Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cho các bạn tham khảo
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Đề tài: Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự theo pháp luật
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN HOÀI THANH
Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ TRONG GIAO DỊCH DÂN
SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2. 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN HOÀI THANH
Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ TRONG GIAO DỊCH DÂN
SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu
HÀ NỘI - 2014
4. 4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ GIAO
DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ
CỦA CHỦ THỂ
5
1.1. Khái niệm và phân loại giao dịch dân sự 5
1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự 5
1.1.2. Phân loại giao dịch dân sự 8
1.2. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 12
1.2.1. Điều kiện về chủ thể 12
1.2.2. Điều kiện về nội dung, mục đích 15
1.2.3. Điều kiện về ý chí 16
1.2.4. Điều kiện về hình thức 18
1.3. Khái niệm giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí 20
Chương 2: CÁC TRƯỜNG HỢP GIAO DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM
SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ
24
2.1. Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý
chí của chủ thể
24
2.1.1. Giao dịch dân sự nhầm lẫn 24
2.1.2. Giao dịch dân sự lừa dối 30
2.1.3. Giao dịch dân sự đe dọa 34
5. 5
2.1.4. Giao dịch dân sự giả tạo 40
2.1.5. Giao dịch dân sự được thiết lập do người thiết lập tại thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
43
2.2. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý chí
của chủ thể
47
2.2.1. Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối 48
2.2.2. Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối 50
2.3. Hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự
tự nguyện về ý chí của chủ thể
51
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH
DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA
CHỦ THỂ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
56
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do
vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể
56
3.1.1. Thực tiễn về giao dịch dân sự nhầm lẫn 56
3.1.2. Thực tiễn về giao dịch dân sự lừa dối 59
3.1.3. Thực tiễn về giao dịch dân sự bị đe dọa 62
3.1.4. Thực tiễn về giao dịch dân sự giả tạo 64
3.1.5. Thực tiễn về giao dịch dân sự do người xác lập không nhận
thức và làm chủ được hành vi
67
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện vấn đề giao dịch dân sự vi phạm
sự tự nguyện về ý chí của chủ thể
71
3.2.1. Các quy định chung về sự tự nguyện về ý chí của chủ thể
trong giao dịch dân sự
71
3.2.2. Quy định cụ thể về những trường hợp vi phạm sự tự nguyện
về ý chí của chủ thể
74
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
6. 6
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Việc xác lập các giao dịch dân sự giữa các chủ thể là một hiện tượng tất
yếu khách quan trong cuộc sống, là một đặc trưng cơ bản của xã hội loài
người. Trình độ phát triển, tiến bộ xã hội ngày càng cao, các quyền dân chủ,
tự do giành cho cá nhân ngày càng lớn, hoạt động của mỗi cá nhân ngày càng
đa dạng, thì các giao dịch dân sự ngày càng phong phú và phức tạp. Việc đảm
bảo cho các giao dịch dân sự đó diễn ra theo đúng ý chí của chủ thể xác lập,
mang lại lợi ích mà chủ thể mong muốn và không ảnh hưởng đến sự ổn định,
trật tự của xã hội có ý nghĩa hết sức to lớn. Việt Nam đang trong giai đoạn
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc giải
quyết vấn đề trên càng trở nên cấp thiết.
Cách thức được lựa chọn là tạo ra những quy chuẩn, giới hạn của tự do
ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự. Bởi ý chí chủ thể là yếu tố hình
thành và có tính chất quyết định đến nội dung cũng như hiệu lực của giao dịch
dân sự. Tuỳ từng trường hợp vi phạm điều kiện về ý chí của chủ thể mà pháp
luật đặt ra các cách thức xử lý khác nhau như: bổ sung, giải thích, hoàn thiện
và thực hiện giao dịch hoặc tuyên bố giao dịch dân sự bị vô hiệu khi có yêu
cầu hay mặc nhiên phủ nhận sự tồn tại của giao dịch dân sự đó.
Thực tế hiện nay phát sinh rất nhiều tranh chấp về hợp đồng dân sự hay
hành vi pháp lý đơn phương liên quan đến điều kiện về ý chí của chủ thể. Đặc
biệt là các hợp đồng quan trọng như: chuyển nhượng quyền sử dụng đất,nhà
ở, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm, mua bán hàng hoá hay trong vấn đề
lập di chúc của người để lại di sản với những dấu hiệu của sự lừa dối, đe doạ,
giả tạo, nhầm lẫn do thiếu hiểu biết và cẩu thả... Có tranh chấp đã được giải
quyết song phải trải qua rất nhiều phiên toà với những phán quyết khác nhau,
7. 7
có tranh chấp trải qua nhiều thủ tục tại các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa
có được một phán quyết cuối cùng.
Nhằm nâng cao hiểu biết, giúp hạn chế khả năng tham gia vào các giao
dịch dân sự vi phạm điều kiện về ý chí, giải quyết một cách chính xác các
tranh chấp phát sinh. Nghiên cứu các quy định về ý chí của chủ thể trong giao
dịch dân sự là vô cùng cần thiết. Do đó, tôi chọn đề tài: “Ý chí của chủ thể
trong giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn thạc sỹ. Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự là một nội dung rất rộng
và phức tạp, vì vậy luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đến vấn đề sự tự nguyện
về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự cũng
đã được đề cập trong các bài viết nghiên cứu trao đổi và các công trình nghiên
cứu bảo vệ khoa học.
Công trình của tác giả: Nguyễn Thị Nhàn, "Ý chí của chủ thể trong giao
dịch dân sự", Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2008; Bùi Thị Thu Huyền, "Hợp
đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về ý chí của chủ thể", Luận văn thạc sĩ
Luật học, năm 2010. Hai công trình này trực tiếp đề cập đến ý chí của chủ thể
trong thời gian gần đây, song công trình của tác giả Bùi Thị Thu Huyền chỉ
nghiên cứu trong phạm vi hợp đồng dân sự còn công trình của tác giả Nguyễn Thị
Nhàn lại nghiên cứu theo từng giao đoạn xác lập và thực hiện giao dịch dân sự.
Bài viết đăng trên tạp chí của tác giả: Tiến sĩ Ngô Huy Cương "Tự do
ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay", Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, 2008. Tiến sĩ Đỗ Văn Đại: "Nhầm lẫn trong chế định
hợp đồng: những bất cập và hướng sửa đổi", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
năm 2008; Lê Thị Bích Thọ: "Lừa dối trong giao kết hợp đồng", Báo Thông
tin pháp luật, năm 2008... Các bài viết này một số đi theo hướng hàn lâm,
8. 8
nghiên cứu theo học thuyết tự do ý chí, một số lại chỉ nghiên cứu một trường
hợp vi phạm ý chí chủ thể cụ thể.
Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài "Ý chí của chủ thể trong giao dịch
dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay" để làm sáng tỏ các quy định của
pháp luật, những vướng mắc trong thực tiễn thực hiện và mạnh dạn đề xuất
một vài ý kiến hoàn thiện pháp luật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Phân tích những vấn đề lý luận về giao dịch dân sự và giao dịch dân
sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể.
- Phân tích các quy định pháp lý về các loại giao dịch dân sự vi phạm
sự tự nguyện về ý chí của chủ thể, hậu quả pháp lý của việc vi phạm sự tự
nguyện về ý chí của chủ thể, tập trung vào các quy định về giao dịch dân sự
vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể.
- Phân tích thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật giải quyết
các tranh chấp, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả
năng áp dụng pháp luật xung quanh vấn đề vi phạm sự tự nguyện về ý chí của
chủ thể trong giao dịch dân sự.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt
ra, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tác giả đã sử dụng và kết hợp một cách đồng bộ các
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh để giải quyết nhiệm vụ đặt ra
trong luận văn.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
9. 9
- Phân tích một cách có hệ thống cách khía cạnh của sự tự nguyện về
ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự. Phân tích và so sánh được các quy
định về sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự của pháp
luật Việt Nam hiện hành và trước đây; so sánh với pháp luật nước ngoài.
- Đánh giá được các nguyên nhân dẫn đến việc xác lập giao dịch vi
phạm sự tự nguyện về ý chí chủ thể, tình hình tranh chấp và áp dụng các quy
định pháp luật xử lý tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự vi phạm các
điều kiện về sự tự nguyện.
- Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi
phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giao dịch
dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vi phạm
sự tự nguyện về ý chí của chủ thể và kiến nghị hoàn thiện.
10. 10
Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ GIAO DỊCH DÂN SỰ
VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự
Từ thời cổ đại đến nay giao dịch còn được gọi với các tên khác nhau
như khế ước, giao ước, hiệp ước. Theo Từ điển tiếng Việt thì giao dịch là sự
giao tiếp, tiếp xúc, giao kèo… giữa hai hay nhiều đối tác với nhau. Hiểu theo
khía cạnh pháp lý thì giao dịch chính là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm
hướng tới một mục đích làm phát sinh hậu quả pháp lý nhất định.
Ngày nay, vị trí và vai trò của giao dịch ngày càng được khẳng định
trong các hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia lại có các
cách tiếp cận khác nhau. Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp không đưa ra chế định
giao dịch dân sự mà chỉ đưa ra chế định hợp đồng dân sự và chế định thừa kế.
Bộ luật dân sự Nhật Bản đưa ra chế định hành vi pháp lý bao trùm lên chế
định hợp đồng và chế định thừa kế theo di chúc. Hầu như pháp luật của các
nước đều không quy định cụ thể về khái niệm giao dịch dân sự mà nó chỉ
được đề cập đến dưới góc độ khoa học. Theo các nhà khoa học Nhật Bản thì:
"Giao dịch dân sự là hành vi hợp pháp nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự" [53, tr. 114]. Như vậy, các nhà khoa học Nhật
Bản không nêu ra cụ thể các loại giao dịch mà nó là tất cả những hành vi tự
nguyện của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm thu được
một kết quả nhất định với điều kiện các hành vi này không trái pháp luật.
Theo pháp luật Việt Nam, trước khi có Bộ luật dân sự 1995 chúng ta
chưa có quy định riêng về giao dịch dân sự mà chỉ được đề cập dưới góc độ là
hợp đồng dân sự (Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991), hoặc ý chí đơn
11. 11
phương của chủ thể trong việc lập di chúc (Pháp lệnh thừa kế năm 1990). Bộ
luật dân sự năm 1995 đã chính thức đề cập đến giao dịch dân sự với quy định
cụ thể về khái niệm, điều kiện có hiệu lực của giao dịch, hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu… Trong Bộ luật dân sự năm 2005, giao dịch dân sự
được quy định trong chương VI, Phần thứ nhất của bộ luật, giao dịch dân sự
là hợp đồng được quy định tại Mục 7 Phần 3, giao dịch dân sự là hành vi pháp
lý đơn phương được quy định qua các hợp đồng như hứa thưởng, thi có giải.
Theo đó, Điều 121 Bộ luật dân sự 2005 quy định: "Giao dịch dân sự là
hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự" [35]. Giao dịch dân sự trước hết phải là
hành vi do con người tiến hành một cách có ý thức và có mục đích. Để tham
gia vào giao dịch dân sự cụ thể người đó phải có đủ tư cách chủ thể. Tức là
phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đủ để đảm bảo họ ý
thức được họ muốn gì, ý thức được hành vi họ đang tiến hành và chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Nói cách khác, giao dịch dân sự là hành vi có ý
chí của chủ thể. Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đa phương (hợp đồng)
hoặc đơn phương, tức là một loại sự kiện pháp lý - sự kiện xảy ra trong thực
tế mà pháp luật dự liệu, quy định là phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định.
Tùy từng giao dịch dân sự cụ thể, hậu quả pháp lý đó là làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể. Giao dịch là hành
vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch
dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch.
Tóm lại, có thể rút ra một số đặc điểm của giao dịch dân sự như sau:
Thứ nhất, giao dịch dân sự phải có ý chí và thể hiện được ý chí của
chủ thể tham gia giao dịch. Khi tham gia vào giao dịch dân sự, các chủ thể
đều mong muốn đạt được những mục đích nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu
sản xuất, kinh doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng. Để đạt được mục đích đó, các
chủ thể phải thể hiện được ý chí của mình. Khi xác lập giao dịch các bên phải
12. 12
thể hiện ý chí của mình ra bên ngoài và phải có sự thỏa thuận thống nhất
những nội dung mà họ đã thể hiện. Nếu các bên không thỏa thuận được thì
giao dịch cũng sẽ không được giao kết. Trường hợp giao dịch dân sự là hành
vi pháp lý đơn phương mà nội dung chính của giao dịch do một bên đưa ra,
tuy bên kia không trực tiếp thỏa thuận nhưng về cơ bản họ phải đồng ý với tất
cả nội dung, điều kiện do bên đã đưa ra và tự nguyện tham gia giao dịch.
Thứ hai, sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong giao dịch dân sự nhằm
hướng tới một hậu quả pháp lý nhất định. Bởi vì không phải bất kì một hợp
đồng dân sự hay hành vi pháp lý đơn phương nào cũng được coi là giao dịch
dân sự. Chỉ được coi là giao dịch dân sự khi hành vi pháp lý đó phải nhằm làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự với chủ thể khác.
Thứ ba, mục đích của giao dịch dân sự là những lợi ích hợp pháp mà
các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Mục đích của giao dịch
dân sự chính là hậu quả pháp lý sẽ phát sinh từ giao dịch mà các bên mong
muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp
luật thì mục đích đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội.
Thứ tư, các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện. Sự tự nguyện là
một nguyên tắc quan trọng trong quá trình thiết lập giao dịch. Đây là sự phản
ánh tính thống nhất giữa ý chí và thể hiện ý chí của các chủ thể. Bản chất của
giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí cho nên sự tự
nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí, giữa
chúng phải có sự thống nhất với nhau. Nếu không có tự do ý chí và bày tỏ ý
chí hoặc không có sự thống nhất giữa hai yếu tố này thì cũng không có sự tự
nguyện. Giao dịch dân sự khi vi phạm sự tự nguyện có thể dẫn đến vô hiệu.
Từ những phân tích trên ta có thể kết luận: Giao dịch dân sự là sự thể
hiện ý chí một cách tự nguyện của các chủ thể trong khuôn khổ của pháp luật
để làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự. Qua đó
góp phần cho giao lưu dân sự phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội.
13. 13
1.1.2. Phân loại giao dịch dân sự
1.1.2.1. Căn cứ vào sự thể hiện ý chí của chủ thể
Căn cứ vào ý chí của chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự thì giao dịch
dân sự được phân thành hai loại đó là: Hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý
đơn phương.
Hợp đồng dân sự là loại giao dịch dân sự phổ biến và thông dụng nhất
trong đời sống hàng ngày và chiếm một vị trí quan trọng trong việc điều tiết
các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hợp đồng
dân sự có thể diễn ra giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân với pháp nhân,
hay giữa các pháp nhân, tổ chức với nhau. Các bên tự do thỏa thuận trên cơ sở
tự nguyện, bình đẳng nhằm đạt được mục đích nhất định về vật chất hoặc tinh
thần nhưng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội của quốc gia mà các
chủ thể tham gia hợp đồng chịu sự điều chỉnh.
Thông thường hợp đồng dân sự có hai bên tham gia, trong đó thể hiện
sự thống nhất ý chí của các chủ thể trong một mối quan hệ cụ thể như mua
bán, cho thuê, nhưng cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia như hợp
đồng hợp tác. Mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham
gia như mua bán tài sản chung. Trong hợp đồng, ý chí của một bên đòi hỏi sự
đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chí giữa các bên, từ đó mới hình
thành được hợp đồng. Do vậy, hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí của hai hay
nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Sự
thỏa thuận vừa là nguyên tắc, vừa là đặc trưng của hợp đồng dân sự và được
thể hiện trong tất cả các giai đoạn của quan hệ hợp đồng: từ giao kết đến thực
hiện hoặc sửa đổi, chấm dứt hợp đồng dân sự.
Sự tự do thỏa thuận giữa các chủ thể trong giao dịch dân sự thường là
sự bàn bạc, đi đến thống nhất ý chí của các bên trong việc làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự nhất định. Việc thỏa thuận này
không bị cản trở bởi bất cứ yếu tố nào, trừ trường hợp trái pháp luật và đạo
14. 14
đức xã hội. Ví dụ như khi các bên tham gia kí kết hợp đồng mua bán một
chiếc xe máy thì chủ sở hữu và người mua xe có quyền tự do bàn bạc giá cả,
phương thức thanh toán, thời gian, địa điểm giao xe…
Trên thực tế thì sự tự do thỏa thuận mới chỉ là điều kiện cần nhưng
chưa phải là điều kiện đủ. Bởi lẽ, sự thỏa thuận phải làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên mới hình thành hợp đồng.
Ví dụ lời hứa của cha mẹ với con cái không làm phát sinh hậu quả pháp lý.
Thậm chí trong một số trường hợp hành vi thỏa thuận giữa các bên có ý chí
làm phát sinh hậu quả pháp lý nhưng sau đó nếu các bên không mong muốn
tiếp tục thì hậu quả cũng không xảy ra. Đây là yếu tố quan trọng để xác định
sự khác nhau giữa hợp đồng với các quan hệ xã hội khác. Sự thỏa thuận phải
dựa trên cơ sở pháp luật cho phép, nếu trái với các quy định của pháp luật thì
hợp đồng có thể bị vô hiệu, các bên giải quyết hậu quả theo quy định của
pháp luật hoặc tự thỏa thuận.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch dân sự trong đó thể hiện ý
chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự. Hành vi pháp lý đơn phương là sự tuyên bố ý chí công khai của một
phía chủ thể, nên việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Ví dụ như hành vi lập di chúc của
một chủ thể đối với tài sản hợp pháp của mình, người đố đã thể hiện ý chí cá
nhân để định đoạt tài sản mà họ có, không phụ thuộc vào ý chí của bên nhận
di sản. Như vậy, ý chí của người lập di chúc không phụ thuộc vào ý chí của
người khác nhưng làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật thuộc giao dịch
dân sự.
Thông thường hành vi pháp lý đơn phương được xác lập theo ý chí
của một bên chủ thể duy nhất (lập di chúc, từ chối hưởng di sản, hứa thưởng…).
Có thể có nhiều chủ thể cùng tham gia và một bên của giao dịch (hai cá nhân,
tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng, di chúc chung của vợ chồng…). Trong
15. 15
nhiều trường hợp, hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả khi có
những người khác đáp ứng được những điều kiện nhất định do người xác lập
giao dịch đưa ra. Những người này phải đáp ứng được các điều kiện nhất định
đó mới làm phát sinh nghĩa vụ của người xác lập giao dịch (hứa thưởng, thi
có giải…). Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên nội dung và
hình thức phải phù hợp với các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
1.1.2.2. Căn cứ vào hình thức của giao dịch dân sự
Căn cứ vào hình thức thể hiện của giao dịch dân sự thì giao dịch dân
sự được thể hiện dưới hình thức lời nói, giao dịch thể hiện dưới hình thức văn
bản và giao dịch thể hiện dưới hình thức hành vi cụ thể.
Thông thường hình thức lời nói của giao dịch dân sự được áp dụng đối
với các giao dịch có giá trị không lớn hoặc giữa các chủ thể có sự quen biết,
tin cậy lẫn nhau hoặc với các giao dịch dân sự phát sinh hậu quả pháp lý sau
khi thỏa thuận và các bên thực hiện nghĩa vụ ngay sau đó giao dịch chấm dứt.
Giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức văn bản có thể do các bên
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong trường hợp pháp luật quy định
giao dịch dân sự phải được thể hiện dưới hình thức văn bản thì các chủ thể
tham gia phải tuân theo hình thức này. Ngoài ra giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch
bằng văn bản như: fax, telex…
Giao dịch dân sự thể hiện bằng hành vi cụ thể: hình thức này cũng phổ
biến trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi công nghệ ngày càng phát triển với
sự tự động hóa được áp dụng ở nhiều nơi như: bán hàng qua máy tự động, rút
tiền ở các máy ATM…
1.1.2.3. Giao dịch dân sự có điều kiện
Dựa vào thời điểm làm phát sinh, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, giao dịch dân sự được chia thành giao dịch có điều kiện làm phát sinh
hiệu lực và giao dịch có điều kiện làm chấm dứt hiệu lực.
16. 16
Trong khi thực hiện giao dịch dân sự, đôi khi các bên xác định là giao
dịch dân sự đó chỉ phát sinh hoặc chấm dứt hiệu lực khi xảy ra một sự kiện
nhất định. Các giao dịch đó được gọi là giao dịch dân sự có điều kiện và các
sự kiện đó được gọi là điều kiện. Các điều kiện đó dự liệu khả năng có thể
xảy ra nhưng không chắc chắn xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, sự kiện
được coi là điều kiện phải là sự kiện xảy ra một cách tự nhiên. Nếu một trong
các chủ thể của giao dịch dân sự có hành vi ngăn cản không cho các điều kiện
đó xảy ra hoặc hành vi thúc đẩy cho điều kiện đó nhanh chóng xảy ra để
không thực hiện nghĩa vụ thì cũng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự có thể được xác lập với điều kiện làm phát sinh hoặc
hủy bỏ. Trong trường hợp giao dịch dân sự có điều kiện phát sinh, việc xảy ra
điều kiện đó sẽ làm phát sinh hiệu lực của giao dịch. Ví dụ: A hứa thưởng cho
B chiếc máy tính nếu B đỗ đại học. Trong trường hợp B đỗ đại học thì sẽ phát
sinh hậu quả pháp lý là B sẽ được A thưởng cho chiếc máy tính (hợp đồng
tặng cho có điều kiện). Nếu B không thi đỗ đại học thì hậu quả pháp lý sẽ
không xảy ra.
Giao dịch có điều kiện hủy bỏ là giao dịch trong đó việc xảy ra điều
kiện sẽ hủy bỏ hiệu lực của giao dịch. Ví dụ: Công ty A cam kết với sinh viên
B sẽ cấp học bổng trong thời gian học tập, nếu điểm trung bình của các môn
trong 1 học kỳ không đạt được 7,00 trở lên thì công ty A không cấp học bổng
cho B nữa. Như vậy, nếu B không đạt được điểm trung bình của kì học từ
7,00 trở lên sẽ dẫn đến việc hủy bỏ việc cấp học bổng.
Trên nguyên tắc tự do xác lập và thực hiện giao dịch, các điều kiện
của giao dịch thường do chủ thể của giao dịch lập ra. Tuy nhiên bên cạnh đó
cũng có một số trường hợp ngoại lệ, pháp luật quy định một số yêu cầu bắt
buộc mà nếu các chủ thể không tuân thủ thì sẽ làm cho giao dịch trở nên vô
hiệu. Ví dụ như:
17. 17
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường
hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ
quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế [35, Điều 635].
Pháp luật không cho phép thực hiện các giao dịch dân sự có điều kiện
nếu điều kiện đó vi phạm pháp luật. Ví dụ như A hứa thưởng cho B nếu như
B đánh trọng thương C, giao dịch này sẽ bị vô hiệu ngay từ khi giao kết.
Ngoài ra, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể
khi tham gia giao dịch cũng như đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên, pháp
luật cũng quy định:
Trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao
dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của một
bên hoặc của người thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; nếu
có sự tác động của một bên hoặc của người thứ ba cố ý thúc đẩy
cho điều kiện để làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự xảy ra
thì coi như điều kiện đó không xảy ra [35, Điều 125].
1.2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.2.1. Điều kiện về chủ thể
Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự 2005 thì: "người tham gia
giao dịch có năng lực hành vi dân sự" [35, Điều 122]. Khái niệm "người"
được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các chủ thể tham gia giao dịch dân
sự như: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.
1.2.1.1. Đối với chủ thể là cá nhân
Cá nhân được coi là chủ thể phổ biến của các giao dịch dân sự. Có thể
nói cá nhân tham gia hầu hết tất cả các giao dịch dân sự, kể cả với các giao
dịch dân sự trong đó chủ thể là pháp nhân hay các tổ chức khác, thì cá nhân
vẫn tham gia với tư cách người đại diện.
18. 18
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý
chí của chủ thể tham gia giao dịch. Vì vậy, giao dịch dân sự do cá nhân xác
lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Căn cứ vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, cũng như khả
năng thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân, pháp luật nước ta
quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ Điều 17 đến Điều 23 Bộ luật
dân sự 2005 như sau:
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được
quyền xác lập mọi giao dịch dân sự, trừ trường hợp họ bị tòa án tuyên bố mất
năng lực hành vi [35, Điều 22], tuyên bố hạn chế năng lực hành vi [35, Điều
23].
- Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa
đầy đủ, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi xác lập, thực hiện các
giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ
những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày [35, Điều 20].
- Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được xác lập các giao dịch
trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác [35, Điều 20] (ví dụ: lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ
đồng ý).
- Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự
không được phép xác lập mọi giao dịch dân sự. Các giao dịch dân sự của
những người này đều do người đại diện theo pháp luật thực hiện.
1.2.1.2. Đối với các chủ thể khác
Các chủ thể khác của giao dịch dân sự đó là: Pháp nhân, tổ hợp tác, hộ
gia đình.
19. 19
- Pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ của pháp nhân trong phạm vi điều lệ hoạt động của pháp nhân đó [35, Điều
86].
- Hộ gia đình chỉ tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền
sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một lĩnh vực
sản xuất kinh doanh khác theo quy định của pháp luật [35, Điều 106].
- Tổ hợp tác chỉ tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của tổ hợp tác được xác định trong hợp đồng [35, Điều
111].
Với tính chất là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự được tạo nên bởi sự
liên kết của nhiều cá nhân đơn lẻ, độc lập nên khi xác lập hoặc thực hiện một
giao dịch dân sự, chủ thể đó nhất thiết phải thông qua vai trò của người đại
diện của mình.
Hành vi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự do người đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
chỉ được coi là hành vi của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác nến những hành
vi này được tiến hành phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động
của chủ thể đó hoặc được ghi nhận trong quyết định thành lập pháp nhân hay
trong bản điều lệ của pháp nhân.
Hành vi pháp lý do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
thì về nguyên tắc nó sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người
được đại diện. Nó chỉ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại
diện nếu được người đó đồng ý.
Hành vi pháp lý do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi
đại diện, nó sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện
đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường
hợp người đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Tuy nhiên, trong
trường hợp không được sự đồng ý của người được đại diện thì người đại diện
20. 20
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao
dịch vượt quá phạm vi đại diện.
1.2.2. Điều kiện về nội dung, mục đích
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì "mục đích và nội dung của
giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội"
[35, Điều 122].
Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà một
hoặc các bên xác lập giao dịch đó đưa ra hoặc thỏa thuận với nhau. Các điều
khoản này xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể cho các chủ thể tham gia vào
giao dịch đó, đồng thời cũng có thể xác định trách nhiệm dân sự của các chủ
thể trong trường hợp các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
cam kết.
Mục đích của giao dịch dân sự là nhu cầu hay những lợi ích về mặt vật
chất hay tinh thần mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào một
giao dịch dân sự. Không thể có giao dịch dân sự mào mà người tham gia xác
lập, thực hiện nó không có mục đích nhất định. Mục đích này sẽ đạt được khi
nó được thể hiện thông qua các điều khoản của giao dịch và các bên thực hiện
đúng nghĩa vụ đã cam kết khi xác lập giao dịch.
Ngoài ra, không phải lúc nào mục đích của các bên tham gia giao dịch
cũng được thể hiện rõ ràng chính xác thông qua nội dung của hợp đồng.
Trong trường hợp đó cần phải làm sáng tỏ mục đích của giao dịch và cần
phân biệt mục đích với động cơ của giao dịch dân sự. Động cơ được hiểu là
cái có tác dụng chi phối, thúc đẩy những suy nghĩ, hành động. Động cơ xác
lập giao dịch là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia xác lập giao dịch, nó
không phải là yếu tố bắt buộc của giao dịch dân sự như mục đích. Vì vậy, nếu
không làm rõ được mục đích của giao dịch hoặc mục đích không đạt được thì
giao dịch đó coi như vô hiệu, sẽ không làm phát sinh bất cứ quyền và nghĩa
21. 21
vụ nào, vì mục đích của giao dịch dân sự là yếu tố bắt buộc để giao dịch có
hiệu lực pháp lý.
Khi tham gia các giao dịch dân sự thì mục đích và nội dung của giao
dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã
hội [35, Điều 128]. Theo đó, điều cấm của pháp luật là những quy định của
pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định (ví dụ
như các giao dịch nhằm thực hiện hành vi phạm tội như giết người, gây
thương tích…). Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người
với người trong đời sống xã hộ, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Tóm lại, một giao dịch dân sự muốn được coi là có hiệu lực pháp luật
thì mục đích và nội dung của giao dịch dân sự đó phải không vi phạm điều
cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
1.2.3. Điều kiện về ý chí
Đây là điều kiện được xây dựng dựa trên cơ sở nguyên tắc "tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận", một trong những nguyên tắc cơ bản của luật dân
sự được ghi nhận tại Điều 4 Bộ luật dân sự 2005.
Bản chất của giao dịch dân sự là hành vi có ý chí nhằm làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ mà các bên mong muốn đạt được. Do vậy, có thể nói bản
chất của giao dịch dân sự là sự tự nguyện xác lập giao dịch, thể hiện qua sự
thống nhất giữa ý chí và tuyên bố ý chí của chủ thể mà không bị ảnh hưởng
bởi bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài. Ý chí tự nguyện của chủ thể là tiền
đề quan trọng để hình thành giao dịch. Nhưng giao dịch chỉ hợp pháp khi
được pháp luật công nhận mới phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự trên thực
tế. Vì vậy, quy định của Bộ luật dân sự 2005 đã coi yếu tố tự nguyện là một
trong bốn điều kiện cơ bản không thể thiếu được trong giao dịch dân sự có
hiệu lực: "người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện" [35, Điều 122].
22. 22
Để xác định một chủ thể tham gia giao dịch có hoàn toàn tự nguyện
hay không thì điều kiện cần là người đó được pháp luật cho phép tham gia
giao dịch và điều kiện đủ là hành vi tham gia giao dịch của các chủ thể phải là
thể hiện ý chí đích thực của mình.
Sự tự nguyện của các bên trong giao dịch dân sự được thể hiện ở việc
các bên tham gia giao dịch có quyền tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Khi chủ thể
xác lập giao dịch dân sự thì yêu cầu đầu tiên của pháp luật là các chủ thể đó
phải tự do và tự nguyện. Chỉ có tự do ý chí và không chịu bất kỳ sự ràng buộc
nào thì chủ thể mới đích thực được thỏa thuận. Trong giao dịch dân sự, tự do
ý chí có nghĩa là chủ thể tham gia giao dịch có quyền:
- Quyền tự do ý chí về việc thỏa thuận kí kết hợp đồng với ai, với nội
dung gì và có nghĩa vụ ràng buộc với các chủ thể tham gia.
- Quyền tự do thỏa thuận các nội dung giao dịch dân sự theo ý muốn
của các chủ thể như: thời gian, địa điểm thực hiện, phương thức thực hiện,
điều kiện thực hiện giao dịch…
- Quyền tự do lựa chọn hình thức giao dịch như: bằng văn bản, lời
nói, hành vi, trừ trường hợp pháp luật bắt buộc một số giao dịch phải tuân
theo một hình thức nhất định.
Các bên phải được biểu lộ ý chí một cách thoải mái và trung thực theo
đúng ý chí và mong muốn của mình, nghĩa là phải có sự thống nhất giữa ý chí
bên trong và biểu lộ ra bên ngoài, không bị áp đặt bởi bất cứ một lý do nào
khác như bị khống chế, bị đe dọa, bị lừa dối… Nếu trong trường hợp ý chí
của các chủ thể tham gia giao dịch bị áp đặt, cấm đoán bởi sự tác động của
người khác hoặc ngoại cảnh để dẫn đến chủ thể tham gia giao dịch không
thực sự thể hiện được ý chí của mình trong giao dịch dân sự thì họ hoàn toàn
có quyền không chấp nhận giao dịch đó, tự mình hoặc yêu cầu tòa án tuyên
bố vô hiệu.
23. 23
Pháp luật dân sự Việt Nam dựa trên nguyên nhân cơ bản dẫn đến giao
dịch dân sự vi phạm yếu tố tự nguyện, tức là không có sự thống nhất giữa ý
chí và bày tỏ ý chí như sau:
- Chủ thể tham gia giao dịch cố tình không thể hiện đúng ý chí thực
của mình nhằm trốn tránh pháp luật hoặc vì một lý do khác. Ví dụ trong
trường hợp các bên xác lập giao dịch bán nhà nhưng khi làm thủ tục sang tên
trước bạ thì đã thỏa thuận với nhau ghi giá bán trong hợp đồng thấp hơn với
giá thực tế để giảm thuế trước bạ. Đây là trường hợp giao dịch dân sự được
xác lập do giả tạo. Trong giao dịch này, các bên tham gia xác lập giao dịch đã
thông đồng với nhau thể hiện ý chí ra ngoài không đúng với ý chí của mình
nhằm mục đích trốn thuế.
- Chủ thể tham gia giao dịch không bày tỏ được ý chí thực của mình
là do bị tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài. Khác với nguyên nhân trên, hành
vi vi phạm sự tự nguyện xuất phát từ chính sự mong muốn của các chủ thể
tham gia xác lập giao dịch. Trong trường hợp này, chủ thể tham gia không thể
bày tỏ được ý chí của mình là do ngoại cảnh tác động (lừa dối, đe dọa, nhầm
lẫn). Cụ thể trong trường hợp đe dọa, chủ thể bị đe dọa bắt buộc phải xác lập
theo ý chí của bên đe dọa vì lo ngại cho vật chất, thể chất và tinh thần của
mình hoặc cha, mẹ, vợ chồng, con mình.
Như vậy, sự tự nguyện về ý chí trong giao dịch dân sự chính là sự
thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể khi tham gia vào
một giao dịch dân sự nhất định.
1.2.4. Điều kiện về hình thức
Hình thức của giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí ra bên
ngoài dưới một hình thức nhất định của chủ thể tham gia giao dân sự. Thông
qua hình thức biểu hiện này bên đối tác và người thứ ba biết được nội dung
của giao dịch đã xác lập. Hiện nay, giao dịch dân sự có thể được thể hiện dưới
dạng lời nói, hành vi hoặc văn bản.
24. 24
Thông thường, pháp luật của các nước trên thế giới quy định giao dịch
dân sự phải tuân thủ quy định về hình thức theo các khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng thứ nhất là: đòi hỏi một số giao dịch phải được thể
hiện bằng hình thức nhất định, nếu vi phạm hình thức thì giao dịch sẽ bị vô
hiệu (như pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, Thái Lan…). Trong pháp
luật của Cộng hòa Liên bang Đức, những đòi hỏi đầu tiên đưa ra là khi giao
kết, giao dịch phải tuân thủ nghiêm ngặt những điều kiện về hình thức, nếu
không tuân thủ những quy định này thì giao dịch đó sẽ bị vô hiệu tuyệt đối.
Pháp luật của Thái Lan lại quy định: "Một hành vi pháp lý không theo đúng
hình thức quy định của pháp luật thì vô hiệu" [2, Điều 115].
- Khuynh hướng thứ hai là: không coi hình thức là điều kiện xác định
hiệu lực của bất kỳ một giao dịch nào. Trong bộ luật dân sự nước Cộng hòa
Pháp không có một điều khoản nào quy định khi hợp đồng không tuân thủ các
quy định về hình thức sẽ dẫn tới vô hiệu. Theo Bộ luật dân sự của Nhật Bản
thì nguyên tắc tự do giao dịch dân sự thừa nhận cả việc tự do lựa chọn về hình
thức giao kết: "Mặc dù nhà nước yêu cầu tuân thủ hình thức đặc biệt thì giao
dịch pháp lý vẫn hoàn toàn có đặc điểm không theo một hình thức bắt buộc
nào" [53, tr. 118].
Ở Việt Nam, Bộ luật dân sự 2005 quy định: "Hình thức giao dịch dân
sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy
định" [35, Điều 122]. Có thể thấy, các nhà lập pháp của nước ta đi theo
khuynh hướng thứ nhất. Tuy nhiên, quy định này còn có những hạn chế nhất
định. Bởi lẽ:
Hình thức giao dịch thực chất chỉ là cách thể hiện ý chí của các bên
tham gia giao dịch dân sự ra bên ngoài, cũng là cơ sở để tạo nên chứng cứ khi
có tranh chấp và góp phần bảo đảm an toàn trong giao lưu dân sự. Tuy nhiên,
quy định giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức thì vô hiệu
tuyệt đối sẽ tạo nên một khoảng cách nhất định giữa sự thống nhất ý chí thực
25. 25
và hiệu lực của giao dịch. Bên cạnh đó, nếu các chủ thể tham gia giao dịch
không tuân thủ quy định về hình thức sẽ dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu là
không phù hợp với tình hình thực tế, như việc quy định hình thức của giao
dịch mua bán bất động sản. Hiện nay, việc thực hiện những quy định về hình
thức đối với hợp đồng mua bán, chuyển nhượng nhà, đất rất khó khăn, phức
tạp. Mặt khác, có trường hợp lại xuất phát từ yếu tố chủ quan của các bên,
chẳng hạn khi mua bán nhà hai bên hoàn toàn tự nguyện nhưng khi làm thủ
tục thì giá nhà có biến động; vì muốn bảo vệ lợi ích của mình nên một bên
yêu cầu hủy hợp đồng… Khi xảy ra tranh chấp này mà tất cả các trường hợp
Tòa án đều tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không công bằng.
1.3. KHÁI NIỆM GIAO DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ
Trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, muốn hoàn thành
nhiệm vụ của mình, con người phải biểu hiện ý chí để vượt qua những khó
khăn, trở ngại. Ý chí từ lâu đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo các nhà tâm lý học thì: "Ý chí là mặt năng động của ý thức biểu
hiện ở năng lực thực hiện hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực
khắc phục khó khăn" [47, tr. 121].
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì ý chí là phẩm chất tâm
lý đặc trưng của người một thuộc tính tâm lý của nhân cách, thể hiện ở năng
lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có nỗ lực khắc phục
khó khăn.
Trong giao dịch dân sự, ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan
bên trong của mỗi chủ thể mà nội dung của nó là được xác định bởi các nhu
cầu về sản xuất, tiêu dùng của bản thân chủ thể tham gia giao dịch. Ý chí của
các bên tham gia giao dịch dân sự giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống
bởi các giao dịch dân sự diễn ra hàng ngày, hàng giờ để đáp ứng những nhu
cầu khác nhau của con người. Ý chí được biểu hiện ra bên ngoài dưới một
26. 26
hình thức nhất định để các chủ thể khác có thể biết được ý chí của họ khi
tham gia giao dịch dân sự cụ thể. Tuy nhiên ý chí phải được thể hiện dưới
hình thức phù hợp với các quy định của pháp luật và phải có sự thống nhất ý
chí và bày tỏ ý chí giữa các bên tham gia giao dịch. Ý chí của chủ thể trong
giao dịch dân sự là yếu tố cơ bản với mục đích thỏa mãn một nhu cầu thiết
yếu nào đó của bản thân chủ thể. Muốn đạt được những mục đích đó chủ thể
tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự để điều khiển ý chí và lý
trí của mình.
Ý chí của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nói chung và
quan hệ dân sự nói riêng phải phù hợp với ý chí của nhà nước được thể hiện
thông qua các quy phạm pháp luật. Bởi vậy, trong các giao dịch dân sự "ý chí
của các chủ thể và ý chí của nhà nước kết hợp lại, ý chí của cá nhân phụ thuộc
vào ý chí của nhà nước" [22].
Giao dịch dân sự là hành vi mang ý chí của chủ thể tham gia giao
dịch. Các bên tham gia giao dịch tự đặt mình vào cam kết, có cam kết đặt ra
theo ý chí của một bên, có cam kết thể hiện ý chí của hai hay nhiều bên. Tuy
nhiên, khi xác lập và thự hiện giao dịch dân sự các chủ thể tham gia giao dịch
phải tự nguyện. Sự tự nguyện có thể hiểu một cách đơn giản là sự lựa chọn và
hành động tự do trong ý thức, bắt nguồn từ những tác nhân được xem xét dựa
trên lý trí để đạt đến một mục đích nào đó. Theo cách này, tự nguyện chính là
việc chủ thể điều khiển được chính bản thân trong những hành động và quyết
định của chính mình.
Trong các giao dịch dân sự, sự tự nguyện được hiểu là sự thống nhất
giữa ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể. Tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt
của sự tự nguyện. Khi tham gia giao dịch thì sự tự do ý chí và bày tỏ ý chí
phải thống nhất với nhau như hai mặt của một vấn đề.
Tự do ý chí thể hiện ra bên ngoài là việc tự do lựa chọn phương thức
để đạt được mục đích đặt ra theo ý chí của người cam kết. Tự do ý chí và thể
27. 27
hiện ý chí là ý muốn và sự lựa chọn phương thức để đạt được ý muốn trong
điều kiện có thể của người tham gia giao dịch. Ý chí đó nếu chưa được bộc lộ
ra bên ngoài thì vẫn là ý tưởng chủ quan của chủ thể, nó mới chỉ là động lực
bên trong thúc đẩy các chủ thể có tham gia giao dịch hay không. Để biến ý
tưởng chủ quan đó thành hiện thực thì các chủ thể phải hành động, tức là ý chí
của họ phải được thể hiện ra bên ngoài và người khác có thể thấy được nội
dung của ý chí đó.
Tất cả các giao dịch dân sự đều có một đặc điểm chung là sự thống
nhất giữa tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Giao dịch
dân sự là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định cho
nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch.
Ý chí của chủ thể tham gia giao dịch là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên
trong của con người mà nội dung của nó được xác định bởi nhu cầu nhất định
của bản thân họ. Ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải được thể hiện
ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các chủ thể khác biết được mục
đích, động cơ và nội dung cụ thể của giao dịch dân sự. Bởi vậy, giao dịch dân
sự không thể thiếu sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể tham
gia giao dịch. Điều này không chỉ đúng với các giao dịch dân sự có chủ thể là
cá nhân mà còn đúng với các chủ thể khác như pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình. Bởi vì khi xác lập giao dịch dân sự các chủ thể này đều thông qua người
đại diện. Người đại diện xác lập giao dịch phải thể hiện được ý chí của pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Theo Từ điển tiếng Việt thì vi phạm tức là làm trái quy định. Ở đây,
có thể hiểu vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể là không có sự thống
nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Sự
vi phạm này có thể do lỗi vô ý hoặc cố ý của các bên tham gia giao dịch.
Pháp luật dân sự nước ta quy định, một trong các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự là người tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện. Vì
28. 28
vậy, hành vi vi phạm sự tự nguyện về ý chí sẽ có thể dẫn đến giao dịch dân sự
bị vô hiệu. Vi phạm sự tự nguyện về ý chí là sự không thống nhất giữa ý chí
thực và biểu hiện của ý chí (bày tỏ ý chí) ra bên ngoài của các chủ thể. Sự
không thống nhất đó có thể do yếu tố bên ngoài tác động hoặc do yếu tố chủ
quan bên trong của con người.
Như vậy, giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí là giao dịch
dân sự mà ý chí của các chủ thể trong giao dịch đó không có sự thống nhất
giữa ý chí bên trong và bày tỏ ý chí ra bên ngoài của một hoặc các bên tham
gia giao dịch. Sự vi phạm đó có thể dẫn đến hậu quả pháp lý là làm vô hiệu
giao dịch dân sự.
29. 29
Chương 2
CÁC TRƯỜNG HỢP GIAO DỊCH DÂN SỰ
VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ
2.1. CÁC TRƯỜNG HỢP GIAO DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN
VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ
Dựa vào nguyên nhân của sự vi phạm, thì giao dịch dân sự vi phạm sự
tự nguyện về ý chí của chủ thể được chia thành các loại sau: giao dịch dân sự
do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, giả tạo và giao dịch dân sự được xác lập do
người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
2.1.1. Giao dịch dân sự nhầm lẫn
Theo nghĩa thông thường, "nhầm lẫn" là sự nhận thức hay đánh giá
không đúng của chủ thể về thực tế sự vật, sự việc; là "tưởng nó là thế này
nhưng thực chất nó là thế khác". Trong đời sống thường nhật, nhầm lẫn là
khả năng mà ai cũng có thể gặp phải. Đôi khi nhầm lẫn không gây ra hậu quả
mà có thể tạo cơ hội tốt chẳng hạn có được thêm bạn, nhưng nhiều lúc hậu
quả sẽ rất nặng nề như việc nhầm xăng với nước khi dập đám cháy.
Trong khoa học pháp lý, có nhiều cách hiểu khác nhau về nhầm lẫn.
Có cách hiểu cho rằng nhầm lẫn là sự thể hiện không chính xác ý muốn đích
thực của các bên, hay nói cách khác đó là "sự không trùng khớp giữa ý chí
được thể hiện với mong muốn thật của người thể hiện ý chí" [24, tr. 283].
Cũng có cách hiểu cho rằng nhầm lẫn là một giả thiết sai lầm liên quan đến sự
việc hoặc luật lệ tồn tại vào thời điểm xác lập giao dịch, hoặc nhầm lẫn là sự
không phù hợp giữa niềm tin và thực tế, nói cách khác là cái nghĩ trong đầu
khác với cái xảy ra trong thực tế. Dù cách thể hiện bằng ngôn ngữ có khác nhau
nhưng nội dung của khái niệm nhầm lẫn về cơ bản được hiểu như nhau, đó là
sự không phù hợp giữa sự thể hiện ý chí của chủ thể với thực tế của sự việc.
30. 30
Để xem xét một cách chính xác có yếu tố "nhầm lẫn" trong khi xác lập
giao dịch dân sự, ta cần nhìn nhận sự "nhầm lẫn" ở hai khía cạnh:
- Ở khía cạnh khách quan, người ta phải đặt một người bình thường
vào vị trí của người tin nhầm để xác định trong hoàn cảnh tương tự người đó
có nhận thức, đánh giá như thế nào về nội dung của giao dịch. Từ đó, đánh
giá xem sự tin nhầm liệu có phải là vô lý hay khó chấp nhận không?
- Ở khía cạnh chủ quan, người ta cần xem xét mối quan hệ giữa sự
nhầm lẫn của người đó trong mối tương quan với khả năng nhận thức, năng
lực chuyên môn của người đó. Từ đó, đánh giá xem sự tin nhầm của người đó
có phải là từ sự cẩu thả, sơ suất hay không?
Theo pháp luật nước ta, nhầm lẫn có thể là một căn cứ tuyên giao dịch
dân sự bị vô hiệu. Theo Điều 131 Bộ luật dân sự 2005:
Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội
dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn
có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu
bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa
án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố
ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải
quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này [35, Điều 131].
Dựa vào tinh thần điều luật trên, Giáo trình của Trường Đại học Luật
Hà Nội cho rằng: "Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao
dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia" [49,
tr.27]. Và đưa ra các điều kiện để giao dịch dân sự xác lập do nhầm lẫn bị vô
hiệu bao gồm: Phạm vi của nhầm lẫn là nội dung giao dịch và đối tượng của
sự việc; Sự nhầm lẫn phải gây ra thiệt hại cho một trong các bên, phải được
thể hiện rõ ràng, phải xác định được căn cứ vào nội dung giao dịch, bên bị
nhầm lẫn phải chứng minh được sự nhầm lẫn đó [49, tr. 27].
31. 31
Dân luật Nhật Bản phân biệt nhầm lẫn trong giao dịch dân sự làm ba
loại: (1) Nhầm lẫn trong sự thể hiện là sự nhầm lẫn về các điểm chú thích hoặc
con số (ví dụ: thay vì 10 đô la lại viết thành 10 bảng Anh). (2) Nhầm lẫn về
nội dung (ví dụ: cho rằng đơn vị dặm thường và đơn vị dặm biển là một). (3)
Nhầm lẫn về động cơ. Trong đó, nhầm lẫn về nội dung chủ yếu dẫn đến tính vô
hiệu của giao dịch [53, tr. 136]. Như vậy, dân luật Nhật Bản khá tương đồng
về sự nhầm lẫn gây ra việc vô hiệu của giao dịch dân sự với luật Việt Nam.
Luật La Mã phân nhầm lẫn thành 5 loại [5]. Bao gồm:
- Nhầm lẫn về đối tượng (error in corpore): là nhầm lẫn về sự vật,
công việc làm đối tượng của giao dịch.
- Nhầm lẫn về bản chất pháp lý của giao dịch (error in negoto): là
nhầm lẫn giữa hai loại giao dịch có bản chất pháp lý khác nhau. Ví dụ: nhầm
hợp đồng gửi giữ và hợp đồng tặng cho tài sản.
- Nhầm lẫn về bản chất đồ vật (error in substantia): là nhầm lẫn về
thực chất của đồ vật.
- Nhầm lẫn về người (error in persona): là việc xác lập giao dịch dân
sự với người này lại tưởng nhầm giao kết với người khác.
- Nhầm lẫn về giá cả.
Bộ luật dân sự Bắc Kì 1931 và bộ luật dân sự Trung Kì 1936 chia
nhầm lẫn thành hai loại:
- Nhầm lẫn cản trở là sự nhầm lẫn cản trở sự thống nhất ý chí giữa các
bên. Bao gồm: nhầm lẫn bản chất giao dịch, đối tượng giao dịch, người đối
ước, nguyên nhân giao dịch. Nhầm lẫn cản trở là cả hai người đều hiểu lầm ý
của nhau, vì thế không thể có sự thống nhất ý chí các bên.
- Nhầm lẫn khiếm khuyết là khi các bên chủ thể đều phù hợp với nhau
trên các điểm chính, nhưng thật ra một bên đã đồng ý cam kết bị nhầm lẫn
trên một vài điểm của giao dịch. Trường hợp này giao dịch được thiết lập hợp
32. 32
pháp với đủ các yếu tố, nhưng để bảo vệ quyền lợi của chủ thể giao kết pháp
luật cho phép bên bị nhầm lẫn được khởi kiện xin hủy hợp đồng [1, tr. 32].
Người ta cũng có thể dựa trẽn tiêu chí một hay nhiều người tham gia
vào sự nhầm lẫn để phân loại nhầm lẫn như sau:
- Nhầm lẫn đơn phương là khi một bên bị nhầm lẫn và bên khác biết sự
nhầm lẫn đó. Ví dụ, A bán cho B một nhẫn kim cương, B tin đó là kim cương
tự nhiên. A biết rằng đó không phải là kim cương tự nhiên và biết B nhầm.
- Nhầm lẫn đối với nhau là khi các bên chủ thể đều bị hiểu nhầm
nhưng là hiểu nhầm về các vấn đề khác nhau. Ví dụ: A tưởng B cho mình
chiếc xe máy trong khi đó là hợp đồng gửi giữ. B lại nghĩ mình xác lập hợp
đồng gửi giữ không công.
- Nhầm lẫn chung là khi các bên chủ thể có cùng một nhầm lẫn về một
hoặc một số vấn đề. Sự nhầm lẫn này khiến cho các chủ thể đã xác lập giao
dịch. Mỗi bên giao dịch đều xác lập giao dịch khác với ý chí thực của mình.
Vấn đề nhầm lẫn không loại trừ các giao dịch dân sự mang yếu tố
nước ngoài. Loại giao dịch này có đặc thù là vượt ra khỏi biên giới mỗi quốc
gia. Do đó vấn đề áp dụng pháp luật nước nào để điều chỉnh là khá phức tạp
và ảnh hưởng khá lớn đến quyền lợi của chủ thể. Điều 3.4 Bộ nguyên tắc của
Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế quy định: "Nhầm lẫn là một nhận
thức nhầm liên quan tới các sự kiện hoặc pháp luật đang tồn tại khi hợp đồng
được giao kết". Theo đó nhầm lẫn gồm:
- Nhầm lẫn về sự kiện (mistake of fact) là sự hiểu sai về nội dung sự việc.
- Nhầm lẫn về luật (mistake of law) là sự hiểu sai về luật áp dụng đưa
đến một cam kết không đúng với mong muốn của chủ thể. Và chỉ có nhầm lẫn
về sự kiện mới làm giao dịch vô hiệu. Nhầm lẫn về luật sẽ không làm giao
dịch dân sự không phát sinh hậu quả pháp lý. Bởi theo nguyên tắc thì không
ai được xem là không biết luật. Trừ khi đương sự chứng minh được trước Tòa
33. 33
án rằng rơi vào trường hợp cho là không biết pháp luật nước ngoài hoặc được
cho là không biết các quyền tư thậm chí chúng là các quyền có tính pháp lý.
Tóm lại:
- Bộ luật dân sự 2005 không đưa ra khái niệm về nhầm lẫn mà chỉ đưa
ra sự nhầm lẫn đơn phương là yếu tố dẫn đến sự vô hiệu của giao dịch dân sự.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay có rất nhiều trường hợp giao dịch dân sự được xác
lập do sự nhầm lẫn của cả hai bên tham gia mà pháp luật nước ta lại không
điều chỉnh.
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng, như
chúng ta đã biết đòi hỏi mang tính cốt lõi của hợp đồng là sự thể hiện ý chí
chung. Trong trường hợp cả hai bên nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng thì rõ
ràng không có sự trùng khớp ý chí chung đích thực của cả hai bên với những
gì họ thể hiện trong nội dung cam kết. Vì vậy, không thể coi sự nhầm lẫn
song phương là yếu tố có thể dẫn đến vô hiệu giao dịch dân sự.
- Bộ luật dân sự 2005 không quy định mức độ nhầm lẫn như thế nào
thì sẽ dẫn đến vô hiệu giao dịch dân sự. Vì vậy có thể hiểu rằng bất kì một
nhầm lẫn nào về nội dung của giao dịch (cho dù sự nhầm lẫn đó mang tính
chất quyết định hay không mang tính chất quyết định đến việc giao kết hợp
đồng) đều có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu.
Bộ luật dân sự 1995 có cách tiếp cận khác về sự nhầm lẫn trong giao
dịch dân sự. Điều 141 quy định: "khi một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ
yếu của giao dịch mà xác lập giao dịch..." [31, Điều 141]. Như vậy, Bộ luật
dân sự 1995 chỉ coi các nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng là yếu tố
có thể dẫn tới sự vô hiệu. Như vậy, so với luật trước đó, Bộ luật dân sự 2005
đã sửa đổi lại theo hướng: giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu ngay cả khi chỉ
có sự nhầm lẫn về nội dung không chủ yếu của giao dịch.
- Nhầm lẫn phải tồn tại ở thời điểm "xác lập giao dịch". Điều đó có
nghĩa là "nhận thức" của bên nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng và "sự thật"
34. 34
về nội dung này phải được xác định tại thời điểm "xác lập giao dịch". Tại thời
điểm này chúng ta phải biết cụ thể "nhận thức" của bên cho rằng nhầm lẫn là
gì và "thực sự" về nội dung của hợp đồng tại thời điểm này như thế nào. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta không được sử dụng những thông
tin nảy sinh sau thời điểm này. Trong thực tế chúng ta thường phải khai thác
những thông tin phát hiện sau để biết giao dịch dân sự có nhầm lẫn hay không.
Nhận thức của một người đối với một sự việc có thể thay đổi theo thời gian
nên thời điểm nhận thức của họ cần phải xác định một cách chính xác. Như đã
nói ở trên, phải xác định nhận thức này vào thời điểm giao kết hợp đồng.
- Nhầm lẫn được xác định do lỗi vô ý. Điều 141 Bộ luật dân sự 1995
quy định về nhầm lẫn đã không xác định yếu tố lỗi khi xác lập giao dịch. Tuy
nhiên, Bộ luật dân sự 2005 lại có sự sửa đổi theo hướng phân biệt trường hợp
nhầm lẫn khi tham gia giao dịch dân sự do sự vô ý hoặc do sự cố ý của một
bên như sau:
Nếu một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên
kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì có
quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Nếu một bên có lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch dân sự thì giao dịch đó được giải quyết theo quy định tại điều 132
của Bộ luật dân sự 2005, hay có thể xác định đây là một giao dịch bị lừa dối.
Nhầm lẫn có thể là yếu tố dẫn đến hợp đồng vô hiệu khi bên nhầm lẫn
có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó nhưng không
được chấp nhận. Ví dụ: A bán một chiếc bình cổ đời nhà Thanh cho B với giá
50 triệu đồng. Nhưng sau khi bán A mới biết đó là bình cổ đời nhà Minh và
có giá lên tới 100 triệu đồng. A đã yêu cầu B đưa thêm cho mình 50 triệu
đồng đúng với giá trị thực của chiếc bình. Nếu yêu cầu của A không được
chấp nhận thì A có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
35. 35
2.1.2. Giao dịch dân sự lừa dối
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, "lừa dối" là lừa bằng thủ đoạn nói dối,
gian lận để làm cho người ta nhầm tưởng mà nghe theo, tin theo [52, tr. 1068].
Về mặt khái niệm, lừa dối là thủ đoạn có tính toán trước của người này đối
với người khác nhằm làm cho người bị lừa dối hiểu sai vấn đề mà quyết định
một việc gì đó theo mục đích của người lừa dối.
Thuật ngữ pháp lý "lừa dối" được hình thành từ thời La Mã. Cổ luật
La Mã lúc đầu coi lừa dối như một tội phạm hình sự, theo đó những kẻ lừa
dối sẽ bị trừng phạt đối với những sự lừa dối mang tính quan trọng. Dần dần
lừa dối đã được sử dụng trong lĩnh vực dân sự và xem nó như một trong các
yếu tố có thể làm cho hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, Luật La Mã coi quyền
yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu chỉ có thể hành xử khi sự lừa dối
xuất phát từ người đối ước, chứ không do một người thứ ba [42].
Quan niệm này cũng được cổ luật Việt Nam kế thừa. Điều 659 Bộ luật
dân sự Bắc Kỳ 1931 quy định: "khi nào có một bên lập mưu đánh lừa bên kia,
đến nỗi giá không có mưu đó bên kia không giao ước thì sự đánh lừa đó là
một duyên cớ làm cho hiệp ước vô hiệu". Bộ luật dân sự Trung Kỳ 1936 nhắc
lại nguyên văn tại điều thứ 695. Điều 668 Bộ luật dân sự 1972 diễn giải lại
với nội dung tương tự: "sự gian trá chỉ là một nguyên nhân làm cho khế ước
vô hiệu nếu những mưu gian, chước dối của một bên là nguyên nhân chính
thúc đẩy bên kia kết ước".
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì lừa dối trong
giao dịch dân sự là: "hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó" [35, Điều 132].
Như vậy, rõ ràng một người có hành vi lừa dối thì không thể coi là
trung thực được, quy định này của pháp luật là một trong những sự thể hiện
của nguyên tắc tự do tự nguyện giao kết hợp đồng, thể hiện được sự phù hợp
36. 36
với pháp luật và thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn. Theo đó, sự lừa dối chỉ
là điều kiện để giao dịch không có hiệu lực pháp luật khi có các yếu tố sau:
- Người lừa dối có thể là người thứ ba hoặc là người trực tiếp xác lập
giao dịch. Có thể hiểu, hành vi lừa dối phải do một bên tham gia giao dịch
dân sự hoặc người thứ ba thực hiện. Như vậy, so với quy định tương ứng tại
Điều 142 Bộ luật dân sự 1995 thì Bộ luật dân sự 2005 đã bổ sung quy định
nếu người thứ ba có hành vi lừa dối người khác phải tham gia giao dịch dân
sự thì cũng làm giao dịch dân sự vô hiệu. Đây là một bước tiến hợp lý của các
nhà lập pháp nước ta. Tuy nhiên, một bên tham gia giao dịch có phải biết về
sự lừa dối này hay chỉ cần có hành vi gian dối của người thứ ba mà các bên
tham gia không hề biết vẫn được xác định là giao dịch dân sự bị lừa dối. Có
hai cách hiểu về vấn đề này như sau:
Cách hiểu thứ nhất: hành vi lừa dối không do một bên giao kết thực
hiện nhưng đã biết về hành vi đó nhưng vẫn xác lập giao dịch với bên kia thì
giao dịch này được coi là giao dịch lừa dối. Nghĩa là, chỉ được xác định là
giao dịch lừa dối do hành vi của người thứ ba khi một bên giao dịch biết về
điều này. Trong trường hợp mà giao dịch được xác định do hành vi lừa dối
của người thứ ba mà hai bên đều không biết về điều này thì giao dịch đó có
thể coi là cả hai bên đều bị nhầm lẫn.
Cách hiểu thứ hai: có thể xác định giao dịch dân sự bị lừa dối trong
trường hợp cả hai bên đều không biết về sự lừa dối đó. Vì quy định tại Điều 132
Bộ luật dân sự 2005 chỉ nêu rằng có thể do hai chủ thể thực hiện đó là: Một
bên tham gia hoặc người thứ ba mà không hề có mối liên hệ nào giữa hai đối
tượng này.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả đồng ý với các hiểu thứ hai, nghĩa là
có thể xác định một giao dịch được xác lập do bị lừa dối trong trường hợp
hành vi gian dối của người thứ ba mà các bên xác lập đều không biết. Còn
trường hợp một bên giao dịch biết về sự lừa dối đó thì được coi như chính
người xác lập giao dịch đã thực hiện hành vi đó. Có thể đưa ra ví dụ sau:
37. 37
A bán cho B một chiếc đồng hồ cổ. Tuy nhiên, do C có xích mích với B,
lại nói với A và B rằng đó là chiếc đồng hồ cổ rất quý hiếm, giá của chiếc
đồng hồ đó cao hơn nhiều so với giá ban đầu hai bên đã thỏa thuận. Do không
có hiểu biết nhiều về đồng hồ cổ nên A và B đã tin lời C và xác lập giao dịch
với giá cao hơn đó. Như vậy, ở đây rõ ràng có sự lừa dối của C - người thứ ba
trong giao dịch giữa A và B, nhưng lại có các cách hiểu khác nhau:
Cách thứ nhất cho rằng: do cả A và B đều không biết là C đã lừa dối
mình nên trong trường hợp này xác định A và B đều nhầm lẫn về đối tượng
của giao dịch, nên xác định là giao dịch được xác lập do sự nhầm lẫn.
Cách thứ hai cho rằng: ở đây có sự lừa dối của C nên A và B mới
tham gia giao dịch này. Nhầm lẫn này do lỗi cố ý của người thứ ba nên giao
dịch này phải được xác định là giao dịch lừa dối.
Như vậy, trong trường hợp này, không thể coi là có sự nhầm lẫn khi
xác lập giao dịch vì lí do sau: đã có hành vi gian dối của C làm cho A và B ký
kết hợp đồng, chính hành vi gian dối này đã làm cho B mua chiếc đồng hồ
cao hơn nhiều so với giá trị thực của nó, nên phải xác định đây là giao dịch bị
lừa dối mới chính xác và hợp lý. Mặt khác, với quy định về nhầm lẫn hiện nay
thì không có đủ điều kiện để tuyên bố giao dịch trên là vô hiệu.
- Người lừa dối thực hiện hành vi lừa dối một cách cố ý, có ý thức và
mong muốn có được sự chấp nhận xác lập giao kết dân sự của người bị lừa
dối. Lừa dối chỉ được coi là yếu tố dẫn đến vô hiệu hợp đồng khi một bên cố
ý làm cho bên kia phải giao kết hợp đồng không theo ý muốn thực.
Hành vi lừa dối của các chủ thể có thể mang tính chủ động (tích cực)
hoặc mang tính bị động (tiêu cực). Lừa dối mang tính chủ động khi người lừa
dối thực hiện những hành vi như tổ chức, thực hiện hoặc đồng lõa trong việc
cung cấp thông tin sai sự thật, sử dụng tài liệu giả, nói dối… làm cho người bị
lừa dối nghĩ về sự việc quá lên so với thực tế khách quan. Lừa dối được coi là
mang tính bị động hay tiêu cực trong trường hợp người lừa dối im lặng không
38. 38
bày tỏ quan điểm của mình về một yếu tố quan trọng của giao dịch nhằm
hưởng lợi từ việc người bị lừa dối chấp nhận xác lập giao dịch dân sự.
Pháp luật của một số nước trong một số trường hợp coi sự kiện không
nói ra điều mà người tham gia có trách nhiệm phải nói khi xác lập giao dịch
cũng được coi là hành vi gian trá và trong một số trường hợp pháp luật cũng
thừa nhận việc khai gian hay im lặng trong trường hợp xét một cách hợp lý
phải thông tin cho người cùng giao kết biết là lừa dối. Khi đưa ra nguyên tắc
hợp đồng thương mại quốc tế, Unidroit đã ghi nhận nguyên tắc:
Một bên trong hợp đồng được phép vô hiệu hợp đồng, nếu
bên đó giao kết hợp đồng do bị bên kia lừa dối về sự việc, kể cả
trong ngôn ngữ hoặc hành vi, hoặc do bên kia (bên lừa dối) không
cung cấp thông tin về các yếu tố, mà theo những tiêu chuẩn thông
thường về công bằng và hợp lý trong thương mại họ phải được
thông báo [43].
Như vậy, pháp luật nhiều nước cũng như nguyên tắc thương mại quốc
tế không chỉ giới hạn sự biểu hiện của lừa dối ở hành vi, lời nói mà thừa nhận
cả trường hợp một bên không cung cấp thông tin hoặc im lặng khi xét một
cách hợp lý là họ phải có nghĩa vụ thông báo.
Khi Bộ luật dân sự 2005 quy định về khái niệm lừa dối như trên, đã có
ý kiến cho rằng chưa bao quát hết được các trường hợp, đó là chưa quy định
rõ hành vi không cung cấp thông tin quan trọng của giao dịch dân sự là một
hành vi lừa dối. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng hành vi không cung cấp thông
tin là hành vi cố ý của một bên "nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ
thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập
giao dịch đó" và đó được coi là hành vi lừa dối khi tham gia giao dịch.
- Sự lừa dối là yếu tố quyết định đối với việc bên bị lừa dối xác lập
giao dịch dân sự. Tính chất quyết định thể hiện ở chỗ nếu không dùng các
mánh khóe như vậy thì các bên sẽ không xác lập giao dịch. Ví dụ như việc
39. 39
một người bán hàng nói giá quá cao thì không bị xem là lừa dối, vì người mua
sẽ không vì thông tin này mà giao kết hợp đồng mua bán.
Lừa dối và nhầm lẫn đều là những khiếm khuyết của sự thể hiện ý chí
của các bên trong giao kết hợp đồng và đều giống nhau ở chỗ cả hai đều liên
quan đến việc trình bày một cách trực tiếp hoặc gián tiếp về những sự việc
không đúng sự thật hay không tiết lộ một sự thật. Tuy sự nhầm lẫn và lừa dối
trong giao dịch dân sự đều có một điểm chung: bên bị nhầm lẫn và bên bị lừa
dối do hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng… nên đã xác lập giao
dịch, nhưng giữa chúng có một điểm khác biệt cơ bản. Trong trường hợp xác
lập giao dịch do bị nhầm lẫn, sự nhầm lẫn có thể gây bởi lỗi cẩu thả, sơ suất,
kém hiểu biết của chính bên bị nhầm lẫn hoặc do lỗi vô ý của bên kia hoặc do
lỗi của người thứ ba; còn trong trường hợp xác lập giao dịch do bị lừa dối, sự
nhầm lẫn lại chỉ có thể được gây ra bởi hành vi mang tính chất cố ý của bên
kia hoặc do lỗi của người thứ ba. Việc một bên tạo lập cho bên kia một sự nhầm
lẫn hoặc lạm dụng sự nhầm lẫn đã tồn tại của bên kia để xác lập giao dịch sẽ
bị coi là lừa dối. Ngoài ra, sự phân biệt giữa nhầm lẫn và lừa dối còn được
xác định bởi tính chất và mục đích của việc trình bày gian lận của một bên.
Như vậy, nếu không có hành vi cố ý làm cho người bị lừa dối hiểu sai
lệch bản chất sự việc thì không có một giao dịch dân sự được xác lập.
Tóm lại, để có thể xem xét một hành vi có phải là sự lừa dối trong
giao kết hợp đồng hay không người ta căn cứ vào các yếu tố sau đây: Thứ
nhất, phải có sự cố ý đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên;
thứ hai, người nghe phải không biết đến sự sai lệch đó; ba là, người nghe đã
tin vào sự sai lệch do một bên đưa ra mà giao kết hợp đồng.
2.1.3. Giao dịch dân sự đe dọa
Đe dọa được hiểu là việc một người dùng hành vi hay lời nói tác động
vào ý chí của một người khác làm cho người đó phải miễn cưỡng tuân theo sự
sắp đặt hay ý muốn của mình. Trong giao dịch dân sự, đe dọa là hành vi cố ý
40. 40
tác động vào ý chí của một người làm cho người đó khiếp sợ mà buộc phải
xác lập, thực hiện giao dịch.
Luật La Mã không sử dụng thuật ngữ "đe dọa" mà đi đề cập đến "bạo
lực" trong giao dịch dân sự. Trong lịch sử La Mã, về cuối thời kỳ Cộng hòa,
có nhiều cuộc rối loạn trong nước, trật tự xã hội không được duy trì, vì vậy
xảy ra rất nhiều bạo lực. Để các chủ thể khỏi phải "kết ước" dưới ảnh hưởng
của bạo lực các pháp quan La Mã đã đặt ra một tố quyền công nhận cho nạn
nhân của bạo lực được xin bồi thường gấp bốn lần tổn thất. Ngoài ra nạn nhân
còn có thể xin viện ra sự bạo lực để không thi hành khế ước thậm chí xin tiêu
hủy khế ước [27, tr. 127]. Luật La Mã coi bạo lực là việc người đối ước hoặc
người thứ ba làm cho người kia sợ hãi mà xác lập hợp đồng dân sự. Do đó,
người bị bạo lực có thể sử dụng hai tố quyền có tính cách hình sự hoặc dân sự.
Dân luật Pháp coi đe dọa tương tự như luật La Mã:
- Hợp đồng được giao kết do một bên bị đe dọa sẽ vô hiệu. Hành vi đe dọa
có thể do bên giao kết trực tiếp thực hiện hoặc bên thứ ba thực hiện [29, Điều
1111].
- Hành vi đe dọa là hành vi tác động vào một người có lý trí và làm
cho người đó lo sợ có thể bị thiệt hại lớn về sức khỏe, tính mạng hoặc tài sản
của mình. Để xác định mức độ đe dọa cần phải xem xét đến độ tuổi, giới tính
và hoàn cảnh của những người liên quan [29; Điều 1112].
- Hành vi đe dọa là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu không chỉ trong
trường hợp hành vi đe dọa nhằm vào bản thân người giao kết hợp đồng mà
còn cả trong trường hợp nhằm vào vợ, chồng, tôn thuộc, ti thuộc của người đó
[29, Điều 1113]. Chỉ riêng sự sợ hãi biểu lộ đối với cha mẹ hoặc tôn thuộc
khác mà không có hành vi đe dọa thì chưa đủ căn cứ để hủy hợp đồng [29,
Điều 1114].
- Không thể kiện đòi hủy hợp đồng vì lý do bị đe dọa nếu sau khi
hành vi đe dọa chấm dứt, hợp đồng đã được chấp nhận một cách rõ ràng hoặc
41. 41
mặc nhiên, hoặc đã hết thời hạn yêu cầu hoàn trả theo quy định của pháp luật
[29, Điều 1115].
Cổ luật Việt Nam ảnh hưởng khá nhiều bởi tư tưởng của Bộ dân luật
Cộng hòa Pháp 1804 (Điều thứ 660 và Điều thứ 661 Bộ luật dân sự Bắc Kỳ
1931; Điều thứ 696 và Điều thứ 697 Bộ luật dân sự Trung Kỳ 1972). Các bộ
dân luật này đã có sự phân biệt đe dọa thành hai loại:
- Đe dọa thể chất: như cầm tay bắt ký vào hợp đồng hoặc sai khiến họ
thực hiện hành vi bằng các thôi miên họ hoặc cho họ uống rượu say. Trường
hợp này sự đe dọa làm mất hẳn ý chí của chủ thể nên giao dịch dân sự coi như
vô hiệu.
- Đe dọa tinh thần: là dùng áp lực tinh thần để buộc một người phải
lập giao dịch. Trường hợp này hành vi các lập giao dịch dân sự là có ý chí,
đương sự chấp nhận dù là chỉ để tránh một tai họa, Giao dịch dân sự được xác
lập với đủ các yếu tố nhưng mục đích không đúng theo mong muốn đích thực,
ý chí tự nguyện của chủ thể nên bị vô hiệu.
Dân luật Nhật Bản lại bảo vệ người bị "ép buộc" ở mức độ cao hơn.
Ép buộc là hành vi trái pháp luật nhằm làm cho người khác sợ hãi và buộc
người đó phải thể hiện ý chí nhất định do lo sợ bị một tội ác nào đó xâm hại.
Sự thể hiện ý chí do ép buộc có thể bị xóa bỏ bất kỳ lúc nào và quyết định xóa
bỏ có hiệu lực với tất cả các bên cũng như đối với người thứ ba có hành vi đe
dọa cũng như người thứ ba ngay tình [16, Điều 9]. Xác định hành vi đúng pháp
luật hay không phải xem xét phương pháp và mục đích của hành vi đó. Khởi
kiện là hành vi thực hiện quyền công dân, nhưng nếu sử dụng với tính chất đe
dọa để buộc người khác phải giao kết theo ý mình thì pháp luật không bảo vệ.
Khoa học pháp lý cũng như pháp luật thực định Việt Nam đều thừa
nhận đe dọa trong giao kết hợp đồng là một yếu tố có thể đưa đến sự vô hiệu
của hợp đồng. Theo đó, đe dọa được hiểu là: "Hành vi cố ý của một bên hoặc
42. 42
của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình
hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con mình" [35, Điều 132]. Như vậy, Bộ luật dân
sự 2005 xác định đe dọa là hành vi trái pháp luật của một người làm người
khác sợ hãi, buộc người đó phải xác lập giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại
về thể chất, tinh thần hoặc tài sản của chính họ hoặc của cha mẹ, vợ, chồng,
con họ.
Đe dọa ở đây gồm có hai điều kiện: Về mặt khách quan, hành vi đe
dọa phải là hành vi do một bên hoặc người thứ ba gây ra (một bên trực tiếp
hoặc nhờ người khác đe dọa). Về mặt chủ quan, sự đe dọa có tính chất quyết
định khiến bên bị đe dọa buộc phải xác lập, thay đổi hoặc hủy bỏ giao dịch
dân sự mà không thể có cách lựa chọn nào tốt hơn. So với quy định tương ứng
tại Điều 142 Bộ luật dân sự 1995 thì quy định tại Bộ luật dân sự 2005 đã bổ
sung quy định người thứ ba có hành vi đe dọa người khác tham gia giao dịch
thì cũng có thể làm giao dịch vô hiệu. Bên cạnh đó, còn xác định rõ khái niệm
"người thân thích" để hiểu thống nhất và tránh hiểu quá rộng về khái niệm này.
Như vậy, để hành vi đe dọa trở thành căn cứ xác định một giao dịch
dân sự vô hiệu cần có các điều kiện sau:
- Việc đe dọa có thể do một bên tham gia xác lập giao dịch dân sự
thực hiện hoặc cũng có thể do người thứ ba thực hiện. Tuy nhiên, quy định
này cũng chưa chỉ rõ mối liên hệ giữa một bên giao dịch và người thứ ba
trong trường hợp người thứ ba có hành vi đe dọa đối với bên kia nhằm xác lập
giao dịch. Tương tự như với phân tích về mối quan hệ này trong phần phân
tích về giao dịch dân sự bị lừa dối, tác giả bảo vệ quan điểm chỉ cần có hành
vi đe dọa đối với người tham gia để họ phải xác lập giao dịch thì có thể xác
định đó là giao dịch dân sự bị đe dọa.
43. 43
- Sự đe dọa đó làm cho ý chí được tuyên bố của người bị đe dọa
không phản ánh trung thực ý chí nội tâm. Sự đe dọa được tạo bởi hai yếu tố:
khách quan và chủ quan:
+ Yếu tố khách quan được hiểu là mối nguy cơ đe dọa người bị đe dọa
hoặc người thân của người bị đe dọa như dùng vũ lực hay dùng các biện pháp
nhằm gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, đanh dự, uy tín… hoặc nhằm đưa
người bị đe dọa vào tình trạng không thể nhận thức được hành vi của mình.
+ Yếu tố mang tính chủ quan được hiểu là sự sợ hãi của nạn nhân về
một tại họa có nguy cơ xảy ra cho mình hoặc cho người thân của mình nếu
không thực hiện những hành vi nhất định do người đe dọa yêu cầu.
Vì vậy, đe dọa được xem là hành vi dẫn dắt người bị đe dọa tuân theo
ý chí của người đe dọa mặc dù người bị đe dọa không muốn nhưng không thể
hoặc không dám cưỡng lại ý chí đó.
- Sự đe dọa phải là yếu tố quyết định việc tham gia giao dịch dân sự
tức là sự đe dọa phải mang tính cấp thiết và nghiêm trọng đến mức người bị
đe dọa không còn con đường nào khác ngoài việc chấp nhận xác lập giao dịch
dân sự vì người bị đe dọa thực sự lo sợ về một tai họa có nguy cơ xảy ra ngay
tức khắc cho mình hoặc cho người thân của họ nếu không thực hiện những
hành vi nhất định do người đe dọa yêu cầu.
Xét theo nghĩa chung nhất, đe dọa có thể được thể hiện dưới hai hình thức:
Thứ nhất, đó là sự tác động thực tế về thể chất mang tính cưỡng bức.
sự cưỡng bức thực tế về thể chất có thể do một bên trực tiếp thực hiện hoặc do
người thứ ba thực hiện. Về mối quan hệ giữa người thứ ba và bên đe dọa thì
không nhất thiết là bên đe dọa và người thứ ba phải đồng lõa với nhau mà điều
quan trọng là sự cưỡng bức thể chất đó để ép buộc một bên giao kết hợp đồng.
Thứ hai, đó là gây áp lực về mặt tâm lý. Một điều rõ ràng là không
phải cứ áp lực tinh thần nào cũng đủ uy lực để ép bên bị đe dọa phải kí kết
44. 44
hợp đồng. Vì thế pháp luật chỉ bảo vệ bên bị đe dọa trong trường hợp sự đe
dọa dưới hình thức áp lực tinh thần phải thực sự nghiêm trọng, tức là sự đe
dọa đó phải có tính hiện thực. Mặt khác, pháp luật không đặt ra yêu cầu đòi
hỏi sự đe dọa đó phải là hành vi trái pháp luật "một hành vi gây áp lực tinh
thần, dù không trái luật nhưng thực sự nghiêm trọng, vẫn có thể được thừa
nhận là yếu tố dẫn đến vô hiệu hợp đồng" [21].
Cũng cần phải lưu ý, không phải bất cứ sự đe dọa nào, dù có đủ uy lực
và thực sự nghiêm trọng cũng đương nhiên được coi là yếu tố ảnh hưởng đến
hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ, nếu một người bán hàng đe dọa người mua rằng
sẽ không tiếp tục cung cấp hàng hóa cho người mua nữa nếu người mua từ
chối đề nghị mua hàng lần này của anh ta, thì sự đe dọa đó tuy có tính chất
nghiêm trọng như có thể được pháp luật chấp nhận và cho phép.
- Hành vi đe dọa được thực hiện đối với chính người xác lập giao dịch
dân sự mà đối tượng bị tác động là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín của chính người đó hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của người đó. So
với quy định tương ứng tại Bộ luật dân sự 1995 thì Bộ luật dân sự 2005 đã
xác định rõ khái niệm "người thân thích" để hiểu thống nhất và tránh hiểu quá
rộng về khái niệm này. Tuy nhiên, việc thu hẹp đến mức chỉ là đối với "cha,
mẹ, vợ, chồng, con" dường như chưa thật sự hợp lý.
Khi giải quyết đối với loại giao dịch này, đôi khi các nhà thực thi luật
pháp nhầm lẫn với hành vi đe dọa thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ luật
hình sự. Vì theo Điều 135 Bộ luật hình sự quy định: "Người nào đe dọa dùng
vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác nhằm chiếm
đoạt tài sản bị phạt tù…" [32, Điều 135]. Về mặt khách quan, có điểm giống
nhau ở hành vi đe dọa được quy định trong Bộ luật hình sự và Bộ luật dân sự.
Tuy nhiên, tính chất và mức độ của hành vi đe dọa trong Bộ luật hình sự cao
hơn và có mục đích là chiếm đoạt tài sản, còn hành vi đe dọa được quy định
trong Bộ luật dân sự nhằm mục đích buộc một người nào đó phải xác lập giao
dịch.