SlideShare a Scribd company logo
1 of 85
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO THỊ HỒNG PHƢƠNG
HỢP ĐỒNG LẬP HỘI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO THỊ HỒNG PHƢƠNG
HỢP ĐỒNG LẬP HỘI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGÔ HUY CƢƠNG
HÀ NỘI - 2017
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của cá
nhân tôi.
Nội dung cũng như các số liệu, ví dụ và trích dẫn được trình bày trong
Luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác và tin cậy. Những kết luận khoa học
của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Đào Thị Hồng Phƣơng
4
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................5
Chương 1.....................................................................................................9
LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG LẬP HỘI ......................................................9
1.1. Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm và phân loại của hợp đồng lập hội ...9
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa và phân loại của hội....................................9
1.1.2. Các đặc điểm của hợp đồng lập hội.........................................13
1.2. Đàm phán và giao kết hợp đồng lập hội.........................................16
1.2.1. Đàm phán hợp đồng lập hội.....................................................16
1.2.2. Giao kết hợp đồng lập hội........................................................17
1.3. Hiệu lực của hợp đồng lập hội .......................................................20
1.3.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lập hội......................20
1.3.2. Hợp đồng lập hội vô hiệu.........................................................23
1.3.3. Đặc điểm riêng về hiệu lực của hợp đồng lập hội ...................25
1.4. Nội dung của hợp đồng lập hội ......................................................26
1.4.1. Các điều kiện bắt buộc của hợp đồng lập hội..........................26
1.4.2. Các điều kiện khác của hợp đồng lập hội ................................30
1.5. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội...........................................31
1.5.1. Các nguyên tắc nền tảng của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập
hội.......................................................................................................31
1.5.2. Cấu trúc và nguồn của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội35
1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng lập hội..................37
Chương 2...................................................................................................41
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ HỢP ĐỒNG LẬP HỘI.......41
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .......................................................................41
2.1. Tổng quan pháp luật Việt Nam hiện nay về hợp đồng lập hội .....41
2.1.1. Cấu trúc và nguồn của pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp
đồng lập hội........................................................................................41
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp liên quan tới hợp đồng lập hội ..63
2.3. Một số kiến nghị.............................................................................78
KẾT LUẬN...............................................................................................81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................82
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Xây dựng kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đang ngày càng làm biến
đổi sâu sắc các quan hệ xã hội ở Việt Nam. Sự liên kết của con người trong các
hội đang phát triển mạnh gắn liền với sự phát triển của xã hội dân sự và sự bảo
đảm quyền tự do kinh doanh. Các hội đã có những đóng góp lớn cho sự phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nói
chung, và góp phần cải thiện đời sống của từng người dân nói riêng. Hiện nay,
số lượng các hội được lập gia tăng nhanh chóng. Với môi trường dân chủ, cởi
mở, hội nhập, các hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, xã hội hoá
ngày càng cao, việc thành lập và phát triển hội thực sự là yêu cầu của thực tiễn
đời sống và là xu thế tất yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu tự do, dân chủ, sáng tạo
của người dân và xã hội.
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền tự do lập hội của công dân (Điều 25)
và quyền tự do kinh doanh (Điều 33), đồng thời cũng đặt ra nguyên tắc pháp
định cho hai quyền này mà bản thân chúng làm cơ sở pháp lý chủ yếu cho việc
lập hội. Tuy nhiên hiện nay pháp luật cụ thể hóa hai nguyên tắc hiến định này và
hai loại hội có mục đích kinh tế và có mục đích phi kinh tế dường như được hiểu
và phát triển khá tách biệt vì thiếu sự tìm hiểu nguồn gốc chung của hội. Thực
tiễn tư pháp, hành pháp, cũng như thực hiện pháp luật của công dân có nhiều
vướng mắc liên quan tới những thiếu sót về việc tìm hiểu và xây dựng nguồn
gốc chung của hội. Hợp đồng lập hội là một nguồn gốc pháp lý chung của hội.
Trong khoa học pháp lý, nó luôn được xem là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
lập hội. Tuy nhiên hiện nay nó bị bỏ ngỏ trong các Bộ Luật Dân sự năm 1995,
năm 2005 và năm 2015.
Vì những lẽ trên, em xin lựa chọn đề tài “Hợp đồng lập hội theo pháp
luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
6
Mục đích nghiên cứu chung của đề tài là xây dựng mô hình lý luận về hợp
đồng lập hội ở Việt Nam hiện nay và hướng tới xây dựng mô hình chế định hợp
đồng lập hội trong Bộ luật Dân sự tương lai sau Bộ luật Dân sự năm 2015.
Các mục tiêu nghiên cứu cụ thể
Đề tài luận văn có các mục tiêu cụ thể sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hợp đồng lập hội;
+ Xây dựng lý luận hệ thống của hợp đồng lập hội;
+ Đánh giá các qui định pháp luật hiện hành có liên quan;
+ Kiến nghị về xây dựng và áp dụng luật.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài luận văn
Thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan, chẳng hạn một
số công trình tiêu biểu sau: (1) Sách chuyên khảo mang tên “Freedom of
Association” edited by Any Gutman (Princeton University Press, 1998); (2) sách
chuyên khảo mang tên “The State and Freedom of Contract” edited by Harry N.
Scheiber (Stanford University Press, 1998); (3) sách chuyên khảo mang tên
“The Limits of Freedom of Contract” by Micheal J. Trebilcock (Harvard
University Press, 1993)…
Trong vài năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về hội và tự
do lập hội được công bố ở nước ta, tuy nhiên các công trình nghiên cứu hiện có
vẫn chưa đủ để giải đáp tất cả các câu hỏi đặt ra liên quan đến việc hoàn thiện
khung pháp lý về hợp đồng lập hội ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu về
loại hợp đồng này ở Việt Nam rất hạn chế. Về nghiên cứu chung, có cuốn giáo
trình kiêm sách chuyên khảo mang tên “Việt Nam dân luật lược khảo – Nghĩa vụ
và khế ước” của Vũ Văn Mẫu xuất bản tại Sài Gòn năm 1963. Trong lĩnh vực
nghiên cứu chuyên biệt, có luận án tiến sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng thành
lập công ty ở Việt Nam” của Ngô Huy Cương… Ngoài ra còn một số công trình
nghiên cứu có liên quan tới một loại hội đặc biệt - đó là công đoàn. Tuy nhiên ở
Việt Nam hiện nay, loại hội này có bản chất pháp lý như là một chế định pháp
luật hơn là một hợp đồng.
7
Các công trình này đã đặt nền móng lý luận phần nào đó cho hợp đồng lập
hội. Song chưa có công trình nào nghiên cứu xây dựng mô hình lý luận tổng
quát về loại hợp đồng này cho Việt Nam và kiến nghị xây dựng mô hình lập
pháp về loại hợp đồng này trong pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
với khá nhiều điểm khác biệt về pháp luật so với các nước khác và so với quá
khứ lịch sử của Việt Nam.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nội dung nghiên cứu chủ yếu
của đề tài luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề pháp lý liên quan đến
hợp đồng lập hội bao gồm lý luận pháp luật và mô hình pháp luật thực định.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ vấn đề lý luận liên quan và
các quy định của pháp luật hiện tại của Việt Nam liên quan đến đề tài. Phạm vi
nghiên cứu của luận văn mở rộng đối với các pháp luật nước ngoài cũng điều
chỉnh về vấn đề này.
Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
- Những vấn đề lý luận pháp luật chuyên sâu về hợp đồng lập hội tại Việt
Nam hiện nay;
- Phân tích pháp luật hiện nay về hợp đồng lập hội ở Việt Nam;
- Xây dựng mô hình sơ khởi chế định pháp luật về hợp đồng lập hội ở
Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài luận văn
Về phương pháp luận, để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết
Mác-Lênin. Đây là phương pháp khoa học vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ
luận văn để xây dựng cơ sở lý luận về hợp đồng lập hội tại Việt Nam hiện nay.
Về phương pháp nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử. Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên sâu của pháp luật
như: (1) Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng để làm rõ các vấn đề liên
8
quan đến giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước, qua đó thấy được sự tương
đồng, khác biệt của Việt Nam và nước ngoài làm luận cứ xác thực cho việc đưa
ra các giải pháp khắc phục những bất cập của pháp luật hiện nay và xây dựng
mô hình lý luận tổng quát về hợp đồng lập hội; (2) phương pháp mô hình hóa,
điển hình hóa các quan hệ xã hội được sử dụng để xây dựng mô hình lý luận
chuyên sâu và mô hình pháp luật thực định…
6 . Bố cục của Luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
nghiên cứu chính của luận văn được chia thành các chương sau:
Chương 1 – Lý luận về hợp đồng lập hội
Chương 2 – Pháp luật Việt Nam hiện nay về hợp đồng lập hội và một
số kiến nghị
9
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG LẬP HỘI
1.1. Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm và phân loại của hợp đồng lập hội
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa và phân loại của hội
Không thể phủ nhận vai trò và ý nghĩa to lớn của hội trong đời sống con
người, nhất là trong nền kinh tế thị trường. Hội, xét chung trong tổng thể việc
đáp ứng các nhu cầu sống của con người, là một trong những phương tiện quan
trọng giúp con người thỏa mãn các nhu cầu đó [6, tr. 38] mà trong chúng bao
gồm cả các nhu cầu về vật chất và các nhu cầu về tinh thần. Tuy nhiên bản chất
pháp lý của hội vẫn còn là một vấn đề gây tranh luận. Có lẽ việc xem xét bản
chất của hội trước hết bắt đầu từ việc phân loại hội.
Với tính cách là một phương tiện chung nhằm đáp ứng các nhu cầu sống,
nhưng do cách thức của sự đáp ứng từng loại nhu cầu có sự khác nhau, cho nên
phản ánh về mặt hình thức (không trùng khít hoàn toàn), hội được chia thành hai
loại cơ bản là hội có mục đích kinh tế và hội không có mục đích kinh tế. Bộ luật
Dân sự Đức năm 2002 có các qui định phân loại hội như vậy tại Điều 21 và
Điều 22 để thiết lập qui chế thủ đắc năng lực pháp lý riêng biệt của từng loại
hội. Các điều luật này có nội dung như sau: “Một hội mà mục tiêu của nó không
phải là hoạt động thương mại thì có tư cách pháp lý bởi việc được ghi vào sổ
đăng ký hội tại tòa án địa phương có thẩm quyền” (Điều 21); và “Một hội mà
mục tiêu hoạt động của nó là hoạt động thương mại thì có tư cách pháp lý được
cấp bởi tiểu bang, nếu không có các qui định đặc biệt của luật liên bang” (Điều
22). Cách phân loại này không giúp xác định được bản chất pháp lý của hội mà
chỉ cho phép hiểu biết sự lựa chọn của nhà làm luật về cách thức cấp năng lực
pháp lý cho hội. Xét từ căn cứ tạo lập nên hội, có thể chia hội thành hai loại là
hội được tạo lập bởi hợp đồng và hội được tạo lập bởi pháp luật. Tuy nhiên hội
là một tổ chức phi chính phủ, nên việc pháp luật qui định về việc thành lập một
hội cụ thể hay nhà nước quyết định thành lập hội mà không có sự tự nguyện
tham dự của các thành viên là việc ít xảy ra. Vì thế về cơ bản hội mang bản chất
10
hợp đồng. Vì vậy nhiều Bộ luật Dân sự của nhiều nước trên thế giới đều có
chương nói về hội hay hợp đồng lập hội mà tại đó mô tả chung các đặc điểm
pháp lý của hội. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ
năm 1936 và Bộ luật Dân sự năm 1972 của Chính quyền Sài Gòn (cũ) theo mô
hình Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 đều có một chương như vậy. Tuy nhiên các
chương như vậy trong các bộ luật của Việt Nam đều chủ yếu qui định về hợp
đồng lập hội có mục đích kinh tế. Trong khi đó Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804
có một chương nói về “hội” với tính cách là hợp đồng, sau đó mở rộng ra với
tính cách là hành vi pháp lý (bao gồm cả hợp đồng và hành vi pháp lý đơn
phương) bởi về sau này nhà làm luật chấp nhận hội thương mại có thể chỉ có
một thành viên (là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hay công ty cổ
phần một thành viên). Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 định nghĩa: “Khế ước
lập hội là khế ước do hai hay nhiều người đồng ý xuất tài sản chung nhau để lấy
lợi mà chia nhau” (Điều thứ 1200). Các qui định này được sao chép nguyên văn
vào Điều thứ 1425 của Bộ luật Dân sự Trung Kỳ năm 1936. Các định nghĩa này
chưa làm rõ được nội hàm của khái niệm hợp đồng lập hội. Theo định nghĩa của
hai bộ luật này, hai hay nhiều người cùng tiết kiệm bằng cách bỏ tiền cùng nhau
gửi tiết kiệm rồi lấy tiền lãi chia nhau phải chăng cũng được xem là hợp đồng
lập hội? Khắc phục những khiếm khuyết của định nghĩa trong hai bộ luật nêu
trên, Bộ luật Dân sự năm 1972 đã chuyển hóa những đặc trưng của hội theo
Điều 1832, Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 để định nghĩa hợp đồng lập hội như
sau: “Khế ước lập hội là khế ước theo đó hai hay nhiều người đồng ý góp công,
góp của để hoạt động với mục đích kiếm được lời cùng chia nhưng nếu thua lỗ
cùng chịu” (Điều thứ 1264). Theo định nghĩa này, hợp đồng lập hội có các dấu
hiệu như: (1) hai hay nhiều người cùng nhau góp vốn (có thể bằng công sức
hoặc bằng tài sản); (2) hai hay nhiều người đó cùng nhau hoạt động trên căn bản
sự góp vốn đó; (3) các hoạt động cùng nhau này phải nhằm mục đích sinh lời để
chia nhau; và (4) nếu hoạt động chung này bị thua lỗ thì hai hay nhiều người đó
phải cùng nhau gánh chịu.
11
Nếu xét từ việc tổ chức hội, hợp đồng lập hội có thể được phân chia thành
hai loại: Loại thứ nhất là hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định; và loại thứ hai
là hợp đồng gia nhập một hội nhất định. Loại thứ nhất là một hợp đồng được
giao kết giữa các thành viên sáng lập ra hội với nhau. Loại thứ hai là hợp đồng
được giao kết giữa một thành viên gia nhập một hội nhất định với chính hội đó.
Trong vụ Clarke v. Dunraven [1897], tòa án Anh cho rằng hai người cùng viết
đơn xin gia nhập một hội vào hai thời điểm khác nhau (mà họ không hề quen
biết nhau) cũng được coi giữa hai người có sự thỏa thuận. Clarke và Dunraven
đều viết đơn xin tham dự vào câu lạc bộ đua thuyền mang tên Mudhook Yacht
Club, và cam kết tuân thủ các qui tắc của Yacht Club Association. Các qui tắc
này qui định chủ nhân của con thuyền vi phạm qui tắc va chạm phải con thuyền
khác có trách nhiệm bồi thường tất cả các thiệt hại phát sinh. Thuyền của Clarke
va chạm vào thuyền của Dunraven. Vụ kiện xảy ra. Tòa phúc thẩm Anh Quốc và
House of Lords phán quyết rằng có quan hệ hợp đồng tồn tại giữa những người
tham dự cuộc đua thuyền. Vì vậy Clarke phải bồi thường Dunraven bởi vi phạm
hợp đồng. Án lệ này áp dụng cho vụ Rayfield v. Hands [1958]. Tòa ra phán
quyết rằng sự đăng ký của một thành viên vào hợp đồng và điều lệ công ty
không chỉ tạo ra sự thỏa thuận giữa thành viên và công ty, mà còn tạo ra sự thỏa
thuận giữa thành viên đó với những người đăng ký khác [26, p.13]. Như vậy
được xem là sự thỏa thuận không đòi hỏi các bên phải biết về sự đồng ý của
nhau đối các điều kiện của hợp đồng và không đòi hỏi các bên phải đồng ý các
điều kiện của hợp đồng vào cùng một thời điểm [7]. Khái niệm về hợp đồng lập
hội trong các Bộ luật Dân sự thuộc về loại thứ nhất. Như vậy có thể hiểu một
cách đơn giản hợp đồng lập hội là loại hợp đồng tạo lập nên một hội. Tuy nhiên
các định nghĩa nêu trên mới chỉ nhằm tới các hội có mục đích kinh tế. Vậy việc
xây dựng một định nghĩa cho hợp đồng lập hội nói chung không kể hội có mục
đích kinh tế hay không là một việc cần thiết trước hết để phân biệt hợp đồng lập
hội với các loại hợp đồng khác, và sau đó để nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên
quan, cũng như xây dựng qui chế pháp lý cho loại hợp đồng này.
12
Khảo sát Hội Sinh viên Việt Nam (một tổ chức có gần 1.100.000 nghìn
hội viên đang sinh hoạt tại hơn 200 Hội Sinh viên trường, 21 Hội sinh viên tỉnh,
thành phố, 50 Hội sinh viên cấp trường trực thuộc Trung ương và 05 Hội Sinh
viên Việt Nam ở nước ngoài: Pháp, Hàn Quốc, Hà Lan, Đức, Bỉ) cho thấy: Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội Sinh viên Việt Nam được tổ chức tại Hà
Nội từ ngày 29 đến 31/07/1955 với sự tham dự của 244 đại biểu chính thức và
255 đại biểu dự thính của các trường đại học, đại biểu sinh viên miền Nam và
đại biểu lưu học sinh ở nước ngoài cùng nhau thông qua bản điều lệ, chương
trình hoạt động và lời kêu gọi sinh viên toàn quốc, đồng thời bầu Ban Chấp hành
Trung ương Hội để theo đuổi mục đích đoàn kết, thống nhất mọi lực lượng sinh
viên trong Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam, cùng với thanh niên và nhân dân
cả nước đấu tranh cho hòa bình, độc lập và thống nhất Tổ quốc, đòi thực hiện
tổng tuyển cử do hai miền Nam, Bắc theo đúng tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ
[29]. Các thông tin này nói lên rằng Hội sinh viên Việt Nam là sự thống nhất ý
chí của những đại biểu sinh viên (những người sáng lập) có các mục tiêu chính
trị, xã hội. Nội dung của sự thống nhất ý chí này thể hiện trong điều lệ của hội
được thông qua tại đại hội. Xét riêng dưới giác độ pháp lý, hợp đồng tạo lập ra
hội này (hội không nhằm mục đích kinh tế) không có dấu hiệu hoạt động nhằm
mục đích sinh lời để chia nhau như đối với hợp đồng lập hội có mục đích kinh
tế, nhưng thay vào đó là dấu hiệu cùng nhau hoạt động nhằm mục tiêu chung (có
thể là các mục tiêu chính trị, xã hội, văn hóa, từ thiện…). Riêng dấu hiệu cùng
nhau chịu lỗ của hợp đồng lập hội có mục đích kinh tế thì không có dấu hiệu nào
của hợp đồng lập hội không nhằm mục đích kinh tế thay vào bởi mục tiêu của
các thành viên của hội không nhằm mục đích kinh tế không phải là bỏ công sức
hoặc tiền của ra để đổi lại một món lợi tiền bạc lớn hơn mà thực sự là sự chi tiêu
cho các nhu cầu có tính cách tinh thần. Tuy nhiên nếu hội (bất kể là hội nhằm
mục đích kinh tế hay không) mà hoạt động trái mục đích và vi phạm pháp luật,
thì chính hội với tính cách là một thực thể pháp lý riêng biệt phải chịu trách
nhiệm.
13
Qua các nghiên cứu trên có thể xác định: hợp đồng lập hội nói chung là
một sự thỏa thuận của hai hay nhiều người cùng nhau đóng góp công sức, tri
thức, tiền bạc hay các lợi ích vật chất khác để cùng nhau hoạt động nhằm các
mục tiêu chung và phải chịu trách nhiệm về các hoạt động đó theo qui định của
pháp luật.
Thực tế không một hội nào (bất kể có nhằm mục đích kinh tế hay không)
đều phải có kinh phí hoạt động mà kinh phí ấy thu được từ sự đóng góp của các
thành viên hay từ tài trợ bởi người khác. Do đó sự đóng góp tiền bạc không phải
là dấu hiệu riêng của hội nhằm mục đích kinh tế. Như trên đã nói sự đóng góp
tiền bạc thành lập hội nhằm mục đích kinh tế tạo thành vốn để kinh doanh sinh
lời. Còn sự đóng góp tiền bạc thành lập hội không nhằm mục đích kinh tế là sự
chi tiêu cho các nhu cầu về tinh thần trong khuôn khổ các mục tiêu hoạt động
của hội.
Các nghiên cứu ở trên cho thấy hợp đồng lập hội là một loại hợp đồng
quan trọng không thể thiếu được trong đời sống xã hội do chính nhu cầu khách
quan của con người đòi hỏi. Đây là một loại hợp đồng có phạm vi tác động rất
rộng và sâu, do đó cần phải nghiên cứu bổ sung vào Bộ luật Dân sự làm nền
tảng pháp lý cho các luật chuyên ngành qui định các đặc thù nhưng trên căn bản
thống nhất về tư tưởng và chính sách pháp luật.
1.1.2. Các đặc điểm của hợp đồng lập hội
Hợp đồng nói chung được phân loại theo nhiều căn cứ khác nhau và dựa
vào từng cách phân loại để áp đặt cho hợp đồng những qui chế pháp lý khác
nhau [4, tr. 174]. Khi nói tới các đặc điểm pháp lý của riêng một hợp đồng nào
đó, người ta thường xem hợp đồng đó thuộc những phân loại hợp đồng nào để
rút ra các đặc điểm của nó. Có các phân loại hợp đồng như sau thường được
nhắc tới: hợp đồng trọng hình thức, hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế;
hợp đồng thương lượng và hợp đồng gia nhập; hợp đồng cá nhân và hợp đồng
cộng đồng; hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ; hợp đồng có đền bù và hợp
đồng không có đền bù; hợp đồng chắc chắn và hợp đồng may rủi; hợp đồng tức
thì và hợp đồng kéo dài; hợp đồng hữu danh và hợp đồng vô danh; hợp đồng
14
chính và hợp đồng phụ; hợp đồng dân sự và hợp đồng tiêu dùng; hợp đồng tư
nhân và hợp đồng chính quyền; hợp đồng đơn giản và hợp đồng hỗn hợp; hợp
đồng theo mẫu và hợp đồng không theo mẫu; hợp đồng sơ bộ và hợp đồng cơ
sở; hợp đồng đúng qui cách và hợp đồng mặc nhiên; hợp đồng có điều kiện và
hợp đồng không có điều kiện; hợp đồng có thể hủy ngang và hợp đồng không
thể hủy ngang; và hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba [4, tr. 174 – 182].
Theo các cách phân loại đó, hợp đồng lập hội có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hợp đồng lập hội là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.
Đây là đặc điểm nổi trội nhất của loại hợp đồng này. Khác với hợp đồng
mua bán hay hợp đồng dịch vụ, các bên giao kết hợp đồng lập hội không trở
thành trái chủ và thụ trái của nhau mà lại trở thành trái chủ và thụ trái của hội do
chính sự giao kết hợp đồng của họ tạo lập ra [8]. Tuy nhiên nội dung cụ thể của
đặc điểm này của hợp đồng lập hội phụ thuộc vào các hình thức pháp lý của hội.
Các hình thức này được qui định rất cụ thể đối với thương hội. Luật Doanh
nghiệp năm 2014 qui định thương hội có các hình thức: Công ty hợp danh, công
ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Riêng đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn đạo luật này nói tới hai loại là công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành
viên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Như trên đã nói hội có thể
là một hành vi pháp lý, có nghĩa là công ty trách nhiệm hữu hạn là một hợp đồng
lập hội; còn công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hành vi pháp lý
đơn phương lập hội. Cách thức tư duy này khác với quan niệm thông thường hội
là một tổ chức của hai hay nhiều người. Đối với các hình thức công ty nói trên,
ta có thể thấy sự khác biệt về nội dung của đặc điểm hợp đồng lập hội là hợp
đồng vì lợi ích của người thứ ba giữa hình thức công ty đối nhân và hình thức
công ty đối vốn. Đối với công ty hợp danh (công ty đối nhân), khi các thành
viên đã cam kết với nhau thành lập công ty có nghĩa là họ đã ràng buộc với nhau
chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định với các khoản nợ của công ty. Đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (công ty đối vốn), sự ràng buộc
lẫn nhau giữa các thành viên công ty bị giảm dần từ công ty trách nhiệm hữu
hạn sang công ty cổ phần.
15
Thứ hai, hợp đồng lập hội là hợp đồng trọng hình thức.
Pháp luật của hầu hết các quốc gia đều qui định rất chặt chẽ qui trình, thủ
tục giao kết hợp đồng lập hội bởi hội có một vai trò và ý nghĩa rất quan trọng
trong đời sống xã hội như trên đã nói. Hội có thể ảnh hưởng to lớn tới đời sống
xã hội vì vậy kiểm soát hội ngay từ khi thiết lập, có nghĩa là ngay từ khi giao kết
hợp đồng lập hội là một giải pháp mà pháp luật không thể bỏ qua.
Thứ ba, hợp đồng lập hội là hợp đồng cá nhân.
Có đặc điểm này bởi hợp đồng lập hội trước hết chỉ có hiệu lực đối với
những người tham gia giao kết, trừ trường hợp có hiệu lực với chính hội được
tạo lập ra bởi hành vi pháp lý của những người giao kết mà đã nói ở đặc điểm
thứ nhất của hợp đồng lập hội. Điều đó có nghĩa là hợp đồng này ràng buộc
những người tham gia giao kết, trở thành trái chủ và thụ trái của hội được tạo lập
nên bởi chính hợp đồng này.
Thứ tư, hợp đồng lập hội là một hợp đồng chắc chắn.
Khi hợp đồng lập hội được giao kết đúng theo qui trình, thủ tục do luật
định là hợp đồng lập hội phát sinh hiệu lực ràng buộc với các bên giao kết và
với hội được tạo lập nên bởi hợp đồng đó. Hiệu lực này không bị phụ thuộc vào
bất kỳ một sự kiện khách quan nào.
Thứ năm, hợp đồng lập hội là hợp đồng kéo dài.
Thông thường hội được lập ra có mục tiêu hoạt động trong một khoản
thời gian dài hoặc vô thời hạn. Chính vì vậy hợp đồng lập hội là hợp đồng kéo
dài. Hợp đồng chỉ chấm dứt khi hội chấm dứt. Liên quan tới mối quan hệ của
hội đối với thành viên của mình thì hợp đồng lập hội không thể xem là chấm dứt
mà là chấm dứt tư cách thành viên của họi hoặc chất dứt mối quan hệ hợp đồng
giữa thành viên với hội.
Thứ sáu, hợp đồng lập hội là một hợp đồng hữu danh.
Như trên đã nói, hợp đồng lập hội được qui định trong các Bộ luật Dân sự
của Việt Nam dưới các chế độ cũ và trong phần nhiều các Bộ luật Dân sự của
các nước trên thế giới. Dù rằng hiện nay Bộ luật Dân sự năm 2015 không có qui
định về loại hợp đồng này. Nhưng điều đó không có nghĩa hợp đồng lập hội là
16
hợp đồng vô danh vì từng phân loại của hợp đồng lập hội được qui định ở các
văn bản qui phạm pháp luật khác nhau như Luật Doanh nghiệp năm 2014 và
một số nghị định của Chính phủ. Trong học thuật và thực tiễn tư pháp, thuật ngữ
hợp đồng lập hội vẫn được hiểu và sử dụng. Các qui chế pháp lý riêng cho loại
hợp đồng này được thể hiện qua các văn bản qui phạm pháp luật đã nói.
1.2. Đàm phán và giao kết hợp đồng lập hội
1.2.1. Đàm phán hợp đồng lập hội
Nói tới đàm phán là nói tới sự gặp gỡ, trao đổi để đi đến sự thống nhất ý
chí giữa những người giao kết hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng lập hội là một loại
hợp đồng có thể phân chia ra nhiều phân loại nhỏ khác nhau và có qui chế pháp
lý khá khác nhau trong việc đàm phán và giao kết.
Ở mục 1.1.1 đã phân chia hợp đồng lập hội thành hai loại lớn có tính cách
tổng quát là hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định và hợp đồng gia nhập một
hội nhất định. Hai loại hợp đồng này có sự khác nhau liên quan tới đàm phán để
giao kết hợp đồng lập hội. Tuy nhiên khó có thể làm rõ sự khác biệt này nếu
không có sự phân loại tiếp đối với hai phân loại tổng quát này.
Hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định có thể được phân loại thành hợp
đồng lập hội không mở ra cho sự gia nhập của các thành viên mới (hội đóng) và
hợp đồng lập hội có mở ra cho sự gia nhập của các thành viên mới (hội mở).
Đối với hợp đồng gia nhập một hội nhất định, thì việc đàm phán được tiến
hành giữa hội và hội viên mong muốn gia nhập. Tuy nhiên vấn đề đàm phán chỉ
được đặt ra trong trường hợp hội yêu cầu thành viên mong muốn gia nhập phải
làm hoặc không làm một hay một số việc gì đấy để đáp ứng nhu cầu của hội
giống như một người gia nhập Đảng. Tất nhiên các điều kiện của hợp đồng
không có sự thay đổi bởi đàm phán. Hợp đồng trong trường hợp này được xem
là hợp đồng gia nhập, có nghĩa là hợp đồng với các điều kiện được dựng sẵn bởi
các thành viên tạo lập hội từ ban đầu. Việc đàm phán trong trường hợp này có
thể gọi là “đàm phán về tư cách” của người gia nhập.
Đàm phán hợp đồng lập hội đóng có đặc điểm là các thành viên của hội
phải cùng nhau đàm phám để đi đến ưng thuận về các điều kiện của hợp đồng.
17
Việc đàm phán này không khác gì các cuộc đàm phán thông thường khác.
Thông thường các bên cùng nhau thảo luận vì một mục đích chung là tạo lập ra
một hội thể hiện được lợi ích của các và từng thành viên (người tham gia đàm
phán) trong đó. Những thành viên này có thể trực tiếp đàm phán hoặc có thể ủy
quyền cho người khác thể hiện ý chí của mình.
Đàm phán hợp đồng lập hội mở đòi hỏi những thành viên sáng lập hoặc
những sáng lập viên phải đàm phán với nhau để thiết lập nên các điều kiện của
một hội trong tương lai rồi kêu gọi sự gia nhập hội đó, chẳng hạn đối với hội
không có mục đích kinh tế như một đảng phái chính trị hay một hội nghề
nghiệp; đối với hội có mục đích kinh tế như công ty cổ phần gọi vốn công khai
từ công chúng. Việc đàm phán này có thể liên quan tới nhiều loại hợp đồng tiền
lập hội. Thực tế đối với việc thành lập công ty cổ phần nhiều hệ thống pháp luật
qui định rất chi tiết về các loại hợp đồng này và thủ tục đàm phán, giao kết
chúng. Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng có bốn dạng hợp đồng trong giai đoạn tiền
công ty (preincorporation agreements): Thứ nhất, thoả thuận giữa các sáng lập
viên nhằm tạo thành công ty (agreements between promoters for the formation
of the corporation); thứ hai, các thoả thuận cổ đông (shareholder agreement);
thứ ba, thoả thuận lập hội (agreement of association); và thứ tư, thoả thuận giữa
các sáng lập viên và người thứ ba (agreement between promoters and third
persons) [5, tr. 23]. Trong các hợp đồng tiền công ty, có thỏa thuận lập hội.
Thực chất hợp đồng này là loại hợp đồng định hình rõ hội ra đời trong tương lai.
Nhưng không phải vì thế mà có sự tách biệt ba loại hợp đồng còn lại. Tổng thể
chúng là những hợp đồng bắt buộc trong qui trình giao kết hợp đồng lập hội nói
chung. Sáng lập viên được xem là người có sáng kiến muốn lập công ty, đứng ra
kết hợp hội viên, kêu gọi góp vốn, thu thập tiền vốn và làm những thể lệ cần
thiết cho công ty được thành lập [5, tr. 26].
1.2.2. Giao kết hợp đồng lập hội
Hợp đồng lập hội có các thủ tục và trình tự giao kết khác nhau tùy thuộc
vào mục đích tạo lập nên loại hội nào của hợp đồng lập hội. Khoa học pháp lý
thường phân loại hội theo luật điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của hội.
18
Theo cách phân loại này, hội được chia thành hội được thành lập theo luật công
và hội được thành lập theo luật tư. Hội được thành lập theo luật tư lại được phân
loại thành hội dân sự (được thành lập theo luật dân sự) và hội thương mại hay
còn gọi là thương hội hay công ty (được thành lập theo luật thương mại). Tuy
nhiên chỉ có các thương hội hay các công ty là có dấu hiệu nhận biết rõ ràng bởi
tính hình thức chặt chẽ và mục tiêu lợi nhuận của loại hội này. (Lưu ý rằng cách
phân loại như trên xuất phát từ cách phân loại pháp luật theo truyền thống Civil
Law). Hội dân sự nếu mục đích hoạt động liên quan tới quyền nhân thân, trong
nhiều trường hợp, rất khó phân biệt với hội được thành lập theo luật công.
Chẳng hạn: Dự thảo Luật về hội ngày 16/09/2016 tại khoản 1, Điều 3 có định
nghĩa: “Hội là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của cá nhân, tổ chức
cùng chung mục đích; hoạt động không vì lợi nhuận; nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng theo quy định của pháp luật; góp
phần thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực
hoạt động”. Định nghĩa này không có khuynh hướng phân biệt giữa hội thành
lập theo luật công và hội thành lập theo luật tư, trừ trường hợp phân biệt với
thương hội. Vì vậy hội những bà mẹ đơn thân, hội những người chuyển đổi giới
tính, hội những người hiến tạng... được điều chỉnh bởi cùng một qui chế đối với
hội hỗ trợ bảo vệ biển đảo, hội chống xâm lược văn hóa... Cách thức điều chỉnh
này làm đơn giản hóa đi phần nào việc tiếp cận tới qui chế thành lập hội, nhưng
cũng gây khó khăn hơn cho việc cá biệt hóa hội để điều chỉnh thật cụ thể.
Hợp đồng lập hội được giao kết với các thủ tục và qui trình phức tạp, nhất
là các hội mở và các loại hội có tác động lớn tới xã hội. Pháp luật thường giao
sự kiểm soát trình tự và thủ tục giao kết hợp đồng lập hội cho các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Và hội thông thường chỉ có tư cách pháp lý để được hoạt
động sau khi đã tuân thủ đúng trình tự và thủ tục giao kết. Các bước giao kết
hợp đồng lập hội có thể bao gồm:
Bước 1: Kiểm soát tính mục đích của việc thành lập hội
Bước này nếu có chỉ áp dụng đối với các hội có mục đích phi kinh tế.
Ngoài ra bước này còn được sử dụng để kiểm soát hoạt động đầu tư vào nước sở
19
tại để thành lập những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những người có
ý tưởng sáng lập hội phải xin phép để được vận động thành lập hội. Xét từ
phươg diện hợp đồng thì đây là bước xin phép để được tiến hành đàm phán và
giao kết hợp đồng lập hội.
Bước 2: Xây dựng và xuất trình bằng chứng của việc thống nhất ý chí
thành lập hội
Thông thường dù có hay không điều chỉnh cụ thể các thỏa thuận tiền lập
hội, thì hầu hết các hệ thống pháp luật đều quan tâm tới việc những người có
sáng kiến thành lập hội đưa ra bằng chứng về việc thống nhất ý chí thành lập
hội. Bước này thực chất là để kiểm soát việc đáp ứng các điều kiện thành lập hội
như điều kiện về sự biểu lộ và thống nhất ý chí, điều kiện về chủ thể giao kết
hợp đồng lập hội, điều kiện về động cơ, mục đích của việc thành lập hội,và các
diều kiện khác tùy thuộc vào nhu cầu kiểm soát của nước sở tại [9]. Các bằng
chứng này tập hợp lại thành bộ hồ sơ lập hội hay hồ sơ xin đăng ký kinh doanh
mà thông qua đó bước đầu người ta có thể hình dung được hình hài của hội và
hệ quả của hội đối với xã hội [10]. Trong bộ hồ sơ này luôn phải có điều lệ của
hội. Văn bản này được ví như “hiến pháp” của hội, có nghĩa là văn bản chứa
đựng các nguyên tắc và qui tắc cao nhất liên quan tới việc thành lập và hoạt
động của hội. Ngoài ra trong bộ hồ sơ này còn phải có các giấy tờ, tài liệu chứng
minh nhân thân của các thành viên sáng lập hội. Pháp luật của mỗi nước có thể
yêu cầu thêm các giấy tờ, tài liệu khác liên quan tới phương hướng hoạt động,
tài sản, trụ sở... Bộ hồ sơ này gửi kèm theo đơn xin thành lập hội mà thực chất là
văn bản yêu cầu cho phép hay đăng ký thành lập hội cùng với các yêu cầu khác
liên quan có thể như lĩnh vực, khu vực hoạt động.
Bước 3: Chính thức hóa giao kết hợp đồng lập hội
Sau khi bộ hồ sơ thành lập hội được chấp nhận bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, nhiều hệ thống pháp luật cho rằng hội đã chính thức được thành
lập, nhưng có một số hệ thống pháp luật qui định những thành viên của hội
trong tương lai phải cùng nhau tổ chức đại hội thành lập để thông qua chính thức
điều lệ và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Sau đó dù như thế
20
nào hội cũng phải công khai hóa việc thành lập hội trước cộng đồng bằng cách
bố cáo thành lập để mọi thành viên trong xã hội được biết. Pháp luật Việt Nam
hiện nay qui định cả hai cách thức trên cho hai loại hội có hoặc không có mục
đích kinh tế. Đối với hội có mục đích kinh tế, Điều 47 (khoản 2), Điều 110
(khoản 2), và Điều 172 (khoản 2) của Luật Doanh nghiệp năm 2014 qui định các
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh có tư cách
pháp nhân kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, có nghĩa
là kể từ khi kết thúc bước 2 trong trình tự giao kết hợp đồng lập hội. Với trường
hợp này, bước 3 chỉ dành cho việc công khai hóa công ty. Trong khi đó Nghị
định số 45/2010/NĐ- CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về Tổ chức,
hoạt động và quản lý hội qui định: Trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày
quyết định cho phép thành lập hội có hiệu lực, ban vận động thành lập hội phải
tổ chức đại hội; Nếu quá thời hạn trên không tổ chức đại hội, thì trong thời hạn
mười lăm ngày kể từ ngày hết thời hạn tổ chức đại nói trên, ban vận động thành
lập hội có văn bản gửi cơ quan nhà nước đã quyết định cho phép thành lập hội
đề nghị gia hạn, và thời gian gia hạn không quá ba mươi ngày, nếu quá thời gian
được gia hạn mà không tổ chức đại hội thì quyết định cho phép thành lập hội hết
hiệu lực (Điều 10). Các qui định này cho thấy sau khi hồ sơ lập hội đối với hội
không có mục tiêu lợi nhuận được chấp nhận, thì việc thành lập hội về thực chất
mới được tiến hành dù trước đó việc thống nhất ý chí đã có minh chứng đầy đủ.
1.3. Hiệu lực của hợp đồng lập hội
1.3.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lập hội
Hợp đồng lập hội cũng giống như bất kể loại hợp đồng nào đều phải đáp
ứng các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Việc không đáp ứng các một trong
các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu hoặc có
thể bị vô hiệu.
Luật La Mã cổ đại cho đến luật dân sự hiện đại của các hệ thống pháp luật
bắt nguồn từ Luật La Mã đều xây dựng các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
dựa trên các yếu tố căn bản để hình thành hợp đồng, bao gồm: Yếu tố ưng thuận,
yếu tố năng lực, yếu tố đối tượng và yếu tố nguyên nhân của nghĩa vụ hợp đồng
21
[4, tr. 303 – 304; 8]. Bởi vậy các nghiên cứu dưới đây về các điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng lập hội được trình bày theo thứ tự các yếu tố này.
Trước hết xét tới điều kiện về sự ưng thuận của hợp đồng lập hội. Hợp
đồng lập hội có thể là hợp đồng song phương hoặc hợp đồng đa phương. Song
các bên giao kết hợp đồng này phải biểu lộ rõ ràng sự ưng thuận về việc thành
lập hội mà họ là thành viên, và về các điều kiện của hội. Sự ưng thuận được xem
là được đáp ứng nếu được các thành viên thể hiện ý chí giao kết hợp đồng theo
đúng trình tự thủ tục do pháp luật qui định mà không có tì ố. Việc nhầm lẫn, lừa
dối hoặc đe dọa là các tì ố của sự ưng thuận mà có thể dẫn tới hợp đồng lập hội
bị vô hiệu. Hiểu một cách đơn giản, các tì ố này là những trường hợp thể hiện sự
bất ưng thuận của một hoặc một số thành viên nào đó nếu như họ không bị
nhầm lẫn, lừa dối hay đe dọa. Tuy nhiên việc xử lý vô hiệu hợp đồng lập hội có
một số điểm khác biệt so với những loại hợp đồng khác mà được nghiên cứu ở
tiểu mục dưới đây.
Pháp luật của hầu hết các nước đều có qui định khác nhau về điều kiện
năng lực (hay chủ thể) của hợp đồng lập hội dựa trên việc phân loại hợp đồng
lập hội hướng tới thành lập ra loại hội nào. Ví dụ đối với công ty hợp danh, tất
cả các thành viên hợp danh đều phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ bởi loại
công ty này là công ty đối nhân, có nghĩa là các thành viên xem trong tới nhân
thân của nhau mà tin tưởng lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh. Trong khi đó
các hội được thành lập theo luật công, vấn đề độ tuổi hay năng lực hành vi
không được đặt ra mà tùy thuộc vào điều lệ của hội, chẳng hạn như hội đồng
đội, đoàn thanh niên, đội thiếu niên, hội bảo vệ những người khuyết tật, hội
khám chữa bệnh miễn phí… Tuy nhiên ở đây cần có sự phân biệt phần nào đó
liên quan tới việc hợp đồng tạo lập nên hội và hợp đồng gia nhập hội. Thông
thường việc tạo lập nên hội là một công việc hết sức nghiêm túc và cẩn trọng
bởi sự ảnh hưởng của nó tới xã hội và tới bản thân các thành viên của hội. Vì
vậy pháp luật cần kiểm soát năng lực hành vi của người giao kết hợp đồng tạo
lập nên hội.
22
Đối tượng của hợp đồng lập hội nói chung là sự liên kết giữa các hội viên
vì lợi ích vật chất hoặc tinh thần của chính họ hoặc của một cộng đồng nhất
định. Tuy nhiên hợp đồng lập hội không thể chống lại trật tự công cộng và đạo
đức xã hội, ví dụ không thể thành lập hội để chống lại tổ quốc, và cũng không
thể thành lập hội để quảng bá hình ảnh khiêu dâm trẻ em… Dự thảo Luật về hội
ngày 16/09/2016 của Việt Nam có đặt ra nhiều điều cấm liên quan tới thành lập
hội như cấm lợi dụng việc thành lập, tổ chức, hoạt động hội nhằm:
“a) Làm phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, lợi ích của Nhà nước; đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng; truyền thống văn hóa và bản sắc
dân tộc; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;
b) Gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc;
c) Tuyên truyền trái chính sách, pháp luật của Nhà
nước; gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh c ủa đất nước, danh
nhân, anh hùng dân tô ̣c;
d) Rửa tiền, tài trợ khủng bố” (Điều 9, khoản 3).
Với kỹ thuật lập pháp khác hơn nhằm dành phần nhiều hơn cho giải thích
tư pháp, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 (Điều thứ 1202) qui định: “Phàm hội
phải có chủ đích hợp phép và phải lập ra để lợi chung cho mọi người đương sự”.
Qui định này được tiếp thu nguyên văn vào Bộ luật Dân sự năm 1972 của Chính
quyền Sài Gòn (cũ) tại Điều 1269. Các điều luật này được chuyển hóa nguyên
văn từ Điều 1833 của Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804.
Pháp luật nói chung của bất kỳ quốc gia nào về mặt nguyên tắc không cho
phép bất kỳ hành vi nào chống lại trật tự công và chống lại đạo đức xã hội. Liên
quan tới quyền tự do lập hội, Hiến pháp Bahrain năm 2002 tuyên bố:
“Quyền tự do lập hội và công đoàn..., nhằm các mục
tiêu hợp pháp và bằng các phương pháp hòa bình được bảo
đảm theo các qui tắc và các điều kiện được qui định bởi luật
và trong chừng mực mà các nguyên tắc cơ bản của tín
ngưỡng và trật tự công cộng không bị vi phạm. Không ai có
23
thể bị cưỡng bức gia nhập bất kỳ một hội hay một công đoàn
nào hoặc tiếp tục là một thành viên của những tổ chức đó”
(Điều 27).
Các qui định cấm như vậy có thể được thể hiện cụ thể trong các điều luật
qui định trực tiếp về hợp đồng lập hội hoặc có thể được thể hiện ở các qui định
có tính nguyên tắc chung cho hợp đồng, hành vi pháp lý hay ở các qui định
mang tính hiến pháp.
Nghĩa vụ hợp đồng phải có nguyên nhân, nguyên nhân phải hợp pháp và
nguyên nhân không được giả tạo là điều kiện có hiệu lực không thể thiếu của
hợp đồng lập nói chung và của hợp đồng lập hội nói riêng. Hợp đồng lập hội giả
tạo xuất hiện khá nhiều hiện nay ở Việt Nam, chẳng hạn thành lập một công ty
để nhận ủy thác mua bán hàng hóa nhưng thực chất là để tàng trữ trái phép
những vật cấm lưu thông, hay thành lập một công ty cung cấp dịch vụ Karaoke
nhưng thực chất là chứa gái mại dâm… Những hợp đồng này gây ảnh hưởng rất
xấu cho xã hội, do đó cần phải bị kiểm soát bởi pháp luật bằng chế định hợp
đồng vô hiệu.
1.3.2. Hợp đồng lập hội vô hiệu
Khi chống lại các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì hợp đồng vô
hiệu hoặc có thể bị vô hiệu. Các hệ thống pháp luật đều rất xem trọng chế định
pháp luật này để bảo vệ cộng đồng và bảo vệ chính những người giao kết hợp
đồng. Ngoài việc phân loại vô hiệu hợp đồng thành vô hiệu toàn bộ và vô hiệu
từng phần, khoa học pháp lý rất chú ý tới phân loại vô hiệu hợp đồng thành vô
hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối. Hợp đồng lập hội có một số đặc thù được
xét trên căn bản những vấn đề pháp lý quan trọng này.
Giống như các loại hợp đồng khác, hợp đồng lập hội có thể bị vô hiệu nếu
có tì ố của sự ưng thuận bị nại ra. Việc nại ra sự vô hiệu thuộc về đương sự. Tuy
nhiên trong nhiều trường hợp, hợp đồng lập hội có thể bị tuyên vô hiệu một
phần mà phần đó liên quan tới người giao kết yêu cầu tuyên vô hiệu bởi hợp
đồng vô hiệu hoàn toàn có nghĩa là không có hội nào được tạo lập hay nói cách
khác hội đó bị hủy trong khi các thành viên khác hoàn toàn chấp nhận hợp đồng
24
dù đã biết các tì ố của sự ưng thuận, chưa kể tới những người không liên quan
tới tì ố [9]. Ví dụ A, B, và C cùng nhau thành lập một công ty trách nhiệm hữu
hạn. C bị A lừa dối để lập nên thương hội này. C nại ra tòa yêu cầu tuyên hủy
hợp đồng lập hội này. Tòa án có thể xem xét và hủy cam kết của C với A và B
mà trong đó có cả cam kết góp vốn bằng quyền hưởng dụng một ngôi nhà.
Hành vi pháp lý là căn cứ để trở thành thành viên của hội có thể bị hủy bỏ
do vô hiệu trong trường hợp vi phạm điều kiện về năng lực giao kết hợp đồng.
Để luận giải cho vấn đề này, người ta không thể bỏ qua việc phân loại hội. Đối
với thương hội, việc qui định về độ tuổi để giao kết hợp đồng lập hội và trở
thành thành viên của hội là một việc làm thiết yếu để bảo vệ hội, các thành viên
và xã hội. Do đó pháp luật thường qui định người giao kết hợp đồng phải có
năng lực giao kết hợp đồng một cách độc lập vì vào hội có nghĩa là phải định
đoạt tài sản. Độ tuổi này có thể được qui định chung cho tất cả những người
giao kết các loại hợp đồng. Vi phạm các điều kiện này, hợp đồng lập hội có thể
bị vô hiệu tùy thuộc vào sự nại ra của đương sự hoặc của tòa án. Tuy nhiên
người không hoặc chưa có năng lực giao kết hợp đồng lập hội có thể trở thành
thành viên của công ty bởi thừa kế theo di chúc hoặc theo luật định. Đây là các
qui định chung cho các thương hội. Tuy nhiên đối với các loại công ty đối nhân,
người giao kết hợp đồng để trở thành thành viên hợp danh của công ty phải có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ và đáp ứng đầy đủ các điều kiện để trở thành
thương nhân thể nhân vì thành viên này có tư cách thương nhân. Người hưởng
thừa kế của thành viên này chỉ có thể trở thành thành viên hợp danh của công ty
nếu được tất cả các thành viên hợp danh khác đồng ý. Nếu không có sự nhất trí
đó thì người này chỉ có thể trở thành thành viên góp vốn của công ty, có nghĩa
trở thành người không có tư cách thương nhân, không là đại diện theo pháp luật
của công ty và chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn tới phần vốn góp của mình vào
công ty.
Hợp đồng lập hội bị vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được
hoặc đối tượng bị cấm hay hạn chế lưu thông. Vô hiệu này thường là vô hiệu
tuyệt đối. Hợp đồng lập hội có thể tạo ra nghĩa vụ đóng góp tài sản. Nếu tài sản
25
này là những vật bị cấm hoặc hạn chế lưu thông thì vấn đề hợp đồng vô hiệu bị
đặt ra. Nếu nghĩa vụ tạo ra bởi hợp đồng lập hội là một công việc nhưng công
việc ấy bị cấm, chẳng hạn như mại dâm, thì hợp đồng bị vô hiệu. Hợp đồng
trong trường hợp này có thể vô hiệu toàn bộ hay vô hiệu từng phần phụ thuộc
vào tài sản đó hay công việc đó ảnh hưởng tới một phần hay toàn bộ hợp đồng.
Hợp đồng lập hội bị vô hiệu tuyệt đối nếu là hợp đồng giả tạo để che đậy
một hành vi khác. Việc tuyên hợp đồng vô hiệu có nghĩa là hủy bỏ hội đã lập
bởi hợp đồng đó.
Một trường hợp đặc trưng quan trọng nữa của hợp đồng lập hội vô hiệu là
hợp đồng lập hội vi phạm hình thức hợp đồng lập hội. Nếu pháp luật đòi hỏi hội
phải đăng ký thành lập, thì hợp đồng lập hội bị vô hiệu tuyệt đối do không tuân
thủ đòi hỏi đó.
Việc hủy bỏ hội do vô hiệu được xem như hội chưa bao giờ được lập, và
có hậu quả pháp lý như hậu quả đối với các loại hợp đồng khác bị hủy do vô
hiệu.
1.3.3. Đặc điểm riêng về hiệu lực của hợp đồng lập hội
Như trên đã phân tích hợp đồng lập hội là hợp đồng vì lợi ích của người
thứ ba. Đây là trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực tương đối của hợp
đồng. Người thứ ba trong trường hợp này chính là hội được tạo lập bởi sự thống
nhất ý chí của những người giao kết hợp đồng lập hội. Những người giao kết
hợp đồng lập hội không trở thành trái chủ và thụ trái của nhau mà trở thành trái
chủ và thụ trái của hội [9], có nghĩa là mối quan hệ pháp lý giữa hội và các
thành viên của nó (những người giao kết hợp đồng) phát sinh.
Các hội được tạo lập bởi các hợp đồng lập hội, dù có hay không có tư
cách pháp nhân, đều không phải là một bên giao kết hợp đồng mà là hệ quả của
sự giao kết hợp đồng giữa các bên giao kết hợp đồng với nhau. Hội có được các
quyền và bị ấn định các nghĩa vụ trong mối quan hệ với các thành viên của nó
(những người giao kết hợp đồng). Thành viên của hội có quyền lợi trong hội
được đổi lại bởi người này đã giao kết hợp đồng lập hội. Đồng thời thành viên
cũng có nghĩa vụ với hội. Trong thương hội các quyền và nghĩa vụ được ấn định
26
rõ ràng bởi pháp luật. Thành viên có nghĩa vụ hùn vốn vào thương hội. Đổi lại
người này có quyền tham dự quản trị hội và quyền được chia lợi nhuận từ hội.
1.4. Nội dung của hợp đồng lập hội
1.4.1. Các điều kiện bắt buộc của hợp đồng lập hội
Hợp đồng lập hội như trên đã định nghĩa là một sự thỏa thuận của hai hay
nhiều người cùng nhau đóng góp công sức, tri thức, tiền bạc hay các lợi ích vật
chất khác để cùng nhau hoạt động nhằm các mục tiêu chung và phải chịu trách
nhiệm về các hoạt động đó theo qui định của pháp luật. Định nghĩa này cho thấy
hợp đồng lập hội dù có hay không có mục đích kinh tế đều có sự đóng góp của
các thành viên vì mục tiêu chung và đều phải chịu trách nhiệm về các hoạt động
của hội.
Thế nhưng đối với hợp đồng lập hội có mục đích kinh tế, theo mô hình
của Pháp, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 đã đưa ra định nghĩa: “Khế ước lập
hội là khế ước do hai hay nhiều người đồng ý xuất tài sản chung nhau để lấy lợi
mà chia nhau” (Điều thứ 1200). Định nghĩa bị cắt xén này không nêu đầy đủ
được các dấu hiệu liên quan tới nghĩa vụ và trách nhiệm, trong khi Bộ luật Dân
sự Pháp năm 1804 định nghĩa:
“Hội do hai hay nhiều người thành lập trên cơ sở thỏa
thuận bằng hợp đồng sử dụng tài sản hoặc công nghệ của
mình vào việc kinh doanh chung nhằm chia lãi hoặc thu lợi
nhuận. Trong những trường hợp do pháp luật qui định, hội có
thể do một người thành lập. Các thành viên của hội cam kết
cùng chịu lỗ” (Điều 1832).
Các định nghĩa này làm nổi bật một số điều kiện bắt buộc của hợp đồng
lập hội dù là hội có hay không có mục đích kinh tế. Các điều kiện đó bao gồm:
(1) Hình thức và tên gọi của hội; (2) mục tiêu hoạt động của hội; (3) sự đóng
góp của hội viên. Ngoài ra để kiểm soát hội, pháp luật luôn luôn yêu cầu sự thỏa
thuận về (4) trụ sở chính của hội và (5) tên và địa chỉ của các sáng lập viên như
những điều kiện bắt buộc cùng với các điều kiện trên.
27
Tuy nhiên pháp luật của nhiều nước yêu cầu hợp đồng lập hội phải qui
định khá nhiều điều kiện bắt buộc có lẽ do sự ảnh hưởng lớn của hội tới đời
sống chung của cộng đồng. Việc yêu cầu nhiều điều kiện bắt buộc một mặt giúp
cho các hội viên sáng lập có suy nghĩ cẩn trọng, chín chắn về hội trong tương
lai, mặt khác giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dễ dàng hơn trong việc
kiểm soát tổ chức và hoạt động của hội. Theo khuynh hướng này, Dự thảo Luật
về hội ngày 16/09/2016 của Việt Nam qui định điều lệ hội bao gồm những nội
dung chính sau đây:
“1. Tên và biểu tượng (nếu có) của hội;
2. Tôn chỉ, mục đích, phạm vi và lĩnh vực hoạt động
của hội;
3. Địa chỉ trụ sở của hội;
4. Quyền, nghĩa vụ của hội;
5. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội;
6. Tiêu chuẩn hội viên; quyền, nghĩa vụ của hội viên;
việc gia nhập và ra khỏi hội;
7. Cơ cấu tổ chức của hội; bầu, miễn nhiệm, nhiệm vụ,
quyền hạn của ban lãnh đạo, ban kiểm tra và các chức danh
lãnh đạo của hội; tiêu chuẩn, độ tuổi của người đại diện theo
pháp luật của hội;
8. Hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đổi tên, giải thể hội;
9. Tài sản, tài chính, hội phí và việc quản lý, sử
dụng tài sản, tài chính của hội; thanh quyết toán tài sản, tài
chính của hội;
10. Khen thưởng, kỷ luật và giải quyết tranh chấp,
khiếu nại trong nội bộ hội;
11. Sửa đổi, bổ sung điều lệ hội;
12. Nội dung khác phù hợp với quy định của pháp
luật” (Điều 16).
28
Dự thảo này còn kiểm soát các điều kiện thành lập hội, có nghĩa là nhấn
mạnh hơn nữa các điều kiện bắt buộc của hợp đồng lập hội. Các điều kiện buộc
phải hội đủ đó bao gồm: (1) Tên của hội theo quy định của luật; (2) Tôn chỉ,
mục đích của hội phù hợp với quy định của pháp luật; (3) Phạm vi, lĩnh vực hoạt
động của hội được xác định rõ theo ngành, nghề, lĩnh vực quản lý nhà nước; (4)
Có trụ sở đặt tại Việt Nam; (5) Có dự thảo điều lệ hội; (6) Có từ 03 sáng lập
viên trở lên (Sáng lập viên là công dân Việt Nam phải là người không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 8 của Luật này, từ đủ 18 tuổi trở lên, có sức khỏe
và uy tín trong lĩnh vực hội dự kiến hoạt động; Sáng lập viên là pháp nhân phải
là tổ chức không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của Luật
này); (7) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác; (8) Không thuộc trường
hợp bị cấm lập hội theo pháp luật (Điều 13, Dự thảo Luật về hội ngày
16/09/2016 của Việt Nam).
Việc kiểm soát các điều kiện của hợp đồng nói chung và của hợp đồng lập
hội nói riêng không chỉ nhằm mục đích quản lý nhà nước đối với hội, mà trước
hết nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của hội và của các hội viên trong trường
hợp giải quyết tranh chấp pháp sinh. Vì vậy khi qui định về các điều kiện bắt
buộc của hợp đồng, người ta chỉ nên qui định những điều kiện mà nếu thiếu
chúng thì khó có thể định danh được hợp đồng và khó có thể xác định được mối
quan hệ pháp lý giữa các bên. Luật hợp đồng là một luật hỗ trợ trong việc giải
thích cho ý chí của các bên giao kết trong trường hợp họ không qui định hoặc
qui định không rõ nghĩa những điều kiện của hợp đồng [4, tr. 135 - 136]. Vì vậy
những điều kiện nào có luật hỗ trợ thì không nên qui định chứng là những điều
kiện bắt buộc trong hợp đồng. Việc qui định ít điều kiện bắt buộc của hợp đồng
sẽ làm đơn giản hóa việc giao kết hợp đồng và thúc đẩy giao lưu dân sự. Đơn
giản hóa việc giao kết hợp đồng lập hội sẽ góp phần thúc đẩy tự do lập hội. Luật
Công ty Nhật Bản năm 2006 đòi hỏi rất ít điều kiện bắt buộc đối với hợp đồng
thành lập công ty cổ phần (một hình thức hội phức tạp nhất) phải thể hiện trong
điều lệ công ty khi thành lập. Các điều kiện ấy bao gồm: (1) Mục đích; (2) tên
29
thương mại; (3) nơi đóng trụ sở chính; (4) giá trị tài sản được đóng góp khi
thành lập; (5) tên và địa chỉ của các sáng lập viên (Điều 27).
Điều kiện về hình thức và tên gọi của hội là điều kiện không thể thiếu,
nhất là đối với các thương hội bởi mỗi hình thức mang lại mối quan hệ pháp lý
khác nhau giữa các hội với nhau và giữa hội viên với hội. Ví dụ trong công ty
hợp danh (general partnership), tất cả các thành viên của nó đều có tư cách
thương nhân, đều là đại diện theo pháp luật của công ty và đều phải chịu trách
nhiệm liên đới vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty dù pháp luật có hay
không qui định về những vấn đề này. Trong khi đó, các thành viên của công ty
cổ phần không có tư cách thương nhân và chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn đối
với các khoản nợ của công ty tới phần vốn góp vào công ty dưới dạng cổ phần.
Điều kiện mục tiêu hoạt động của hội là không thể thiếu bởi đối với các
hội có hay không có mục đích kinh tế thì đều phải làm rõ lĩnh vực hoạt động của
mình để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm soát nhằm bảo đảm trật tự
công cộng, đạo đức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba…
Điều kiện về sự đóng góp tài sản, công sức, tri thức của hội viên cần phải
được làm rõ để bảo đảm giải quyết các tranh chấp nếu xảy ra trong tương lai.
Một hội được thành lập dù có hay không nhằm mục đích kinh tế đều cần có tài
sản để hoạt động, chẳng hạn như vốn để kinh doanh (đối với các hội có mục
đích kinh tế), chi phí để hoạt động (đối với các hội không nhằm mục đích kinh
tế). Việc đóng góp để thành lập hội có các qui chế pháp lý rất khác nhau tương
ứng với các phương thức đóng góp. Rõ ràng đóng góp bằng công sức tạo ra mối
quan hệ pháp lý khác với sự đóng góp bằng tài sản, bằng tri thức; đóng góp bằng
tài sản tạo ra mối quan hệ pháp lý khác với sự đóng góp bằng công sức, bằng tri
thức. Ngay trong đóng góp bằng tài sản khác nhau cũng mang lại những qui chế
pháp lý khác nhau do tính chất của loại tài sản đó quyết định, ví dụ đóng góp
bằng vật hữu hình, bằng tiền, bằng quyền hưởng dụng, bằng quyền sở hữu trí
tuệ, bằng sản nghiệp thương mại có các vấn đề pháp lý khác nhau [2, tr. 52 –
60].
30
Điều kiện về trụ sở chính của hội là một điều kiện rất cần liên quan tới
mối quan hệ giữa hội và quốc gia bởi trụ sở chính thường là một yếu tố để xác
định quốc tịch của hội và là nơi để tống đạt các giấy tờ cần thiết và xác định các
sự kiện pháp lý.
Điều kiện về tên và địa chỉ của các sáng lập viên là thiết yếu bởi chính họ
là những người giao kết hợp đồng lập hội. Cho nên họ phải chịu các trách nhiệm
liên quan sự bình thường về tổ chức và hoạt động của hội.
1.4.2. Các điều kiện khác của hợp đồng lập hội
Ngoài các điều kiện bắt buộc, hợp đồng có thể có các điều kiện khác. Các
điều kiện khác bao gồm những gì tùy thuộc vào sự lựa chọn của những người
giao kết hợp đồng, bởi việc thiếu các điều kiện này không ảnh hưởng gì tới hiệu
lực của hợp đồng. Nếu xảy ra tranh chấp ở những điều kiện thiếu đó, thì đã có
luật hỗ trợ giải thích. Thậm chí đại diện theo pháp luật của hội cũng có thể được
giải thích theo luật. Tuy nhiên việc xác định người đại diện bởi luật có nhiều
điểm bất lợi cho hội. Ví dụ pháp luật nhiều nước giải thích nếu hội không có
một người đại diện hay quản lý, thì mỗi trong số họ đều được coi như đại diện
cho tất cả các vấn đề của hội. Do đó một hội được thành lập nghiêm túc và cẩn
trọng luôn có sự suy xét để qui định về người đại diện theo pháp luật, thậm chí
qui định cả về quản trị hội. Hầu hết các hội được thành lập cẩn trọng đều suy xét
tới khía cạnh pháp lý liên quan. Trong trường hợp này việc nhờ cậy tới luật sư
có ý nghĩa rất quan trọng.
Các điều kiện không bắt buộc này có thể bao gồm, tuy nhiên tùy hội có
mục đích kinh tế hay không để khi giao kết người ta lựa chọn các điều kiện thích
hợp: (1) Vốn điều lệ; tổng số cổ phần, loại cổ phần và mệnh giá từng loại cổ
phần đối với công ty cổ phần; (2) quyền và nghĩa vụ của hội viên; (3) cơ cấu tổ
chức quản lý của hội; (4) nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội; (5) người đại
diện theo pháp luật của hội; (6) thể thức thông qua quyết định của hội; (7)Tiêu
chuẩn hội viên; quyền, nghĩa vụ của hội viên; việc gia nhập và ra khỏi hội; (8)
bầu, miễn nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo, ban kiểm tra và các
chức danh lãnh đạo của hội; (9) tiêu chuẩn, độ tuổi của người đại diện theo pháp
31
luật của hội; (10) nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ; (11) căn cứ, phương
pháp xác định thù lao, tiền lương và thưởng trong nội bộ hội; (12) những trường
hợp hội viên có quyền nhượng lại phần hội; (13) nguyên tắc phân chia lợi nhuận
sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh (đối với hội có mục đích kinh tế); (14) các
trường hợp giải thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý hội; (15) thể thức sửa
đổi, bổ sung điều lệ của hội; (16) quyền và nghĩa vụ của hội; (17) hợp nhất, sáp
nhập, chia, tách, đổi tên hội; (18) tài sản, tài chính, hội phí và việc quản lý, sử
dụng tài sản, tài chính của hội; (19) thanh quyết toán tài sản, tài chính của hội;
(20) khen thưởng, kỷ luật đối với các hội viên...
Việc qui định các điều kiện bắt buộc và các điều kiện không bắt buộc nói
trên trong văn bản hợp đồng lập hội hay điều lệ hội tùy theo yêu cầu của pháp
luật đối với việc đệ trình và lưu giữ hồ sơ thành lập hội. Nhiều hệ thống pháp
luật yêu cầu trước khi thiết lập điều lệ hội những người sáng lập hội phải ký thỏa
thuận hay hợp đồng lập hội mặc dù hay loại văn bản này đều thể hiện cụ thể các
điều kiện của hợp đồng lập hội. Cũng có thể một hệ thống pháp luật yêu cầu một
loại hội nào đó phải thiết lập cả hai văn bản nói trên trong khi chỉ yêu cầu thiết
lập điều lệ cho một loại hội nào đó tùy thuộc vào nhu cầu kiểm soát hội của hệ
thống pháp luật đó.
1.5. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội
1.5.1. Các nguyên tắc nền tảng của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội
Khi nói tới vấn đề lập hội, người ta không thể không nói tới quyền tự do
lập hội. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay khi nói tới thành lập công ty người ta
nghĩ ngay tới quyền tự do kinh doanh mặc dù hội được chia thành hội có mục
đích kinh tế (các công ty) và hội không có mục đích kinh tế. Đây là các nguyên
tắc nền tảng của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội. Vậy vấn đề đặt ra là
quyền tự do kinh doanh có nằm trong quyền tự do lập hội không, hay chúng là
hai quyền riêng biệt? Để trả lời câu hỏi này không thể không khảo sát những nội
dung chính của cả hai quyền này.
Tự do lập hội có ý nghĩa rất đơn giản là hành vi có bởi sự tự do ý chí của
các cá nhân nhằm liên kết thành một nhóm có tổ chức [1 , tr. 8]. Vậy có thể hiểu
32
đơn giản hơn rằng tự do lập hội là tự do giao kết hợp đồng tạo thành một tổ chức
của những cá nhân. Cả ở phương diện triết học, phương diện kinh tế, văn hóa, xã
hội, cũng như ở phương diện pháp lý, Amy Gutmann cho rằng: “Quyền tự do
lập hội (Freedom of Association) có bản chất gia tăng của một phương tiện thu
hút sự tham gia của mọi người vào hoạt động từ thiện, thương mại, công nghiệp,
giáo dục, y tế, chung sống, thực hành tín ngưỡng, chuyên môn, âm nhạc và nghệ
thuật, vui chơi giải trí và thể thao” [23, p. 4]. Như vậy có thể thấy quyền tự do
lập hội là nguyên tắc, là nền tảng triết lý chung của hội hay hợp đồng lập hội mà
không kể hội đó có phải là hội nhằm mục đích kinh tế hay không. Trong cuốn
hướng dẫn người lao động lập hội và thương lượng tập thể có giải thích khái
niệm quyền tự do lập hội đơn giản như sau: “Tự do lập hội có nghĩa là sự cho
phép những người lao động tạo lập và gia nhập công đoàn, những hiệp hội và
những hội đồng hay những ủy ban của người lao động theo sự lựa chọn của họ.
Mục đích là có thông tin hai chiều giữa quản lý và những người lao động” [30,
p.1.]. Qua các trích dẫn này còn có thể thấy quyền tự do lập hội là nền tảng triết
lý không chỉ của hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định, mà còn của hợp đồng
được giao kết giữa một thành viên gia nhập một hội nhất định với chính hội đó.
Quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp năm 2013 đẩy lên ở một mức rất
cao rằng: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm” (Điều 33). Nguyên tắc hiến định này được xếp cùng với
quyền tự do lập hội. Tuy nhiên quyền tự do kinh doanh là một quyền có nhận
thức không rõ ràng về nội hàm của nó. Luật thực định đã từng qui định cụ thể về
quyền này, nhưng không nhận được sự nhất trí cao về nội dung và nay đã không
còn xuất hiện trong các văn bản pháp luật mới được ban hành. Bộ luật Dân sự
năm 2005 (đã bị thay thế) qui định tại Điều 50 rằng:
“Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng
và được pháp luật bảo vệ.
Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành
nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng,
33
thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của
pháp luật”.
Điều luật này nói tới các nội dung chủ yếu của quyền tự do kinh doanh.
Theo đó, quyền tự do kinh doanh bao hàm trong nó các quyền như: (1) Tự do
thành lập công ty; (2) Tự do lựa chọn việc tiến hành các hành vi thương mại; (3)
Tự do do hợp đồng; và (4) Tự do mua bán sức lao động. Các quyền tự do căn
bản được bao hàm trong quyền tự do kinh doanh để người kinh doanh có thể
hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu một trong các quyền đó, thì hoạt động kinh
doanh không thể tiến hành. Thế nhưng về mặt lý luận, GS. TS Mai Hồng Quỳ
cho rằng:
“Quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả năng hành
động, khả năng được lựa chọn và quyết định, một cách có ý
thức của cá nhân hay doanh nghiệp về các vấn đề liên quan
đến và trong hoạt động kinh doanh; chẳng hạn như tự do
quyết định các vấn đề khi thành lập doanh nghiệp, lựa chọn
qui mô và ngành nghề kinh doanh; lựa chọn địa bàn kinh
doanh; tự do hợp đồng, tự do lựa chọn đối tác, bạn hàng
trong kinh doanh; tự do lựa chọn cơ chế giải quyết tranh
chấp…vv.” [17, tr 54].
Định nghĩa này có nhiều khiếm khuyết trong việc hiểu các khái niệm của
khoa học pháp lý như “quyền tự do”, “doanh nghiệp”…, trong việc xem xét nội
hàm quá rộng nhưng thiếu thành tố chính của tự do kinh doanh. Định nghĩa này
đã bao trùm toàn bộ lĩnh vực hoạt động kiếm sống của tư nhân, có lẽ khó có thể
phân biệt nó với các quyền tự do khác như tự do hợp đồng, tự do lập hội, tự do
định đoạt của các chủ thể của luật tư… Định nghĩa này khá giống với định nghĩa
được đưa ra bởi Bùi Ngọc Cường trong luận án tiến sĩ của ông mà đã được bảo
vệ rất lâu trước khi định nghĩa của GS. TS Mai Hồng Quỳ xuất hiện trong sách
chuyên khảo. Định nghĩa của nghiên cứu sinh Bùi Ngọc Cường như sau:
“Theo nghĩa chủ quan hay nhìn nhận dưới góc độ
quyền chủ thể: quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả
34
năng hành động một cách có ý thức của cá nhân hay pháp
nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo
nghĩa này, quyền tự do kinh doanh bao hàm những khả năng
mà cá nhân hay pháp nhân có thể xử sự như: tự do đầu tư
tiền vốn để thành lập doanh nghiệp; tự do do chọn mô hình
tổ chức kinh doanh; tự do lựa chọn đối tác để thiết lập quan
hệ kinh tế, tự do cạnh tranh, tự định đoạt trong việc giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh…”
[12, tr. 13].
Nghĩa của quyền tự do kinh doanh rất rộng trong định nghĩa nói trên. Bùi
Ngọc Cường cho rằng: “Những khả năng này là thuộc tính tự nhiên của cá nhân
(hay pháp nhân) chứ không phải do Nhà nước ban tặng”. Khả năng này theo ông
phải được nhà nước pháp luật hóa mới có thể trở thành hiện thực, vì vậy theo
nghĩa khách quan, quyền tự do kinh doanh là một chế định pháp luật qui định về
các quyền tự do nói trên [12, tr. 13- 14].
PGS. TS Ngô Huy Cương xác định rõ và cụ thể các thành tố của quyền tự
do kinh doanh bao gồm:
“Nói đơn giản, quyền tự do kinh doanh (freedom of
enterprise) bao gồm: quyền tự do trở thành thương nhân;
quyền tự do tạo lập doanh nghiệp; quyền tự do lựa chọn
ngành nghề kinh doanh; quyền tự do lựa chọn qui mô kinh
doanh; quyền tự do quản trị và vận hành doanh nghiệp;
quyền tự do thuê mướn và sử dụng lao động; và quyền tự do
lựa chọn nơi và phương thức cung cấp sản phẩm và dịch vụ
của thương nhân. Gắn liền với các quyền tự do này là quyền
chống lại các hành vi cấm đoán hoặc gây cản trở những
quyền tự do nói trên” [5, tr. 28].
Trong các thành tố trên thì thành tố “quyền tự do trở thành thương nhân là
quan trọng nhất” có tính chất nền tảng bởi các thành tố sau đó là phái sinh. Cần
phải hiểu thương nhân ở đây bao gồm cả thương nhân thể nhân và thương nhân
35
pháp nhân. Còn doanh nghiệp là tài sản của thương nhân dùng cho hoạt động
thương mại [5, tr. 22]. Qua định nghĩa này có thể hiểu quyền tự do lập hội là
một quyền con người tạo ra nền tảng pháp lý cho quyền tự do kinh doanh, thực
chất là “quyền tự do trở thành thương nhân”; còn các quyền thành tố khác trong
quyền tự do kinh doanh chỉ là phái sinh nhằm bảo đảm cho hoạt động của
thương nhân có hiệu quả. Quyền tự do trở thành thương nhân là một lẽ thông
thường, nhưng khó có thể có nổi trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước
kia ở Việt Nam. Đó là lý do tại sao quyền tự do kinh doanh lại trở thành một
quyền được nhắc tới nhiều ở Việt Nam hiện nay [10].
1.5.2. Cấu trúc và nguồn của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội
Phân loại hội cho thấy hội là một phương thức quan trọng trong sinh hoạt
sống của con người và xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy
nó là đối tượng điều chỉnh của cả luật công và luật tư. Thông thường luật công,
nhất là luật hiến pháp thường xác định nguyên tắc hiến định ghi nhận quyền tự
do lập hội với tính cách là một quyền con người. Nguyên tắc hiến định này tạo
ra cơ sở pháp lý cho các qui định của các ngành luật khác.
Quyền tự do theo nguyên tắc này thường được hiểu bao gồm hai mặt: một
là tự do lựa chọn; và hai là tự do chống lại những cấm đoán hoặc gây cản trở tới
tự do lựa chọn [5, tr. 22]. Căn cứ vào đó luật tư qui định về nguồn gốc hợp đồng
của hội. Tuy nhiên ngay bản thân hội có mục đích kinh tế lại được chia thành
hai loại là hội dân sự (chuyên tiến hành các hành vi dân sự) và hội thương mại
(chuyên tiến hành các hành vi thương mại) ở những hệ thống pháp luật có sự
phân biệt giữa luật dân sự và luật thương mại. Do đó Bộ luật Dân sự chỉ qui
định về các qui định chung nhất về hội và hội dân sự; còn các qui định riêng về
hội thương mại do Bộ luật Thương mại qui định. Thực tế lịch sử pháp luật Việt
Nam diễn ra đã để lại nhiều tri thức và kinh nghiệm quí báu về xây dựng Bộ luật
Dân sự liên quan tới hợp đồng lập hội. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 được
xây dựng trên căn bản không có sự phân biệt giữa luật dân sự và luật thương
mại. Do đó Bộ luật này có Chương thứ IX nói về khế ước lập hội mà tại đó qui
định luôn cả các hình thức thương hội. Bộ luật Dân sự Trung Kỳ năm 1936 lại
36
có khuynh hướng tách bạch giữa luật dân sự và luật thương mại. Bộ luật Dân sự
năm 1972 của Chính quyền Sài Gòn (cũ) vẫn giữ nguyên khuynh hướng này nên
có qui định liên tiếp bốn điều luật như sau:
“Điều thứ 1264. – Khế ước lập hội là khế ước theo đó
hai hay nhiều người đồng ý góp công, góp của để hoạt động
với mục đích kiếm được lời cùng chia nhưng nếu thua cùng
chịu lỗ.
Điều thứ 1265. – Hội đoàn thành lập như trên có tính
cách dân sự hay thương sự tùy theo mục tiêu của hội đoàn là
những hành vi dân sự hay hành vi thương mại.
Điều thứ 1266. – Tuy nhiên, hội đoàn thành lập dưới
một trong những hình thức dưới đây đều là hội buôn, bất kể
mục tiêu của hội đoàn có tính cách dân sự hay thương sự:
1) công ty cổ phần,
2) công ty trách nhiệm hữu hạn.
Điều thứ 1267. – Chương này chỉ áp dụng cho hội
buôn về những điểm không trái với luật lệ thương mại”.
Các điều luật này không chỉ cho thấy việc xây dựng nguồn của pháp luật
(pháp điển hóa) phải dựa trên cơ sở phân loại hội, mà còn cho thấy cách thức
phân loại hội theo tư pháp dựa trên sự phân biệt giữa hành vi dân sự và hành vi
thương mại. Các hội có hình thức công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu
hạn đều được xem là hành vi thương mại do hình thức, nên phải là hội thương
mại không xét đến mục tiêu hoạt động có tính cách dân sự hay thương mại.
Luật công, ngoài luật hiến pháp, có vai trò định ra những tiêu chuẩn cho
các hội nói chung mà trong đó có cả hội có mục đích kinh tế nhằm bảo vệ cộng
đồng trước sự ảnh hưởng xấu của hội. Ngoài ra luật công còn có vai trò thiết lập
các chế tài hành chính và hình sự cho các hội và hành vi lập hội không đủ tiêu
chuẩn. Nhiều nước có đạo luật trong lĩnh vực luật hành chính điều tiết riêng
những hội không có mục đích kinh tế với những hạn chế rõ ràng trong chừng
mực chỉ nhằm bảo vệ trật tự công cộng và đạo đức xã hội mà không cản trở
37
quyền tự do lập hội một cách không có lý do chính đáng. Ngoài các điều cấm và
các chế tài trong Bộ luật Hình sự về những hành vi nguy hiểm liên quan tới hội
và các chế tài hành chính trong đạo luật về xử lý vi phạm hành chính, các đạo
luật khác (không kể trong lĩnh vực luật công hay luật tư) về hội có thể qui định
về tội phạm và hình phạt, và các chế tài hành chính liên quan. Việc qui định tội
phạm và hình phạt ngoài Bộ luật Hình sự giúp cho việc hiểu biết để phòng
chống các vi phạm về hội dễ dàng hơn, đồng thời giúp cho việc giải thích và áp
dụng các qui tắc của luật hình sự liên quan tới hội có hiệu quả hơn bởi gắn với
các qui tắc thực tiễn của hội.
1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng lập hội
Tranh chấp là một thực tế khách quan không thể phủ nhận có thể xảy ra
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hợp đồng lập hội là một lĩnh vực
pháp lý xảy ra nhiều tranh chấp bởi chính vai trò và ý nghĩa quan trọng của nó
trong đời sống xã hội. Tuy nhiên các tranh chấp phát sinh nó không thể xa rời
với các vấn đề của tranh chấp hợp đồng nói chung. Vì vậy nghiên cứu tranh
chấp hợp đồng lập hội phải xuất phát từ những ý niệm chung về tranh chấp hợp
đồng. Dù là vấn đề pháp lý thường nhật, nhưng để hiểu đầy đủ và định nghĩa
chính xác về tranh chấp không phải là đơn giản, ngay cả tranh chấp hợp đồng.
Giáo trình giảng dạy luật và các công trình nghiên cứu riêng của các nhà khoa
học đã đưa ra nhiều định nghĩa khái niệm tranh chấp hợp đồng, tuy nhiên cũng
chưa đầy đủ và còn nhiều ý kiến băn khoăn.
Học viện Tư pháp định nghĩa tranh chấp hợp đồng trong giáo trình dạy
thực hành nghề luật như sau:
“Tranh chấp hợp đồng là sự mâu thuẫn, bất đồng ý
kiến giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng liên quan tới
việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ
theo hợp đồng” [14, tr. 53];
và giải thích:
“Tranh chấp hợp đồng có các yếu tố sau:
38
a) Có một quan hệ hợp đồng tồn tại giữa các bên tranh
chấp;
b) Có sự vi phạm (hoặc giả thiết là vi phạm) nghĩa vụ
của một bên làm ảnh hưởng tới lợi ích của bên kia;
c) Có sự bất đồng ý kiến của các bên về sự vi phạm
hoặc xử lý hậu quả phát sinh từ sự vi phạm [14, tr. 53].
Trong lĩnh vực giảng dạy lý thuyết về hành vi thương mại mà trong đó có
hợp đồng thương mại, Giáo trình luật thương mại của Trường Đại học Luật Hà
Nội định nghĩa:
“Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng
hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá
trình thực hiện các hoạt động thương mại” [21, tr. 432].
Nhiều nhà khoa học cũng có định nghĩa khá tương đồng với nhau về tranh
chấp kinh doanh, thương mại. Chẳng hạn: TS. Phan Chí Hiếu viết:
“Tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn
hay xung đột về quyền và nghĩa vụ, lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể khi tham gia quan hệ kinh tế” [13 , tr. 98].
PGS. TS Phạm Hữu Nghị cũng cho rằng:
“Tranh chấp trong kinh doanh là mâu thuẫn hay xung
đột về quyền và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh” [16, tr. 73].
Nhận xét về các định nghĩa này, PGS. TS Ngô Huy Cương bình luận rõ
rằng các định nghĩa này mới chỉ đề cập tới các xung đột lợi ích hay quyền và
nghĩa vụ khi quan hệ hợp đồng đã hình thành, như vậy còn thiếu nhiều tranh
chấp hợp đồng khác chưa được đề cập tới, và muốn định nghĩa đầy đủ thì cần
phải phân loại tranh chấp hợp đồng như sau: (1) Căn cứ vào giai đoạn của quan
hệ hợp đồng, có thể phân loại thành tranh chấp tiền hợp đồng, tranh chấp về
thực hiện hợp đồng, và tranh chấp khi chấm dứt quan hệ hợp đồng; (2) Căn cứ
vào nội dung tranh chấp, có thể phân loại thành tranh chấp về việc hiểu hay giải
thích hợp đồng, và tranh chấp về thực hiện hợp đồng [3, tr. 58].
39
Theo đó tranh chấp hợp đồng lập hội bao gồm:
Loại thứ nhất, tranh chấp trong nội bộ của hội: Tranh chấp giữa thành
viên của hội đối với hội, giữa các thành viên của hội đối với nhau (về việc gia
nhập hội; rời khỏi hội; thực hiện quyền và nghĩa vụ trong sinh hoạt hội; chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của hội, chế độ và chính sách đãi ngộ; phân
chia tài sản còn lại của hội sau khi chấm dứt hội; đóng góp lập hội; trả chi phí
trong qui trình lập hội; tổ chức lại hội; ý nghĩa của điều lệ, hợp đồng, các văn
bản nội bộ của hội; giải thích mục tiêu, phương hướng và chính sách hoạt động
của hội; quản trị hội; bầu cử trong hội; nhân sự của hội…);
Loại thứ hai, tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
với hội trong việc cho phép hay không cho phép thành lập hội, trong việc giải
thể hội, trong việc áp đặt các chế tài khác đối với hội, trong việc can thiệp vào tổ
chức và hoạt động của hội…
Các tranh chấp thuộc loại thứ nhất là các tranh chấp luật tư. Các tranh
chấp thuộc loại thứ hai là các tranh chấp luật công. Do đó hai loại tranh chấp
này có các phương thức giải quyết không giống nhau. Ngay cả khi tranh chấp
được giải quyết tại tòa án thì cũng có sự phân biệt về thẩm quyền và tố tụng, trừ
khi tranh chấp về vi hành vi phạm tội.
Các tranh chấp loại thứ hai thường thuộc thẩm quyền của tòa hành chính
và cũng có thể giải quyết tại các cơ quan hành chính nhà nước thông qua con
đường khiếu nại, tố cáo hoặc theo qui định khác của pháp luật.
Các tranh chấp thuộc loại thứ nhất có thể lựa chọn một trong các phương
thức giải quyết tranh chấp luật tư trên nền tảng nguyên lý quyền tự do thỏa
thuận, tự định đoạt của đương sự. Các phương thức giải quyết này bao gồm: (1)
Các phương thức giải quyết tranh chấp bằng nhà nước mà có thể chia thành hai
phương thức nhỏ hơn là phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án (con đường
tư pháp) và phương thức giải quyết tranh chấp tại các cơ quan hành chính nhà
nước (con đường hành chính); (2) các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài
các cơ quan nhà nước mà theo pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ bao gồm thương
lượng, hòa giải và trọng tài thương mại. Hiện trên thế giới các phương thức giải
40
quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước có thể bao gồm: (1) Thương lượng
(negotiation); (2) Hòa giải (mediation); (3) Tiểu xét xử (minitrials); (4) Xét xử
bởi bồi thẩm đoàn giản lược (summary jury trial); (5) Trọng tài (arbitration); (6)
Hòa giải - trọng tài (mediation-arbitration); và (7) Xét xử tư (private judging) [3,
tr. 57]. Về nguyên tắc, các bên tranh chấp trong luật tư có thể lựa chọn hoặc
sáng tạo ra các hình thức giải quyết tranh chấp mới vì họ có quyền tự do thỏa
thuận và tự định đoạt, tuy nhiên còn phụ thuộc và sự hỗ trợ của nhà nước trong
việc thi hành kết quả giải quyết tranh chấp [11].
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...nataliej4
 
Tư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giang
Tư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giangTư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giang
Tư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giangjackjohn45
 
Danh mục gợi ý đề tài khóa luận
Danh mục gợi ý đề tài khóa luậnDanh mục gợi ý đề tài khóa luận
Danh mục gợi ý đề tài khóa luậnchungk09503
 
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...hieu anh
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Phap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau giaPhap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau giaHung Nguyen
 
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM nataliej4
 
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sựCác điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sựDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
 
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
 
Tư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giang
Tư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giangTư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giang
Tư pháp quốc tế pgs.ts. lê thị nam giang
 
Danh mục gợi ý đề tài khóa luận
Danh mục gợi ý đề tài khóa luậnDanh mục gợi ý đề tài khóa luận
Danh mục gợi ý đề tài khóa luận
 
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOTLuận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trườngLuận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
 
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOTLuận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
 
Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩm
Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩmPháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩm
Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩm
 
Phap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau giaPhap luat ve ban dau gia
Phap luat ve ban dau gia
 
2321nhana (2)
2321nhana (2)2321nhana (2)
2321nhana (2)
 
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAYLuận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
 
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAYLuận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
 
Đề tài: Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự theo pháp luật
Đề tài: Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự theo pháp luậtĐề tài: Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự theo pháp luật
Đề tài: Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự theo pháp luật
 
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOT
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOTLuận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOT
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOT
 
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoàiThẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
 
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
 
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sựCác điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
 

Similar to Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT

Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT (20)

Hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân, HOT
Hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân, HOTHợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân, HOT
Hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân, HOT
 
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
 
Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồngGiải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
 
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
 
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đấtLuận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mạiĐề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
 
Luan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hot
Luan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hotLuan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hot
Luan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hot
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOTLuận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Báo cáo thực tập về Thừa kế theo di chúc theo Luật dân sự 2015
Báo cáo thực tập về Thừa kế theo di chúc theo Luật dân sự 2015Báo cáo thực tập về Thừa kế theo di chúc theo Luật dân sự 2015
Báo cáo thực tập về Thừa kế theo di chúc theo Luật dân sự 2015
 
Luận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự
Luận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sựLuận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự
Luận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự
 
Luận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.docCác điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
 
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sưĐề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
 
Luận Văn Pháp Luật Việt Nam Về Hợp Đồng Cho Vay Trong Lĩnh Vực Tín Dụng Ngân...
Luận Văn Pháp Luật Việt Nam Về Hợp Đồng Cho Vay Trong Lĩnh Vực Tín Dụng Ngân...Luận Văn Pháp Luật Việt Nam Về Hợp Đồng Cho Vay Trong Lĩnh Vực Tín Dụng Ngân...
Luận Văn Pháp Luật Việt Nam Về Hợp Đồng Cho Vay Trong Lĩnh Vực Tín Dụng Ngân...
 
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật Việt Nam, 9 điểm
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật Việt Nam, 9 điểmLuận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật Việt Nam, 9 điểm
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật Việt Nam, 9 điểm
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt NamGiải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Namlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt NamGiải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
 
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 

Luận văn: Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ HỒNG PHƢƠNG HỢP ĐỒNG LẬP HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ HỒNG PHƢƠNG HỢP ĐỒNG LẬP HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60.38.01.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGÔ HUY CƢƠNG HÀ NỘI - 2017
  • 3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Nội dung cũng như các số liệu, ví dụ và trích dẫn được trình bày trong Luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác và tin cậy. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Đào Thị Hồng Phƣơng
  • 4. 4 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................5 Chương 1.....................................................................................................9 LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG LẬP HỘI ......................................................9 1.1. Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm và phân loại của hợp đồng lập hội ...9 1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa và phân loại của hội....................................9 1.1.2. Các đặc điểm của hợp đồng lập hội.........................................13 1.2. Đàm phán và giao kết hợp đồng lập hội.........................................16 1.2.1. Đàm phán hợp đồng lập hội.....................................................16 1.2.2. Giao kết hợp đồng lập hội........................................................17 1.3. Hiệu lực của hợp đồng lập hội .......................................................20 1.3.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lập hội......................20 1.3.2. Hợp đồng lập hội vô hiệu.........................................................23 1.3.3. Đặc điểm riêng về hiệu lực của hợp đồng lập hội ...................25 1.4. Nội dung của hợp đồng lập hội ......................................................26 1.4.1. Các điều kiện bắt buộc của hợp đồng lập hội..........................26 1.4.2. Các điều kiện khác của hợp đồng lập hội ................................30 1.5. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội...........................................31 1.5.1. Các nguyên tắc nền tảng của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội.......................................................................................................31 1.5.2. Cấu trúc và nguồn của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội35 1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng lập hội..................37 Chương 2...................................................................................................41 PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ HỢP ĐỒNG LẬP HỘI.......41 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .......................................................................41 2.1. Tổng quan pháp luật Việt Nam hiện nay về hợp đồng lập hội .....41 2.1.1. Cấu trúc và nguồn của pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng lập hội........................................................................................41 2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp liên quan tới hợp đồng lập hội ..63 2.3. Một số kiến nghị.............................................................................78 KẾT LUẬN...............................................................................................81 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................82
  • 5. 5 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Xây dựng kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đang ngày càng làm biến đổi sâu sắc các quan hệ xã hội ở Việt Nam. Sự liên kết của con người trong các hội đang phát triển mạnh gắn liền với sự phát triển của xã hội dân sự và sự bảo đảm quyền tự do kinh doanh. Các hội đã có những đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nói chung, và góp phần cải thiện đời sống của từng người dân nói riêng. Hiện nay, số lượng các hội được lập gia tăng nhanh chóng. Với môi trường dân chủ, cởi mở, hội nhập, các hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, xã hội hoá ngày càng cao, việc thành lập và phát triển hội thực sự là yêu cầu của thực tiễn đời sống và là xu thế tất yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu tự do, dân chủ, sáng tạo của người dân và xã hội. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền tự do lập hội của công dân (Điều 25) và quyền tự do kinh doanh (Điều 33), đồng thời cũng đặt ra nguyên tắc pháp định cho hai quyền này mà bản thân chúng làm cơ sở pháp lý chủ yếu cho việc lập hội. Tuy nhiên hiện nay pháp luật cụ thể hóa hai nguyên tắc hiến định này và hai loại hội có mục đích kinh tế và có mục đích phi kinh tế dường như được hiểu và phát triển khá tách biệt vì thiếu sự tìm hiểu nguồn gốc chung của hội. Thực tiễn tư pháp, hành pháp, cũng như thực hiện pháp luật của công dân có nhiều vướng mắc liên quan tới những thiếu sót về việc tìm hiểu và xây dựng nguồn gốc chung của hội. Hợp đồng lập hội là một nguồn gốc pháp lý chung của hội. Trong khoa học pháp lý, nó luôn được xem là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc lập hội. Tuy nhiên hiện nay nó bị bỏ ngỏ trong các Bộ Luật Dân sự năm 1995, năm 2005 và năm 2015. Vì những lẽ trên, em xin lựa chọn đề tài “Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
  • 6. 6 Mục đích nghiên cứu chung của đề tài là xây dựng mô hình lý luận về hợp đồng lập hội ở Việt Nam hiện nay và hướng tới xây dựng mô hình chế định hợp đồng lập hội trong Bộ luật Dân sự tương lai sau Bộ luật Dân sự năm 2015. Các mục tiêu nghiên cứu cụ thể Đề tài luận văn có các mục tiêu cụ thể sau: + Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hợp đồng lập hội; + Xây dựng lý luận hệ thống của hợp đồng lập hội; + Đánh giá các qui định pháp luật hiện hành có liên quan; + Kiến nghị về xây dựng và áp dụng luật. 3. Tổng quan tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài luận văn Thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan, chẳng hạn một số công trình tiêu biểu sau: (1) Sách chuyên khảo mang tên “Freedom of Association” edited by Any Gutman (Princeton University Press, 1998); (2) sách chuyên khảo mang tên “The State and Freedom of Contract” edited by Harry N. Scheiber (Stanford University Press, 1998); (3) sách chuyên khảo mang tên “The Limits of Freedom of Contract” by Micheal J. Trebilcock (Harvard University Press, 1993)… Trong vài năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về hội và tự do lập hội được công bố ở nước ta, tuy nhiên các công trình nghiên cứu hiện có vẫn chưa đủ để giải đáp tất cả các câu hỏi đặt ra liên quan đến việc hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng lập hội ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu về loại hợp đồng này ở Việt Nam rất hạn chế. Về nghiên cứu chung, có cuốn giáo trình kiêm sách chuyên khảo mang tên “Việt Nam dân luật lược khảo – Nghĩa vụ và khế ước” của Vũ Văn Mẫu xuất bản tại Sài Gòn năm 1963. Trong lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, có luận án tiến sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam” của Ngô Huy Cương… Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu có liên quan tới một loại hội đặc biệt - đó là công đoàn. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, loại hội này có bản chất pháp lý như là một chế định pháp luật hơn là một hợp đồng.
  • 7. 7 Các công trình này đã đặt nền móng lý luận phần nào đó cho hợp đồng lập hội. Song chưa có công trình nào nghiên cứu xây dựng mô hình lý luận tổng quát về loại hợp đồng này cho Việt Nam và kiến nghị xây dựng mô hình lập pháp về loại hợp đồng này trong pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay với khá nhiều điểm khác biệt về pháp luật so với các nước khác và so với quá khứ lịch sử của Việt Nam. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng lập hội bao gồm lý luận pháp luật và mô hình pháp luật thực định. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ vấn đề lý luận liên quan và các quy định của pháp luật hiện tại của Việt Nam liên quan đến đề tài. Phạm vi nghiên cứu của luận văn mở rộng đối với các pháp luật nước ngoài cũng điều chỉnh về vấn đề này. Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau: - Những vấn đề lý luận pháp luật chuyên sâu về hợp đồng lập hội tại Việt Nam hiện nay; - Phân tích pháp luật hiện nay về hợp đồng lập hội ở Việt Nam; - Xây dựng mô hình sơ khởi chế định pháp luật về hợp đồng lập hội ở Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài luận văn Về phương pháp luận, để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác-Lênin. Đây là phương pháp khoa học vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận văn để xây dựng cơ sở lý luận về hợp đồng lập hội tại Việt Nam hiện nay. Về phương pháp nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên sâu của pháp luật như: (1) Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng để làm rõ các vấn đề liên
  • 8. 8 quan đến giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước, qua đó thấy được sự tương đồng, khác biệt của Việt Nam và nước ngoài làm luận cứ xác thực cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục những bất cập của pháp luật hiện nay và xây dựng mô hình lý luận tổng quát về hợp đồng lập hội; (2) phương pháp mô hình hóa, điển hình hóa các quan hệ xã hội được sử dụng để xây dựng mô hình lý luận chuyên sâu và mô hình pháp luật thực định… 6 . Bố cục của Luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu chính của luận văn được chia thành các chương sau: Chương 1 – Lý luận về hợp đồng lập hội Chương 2 – Pháp luật Việt Nam hiện nay về hợp đồng lập hội và một số kiến nghị
  • 9. 9 Chƣơng 1 LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG LẬP HỘI 1.1. Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm và phân loại của hợp đồng lập hội 1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa và phân loại của hội Không thể phủ nhận vai trò và ý nghĩa to lớn của hội trong đời sống con người, nhất là trong nền kinh tế thị trường. Hội, xét chung trong tổng thể việc đáp ứng các nhu cầu sống của con người, là một trong những phương tiện quan trọng giúp con người thỏa mãn các nhu cầu đó [6, tr. 38] mà trong chúng bao gồm cả các nhu cầu về vật chất và các nhu cầu về tinh thần. Tuy nhiên bản chất pháp lý của hội vẫn còn là một vấn đề gây tranh luận. Có lẽ việc xem xét bản chất của hội trước hết bắt đầu từ việc phân loại hội. Với tính cách là một phương tiện chung nhằm đáp ứng các nhu cầu sống, nhưng do cách thức của sự đáp ứng từng loại nhu cầu có sự khác nhau, cho nên phản ánh về mặt hình thức (không trùng khít hoàn toàn), hội được chia thành hai loại cơ bản là hội có mục đích kinh tế và hội không có mục đích kinh tế. Bộ luật Dân sự Đức năm 2002 có các qui định phân loại hội như vậy tại Điều 21 và Điều 22 để thiết lập qui chế thủ đắc năng lực pháp lý riêng biệt của từng loại hội. Các điều luật này có nội dung như sau: “Một hội mà mục tiêu của nó không phải là hoạt động thương mại thì có tư cách pháp lý bởi việc được ghi vào sổ đăng ký hội tại tòa án địa phương có thẩm quyền” (Điều 21); và “Một hội mà mục tiêu hoạt động của nó là hoạt động thương mại thì có tư cách pháp lý được cấp bởi tiểu bang, nếu không có các qui định đặc biệt của luật liên bang” (Điều 22). Cách phân loại này không giúp xác định được bản chất pháp lý của hội mà chỉ cho phép hiểu biết sự lựa chọn của nhà làm luật về cách thức cấp năng lực pháp lý cho hội. Xét từ căn cứ tạo lập nên hội, có thể chia hội thành hai loại là hội được tạo lập bởi hợp đồng và hội được tạo lập bởi pháp luật. Tuy nhiên hội là một tổ chức phi chính phủ, nên việc pháp luật qui định về việc thành lập một hội cụ thể hay nhà nước quyết định thành lập hội mà không có sự tự nguyện tham dự của các thành viên là việc ít xảy ra. Vì thế về cơ bản hội mang bản chất
  • 10. 10 hợp đồng. Vì vậy nhiều Bộ luật Dân sự của nhiều nước trên thế giới đều có chương nói về hội hay hợp đồng lập hội mà tại đó mô tả chung các đặc điểm pháp lý của hội. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ năm 1936 và Bộ luật Dân sự năm 1972 của Chính quyền Sài Gòn (cũ) theo mô hình Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 đều có một chương như vậy. Tuy nhiên các chương như vậy trong các bộ luật của Việt Nam đều chủ yếu qui định về hợp đồng lập hội có mục đích kinh tế. Trong khi đó Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 có một chương nói về “hội” với tính cách là hợp đồng, sau đó mở rộng ra với tính cách là hành vi pháp lý (bao gồm cả hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương) bởi về sau này nhà làm luật chấp nhận hội thương mại có thể chỉ có một thành viên (là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hay công ty cổ phần một thành viên). Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 định nghĩa: “Khế ước lập hội là khế ước do hai hay nhiều người đồng ý xuất tài sản chung nhau để lấy lợi mà chia nhau” (Điều thứ 1200). Các qui định này được sao chép nguyên văn vào Điều thứ 1425 của Bộ luật Dân sự Trung Kỳ năm 1936. Các định nghĩa này chưa làm rõ được nội hàm của khái niệm hợp đồng lập hội. Theo định nghĩa của hai bộ luật này, hai hay nhiều người cùng tiết kiệm bằng cách bỏ tiền cùng nhau gửi tiết kiệm rồi lấy tiền lãi chia nhau phải chăng cũng được xem là hợp đồng lập hội? Khắc phục những khiếm khuyết của định nghĩa trong hai bộ luật nêu trên, Bộ luật Dân sự năm 1972 đã chuyển hóa những đặc trưng của hội theo Điều 1832, Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 để định nghĩa hợp đồng lập hội như sau: “Khế ước lập hội là khế ước theo đó hai hay nhiều người đồng ý góp công, góp của để hoạt động với mục đích kiếm được lời cùng chia nhưng nếu thua lỗ cùng chịu” (Điều thứ 1264). Theo định nghĩa này, hợp đồng lập hội có các dấu hiệu như: (1) hai hay nhiều người cùng nhau góp vốn (có thể bằng công sức hoặc bằng tài sản); (2) hai hay nhiều người đó cùng nhau hoạt động trên căn bản sự góp vốn đó; (3) các hoạt động cùng nhau này phải nhằm mục đích sinh lời để chia nhau; và (4) nếu hoạt động chung này bị thua lỗ thì hai hay nhiều người đó phải cùng nhau gánh chịu.
  • 11. 11 Nếu xét từ việc tổ chức hội, hợp đồng lập hội có thể được phân chia thành hai loại: Loại thứ nhất là hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định; và loại thứ hai là hợp đồng gia nhập một hội nhất định. Loại thứ nhất là một hợp đồng được giao kết giữa các thành viên sáng lập ra hội với nhau. Loại thứ hai là hợp đồng được giao kết giữa một thành viên gia nhập một hội nhất định với chính hội đó. Trong vụ Clarke v. Dunraven [1897], tòa án Anh cho rằng hai người cùng viết đơn xin gia nhập một hội vào hai thời điểm khác nhau (mà họ không hề quen biết nhau) cũng được coi giữa hai người có sự thỏa thuận. Clarke và Dunraven đều viết đơn xin tham dự vào câu lạc bộ đua thuyền mang tên Mudhook Yacht Club, và cam kết tuân thủ các qui tắc của Yacht Club Association. Các qui tắc này qui định chủ nhân của con thuyền vi phạm qui tắc va chạm phải con thuyền khác có trách nhiệm bồi thường tất cả các thiệt hại phát sinh. Thuyền của Clarke va chạm vào thuyền của Dunraven. Vụ kiện xảy ra. Tòa phúc thẩm Anh Quốc và House of Lords phán quyết rằng có quan hệ hợp đồng tồn tại giữa những người tham dự cuộc đua thuyền. Vì vậy Clarke phải bồi thường Dunraven bởi vi phạm hợp đồng. Án lệ này áp dụng cho vụ Rayfield v. Hands [1958]. Tòa ra phán quyết rằng sự đăng ký của một thành viên vào hợp đồng và điều lệ công ty không chỉ tạo ra sự thỏa thuận giữa thành viên và công ty, mà còn tạo ra sự thỏa thuận giữa thành viên đó với những người đăng ký khác [26, p.13]. Như vậy được xem là sự thỏa thuận không đòi hỏi các bên phải biết về sự đồng ý của nhau đối các điều kiện của hợp đồng và không đòi hỏi các bên phải đồng ý các điều kiện của hợp đồng vào cùng một thời điểm [7]. Khái niệm về hợp đồng lập hội trong các Bộ luật Dân sự thuộc về loại thứ nhất. Như vậy có thể hiểu một cách đơn giản hợp đồng lập hội là loại hợp đồng tạo lập nên một hội. Tuy nhiên các định nghĩa nêu trên mới chỉ nhằm tới các hội có mục đích kinh tế. Vậy việc xây dựng một định nghĩa cho hợp đồng lập hội nói chung không kể hội có mục đích kinh tế hay không là một việc cần thiết trước hết để phân biệt hợp đồng lập hội với các loại hợp đồng khác, và sau đó để nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan, cũng như xây dựng qui chế pháp lý cho loại hợp đồng này.
  • 12. 12 Khảo sát Hội Sinh viên Việt Nam (một tổ chức có gần 1.100.000 nghìn hội viên đang sinh hoạt tại hơn 200 Hội Sinh viên trường, 21 Hội sinh viên tỉnh, thành phố, 50 Hội sinh viên cấp trường trực thuộc Trung ương và 05 Hội Sinh viên Việt Nam ở nước ngoài: Pháp, Hàn Quốc, Hà Lan, Đức, Bỉ) cho thấy: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội Sinh viên Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 29 đến 31/07/1955 với sự tham dự của 244 đại biểu chính thức và 255 đại biểu dự thính của các trường đại học, đại biểu sinh viên miền Nam và đại biểu lưu học sinh ở nước ngoài cùng nhau thông qua bản điều lệ, chương trình hoạt động và lời kêu gọi sinh viên toàn quốc, đồng thời bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội để theo đuổi mục đích đoàn kết, thống nhất mọi lực lượng sinh viên trong Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam, cùng với thanh niên và nhân dân cả nước đấu tranh cho hòa bình, độc lập và thống nhất Tổ quốc, đòi thực hiện tổng tuyển cử do hai miền Nam, Bắc theo đúng tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ [29]. Các thông tin này nói lên rằng Hội sinh viên Việt Nam là sự thống nhất ý chí của những đại biểu sinh viên (những người sáng lập) có các mục tiêu chính trị, xã hội. Nội dung của sự thống nhất ý chí này thể hiện trong điều lệ của hội được thông qua tại đại hội. Xét riêng dưới giác độ pháp lý, hợp đồng tạo lập ra hội này (hội không nhằm mục đích kinh tế) không có dấu hiệu hoạt động nhằm mục đích sinh lời để chia nhau như đối với hợp đồng lập hội có mục đích kinh tế, nhưng thay vào đó là dấu hiệu cùng nhau hoạt động nhằm mục tiêu chung (có thể là các mục tiêu chính trị, xã hội, văn hóa, từ thiện…). Riêng dấu hiệu cùng nhau chịu lỗ của hợp đồng lập hội có mục đích kinh tế thì không có dấu hiệu nào của hợp đồng lập hội không nhằm mục đích kinh tế thay vào bởi mục tiêu của các thành viên của hội không nhằm mục đích kinh tế không phải là bỏ công sức hoặc tiền của ra để đổi lại một món lợi tiền bạc lớn hơn mà thực sự là sự chi tiêu cho các nhu cầu có tính cách tinh thần. Tuy nhiên nếu hội (bất kể là hội nhằm mục đích kinh tế hay không) mà hoạt động trái mục đích và vi phạm pháp luật, thì chính hội với tính cách là một thực thể pháp lý riêng biệt phải chịu trách nhiệm.
  • 13. 13 Qua các nghiên cứu trên có thể xác định: hợp đồng lập hội nói chung là một sự thỏa thuận của hai hay nhiều người cùng nhau đóng góp công sức, tri thức, tiền bạc hay các lợi ích vật chất khác để cùng nhau hoạt động nhằm các mục tiêu chung và phải chịu trách nhiệm về các hoạt động đó theo qui định của pháp luật. Thực tế không một hội nào (bất kể có nhằm mục đích kinh tế hay không) đều phải có kinh phí hoạt động mà kinh phí ấy thu được từ sự đóng góp của các thành viên hay từ tài trợ bởi người khác. Do đó sự đóng góp tiền bạc không phải là dấu hiệu riêng của hội nhằm mục đích kinh tế. Như trên đã nói sự đóng góp tiền bạc thành lập hội nhằm mục đích kinh tế tạo thành vốn để kinh doanh sinh lời. Còn sự đóng góp tiền bạc thành lập hội không nhằm mục đích kinh tế là sự chi tiêu cho các nhu cầu về tinh thần trong khuôn khổ các mục tiêu hoạt động của hội. Các nghiên cứu ở trên cho thấy hợp đồng lập hội là một loại hợp đồng quan trọng không thể thiếu được trong đời sống xã hội do chính nhu cầu khách quan của con người đòi hỏi. Đây là một loại hợp đồng có phạm vi tác động rất rộng và sâu, do đó cần phải nghiên cứu bổ sung vào Bộ luật Dân sự làm nền tảng pháp lý cho các luật chuyên ngành qui định các đặc thù nhưng trên căn bản thống nhất về tư tưởng và chính sách pháp luật. 1.1.2. Các đặc điểm của hợp đồng lập hội Hợp đồng nói chung được phân loại theo nhiều căn cứ khác nhau và dựa vào từng cách phân loại để áp đặt cho hợp đồng những qui chế pháp lý khác nhau [4, tr. 174]. Khi nói tới các đặc điểm pháp lý của riêng một hợp đồng nào đó, người ta thường xem hợp đồng đó thuộc những phân loại hợp đồng nào để rút ra các đặc điểm của nó. Có các phân loại hợp đồng như sau thường được nhắc tới: hợp đồng trọng hình thức, hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế; hợp đồng thương lượng và hợp đồng gia nhập; hợp đồng cá nhân và hợp đồng cộng đồng; hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ; hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù; hợp đồng chắc chắn và hợp đồng may rủi; hợp đồng tức thì và hợp đồng kéo dài; hợp đồng hữu danh và hợp đồng vô danh; hợp đồng
  • 14. 14 chính và hợp đồng phụ; hợp đồng dân sự và hợp đồng tiêu dùng; hợp đồng tư nhân và hợp đồng chính quyền; hợp đồng đơn giản và hợp đồng hỗn hợp; hợp đồng theo mẫu và hợp đồng không theo mẫu; hợp đồng sơ bộ và hợp đồng cơ sở; hợp đồng đúng qui cách và hợp đồng mặc nhiên; hợp đồng có điều kiện và hợp đồng không có điều kiện; hợp đồng có thể hủy ngang và hợp đồng không thể hủy ngang; và hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba [4, tr. 174 – 182]. Theo các cách phân loại đó, hợp đồng lập hội có những đặc điểm sau: Thứ nhất, hợp đồng lập hội là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Đây là đặc điểm nổi trội nhất của loại hợp đồng này. Khác với hợp đồng mua bán hay hợp đồng dịch vụ, các bên giao kết hợp đồng lập hội không trở thành trái chủ và thụ trái của nhau mà lại trở thành trái chủ và thụ trái của hội do chính sự giao kết hợp đồng của họ tạo lập ra [8]. Tuy nhiên nội dung cụ thể của đặc điểm này của hợp đồng lập hội phụ thuộc vào các hình thức pháp lý của hội. Các hình thức này được qui định rất cụ thể đối với thương hội. Luật Doanh nghiệp năm 2014 qui định thương hội có các hình thức: Công ty hợp danh, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Riêng đối với công ty trách nhiệm hữu hạn đạo luật này nói tới hai loại là công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Như trên đã nói hội có thể là một hành vi pháp lý, có nghĩa là công ty trách nhiệm hữu hạn là một hợp đồng lập hội; còn công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hành vi pháp lý đơn phương lập hội. Cách thức tư duy này khác với quan niệm thông thường hội là một tổ chức của hai hay nhiều người. Đối với các hình thức công ty nói trên, ta có thể thấy sự khác biệt về nội dung của đặc điểm hợp đồng lập hội là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba giữa hình thức công ty đối nhân và hình thức công ty đối vốn. Đối với công ty hợp danh (công ty đối nhân), khi các thành viên đã cam kết với nhau thành lập công ty có nghĩa là họ đã ràng buộc với nhau chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định với các khoản nợ của công ty. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (công ty đối vốn), sự ràng buộc lẫn nhau giữa các thành viên công ty bị giảm dần từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần.
  • 15. 15 Thứ hai, hợp đồng lập hội là hợp đồng trọng hình thức. Pháp luật của hầu hết các quốc gia đều qui định rất chặt chẽ qui trình, thủ tục giao kết hợp đồng lập hội bởi hội có một vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội như trên đã nói. Hội có thể ảnh hưởng to lớn tới đời sống xã hội vì vậy kiểm soát hội ngay từ khi thiết lập, có nghĩa là ngay từ khi giao kết hợp đồng lập hội là một giải pháp mà pháp luật không thể bỏ qua. Thứ ba, hợp đồng lập hội là hợp đồng cá nhân. Có đặc điểm này bởi hợp đồng lập hội trước hết chỉ có hiệu lực đối với những người tham gia giao kết, trừ trường hợp có hiệu lực với chính hội được tạo lập ra bởi hành vi pháp lý của những người giao kết mà đã nói ở đặc điểm thứ nhất của hợp đồng lập hội. Điều đó có nghĩa là hợp đồng này ràng buộc những người tham gia giao kết, trở thành trái chủ và thụ trái của hội được tạo lập nên bởi chính hợp đồng này. Thứ tư, hợp đồng lập hội là một hợp đồng chắc chắn. Khi hợp đồng lập hội được giao kết đúng theo qui trình, thủ tục do luật định là hợp đồng lập hội phát sinh hiệu lực ràng buộc với các bên giao kết và với hội được tạo lập nên bởi hợp đồng đó. Hiệu lực này không bị phụ thuộc vào bất kỳ một sự kiện khách quan nào. Thứ năm, hợp đồng lập hội là hợp đồng kéo dài. Thông thường hội được lập ra có mục tiêu hoạt động trong một khoản thời gian dài hoặc vô thời hạn. Chính vì vậy hợp đồng lập hội là hợp đồng kéo dài. Hợp đồng chỉ chấm dứt khi hội chấm dứt. Liên quan tới mối quan hệ của hội đối với thành viên của mình thì hợp đồng lập hội không thể xem là chấm dứt mà là chấm dứt tư cách thành viên của họi hoặc chất dứt mối quan hệ hợp đồng giữa thành viên với hội. Thứ sáu, hợp đồng lập hội là một hợp đồng hữu danh. Như trên đã nói, hợp đồng lập hội được qui định trong các Bộ luật Dân sự của Việt Nam dưới các chế độ cũ và trong phần nhiều các Bộ luật Dân sự của các nước trên thế giới. Dù rằng hiện nay Bộ luật Dân sự năm 2015 không có qui định về loại hợp đồng này. Nhưng điều đó không có nghĩa hợp đồng lập hội là
  • 16. 16 hợp đồng vô danh vì từng phân loại của hợp đồng lập hội được qui định ở các văn bản qui phạm pháp luật khác nhau như Luật Doanh nghiệp năm 2014 và một số nghị định của Chính phủ. Trong học thuật và thực tiễn tư pháp, thuật ngữ hợp đồng lập hội vẫn được hiểu và sử dụng. Các qui chế pháp lý riêng cho loại hợp đồng này được thể hiện qua các văn bản qui phạm pháp luật đã nói. 1.2. Đàm phán và giao kết hợp đồng lập hội 1.2.1. Đàm phán hợp đồng lập hội Nói tới đàm phán là nói tới sự gặp gỡ, trao đổi để đi đến sự thống nhất ý chí giữa những người giao kết hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng lập hội là một loại hợp đồng có thể phân chia ra nhiều phân loại nhỏ khác nhau và có qui chế pháp lý khá khác nhau trong việc đàm phán và giao kết. Ở mục 1.1.1 đã phân chia hợp đồng lập hội thành hai loại lớn có tính cách tổng quát là hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định và hợp đồng gia nhập một hội nhất định. Hai loại hợp đồng này có sự khác nhau liên quan tới đàm phán để giao kết hợp đồng lập hội. Tuy nhiên khó có thể làm rõ sự khác biệt này nếu không có sự phân loại tiếp đối với hai phân loại tổng quát này. Hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định có thể được phân loại thành hợp đồng lập hội không mở ra cho sự gia nhập của các thành viên mới (hội đóng) và hợp đồng lập hội có mở ra cho sự gia nhập của các thành viên mới (hội mở). Đối với hợp đồng gia nhập một hội nhất định, thì việc đàm phán được tiến hành giữa hội và hội viên mong muốn gia nhập. Tuy nhiên vấn đề đàm phán chỉ được đặt ra trong trường hợp hội yêu cầu thành viên mong muốn gia nhập phải làm hoặc không làm một hay một số việc gì đấy để đáp ứng nhu cầu của hội giống như một người gia nhập Đảng. Tất nhiên các điều kiện của hợp đồng không có sự thay đổi bởi đàm phán. Hợp đồng trong trường hợp này được xem là hợp đồng gia nhập, có nghĩa là hợp đồng với các điều kiện được dựng sẵn bởi các thành viên tạo lập hội từ ban đầu. Việc đàm phán trong trường hợp này có thể gọi là “đàm phán về tư cách” của người gia nhập. Đàm phán hợp đồng lập hội đóng có đặc điểm là các thành viên của hội phải cùng nhau đàm phám để đi đến ưng thuận về các điều kiện của hợp đồng.
  • 17. 17 Việc đàm phán này không khác gì các cuộc đàm phán thông thường khác. Thông thường các bên cùng nhau thảo luận vì một mục đích chung là tạo lập ra một hội thể hiện được lợi ích của các và từng thành viên (người tham gia đàm phán) trong đó. Những thành viên này có thể trực tiếp đàm phán hoặc có thể ủy quyền cho người khác thể hiện ý chí của mình. Đàm phán hợp đồng lập hội mở đòi hỏi những thành viên sáng lập hoặc những sáng lập viên phải đàm phán với nhau để thiết lập nên các điều kiện của một hội trong tương lai rồi kêu gọi sự gia nhập hội đó, chẳng hạn đối với hội không có mục đích kinh tế như một đảng phái chính trị hay một hội nghề nghiệp; đối với hội có mục đích kinh tế như công ty cổ phần gọi vốn công khai từ công chúng. Việc đàm phán này có thể liên quan tới nhiều loại hợp đồng tiền lập hội. Thực tế đối với việc thành lập công ty cổ phần nhiều hệ thống pháp luật qui định rất chi tiết về các loại hợp đồng này và thủ tục đàm phán, giao kết chúng. Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng có bốn dạng hợp đồng trong giai đoạn tiền công ty (preincorporation agreements): Thứ nhất, thoả thuận giữa các sáng lập viên nhằm tạo thành công ty (agreements between promoters for the formation of the corporation); thứ hai, các thoả thuận cổ đông (shareholder agreement); thứ ba, thoả thuận lập hội (agreement of association); và thứ tư, thoả thuận giữa các sáng lập viên và người thứ ba (agreement between promoters and third persons) [5, tr. 23]. Trong các hợp đồng tiền công ty, có thỏa thuận lập hội. Thực chất hợp đồng này là loại hợp đồng định hình rõ hội ra đời trong tương lai. Nhưng không phải vì thế mà có sự tách biệt ba loại hợp đồng còn lại. Tổng thể chúng là những hợp đồng bắt buộc trong qui trình giao kết hợp đồng lập hội nói chung. Sáng lập viên được xem là người có sáng kiến muốn lập công ty, đứng ra kết hợp hội viên, kêu gọi góp vốn, thu thập tiền vốn và làm những thể lệ cần thiết cho công ty được thành lập [5, tr. 26]. 1.2.2. Giao kết hợp đồng lập hội Hợp đồng lập hội có các thủ tục và trình tự giao kết khác nhau tùy thuộc vào mục đích tạo lập nên loại hội nào của hợp đồng lập hội. Khoa học pháp lý thường phân loại hội theo luật điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của hội.
  • 18. 18 Theo cách phân loại này, hội được chia thành hội được thành lập theo luật công và hội được thành lập theo luật tư. Hội được thành lập theo luật tư lại được phân loại thành hội dân sự (được thành lập theo luật dân sự) và hội thương mại hay còn gọi là thương hội hay công ty (được thành lập theo luật thương mại). Tuy nhiên chỉ có các thương hội hay các công ty là có dấu hiệu nhận biết rõ ràng bởi tính hình thức chặt chẽ và mục tiêu lợi nhuận của loại hội này. (Lưu ý rằng cách phân loại như trên xuất phát từ cách phân loại pháp luật theo truyền thống Civil Law). Hội dân sự nếu mục đích hoạt động liên quan tới quyền nhân thân, trong nhiều trường hợp, rất khó phân biệt với hội được thành lập theo luật công. Chẳng hạn: Dự thảo Luật về hội ngày 16/09/2016 tại khoản 1, Điều 3 có định nghĩa: “Hội là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của cá nhân, tổ chức cùng chung mục đích; hoạt động không vì lợi nhuận; nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng theo quy định của pháp luật; góp phần thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động”. Định nghĩa này không có khuynh hướng phân biệt giữa hội thành lập theo luật công và hội thành lập theo luật tư, trừ trường hợp phân biệt với thương hội. Vì vậy hội những bà mẹ đơn thân, hội những người chuyển đổi giới tính, hội những người hiến tạng... được điều chỉnh bởi cùng một qui chế đối với hội hỗ trợ bảo vệ biển đảo, hội chống xâm lược văn hóa... Cách thức điều chỉnh này làm đơn giản hóa đi phần nào việc tiếp cận tới qui chế thành lập hội, nhưng cũng gây khó khăn hơn cho việc cá biệt hóa hội để điều chỉnh thật cụ thể. Hợp đồng lập hội được giao kết với các thủ tục và qui trình phức tạp, nhất là các hội mở và các loại hội có tác động lớn tới xã hội. Pháp luật thường giao sự kiểm soát trình tự và thủ tục giao kết hợp đồng lập hội cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Và hội thông thường chỉ có tư cách pháp lý để được hoạt động sau khi đã tuân thủ đúng trình tự và thủ tục giao kết. Các bước giao kết hợp đồng lập hội có thể bao gồm: Bước 1: Kiểm soát tính mục đích của việc thành lập hội Bước này nếu có chỉ áp dụng đối với các hội có mục đích phi kinh tế. Ngoài ra bước này còn được sử dụng để kiểm soát hoạt động đầu tư vào nước sở
  • 19. 19 tại để thành lập những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những người có ý tưởng sáng lập hội phải xin phép để được vận động thành lập hội. Xét từ phươg diện hợp đồng thì đây là bước xin phép để được tiến hành đàm phán và giao kết hợp đồng lập hội. Bước 2: Xây dựng và xuất trình bằng chứng của việc thống nhất ý chí thành lập hội Thông thường dù có hay không điều chỉnh cụ thể các thỏa thuận tiền lập hội, thì hầu hết các hệ thống pháp luật đều quan tâm tới việc những người có sáng kiến thành lập hội đưa ra bằng chứng về việc thống nhất ý chí thành lập hội. Bước này thực chất là để kiểm soát việc đáp ứng các điều kiện thành lập hội như điều kiện về sự biểu lộ và thống nhất ý chí, điều kiện về chủ thể giao kết hợp đồng lập hội, điều kiện về động cơ, mục đích của việc thành lập hội,và các diều kiện khác tùy thuộc vào nhu cầu kiểm soát của nước sở tại [9]. Các bằng chứng này tập hợp lại thành bộ hồ sơ lập hội hay hồ sơ xin đăng ký kinh doanh mà thông qua đó bước đầu người ta có thể hình dung được hình hài của hội và hệ quả của hội đối với xã hội [10]. Trong bộ hồ sơ này luôn phải có điều lệ của hội. Văn bản này được ví như “hiến pháp” của hội, có nghĩa là văn bản chứa đựng các nguyên tắc và qui tắc cao nhất liên quan tới việc thành lập và hoạt động của hội. Ngoài ra trong bộ hồ sơ này còn phải có các giấy tờ, tài liệu chứng minh nhân thân của các thành viên sáng lập hội. Pháp luật của mỗi nước có thể yêu cầu thêm các giấy tờ, tài liệu khác liên quan tới phương hướng hoạt động, tài sản, trụ sở... Bộ hồ sơ này gửi kèm theo đơn xin thành lập hội mà thực chất là văn bản yêu cầu cho phép hay đăng ký thành lập hội cùng với các yêu cầu khác liên quan có thể như lĩnh vực, khu vực hoạt động. Bước 3: Chính thức hóa giao kết hợp đồng lập hội Sau khi bộ hồ sơ thành lập hội được chấp nhận bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhiều hệ thống pháp luật cho rằng hội đã chính thức được thành lập, nhưng có một số hệ thống pháp luật qui định những thành viên của hội trong tương lai phải cùng nhau tổ chức đại hội thành lập để thông qua chính thức điều lệ và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Sau đó dù như thế
  • 20. 20 nào hội cũng phải công khai hóa việc thành lập hội trước cộng đồng bằng cách bố cáo thành lập để mọi thành viên trong xã hội được biết. Pháp luật Việt Nam hiện nay qui định cả hai cách thức trên cho hai loại hội có hoặc không có mục đích kinh tế. Đối với hội có mục đích kinh tế, Điều 47 (khoản 2), Điều 110 (khoản 2), và Điều 172 (khoản 2) của Luật Doanh nghiệp năm 2014 qui định các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, có nghĩa là kể từ khi kết thúc bước 2 trong trình tự giao kết hợp đồng lập hội. Với trường hợp này, bước 3 chỉ dành cho việc công khai hóa công ty. Trong khi đó Nghị định số 45/2010/NĐ- CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về Tổ chức, hoạt động và quản lý hội qui định: Trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày quyết định cho phép thành lập hội có hiệu lực, ban vận động thành lập hội phải tổ chức đại hội; Nếu quá thời hạn trên không tổ chức đại hội, thì trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày hết thời hạn tổ chức đại nói trên, ban vận động thành lập hội có văn bản gửi cơ quan nhà nước đã quyết định cho phép thành lập hội đề nghị gia hạn, và thời gian gia hạn không quá ba mươi ngày, nếu quá thời gian được gia hạn mà không tổ chức đại hội thì quyết định cho phép thành lập hội hết hiệu lực (Điều 10). Các qui định này cho thấy sau khi hồ sơ lập hội đối với hội không có mục tiêu lợi nhuận được chấp nhận, thì việc thành lập hội về thực chất mới được tiến hành dù trước đó việc thống nhất ý chí đã có minh chứng đầy đủ. 1.3. Hiệu lực của hợp đồng lập hội 1.3.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lập hội Hợp đồng lập hội cũng giống như bất kể loại hợp đồng nào đều phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Việc không đáp ứng các một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu. Luật La Mã cổ đại cho đến luật dân sự hiện đại của các hệ thống pháp luật bắt nguồn từ Luật La Mã đều xây dựng các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dựa trên các yếu tố căn bản để hình thành hợp đồng, bao gồm: Yếu tố ưng thuận, yếu tố năng lực, yếu tố đối tượng và yếu tố nguyên nhân của nghĩa vụ hợp đồng
  • 21. 21 [4, tr. 303 – 304; 8]. Bởi vậy các nghiên cứu dưới đây về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lập hội được trình bày theo thứ tự các yếu tố này. Trước hết xét tới điều kiện về sự ưng thuận của hợp đồng lập hội. Hợp đồng lập hội có thể là hợp đồng song phương hoặc hợp đồng đa phương. Song các bên giao kết hợp đồng này phải biểu lộ rõ ràng sự ưng thuận về việc thành lập hội mà họ là thành viên, và về các điều kiện của hội. Sự ưng thuận được xem là được đáp ứng nếu được các thành viên thể hiện ý chí giao kết hợp đồng theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật qui định mà không có tì ố. Việc nhầm lẫn, lừa dối hoặc đe dọa là các tì ố của sự ưng thuận mà có thể dẫn tới hợp đồng lập hội bị vô hiệu. Hiểu một cách đơn giản, các tì ố này là những trường hợp thể hiện sự bất ưng thuận của một hoặc một số thành viên nào đó nếu như họ không bị nhầm lẫn, lừa dối hay đe dọa. Tuy nhiên việc xử lý vô hiệu hợp đồng lập hội có một số điểm khác biệt so với những loại hợp đồng khác mà được nghiên cứu ở tiểu mục dưới đây. Pháp luật của hầu hết các nước đều có qui định khác nhau về điều kiện năng lực (hay chủ thể) của hợp đồng lập hội dựa trên việc phân loại hợp đồng lập hội hướng tới thành lập ra loại hội nào. Ví dụ đối với công ty hợp danh, tất cả các thành viên hợp danh đều phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ bởi loại công ty này là công ty đối nhân, có nghĩa là các thành viên xem trong tới nhân thân của nhau mà tin tưởng lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh. Trong khi đó các hội được thành lập theo luật công, vấn đề độ tuổi hay năng lực hành vi không được đặt ra mà tùy thuộc vào điều lệ của hội, chẳng hạn như hội đồng đội, đoàn thanh niên, đội thiếu niên, hội bảo vệ những người khuyết tật, hội khám chữa bệnh miễn phí… Tuy nhiên ở đây cần có sự phân biệt phần nào đó liên quan tới việc hợp đồng tạo lập nên hội và hợp đồng gia nhập hội. Thông thường việc tạo lập nên hội là một công việc hết sức nghiêm túc và cẩn trọng bởi sự ảnh hưởng của nó tới xã hội và tới bản thân các thành viên của hội. Vì vậy pháp luật cần kiểm soát năng lực hành vi của người giao kết hợp đồng tạo lập nên hội.
  • 22. 22 Đối tượng của hợp đồng lập hội nói chung là sự liên kết giữa các hội viên vì lợi ích vật chất hoặc tinh thần của chính họ hoặc của một cộng đồng nhất định. Tuy nhiên hợp đồng lập hội không thể chống lại trật tự công cộng và đạo đức xã hội, ví dụ không thể thành lập hội để chống lại tổ quốc, và cũng không thể thành lập hội để quảng bá hình ảnh khiêu dâm trẻ em… Dự thảo Luật về hội ngày 16/09/2016 của Việt Nam có đặt ra nhiều điều cấm liên quan tới thành lập hội như cấm lợi dụng việc thành lập, tổ chức, hoạt động hội nhằm: “a) Làm phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, lợi ích của Nhà nước; đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; b) Gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; c) Tuyên truyền trái chính sách, pháp luật của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh c ủa đất nước, danh nhân, anh hùng dân tô ̣c; d) Rửa tiền, tài trợ khủng bố” (Điều 9, khoản 3). Với kỹ thuật lập pháp khác hơn nhằm dành phần nhiều hơn cho giải thích tư pháp, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 (Điều thứ 1202) qui định: “Phàm hội phải có chủ đích hợp phép và phải lập ra để lợi chung cho mọi người đương sự”. Qui định này được tiếp thu nguyên văn vào Bộ luật Dân sự năm 1972 của Chính quyền Sài Gòn (cũ) tại Điều 1269. Các điều luật này được chuyển hóa nguyên văn từ Điều 1833 của Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804. Pháp luật nói chung của bất kỳ quốc gia nào về mặt nguyên tắc không cho phép bất kỳ hành vi nào chống lại trật tự công và chống lại đạo đức xã hội. Liên quan tới quyền tự do lập hội, Hiến pháp Bahrain năm 2002 tuyên bố: “Quyền tự do lập hội và công đoàn..., nhằm các mục tiêu hợp pháp và bằng các phương pháp hòa bình được bảo đảm theo các qui tắc và các điều kiện được qui định bởi luật và trong chừng mực mà các nguyên tắc cơ bản của tín ngưỡng và trật tự công cộng không bị vi phạm. Không ai có
  • 23. 23 thể bị cưỡng bức gia nhập bất kỳ một hội hay một công đoàn nào hoặc tiếp tục là một thành viên của những tổ chức đó” (Điều 27). Các qui định cấm như vậy có thể được thể hiện cụ thể trong các điều luật qui định trực tiếp về hợp đồng lập hội hoặc có thể được thể hiện ở các qui định có tính nguyên tắc chung cho hợp đồng, hành vi pháp lý hay ở các qui định mang tính hiến pháp. Nghĩa vụ hợp đồng phải có nguyên nhân, nguyên nhân phải hợp pháp và nguyên nhân không được giả tạo là điều kiện có hiệu lực không thể thiếu của hợp đồng lập nói chung và của hợp đồng lập hội nói riêng. Hợp đồng lập hội giả tạo xuất hiện khá nhiều hiện nay ở Việt Nam, chẳng hạn thành lập một công ty để nhận ủy thác mua bán hàng hóa nhưng thực chất là để tàng trữ trái phép những vật cấm lưu thông, hay thành lập một công ty cung cấp dịch vụ Karaoke nhưng thực chất là chứa gái mại dâm… Những hợp đồng này gây ảnh hưởng rất xấu cho xã hội, do đó cần phải bị kiểm soát bởi pháp luật bằng chế định hợp đồng vô hiệu. 1.3.2. Hợp đồng lập hội vô hiệu Khi chống lại các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì hợp đồng vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu. Các hệ thống pháp luật đều rất xem trọng chế định pháp luật này để bảo vệ cộng đồng và bảo vệ chính những người giao kết hợp đồng. Ngoài việc phân loại vô hiệu hợp đồng thành vô hiệu toàn bộ và vô hiệu từng phần, khoa học pháp lý rất chú ý tới phân loại vô hiệu hợp đồng thành vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối. Hợp đồng lập hội có một số đặc thù được xét trên căn bản những vấn đề pháp lý quan trọng này. Giống như các loại hợp đồng khác, hợp đồng lập hội có thể bị vô hiệu nếu có tì ố của sự ưng thuận bị nại ra. Việc nại ra sự vô hiệu thuộc về đương sự. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, hợp đồng lập hội có thể bị tuyên vô hiệu một phần mà phần đó liên quan tới người giao kết yêu cầu tuyên vô hiệu bởi hợp đồng vô hiệu hoàn toàn có nghĩa là không có hội nào được tạo lập hay nói cách khác hội đó bị hủy trong khi các thành viên khác hoàn toàn chấp nhận hợp đồng
  • 24. 24 dù đã biết các tì ố của sự ưng thuận, chưa kể tới những người không liên quan tới tì ố [9]. Ví dụ A, B, và C cùng nhau thành lập một công ty trách nhiệm hữu hạn. C bị A lừa dối để lập nên thương hội này. C nại ra tòa yêu cầu tuyên hủy hợp đồng lập hội này. Tòa án có thể xem xét và hủy cam kết của C với A và B mà trong đó có cả cam kết góp vốn bằng quyền hưởng dụng một ngôi nhà. Hành vi pháp lý là căn cứ để trở thành thành viên của hội có thể bị hủy bỏ do vô hiệu trong trường hợp vi phạm điều kiện về năng lực giao kết hợp đồng. Để luận giải cho vấn đề này, người ta không thể bỏ qua việc phân loại hội. Đối với thương hội, việc qui định về độ tuổi để giao kết hợp đồng lập hội và trở thành thành viên của hội là một việc làm thiết yếu để bảo vệ hội, các thành viên và xã hội. Do đó pháp luật thường qui định người giao kết hợp đồng phải có năng lực giao kết hợp đồng một cách độc lập vì vào hội có nghĩa là phải định đoạt tài sản. Độ tuổi này có thể được qui định chung cho tất cả những người giao kết các loại hợp đồng. Vi phạm các điều kiện này, hợp đồng lập hội có thể bị vô hiệu tùy thuộc vào sự nại ra của đương sự hoặc của tòa án. Tuy nhiên người không hoặc chưa có năng lực giao kết hợp đồng lập hội có thể trở thành thành viên của công ty bởi thừa kế theo di chúc hoặc theo luật định. Đây là các qui định chung cho các thương hội. Tuy nhiên đối với các loại công ty đối nhân, người giao kết hợp đồng để trở thành thành viên hợp danh của công ty phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và đáp ứng đầy đủ các điều kiện để trở thành thương nhân thể nhân vì thành viên này có tư cách thương nhân. Người hưởng thừa kế của thành viên này chỉ có thể trở thành thành viên hợp danh của công ty nếu được tất cả các thành viên hợp danh khác đồng ý. Nếu không có sự nhất trí đó thì người này chỉ có thể trở thành thành viên góp vốn của công ty, có nghĩa trở thành người không có tư cách thương nhân, không là đại diện theo pháp luật của công ty và chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn tới phần vốn góp của mình vào công ty. Hợp đồng lập hội bị vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được hoặc đối tượng bị cấm hay hạn chế lưu thông. Vô hiệu này thường là vô hiệu tuyệt đối. Hợp đồng lập hội có thể tạo ra nghĩa vụ đóng góp tài sản. Nếu tài sản
  • 25. 25 này là những vật bị cấm hoặc hạn chế lưu thông thì vấn đề hợp đồng vô hiệu bị đặt ra. Nếu nghĩa vụ tạo ra bởi hợp đồng lập hội là một công việc nhưng công việc ấy bị cấm, chẳng hạn như mại dâm, thì hợp đồng bị vô hiệu. Hợp đồng trong trường hợp này có thể vô hiệu toàn bộ hay vô hiệu từng phần phụ thuộc vào tài sản đó hay công việc đó ảnh hưởng tới một phần hay toàn bộ hợp đồng. Hợp đồng lập hội bị vô hiệu tuyệt đối nếu là hợp đồng giả tạo để che đậy một hành vi khác. Việc tuyên hợp đồng vô hiệu có nghĩa là hủy bỏ hội đã lập bởi hợp đồng đó. Một trường hợp đặc trưng quan trọng nữa của hợp đồng lập hội vô hiệu là hợp đồng lập hội vi phạm hình thức hợp đồng lập hội. Nếu pháp luật đòi hỏi hội phải đăng ký thành lập, thì hợp đồng lập hội bị vô hiệu tuyệt đối do không tuân thủ đòi hỏi đó. Việc hủy bỏ hội do vô hiệu được xem như hội chưa bao giờ được lập, và có hậu quả pháp lý như hậu quả đối với các loại hợp đồng khác bị hủy do vô hiệu. 1.3.3. Đặc điểm riêng về hiệu lực của hợp đồng lập hội Như trên đã phân tích hợp đồng lập hội là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Đây là trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực tương đối của hợp đồng. Người thứ ba trong trường hợp này chính là hội được tạo lập bởi sự thống nhất ý chí của những người giao kết hợp đồng lập hội. Những người giao kết hợp đồng lập hội không trở thành trái chủ và thụ trái của nhau mà trở thành trái chủ và thụ trái của hội [9], có nghĩa là mối quan hệ pháp lý giữa hội và các thành viên của nó (những người giao kết hợp đồng) phát sinh. Các hội được tạo lập bởi các hợp đồng lập hội, dù có hay không có tư cách pháp nhân, đều không phải là một bên giao kết hợp đồng mà là hệ quả của sự giao kết hợp đồng giữa các bên giao kết hợp đồng với nhau. Hội có được các quyền và bị ấn định các nghĩa vụ trong mối quan hệ với các thành viên của nó (những người giao kết hợp đồng). Thành viên của hội có quyền lợi trong hội được đổi lại bởi người này đã giao kết hợp đồng lập hội. Đồng thời thành viên cũng có nghĩa vụ với hội. Trong thương hội các quyền và nghĩa vụ được ấn định
  • 26. 26 rõ ràng bởi pháp luật. Thành viên có nghĩa vụ hùn vốn vào thương hội. Đổi lại người này có quyền tham dự quản trị hội và quyền được chia lợi nhuận từ hội. 1.4. Nội dung của hợp đồng lập hội 1.4.1. Các điều kiện bắt buộc của hợp đồng lập hội Hợp đồng lập hội như trên đã định nghĩa là một sự thỏa thuận của hai hay nhiều người cùng nhau đóng góp công sức, tri thức, tiền bạc hay các lợi ích vật chất khác để cùng nhau hoạt động nhằm các mục tiêu chung và phải chịu trách nhiệm về các hoạt động đó theo qui định của pháp luật. Định nghĩa này cho thấy hợp đồng lập hội dù có hay không có mục đích kinh tế đều có sự đóng góp của các thành viên vì mục tiêu chung và đều phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của hội. Thế nhưng đối với hợp đồng lập hội có mục đích kinh tế, theo mô hình của Pháp, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 đã đưa ra định nghĩa: “Khế ước lập hội là khế ước do hai hay nhiều người đồng ý xuất tài sản chung nhau để lấy lợi mà chia nhau” (Điều thứ 1200). Định nghĩa bị cắt xén này không nêu đầy đủ được các dấu hiệu liên quan tới nghĩa vụ và trách nhiệm, trong khi Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 định nghĩa: “Hội do hai hay nhiều người thành lập trên cơ sở thỏa thuận bằng hợp đồng sử dụng tài sản hoặc công nghệ của mình vào việc kinh doanh chung nhằm chia lãi hoặc thu lợi nhuận. Trong những trường hợp do pháp luật qui định, hội có thể do một người thành lập. Các thành viên của hội cam kết cùng chịu lỗ” (Điều 1832). Các định nghĩa này làm nổi bật một số điều kiện bắt buộc của hợp đồng lập hội dù là hội có hay không có mục đích kinh tế. Các điều kiện đó bao gồm: (1) Hình thức và tên gọi của hội; (2) mục tiêu hoạt động của hội; (3) sự đóng góp của hội viên. Ngoài ra để kiểm soát hội, pháp luật luôn luôn yêu cầu sự thỏa thuận về (4) trụ sở chính của hội và (5) tên và địa chỉ của các sáng lập viên như những điều kiện bắt buộc cùng với các điều kiện trên.
  • 27. 27 Tuy nhiên pháp luật của nhiều nước yêu cầu hợp đồng lập hội phải qui định khá nhiều điều kiện bắt buộc có lẽ do sự ảnh hưởng lớn của hội tới đời sống chung của cộng đồng. Việc yêu cầu nhiều điều kiện bắt buộc một mặt giúp cho các hội viên sáng lập có suy nghĩ cẩn trọng, chín chắn về hội trong tương lai, mặt khác giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dễ dàng hơn trong việc kiểm soát tổ chức và hoạt động của hội. Theo khuynh hướng này, Dự thảo Luật về hội ngày 16/09/2016 của Việt Nam qui định điều lệ hội bao gồm những nội dung chính sau đây: “1. Tên và biểu tượng (nếu có) của hội; 2. Tôn chỉ, mục đích, phạm vi và lĩnh vực hoạt động của hội; 3. Địa chỉ trụ sở của hội; 4. Quyền, nghĩa vụ của hội; 5. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội; 6. Tiêu chuẩn hội viên; quyền, nghĩa vụ của hội viên; việc gia nhập và ra khỏi hội; 7. Cơ cấu tổ chức của hội; bầu, miễn nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo, ban kiểm tra và các chức danh lãnh đạo của hội; tiêu chuẩn, độ tuổi của người đại diện theo pháp luật của hội; 8. Hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đổi tên, giải thể hội; 9. Tài sản, tài chính, hội phí và việc quản lý, sử dụng tài sản, tài chính của hội; thanh quyết toán tài sản, tài chính của hội; 10. Khen thưởng, kỷ luật và giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong nội bộ hội; 11. Sửa đổi, bổ sung điều lệ hội; 12. Nội dung khác phù hợp với quy định của pháp luật” (Điều 16).
  • 28. 28 Dự thảo này còn kiểm soát các điều kiện thành lập hội, có nghĩa là nhấn mạnh hơn nữa các điều kiện bắt buộc của hợp đồng lập hội. Các điều kiện buộc phải hội đủ đó bao gồm: (1) Tên của hội theo quy định của luật; (2) Tôn chỉ, mục đích của hội phù hợp với quy định của pháp luật; (3) Phạm vi, lĩnh vực hoạt động của hội được xác định rõ theo ngành, nghề, lĩnh vực quản lý nhà nước; (4) Có trụ sở đặt tại Việt Nam; (5) Có dự thảo điều lệ hội; (6) Có từ 03 sáng lập viên trở lên (Sáng lập viên là công dân Việt Nam phải là người không thuộc trường hợp quy định tại Điều 8 của Luật này, từ đủ 18 tuổi trở lên, có sức khỏe và uy tín trong lĩnh vực hội dự kiến hoạt động; Sáng lập viên là pháp nhân phải là tổ chức không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của Luật này); (7) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác; (8) Không thuộc trường hợp bị cấm lập hội theo pháp luật (Điều 13, Dự thảo Luật về hội ngày 16/09/2016 của Việt Nam). Việc kiểm soát các điều kiện của hợp đồng nói chung và của hợp đồng lập hội nói riêng không chỉ nhằm mục đích quản lý nhà nước đối với hội, mà trước hết nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của hội và của các hội viên trong trường hợp giải quyết tranh chấp pháp sinh. Vì vậy khi qui định về các điều kiện bắt buộc của hợp đồng, người ta chỉ nên qui định những điều kiện mà nếu thiếu chúng thì khó có thể định danh được hợp đồng và khó có thể xác định được mối quan hệ pháp lý giữa các bên. Luật hợp đồng là một luật hỗ trợ trong việc giải thích cho ý chí của các bên giao kết trong trường hợp họ không qui định hoặc qui định không rõ nghĩa những điều kiện của hợp đồng [4, tr. 135 - 136]. Vì vậy những điều kiện nào có luật hỗ trợ thì không nên qui định chứng là những điều kiện bắt buộc trong hợp đồng. Việc qui định ít điều kiện bắt buộc của hợp đồng sẽ làm đơn giản hóa việc giao kết hợp đồng và thúc đẩy giao lưu dân sự. Đơn giản hóa việc giao kết hợp đồng lập hội sẽ góp phần thúc đẩy tự do lập hội. Luật Công ty Nhật Bản năm 2006 đòi hỏi rất ít điều kiện bắt buộc đối với hợp đồng thành lập công ty cổ phần (một hình thức hội phức tạp nhất) phải thể hiện trong điều lệ công ty khi thành lập. Các điều kiện ấy bao gồm: (1) Mục đích; (2) tên
  • 29. 29 thương mại; (3) nơi đóng trụ sở chính; (4) giá trị tài sản được đóng góp khi thành lập; (5) tên và địa chỉ của các sáng lập viên (Điều 27). Điều kiện về hình thức và tên gọi của hội là điều kiện không thể thiếu, nhất là đối với các thương hội bởi mỗi hình thức mang lại mối quan hệ pháp lý khác nhau giữa các hội với nhau và giữa hội viên với hội. Ví dụ trong công ty hợp danh (general partnership), tất cả các thành viên của nó đều có tư cách thương nhân, đều là đại diện theo pháp luật của công ty và đều phải chịu trách nhiệm liên đới vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty dù pháp luật có hay không qui định về những vấn đề này. Trong khi đó, các thành viên của công ty cổ phần không có tư cách thương nhân và chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty tới phần vốn góp vào công ty dưới dạng cổ phần. Điều kiện mục tiêu hoạt động của hội là không thể thiếu bởi đối với các hội có hay không có mục đích kinh tế thì đều phải làm rõ lĩnh vực hoạt động của mình để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm soát nhằm bảo đảm trật tự công cộng, đạo đức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba… Điều kiện về sự đóng góp tài sản, công sức, tri thức của hội viên cần phải được làm rõ để bảo đảm giải quyết các tranh chấp nếu xảy ra trong tương lai. Một hội được thành lập dù có hay không nhằm mục đích kinh tế đều cần có tài sản để hoạt động, chẳng hạn như vốn để kinh doanh (đối với các hội có mục đích kinh tế), chi phí để hoạt động (đối với các hội không nhằm mục đích kinh tế). Việc đóng góp để thành lập hội có các qui chế pháp lý rất khác nhau tương ứng với các phương thức đóng góp. Rõ ràng đóng góp bằng công sức tạo ra mối quan hệ pháp lý khác với sự đóng góp bằng tài sản, bằng tri thức; đóng góp bằng tài sản tạo ra mối quan hệ pháp lý khác với sự đóng góp bằng công sức, bằng tri thức. Ngay trong đóng góp bằng tài sản khác nhau cũng mang lại những qui chế pháp lý khác nhau do tính chất của loại tài sản đó quyết định, ví dụ đóng góp bằng vật hữu hình, bằng tiền, bằng quyền hưởng dụng, bằng quyền sở hữu trí tuệ, bằng sản nghiệp thương mại có các vấn đề pháp lý khác nhau [2, tr. 52 – 60].
  • 30. 30 Điều kiện về trụ sở chính của hội là một điều kiện rất cần liên quan tới mối quan hệ giữa hội và quốc gia bởi trụ sở chính thường là một yếu tố để xác định quốc tịch của hội và là nơi để tống đạt các giấy tờ cần thiết và xác định các sự kiện pháp lý. Điều kiện về tên và địa chỉ của các sáng lập viên là thiết yếu bởi chính họ là những người giao kết hợp đồng lập hội. Cho nên họ phải chịu các trách nhiệm liên quan sự bình thường về tổ chức và hoạt động của hội. 1.4.2. Các điều kiện khác của hợp đồng lập hội Ngoài các điều kiện bắt buộc, hợp đồng có thể có các điều kiện khác. Các điều kiện khác bao gồm những gì tùy thuộc vào sự lựa chọn của những người giao kết hợp đồng, bởi việc thiếu các điều kiện này không ảnh hưởng gì tới hiệu lực của hợp đồng. Nếu xảy ra tranh chấp ở những điều kiện thiếu đó, thì đã có luật hỗ trợ giải thích. Thậm chí đại diện theo pháp luật của hội cũng có thể được giải thích theo luật. Tuy nhiên việc xác định người đại diện bởi luật có nhiều điểm bất lợi cho hội. Ví dụ pháp luật nhiều nước giải thích nếu hội không có một người đại diện hay quản lý, thì mỗi trong số họ đều được coi như đại diện cho tất cả các vấn đề của hội. Do đó một hội được thành lập nghiêm túc và cẩn trọng luôn có sự suy xét để qui định về người đại diện theo pháp luật, thậm chí qui định cả về quản trị hội. Hầu hết các hội được thành lập cẩn trọng đều suy xét tới khía cạnh pháp lý liên quan. Trong trường hợp này việc nhờ cậy tới luật sư có ý nghĩa rất quan trọng. Các điều kiện không bắt buộc này có thể bao gồm, tuy nhiên tùy hội có mục đích kinh tế hay không để khi giao kết người ta lựa chọn các điều kiện thích hợp: (1) Vốn điều lệ; tổng số cổ phần, loại cổ phần và mệnh giá từng loại cổ phần đối với công ty cổ phần; (2) quyền và nghĩa vụ của hội viên; (3) cơ cấu tổ chức quản lý của hội; (4) nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội; (5) người đại diện theo pháp luật của hội; (6) thể thức thông qua quyết định của hội; (7)Tiêu chuẩn hội viên; quyền, nghĩa vụ của hội viên; việc gia nhập và ra khỏi hội; (8) bầu, miễn nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo, ban kiểm tra và các chức danh lãnh đạo của hội; (9) tiêu chuẩn, độ tuổi của người đại diện theo pháp
  • 31. 31 luật của hội; (10) nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ; (11) căn cứ, phương pháp xác định thù lao, tiền lương và thưởng trong nội bộ hội; (12) những trường hợp hội viên có quyền nhượng lại phần hội; (13) nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh (đối với hội có mục đích kinh tế); (14) các trường hợp giải thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý hội; (15) thể thức sửa đổi, bổ sung điều lệ của hội; (16) quyền và nghĩa vụ của hội; (17) hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đổi tên hội; (18) tài sản, tài chính, hội phí và việc quản lý, sử dụng tài sản, tài chính của hội; (19) thanh quyết toán tài sản, tài chính của hội; (20) khen thưởng, kỷ luật đối với các hội viên... Việc qui định các điều kiện bắt buộc và các điều kiện không bắt buộc nói trên trong văn bản hợp đồng lập hội hay điều lệ hội tùy theo yêu cầu của pháp luật đối với việc đệ trình và lưu giữ hồ sơ thành lập hội. Nhiều hệ thống pháp luật yêu cầu trước khi thiết lập điều lệ hội những người sáng lập hội phải ký thỏa thuận hay hợp đồng lập hội mặc dù hay loại văn bản này đều thể hiện cụ thể các điều kiện của hợp đồng lập hội. Cũng có thể một hệ thống pháp luật yêu cầu một loại hội nào đó phải thiết lập cả hai văn bản nói trên trong khi chỉ yêu cầu thiết lập điều lệ cho một loại hội nào đó tùy thuộc vào nhu cầu kiểm soát hội của hệ thống pháp luật đó. 1.5. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội 1.5.1. Các nguyên tắc nền tảng của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội Khi nói tới vấn đề lập hội, người ta không thể không nói tới quyền tự do lập hội. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay khi nói tới thành lập công ty người ta nghĩ ngay tới quyền tự do kinh doanh mặc dù hội được chia thành hội có mục đích kinh tế (các công ty) và hội không có mục đích kinh tế. Đây là các nguyên tắc nền tảng của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội. Vậy vấn đề đặt ra là quyền tự do kinh doanh có nằm trong quyền tự do lập hội không, hay chúng là hai quyền riêng biệt? Để trả lời câu hỏi này không thể không khảo sát những nội dung chính của cả hai quyền này. Tự do lập hội có ý nghĩa rất đơn giản là hành vi có bởi sự tự do ý chí của các cá nhân nhằm liên kết thành một nhóm có tổ chức [1 , tr. 8]. Vậy có thể hiểu
  • 32. 32 đơn giản hơn rằng tự do lập hội là tự do giao kết hợp đồng tạo thành một tổ chức của những cá nhân. Cả ở phương diện triết học, phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội, cũng như ở phương diện pháp lý, Amy Gutmann cho rằng: “Quyền tự do lập hội (Freedom of Association) có bản chất gia tăng của một phương tiện thu hút sự tham gia của mọi người vào hoạt động từ thiện, thương mại, công nghiệp, giáo dục, y tế, chung sống, thực hành tín ngưỡng, chuyên môn, âm nhạc và nghệ thuật, vui chơi giải trí và thể thao” [23, p. 4]. Như vậy có thể thấy quyền tự do lập hội là nguyên tắc, là nền tảng triết lý chung của hội hay hợp đồng lập hội mà không kể hội đó có phải là hội nhằm mục đích kinh tế hay không. Trong cuốn hướng dẫn người lao động lập hội và thương lượng tập thể có giải thích khái niệm quyền tự do lập hội đơn giản như sau: “Tự do lập hội có nghĩa là sự cho phép những người lao động tạo lập và gia nhập công đoàn, những hiệp hội và những hội đồng hay những ủy ban của người lao động theo sự lựa chọn của họ. Mục đích là có thông tin hai chiều giữa quản lý và những người lao động” [30, p.1.]. Qua các trích dẫn này còn có thể thấy quyền tự do lập hội là nền tảng triết lý không chỉ của hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định, mà còn của hợp đồng được giao kết giữa một thành viên gia nhập một hội nhất định với chính hội đó. Quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp năm 2013 đẩy lên ở một mức rất cao rằng: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Nguyên tắc hiến định này được xếp cùng với quyền tự do lập hội. Tuy nhiên quyền tự do kinh doanh là một quyền có nhận thức không rõ ràng về nội hàm của nó. Luật thực định đã từng qui định cụ thể về quyền này, nhưng không nhận được sự nhất trí cao về nội dung và nay đã không còn xuất hiện trong các văn bản pháp luật mới được ban hành. Bộ luật Dân sự năm 2005 (đã bị thay thế) qui định tại Điều 50 rằng: “Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng,
  • 33. 33 thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật”. Điều luật này nói tới các nội dung chủ yếu của quyền tự do kinh doanh. Theo đó, quyền tự do kinh doanh bao hàm trong nó các quyền như: (1) Tự do thành lập công ty; (2) Tự do lựa chọn việc tiến hành các hành vi thương mại; (3) Tự do do hợp đồng; và (4) Tự do mua bán sức lao động. Các quyền tự do căn bản được bao hàm trong quyền tự do kinh doanh để người kinh doanh có thể hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu một trong các quyền đó, thì hoạt động kinh doanh không thể tiến hành. Thế nhưng về mặt lý luận, GS. TS Mai Hồng Quỳ cho rằng: “Quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả năng hành động, khả năng được lựa chọn và quyết định, một cách có ý thức của cá nhân hay doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến và trong hoạt động kinh doanh; chẳng hạn như tự do quyết định các vấn đề khi thành lập doanh nghiệp, lựa chọn qui mô và ngành nghề kinh doanh; lựa chọn địa bàn kinh doanh; tự do hợp đồng, tự do lựa chọn đối tác, bạn hàng trong kinh doanh; tự do lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp…vv.” [17, tr 54]. Định nghĩa này có nhiều khiếm khuyết trong việc hiểu các khái niệm của khoa học pháp lý như “quyền tự do”, “doanh nghiệp”…, trong việc xem xét nội hàm quá rộng nhưng thiếu thành tố chính của tự do kinh doanh. Định nghĩa này đã bao trùm toàn bộ lĩnh vực hoạt động kiếm sống của tư nhân, có lẽ khó có thể phân biệt nó với các quyền tự do khác như tự do hợp đồng, tự do lập hội, tự do định đoạt của các chủ thể của luật tư… Định nghĩa này khá giống với định nghĩa được đưa ra bởi Bùi Ngọc Cường trong luận án tiến sĩ của ông mà đã được bảo vệ rất lâu trước khi định nghĩa của GS. TS Mai Hồng Quỳ xuất hiện trong sách chuyên khảo. Định nghĩa của nghiên cứu sinh Bùi Ngọc Cường như sau: “Theo nghĩa chủ quan hay nhìn nhận dưới góc độ quyền chủ thể: quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả
  • 34. 34 năng hành động một cách có ý thức của cá nhân hay pháp nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo nghĩa này, quyền tự do kinh doanh bao hàm những khả năng mà cá nhân hay pháp nhân có thể xử sự như: tự do đầu tư tiền vốn để thành lập doanh nghiệp; tự do do chọn mô hình tổ chức kinh doanh; tự do lựa chọn đối tác để thiết lập quan hệ kinh tế, tự do cạnh tranh, tự định đoạt trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh…” [12, tr. 13]. Nghĩa của quyền tự do kinh doanh rất rộng trong định nghĩa nói trên. Bùi Ngọc Cường cho rằng: “Những khả năng này là thuộc tính tự nhiên của cá nhân (hay pháp nhân) chứ không phải do Nhà nước ban tặng”. Khả năng này theo ông phải được nhà nước pháp luật hóa mới có thể trở thành hiện thực, vì vậy theo nghĩa khách quan, quyền tự do kinh doanh là một chế định pháp luật qui định về các quyền tự do nói trên [12, tr. 13- 14]. PGS. TS Ngô Huy Cương xác định rõ và cụ thể các thành tố của quyền tự do kinh doanh bao gồm: “Nói đơn giản, quyền tự do kinh doanh (freedom of enterprise) bao gồm: quyền tự do trở thành thương nhân; quyền tự do tạo lập doanh nghiệp; quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh; quyền tự do lựa chọn qui mô kinh doanh; quyền tự do quản trị và vận hành doanh nghiệp; quyền tự do thuê mướn và sử dụng lao động; và quyền tự do lựa chọn nơi và phương thức cung cấp sản phẩm và dịch vụ của thương nhân. Gắn liền với các quyền tự do này là quyền chống lại các hành vi cấm đoán hoặc gây cản trở những quyền tự do nói trên” [5, tr. 28]. Trong các thành tố trên thì thành tố “quyền tự do trở thành thương nhân là quan trọng nhất” có tính chất nền tảng bởi các thành tố sau đó là phái sinh. Cần phải hiểu thương nhân ở đây bao gồm cả thương nhân thể nhân và thương nhân
  • 35. 35 pháp nhân. Còn doanh nghiệp là tài sản của thương nhân dùng cho hoạt động thương mại [5, tr. 22]. Qua định nghĩa này có thể hiểu quyền tự do lập hội là một quyền con người tạo ra nền tảng pháp lý cho quyền tự do kinh doanh, thực chất là “quyền tự do trở thành thương nhân”; còn các quyền thành tố khác trong quyền tự do kinh doanh chỉ là phái sinh nhằm bảo đảm cho hoạt động của thương nhân có hiệu quả. Quyền tự do trở thành thương nhân là một lẽ thông thường, nhưng khó có thể có nổi trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia ở Việt Nam. Đó là lý do tại sao quyền tự do kinh doanh lại trở thành một quyền được nhắc tới nhiều ở Việt Nam hiện nay [10]. 1.5.2. Cấu trúc và nguồn của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội Phân loại hội cho thấy hội là một phương thức quan trọng trong sinh hoạt sống của con người và xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy nó là đối tượng điều chỉnh của cả luật công và luật tư. Thông thường luật công, nhất là luật hiến pháp thường xác định nguyên tắc hiến định ghi nhận quyền tự do lập hội với tính cách là một quyền con người. Nguyên tắc hiến định này tạo ra cơ sở pháp lý cho các qui định của các ngành luật khác. Quyền tự do theo nguyên tắc này thường được hiểu bao gồm hai mặt: một là tự do lựa chọn; và hai là tự do chống lại những cấm đoán hoặc gây cản trở tới tự do lựa chọn [5, tr. 22]. Căn cứ vào đó luật tư qui định về nguồn gốc hợp đồng của hội. Tuy nhiên ngay bản thân hội có mục đích kinh tế lại được chia thành hai loại là hội dân sự (chuyên tiến hành các hành vi dân sự) và hội thương mại (chuyên tiến hành các hành vi thương mại) ở những hệ thống pháp luật có sự phân biệt giữa luật dân sự và luật thương mại. Do đó Bộ luật Dân sự chỉ qui định về các qui định chung nhất về hội và hội dân sự; còn các qui định riêng về hội thương mại do Bộ luật Thương mại qui định. Thực tế lịch sử pháp luật Việt Nam diễn ra đã để lại nhiều tri thức và kinh nghiệm quí báu về xây dựng Bộ luật Dân sự liên quan tới hợp đồng lập hội. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 được xây dựng trên căn bản không có sự phân biệt giữa luật dân sự và luật thương mại. Do đó Bộ luật này có Chương thứ IX nói về khế ước lập hội mà tại đó qui định luôn cả các hình thức thương hội. Bộ luật Dân sự Trung Kỳ năm 1936 lại
  • 36. 36 có khuynh hướng tách bạch giữa luật dân sự và luật thương mại. Bộ luật Dân sự năm 1972 của Chính quyền Sài Gòn (cũ) vẫn giữ nguyên khuynh hướng này nên có qui định liên tiếp bốn điều luật như sau: “Điều thứ 1264. – Khế ước lập hội là khế ước theo đó hai hay nhiều người đồng ý góp công, góp của để hoạt động với mục đích kiếm được lời cùng chia nhưng nếu thua cùng chịu lỗ. Điều thứ 1265. – Hội đoàn thành lập như trên có tính cách dân sự hay thương sự tùy theo mục tiêu của hội đoàn là những hành vi dân sự hay hành vi thương mại. Điều thứ 1266. – Tuy nhiên, hội đoàn thành lập dưới một trong những hình thức dưới đây đều là hội buôn, bất kể mục tiêu của hội đoàn có tính cách dân sự hay thương sự: 1) công ty cổ phần, 2) công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều thứ 1267. – Chương này chỉ áp dụng cho hội buôn về những điểm không trái với luật lệ thương mại”. Các điều luật này không chỉ cho thấy việc xây dựng nguồn của pháp luật (pháp điển hóa) phải dựa trên cơ sở phân loại hội, mà còn cho thấy cách thức phân loại hội theo tư pháp dựa trên sự phân biệt giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại. Các hội có hình thức công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn đều được xem là hành vi thương mại do hình thức, nên phải là hội thương mại không xét đến mục tiêu hoạt động có tính cách dân sự hay thương mại. Luật công, ngoài luật hiến pháp, có vai trò định ra những tiêu chuẩn cho các hội nói chung mà trong đó có cả hội có mục đích kinh tế nhằm bảo vệ cộng đồng trước sự ảnh hưởng xấu của hội. Ngoài ra luật công còn có vai trò thiết lập các chế tài hành chính và hình sự cho các hội và hành vi lập hội không đủ tiêu chuẩn. Nhiều nước có đạo luật trong lĩnh vực luật hành chính điều tiết riêng những hội không có mục đích kinh tế với những hạn chế rõ ràng trong chừng mực chỉ nhằm bảo vệ trật tự công cộng và đạo đức xã hội mà không cản trở
  • 37. 37 quyền tự do lập hội một cách không có lý do chính đáng. Ngoài các điều cấm và các chế tài trong Bộ luật Hình sự về những hành vi nguy hiểm liên quan tới hội và các chế tài hành chính trong đạo luật về xử lý vi phạm hành chính, các đạo luật khác (không kể trong lĩnh vực luật công hay luật tư) về hội có thể qui định về tội phạm và hình phạt, và các chế tài hành chính liên quan. Việc qui định tội phạm và hình phạt ngoài Bộ luật Hình sự giúp cho việc hiểu biết để phòng chống các vi phạm về hội dễ dàng hơn, đồng thời giúp cho việc giải thích và áp dụng các qui tắc của luật hình sự liên quan tới hội có hiệu quả hơn bởi gắn với các qui tắc thực tiễn của hội. 1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng lập hội Tranh chấp là một thực tế khách quan không thể phủ nhận có thể xảy ra trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hợp đồng lập hội là một lĩnh vực pháp lý xảy ra nhiều tranh chấp bởi chính vai trò và ý nghĩa quan trọng của nó trong đời sống xã hội. Tuy nhiên các tranh chấp phát sinh nó không thể xa rời với các vấn đề của tranh chấp hợp đồng nói chung. Vì vậy nghiên cứu tranh chấp hợp đồng lập hội phải xuất phát từ những ý niệm chung về tranh chấp hợp đồng. Dù là vấn đề pháp lý thường nhật, nhưng để hiểu đầy đủ và định nghĩa chính xác về tranh chấp không phải là đơn giản, ngay cả tranh chấp hợp đồng. Giáo trình giảng dạy luật và các công trình nghiên cứu riêng của các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa khái niệm tranh chấp hợp đồng, tuy nhiên cũng chưa đầy đủ và còn nhiều ý kiến băn khoăn. Học viện Tư pháp định nghĩa tranh chấp hợp đồng trong giáo trình dạy thực hành nghề luật như sau: “Tranh chấp hợp đồng là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng liên quan tới việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng” [14, tr. 53]; và giải thích: “Tranh chấp hợp đồng có các yếu tố sau:
  • 38. 38 a) Có một quan hệ hợp đồng tồn tại giữa các bên tranh chấp; b) Có sự vi phạm (hoặc giả thiết là vi phạm) nghĩa vụ của một bên làm ảnh hưởng tới lợi ích của bên kia; c) Có sự bất đồng ý kiến của các bên về sự vi phạm hoặc xử lý hậu quả phát sinh từ sự vi phạm [14, tr. 53]. Trong lĩnh vực giảng dạy lý thuyết về hành vi thương mại mà trong đó có hợp đồng thương mại, Giáo trình luật thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại” [21, tr. 432]. Nhiều nhà khoa học cũng có định nghĩa khá tương đồng với nhau về tranh chấp kinh doanh, thương mại. Chẳng hạn: TS. Phan Chí Hiếu viết: “Tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ kinh tế” [13 , tr. 98]. PGS. TS Phạm Hữu Nghị cũng cho rằng: “Tranh chấp trong kinh doanh là mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh” [16, tr. 73]. Nhận xét về các định nghĩa này, PGS. TS Ngô Huy Cương bình luận rõ rằng các định nghĩa này mới chỉ đề cập tới các xung đột lợi ích hay quyền và nghĩa vụ khi quan hệ hợp đồng đã hình thành, như vậy còn thiếu nhiều tranh chấp hợp đồng khác chưa được đề cập tới, và muốn định nghĩa đầy đủ thì cần phải phân loại tranh chấp hợp đồng như sau: (1) Căn cứ vào giai đoạn của quan hệ hợp đồng, có thể phân loại thành tranh chấp tiền hợp đồng, tranh chấp về thực hiện hợp đồng, và tranh chấp khi chấm dứt quan hệ hợp đồng; (2) Căn cứ vào nội dung tranh chấp, có thể phân loại thành tranh chấp về việc hiểu hay giải thích hợp đồng, và tranh chấp về thực hiện hợp đồng [3, tr. 58].
  • 39. 39 Theo đó tranh chấp hợp đồng lập hội bao gồm: Loại thứ nhất, tranh chấp trong nội bộ của hội: Tranh chấp giữa thành viên của hội đối với hội, giữa các thành viên của hội đối với nhau (về việc gia nhập hội; rời khỏi hội; thực hiện quyền và nghĩa vụ trong sinh hoạt hội; chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của hội, chế độ và chính sách đãi ngộ; phân chia tài sản còn lại của hội sau khi chấm dứt hội; đóng góp lập hội; trả chi phí trong qui trình lập hội; tổ chức lại hội; ý nghĩa của điều lệ, hợp đồng, các văn bản nội bộ của hội; giải thích mục tiêu, phương hướng và chính sách hoạt động của hội; quản trị hội; bầu cử trong hội; nhân sự của hội…); Loại thứ hai, tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với hội trong việc cho phép hay không cho phép thành lập hội, trong việc giải thể hội, trong việc áp đặt các chế tài khác đối với hội, trong việc can thiệp vào tổ chức và hoạt động của hội… Các tranh chấp thuộc loại thứ nhất là các tranh chấp luật tư. Các tranh chấp thuộc loại thứ hai là các tranh chấp luật công. Do đó hai loại tranh chấp này có các phương thức giải quyết không giống nhau. Ngay cả khi tranh chấp được giải quyết tại tòa án thì cũng có sự phân biệt về thẩm quyền và tố tụng, trừ khi tranh chấp về vi hành vi phạm tội. Các tranh chấp loại thứ hai thường thuộc thẩm quyền của tòa hành chính và cũng có thể giải quyết tại các cơ quan hành chính nhà nước thông qua con đường khiếu nại, tố cáo hoặc theo qui định khác của pháp luật. Các tranh chấp thuộc loại thứ nhất có thể lựa chọn một trong các phương thức giải quyết tranh chấp luật tư trên nền tảng nguyên lý quyền tự do thỏa thuận, tự định đoạt của đương sự. Các phương thức giải quyết này bao gồm: (1) Các phương thức giải quyết tranh chấp bằng nhà nước mà có thể chia thành hai phương thức nhỏ hơn là phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án (con đường tư pháp) và phương thức giải quyết tranh chấp tại các cơ quan hành chính nhà nước (con đường hành chính); (2) các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước mà theo pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ bao gồm thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại. Hiện trên thế giới các phương thức giải
  • 40. 40 quyết tranh chấp ngoài các cơ quan nhà nước có thể bao gồm: (1) Thương lượng (negotiation); (2) Hòa giải (mediation); (3) Tiểu xét xử (minitrials); (4) Xét xử bởi bồi thẩm đoàn giản lược (summary jury trial); (5) Trọng tài (arbitration); (6) Hòa giải - trọng tài (mediation-arbitration); và (7) Xét xử tư (private judging) [3, tr. 57]. Về nguyên tắc, các bên tranh chấp trong luật tư có thể lựa chọn hoặc sáng tạo ra các hình thức giải quyết tranh chấp mới vì họ có quyền tự do thỏa thuận và tự định đoạt, tuy nhiên còn phụ thuộc và sự hỗ trợ của nhà nước trong việc thi hành kết quả giải quyết tranh chấp [11].