục đích bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của xã hội, lợi ích hợp pháp của công dân. Các lợi ích trên được bảo đảm bằng sức mạnh Nhà nước. QCT thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trước toàn xã hội. Năm là, QCT là một quyền năng được thực hiện không chỉ giới hạn ở một giai đoạn tố tụng mà được thể hiện trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Việc chia cắt hoặc lấy một vài quyền năng thuộc nội dung QCT và giới hạn QCT trong một vài giai đoạn tố tụng là quan điểm chưa xác đáng. QCT cũng như các quyền năng tố tụng khác, có thể bị triệt tiêu khi xuất hiện căn cứ chấm dứt hiệu lực theo qui định của pháp luật. Như vậy, để làm rõ khái niệm QCT không thể không xem xét đến các căn cứ làm triệt tiêu QCT cũng như quyền cấm dứt việc THQCT. Sáu là, về lĩnh vực cần xác định rằng, Nhà nước chỉ sử dụng QCT đối với hành vi phạm tội, nên QCT được thể hiện trong các giai đoạn TTHS, còn trong các lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, hành chính, lao động thì QCT cần phải nhường chỗ cho quyền tự định đoạt của các đương sự. Nói cách khác, quyền công tố chỉ bảo vệ các quan hệ xã hội khi các hành vi xâm hại các quan hệ xã hội đó được xác định là tội phạm. Tuy nhiên, việc tổ chức THQCT được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc gia, ở mỗi thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào các điều kiện và hoàn cảnh về kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể. Trên thế giới, phần lớn các nước chỉ giao quyền này cho Viện công tố. Nhưng có nước như Vương quốc Anh, ngoài Viện công tố người ta còn giao cho cơ quan Hải quan, Thuế vụ có quyền trực tiếp đưa vụ án ra tòa trong lĩnh vực mà các cơ quan đó phụ trách. Ở Pháp, Công tố viên khởi tố những việc gây thiệt hại đến trật tự chung như: yêu cầu hạn chế quyền của một số người, hủy bỏ một cuộc hôn nhân bất hợp pháp, tham gia một số việc kiện khác. Trong lĩnh vực dân sự, Công tố viên nhân danh Nhà nước là một bên trong các vụ án, có
  • 34. 34 nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em, những người tàn tật, tâm thần, hủy bỏ hôn nhân bất hợp pháp, lập hội bất chính. Sở dĩ có sự khác nhau về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố ở một số nước là do QCT chỉ thuộc về Nhà nước. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng bản chất của việc tham gia các hoạt động tố tụng khác ngoài hình sự, cơ quan công tố cũng chỉ có quyền thực hiện hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật mà thôi. Việc khởi kiện có tính chất công này khác về bản chất với việc khởi tố để bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại bởi những hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm đáng kể, được xác định là tội phạm. Tóm lại, QCT là quyền năng của cơ quan có thẩm quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với cá nhân phạm tội để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội và lợi ích của công dân [42, tr.40]. 1.2.1.2 Những vấn đề cơ bản của thực hành quyền công tố Để bảo đảm THQCT, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT. Các quyền năng đó được giao cho cơ quan Nhà nước thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội, cơ quan ấy được gọi là cơ quan có trách nhiệm THQCT. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật thì VKSND là cơ quan được giao chức năng THQCT. Nếu như QCT là một quyền năng cơ bản trong hệ thống quyền lực tư pháp của Nhà nước thì THQCT cũng được coi là một chức năng cơ bản của VKSND. Đây là một chức năng Hiến định cơ bản của VKS mà không có cơ quan Nhà nước nào có được nhằm mục đích bảo đảm việc chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh, thống nhất trong việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội và không để lọt tội phạm. Thực tiễn hoạt động THQCT hơn 50 năm của VKSND các cấp cho thấy việc khởi tố do VKSND thực hiện chỉ chiếm 3- 4% tổng số vụ án được khởi tố. Các vụ án hình sự đều do VKS truy tố và thực hiện sự buộc tội trước phiên tòa, đưa ra lời kết luận của mình tại phiên tòa. Cùng với những hoạt động đó, VKS các cấp còn có trách nhiệm xem xét, bảo đảm cho việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ
  • 35. 35 BPNC có căn cứ và hợp pháp; có quyền khởi tố, yêu cầu khởi tố, xem xét việc khởi tố của CQĐT và tòa án. Theo tác giả Lê Hữu Thể, THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử [42]. Đây là quan điểm, phù hợp với truyền thống pháp luật của nước ta hiện nay. Theo Điều 3, Luật tổ chức VKSND 2014, "Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKS trong TTHS để thực hiện việc buộc tội Nhà nước đối với người phạm tội". Khi nghiên cứu hoạt động THQCT với ý nghĩa là một hoạt động tố tụng cụ thể, tùy theo phạm vi và mục đích nghiên cứu mà xác định yếu tố cần phải được xem xét để làm sáng tỏ các khía cạnh, nội dung của khái niệm THQCT. Ở góc độ là một hoạt động TTHS thuộc chức năng của cơ quan công tố, các yếu tố cơ bản của THQCT như chủ thể, đặc điểm, đối tượng, phạm vi, nội dung của THQCT là những yếu tố có ý nghĩa quan trọng về mặt nhận thức cần phải được làm sáng tỏ. Mục đích của thực hành quyền công tố Theo Điều 1 BLTTHS năm 2003, có thể xác định được rằng THQCT là hoạt động của VKS nhằm mục đích phát xử lý nhanh chóng, kịp thời, công minh, mọi hành vi phạm tội. Để đạt được mục đích chung này, từng nhiệm vụ, quyền hạn THQCT cụ thể có những mục đích tố tụng cụ thể, riêng biệt của hoạt động buộc tội và đặt chúng trong mối quan hệ tổng thể thì cấu thành mục đích chung nêu trên. Chủ thể thực hành quyền công tố Thực hành quyền công được pháp luật giao cho một chủ thể duy nhất, đó là VKSND. Ở Việt Nam, việc xác định chủ thể THQCT xuất phát từ cơ sở thực tiễn và lý luận cụ thể. Xét ở phương diện lịch sử Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật thì chỉ có VKS là cơ quan duy nhất THQCT. Về phương diện lý luận, cần phải thấy rằng trong cơ chế tổ chức quyền lực Nhà nước ta hiện nay, không chỉ VKS mà vẫn có một số cơ quan khác được thực
  • 36. 36 hiện các hoạt động liên quan đến QCT, như: hoạt động khởi tố vụ án hình sự của CQĐT và tòa án. Tuy nhiên, các hoạt động này chỉ là giai đoạn ban đầu của quá trình tố tụng, có tính chất phát động QCT của VKS. Hoạt động khởi tố vụ án, nhìn về hình thức dễ lầm tưởng là hoạt động công tố, song thực chất, không có ý nghĩa, mục đích, vai trò quyết định đến việc buộc tội tại tòa án. Quyết định khởi tố của CQĐT chỉ thực sự có ý nghĩa phát động QCT sau khi được VKS xem xét; nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ. Tòa án có quyền khởi tố vụ án, nhưng các quyết định khởi tố vụ án hình sự của tòa án đều phải được gửi cho VKS xem xét và sẽ bị VKS kháng nghị nếu có vi phạm pháp luật. CQĐT có quyền thu thập tài liệu chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu chứng cứ ấy có đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là do VKS chịu trách nhiệm. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh và xét thấy cần xử lý về hình sự, VKS quyết định truy tố bị can ra tòa. Như vậy, về mặt pháp lý chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động QCT mà không chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan Nhà nước nào. Do vậy, một số hoạt động của các cơ quan trên chỉ là bổ trợ cho QCT của VKS, chứ không phải là hoạt động THQCT. THQCT là việc thông qua VKS, Nhà nước tiến hành thực hiện quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người có hành vi phạm tội. Cơ quan được giao thẩm quyền đưa vụ án ra tòa được gọi là cơ quan THQCT. Vì vậy, THQCT là chức năng thể hiện tính quyền lực Nhà nước mà không một cơ quan nào có thể làm thay VKS. Pháp luật giao cho VKS quyền thực thi QCT theo trình tự thủ tục nhất định nhưng về mặt thực tế THQCT được tổ chức thực hiện bởi các diện người tiến hành tố tụng của VKS có thẩm quyền. Người tiến hành tố tụng của VKS có thẩm quyền thực hiện cách nhiệm vụ quyền hạn được BLTTHS năm 2003 qui định với tư cách đại diện cho VKS (thực chất là đại diện cho Nhà nước) khi được phân công thụ lý vụ án. Mặc dù BLTTHS năm 2003 chỉ qui định chung chủ thể thực thi nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT là VKS, tuy nhiên căn cứ qui định của Điều 36 và Điều 112 thì có thể hiểu rằng chủ thể thực tế và chủ yếu của hoạt động THQCT