SlideShare a Scribd company logo
1 of 118
LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh
mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động kiểm sát điều tra (KSĐT), là một giai đoạn quan trọng trong quá trình
giải quyết một vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam thì điều tra là một trong những hoạt động tư pháp
quan trọng của Nhà nước ta nhằm bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật có tính chất
nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm phải được điều tra làm rõ.
KSĐT các vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung
và trong lĩnh vực thực hành quyền công tố nói riêng; nhằm đảm bảo cho hoạt động điều
tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. KSĐT còn có vai trò đảm bảo mọi
hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện và xử lý chính xác kịp thời, tăng cường
đấu tranh phòng, chống tội phạm, ở nước ta hiện nay.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên và quan trọng của cả quá trình tố tụng
nhằm xác định rõ hành vi phạm tội của tội phạm. Công tác kiểm sát được thực hiện đúng
theo quy định của pháp luật sẽ giúp cho cơ quan điều tra, hoạt động đúng hướng, khởi tố
vụ án, khởi tố bị can được đúng người đúng tội; hoạt động điều tra được đầy đủ, chính
xác và kịp thời. Kết quả điều tra vụ án hình sự là điều kiện tiên quyết thiết thực, trực tiếp
cho việc thực hiện quyền công tố và công tác kiểm sát việc truy tố và công tác xét xử của
tòa án được đúng người, đúng tội và đúng chính sách, pháp luật; tránh làm oan người vô
tội và tránh bỏ lọt tội phạm.
Qua 20 năm đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong nhiều
thành tựu và kinh nghiệm cho thấy Nhà nước ta đang hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do dân và vì dân. Một trong những nội dung xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nước là vấn đề cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Hoạt động điều tra, hoạt
động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp và hoạt động xét xử, thi
hành án được đặc biệt nhấn mạnh trong Nghị quyết số 08 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới" của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Là một trong những cơ quan trọng yếu trong bộ máy các cơ quan tư pháp, Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND) với vị trí, vai trò là cơ quan bảo đảm cho nền pháp chế được
thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất cũng phải thực hiện sự đổi mới cả về tổ chức và
hoạt động thì mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình trước những yêu cầu của tình hình
và nhiệm vụ mới. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND đã được Nghị quyết số
08 của Bộ Chính trị xác định:
Viện Kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được
thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án, trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những
trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ.
Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh
tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác... [10].
Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện
nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát
nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân.
Nghiên cứu việc chuyển đổi Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường
trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [12].
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay ngành kiểm sát nhân dân cần tăng cường thực
hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với các hoạt động tư pháp. Nói chung là tăng cường công tác KSĐT đã
đúng hướng, hoạt động kiểm sát điều tra là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật.
Về phương diện lý luận, áp dụng pháp luật nói chung đã được giới khoa học pháp
lý làm sáng tỏ. Song áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự vẫn còn là một vấn
đề cần được nghiên cứu cụ thể hơn từ khái niệm đến đặc điểm các giai đoạn áp dụng
pháp luật và những yêu cầu cụ thể mà Viện kiểm sát (VKS) cũng như kiểm sát viên thực
hiện. áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra là mối
quan hệ giữa "cái chung" và "cái riêng". Chắc chắn "cái riêng" bao giờ cũng phong phú,
đa dạng và phức tạp hơn "cái chung". Nghiên cứu vấn đề này cũng là đáp ứng yêu cầu
đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra của vấn đề áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
của ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn hiện nay. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt
động KSĐT các vụ án ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả. Sự phối
hợp giữa cơ quan điều tra và VKS về cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng
chống vi phạm và tội phạm.
Tuy nhiên, qua công tác tổng kết, đánh giá thực tế cho thấy, công tác KSĐT của
VKS vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, hạn chế như: Nhiều kiểm sát viên, nhiều đơn vị
không thực hiện được công tác KSĐT ngay từ giai đoạn đầu, còn thụ động trong việc
điều tra của cơ quan điều tra. Hoặc là vì sợ trách nhiệm nên làm thay một số thao tác
của điều tra viên, không theo dõi đề ra yêu cầu điều tra. Hoặc là bỏ mặc cho điều tra
viên tiến hành điều tra một cách độc lập … dẫn tới nhiều vụ án còn bị kéo dài, phải ra
hạn thời hạn điều tra, còn để lọt hành vi tội phạm, thậm chí còn làm oan người vô tội …
Những vi phạm trên cho thấy chất lượng và hiệu quả của công tác KSĐT của ngành
Kiểm sát nhân dân vẫn còn bộc lộ yếu kém. Những yếu kém trên do nhiều nguyên nhân
khác nhau, có những nguyên nhân chủ quan cũng như những nguyên nhân khách quan.
Trong đó chủ yếu là do ý thức pháp luật cao hay thấp và năng lực áp dụng pháp luật
trong hoạt động thực tiễn của cơ quan điều tra, VKSND.
Để phát huy dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong thực
hành quyền công tố nói chung và trong hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ
án hình sự nói riêng. Vai trò của VKSND trong áp dụng pháp luật cần phải được nâng
cao chất lượng và hiệu quả và coi đó là như là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của ngành
tư pháp nước ta cũng như của khoa học pháp lý cách mạng.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: " Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật
trong kiểm sát điều tra các vụ án hỡnh sự của Viện kiểm sỏt nhõn dõn tỉnh Bắc Ninh "
làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động điều tra hình sự, là một giai đoạn quan trọng quyết định lớn đến quá
trình làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử các hành
vi vi phạm và tội phạm. Vì vậy đây là vấn đề thu hút các nhà hoạt động thực tiễn quan
tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài này đã được thể hiện trong nhiều công trình khoa
học được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và các luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy về pháp luật. Có thể nêu ra như sau:
Sổ tay kiểm sát viên hình sự của Viện Khoa học hình sự Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, NXB Văn hóa dân tộc, 2006.
Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2006.
Mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động điều tra trinh sát và hoạt động điều tra
tố tụng của Bộ Công an, NXB Công an nhân dân, 2006.
Đề tài cấp Bộ: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của thu thập, đánh giá chứng cứ trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự" - Phó viện trưởng Viện Khoa học kiểm sát làm chủ
biên, 2005.
Các sách chuyên khảo như: "Những điều cần hiểu về bắt người, tạm giữ, tạm
giam … đúng pháp luật" của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Văn Yên, Nxb Pháp lý, 1990.
Vũ Gia Lâm: "Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luận văn thạc sĩ luật
học, 2000.
Các bài viết, công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí của Trung
ương như: "Hoàn thiện một số quy định của pháp luật có liên quan tới phân loại tội
phạm" của Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
Thái Văn Đoàn: "Để nâng cao chất lượng công tác phê chuẩn tạm giam", Tạp
chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
Trần Quang Tiệp: "Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005.
Nguyễn Văn Nhật: "Khám nghiệm hiện trường trong hoạt động điều tra hình
sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005.
Phạm Mạnh Hùng: "Những bất cập và hoàn thiện quy định pháp luật TTHS về
khởi tố theo yêu cầu người bị hại", Tạp chí Kiểm sát, tháng 01/2003.
Trần Văn Thuận: "Nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra", Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003.
Nguyễn Duy Giảng: "Thủ tục rút gọn trong các giai đoạn tố tụng", Tạp chí Kiểm
sát, tháng 9/2003.
Nguyễn Văn Chiến: "áp dụng căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và phạm vi áp
dụng quyết định không khởi tố vụ án hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002.
Nguyễn Văn Thượng: "Quy định tách vụ án trong pháp luật tố tụng hình sự và
thực tiễn áp dụng", Tạp chí Kiểm sát, tháng 6/2005.
Phạm Hồng Thủy: "Những điểm xung đột pháp luật giữa chế định khởi tố vụ án
hình sự quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự", Tạp chí Kiểm
sát, tháng 5/2005 …
Qua nghiên cứu tình hình trên cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách có hệ thống dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật về việc nâng cao
chất lượng áp dụng KSĐT các vụ án hình sự trong điều kiện tiến hành cải cách tư pháp
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào những vấn đề sau:
+ Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong hoạt
động KSĐT các vụ án hình sự.
+ Thực tiễn áp dụng pháp luật trong KSĐT đối với hoạt động của cơ quan điều
tra.
+ Nguyên nhân phát sinh những tồn tại trong áp dụng pháp luật của quá trình
KSĐT và của cơ quan điều tra.
+ Những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong KSĐT
đối với cơ quan điều tra của VKS.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền. Thời điểm
nghiên cứu lấy từ năm 2001 đến năm 2005.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Về mục đích:
Luận văn nghiên cứu, đề xuất, đưa ra các luận chứng, các quan điểm, các giải
pháp đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật đối với hoạt động của cơ quan điều tra và
VKSND được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp, bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Góp phần
hoàn thiện các quy định về tố tụng hình sự (TTHS) trong KSĐT các vụ án hình sự; thực
hiện cải cách tư pháp theo đúng tinh thần Nghị quyết số 49 NQ/TW của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về chất lượng cải cách tư pháp.
- Về nhiệm vụ:
Luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong kiểm
sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra và VKSND.
+ Phân tích những ưu điểm và những tồn tại trong áp dụng pháp luật của
VKSND các cấp trong kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự.
+ Đề xuất những giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật đúng đắn trong kiểm sát
đối với hoạt động của cơ quan điều tra và trong điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều
tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng
cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Nhất là các quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số
08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị: "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới". Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật
biện chứng như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích
và tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương
pháp của các bộ môn khoa học khác: Thống kê tội phạm, luật học so sánh, phương pháp
hệ thống …
6. ý nghĩa của luận văn
ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu
tham khảo phục vụ yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng công tác KSĐT các vụ án
hình sự.
Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và
nghiên cứu một số chuyên đề khác, nhất là trong việc giảng dạy có liên quan đến thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp …
Mặt khác, nội dung của luận văn có thể sử dụng nhằm xây dựng kỹ năng nghề
nghiệp, thao tác nghiệp vụ … của người cán bộ, kiểm sát viên trước yêu cầu cải cách tư
pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật
trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Khoa học pháp lý XHCN chỉ ra rằng, pháp luật XHCN là một hệ thống bao gồm
tổng thể các quy tắc xử sự chung, thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý
chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành theo một trình tự, hình thức, thủ tục luật định, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội theo định hướng XHCN.
Trong đời sống và trong xã hội, pháp luật XHCN chiếm giữ vai trò vị trí đặc biệt
quan trọng. Xét trong bình diện chung nhất, pháp luật là phương tiện để thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được triển khai thực hiện có
hiệu quả trên quy mô toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã
hội; là phương tiện để nhân dân phát huy, thực hiện quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp
pháp, nghĩa vụ của công dân.
Pháp luật với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, luôn tác động và
ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội, cũng như các yếu tố của thượng tầng kiến trúc pháp lý;
duy trì trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị. Trong quan hệ với Nhà nước, vai trò
của pháp luật luôn gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước,
phát huy được vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng, quản lý, đưa xã hội
phát triển. Đối với chính Nhà nước, pháp luật vừa là cơ sở tổ chức, hoạt động vừa là sức
mạnh của quyền lực chính trị đồng thời nó cũng ràng buộc Nhà nước, tránh cho Nhà
nước khỏi tình trạng hoạt động tùy tiện, vi phạm quyền và tự do của công dân. Lịch sử
hình thành và phát triển của pháp luật nói chung và pháp luật XHCN nói riêng, pháp luật
luôn có vai trò, giá trị xã hội và tính pháp quyền mà không một công cụ, phương tiện điều
chỉnh nào có thể thay thế được.
Tuy nhiên, vai trò của pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy được hiệu quả khi
các quy định của pháp luật do Nhà nước đặt ra được chính các cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội, các công dân thực hiện một cách chính xác, nghiêm minh và tự giác. Do đó, vấn
đề đặt ra là không phải chỉ có đủ các văn bản pháp luật đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội
và đời sống Nhà nước, mà điều quan trọng hơn ở chỗ pháp luật đó có được thực hiện
không, những yêu cầu của pháp luật có trở thành hiện thực không.
Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động của con người có
tổ chức có chủ ý bao hàm những hành vi hợp pháp phù hợp với những quy định, những
yêu cầu của pháp luật.
Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của chính cá nhân con người nhưng cũng
có thể là hành động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, là một hiện tượng xã
hội có tính pháp lý thực hiện pháp luật: "là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật" [30, tr. 455].
Các quy định pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện pháp luật cũng
rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật,
khoa học pháp lý đã xác định và khái quát hóa thành những hình thức thực hiện pháp luật
như sau:
- Tuân thủ pháp luật (tuân theo pháp luật) là một hình thức thực hiện pháp luật,
(xử sự thụ động). Trong đó, các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành
động mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật); là hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nhiệm vụ pháp lý của mình bằng hành động tích
cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc được thực hiện ở hình thức này.
- Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện quyền năng pháp lý của mình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, của Nhà nước và của các chủ thể khác. Những quy phạm pháp luật quy định các
quyền về tự do dân chủ của công dân được thực hiện ở hình thức này. Hình thức này khác
với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện
quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện
pháp luật. Đó là quyền khiếu nại, tố cáo, đình công, kháng cáo …
- áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật; trong đó Nhà nước
thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện các quy định của pháp luật; hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp
luật để tạo ra những quy định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những
quan hệ pháp luật. Trong trường hợp này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định
của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt được Nhà
nước ủy quyền theo quy định của pháp luật, cơ quan của một số tổ chức chính trị xã hội
cũng có thể thực hiện hoạt động này.
Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức
phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức
đặc thù bởi luôn có sự tham gia của Nhà nước, thông qua các cơ quan hoặc nhà chức
trách có thẩm quyền. áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật quan trọng.
Thông qua hình thức này ý chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, Nhà nước thực
hiện được chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, kết hợp với trật tự
xã hội, đảm bảo cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các công chức nhà
nước trong khuôn khổ pháp luật. Điều này có lý do bởi trong nhiều trường hợp, các quy
định của pháp luật không thể thực hiện nếu chỉ bằng các hình thức tuân theo pháp luật,
thi hành pháp luật hoặc sử dụng pháp luật. Lý do có thể các chủ thể không muốn thực
hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự thông qua của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Sự áp dụng pháp luật cần phải được tiến hành qua các trường hợp sau:
- Trong trường hợp khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước, hoặc áp
dụng chế tài xử lý đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ, một công
dân thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi đó đã có đầy đủ yếu tố cấu
thành tội sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999.
Không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác
chấp hành các biện pháp chế tài tương xứng. Vì vậy, cần có hoạt động của các cơ quan
bảo vệ pháp luật và những người có thẩm quyền nhằm điều tra, truy tố, xét xử để đối
chiếu với quy định của pháp luật để ấn định trách nhiệm hình sự đối với người đã thực
hiện hành vi vi phạm và buộc người này phải chấp hành.
- Trong trường hợp khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không
mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ,
công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của Nhà nước nhưng khi kinh doanh
phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trong quan hệ kinh tế liên quan
đến việc ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế mà các bên không tự giải quyết được khi có
tranh chấp xảy ra, thì các bên phải nhờ đến Tòa án kinh tế giải quyết …
- Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để
giám sát, kiểm tra hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó; hoặc Nhà nước xác
nhận sự tồn tại của một số vụ việc, sự kiện thực tế. Ví dụ, ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn chứng nhận việc đăng ký kết hôn, xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp …
- Như vậy áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, do cơ quan
nhà nước, công chức nhà nước được trao quyền tiến hành theo một thủ tục do pháp luật
quy định; nhằm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật và
tội phạm; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý
giữa các chủ thể trong một quan hệ pháp luật nhất định; hoặc khi Nhà nước thấy cần phải
can thiệp, cần phải tham gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế của các chủ thể trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất, áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, thực hiện quyền lực của Nhà
nước trong thực tế:
- Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan nhà nước hay nhà chức trách
trong phạm vi thẩm quyền được giao thực hiện một số hoạt động áp dụng pháp luật quyết
định. Trong quá trình áp dụng pháp luật cơ quan áp dụng pháp luật phải tính đến mọi
khía cạnh, mọi chi tiết và phải xem xét cẩn trọng, dựa trên cơ sở những quy định, yêu cầu
của áp dụng pháp luật đã được xác định để ra quyết định áp dụng pháp luật. Như vậy,
pháp luật là cơ sở xuất phát điểm để cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp
luật thực hiện chức năng của mình.
Việc áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục thực hiện ý chí của Nhà nước
được thể hiện trong pháp luật. Do vậy, việc áp dụng pháp luật phải phù hợp với pháp
luật, với chủ trương, chính sách của Nhà nước trong mỗi giai đoạn nhất định.
Trong lĩnh vực tư pháp, áp dụng pháp luật được các cán bộ công chức nhà nước
có chức danh pháp lý tiến hành, như điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành
viên, … tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh,
điều tra làm rõ các tình tiết của vụ án nhằm xác định khách quan việc truy cứu trách
nhiệm pháp lý; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật.
- Tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước được thể hiện ở chỗ hoạt động áp
dụng pháp luật chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhân viên nhà nước có thẩm
quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành áp dụng pháp luật và ra văn
bản áp dụng pháp luật hoàn toàn theo quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào ý
chí của các chủ thể áp dụng pháp luật.
- áp dụng pháp luật có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng pháp luật và các
chủ thể có liên quan.
- Văn bản áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan hay nhà chức trách có thẩm
quyền áp dụng pháp luật ban hành. Văn bản áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc phải
thực hiện đối với những tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong những trường hợp cần
thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
Thứ hai, nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, là những tiêu
chuẩn chung cho xử sự giữa người với người trong mối quan hệ xã hội thì hoạt động áp
dụng pháp luật luôn mang tính cụ thể.
Tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ các địa chỉ để áp
dụng pháp luật là xác định, gồm cả sự việc, con người, tập thể, thời gian, không gian; các
quy định áp dụng pháp luật được ban hành luôn mang tính cá biệt, cụ thể đối với các
quan hệ xã hội xác định. Ví dụ, trong một vụ án hình sự được khởi tố thì các quyết định
khởi tố của từng bị can có tính riêng biệt, không thể sử dụng một quyết định khởi tố bị
can cho các bị can nếu vụ án có nhiều bị can bị khởi tố. Đối tượng của hoạt động áp dụng
pháp luật là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, trên cơ sở những mệnh
lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hành động áp dụng pháp luật những quy
phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa một cách cụ thể và chính xác.
Thứ ba, việc ban hành một quyết định áp dụng pháp luật phải được thực hiện
thông qua thủ tục nhất định. Các thủ tục để ban hành quyết định trong hoạt động áp dụng
pháp luật phải được pháp luật quy định rất chặt chẽ và đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ
nghiêm minh. Các thủ tục giúp cho các chủ thể áp dụng pháp luật thể hiện được nguyện
vọng, mong muốn của mình một cách dân chủ, khách quan trong quá trình áp dụng pháp
luật. Tính đơn giản hay tính phức tạp của các thủ tục này phụ thuộc vào tính chất nội
dung sự việc cần phải áp dụng pháp luật. Để áp dụng các quy phạm pháp luật đơn giản
như việc xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ thì các thủ tục đặt ra phải đơn giản, phải
nhanh chóng. Ví dụ, cảnh sát giao thông phạt người điều khiển xe gắn máy không đội mũ
bảo hiểm khi đang điều khiển xe gắn máy trên đoạn đường bắt buộc phải đội mũ bảo
hiểm. Để áp dụng quy phạm pháp luật phức tạp, thì cần phải xác minh, điều tra, đánh giá
kỹ những tình tiết, sự việc; việc xác định một người có phạm tội hay không phạm tội đòi
hỏi phải có cả một quá trình của những cơ quan tiến hành tố tụng như Công an, VKS,
Tòa án.
Thứ tư, áp dụng pháp luật là hành động đòi hỏi tính sáng tạo; khi áp dụng pháp
luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, cần làm
sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp
luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật chưa có quy định hoặc quy định
chưa rõ thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự. Để
đạt được điều đó, đòi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng
hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức nghề nghiệp và có tay nghề vững vàng …
ở nước ta, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, đòi hỏi phải đề
cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng nhất là tòa án. Ngoài hệ thống tòa án truyền thống xét xử những vụ
án hình sự, vụ án dân sự, hôn nhân gia đình còn xuất hiện các loại tòa án khác như: Tòa án
hành chính, Tòa án kinh tế, Tòa án lao động … điều đó nhằm tạo ra cơ chế đồng bộ đảm
bảo trật tự, kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân và tiến bộ xã
hội.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và quy trình áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, quy trình của áp dụng pháp luật trong điều tra
các vụ án hình sự
1.2.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
Nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự có ý nghĩa quan trọng, nhằm phát triển lý luận về áp dụng pháp luật nói chung và
áp dụng pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể nói riêng.
áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là một dạng của áp dụng pháp
luật nói chung. áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự thuộc trường hợp áp
dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia bằng hình thức giám sát hoạt
động của các chủ thể tham gia trong các quan hệ điều tra, KSĐT các vụ án hình sự. Cơ sở
phát sinh hoạt động áp dụng pháp luật của VKSND đó là các quyết định của cơ quan điều
tra, các hành vi của những người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS. Các quyết
định và các hành vi đó có thể được ban hành, thực hiện theo đúng hoặc không đúng quy
định của pháp luật. Khi đó Nhà nước thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của VKSND, nhằm phát hiện những sai phạm, kịp thời đề ra các yêu cầu, kiến nghị
các chủ thể trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, khắc phục, sửa chữa; đảm bảo cho
việc giải quyết các vụ án hình sự được tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
Dưới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là một hình
thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước của các cơ
quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những vi phạm pháp luật vào từng trường hợp cụ
thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức cụ thể. áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ
án hình sự có thể coi là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá
biệt hóa các quy phạm pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật TTHS nói riêng
đối với các chủ thể trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Từ khái niệm về áp dụng pháp luật nói chung, có thể hiểu áp dụng pháp luật
trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự của VKSND là hoạt động thực hiện pháp luật
nhằm đảm bảo cho toàn bộ hoạt động điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra và
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND được tuân thủ theo đúng quy
định của pháp luật.
1.2.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
Hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của VKSND có một
số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là hoạt động chỉ do
VKSND tiến hành theo pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức năng thực
hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua việc thực hiện chức
năng này, VKSND góp phần thực hiện quyền lực nhà nước, trực tiếp thực hiện quyền tư
pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, của
tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Là cơ quan duy nhất nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan tư pháp và thực hành quyền công tố. Hoạt động KSĐT các vụ án hình sự
được quy định tại Điều 12, 13, 14 Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc
thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định của
pháp luật; nếu hành vi của điều tra có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các
biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều
tra theo quy định của pháp luật.
- Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; tạm đình chỉ điều tra;
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Với những quy định của pháp luật như trên thì VKSND có quyền áp dụng mọi
biện pháp cần thiết trong hoạt động kiểm sát điều tra nhằm đảm bảo cho hoạt động điều
tra các vụ án hình sự được tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật. Đảm bảo cho việc
khởi tố điều tra các vụ án hình sự được tuân theo quy định của pháp luật; bảo đảm việc
truy tố đúng người, đúng tội và đúng chính sách pháp luật.
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND
phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Trong hoạt động điều tra, khám phá các vụ án hình sự của cơ quan điều tra, trong
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, đó là một quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan: Công an - VKS. Đây là những hoạt
động rất quan trọng có tính quyết định trong quá trình giải quyết những vụ án hình sự.
Chính hoạt động kiểm sát điều tra có vai trò quan trọng như vậy nên pháp luật nói chung
và pháp luật tố tụng hiện hành nói riêng đã quy định rất chặt chẽ việc áp dụng pháp luật
trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Pháp luật TTHS quy định chặt chẽ
trình tự, thủ tục của các hoạt động điều tra, hoạt động giám sát như: từ việc khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, các biện pháp điều tra, các biện pháp ngăn chặn, nhập - tách vụ án, đình chỉ,
tạm đình chỉ vụ án, thời hiệu điều tra, thời hạn điều tra … Tóm lại, tất cả các bước trong quá
trình điều tra các vụ án hình sự, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND đều
được quy định chặt chẽ theo các trình tự thủ tục do pháp luật TTHS hiện hành quy định.
Thứ ba, quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT của VKSND được pháp luật
bảo đảm thi hành.
Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật đã ban hành là giai đoạn
cuối của quá trình áp dụng pháp luật, nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Khi một quyết
định áp dụng pháp luật sau khi ban hành mà không được thi hành trên thực tế thì cũng
đồng nghĩa với việc vô hiệu hóa pháp luật, vô hiệu hóa cơ quan thực thi và bảo vệ pháp
luật, gây tổn hại nghiêm trọng đến pháp chế XHCN. Các quyết định áp dụng pháp luật
trong KSĐT các vụ án hình sự đã được BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003 quy định
chặt chẽ và đầy đủ. Việc thực hiện các quyết định áp dụng pháp luật của VKSND sẽ đảm
bảo cho quá trình giải quyết những vụ án hình sự được đúng theo quy định của pháp luật;
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Tại Điều 23, khoản 2
BLTTHS năm 2003 quy định:
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này
quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân
này [25, tr 17].
1.2.1.3. Quy trình áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự
- Nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ có liên quan đến sự kiện
pháp lý, đối tượng và quyết định xử lý do cơ quan điều tra cung cấp:
Đây là khâu đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng của áp dụng pháp luật trong hoạt
động KSĐT các vụ án hình sự. Việc VKS xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và thủ
tục tố tụng do cơ quan điều tra tiến hành trong các vụ án hình sự, nhằm xác định tính có
căn cứ, qua đó xác định tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội của các đối
tượng đã gây ra: có hay không có hành vi phạm tội? Hành vi đó ở mức độ nào? xảy ra ở
đâu? Khi nào? Ai là người thực hiện? Công cụ phương tiện phạm tội? Nhân thân? năng
lực chịu trách nhiệm hình sự? Trình tự, thủ tục thu thập tài liệu chứng cứ …
Nếu trước đó cơ quan điều tra thu thập tài liệu chứng cứ không đúng trình tự, thủ
tục, không đầy đủ, không toàn diện thì việc xem xét đánh giá (kiểm sát việc tuân theo
pháp luật) của VKSND sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn tới sai lầm trong khi ra văn bản áp dụng
pháp luật. Do đó phạm vi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKSND phải được bắt đầu từ khâu tiếp nhận, xử lý tin báo liên quan tới tội phạm.
Theo quy định của pháp luật TTHS thì VKSND tự mình thông qua các nguồn tin
báo hoặc từ các tài liệu chứng cứ của cơ quan điều tra gửi tới để xem xét đánh giá sự kiện
pháp lý đã xảy ra: Việc thu thập tài liệu chứng cứ có hợp pháp hay không, hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã đến lúc phải xử lý bằng hình sự hay chỉ cần xử lý bằng biện pháp
hành chính, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là ai, năng lực chịu trách
nhiệm hình sự, đối tượng phạm tội có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn … tức là phải
xem xét đánh giá các yếu tố cấu thành tội phạm của đối tượng đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Trong quá trình xem xét đánh giá các tài liệu chứng cứ ban đầu của vụ
án hình sự, VKSND cần phải có sự phân công trách nhiệm cụ thể rõ ràng cho cán bộ
kiểm sát viên, có sự phối kết hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra. Có thể nói rằng, việc
nghiên cứu hồ sơ vụ án ban đầu có một ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo cho việc ra
quyết định áp dụng pháp luật của VKS có chất lượng, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án
hình sự được tuân thủ theo quy định của pháp luật.
- Xem xét các quy phạm pháp luật được áp dụng trong hoạt động kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự:
Giai đoạn này được thực hiện dựa trên ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết kiến
thức pháp luật của chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật của VKSND. Người có thẩm
quyền áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự cần phải xem xét, đánh giá đầy
đủ sự kiện pháp lý đã xảy ra, những công việc đã xử lý của cơ quan điều tra, yêu cầu và
đề nghị của cơ quan điều tra đối với việc giải quyết vụ án. Để từ đó xác định nội dung
quy phạm được áp dụng, phạm vi vi phạm pháp luật được áp dụng trong hoạt động
KSĐT của VKSND. Muốn làm được điều đó, đòi hỏi người có thẩm quyền áp dụng pháp
luật phải tiến hành giải thích quy phạm pháp luật; phải làm sáng tỏ tư tưởng; nội dung và
ý nghĩa của quy phạm pháp luật được lựa chọn. Việc lựa chọn quy phạm pháp luật đúng
thì việc ra quyết định áp dụng pháp luật sẽ rất chính xác. Tóm lại, giai đoạn áp dụng pháp
luật này cần đòi hỏi: lựa chọn đúng quy phạm pháp luật được trù tính cho trường hợp đó;
quy phạm pháp luật áp dụng phải là quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và
không mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật khác; xác định tính chân chính của văn
bản quy phạm pháp luật chứa đựng quy phạm này; nhận thức đúng đắn nội dung, tư
tưởng của quy phạm pháp luật.
- Ban hành văn bản áp dụng pháp luật:
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là việc VKSND ra các quyết định; quyết
định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Đây là giai đoạn trọng tâm, quan trọng nhất của
cả quá trình KSĐT các vụ án hình sự. Quyết định, quyết định phê chuẩn, quyết định
không phê chuẩn của VKS trong lĩnh vực này được ban hành sau khi đã xem xét, đối
chiếu một cách thận trọng, khách quan với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đã được thu
thập trong hồ sơ vụ án. Vì quyết định của VKSND đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của
Nhà nước, đến trật tự trị an trên địa bàn và đến quyền tự do thân thể của công dân … nên
đòi hỏi người có thẩm quyền ra văn bản áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt
theo các trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật tố tụng hiện hành. Đặc biệt văn bản áp
dụng pháp luật của VKSND phải có tính khả thi và hiện thực. Tóm lại, để ban hành văn
bản áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự, người có thẩm quyền áp
dụng pháp luật của VKSND phải hiểu biết về mặt pháp luật, biết tổng hợp, đánh giá các
tình tiết vụ án, đồng thời phải có kỹ năng soạn thảo văn bản, đảm bảo chất lượng kỹ thuật
văn bản.
- Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật:
Việc tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật là giai đoạn cuối cùng của quá
trình áp dụng pháp luật. Khác với các văn bản áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước
khác, văn bản áp dụng pháp luật của VKS trong KSĐT các vụ án hình sự nó là lệnh, quyết
định, quyết định không phê chuẩn, quyết định phê chuẩn buộc cơ quan điều tra phải thi hành
và tổ chức thực hiện nghiêm minh. Giám sát việc thực hiện các văn bản áp dụng pháp luật
của VKS đối với toàn bộ hoạt động điều tra vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ của ngành
kiểm sát đã được pháp luật quy định chặt chẽ và đầy đủ. Đó là một trong những đảm bảo
quan trọng để quyết định của VKSND được thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
1.2.2. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự
Do tính chất hoạt động của các loại tội phạm đòi hỏi phải được các cơ quan chức
năng điều tra khám phá để xử lý. Nhiệm vụ khám phá tội phạm đặt ra cho các cơ quan
bảo vệ pháp luật phải làm rõ các yếu tố gây án, kẻ gây án, người phạm tội, mức độ lỗi của
người phạm tội. Nói cách khác là phải xác định và làm rõ các vấn đề phải chứng minh
trong vụ án hình sự đó. Theo Điều 63 BLTTHS năm 2003 thì những vấn đề phải chứng
minh trong vụ án hình sự:
- Có hành vi phạm tội hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội.
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô
ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích hoặc động cơ phạm tội.
- Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo và
những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo.
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra. Bị can, bị cáo có
quyền nhưng không bắt buộc chứng minh mình vô tội vì thế cơ quan điều tra phải tìm
cho được những chứng cứ để làm rõ yêu cầu trên, thì đó chính là điều tra.
Điều tra là một quá trình khám phá tội phạm, là công cụ, phương tiện của quá
trình nhận thức tội phạm. Song, không phải bất cứ vụ án hình sự nào xảy ra cũng đều
phải khám phá; mà tùy thuộc vào sự phản ánh của yêu cầu trên đây đã thỏa mãn hay
chưa? Nếu trong trường hợp kẻ trộm đang đêm cậy phá cửa một gia đình lấy trộm đồ đạc
mà bị chủ nhà phát hiện, bắt giữ thì không yêu cầu phải khám phá nữa mà chỉ cần hoàn
thiện một số thủ tục điều tra nhất định theo yêu cầu của quy định là đã hoàn thành cơ bản
nhiệm vụ.
Còn ngược lại, trong trường hợp kẻ trộm cậy phá cửa nhà, trộm cắp một số đồ
đạc trong đêm của một gia đình hay của một cơ quan nào đó, không bắt được kẻ gây án,
đến hôm sau mới phát hiện ra vụ việc, thì đây là tình huống phức tạp hơn; cần phải làm
rõ các yếu tố trên. Khác với trường hợp trước đó ở trường hợp này cần phải khám phá tội
phạm và hoạt động điều tra cần phải phức tạp hơn. Nó cần sử dụng tới tất cả các biện
pháp, chiến thuật, thủ thuật điều tra để khám phá tội phạm.
Với cách tiếp cận như vậy, xét về mặt tổng thể dưới góc độ lý luận, thấy rằng:
Điều tra tội phạm là một quá trình nhận thức, thông qua các hoạt động thu thập, nghiên
cứu, phân tích, đánh giá tài liệu, tình hình phản ánh thực tế khách quan về tội phạm, về
vụ phạm tội, bằng các hình thức, biện pháp, phương tiện chuyên môn của cơ quan chuyên
trách để khám phá tội phạm; vạch trần kẻ phạm tội; phòng ngừa ngăn chặn tất cả mọi
thiệt hại do tội phạm gây ra. Đây là quá trình thu thập những thông tin, tài liệu, số liệu …
phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, việc, hiện tượng hoặc địa bàn. Phục vụ cho
công tác nắm, quản lý tình hình về an ninh trật tự.
Điều tra được tiến hành dưới nhiều hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, công khai
hoặc bí mật, diện hoặc điểm và được tiến hành bằng hành động điều tra trinh sát, điều tra
TTHS.
Điều tra trinh sát là hoạt động nghiệp vụ đặc biệt của lực lượng công
an, được tổ chức tiến hành dưới hình thức bí mật, trên cơ sở vận dụng những
quy định của pháp luật nhằm thu thập tin tức, tài liệu phản ánh về hoạt động
của bọn tội phạm để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và khám phá nhanh
chóng, đầy đủ, kịp thời các tội phạm xảy ra [32, tr. 231].
Điều tra tố tụng hình sự là hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm
xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị
truy tố, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan,
tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa [32, tr.
233].
1.2.3. Khái niệm kiểm sát điều tra
Hoạt động của hệ thống các cơ quan VKS là một trong bốn hệ thống các cơ quan
nhà nước được xác lập trong Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Nhiệm vụ của VKSND là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều
tra của các cơ quan điều tra mà các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân
dân, trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân;
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ và cải tạo; điều tra tội phạm trong
những trường hợp do pháp luật TTHS quy định.
KSĐT là một nhiệm vụ quan trọng trong số các nhiệm vụ mà ngành kiểm sát
nhân dân phải thực hiện. Đây vừa là một nhiệm vụ đồng thời cũng là chức năng của
ngành kiểm sát nhân dân.
Theo Từ điển Luật học thì: Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều
tra của các cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra bằng các hoạt động sau:
- Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra.
- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra (Ví dụ, khám
chỗ ở, khám người, đồ vật, thư tín …); Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các
biện pháp ngăn chặn (ví dụ, bắt khẩn cấp, bắt tạm giam, hủy bỏ tạm giữ, tạm giam); hủy
bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra.
- Yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra, thay đổi, xử lý điều tra viên vi phạm pháp luật; nếu hành vi của điều tra viên đó có
dấu hiệu phạm tội thì khởi tố về mặt hình sự.
- Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra, quyết định truy tố bị can.
- Kiến nghị tới các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm.
Các hoạt động KSĐT được quy định trong BLTTHS hiện hành. Như vậy, hoạt
động KSĐT của VKSND có phạm vi rộng lớn, xuyên suốt từ quá trình phát hiện hành vi
phạm tội đến giai đoạn làm rõ hành vi cùng tính chất, mức độ, hậu quả, nhân thân kẻ
phạm tội, những thiệt hại đã xảy ra đến việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án nhân dân
để xét xử.
1.2.3.1. Kiểm sát việc khởi tố vụ án
Khởi tố vụ án hình sự là một quyết định mang tính pháp lý của cơ quan chức
năng bao gồm: Công an, VKS, Tòa án và một số cơ quan chức năng khác được pháp luật
trao thẩm quyền. Trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ xin đề cập tới việc khởi tố
vụ án hình sự của cơ quan điều tra của ngành công an nhân dân.
Căn cứ theo Điều 100 BLTTHS năm 2003, thì căn cứ khởi tố vụ án được quy
định, chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định
dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
- Tố giác của công dân.
- Tin báo của các cơ quan, tổ chức.
- Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Cơ quan điều tra, VKS, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh
sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm.
- Người phạm tội tự thú.
Mọi công dân đều phải có trách nhiệm tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tố giác tội phạm là việc người dân báo cho các cơ quan, tổ chức về tội phạm mà họ biết.
Tin báo về tội phạm là sự truyền đạt, phản ánh bằng nhiều hình thức khác nhau về tội
phạm. Có thể là trực tiếp hoặc phản ánh bằng miệng, bằng đơn thư, bằng điện thoại, bằng
thư tín, … Công dân có thể tố giác tội phạm với cơ quan điều tra, VKS, Tòa án hoặc tố
giác tội phạm với các cơ quan tổ chức khác; các cơ quan, tổ chức này khi nhận được tin
báo tố giác tội phạm phải báo tin ngay cho cơ quan điều tra bằng văn bản. Nhận được tin
báo tố giác về tội phạm, theo quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTHS năm 2003 thì trong
thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ
quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tiến hành kiểm tra, xác minh
nguồn chứng cứ và quyết định khởi tố hay không khởi vụ án hình sự. VKSND có trách
nhiệm kiểm sát việc giải quyết của các cơ quan điều tra đối với việc tiếp nhận và xử lý tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Người phạm tội tự thú là người tự nguyện đến khai báo với cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội về hành vi phạm tội của chính mình, mặc dù chưa bị các cơ quan bảo vệ pháp
luật phát hiện. Việc tự nguyện này có thể là do sự ăn năn hối cải, có thể do tác động của
gia đình, người thân nên người phạm tội đã ra tự thú để mong nhận được sự khoan hồng
của pháp luật, tránh cuộc sống lẩn trốn chui lủi, luôn trong tâm trạng hoang mang, lo sợ.
Khi người phạm tội đến tự thú, cơ quan và các tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ
tên tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp và những lời khai về hành vi phạm tội của họ. Cơ quan, tổ
chức tiếp nhận người phạm tội tự thú phải có trách nhiệm báo cáo ngay cho cơ quan điều
tra hoặc VKS.
Cơ quan điều tra, VKS là cơ quan tiến hành tố tụng, vì vậy phải có trách nhiệm
tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo tội phạm do cơ quan, tổ chức hoặc công dân chuyển
đến hoặc tự mình tiếp nhận xử lý. Thông tin về tội phạm có thể đầy đủ, chính xác hoặc
chưa chính xác; cơ quan tiếp nhận thông tin cần yêu cầu người cung cấp thông tin giải
thích làm rõ thêm về vụ việc. Các cơ quan có thẩm quyền cần áp dụng các biện pháp
ngăn chặn tội phạm kịp thời, hạn chế tội phạm, bảo vệ hiện trường. Khi nhận được tin
báo, tố giác về tội phạm thì cơ quan điều tra phải sử dụng các biện pháp nghiệp vụ cũng
như các thao tác nghiệp vụ theo quy định của pháp luật để tiến hành điều tra, xác minh
như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai người bị tạm giữ, xem
xét dấu vết trên thân thể. Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình, sau khi
đã xác minh các nguồn tin để đi đến quyết định khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố
vụ án hình sự.
Theo quy định tại Điều 104 BLTTHS năm 2003 thì: Khi xác định có dấu hiệu tội
phạm thì cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thủ trưởng đơn vị, bộ
đội biên phòng, cơ quan hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và thủ trưởng các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp được quy định
tại Điều 111 BLTTHS. Tức là: Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì thủ trưởng các đơn vị, cơ
quan nào được quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với:
- Tội ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch
người phạm tội đã rõ ràng, sau đó tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS có thẩm
quyền trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày ra quyết định khi tố vụ án hình sự.
- Đối với tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội
phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì sau khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, tiến
hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm
quyền trong thời hạn bẩy ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Ngoài các cơ quan điều tra chuyên trách của lực lượng Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân; các cơ quan khi được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì có quyền khởi
tố vụ án hình sự, tiến hành điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm
quyền trong thời hạn bẩy ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
VKSND ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết
định không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và trong trường hợp Hội đồng
xét xử yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án
hình sự, nếu thông qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người
phạm tội mới cần phải điều tra.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, VKS phải
gửi cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự kèm theo các tài liệu có liên quan
để cơ quan điều tra tiến hành hoạt động điều tra. Quyết định khởi tố vụ án hình sự cùng
các tài liệu có liên quan của các cơ quan điều tra khác như: Bộ đội biên phòng, hải quan,
kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi tới VKS
để kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan này. Quyết định khởi tố vụ án
hình sự của Hội đồng xét xử phải được gửi tới VKS để xem xét, quyết định việc điều tra;
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử được gửi tới VKS để xem xét quyết
định việc khởi tố vụ án hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố, điều
khoản của BLHS áp dụng, họ tên, chức vụ của người ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Theo quy định tại Điều 100 BLTTHS năm 2003 thì chỉ khởi tố vụ án hình sự khi
đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Mục đích của việc khởi tố vụ án hình sự là việc xác
nhận về mặt pháp lý một vụ việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm để tiến hành điều tra theo
quy định của pháp luật. Do đó khi xác định không có dấu hiệu tội phạm xảy ra thì không
được khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 107 của BTTHS năm 2003 thì những
căn cứ sau đây không được khởi tố vụ án hình sự:
- Không có sự việc phạm tội.
- Không có hành vi cấu thành tội phạm.
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm
hình sự.
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án
có hiệu lực pháp luật.
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Tội phạm được đại xá.
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái
thẩm đối với người khác.
Sau khi kiểm tra xác minh nguồn tin làm rõ các điểm trên thì cơ quan điều tra ra
quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố vụ án hình sự thì phải ra quyết
định đình chỉ điều tra. Tuy nhiên qua quá trình xác minh, xem xét vụ việc nếu thấy không
phải là tội phạm nhưng cần xem xét xử lý về mặt hành chính, về mặt dân sự … thì
chuyển hồ sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan để giải quyết theo thẩm quyền.
Theo quy định thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định không khởi tố vụ
án hình sự, người có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự phải gửi
quyết định và các tài liệu kèm theo cho VKS cùng cấp để VKS xem xét quyết định không
khởi tố vụ án hình sự có đúng luật hay không. Trường hợp quyết định không khởi tố vụ
án hình sự của cơ quan điều tra, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh
sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì VKS quyết định hủy bỏ quyết
định không khởi tố vụ án hình sự và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, pháp luật TTHS của nước ta quy định chỉ không được khởi tố vụ án hình sự
với bẩy căn cứ được quy định tại Điều 107 của BLTTHS năm 2003.
* Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại:
Theo quy định thì khi đã đủ căn cứ xác định có dấu hiệu của tội phạm thì các cơ
quan có thẩm quyền phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành các hoạt động
điều tra. Tuy nhiên, do yêu cầu của sự hài hoà giữa mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng
chống vi phạm và tội phạm; lợi ích, nguyện vọng của người bị hại nên BLTTHS năm
2003 quy định một số tội phạm cụ thể chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu khởi
tố vụ án hình sự của người bị hại.
Căn cứ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại được quy định tại
khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003. Đó là các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác (104); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (105); tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng (106); tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(108); tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (109); tội hiếp dâm (111); tội cưỡng dâm
(113); tội làm nhục người khác (121); tội vu khống (122), tội xâm phạm quyền tác giả
(131); tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (171) của BLHS năm 1999. Các tội trên
chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người
bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Người có nhược điểm về tâm thần biểu hiện như, không có khả năng nhận thức,
bị các bệnh về tâm thần (trừ các trường hợp mắc bệnh tâm thần do sử dụng các chất kích
thích như ma túy, rượu bia …). Nhược điểm về thể chất như tật nguyền, câm điếc, ngọng,
… Người đại diện của họ là bố mẹ, ông bà,...
Yêu cầu của người bị hại là những đề nghị, mong muốn xử lý bằng hình sự người
phạm tội đã gây thiệt hại cho họ. Yêu cầu đó cần phải cụ thể, rõ ràng và nếu yêu cầu
không rõ ràng thì người tiếp nhận yêu cầu phải giải thích để họ hiểu, để từ đó họ tự quyết
định. Nếu người bị hại yêu cầu bằng miệng, thì phải lập biên bản, có chữ ký hoặc điểm
chỉ của người yêu cầu (trong trường hợp người yêu cầu không biết chữ thì cần có sự
chứng kiến của người làm chứng hoặc đại diện của VKS).
Nếu trường hợp người bị hại rút yêu cầu mà cơ quan chức năng xác định là việc
rút yêu cầu đó xác định là trái ý muốn của họ do bị đe dọa, cưỡng bức, ép buộc. Thì tuy
người yêu cầu đã rút yêu cầu thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tiếp tục tố tụng với vụ án
đó.
Trong trường hợp người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì họ không
có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp họ rút yêu cầu do bị ép buộc hay cưỡng bức phải rút
yêu cầu.
Mặc dù có yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại, nhưng qua quá trình
kiểm tra xác minh thấy có một trong các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự (theo Điều
107 BLTTHS năm 2003) thì cơ quan điều tra, VKS phải tuân theo quy định chung khi
quyết định khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự, nếu đã khởi tố vụ án
hình sự thì phải đình chỉ vụ án.
Khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý đầu tiên để tiến hành điều tra xử lý vụ án
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi đã xác định được các dấu hiệu của tội phạm theo
Điều 100 của BLTTHS năm 2003 thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án.
Do đó các thông tin, tài liệu ban đầu có thể chưa chính xác, chưa đầy đủ và sẽ được bổ
sung trong quá trình điều tra, thậm chí có thể phát sinh những tình tiết, điều kiện mới làm
thay đổi căn bản bản chất vụ việc; hoặc một số loại tội phạm có mặt khách quan gần
giống nhau (như các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
dụng tài sản); nhưng khi xác định về mặt khách quan, chủ thể của tội phạm và các tình
tiết khác của vụ án thì mới xác định chính xác là tội phạm gì, người phạm tội đã thực
hiện những hành vi tội phạm nào. Do đó, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự là một thực trạng thường hay gặp trong quá trình điều tra các vụ án hình sự.
* Thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự:
Xuất phát từ tình hình thực tế như đã nêu trên, BLTTHS 2003 đã quy định việc
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự (tại Điều 106). Điều luật quy định:
Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc
còn có tội phạm khác thì cơ quan điều tra, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp cơ quan điều tra ra quyết định thay
đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan điều tra phải gửi
quyết định đó cho VKS để thực hiện chức năng kiểm sát việc khởi tố. Trong trường hợp
VKS quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố các vụ án hình sự thì cũng
trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định, VKS phải gửi quyết định cho cơ quan điều
tra để tiến hành điều tra theo thủ tục chung.
Để việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp, đảm bảo tính khách quan
và đúng luật. Pháp luật TTHS quy định: VKS phải thực hiện quyền công tố, kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động khởi tố vụ án hình sự. Các quyết định khởi tố vụ án
hình sự của cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh
sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được trao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ theo quy định của pháp luật TTHS
thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự. Nếu cơ quan điều tra
không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan trên không có căn cứ theo quy định của
pháp luật thì VKS hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. VKS có
quyền yêu cầu hoặc tự mình thay đổi hoặc hủy bỏ, bổ sung quyết định thay đổi khởi tố vụ
án hình sự. Tòa án nhân dân, thông qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội
phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra thì có quyền khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Tòa án không có căn cứ thì VKS
có quyền kháng nghị lên Tòa án cấp trên để xem xét giải quyết.
1.2.3.2. Khởi tố bị can
Theo Từ điển Luật học: "Khi đã có đủ căn cứ để xác định một người nào đó đã
thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố đối với người đó"
[33, tr. 254-255].
Theo quy định tại Điều 126 của BLTTHS năm 2003 thì: Khởi tố bị can là việc cơ
quan điều tra hoặc VKS xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể bằng
một quyết định để bắt đầu tiến hành TTHS về người đó với tư cách là bị can.
- Khi quyết định khởi tố bị can thì cơ quan điều tra hoặc VKS đã có đủ tài liệu
xác định một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong
BLHS hiện hành. Thông thường khi xác định có hành vi phạm tội xảy ra thì cơ quan điều
tra ra quyết định khởi tố vụ án (Ví dụ, khi một công dân bị mất trộm chiếc xe máy, có giá
trị từ năm trăm nghìn đồng trở lên; qua xác minh cơ quan điều tra thấy đó là sự thật thì ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự). Còn khi nào xác định được đối tượng đã thực hiện
hành vi phạm tội đó thì cơ quan điều tra mới ra quyết định khởi tố bị can. Việc ra quyết
định khởi tố bị can sớm hay muộn phụ thuộc vào kết quả điều tra của cơ quan điều tra.
Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp sau khi cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án
cũng đồng thời ra quyết định khởi tố bị can, thường xảy ra trong các trường hợp người
phạm tội bị bắt quả tang (nhất là các tội phạm về ma túy, hiếp dâm, các tội phạm về kinh
tế …).
- Quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ: Thời gian cụ thể, địa điểm ra quyết định,
họ tên chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày tháng, năm sinh, chỗ ở hoặc nơi đăng ký
nhân khẩu thường trú, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội
gì, theo điều khoản nào của BLHS; Thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác
của tội phạm; nếu bị can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì phải ghi rõ từng tội danh và
điều khoản tương ứng được áp dụng. Việc pháp luật quy định chặt chẽ như vậy để tránh
nhầm lẫn các bị can (nếu trong vụ án có nhiều bị can) hoặc để cho chính bị can nắm chắc
mình bị khởi tố về tội gì, khung hình phạt mà bị can phải gánh chịu là bao nhiêu để bị can
biết bào chữa hay nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình.
- Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan đến
việc khởi tố bị can đó cho VKS cùng cấp để xem xét, phê chuẩn việc khởi tố bị can trong
thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can. VKS cùng cấp quyết định phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can hay không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can trong thời
hạn ba ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra. Đây là
một điểm mới của BLTTHS sự năm 2003, đó là việc VKS phải phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can; khi có quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của VKS cùng cấp
thì quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra mới có hiệu lực pháp luật. Việc quy
định này sẽ đảm bảo cho VKS tiến hành KSĐT được từ ngay giai đoạn đầu, hạn chế thấp
nhất việc khởi tố bị oan sai, đảm bảo việc khởi tố đúng người, đúng tội.
- Trong thời hạn ba ngày, nếu VKS phát hiện có người thực hiện hành vi phạm
tội chưa bị phát hiện (thường ở trong vụ án có nhiều bị can) thì VKS yêu cầu cơ quan
điều tra ra quyết định khởi tố bị can.
- Khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra có kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đến
VKS để đề nghị truy tố. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, VKS vẫn có quyền khởi tố bị can nếu
phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án đã khởi tố. Trong thời
hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can mới, VKS phải gửi quyết định cho cơ
quan điều tra cùng toàn bộ hồ sơ vụ án để cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo thủ tục
chung.
- Khi cơ quan điều tra hoặc VKS ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra
hoặc VKS phải giao ngay quyết định đó cho bị can. Việc giao này phải được lập thành
biên bản, phải giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can theo điểm b, Khoản 1 Điều 49
BLTTHS năm 2003.
- Đối với vụ án phải thay đổi cơ quan điều tra theo thẩm quyền thì quyết định
khởi tố bị can của cơ quan chuyển vụ án vẫn có giá trị pháp lý.
Cũng như việc khởi tố vụ án hình sự, trong quá trình điều tra, nếu có căn cứ xác
định hành vi phạm tội của bị can không phạm tội vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi
phạm tội khác thì cơ quan điều tra, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can. Như vậy, thay đổi quyết định khởi tố bị can là trường hợp việc xác định
tội danh trong quyết định khởi tố bị can chưa đúng, cần phải áp dụng khung, khoản khác,
điều khác hoặc có sai sót trong quyết định khởi tố bị can cần phải sửa chữa, bổ sung; ví
dụ, nhầm ngày tháng, năm sinh. Bổ sung quyết định khởi tố bị can là trường hợp quá
trình điều tra đã xác định bị can có thêm hành vi phạm tội mới hoặc trước đây bị can đã
thực hiện các tội phạm khác.
- Việc khởi tố bị can là hoạt động tố tụng có ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân
phẩm của người bị khởi tố. Cho nên, cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị
can; thay đổi bổ sung quyết định khởi tố bị can cho người bị khởi tố và phải giải thích rõ
quyền và nghĩa vụ cho bị can theo quy định tại Điều 44 BLTTHS năm 2003, việc giao
nhận phải được lập biên bản cụ thể.
1.2.3.3. Kiểm sát việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn
Trên phương diện lý luận, các biện pháp ngăn chặn hiện còn có nhiều quan điểm
khác nhau. Nhưng "Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp cưỡng chế do cơ quan
điều tra. VKS, Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo
và cả bị án. Khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn
trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội mới" [47, tr. 502-
503]. Tuy khái niệm nêu trên chưa thật đầy đủ nhưng đã nêu lên được bản chất của vấn
đề.
Thứ nhất, những quy định của pháp luật tố tụng về bắt người.
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong quá trình điều tra, xử lý vụ án hình sự; là
biện pháp có tính cưỡng chế, tước bỏ quyền tự do thân thể của người bị bắt và có hạn chế
một số quyền lợi khác.
* Bắt bị can để tạm giam.
Đối tượng bị bắt ở đây phải là bị can của vụ án, thông qua công tác khởi tố điều
tra, cơ quan điều tra đã xác định được người đã thực hiện hành vi phạm tội, có đủ các yếu
tố cấu thành tội phạm; trước đó cơ quan điều tra, VKS đã ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự.
Theo Điều 80 BLTTHS năm 2003 quy định điều kiện bắt bị can bị cáo để tạm
giam phải là những bị can phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc bị can,
bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt từ
trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, được quy định tại khoản 1
Điều 80 BLTTHS năm 2003:
- Viện trưởng, phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp.
- Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp.
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa án nhân dân tối cao, Hội
đồng xét xử.
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp.
Về thủ tục bắt bị can để tạm giam:
Lệnh bắt bị can phải bằng quyết định, trong đó ghi rõ đầy đủ ngày tháng, năm
sinh, họ tên, chức vụ, đơn vị của người ra lệnh bắt; họ tên, địa chỉ của người bị bắt. Khi
bắt bị can phải tiến hành đọc lệnh công khai, có giải thích về quyền và nghĩa vụ của
người bị bắt; khi bắt phải có sự chứng kiến của người đại diện chính quyền xã, phường, thị
trấn nơi tiến hành bắt người. Để đảm bảo tính nghiêm minh, khách quan, pháp luật quy định
không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang, hoặc
bắt người đang bị truy nã theo quy định của Điều 81 và Điều 82 của BLTTHS năm 2003.
Khi tiến hành lệnh bắt người theo điểm c khoản 1 Điều 80 của BLTTHS năm
2003 đó là thẩm phán giữ chức Chánh tòa, phó Chánh tòa Tòa án nhân dân tối cao, Hội
đồng xét xử thì ngay sau đó phải gửi quyết định bắt người cho VKS cùng cấp. Khi tiến
hành lệnh bắt người theo điểm d, khoản 1, Điều 80 của BLTTHS năm 2003 đó là thủ
trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp thì lệnh bắt phải được VKSND cùng cấp
phê chuẩn trước khi lệnh bắt được thi hành.
* Bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
+ Căn cứ để bắt khẩn cấp:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003, quy định các trường hợp
được bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện phạm tội rất nghiêm
trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông
thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn việc
người đó trốn.
- Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị tình nghi
thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy
chứng cứ.
Như vậy, bắt người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn mang tính
cấp bách, qua xác minh ban đầu đã có thể khẳng định một người chuẩn bị thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc khẳng định một người
đã thực hiện tội phạm hay bị tình nghi thực hiện tội phạm, mà xét thấy cần ngăn chặn họ
trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Trường hợp thứ nhất, đòi hỏi cơ quan điều tra phải xác minh nắm được tài liệu,
chứng cứ; các tài liệu, chứng cứ đó phải có căn cứ khẳng định người đó chuẩn bị phạm
tội. Tức là có thể họ đang chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội hoặc tạo ra những điều
kiện cần thiết để thực hiện hành vi phạm tội.
Trường hợp thứ hai, đây là trường hợp người bị hại, người có mặt tại nơi xảy ra
tội phạm đã chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đó đã thực hiện hành vi tội
phạm mà xét thấy cần ngăn chặn người đó bỏ trốn. Việc bắt người trong trường hợp này
khác hẳn với bắt người trong trường hợp thứ nhất. Trường hợp thứ nhất người bị bắt đang
chuẩn bị thực hiện hành vi tội phạm, tức là tội phạm chưa hoàn thành; trong trường hợp
thứ hai các tội phạm đã hoàn thành, người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm hoặc người bị
hại chính mắt trông thấy thì có quyền yêu cầu bắt để ngăn chặn việc người phạm tội bỏ
trốn.
Trường hợp thứ ba, đó là việc cơ quan điều tra, bằng các hoạt động nghiệp vụ
như khám xét chỗ ở, khám người, kiểm tra hành chính … mà phát hiện dấu vết của tội
phạm ở người hoặc chỗ ở của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và có căn cứ cho
rằng họ sẽ bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn
cấp.
+ Về thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp:
Được quy định tại khoản 2 Điều 81 BLTTHS năm 2003 gồm:
- Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp.
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập từ cấp trung đoàn và tương đương; chỉ
huy đồn biên phòng ở Hải đảo và biên giới.
- Người chỉ huy tầu bay, tầu biển; khi tầu bay, tầu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng.
Trong mọi trường hợp, bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan bắt
người phải báo ngay bằng văn bản, kèm theo các tài liệu có liên quan cho VKS cùng cấp
để VKS xem xét, phê chuẩn. VKS phải xem xét, đánh giá chặt chẽ các chứng cứ của việc
bắt khẩn cấp theo quy định. Trong trường hợp cần thiết, VKS phải trực tiếp gặp hỏi
người bị bắt, trước khi phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận
được đề nghị phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn. Nếu VKS không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thì người bị bắt phải
được trả tự do ngay sau đó.
* Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
+ Bắt người phạm tội quả tang:
Là việc bắt người khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện, đuổi bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể,
rõ ràng, trông thấy thì ai cũng phải biết, không cần phải thông qua xác minh.
Pháp luật TTHS quy định các trường hợp được bắt người phạm tội quả tang:
- Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
- Người phạm tội vừa thực hiện xong thì bị phát hiện.
- Người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát
hiện đuổi bắt.
+ Bắt người đang bị truy nã:
Là bắt người đã thực hiện tội phạm, đã bị khởi tố bị can, đang trốn tránh việc điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án và đang bị cơ quan có thẩm quyền ra lệnh truy nã, thông báo
rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, được niêm yết công khai nơi công cộng
để mọi người phát hiện, bắt giữ.
+ Pháp luật tố tụng quy định bất kỳ người nào cũng có thể bắt, tước vũ khí, hung
khí của người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và giải ngay người đó đến cơ quan
VKS, ủy ban nhân dân nơi gần nhất để các cơ quan này tiến hành lập biên bản và giải
người bị bắt đến cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, những quy định của pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ
Tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS, do cơ quan có thẩm quyền áp
dụng đối với người bị bắt trong trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đối với bị
can bị bắt theo lệnh truy nã; người phạm tội tự thú, đầu thú. Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp
luật của các địa phương thì không phải tất cả các đối tượng trên đều có thể bị tạm giữ mà
chỉ quyết định tạm giữ khi cần đủ thời gian để cơ quan điều tra có thể thẩm tra, xác minh
tính chất, mức độ tội phạm, nơi cư trú, nhân thân người bị bắt … thì mới áp dụng việc
tạm giữ.
Về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ:
Theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: Thủ trưởng, phó thủ trưởng
cơ quan điều tra các cấp; người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập từ cấp trung đoàn và
tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tầu
bay, tầu biển; khi tầu bay, tầu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng; chỉ huy trưởng các
vùng cảnh sát biển có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ.
Về thủ tục tạm giữ.
Tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: trong thời hạn 12 giờ, kể từ
khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho VKS cùng cấp. Nếu xét
thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì VKS ra quyết định hủy bỏ
quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm
giữ.
Về thời hạn tạm giữ.
Theo quy định tại Điều 87 BLTTHS năm 2003: Thời hạn tạm giữ không được
quá ba ngày kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết,
người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ, nhưng không được quá ba ngày.
Trong trường hợp đặc biệt, người đã ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAYLuận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
 
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa ánPháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
 
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư phápThi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sựKiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộKiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOTLuận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
 
Luận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOT
Luận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOTLuận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOT
Luận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOT
 

Similar to Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự

Similar to Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự (20)

Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰBÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 
  VIỆN KIỂM SÁT KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
  VIỆN KIỂM SÁT KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM  VIỆN KIỂM SÁT KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
  VIỆN KIỂM SÁT KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên theo pháp luật Việt NamLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên theo pháp luật Việt Nam
 
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sựHoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
 
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYĐề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đThực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sựLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chínhLuận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
 
Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAY
Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAYThi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAY
Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tại huyện Sơn Hà, HAY
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tại huyện Sơn Hà, HAYLuận văn: Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tại huyện Sơn Hà, HAY
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án hình sự tại huyện Sơn Hà, HAY
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOTLuận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án, HAY
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án, HAYLuận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án, HAY
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 

Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự

  • 1. LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh
  • 2. mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Hoạt động kiểm sát điều tra (KSĐT), là một giai đoạn quan trọng trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam thì điều tra là một trong những hoạt động tư pháp quan trọng của Nhà nước ta nhằm bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm phải được điều tra làm rõ. KSĐT các vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và trong lĩnh vực thực hành quyền công tố nói riêng; nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. KSĐT còn có vai trò đảm bảo mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện và xử lý chính xác kịp thời, tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm, ở nước ta hiện nay. Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên và quan trọng của cả quá trình tố tụng nhằm xác định rõ hành vi phạm tội của tội phạm. Công tác kiểm sát được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật sẽ giúp cho cơ quan điều tra, hoạt động đúng hướng, khởi tố vụ án, khởi tố bị can được đúng người đúng tội; hoạt động điều tra được đầy đủ, chính xác và kịp thời. Kết quả điều tra vụ án hình sự là điều kiện tiên quyết thiết thực, trực tiếp cho việc thực hiện quyền công tố và công tác kiểm sát việc truy tố và công tác xét xử của tòa án được đúng người, đúng tội và đúng chính sách, pháp luật; tránh làm oan người vô tội và tránh bỏ lọt tội phạm. Qua 20 năm đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong nhiều thành tựu và kinh nghiệm cho thấy Nhà nước ta đang hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do dân và vì dân. Một trong những nội dung xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước là vấn đề cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Hoạt động điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp và hoạt động xét xử, thi hành án được đặc biệt nhấn mạnh trong Nghị quyết số 08 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới" của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
  • 3. Là một trong những cơ quan trọng yếu trong bộ máy các cơ quan tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) với vị trí, vai trò là cơ quan bảo đảm cho nền pháp chế được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất cũng phải thực hiện sự đổi mới cả về tổ chức và hoạt động thì mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình trước những yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND đã được Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị xác định: Viện Kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án, trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... [10]. Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân. Nghiên cứu việc chuyển đổi Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [12]. Như vậy, trong giai đoạn hiện nay ngành kiểm sát nhân dân cần tăng cường thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp. Nói chung là tăng cường công tác KSĐT đã đúng hướng, hoạt động kiểm sát điều tra là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật. Về phương diện lý luận, áp dụng pháp luật nói chung đã được giới khoa học pháp lý làm sáng tỏ. Song áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự vẫn còn là một vấn đề cần được nghiên cứu cụ thể hơn từ khái niệm đến đặc điểm các giai đoạn áp dụng pháp luật và những yêu cầu cụ thể mà Viện kiểm sát (VKS) cũng như kiểm sát viên thực hiện. áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra là mối quan hệ giữa "cái chung" và "cái riêng". Chắc chắn "cái riêng" bao giờ cũng phong phú,
  • 4. đa dạng và phức tạp hơn "cái chung". Nghiên cứu vấn đề này cũng là đáp ứng yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra của vấn đề áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn hiện nay. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả. Sự phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS về cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm. Tuy nhiên, qua công tác tổng kết, đánh giá thực tế cho thấy, công tác KSĐT của VKS vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, hạn chế như: Nhiều kiểm sát viên, nhiều đơn vị không thực hiện được công tác KSĐT ngay từ giai đoạn đầu, còn thụ động trong việc điều tra của cơ quan điều tra. Hoặc là vì sợ trách nhiệm nên làm thay một số thao tác của điều tra viên, không theo dõi đề ra yêu cầu điều tra. Hoặc là bỏ mặc cho điều tra viên tiến hành điều tra một cách độc lập … dẫn tới nhiều vụ án còn bị kéo dài, phải ra hạn thời hạn điều tra, còn để lọt hành vi tội phạm, thậm chí còn làm oan người vô tội … Những vi phạm trên cho thấy chất lượng và hiệu quả của công tác KSĐT của ngành Kiểm sát nhân dân vẫn còn bộc lộ yếu kém. Những yếu kém trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, có những nguyên nhân chủ quan cũng như những nguyên nhân khách quan. Trong đó chủ yếu là do ý thức pháp luật cao hay thấp và năng lực áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn của cơ quan điều tra, VKSND. Để phát huy dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong thực hành quyền công tố nói chung và trong hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự nói riêng. Vai trò của VKSND trong áp dụng pháp luật cần phải được nâng cao chất lượng và hiệu quả và coi đó là như là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của ngành tư pháp nước ta cũng như của khoa học pháp lý cách mạng. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: " Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hỡnh sự của Viện kiểm sỏt nhõn dõn tỉnh Bắc Ninh " làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hoạt động điều tra hình sự, là một giai đoạn quan trọng quyết định lớn đến quá trình làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử các hành
  • 5. vi vi phạm và tội phạm. Vì vậy đây là vấn đề thu hút các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài này đã được thể hiện trong nhiều công trình khoa học được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy về pháp luật. Có thể nêu ra như sau: Sổ tay kiểm sát viên hình sự của Viện Khoa học hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao, NXB Văn hóa dân tộc, 2006. Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2006. Mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động điều tra trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng của Bộ Công an, NXB Công an nhân dân, 2006. Đề tài cấp Bộ: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" - Phó viện trưởng Viện Khoa học kiểm sát làm chủ biên, 2005. Các sách chuyên khảo như: "Những điều cần hiểu về bắt người, tạm giữ, tạm giam … đúng pháp luật" của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Văn Yên, Nxb Pháp lý, 1990. Vũ Gia Lâm: "Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luận văn thạc sĩ luật học, 2000. Các bài viết, công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí của Trung ương như: "Hoàn thiện một số quy định của pháp luật có liên quan tới phân loại tội phạm" của Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002. Thái Văn Đoàn: "Để nâng cao chất lượng công tác phê chuẩn tạm giam", Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002. Trần Quang Tiệp: "Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005. Nguyễn Văn Nhật: "Khám nghiệm hiện trường trong hoạt động điều tra hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005. Phạm Mạnh Hùng: "Những bất cập và hoàn thiện quy định pháp luật TTHS về khởi tố theo yêu cầu người bị hại", Tạp chí Kiểm sát, tháng 01/2003.
  • 6. Trần Văn Thuận: "Nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra", Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003. Nguyễn Duy Giảng: "Thủ tục rút gọn trong các giai đoạn tố tụng", Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003. Nguyễn Văn Chiến: "áp dụng căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và phạm vi áp dụng quyết định không khởi tố vụ án hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 12/2002. Nguyễn Văn Thượng: "Quy định tách vụ án trong pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng", Tạp chí Kiểm sát, tháng 6/2005. Phạm Hồng Thủy: "Những điểm xung đột pháp luật giữa chế định khởi tố vụ án hình sự quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát, tháng 5/2005 … Qua nghiên cứu tình hình trên cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật về việc nâng cao chất lượng áp dụng KSĐT các vụ án hình sự trong điều kiện tiến hành cải cách tư pháp hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào những vấn đề sau: + Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự. + Thực tiễn áp dụng pháp luật trong KSĐT đối với hoạt động của cơ quan điều tra. + Nguyên nhân phát sinh những tồn tại trong áp dụng pháp luật của quá trình KSĐT và của cơ quan điều tra. + Những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong KSĐT đối với cơ quan điều tra của VKS. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
  • 7. Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền. Thời điểm nghiên cứu lấy từ năm 2001 đến năm 2005. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Về mục đích: Luận văn nghiên cứu, đề xuất, đưa ra các luận chứng, các quan điểm, các giải pháp đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật đối với hoạt động của cơ quan điều tra và VKSND được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Góp phần hoàn thiện các quy định về tố tụng hình sự (TTHS) trong KSĐT các vụ án hình sự; thực hiện cải cách tư pháp theo đúng tinh thần Nghị quyết số 49 NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về chất lượng cải cách tư pháp. - Về nhiệm vụ: Luận văn có các nhiệm vụ sau: + Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra và VKSND. + Phân tích những ưu điểm và những tồn tại trong áp dụng pháp luật của VKSND các cấp trong kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. + Đề xuất những giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật đúng đắn trong kiểm sát đối với hoạt động của cơ quan điều tra và trong điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhất là các quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số
  • 8. 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị: "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới". Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp của các bộ môn khoa học khác: Thống kê tội phạm, luật học so sánh, phương pháp hệ thống … 6. ý nghĩa của luận văn ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo phục vụ yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng công tác KSĐT các vụ án hình sự. Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu một số chuyên đề khác, nhất là trong việc giảng dạy có liên quan đến thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp … Mặt khác, nội dung của luận văn có thể sử dụng nhằm xây dựng kỹ năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ … của người cán bộ, kiểm sát viên trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
  • 9. Chương 1 Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật 1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật Khoa học pháp lý XHCN chỉ ra rằng, pháp luật XHCN là một hệ thống bao gồm tổng thể các quy tắc xử sự chung, thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, hình thức, thủ tục luật định, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN. Trong đời sống và trong xã hội, pháp luật XHCN chiếm giữ vai trò vị trí đặc biệt quan trọng. Xét trong bình diện chung nhất, pháp luật là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được triển khai thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phương tiện để nhân dân phát huy, thực hiện quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp, nghĩa vụ của công dân. Pháp luật với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, luôn tác động và ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội, cũng như các yếu tố của thượng tầng kiến trúc pháp lý; duy trì trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị. Trong quan hệ với Nhà nước, vai trò của pháp luật luôn gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phát huy được vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng, quản lý, đưa xã hội phát triển. Đối với chính Nhà nước, pháp luật vừa là cơ sở tổ chức, hoạt động vừa là sức mạnh của quyền lực chính trị đồng thời nó cũng ràng buộc Nhà nước, tránh cho Nhà nước khỏi tình trạng hoạt động tùy tiện, vi phạm quyền và tự do của công dân. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật nói chung và pháp luật XHCN nói riêng, pháp luật
  • 10. luôn có vai trò, giá trị xã hội và tính pháp quyền mà không một công cụ, phương tiện điều chỉnh nào có thể thay thế được. Tuy nhiên, vai trò của pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy được hiệu quả khi các quy định của pháp luật do Nhà nước đặt ra được chính các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các công dân thực hiện một cách chính xác, nghiêm minh và tự giác. Do đó, vấn đề đặt ra là không phải chỉ có đủ các văn bản pháp luật đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội và đời sống Nhà nước, mà điều quan trọng hơn ở chỗ pháp luật đó có được thực hiện không, những yêu cầu của pháp luật có trở thành hiện thực không. Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động của con người có tổ chức có chủ ý bao hàm những hành vi hợp pháp phù hợp với những quy định, những yêu cầu của pháp luật. Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của chính cá nhân con người nhưng cũng có thể là hành động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, là một hiện tượng xã hội có tính pháp lý thực hiện pháp luật: "là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật" [30, tr. 455]. Các quy định pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện pháp luật cũng rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định và khái quát hóa thành những hình thức thực hiện pháp luật như sau: - Tuân thủ pháp luật (tuân theo pháp luật) là một hình thức thực hiện pháp luật, (xử sự thụ động). Trong đó, các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hành động mà pháp luật ngăn cấm. - Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật); là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nhiệm vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc được thực hiện ở hình thức này. - Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền năng pháp lý của mình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và của các chủ thể khác. Những quy phạm pháp luật quy định các
  • 11. quyền về tự do dân chủ của công dân được thực hiện ở hình thức này. Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện pháp luật. Đó là quyền khiếu nại, tố cáo, đình công, kháng cáo … - áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật; trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật; hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra những quy định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật. Trong trường hợp này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt được Nhà nước ủy quyền theo quy định của pháp luật, cơ quan của một số tổ chức chính trị xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này. Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức phổ biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức đặc thù bởi luôn có sự tham gia của Nhà nước, thông qua các cơ quan hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật quan trọng. Thông qua hình thức này ý chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, Nhà nước thực hiện được chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, kết hợp với trật tự xã hội, đảm bảo cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các công chức nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Điều này có lý do bởi trong nhiều trường hợp, các quy định của pháp luật không thể thực hiện nếu chỉ bằng các hình thức tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật hoặc sử dụng pháp luật. Lý do có thể các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự thông qua của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sự áp dụng pháp luật cần phải được tiến hành qua các trường hợp sau: - Trong trường hợp khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước, hoặc áp dụng chế tài xử lý đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ, một công dân thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi đó đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999. Không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành các biện pháp chế tài tương xứng. Vì vậy, cần có hoạt động của các cơ quan
  • 12. bảo vệ pháp luật và những người có thẩm quyền nhằm điều tra, truy tố, xét xử để đối chiếu với quy định của pháp luật để ấn định trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi vi phạm và buộc người này phải chấp hành. - Trong trường hợp khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ, công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của Nhà nước nhưng khi kinh doanh phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trong quan hệ kinh tế liên quan đến việc ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế mà các bên không tự giải quyết được khi có tranh chấp xảy ra, thì các bên phải nhờ đến Tòa án kinh tế giải quyết … - Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để giám sát, kiểm tra hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó; hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại của một số vụ việc, sự kiện thực tế. Ví dụ, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận việc đăng ký kết hôn, xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp … - Như vậy áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, do cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được trao quyền tiến hành theo một thủ tục do pháp luật quy định; nhằm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong một quan hệ pháp luật nhất định; hoặc khi Nhà nước thấy cần phải can thiệp, cần phải tham gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế của các chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật Thứ nhất, áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, thực hiện quyền lực của Nhà nước trong thực tế: - Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan nhà nước hay nhà chức trách trong phạm vi thẩm quyền được giao thực hiện một số hoạt động áp dụng pháp luật quyết định. Trong quá trình áp dụng pháp luật cơ quan áp dụng pháp luật phải tính đến mọi khía cạnh, mọi chi tiết và phải xem xét cẩn trọng, dựa trên cơ sở những quy định, yêu cầu của áp dụng pháp luật đã được xác định để ra quyết định áp dụng pháp luật. Như vậy,
  • 13. pháp luật là cơ sở xuất phát điểm để cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật thực hiện chức năng của mình. Việc áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục thực hiện ý chí của Nhà nước được thể hiện trong pháp luật. Do vậy, việc áp dụng pháp luật phải phù hợp với pháp luật, với chủ trương, chính sách của Nhà nước trong mỗi giai đoạn nhất định. Trong lĩnh vực tư pháp, áp dụng pháp luật được các cán bộ công chức nhà nước có chức danh pháp lý tiến hành, như điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên, … tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết của vụ án nhằm xác định khách quan việc truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật. - Tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước được thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhân viên nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành áp dụng pháp luật và ra văn bản áp dụng pháp luật hoàn toàn theo quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể áp dụng pháp luật. - áp dụng pháp luật có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng pháp luật và các chủ thể có liên quan. - Văn bản áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành. Văn bản áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc phải thực hiện đối với những tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong những trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Thứ hai, nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, là những tiêu chuẩn chung cho xử sự giữa người với người trong mối quan hệ xã hội thì hoạt động áp dụng pháp luật luôn mang tính cụ thể. Tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ các địa chỉ để áp dụng pháp luật là xác định, gồm cả sự việc, con người, tập thể, thời gian, không gian; các quy định áp dụng pháp luật được ban hành luôn mang tính cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội xác định. Ví dụ, trong một vụ án hình sự được khởi tố thì các quyết định khởi tố của từng bị can có tính riêng biệt, không thể sử dụng một quyết định khởi tố bị
  • 14. can cho các bị can nếu vụ án có nhiều bị can bị khởi tố. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hành động áp dụng pháp luật những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa một cách cụ thể và chính xác. Thứ ba, việc ban hành một quyết định áp dụng pháp luật phải được thực hiện thông qua thủ tục nhất định. Các thủ tục để ban hành quyết định trong hoạt động áp dụng pháp luật phải được pháp luật quy định rất chặt chẽ và đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ nghiêm minh. Các thủ tục giúp cho các chủ thể áp dụng pháp luật thể hiện được nguyện vọng, mong muốn của mình một cách dân chủ, khách quan trong quá trình áp dụng pháp luật. Tính đơn giản hay tính phức tạp của các thủ tục này phụ thuộc vào tính chất nội dung sự việc cần phải áp dụng pháp luật. Để áp dụng các quy phạm pháp luật đơn giản như việc xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ thì các thủ tục đặt ra phải đơn giản, phải nhanh chóng. Ví dụ, cảnh sát giao thông phạt người điều khiển xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm khi đang điều khiển xe gắn máy trên đoạn đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm. Để áp dụng quy phạm pháp luật phức tạp, thì cần phải xác minh, điều tra, đánh giá kỹ những tình tiết, sự việc; việc xác định một người có phạm tội hay không phạm tội đòi hỏi phải có cả một quá trình của những cơ quan tiến hành tố tụng như Công an, VKS, Tòa án. Thứ tư, áp dụng pháp luật là hành động đòi hỏi tính sáng tạo; khi áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, cần làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật chưa có quy định hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự. Để đạt được điều đó, đòi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức nghề nghiệp và có tay nghề vững vàng … ở nước ta, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, đòi hỏi phải đề cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng nhất là tòa án. Ngoài hệ thống tòa án truyền thống xét xử những vụ án hình sự, vụ án dân sự, hôn nhân gia đình còn xuất hiện các loại tòa án khác như: Tòa án hành chính, Tòa án kinh tế, Tòa án lao động … điều đó nhằm tạo ra cơ chế đồng bộ đảm
  • 15. bảo trật tự, kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân và tiến bộ xã hội. 1.2. Khái niệm, đặc điểm và quy trình áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, quy trình của áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự 1.2.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự Nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng, nhằm phát triển lý luận về áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể nói riêng. áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự thuộc trường hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia bằng hình thức giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia trong các quan hệ điều tra, KSĐT các vụ án hình sự. Cơ sở phát sinh hoạt động áp dụng pháp luật của VKSND đó là các quyết định của cơ quan điều tra, các hành vi của những người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS. Các quyết định và các hành vi đó có thể được ban hành, thực hiện theo đúng hoặc không đúng quy định của pháp luật. Khi đó Nhà nước thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND, nhằm phát hiện những sai phạm, kịp thời đề ra các yêu cầu, kiến nghị các chủ thể trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, khắc phục, sửa chữa; đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự được tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Dưới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những vi phạm pháp luật vào từng trường hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức cụ thể. áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự có thể coi là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật TTHS nói riêng đối với các chủ thể trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
  • 16. Từ khái niệm về áp dụng pháp luật nói chung, có thể hiểu áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự của VKSND là hoạt động thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo cho toàn bộ hoạt động điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND được tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. 1.2.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự Hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự của VKSND có một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự là hoạt động chỉ do VKSND tiến hành theo pháp luật quy định. Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua việc thực hiện chức năng này, VKSND góp phần thực hiện quyền lực nhà nước, trực tiếp thực hiện quyền tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Là cơ quan duy nhất nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp và thực hành quyền công tố. Hoạt động KSĐT các vụ án hình sự được quy định tại Điều 12, 13, 14 Luật tổ chức VKSND năm 2002. Tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: - Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. - Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. - Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của điều tra có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.
  • 17. - Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật. - Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; tạm đình chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Với những quy định của pháp luật như trên thì VKSND có quyền áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong hoạt động kiểm sát điều tra nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra các vụ án hình sự được tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật. Đảm bảo cho việc khởi tố điều tra các vụ án hình sự được tuân theo quy định của pháp luật; bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội và đúng chính sách pháp luật. Thứ hai, áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Trong hoạt động điều tra, khám phá các vụ án hình sự của cơ quan điều tra, trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, đó là một quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan: Công an - VKS. Đây là những hoạt động rất quan trọng có tính quyết định trong quá trình giải quyết những vụ án hình sự. Chính hoạt động kiểm sát điều tra có vai trò quan trọng như vậy nên pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hiện hành nói riêng đã quy định rất chặt chẽ việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Pháp luật TTHS quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục của các hoạt động điều tra, hoạt động giám sát như: từ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các biện pháp điều tra, các biện pháp ngăn chặn, nhập - tách vụ án, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, thời hiệu điều tra, thời hạn điều tra … Tóm lại, tất cả các bước trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND đều được quy định chặt chẽ theo các trình tự thủ tục do pháp luật TTHS hiện hành quy định. Thứ ba, quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT của VKSND được pháp luật bảo đảm thi hành. Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật đã ban hành là giai đoạn cuối của quá trình áp dụng pháp luật, nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Khi một quyết định áp dụng pháp luật sau khi ban hành mà không được thi hành trên thực tế thì cũng
  • 18. đồng nghĩa với việc vô hiệu hóa pháp luật, vô hiệu hóa cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật, gây tổn hại nghiêm trọng đến pháp chế XHCN. Các quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự đã được BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003 quy định chặt chẽ và đầy đủ. Việc thực hiện các quyết định áp dụng pháp luật của VKSND sẽ đảm bảo cho quá trình giải quyết những vụ án hình sự được đúng theo quy định của pháp luật; đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Tại Điều 23, khoản 2 BLTTHS năm 2003 quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này [25, tr 17]. 1.2.1.3. Quy trình áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự - Nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ có liên quan đến sự kiện pháp lý, đối tượng và quyết định xử lý do cơ quan điều tra cung cấp: Đây là khâu đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng của áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự. Việc VKS xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và thủ tục tố tụng do cơ quan điều tra tiến hành trong các vụ án hình sự, nhằm xác định tính có căn cứ, qua đó xác định tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội của các đối tượng đã gây ra: có hay không có hành vi phạm tội? Hành vi đó ở mức độ nào? xảy ra ở đâu? Khi nào? Ai là người thực hiện? Công cụ phương tiện phạm tội? Nhân thân? năng lực chịu trách nhiệm hình sự? Trình tự, thủ tục thu thập tài liệu chứng cứ … Nếu trước đó cơ quan điều tra thu thập tài liệu chứng cứ không đúng trình tự, thủ tục, không đầy đủ, không toàn diện thì việc xem xét đánh giá (kiểm sát việc tuân theo pháp luật) của VKSND sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn tới sai lầm trong khi ra văn bản áp dụng pháp luật. Do đó phạm vi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND phải được bắt đầu từ khâu tiếp nhận, xử lý tin báo liên quan tới tội phạm. Theo quy định của pháp luật TTHS thì VKSND tự mình thông qua các nguồn tin báo hoặc từ các tài liệu chứng cứ của cơ quan điều tra gửi tới để xem xét đánh giá sự kiện
  • 19. pháp lý đã xảy ra: Việc thu thập tài liệu chứng cứ có hợp pháp hay không, hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đến lúc phải xử lý bằng hình sự hay chỉ cần xử lý bằng biện pháp hành chính, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là ai, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đối tượng phạm tội có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn … tức là phải xem xét đánh giá các yếu tố cấu thành tội phạm của đối tượng đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong quá trình xem xét đánh giá các tài liệu chứng cứ ban đầu của vụ án hình sự, VKSND cần phải có sự phân công trách nhiệm cụ thể rõ ràng cho cán bộ kiểm sát viên, có sự phối kết hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra. Có thể nói rằng, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ban đầu có một ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo cho việc ra quyết định áp dụng pháp luật của VKS có chất lượng, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được tuân thủ theo quy định của pháp luật. - Xem xét các quy phạm pháp luật được áp dụng trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự: Giai đoạn này được thực hiện dựa trên ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết kiến thức pháp luật của chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật của VKSND. Người có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ án hình sự cần phải xem xét, đánh giá đầy đủ sự kiện pháp lý đã xảy ra, những công việc đã xử lý của cơ quan điều tra, yêu cầu và đề nghị của cơ quan điều tra đối với việc giải quyết vụ án. Để từ đó xác định nội dung quy phạm được áp dụng, phạm vi vi phạm pháp luật được áp dụng trong hoạt động KSĐT của VKSND. Muốn làm được điều đó, đòi hỏi người có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải tiến hành giải thích quy phạm pháp luật; phải làm sáng tỏ tư tưởng; nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật được lựa chọn. Việc lựa chọn quy phạm pháp luật đúng thì việc ra quyết định áp dụng pháp luật sẽ rất chính xác. Tóm lại, giai đoạn áp dụng pháp luật này cần đòi hỏi: lựa chọn đúng quy phạm pháp luật được trù tính cho trường hợp đó; quy phạm pháp luật áp dụng phải là quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và không mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật khác; xác định tính chân chính của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng quy phạm này; nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật. - Ban hành văn bản áp dụng pháp luật:
  • 20. Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là việc VKSND ra các quyết định; quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Đây là giai đoạn trọng tâm, quan trọng nhất của cả quá trình KSĐT các vụ án hình sự. Quyết định, quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn của VKS trong lĩnh vực này được ban hành sau khi đã xem xét, đối chiếu một cách thận trọng, khách quan với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Vì quyết định của VKSND đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, đến trật tự trị an trên địa bàn và đến quyền tự do thân thể của công dân … nên đòi hỏi người có thẩm quyền ra văn bản áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật tố tụng hiện hành. Đặc biệt văn bản áp dụng pháp luật của VKSND phải có tính khả thi và hiện thực. Tóm lại, để ban hành văn bản áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật của VKSND phải hiểu biết về mặt pháp luật, biết tổng hợp, đánh giá các tình tiết vụ án, đồng thời phải có kỹ năng soạn thảo văn bản, đảm bảo chất lượng kỹ thuật văn bản. - Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật: Việc tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật. Khác với các văn bản áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác, văn bản áp dụng pháp luật của VKS trong KSĐT các vụ án hình sự nó là lệnh, quyết định, quyết định không phê chuẩn, quyết định phê chuẩn buộc cơ quan điều tra phải thi hành và tổ chức thực hiện nghiêm minh. Giám sát việc thực hiện các văn bản áp dụng pháp luật của VKS đối với toàn bộ hoạt động điều tra vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ của ngành kiểm sát đã được pháp luật quy định chặt chẽ và đầy đủ. Đó là một trong những đảm bảo quan trọng để quyết định của VKSND được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. 1.2.2. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự Do tính chất hoạt động của các loại tội phạm đòi hỏi phải được các cơ quan chức năng điều tra khám phá để xử lý. Nhiệm vụ khám phá tội phạm đặt ra cho các cơ quan bảo vệ pháp luật phải làm rõ các yếu tố gây án, kẻ gây án, người phạm tội, mức độ lỗi của người phạm tội. Nói cách khác là phải xác định và làm rõ các vấn đề phải chứng minh
  • 21. trong vụ án hình sự đó. Theo Điều 63 BLTTHS năm 2003 thì những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự: - Có hành vi phạm tội hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. - Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích hoặc động cơ phạm tội. - Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo. - Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không bắt buộc chứng minh mình vô tội vì thế cơ quan điều tra phải tìm cho được những chứng cứ để làm rõ yêu cầu trên, thì đó chính là điều tra. Điều tra là một quá trình khám phá tội phạm, là công cụ, phương tiện của quá trình nhận thức tội phạm. Song, không phải bất cứ vụ án hình sự nào xảy ra cũng đều phải khám phá; mà tùy thuộc vào sự phản ánh của yêu cầu trên đây đã thỏa mãn hay chưa? Nếu trong trường hợp kẻ trộm đang đêm cậy phá cửa một gia đình lấy trộm đồ đạc mà bị chủ nhà phát hiện, bắt giữ thì không yêu cầu phải khám phá nữa mà chỉ cần hoàn thiện một số thủ tục điều tra nhất định theo yêu cầu của quy định là đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ. Còn ngược lại, trong trường hợp kẻ trộm cậy phá cửa nhà, trộm cắp một số đồ đạc trong đêm của một gia đình hay của một cơ quan nào đó, không bắt được kẻ gây án, đến hôm sau mới phát hiện ra vụ việc, thì đây là tình huống phức tạp hơn; cần phải làm rõ các yếu tố trên. Khác với trường hợp trước đó ở trường hợp này cần phải khám phá tội phạm và hoạt động điều tra cần phải phức tạp hơn. Nó cần sử dụng tới tất cả các biện pháp, chiến thuật, thủ thuật điều tra để khám phá tội phạm. Với cách tiếp cận như vậy, xét về mặt tổng thể dưới góc độ lý luận, thấy rằng: Điều tra tội phạm là một quá trình nhận thức, thông qua các hoạt động thu thập, nghiên cứu, phân tích, đánh giá tài liệu, tình hình phản ánh thực tế khách quan về tội phạm, về
  • 22. vụ phạm tội, bằng các hình thức, biện pháp, phương tiện chuyên môn của cơ quan chuyên trách để khám phá tội phạm; vạch trần kẻ phạm tội; phòng ngừa ngăn chặn tất cả mọi thiệt hại do tội phạm gây ra. Đây là quá trình thu thập những thông tin, tài liệu, số liệu … phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, việc, hiện tượng hoặc địa bàn. Phục vụ cho công tác nắm, quản lý tình hình về an ninh trật tự. Điều tra được tiến hành dưới nhiều hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, công khai hoặc bí mật, diện hoặc điểm và được tiến hành bằng hành động điều tra trinh sát, điều tra TTHS. Điều tra trinh sát là hoạt động nghiệp vụ đặc biệt của lực lượng công an, được tổ chức tiến hành dưới hình thức bí mật, trên cơ sở vận dụng những quy định của pháp luật nhằm thu thập tin tức, tài liệu phản ánh về hoạt động của bọn tội phạm để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và khám phá nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời các tội phạm xảy ra [32, tr. 231]. Điều tra tố tụng hình sự là hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa [32, tr. 233]. 1.2.3. Khái niệm kiểm sát điều tra Hoạt động của hệ thống các cơ quan VKS là một trong bốn hệ thống các cơ quan nhà nước được xác lập trong Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của VKSND là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của các cơ quan điều tra mà các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân dân, trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ và cải tạo; điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật TTHS quy định.
  • 23. KSĐT là một nhiệm vụ quan trọng trong số các nhiệm vụ mà ngành kiểm sát nhân dân phải thực hiện. Đây vừa là một nhiệm vụ đồng thời cũng là chức năng của ngành kiểm sát nhân dân. Theo Từ điển Luật học thì: Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra của các cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bằng các hoạt động sau: - Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra. - Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra. - Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra (Ví dụ, khám chỗ ở, khám người, đồ vật, thư tín …); Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn (ví dụ, bắt khẩn cấp, bắt tạm giam, hủy bỏ tạm giữ, tạm giam); hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra. - Yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra, thay đổi, xử lý điều tra viên vi phạm pháp luật; nếu hành vi của điều tra viên đó có dấu hiệu phạm tội thì khởi tố về mặt hình sự. - Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra, quyết định truy tố bị can. - Kiến nghị tới các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Các hoạt động KSĐT được quy định trong BLTTHS hiện hành. Như vậy, hoạt động KSĐT của VKSND có phạm vi rộng lớn, xuyên suốt từ quá trình phát hiện hành vi phạm tội đến giai đoạn làm rõ hành vi cùng tính chất, mức độ, hậu quả, nhân thân kẻ phạm tội, những thiệt hại đã xảy ra đến việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án nhân dân để xét xử. 1.2.3.1. Kiểm sát việc khởi tố vụ án Khởi tố vụ án hình sự là một quyết định mang tính pháp lý của cơ quan chức năng bao gồm: Công an, VKS, Tòa án và một số cơ quan chức năng khác được pháp luật trao thẩm quyền. Trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ xin đề cập tới việc khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra của ngành công an nhân dân.
  • 24. Căn cứ theo Điều 100 BLTTHS năm 2003, thì căn cứ khởi tố vụ án được quy định, chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: - Tố giác của công dân. - Tin báo của các cơ quan, tổ chức. - Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Cơ quan điều tra, VKS, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm. - Người phạm tội tự thú. Mọi công dân đều phải có trách nhiệm tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm. Tố giác tội phạm là việc người dân báo cho các cơ quan, tổ chức về tội phạm mà họ biết. Tin báo về tội phạm là sự truyền đạt, phản ánh bằng nhiều hình thức khác nhau về tội phạm. Có thể là trực tiếp hoặc phản ánh bằng miệng, bằng đơn thư, bằng điện thoại, bằng thư tín, … Công dân có thể tố giác tội phạm với cơ quan điều tra, VKS, Tòa án hoặc tố giác tội phạm với các cơ quan tổ chức khác; các cơ quan, tổ chức này khi nhận được tin báo tố giác tội phạm phải báo tin ngay cho cơ quan điều tra bằng văn bản. Nhận được tin báo tố giác về tội phạm, theo quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTHS năm 2003 thì trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn chứng cứ và quyết định khởi tố hay không khởi vụ án hình sự. VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của các cơ quan điều tra đối với việc tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Người phạm tội tự thú là người tự nguyện đến khai báo với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội về hành vi phạm tội của chính mình, mặc dù chưa bị các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện. Việc tự nguyện này có thể là do sự ăn năn hối cải, có thể do tác động của gia đình, người thân nên người phạm tội đã ra tự thú để mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật, tránh cuộc sống lẩn trốn chui lủi, luôn trong tâm trạng hoang mang, lo sợ. Khi người phạm tội đến tự thú, cơ quan và các tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ
  • 25. tên tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp và những lời khai về hành vi phạm tội của họ. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú phải có trách nhiệm báo cáo ngay cho cơ quan điều tra hoặc VKS. Cơ quan điều tra, VKS là cơ quan tiến hành tố tụng, vì vậy phải có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo tội phạm do cơ quan, tổ chức hoặc công dân chuyển đến hoặc tự mình tiếp nhận xử lý. Thông tin về tội phạm có thể đầy đủ, chính xác hoặc chưa chính xác; cơ quan tiếp nhận thông tin cần yêu cầu người cung cấp thông tin giải thích làm rõ thêm về vụ việc. Các cơ quan có thẩm quyền cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn tội phạm kịp thời, hạn chế tội phạm, bảo vệ hiện trường. Khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm thì cơ quan điều tra phải sử dụng các biện pháp nghiệp vụ cũng như các thao tác nghiệp vụ theo quy định của pháp luật để tiến hành điều tra, xác minh như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai người bị tạm giữ, xem xét dấu vết trên thân thể. Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình, sau khi đã xác minh các nguồn tin để đi đến quyết định khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 104 BLTTHS năm 2003 thì: Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thủ trưởng đơn vị, bộ đội biên phòng, cơ quan hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp được quy định tại Điều 111 BLTTHS. Tức là: Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì thủ trưởng các đơn vị, cơ quan nào được quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với: - Tội ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội đã rõ ràng, sau đó tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày ra quyết định khi tố vụ án hình sự. - Đối với tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì sau khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, tiến
  • 26. hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bẩy ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. - Ngoài các cơ quan điều tra chuyên trách của lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân; các cơ quan khi được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì có quyền khởi tố vụ án hình sự, tiến hành điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bẩy ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. VKSND ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự, nếu thông qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, VKS phải gửi cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự kèm theo các tài liệu có liên quan để cơ quan điều tra tiến hành hoạt động điều tra. Quyết định khởi tố vụ án hình sự cùng các tài liệu có liên quan của các cơ quan điều tra khác như: Bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi tới VKS để kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan này. Quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử phải được gửi tới VKS để xem xét, quyết định việc điều tra; yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử được gửi tới VKS để xem xét quyết định việc khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của BLHS áp dụng, họ tên, chức vụ của người ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 100 BLTTHS năm 2003 thì chỉ khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Mục đích của việc khởi tố vụ án hình sự là việc xác nhận về mặt pháp lý một vụ việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm để tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật. Do đó khi xác định không có dấu hiệu tội phạm xảy ra thì không
  • 27. được khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 107 của BTTHS năm 2003 thì những căn cứ sau đây không được khởi tố vụ án hình sự: - Không có sự việc phạm tội. - Không có hành vi cấu thành tội phạm. - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự. - Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật. - Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. - Tội phạm được đại xá. - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác. Sau khi kiểm tra xác minh nguồn tin làm rõ các điểm trên thì cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố vụ án hình sự thì phải ra quyết định đình chỉ điều tra. Tuy nhiên qua quá trình xác minh, xem xét vụ việc nếu thấy không phải là tội phạm nhưng cần xem xét xử lý về mặt hành chính, về mặt dân sự … thì chuyển hồ sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan để giải quyết theo thẩm quyền. Theo quy định thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, người có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự phải gửi quyết định và các tài liệu kèm theo cho VKS cùng cấp để VKS xem xét quyết định không khởi tố vụ án hình sự có đúng luật hay không. Trường hợp quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì VKS quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, pháp luật TTHS của nước ta quy định chỉ không được khởi tố vụ án hình sự với bẩy căn cứ được quy định tại Điều 107 của BLTTHS năm 2003. * Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại:
  • 28. Theo quy định thì khi đã đủ căn cứ xác định có dấu hiệu của tội phạm thì các cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành các hoạt động điều tra. Tuy nhiên, do yêu cầu của sự hài hoà giữa mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm; lợi ích, nguyện vọng của người bị hại nên BLTTHS năm 2003 quy định một số tội phạm cụ thể chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại được quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003. Đó là các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (104); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (105); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (106); tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (108); tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (109); tội hiếp dâm (111); tội cưỡng dâm (113); tội làm nhục người khác (121); tội vu khống (122), tội xâm phạm quyền tác giả (131); tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (171) của BLHS năm 1999. Các tội trên chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Người có nhược điểm về tâm thần biểu hiện như, không có khả năng nhận thức, bị các bệnh về tâm thần (trừ các trường hợp mắc bệnh tâm thần do sử dụng các chất kích thích như ma túy, rượu bia …). Nhược điểm về thể chất như tật nguyền, câm điếc, ngọng, … Người đại diện của họ là bố mẹ, ông bà,... Yêu cầu của người bị hại là những đề nghị, mong muốn xử lý bằng hình sự người phạm tội đã gây thiệt hại cho họ. Yêu cầu đó cần phải cụ thể, rõ ràng và nếu yêu cầu không rõ ràng thì người tiếp nhận yêu cầu phải giải thích để họ hiểu, để từ đó họ tự quyết định. Nếu người bị hại yêu cầu bằng miệng, thì phải lập biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu (trong trường hợp người yêu cầu không biết chữ thì cần có sự chứng kiến của người làm chứng hoặc đại diện của VKS).
  • 29. Nếu trường hợp người bị hại rút yêu cầu mà cơ quan chức năng xác định là việc rút yêu cầu đó xác định là trái ý muốn của họ do bị đe dọa, cưỡng bức, ép buộc. Thì tuy người yêu cầu đã rút yêu cầu thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tiếp tục tố tụng với vụ án đó. Trong trường hợp người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì họ không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp họ rút yêu cầu do bị ép buộc hay cưỡng bức phải rút yêu cầu. Mặc dù có yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại, nhưng qua quá trình kiểm tra xác minh thấy có một trong các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự (theo Điều 107 BLTTHS năm 2003) thì cơ quan điều tra, VKS phải tuân theo quy định chung khi quyết định khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự, nếu đã khởi tố vụ án hình sự thì phải đình chỉ vụ án. Khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý đầu tiên để tiến hành điều tra xử lý vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi đã xác định được các dấu hiệu của tội phạm theo Điều 100 của BLTTHS năm 2003 thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án. Do đó các thông tin, tài liệu ban đầu có thể chưa chính xác, chưa đầy đủ và sẽ được bổ sung trong quá trình điều tra, thậm chí có thể phát sinh những tình tiết, điều kiện mới làm thay đổi căn bản bản chất vụ việc; hoặc một số loại tội phạm có mặt khách quan gần giống nhau (như các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm dụng tài sản); nhưng khi xác định về mặt khách quan, chủ thể của tội phạm và các tình tiết khác của vụ án thì mới xác định chính xác là tội phạm gì, người phạm tội đã thực hiện những hành vi tội phạm nào. Do đó, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự là một thực trạng thường hay gặp trong quá trình điều tra các vụ án hình sự. * Thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự: Xuất phát từ tình hình thực tế như đã nêu trên, BLTTHS 2003 đã quy định việc thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự (tại Điều 106). Điều luật quy định: Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác thì cơ quan điều tra, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp cơ quan điều tra ra quyết định thay
  • 30. đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan điều tra phải gửi quyết định đó cho VKS để thực hiện chức năng kiểm sát việc khởi tố. Trong trường hợp VKS quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố các vụ án hình sự thì cũng trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định, VKS phải gửi quyết định cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra theo thủ tục chung. Để việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp, đảm bảo tính khách quan và đúng luật. Pháp luật TTHS quy định: VKS phải thực hiện quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động khởi tố vụ án hình sự. Các quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được trao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ theo quy định của pháp luật TTHS thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự. Nếu cơ quan điều tra không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan trên không có căn cứ theo quy định của pháp luật thì VKS hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. VKS có quyền yêu cầu hoặc tự mình thay đổi hoặc hủy bỏ, bổ sung quyết định thay đổi khởi tố vụ án hình sự. Tòa án nhân dân, thông qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra thì có quyền khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Tòa án không có căn cứ thì VKS có quyền kháng nghị lên Tòa án cấp trên để xem xét giải quyết. 1.2.3.2. Khởi tố bị can Theo Từ điển Luật học: "Khi đã có đủ căn cứ để xác định một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố đối với người đó" [33, tr. 254-255]. Theo quy định tại Điều 126 của BLTTHS năm 2003 thì: Khởi tố bị can là việc cơ quan điều tra hoặc VKS xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể bằng một quyết định để bắt đầu tiến hành TTHS về người đó với tư cách là bị can. - Khi quyết định khởi tố bị can thì cơ quan điều tra hoặc VKS đã có đủ tài liệu xác định một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong
  • 31. BLHS hiện hành. Thông thường khi xác định có hành vi phạm tội xảy ra thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án (Ví dụ, khi một công dân bị mất trộm chiếc xe máy, có giá trị từ năm trăm nghìn đồng trở lên; qua xác minh cơ quan điều tra thấy đó là sự thật thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự). Còn khi nào xác định được đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội đó thì cơ quan điều tra mới ra quyết định khởi tố bị can. Việc ra quyết định khởi tố bị can sớm hay muộn phụ thuộc vào kết quả điều tra của cơ quan điều tra. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp sau khi cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án cũng đồng thời ra quyết định khởi tố bị can, thường xảy ra trong các trường hợp người phạm tội bị bắt quả tang (nhất là các tội phạm về ma túy, hiếp dâm, các tội phạm về kinh tế …). - Quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ: Thời gian cụ thể, địa điểm ra quyết định, họ tên chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày tháng, năm sinh, chỗ ở hoặc nơi đăng ký nhân khẩu thường trú, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của BLHS; Thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm; nếu bị can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì phải ghi rõ từng tội danh và điều khoản tương ứng được áp dụng. Việc pháp luật quy định chặt chẽ như vậy để tránh nhầm lẫn các bị can (nếu trong vụ án có nhiều bị can) hoặc để cho chính bị can nắm chắc mình bị khởi tố về tội gì, khung hình phạt mà bị can phải gánh chịu là bao nhiêu để bị can biết bào chữa hay nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình. - Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho VKS cùng cấp để xem xét, phê chuẩn việc khởi tố bị can trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can. VKS cùng cấp quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hay không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra. Đây là một điểm mới của BLTTHS sự năm 2003, đó là việc VKS phải phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; khi có quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của VKS cùng cấp thì quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra mới có hiệu lực pháp luật. Việc quy định này sẽ đảm bảo cho VKS tiến hành KSĐT được từ ngay giai đoạn đầu, hạn chế thấp nhất việc khởi tố bị oan sai, đảm bảo việc khởi tố đúng người, đúng tội.
  • 32. - Trong thời hạn ba ngày, nếu VKS phát hiện có người thực hiện hành vi phạm tội chưa bị phát hiện (thường ở trong vụ án có nhiều bị can) thì VKS yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. - Khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra có kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đến VKS để đề nghị truy tố. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, VKS vẫn có quyền khởi tố bị can nếu phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án đã khởi tố. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can mới, VKS phải gửi quyết định cho cơ quan điều tra cùng toàn bộ hồ sơ vụ án để cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo thủ tục chung. - Khi cơ quan điều tra hoặc VKS ra quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra hoặc VKS phải giao ngay quyết định đó cho bị can. Việc giao này phải được lập thành biên bản, phải giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can theo điểm b, Khoản 1 Điều 49 BLTTHS năm 2003. - Đối với vụ án phải thay đổi cơ quan điều tra theo thẩm quyền thì quyết định khởi tố bị can của cơ quan chuyển vụ án vẫn có giá trị pháp lý. Cũng như việc khởi tố vụ án hình sự, trong quá trình điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm tội vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì cơ quan điều tra, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Như vậy, thay đổi quyết định khởi tố bị can là trường hợp việc xác định tội danh trong quyết định khởi tố bị can chưa đúng, cần phải áp dụng khung, khoản khác, điều khác hoặc có sai sót trong quyết định khởi tố bị can cần phải sửa chữa, bổ sung; ví dụ, nhầm ngày tháng, năm sinh. Bổ sung quyết định khởi tố bị can là trường hợp quá trình điều tra đã xác định bị can có thêm hành vi phạm tội mới hoặc trước đây bị can đã thực hiện các tội phạm khác. - Việc khởi tố bị can là hoạt động tố tụng có ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của người bị khởi tố. Cho nên, cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can; thay đổi bổ sung quyết định khởi tố bị can cho người bị khởi tố và phải giải thích rõ quyền và nghĩa vụ cho bị can theo quy định tại Điều 44 BLTTHS năm 2003, việc giao nhận phải được lập biên bản cụ thể.
  • 33. 1.2.3.3. Kiểm sát việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn Trên phương diện lý luận, các biện pháp ngăn chặn hiện còn có nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng "Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp cưỡng chế do cơ quan điều tra. VKS, Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả bị án. Khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội mới" [47, tr. 502- 503]. Tuy khái niệm nêu trên chưa thật đầy đủ nhưng đã nêu lên được bản chất của vấn đề. Thứ nhất, những quy định của pháp luật tố tụng về bắt người. Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong quá trình điều tra, xử lý vụ án hình sự; là biện pháp có tính cưỡng chế, tước bỏ quyền tự do thân thể của người bị bắt và có hạn chế một số quyền lợi khác. * Bắt bị can để tạm giam. Đối tượng bị bắt ở đây phải là bị can của vụ án, thông qua công tác khởi tố điều tra, cơ quan điều tra đã xác định được người đã thực hiện hành vi phạm tội, có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm; trước đó cơ quan điều tra, VKS đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Theo Điều 80 BLTTHS năm 2003 quy định điều kiện bắt bị can bị cáo để tạm giam phải là những bị can phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt từ trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, được quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003: - Viện trưởng, phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp. - Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp. - Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử.
  • 34. - Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Về thủ tục bắt bị can để tạm giam: Lệnh bắt bị can phải bằng quyết định, trong đó ghi rõ đầy đủ ngày tháng, năm sinh, họ tên, chức vụ, đơn vị của người ra lệnh bắt; họ tên, địa chỉ của người bị bắt. Khi bắt bị can phải tiến hành đọc lệnh công khai, có giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị bắt; khi bắt phải có sự chứng kiến của người đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người. Để đảm bảo tính nghiêm minh, khách quan, pháp luật quy định không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang, hoặc bắt người đang bị truy nã theo quy định của Điều 81 và Điều 82 của BLTTHS năm 2003. Khi tiến hành lệnh bắt người theo điểm c khoản 1 Điều 80 của BLTTHS năm 2003 đó là thẩm phán giữ chức Chánh tòa, phó Chánh tòa Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử thì ngay sau đó phải gửi quyết định bắt người cho VKS cùng cấp. Khi tiến hành lệnh bắt người theo điểm d, khoản 1, Điều 80 của BLTTHS năm 2003 đó là thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp thì lệnh bắt phải được VKSND cùng cấp phê chuẩn trước khi lệnh bắt được thi hành. * Bắt người trong trường hợp khẩn cấp. + Căn cứ để bắt khẩn cấp: Theo quy định tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003, quy định các trường hợp được bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. - Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn việc người đó trốn. - Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
  • 35. Như vậy, bắt người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn mang tính cấp bách, qua xác minh ban đầu đã có thể khẳng định một người chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc khẳng định một người đã thực hiện tội phạm hay bị tình nghi thực hiện tội phạm, mà xét thấy cần ngăn chặn họ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Trường hợp thứ nhất, đòi hỏi cơ quan điều tra phải xác minh nắm được tài liệu, chứng cứ; các tài liệu, chứng cứ đó phải có căn cứ khẳng định người đó chuẩn bị phạm tội. Tức là có thể họ đang chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp thứ hai, đây là trường hợp người bị hại, người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm đã chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đó đã thực hiện hành vi tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn người đó bỏ trốn. Việc bắt người trong trường hợp này khác hẳn với bắt người trong trường hợp thứ nhất. Trường hợp thứ nhất người bị bắt đang chuẩn bị thực hiện hành vi tội phạm, tức là tội phạm chưa hoàn thành; trong trường hợp thứ hai các tội phạm đã hoàn thành, người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm hoặc người bị hại chính mắt trông thấy thì có quyền yêu cầu bắt để ngăn chặn việc người phạm tội bỏ trốn. Trường hợp thứ ba, đó là việc cơ quan điều tra, bằng các hoạt động nghiệp vụ như khám xét chỗ ở, khám người, kiểm tra hành chính … mà phát hiện dấu vết của tội phạm ở người hoặc chỗ ở của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và có căn cứ cho rằng họ sẽ bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp. + Về thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp: Được quy định tại khoản 2 Điều 81 BLTTHS năm 2003 gồm: - Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. - Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập từ cấp trung đoàn và tương đương; chỉ huy đồn biên phòng ở Hải đảo và biên giới.
  • 36. - Người chỉ huy tầu bay, tầu biển; khi tầu bay, tầu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Trong mọi trường hợp, bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan bắt người phải báo ngay bằng văn bản, kèm theo các tài liệu có liên quan cho VKS cùng cấp để VKS xem xét, phê chuẩn. VKS phải xem xét, đánh giá chặt chẽ các chứng cứ của việc bắt khẩn cấp theo quy định. Trong trường hợp cần thiết, VKS phải trực tiếp gặp hỏi người bị bắt, trước khi phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Nếu VKS không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thì người bị bắt phải được trả tự do ngay sau đó. * Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. + Bắt người phạm tội quả tang: Là việc bắt người khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện, đuổi bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng, trông thấy thì ai cũng phải biết, không cần phải thông qua xác minh. Pháp luật TTHS quy định các trường hợp được bắt người phạm tội quả tang: - Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. - Người phạm tội vừa thực hiện xong thì bị phát hiện. - Người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện đuổi bắt. + Bắt người đang bị truy nã: Là bắt người đã thực hiện tội phạm, đã bị khởi tố bị can, đang trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và đang bị cơ quan có thẩm quyền ra lệnh truy nã, thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, được niêm yết công khai nơi công cộng để mọi người phát hiện, bắt giữ. + Pháp luật tố tụng quy định bất kỳ người nào cũng có thể bắt, tước vũ khí, hung khí của người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và giải ngay người đó đến cơ quan
  • 37. VKS, ủy ban nhân dân nơi gần nhất để các cơ quan này tiến hành lập biên bản và giải người bị bắt đến cơ quan có thẩm quyền. Thứ hai, những quy định của pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ Tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS, do cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đối với bị can bị bắt theo lệnh truy nã; người phạm tội tự thú, đầu thú. Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật của các địa phương thì không phải tất cả các đối tượng trên đều có thể bị tạm giữ mà chỉ quyết định tạm giữ khi cần đủ thời gian để cơ quan điều tra có thể thẩm tra, xác minh tính chất, mức độ tội phạm, nơi cư trú, nhân thân người bị bắt … thì mới áp dụng việc tạm giữ. Về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ: Theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp; người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập từ cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tầu bay, tầu biển; khi tầu bay, tầu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng; chỉ huy trưởng các vùng cảnh sát biển có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ. Về thủ tục tạm giữ. Tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho VKS cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Về thời hạn tạm giữ. Theo quy định tại Điều 87 BLTTHS năm 2003: Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ, nhưng không được quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người đã ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ