SlideShare a Scribd company logo
1 of 110
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỒNG HIỂN
GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG THEO
PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2016
ii
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỒNG HIỂN
GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số : 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu
Hà Nội – 2016
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Hồng Hiển
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………….. 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG… ....... 6
1.1 Khái niệm, ý nghĩa của Giải thích hợp đồng………………………………… 6
1.1.1. Khái niệm Giải thích hợp đồng………………………………………... 6
1.1.2. Chủ thể của hoạt động Giải thích hợp đồng…………………………... 12
1.1.3. Chức năng của hoạt động Giải thích hợp đồng………………………. 16
1.1.4. Ý nghĩa của Giải thích hợp đồng……………………………………… 24
1.2. Lịch sử phát triển về Giải thích hợp đồng…………………………………… 25
1.2.1. Các học thuyết phát triển các quy định về hoạt động Giải thích hợp
đồng……………………………………………………………………………….. 25
1.2.2. Các phương pháp căn bản xây dựng các nguyên tắc Giải thích hợp
đồng và vận dụng các nguyên tắc trong thực tiễn………………………………… 29
1.2.3. Quy định về Giải thích hợp đồng ở một số nước và theo pháp luật của
Việt Nam………………………………………………………………………….. 31
Chƣơng 2: CÁC NGUYÊN TẮC CỦA GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG……… 43
2.1. Giải thích hợp đồng theo ý chí đích thực của các bên giao kết hợp
đồng……..
43
2.2. Các nguyên tắc Giải thích theo ý chí tuyên bố của các bên………………… 52
2.2.1. Giải thích hợp đồng theo nghĩa phù hợp với mục đích giao dịch dân
sự…………………………………………………………………………………... 54
v
2.2.2. Giải thích trên cơ sở mối liên hệ các điều khoản được thể hiện trong
hợp đồng và phù hợp toàn bộ nội dung hợp đồng………………………………… 60
2.2.3. Giải thích ngôn từ theo nghĩa phù hợp với tính chất của hợp
đồng…….
64
2.2.4. Nguyên tắc áp dụng tập quán trong Giải thích hợp đồng…………… 67
2.2.5. Giải thích theo nguyên tắc điều hòa lợi ích của các bên………………. 73
2.2.6. Giải thích theo nguyên tắc có lợi cho bên yếu thế…………………….. 76
Chƣơng 3: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
HIỆN HÀNH VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG………………………… 81
3.1. Thực tiễn Giải thích hợp đồng ở việt nam…………………………………… 81
3.2. Những đề xuất hướng hoàn thiện các quy định về Giải thích hợp đồng…… 91
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 100
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là một trong những phương tiện quan trọng, chủ yếu để cá
nhân, tổ chức trao đổi lợi ích, các sản phẩm, dịch vụ nhằm thỏa mãn các nhu cầu
cá nhân. Hợp đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của
nên kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản của sự trao đổi hàng hóa trong xã
hội, nó là một phương thức quan trọng để tổ chức đời sống chung và thúc đẩy
kinh tế, xã hội phát triển. Trong hầu hết các bộ luật dân sự cổ điển, hợp đồng
chiếm một vị trí trung tâm và được chế định với dung lượng lớn nhất so với các
chế định khác do vai trò trung tâm của nó đối với trật tự thị trường. Các quy định
về hợp đồng luôn luôn chiếm đa phần trong các đạo luật thuộc lĩnh vực luật tư.
Ngày nay, chế định hợp đồng nói chung và những vấn đề về hiệu lực của
hợp đồng trở thành một chế định quan trong trong hệ thống pháp luật hợp đồng
Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự nói riêng. Vì vậy, đã có nhiều nghiên
cứu, phân tích về chế định hợp đồng, đặc biệt là những vấn đề hiệu lực của hợp
đồng. Hiệu lực của hợp đồng nói ở đây chính là sự tạo lập ra quyền và nghĩa vụ
giữa các bên giao kết, là hiệu lực ràng buộc như pháp luật đối với các bên tham
gia và nghiên cứu hiệu lực của hợp đồng bao quát ba vấn đề: thứ nhất, vấn đề thi
hành các hợp đồng; thứ hai, giải thích ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp
đồng và thứ ba, kiềm chế hoặc bảo đảm cho việc biểu lộ ý chí ; Để đáp ứng được
các yêu cầu về mặt lý thuyết áp dụng trên thực tiễn, pháp luật về hợp đồng càng
hoàn thiện thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng của các chủ thể càng thuận
lợi.
Tuy vậy, xét trên nhiều phương diện, vấn đề hiệu lực của hợp đồng là
một vấn đề pháp lý rất phức tạp cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng,
đặc biệt là một phạm vi của vấn đề hiệu lực của hợp đồng đó là giải thích hợp
2
đồng. Về mặt lý luận, các nhà luật gia vẫn còn chưa thống nhất được với nhau
trong việc xác định nội dung và dung hòa các học thuyết phát triển của giải thích
hợp đồng. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước ta đã trải qua nhiều truyền thống
pháp luật trong suốt chiều dài lịch sử, chưa có sự chắp nối kế thừa và chọn lọc
giưã các truyền thống pháp luật đó và kết hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế,
xã hội hiện tại vì vậy có thể nói luật Hợp đồng của Việt Nam nói chung và vấn
đề cụ thể của hiệu lực hợp đồng là giải thích hợp đồng nói riêng hiện nay thiếu
tính kế thừa và thiếu đồng bộ.
Bộ luật dân sự 2005 tập trung các quy định căn bản liên quan đến giải
thích hợp đồng vào hai điều khoản nhất theo phân cấp tại Điều 129 về giải thích
giao dịch dân sự và Điều 409 về Giải thích hợp đồng, tuy nhiên vẫn còn nhiều
hạn chế, bất cập gây khó khăn cho công tác giải quyết các vấn đề thực tiễn có
liên quan, chưa thực sự khả thi. Về vấn đề lý thuyết, vấn đề giải thích hợp đồng
vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi về học thuyết phát triển, bản chất của hoạt
động này và áp dụng các nguyên tắc trong thực tiễn pháp lý. Những bất cập trên
đây cần phải được nghiên cứu làm rõ và đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc
phục, hoàn thiện.
Từ những lý do trên tôi lựa chọn đề tài “Giải thích hợp đồng theo pháp
luật dân sự Việt Nam hiện hành” để làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học. Các vấn
đề đưa ra trong luận văn xuất phát từ việc nghiên cứu các quy định pháp luật
Việt Nam hiện nay, có tìm hiểu, tham khảo các quy định của pháp luật một số
quốc gia trên thế giới, qua đó định hướng và đề xuất một số giải pháp cụ thể
hoàn thiện các quy định pháp luật về giải thích hợp đồng nhằm tạo ra một cơ chế
phù hợp hơn trong vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu
Khoa học pháp lý Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới
các vấn đề khác nhau của hiệu lực hợp đồng như: đề tài luận án tiến sĩ "Hiệu lực
3
của hợp đồng theo quy định của Việt Nam" của tác giả Lê Minh Hùng, Thành
phố Hồ Chí Minh, 2010; Đề tài luận văn thạc sĩ "Hợp đồng kinh doanh vô hiệu
và hậu quả pháp lý của nó" của tác giả Lê Thị Bích Thọ, 2002; "Hợp đồng kinh
doanh vô hiệu: Lý luận và thực tiễn". Ngoài ra còn có một số sách chuyên khảo,
công trình nghiên cứu có liên quan tới một số khía cạnh pháp lý của vấn đề giải
thích hợp đồng như quyển “Việt Nam dân luật – lược khảo” của GS. Vũ Văn
Mẫu, Giáo trình “Luật hợp đồng Việt Nam” của PGS. TS Ngô Huy Cương,
“Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” của TS Nguyễn Ngọc
Khánh, “Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án” của TS. Đỗ
Văn Đại.... Các công trình nghiên cứu trước đây là nguồn tài liệu quan trọng, có
giá trị tham khảo và cung cấp những luận cứ khoa học có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn cao. Tuy nhiên, các nghiên cứu về hợp đồng đa phần mới chỉ nghiên cứu
chung về hiệu lực của hợp đồng, phần lớn các vấn đề chủ yếu là các vấn đề nhỏ
lẻ, chưa có sự đánh giá tổng quát và chưa phân tích sâu, toàn diện về giải thích
hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài
“Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” là một đề tài
nghiên cứu mang tính cấp thiết nhằm góp phần vào viê ̣c nghiên cứu , hoàn thiê ̣n
pháp luật về vấn đề này phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát.
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một trong những vấn đề
của chế định hợp đồng nói chung và hiệu lực của hợp đồng nói riêng đó là giải
thích hợp đồng. Trên cơ sở đó thấy được đặc điểm của chế định hợp đồng trong
đời sống kinh tế, xã hội hiện nay.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về giải thích hợp đồng ở Việt Nam. Làm
rõ bản chất vấn đề hiệu lực của hợp đồng.
4
- Thông qua đề cập với các vấn đề về bản chất của hoạt động giải thích
hợp đồng, các học thuyết phát triển và các nguyên tắc giải thích có thể phân tích
nội dung giải thích hợp dồng
- Phân tích và đối chiếu, khảo sát thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật. Trên cơ sở đó có những kiến nghị trong việc hoàn thiện quy định
pháp luật về giải thích hợp đồng nói riêng.
4. Tính mới và đóng góp của đề tài
Giải thích hợp đồng là vấn đề đã được nhiều luật gia nghiên cứu, đánh giá
dưới góc độ pháp lý. Vấn đề này cũng đã được nhắc đến nhiều trên các tạp chí
chuyên ngành pháp lý hay trong các hội thảo khoa học về pháp lý, đặc biệt trong
thời điểm sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005 thì vấn đề giải thích hợp đồng đã trở
thành một mục tiêu quan trọng trong việc hệ thống các vấn đề về hợp đồng.
Tuy nhiên, phần lớn các vấn đề được đưa ra chủ yếu là các vấn đề nhỏ lẻ,
chưa có sự đánh giá tổng quát hoặc các phân tích chủ yếu dựa trên cơ sở các quy
định pháp luật, thiếu sự liên hệ với thực tế công tác giải thích hợp đồng hoặc
được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Các vấn đề tác giả đưa ra trong luận
văn này không chỉ là sự khái quát các vấn đề pháp lý trên cơ sở các quy định
pháp luật Việt Nam hiện hành mà còn hướng đến phân tích các điểm bất hợp lý
trong cách thức thể hiện đó và đề xuất hướng hoàn thiện.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận chung về pháp luật
đối với vấn đề giải thích hợp đồng, các quy định pháp luật liên quan đến nội dung
và các nguyên tắc của giải thích hợp đồng.
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở thực trạng của pháp luật đối với
vấn đề giải thích hợp đồng ở Việt Nam hiện nay nhằm bảo đảm vấn đề giải thích
5
hợp đồng là một công cụ hiệu quả trong việc điều hòa và bảo vệ lợi ích hợp pháp
của đôi bên, công cụ để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
6. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu.
6.1. Nội dung nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Khái quát chung về giải thích hợp đồng: Chương này tác giả
trình bày các khái niệm, đặc điểm về giải thích hợp đồng và các vấn đề pháp lý
liên quan quan đến hoạt động giải thích hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
Chương 2. Các Nguyên tắc của Giải thích hợp đồng: Chương này tác giả
phân tích các nguyên tắc cơ bản của hoạt động giải thích hợp đồng, trong đó có
so sánh, phân tích nhằm đưa ra các điểm hạn chế của pháp luật Việt Nam
Chương 3. Thực tiễn giải thích hợp đồng và kiến nghị hoàn thiện các quy
định hiện hành về giải thích hợp đồng. Chương này tác giả đi sâu phân tích một
số vụ việc liên quan đến hoạt động giải thích hợp đồng và từ đó đề xuất một số
kiến nghị hoàn thiện các quy định hiện hành tại Việt Nam.
6.2. Địa điểm nghiên cứu.
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu đối với các quy định hiện hành của
pháp luật Việt nam về giải thích hợp đồng trên lãnh thổ Việt Nam.
6.3 phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp để làm rõ vấn đề nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh... Trong đó
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và phương pháp so sánh là ba
phương pháp chủ đạo, được sử dụng chủ yếu trong luận văn nhằm rút ra những
vướng mắc, bất cập trong hoạt động giải thích hợp đồng trong thực tiễn.
6
Chƣơng I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG
1.1 KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG
1.1.1. Khái niệm giải thích hợp đồng.
Hiệu lực của hợp đồng đóng vai trò cốt lõi đối với sự tồn tại của hợp đồng,
một hợp đồng không có hiệu lực cũng có nghĩa là giữa các bên không tồn tại
quan hệ hợp đồng. Khi nghiên cứu vấn đề hợp đồng, theo PGS. TS Ngô Huy
Cương cho rằng, sự hỗ trợ của luật hợp đồng được thể hiện ở sự tác động của
luật hợp đồng vào quan hệ hợp đồng, được thể hiện ở bốn khía cạnh đó là: thứ
nhất, tạo lập hợp đồng; thứ hai, vấn đề thi hành các hợp đồng; thứ ba, giải thích ý
chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng và thứ tư, kiềm chế hoặc bảo đảm
cho việc biểu lộ ý chí ; Và Hiệu lực của hợp đồng theo nghĩa rộng bao quát ba
khía cạnh sau của bốn khía cạnh nói trên [9,tr.367].
Cũng tương tự trong cách hiểu như vậy, theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu thì
phạm vi việc nghiên cứu hiệu lực hợp đồng như sau:
“1) Người phụ trái bị khế ước thúc buộc tới mức nào? Đây là vấn đề hiệu
lực thúc buộc của nghĩa vụ.
2) Khế ước phải giải thích như thế nào?
3) Ai có thể xin thi hành nghĩa vụ và ai phải thi hành? Nói một cách khác,
ai là những người bị nghĩa vụ thúc buộc? Đây là vấn đề hiệu lực tương đối của
nghĩa vụ” [38, tr.242]
Như vậy, nhìn chung có thể nhận xét Giải thích hợp đồng là một nội dung
được phân tích trong nội hàm vấn đề hiệu lực hợp đồng và dưới góc độ nghiên
7
cứu vấn đề này cũng được xem xét tiếp cận trong phạm vi nghiên cứu Hiệu lực
của hợp đồng nói chung.
Khi nói đến vấn đề giải thích hợp đồng, người ta sẽ liên hệ tới các vấn đề
khác của hiệu lực hợp đồng để có thể xác định rõ vai trò của hoạt động này, về
cơ bản khi kết lập hợp đồng, các hợp đồng này có hiệu lực ràng buộc các bên
giao kết, khi đó, trong nhiều trường hợp các bên tham gia giao kết hợp đồng
không đồng quan điểm về vấn đề nào đó trong hợp đồng do nhầm lẫn, hoặc thiếu
sót trong hợp đồng; tòa án (hoặc các chủ thể có nhiệm vụ giải thích hợp đồng tùy
nền tài phán ) có quyền giải thích hợp đồng để biết rõ nội dung của hợp đồng
như thế nào, xác định rõ các điểm còn tranh cãi hoặc bổ sung những điểm thiếu
sót tùy các thức quy định của luật.
Nghiên cứu lý luận về Giải thích hợp đồng có thể nhận thấy đã có nhiều
tác giả đưa ra những khái niệm khác nhau, tuy nhiên có thể thấy phần lớn cách
thức tiếp cận khái niệm này dưới góc độ trực tiếp chỉ ra nhiệm vụ hay chức năng
của hoạt động này.
Trong cuốn Từ điển luật học, không có định nghĩa cụ thể về giải thích hợp
đồng mà chỉ có giải nghĩa về giải thích giao dịch dân sự, nếu ta hiểu theo cách
thức mối liên quan tại Bộ luật dân sự 2005 quy định tại Điều 121 “giao dịch dân
sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, thì theo cách diễn giải của Từ điển luật học
thì “giải thích giao dịch dân sự là việc thẩm phán làm rõ nghĩa nội dung của
giao dịch dân sự đó” [65,tr. 288], dễ nhận thấy rằng, khái niệm này của Từ điển
luật học xuất phát từ cách thức thể hiện tại điều khoản về giải thích giao dịch dân
sự tại Điều 126 Bộ luật dân sự 2005, theo đó, cách thức diễn giải này đã thể hiện
một điểm hạn chế khá rõ đó là mới chỉ đề cập tới chức năng làm rõ nghĩa của
8
hợp đồng, trong khi chức năng khác nữa của giải thích giao dịch hợp đồng cụ thể
đó là bổ sung những thiếu sót của hợp đồng thì chưa được nhắc đến trong định
nghĩa này, tạm thời có thể cân nhắc cho rằng đây là thiếu sót của những người
soạn thảo Từ điển luật học vì có thể người soạn thảo nhìn nhận vấn đề giải thích
giao dịch dân sự khác với giải thích hợp đồng, tuy nhiên, như đã phân tích ở trên,
nếu giao dịch dân sự bao hàm cả hợp đồng, thì không thể không bao trùm về
nguyên tắc các vấn đề giao dịch dân sự đối với hợp đồng, cụ thể là đối với vấn
đề giải thích hợp đồng được thể hiện tại Điều 409 đã thể hiện rõ chức năng bổ
sung các thiếu sót ở Khoản 5 đó là: “Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản thì có
thể bổ sung theo tập quán đối với hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng”.
Ngoài ra, kể cả đối với giải thích giao dịch dân sự khác thì bổ sung các thiếu sót
trong nội dung cũng là vấn đề không thể thiếu.
Trong khi đó, Tiến sĩ Đỗ Văn Đại thì lại định nghĩa rằng “giải thích hợp
đồng là việc xác định nội dung của hợp đồng, và việc giải thích thường được tiến
hành ở Việt Nam để giải quyết vấn đề giao kết hợp đồng (…) và thực hiện hợp
đồng để biết quyền và nghĩa vụ của các bên” [16, tr.701 - 702] tuy nhiên cũng
giống như điểm thiếu sót đã phân tích, TS Đỗ Văn Đại dường như chỉ đề cập tới
một chức năng của Giải thích hợp đồng đó là xác định các điều khoản mập mờ,
không rõ nghĩa, chứ chưa đề cập tới chức năng khác của hoạt động này đó là bổ
sung lỗ hổng cho hợp đồng.
Trong khi đó, theo cách thức định nghĩa của các tác giả của Viện Khoa
học pháp lý trong cuốn Bình luận khoa học bộ luật dân sự năm 2005 tiếp cận một
cách đầy đủ hơn khi trình bày: “Trong nội dung của giao dịch do nhiều lý do
khác nhau đôi khi có những điều khoản không rõ ràng hoặc không được quy
định cụ thể, có thể dẫn đến sự hiểu lầm hoặc hiểu không đúng nội dung của giao
9
dịch. Trong trường hợp dẫn đến tranh chấp thì việc bảo vệ của pháp luật cũng
không thể đạt được hiệu quả như các bên mong muốn. Bởi vậy, một vấn đề đặt
ra là phải làm sáng tỏ nội dung của giao dịch dân sự và bổ sung những điểm còn
thiếu khi xác lập giao dịch. Đó chính là nhiệm vụ giải thích giao dịch dân sự”
[31,tr.303]. Mặc dù khái niệm này đã thể hiện đủ hai chức năng của giải thích
hợp đồng (nếu ta xem xét rằng khái niệm đối với giao dịch dân sự cũng áp dụng
đối với giải thích hợp đồng) nhưng cách thức diễn giải còn một vấn đề về mặt
câu chữ, theo cách hiểu thông thường khi đọc nội dung trên, người đọc dễ hiểu
nhiệm vụ giải thích giao dân sự đó là làm sáng tỏ nội dung của giao dịch dân sự
và bổ sung những điểm còn thiếu, như vậy thì nhiệm làm sáng tỏ nội dung và
nhiệm vụ bổ sung là hai nhiệm vụ song song với nhau, là hai nhiệm vụ được
thực hiện đồng thời trong quá trình giải thích giao dịch dân sự, tuy nhiên trong
thực tế không phải trường hợp nào cũng phải đảm bảo hai nhiệm vụ này của giải
thích giao dịch dân sự. Vì trong trường hợp đã đầy đủ điều khoản nhưng không
rõ nghĩa thì chỉ cần áp dụng các nguyên tắc cụ thể không phải bổ sung điều
khoản nào cả, hoặc trường hợp các điều khoản thể hiện đầy đủ ý nghĩa của nó,
được đặt trong mối liên hệ nhất định với nhau trong hợp đồng, tuy nhiên có khả
năng vẫn tồn tại lỗ hổng dẫn tới hệ quả không thể thực hiện được hoặc gây bất
đồng về cách hiểu các nội dung đã quy định trong hợp đồng thì cần bổ sung.
So sánh với một số cách thức định nghĩa về khái niệm Giải thích hợp đồng
của một số nước, một số luật gia tại Việt Nam cũng trích dẫn các quan điểm của
Nga, tiêu biểu là của tác giả E. A. Berezina cho rằng: “đó là một dạng đặc biệt
của giải thích luật, được thực hiện bằng các phương pháp truyền thống của kỹ
thuật pháp lý và các phương pháp xuất phát từ nội dung hợp đồng riêng biệt của
những hoạt động pháp luật đặc thù của các bên trong hợp đồng, người đại diện
10
của họ, cơ quan tòa án và các chủ thể pháp luật khác, theo hướng làm rõ nghĩa
các điều khoản từng hợp đồng riêng biệt trong mục đích của việc thực hiện nó”
[24, tr.44]. Cách nhìn nhận này có một điểm hạn chế rõ ràng đó là, theo Vũ Văn
Mẫu: “Dù hợp đồng có hiệu lực cũng như các nghĩa vụ do pháp luật phát sinh ra
song không thể đồng hóa hợp đồng với luật pháp được” [ 38,tr.264]. Luật pháp
có tầm hiệu lực bao quát hơn, không thể quan niệm giải thích hợp đồng dưới
dạng là một biến thể của giải thích luật pháp được, dù có mối liên hệ tuy nhiên
đối với vấn đề mang tích cách riêng biệt thì mỗi liên hệ dù có nhưng rất mong
manh. Cách hiểu như trên sẽ gây ra tình trạng nhầm lẫn trong phân biệt thẩm
quyền của các chủ thể giải thích hợp đồng (sẽ được nhắc đến trong phần bản chất
của giải thích hợp đồng). Điểm ghi nhận trong quan niệm trên đó là có thể áp
dụng các phương pháp truyền thống của kỹ thuật pháp lý và các phương pháp
xuất phát từ nội dung hợp đồng riêng biệt của những hoạt động pháp luật đặc thù
của các chủ thể. Một góc tiếp cận khác, một số luật gia cũng trích dẫn quan điểm
tác giả N. V. Ctepanjuk cho rằng: Sự cần thiết phải giải thích hợp đồng có thể do
nhiều nguyên nhân. Đối với một bên, có thể xuất hiện sự cần thiết phải xác định
nội dung của một điều khoản này hoặc một điều khoản kia trong hợp đồng vì nó
được thể hiện chưa rõ ràng với một bên khác – hoặc để bổ sung điều khoản của
hợp đồng trong trường hợp tồn tại thiếu sót đối với nội dung của hợp đồng hoặc
để khắc phục những điều khoản có sự mâu thuẫn [24, tr.44], cách thức thể hiện
quan điểm này khá phù hợp và đầy đủ nếu so sánh với một số định nghĩa của
một số luật gia khác.
Theo hai luật gia của Đức đó là Konrad Zeigert và Hein Koetz cho rằng
khái niệm Giải thích hợp đồng có thể diễn giải như sau: Qui trình thực hiện
nhiệm vụ của thẩm phán xác định ý nghĩa mơ hồ hoặc không hoàn chỉnh của sự
11
diễn đạt quyền lợi của các bên trong quan hệ hợp đồng được gọi là giải thích
hợp đồng [66, tr.400]. Có thể thấy, đây là cách thức tiếp cận khái niệm giải thích
hợp đồng dưới góc độ liệt kê chức năng của giải thích hợp đồng đầy đủ và hợp lý
hơn cả vì nó đáp ứng được đủ yêu cầu hai chức năng riêng tách bạch của giải
thích hợp đồng đó là (1) làm rõ nghĩa cho hợp đồng; (2) bổ sung các thiếu sót
của hợp đồng. Tuy nhiên, cần phải phải nhận xét thêm rằng, một điểm mấu chốt
còn thiếu sót của định nghĩa này đó là yếu tố đảm bảo ý chí chung của các bên
tham gia giao kết hợp đồng, và đảm bảo tính chính xác của nội dung trong hợp
đồng hay mối liên hệ giữa các điều khoản với nhau, yếu tố này luôn là nguyên
tắc căn bản khi xây dựng bất kì chế định nào về vấn đề giải thích hợp đồng cũng
như thực tiễn hoạt động của nó trong thực tế.
Nhìn chung, các khái niệm về Giải thích hợp đồng gần như chỉ giới hạn ở
nội dung tiếp cận dưới góc độ các chức năng của nó liên quan đến đối tượng của
hoạt động này đó là hợp đồng có điều khoản hoặc nội dung mập mờ, không rõ
nghĩa hoặc (có thể đồng thời) quy định trong nội dung hợp đồng thiếu hoàn
chỉnh vì nhiều lí do khác nhau khi xác lập hợp đồng. Tuy nhiên ở một số góc độ
tiếp cận khác nhau, yếu tố bổ sung điều khoản hoặc các quy định còn thiếu sót
trong hợp đồng dường như chưa được quan tâm nhiều trong vấn đề giải thích
hợp đồng, đây là thiếu sót cực kỳ nghiêm trọng.
Từ những nhận định trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về Giải
thích hợp đồng như sau: Giải thích hợp đồng là hoạt động của thẩm phán hoặc các
chủ thể khác tùy cách thức quy định của từng nền tài phán khác nhau (ví dụ như
trọng tài viên...), thực hiện nhiệm vụ xác định rõ các điểm không rõ nghĩa hoặc bổ
sung các quy định không đầy đủ trong nội dung của hợp đồng giữa các bên trong
quan hệ hợp đồng. Giải thích hợp đồng phải dựa trên cơ sở không làm thay đổi bản
12
chất của hợp đồng, hay cụ thể hơn là không làm thay đổi ý chí của các bên tham gia
giao kết hợp đồng.
Khái niệm trên đã hàm chứa những điểm cốt lõi nhất về giải thích hợp
đồng, đó là:
- Đây là hoạt động nhằm xác định chính xác các nội dung của hợp đồng ví
dụ như quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, đối tượng, thời
hạn thực hiện... , thông qua việc: thứ nhất là làm rõ nghĩa cho sự diễn đạt trong
một hay nhiều nội dung của hợp đồng; thứ hai là bổ sung các thiếu sót trong một
hay nhiều quy định của hợp đồng.
- Chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng là các thẩm phán hoặc các
chủ thể khác tùy nền tài phán khác nhau (ví dụ như trọng tài viên ...).
- Đối tượng đặc trưng của hoạt động giải thích hợp đồng đó là xác định ý
chí chung của các bên tham gia hợp đồng.
- Bản chất của hoạt động này là làm rõ nghĩa hay bổ sung các nội dung
còn thiếu của hợp đồng, vì vậy thẩm phán không có quyền thay đổi nội dung của
hợp đồng.
Một vấn đề nữa đó là, nhìn chung các khái niệm về giải thích hợp đồng
tương đối thống nhất, vì chủ yếu là nhìn nhận hướng tới ngay chức năng và đối
tượng của hoạt động đó,tuy quy định về các nguyên tắc cụ thể của hoạt động giải
thích hợp đồng phát triển chủ yếu dựa trên các nền tảng học thuyết khác nhau về
hợp đồng, vì vậy cách thức diễn đạt nội dung các nguyên tắc và thứ tự ưu tiên
cũng có khác nhau.
1.1.2. Chủ thể của hoạt động Giải thích hợp đồng.
Đối với quy định của pháp luật Việt Nam, việc xác định chủ thể giải thích
hợp đồng là không rõ ràng, các tác giả của Viện khoa học pháp lý chỉ chỉ dẫn
13
một cách chung chung: “Pháp luật không quy định cụ thể ai là người có trách
nhiệm giải thích nội dung của giao dịch dân sự. Thông thường, trong trường hợp
có sự hiểu không đúng về nội dung của giao dịch dân sự trước hết cần có sự bàn
bạc thỏa thuận của các bên. Nếu các bên không thỏa thuận được thì có thể yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền hoặc Tòa án quyết định” [31,tr.305], như vậy cách
thức tiếp cận về chủ thể giải thích hợp đồng này khá tương đồng với cách thể
hiện của các luật gia của Nga, theo Berezina thì “đó là một dạng đặc biệt của
giải thích luật, được thực hiện bằng các phương pháp truyền thống của kỹ thuật
pháp lý và các phương pháp xuất phát từ nội dung hợp đồng riêng biệt của
những hoạt động pháp luật đặc thù của các bên trong hợp đồng, người đại diện
của họ, cơ quan tòa án và các chủ thể pháp luật khác, theo hướng làm rõ nghĩa
các điều khoản từng hợp đồng riêng biệt trong mục đích của việc thực hiện
nó”[24,T.44]ư, với cách định nghĩa như vậy thì theo Berezina chủ thể của hoạt
động giải thích hợp đồng trước hết thuộc về chính các bên trong hợp đồng, sau
đó là người đại diện, cơ quan tòa án và các chủ thể pháp luật khác. Cũng cùng
cách thức tiếp cận như vậy, một số luật gia của Việt Nam cũng có ý kiến cho
rằng các vấn đề phát sinh yêu cầu giải thích hợp đồng cũng là một loại tranh
chấp hợp đồng, vì vậy chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đồng thời
cũng có thể giải thích hợp đồng [41, tr.32]. Tuy nhiên cách hiểu trên đây còn có
một điểm khó hiểu, đó là nếu đánh giá hoạt động giải thích hợp đồng theo giai
đoạn, là việc xác định ý chí, như vậy nếu giai đoạn thương lượng, hòa giải giữa
các bên, hay theo cách xác định chủ thể giải thích hợp đồng đó là các bên trong
hợp đồng, thì liệu nó có được coi là hoạt động giải thích hợp đồng nữa hay
không khi mà sự thỏa thuận giữa các bên nhiều trường hợp đã làm thay đổi đi ý
chí ban đầu muốn thể hiện, đặc biệt là đối với trường hợp không thể xác định
14
được ranh giới giữa việc giữ nguyên nội dung của hợp đồng và không làm thay
đổi ý chí của các bên, chỉ nhằm làm rõ nghĩa hay bổ sung lỗ hổng của hợp đồng.
Trong khi đó, theo cách thức quy định và cách hiểu của các luật gia truyền
thống thì nhiều ý kiến cho rằng chủ thể của hoạt động của giải thích hợp đồng là
các thẩm phán. Konrad Zeugert và Hein Koetz cho rằng Giải thích hợp đồng là
Qui trình thực hiện nhiệm vụ của thẩm phán. TS Nguyễn Ngọc Khánh thì cho
rằng: “Trên thực tế, không phải lúc nào nội dung hoặc điều khoản của hợp đồng
cũng được thể hiện đầy đủ và rõ nghĩa. Khi đó Tòa án sẽ có nhiệm vụ làm sáng
tỏ ý nghĩa và nội dung của hợp đồng các bên đã giao kết. Dạng hoạt động của
Tòa án trong những trường hợp như vậy được gọi là giải thích hợp
đồng”[28.tr126]. Còn theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu thì “khế ước có hiệu lực thúc
buộc các người kết ước, các thẩm phán không có quyền thay đổi nội dung Khế
ước, nhưng các thẩm phán có quyền giải thích khế ước để biết rõ nội dung ra
sao vì nhiều khi các người kết ước không đồng quan điểm về vấn đề này phải
nhờ thẩm phán giải quyết mối phân tranh’’ [38,tr.260] như vậy, chủ thể của hoạt
động giải thích hợp đồng chỉ có thể là thẩm phán chứ không thể từ các bên trong
hợp đồng.
Đối với quan điểm này cũng còn có hạn chế nhất định đó là nếu theo quy
định Thẩm phán là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích hợp đồng thì hoạt
động gặp bất lợi rất lớn nếu xem xét theo các giai đoạn giao kết hợp đồng, theo
đó hoạt động này chỉ có nhiều ý nghĩa sau khi có tranh chấp nảy sinh từ hợp
đồng xảy ra hoặc có yêu cầu của các bên giao kết sau khi thực hiện và phát hiện
điểm thiếu sót hoặc bất hợp lý từ một hoặc các điều khoản của hợp đồng, trong
khi đó yêu cầu giải thích hợp đồng xảy ra xuất phát từ bản chất hợp đồng đã xảy
ra ngay từ thời điểm giao kết, bản thân hợp đồng đã xuất hiện lỗ hổng hoặc chứa
15
các điều khoản mập mờ không rõ nghĩa, như vậy, ngay từ giai đoạn yêu cầu, nếu
gặp phải trường hợp như trên thì tòa án có thẩm quyền từ giai đoạn nào thì cần
phải cân nhắc thật kỹ càng.
Như vậy, từ các nhận định trên, cách thức có phần hợp lý hiện nay để tiếp
cận vấn đề chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng đó là nhìn nhận dưới góc
độ các trường hợp hợp đồng cần phải giải thích cũng có một số đặc điểm tương
đồng với tranh chấp hợp đồng (mặc dù không thể đồng nhất hợp đồng cần giải
thích là một loại tranh chấp hợp đồng được vì hợp đồng cần giải thích không
phát sinh từ hành vi vi phạm mà xuất phát trong nội dung của hợp đồng đó), theo
đó chủ thể giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng là chủ thể của hoạt động giải
thích hợp đồng. Sở dĩ có thể nhận định như vậy vì các lý do, (1) xuất phát từ dẫn
giải hợp đồng có điều khoản mập mờ hay có lỗ hổng dẫn tới cách hiểu và áp
dụng sai trong thực tế, từ đó có bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia giao kết
(mặc dù các các bất đồng này không xuất phát từ vi phạm của các bên như tranh
chấp thông thường) và do đó phát sinh yêu cầu giải thích hợp đồng từ một chủ
thể độc lập có đủ khả năng (trong các trường hợp này khó có thể quy định do hai
bên tự thương lượng, vì bản chất quá trình thương lượng không còn là hoạt động
giải thích hợp đồng, quá trình thương lượng có thể đã làm thay đổi ý chí ban đầu
của một hoặc cả hai bên tham gia hợp đồng) (2) đối với vấn đề hoạt động giải
thích hợp đồng, khó có một hạn định bắt buộc nào trong việc xác định chủ thể có
thẩm quyền giải thích đối với từng hợp đồng riêng rẽ, (3) thông thường chủ thể
giải quyết tranh chấp có thể là thẩm phán (theo thủ tục tố tụng tại tòa án), trọng
tài viên (giải quyết theo thủ tục trọng tài thương mại). Đối với những chủ thể
như vậy thì các yêu cầu về chủ thể giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng đã được
16
đảm bảo (về chuyên môn, trình độ, mức độ am hiểu trong lĩnh vực giải quyết ...),
do đó cũng đáp ứng đầy đủ khả năng đối với vấn đề giải thích hợp đồng.
Như vậy có thể hiểu chủ thể có thẩm quyền giải quyết vấn đề giải thích
hợp đồng hiện nay đó là thẩm phán hoặc trọng tài viên theo thủ tục tố tụng tư
pháp hoặc giải quyết bởi trọng tài thương mại, tùy theo nội dung của từng hợp
đồng và cách thức quy định của từng nền tài phán.
1.1.3. Chức năng của Giải thích hợp đồng
Như ta đã nhận xét thông qua khảo sát các khái niệm về giải thích hợp
đồng thì có thể rút ra chức năng của hoạt động này bao gồm: thứ nhất, làm rõ
nghĩa cho hợp đồng; thứ hai, bổ sung các nội dung còn thiếu của hợp đồng, nó
xuất phát từ đối tượng giải quyết của vấn đề này đó là (1) các quy định của hợp
đồng không rõ ràng, hoặc (2) hợp đồng quy định thiếu sót. Trong thực tiễn, trong
các nền tài phán khác nhau lại có cách thức phân tách đối tượng hướng tới cần
giải quyết của hoạt động giải thích hợp đồng một cách chi tiết cụ thể, phần lớn
có thể chia ra làm các trường hợp cần áp dụng hoạt động giải thích hợp đồng và
từ đó thể hiện rõ chức năng chính của hoạt động này đó là:
Thứ nhất, hợp đồng có nội dung mơ hồ, khó hiểu. Ở đây phải nhận định
rõ, một hợp đồng trong bất cứ nền tài phán nào cũng cần được đòi hỏi phải thể
hiện được những nội dung xác định để có thể thể hiện được ý chí của các bên và
do đó cũng được sử dụng để có thể đáp ứng các yêu cầu cho hoạt động giải quyết
tranh chấp, và ta hiểu nội dung của hợp đồng được biết đến như là các điều kiện
của hợp đồng. Như vậy, thông thường trong các hợp đồng có các điều khoản quy
định các nguyên tắc chung giữa các bên, trong đó buộc phải có các điều khoản
cơ bản và có thể có các điều khoản thông thường, các điều khoản tùy nghi (điều
khoản thông thường ở đây được hiểu trong mối tương quan với Điều khoản cơ
17
bản. Điều khoản cơ bản là điều khoản bắt buộc phải có, nếu thiếu thì hợp đồng
không được coi là đã giao kết. Điều khoản thông thường là các điều khoản do
các bên thỏa thuận nhưng các điều khoản này không bắt buộc phải có. Và khi
phát sinh tranh chấp mà các bên không thỏa thuận thì áp dụng quy định của pháp
luật để giải quyết). Nếu theo cách diễn giải trên, nội dung mơ hồ, không rõ ràng
cần đến hoạt động giải thích hợp đồng nghĩa là các điều khoản của hợp đồng quy
định không rõ ràng dẫn đến việc không thể hiện được ý chí của các bên tham gia
giao kết hợp đồng hoặc không thể hiện được căn cứ để giải quyết tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng đó. Giải pháp đối với trường hợp này là khác nhau tùy học
thuyết phát triển của mỗi nền tài phán và thường được cụ thể hóa thành các
nguyên tắc để áp dụng trong thực tiễn (các nguyên tắc này sẽ được phân tích cụ
thể tại chương 2 của luận văn). Một hệ quả nữa để quy về đối tượng của hoạt
động giải thích hợp đồng về nội dung mơ hồ hợp đồng đó là điều khoản của hợp
đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Thực tế, các điều khoản này có thể thể
hiện các nguyên tắc chung mà các bên phải tuân thủ hoặc các điều khoản xác lập
quyền và nghĩa của các chủ thể, một điều khoản có nhiều cách hiểu có thể dẫn
tới hệ quả là làm sai lệch đi cơ bản nội dung của toàn hợp đồng, như vậy, theo
cách hiểu về cơ bản là làm sai lệch đi ý chí của các bên. Tuy nhiên, đối với
trường hợp điều khoản được hiểu theo nhiều nghĩa này, hoạt động giải thích hợp
đồng cần đặc biệt thận trọng, vì nếu lạm dụng các nguyên tắc dựa trên ý chí
tuyên bố, có thể làm sai lệch đi bản chất của hoạt động giải thích hợp đồng, đó là
yêu cầu đảm bảo không làm thay đổi nội dung của hợp đồng.
Thứ hai, hợp đồng tồn tại những lổ hổng cần được bổ sung. Đây là đối
tượng khá đặc biệt của hoạt động giải thích hợp đồng, một hợp đồng cơ bản đảm
bảo nội dung, thể hiện được ý chí của các bên, do đó có thể làm căn cứ để giải
18
quyết các tranh chấp. Trong thực tế, các hợp đồng khó có thể thể hiện đầy đủ nội
dung hoặc điều kiện của chúng một cách lý tưởng như trong lý thuyết. Tuy
nhiên, các nội dung cơ bản để thể hiện ý chí của các bên cũng đều được các nền
tài phán đòi hỏi. Vì vậy, việc thiếu hụt quy định trong nội dung của hợp đồng
chính là đối tượng của hoạt động giải thích hợp đồng trên. Đối với loại đối tượng
này, thông thường vấn đề lớn được đặt ra sẽ là (1) khi nào các bên sử dụng các
biện pháp giải thích hợp đồng để lấp “lỗ hổng” của hợp đồng; vấn đề (2) sử dụng
biện pháp giải thích hợp đồng nào và sử dụng các biện pháp này như thế nào.
Đối với việc áp dụng nguyên tắc bổ sung điều khoản còn thiếu trong giải
thích hợp đồng thì cần lưu ý đến 2 vấn đề. Thứ nhất, khi nào thì áp dụng nguyên
tắc này; thứ hai, tiêu chuẩn và cách thức bổ sung các điều khoản còn thiếu trong
quá trình giải thích hợp đồng.
Về vấn đề thứ nhất, đó là khi nào các bên sử dụng các biện pháp giải thích
hợp đồng để bổ sung “lỗ hổng” của hợp đồng. Như ta đã phân biệt ở trên giữa
các điều khoản cơ bản và các điều khoản thông thường, việc phân loại các điều
khoản như trên có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực của hợp đồng vì thiếu các điều
khoản cơ bản thì coi như hợp đồng chưa được giao kết, còn đối với các điều
khoản thông thường thì có thể sẽ phải đặt ra vấn đề giải thích hợp đồng. Trong
thực tiễn thì việc có “lỗ hổng” trong quy định của nội dung hợp đồng có thể là hệ
quả trong sai sót trong bước soạn thảo hợp đồng vì nhiều lí do, có thể là do cẩu
thả hoặc do các trường hợp các bên không ngờ tới khi thực hiện hợp đồng, một
trường hợp có thể cân nhắc áp dụng bổ sung đó là trường hợp đối với xác định
hợp đồng được định danh cụ thể và mang đầy đủ tính chất của một loại hợp đồng
được quy định trong luật, tuy nhiên thực tiễn người soạn thảo có thể do hạn chế
về kiến thức pháp lý về phần nội dung này hoặc sơ suất không quy định trong
19
hợp đồng dẫn tới thiếu sót. Ví dụ như hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng không
quy định điều khoản các biện pháp nhằm bảo đảm giá trị sử dụng của tài sản
thuê, hoặc hợp đồngthuê nhà không có điều khoản quy định nghĩa vụ sinh hoạt
công cộng của bên thuê nhà…
So sánh với một số quan điểm về việc yêu cầu đối với việc sử dụng hoạt
động giải thích hợp đồng để bổ sung cho lỗ hổng của hợp đồng, theo diễn giải
của UNIDROIT thì yêu cầu đặt ra đối với chức năng này như sau: “Những điều
khoản còn thiếu hoặc những chỗ trống trong hợp đồng phát sinh sau khi giao kết
hợp đồng, nếu chưa được các bên điều chỉnh lại cho đúng trong toàn bộ hợp
đồng, thì có thể là do họ không muốn giải quyết, hoặc do họ không thể ngờ đến
những trường hợp này” [6, tr.70], có thể nhận thấy vấn đề chưa rõ ràng đặt ra
theo cách diễn giải của UNIDROIT ở đây là căn cứ như vậy có đảm bảo yếu tố
bản chất của hợp đồng hay không, cụm diễn giải “do họ không muốn giải quyết”,
vậy thì có thể hiểu, những người tham gia giao kết hợp đồng đã xác định rõ vấn
đề, biết nội dung mà họ không muốn giải quyết, do đó giải thích hợp đồng có
làm thay đổi bản chất ý chí của các bên ban đầu và bản chất của hợp đồng đối
với nội dung “không muốn giải quyết vấn đề” đó hay không? và do đó theo quy
định thôgn thường thì các thẩm phán ở trường hợp này sẽ không áp dụng hoạt
động giải thích hợp đồng để giải quyết vấn đề.
Về vấn đề thứ hai, tiêu chuẩn và cách thức bổ sung điều khoản. Đây là vấn
đề thực tiễn đặt ra rất khó khăn cho các nhà làm luật và các chủ thể giải thích khi
giải thích hợp đồng. Bổ sung làm sao để đảm bảo không thay đổi bản chất của
hợp đồng và cũng đáp ứng được yêu cầu đầy đủ nội dung, UNIDROIT có đưa ra
chỉ dẫn một cách khái quát, ta có thể hiểu tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng
tìm các yếu tố nội tại cũng như ngoại tại của hợp đồng.
20
Khoản 2, Điều 4.8 của Bộ nguyên tắc UNIDROIT (Bổ sung một điều
khoản còn thiếu) quy định: khi xem xét điều khoản nào là thích hợp, cần lưu ý
đến những chi tiết xung quanh, ví dụ như:
a. Ý định của các bên trong hợp đồng
b. Tính chất và mục đích của hợp đồng
c. Nguyên tắc thiện chí và trung thực
d. Tính hợp lí.
Cách thức quy định trên của UNIDROIT mang lại tính linh hoạt và mềm
dẻo trong quá trình bổ sung, tôn trọng ý chí thực của các bên, bên cạnh đó nó
cũng đảm bảo các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ thương mại nhờ nguyên tắc
thiện chí và trung thực và tính hợp lý. Tuy nhiên, có thể thấy, đáp ứng các yêu
cầu trên đòi hỏi sự phân tích cực kì chuẩn xác về các yêu tố nội tại và ngoại tại
của hợp đồng, trên cơ sở khách quan, đồng thời phải đảm bảo không thay đổi
bản chất của hợp đồng (yếu tố khó khăn nhất khi áp dụng nguyên tắc bổ sung
trong giải thích hợp đồng).
Đối với cách tiếp cận khác về việc bổ sung điều khoản. Một cách thức khá
hiệu quả đó là xác định tính chất, định danh hợp đồng theo cách thức giải thích
theo tính chất của hợp đồng (phần này sẽ được trình bày tại Chương 2 của luận
văn) và bổ sung các điều khoản phù hợp theo từng quy chế pháp lý đối với hợp
đồng đặc thù đó. Điều khó khăn đối với cách thức này đó là việc xác định các
điều khoản bổ sung. Theo lý thuyết, để đáp ứng các yêu cầu thực hiện chức năng
bổ sung điều khoản còn thiếu trong quá trình giải thích hợp đồng theo cách thức
này, có thể dựa vào việc phân loại được các điều khoản bổ sung, theo đó các nhà
làm luật có thể phân định thành: Thứ nhất, là các điều khoản được coi là có thể
thể hiện được ý chí của các bên, cụ thể trong hợp đồng thiếu hụt điều khoản, có
21
thể xuất phát được từ sự thiếu sót trong việc thể hiện ra ý chí của các bên về một
vấn đề gì, thì sẽ căn cứ vào các điều khoản đã được dự trù ở trong luật về vấn đề
đó, trong hoàn cảnh cụ thể để áp dụng bổ sung các điểm còn thiếu. Thứ hai, cũng
gần giống với các điểm ở các điều khoản bổ sung ý chí ở trên và thực tế có thể
nhầm lẫn với nhau, cũng được áp dụng bổ sung cho những hợp đồng mà các bên
tham gia ký kết không ấn định rõ các mục đích của mình, nhưng điểm căn bản
khác biệt đó là các điều khoản ở loại này được áp dụng để bổ sung không được
coi là thể hiển được ý chí thực của các bên, mà nó là các điều khoản mà các nhà
làm luật dự trù rằng, trong trường hợp xảy ra tình huống đó, trong thực tiễn thì
áp dụng các điều khoản đó là hoàn hảo hơn cả. Những điều khoản thuộc loại này,
không được coi là các điều khoản thể hiện được ý chí của các bên tham gia hợp
đồng vì trong thực tế, rất nhiều các quy định do các nhà làm luật tạo ra không thể
hiện đích xác ý chí của các bên, vì nhiều lý do khác nhau mà các bên không thể
hiện ý chí đó trong hợp đồng, cho nên quá trình giải thích hợp đồng, các thẩm
phán buộc phải lựa chọn các giải pháp mà các nhà làm luật đã phân tích dựa trên
nhiều căn cứ mà cho là hoàn hảo nhất trong trường hợp đó. Tuy nhiên, ranh giới
phân loại giữa hai loại điều khoản giải thích này là rất mong manh, vì thực tế,
làm thế nào để suy luận được trong thực tế thì một cách thức diễn giải được cho
là thể hiện được ý chí của các bên tham gia? Ngoài ra, nếu trong trường hợp suy
luận điều khoản này được tạo ra nhất định là hệ quả của một một ý chí được các
bên đặt ra thì liệu có hợp lý hay đơn thuần cũng vẫn là kết quả của quá trình tìm
hiểu, phân tích về tính tất yếu của các nhà làm luật.
Ví dụ đối với chức năng này đối với một trường hợp cụ thể Avà B ký kết
hợp đồng thầu xây dựng, theo đó hai bên đồng ý về một tỷ lệ lãi suất đặc biệt,
mà bên mua phải trả khi chậm thanh toán. trước khi bắt đầu thực hiện, bên B
22
quyết định chấm dưt hợp đồng. Trong trường hợp chủ thầu là bên chậm trễ trong
việc hoàn trả số tiền thanh toán trước sẽ nảy sinh vấn đề về việc nên áp dụng tỷ
lệ lãi suất nào, trong nội dung không quy định vấn đề này thì có thể sẽ áp dụng
cùng tỷ lệ lãi suất chậm thanh toán thường áp dụng cho người mua hàng cho
trường hợp chậm hoàn trả tiền được ứng trước của chủ thầu (điều khoản này đã
được pháp luật quy định).
Đối với Bộ luật dân sự 2005, chức năng này dường như không được thể
hiện như một biện pháp bao quát đối với Bộ luật dân sự 2005, vì về cơ bản,thứ
nhất, nếu chỉ dẫn giải điều khoản 5 Điều 409 (bổ sung điều khoản phù hợp với
tập quán) là không đầy đủ vì không phải trường hợp nào cũng có thể bổ sung
điều khoản theo tập quán vì không phải tập quán nào đủ điều kiện là nguồn của
pháp luật, và thứ hai là cả các giải pháp ở Điều 126 và Điều 409 liên quan đến
giải thích hợp đồng đều không thể hiện chức năng bổ sung các thiếu sót của hợp
đồng ngoại trừ các điều khoản theo tập quán.
Khoản 5, Điều 409 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản thì có thể bổ sung theo tập quán
đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng”.
Về cách thức diễn giải, rõ ràng nó bản chất dựa trên cơ sở là nguyên tắc
giải thích hợp đồng theo tập quán, dựa trên nền tảng chủ yếu là các tập quán
được coi là nguồn của pháp luật, tuy nhiên cách thể hiện điều khoản thì lại mang
tính chất của việc bổ sung điều khoản, một cách đáp ứng yêu cầu về chức năng
một cách gượng ép đối với việc giải thích hợp đồng. Vì các lý do sau đây, thứ
nhất, về phân loại điều khoản bổ sung, các điều khoản bổ sung này có thể hiện
được ý chí của các bên tham gia hợp đồng hay không? Hoặc nó có phải loại điều
khoản do các nhà dự trù để áp dụng trong thực tiễn hay không? Tìm được câu trả
23
lời cho tình huống này thực sự khó khăn, vì đã là bổ sung các điều khoản theo
tập quán tại nơi giao kết hợp đồng thì khó có thể nói nó thể hiện cho ý chí của
các bên tham gia hợp đồng, còn xếp loại nó vào cách thức dự trù của các nhà làm
luật thì cũng không hợp lý, vì rõ ràng, không thể dự trù tất cả tập quán hay cụ thể
tập quán tại địa phương nào trong mọi trường hợp được. Ngoài ra, vấn đề liên
quan tới các tập quán nào được xác định là nguồn của luật vẫn còn nhiều quan
điểm trái chiều. Thứ hai, về vấn đề phạm vi của chức năng giải thích này, việc
quy định như theo Bộ luật dân sự 2005 có một điểm khá mập mờ, nếu chỉ đơn
phương theo ngôn từ là bổ sung điều khoản theo tập quán, vậy thì là điều khoản
đó được rút ra trong các tập quán được coi là nguồn hay là bổ sung điều khoản
theo 2 cách phân loại ở trên trên cơ sở là tôn trọng nguyên tắc tập quán? Nhìn
nhận khách quan, có thể đây là cách thức khá mạo hiểm đối với các thẩm phán.
Vì vốn dĩ đảm bảo tính nguyên vẹn, không làm thay đổi nội dung của hợp đồng
và lại đảm bảo các yêu tố tập quán như quy định theo Bộ luật dân sự 2005 là cực
kỳ khó khăn.
Ngoài ra, một điểm đáng chú ý về việc áp dụng chức năng giải thích bổ
sung điều khoản cho hợp đồng, theo Vũ Văn Mẫu đó là theo án lệ, muốn gạt bỏ
ra ngoài các đạo luật giải thích, thì các bên tham gia hợp đồng phải quy định
trong hợp đồng về các điểm ấy ngược lại đối với các luật quy định ý chí mặc
nhiên của các bên có thể được công nhận [38,tr.267]. Như vậy, theo cách diễn
giải của Vũ Văn Mẫu có thể thấy, việc sử dụng biện pháp bổ sung điều khoản
cho hợp đồng mặc nhiên nó không thể sử dụng một cách độc lập, mà cần nhiều
vào việc xác định ý chí chung của các bên tham gia hợp đồng, hay xác định được
tính chất, mục đích của hợp đồng, dựa vào sự phân loại, từ các yếu tố này và tính
chất của điều khoản bổ sung mà thẩm phán xác định việc bổ sung điều khoản.
24
1.1.4. Ý nghĩa của Giải thích hợp đồng.
Khi nghiên cứu hệ thống pháp luật các nước như hệ thống pháp luật của
Pháp, Đức thì giải thích hợp đồng được hình thành một chế định bao gồm nhiều
điều khoản, hay một số nước như Thái Lan, thì giải thích hợp đồng chỉ là một
quy định với nhiều điều khoản. Tuy nhiên, nhìn chung trong hệ thống các nước
theo truyền thống luật dân sự đều có sự tương đồng; ngoài ra, các quy định về
giải thích hợp đồng theo một số các công ước chung như Công ước Viên về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế (năm 1980), Bộ luật Châu âu về hợp đồng, Bộ
nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 đều ghi
nhận chế định giải thích hợp đồng là một chế định quan trọng. Điều đó cho thấy
Giải thích hợp đồng là một yêu cầu điển hình và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
để quan hệ hợp đồng được thực hiện thuận lợi trong thực tiễn.
Về mặt lý luận hay thực tiễn, ý nghĩa thực tế của hoạt động giải thích hợp
đồng bao gồm:
Thứ nhất, về mặt lý luận, giải thích hợp đồng là một phần quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến vấn đề hiệu lực của hợp đồng, vì như ta đã biết nội hàm hiệu
lực của hợp đồng là một vấn đề pháp lý hết sức phức tạp và bao hàm nhiều vấn
đề pháp lý có mối quan hệ biện chứng khác như quy định về việc thực hiện hợp
đồng, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba, phân chia rủi ro, chấm dứt
hợp đồng… và vì thế, giải thích hợp đồng là mắt xích không thể thiếu trong bất
cứ một chế định về hợp đồng, ở bất kì hệ thống pháp luật nào.
Thứ hai, trong thực tiễn, tình trạng những thỏa thuận thiếu vắng các nội
dung cụ thể, quy định thiếu sót, không rõ nghĩa, chồng chéo hoặc vì có thể các
bên sơ suất hoặc cố ý để ngỏ những điều khoản như vậy. Trong trường hợp có
25
tranh chấp, giải thích hợp đồng được nhắc đến như là một biện pháp tích cực để
bổ túc những điểm thiếu sót trên.
Thứ ba, Hợp đồng bản chất là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập,
thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Để hợp đồng được xác lập và thực
hiện trên thực tiễn cần có sự thống nhất của các bên chủ thể. Ý chí của các bên
luôn phải được biểu hiện dưới một dạng thức nhất định, có thể là lời nói, hành vi
hay văn bản. Từ ý chí của một chủ thể khi biến thành các hành vi thực hiện hợp
đồng của các bên liên quan có thể dẫn đến cách hiểu không thống nhất. Việc dẫn
đến tình trạng như vậy có thể xuất phát từ khi giao kết hợp đồng các bên không
lường trước được phát sinh, rủi ro có thể xảy ra trong thực tế, dẫn đến giao dịch
không được thực hiện. Vì vậy, giải thích hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng để dung hòa ý chí của các bên chủ thể để sao cho hợp đồng tiếp tục được
thực hiện. Bản chất của hoạt động này không nhằm thay đổi nội dung hợp đồng
đã được thiết lập, nghĩa là không nhằm thay đổi sự thống nhất ý chí giữa các bên
giao kết đó, mà chỉ nhằm làm sáng tỏ, rõ ràng ý chí chung đó.
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG.
1.2.1. Các học thuyết phát triển các quy định về hoạt động giải thích hợp
đồng.
Như đã đề cập ở trên, quy định về các nguyên tắc cụ thể của hoạt động
giải thích hợp đồng phát triển chủ yếu dựa trên các nền tảng học thuyết khác
nhau về hợp đồng nên cách thức thể hiện và thứ tự ưu tiên các nguyên tắc là khác
nhau. Học thuyết dựa trên nền tảng tự do ý chí để phát triển tư tưởng giải thích
hợp đồng theo ý chí thật, học thuyết này đi sâu vào tâm lý bên trong của chủ thể,
giải thích hợp đồng phải đáp ứng trước hết là là làm rõ ý đồ các bên (từ đây gọi
là học thuyết ý chí thực)[28, tr.156]. Một học thuyết khác dựa trên trật tự pháp
26
lý nhằm bảo vệ quan hệ thương mại để phát triển tư tưởng giải thích hợp đồng
theo ý chí tuyên bố, mà nền tảng là phân tích tới sự bộc lộ ra bên ngoài của ý chí
(từ đây gọi là ý chí tuyên bố) [28, tr.156]; Ngoài hai học thuyết trên, người ta
còn phát triển một học thuyết mang tên “chống lại bên đề nghị” mà được diễn
đạt bằng thuật ngữ “contra proferentem” và Được hiểu chung là “giải thích hợp
đồng chống lại bên soạn thảo”, có nghĩa là việc giải thích hợp đồng theo hướng
bất lợi cho bên soạn thảo hợp đồng”[9, tr.380].
Học thuyết ý chí tuyên bố được phát triển rất sớm từ thời La Mã cổ đại,
trước công nguyên, các luật gia ở các thế hệ đầu của La Mã đã đặt nền móng cho
hoạt động giải thích hợp đồng thông qua các bài phát biểu nhấn mạnh đến việc
xem xét quan trọng nhất đối với hoạt động này đó là việc đánh giá ý nghĩa cũng
như nội dung của hợp đồng theo hình thức bên ngoài của sự thể hiện ý chí, khi
giải thích hợp đồng phải dựa chủ yếu vào ngôn từ của hợp đồng. Học thuyết này
có sức thuyết phục và phát triển mạnh mẽ vào nửa cuối thế kỷ XIX, đồng thời đi
kèm với nó là những quan điểm phê phán và xem nhẹ học thuyết “ý chí”, ủng hộ
học thuyết “ý chí tuyên bố”. Các ý kiến bảo vệ học thuyết này đi sâu vào việc đề
cao mục đích bảo hộ các quan hệ thương mại, nội dung chủ yếu của học thuyết
này cho rằng việc giải thích hợp đồng cần nhấn mạnh và ưu tiên xem xét phân
tích những gì đã biểu thị trong hợp đồng. Ưu điểm của các diễn giải cho học
thuyết này đó là giải thích hợp đồng khi đó sẽ đảm bảo tính ổn định tương đối
của các quan hệ thương mại, đồng thời hạn chế được sự tùy tiện của các Thẩm
phán khi giải thích hợp đồng và kiểm soát được hữu hiệu các giai đoạn của hoạt
động này, không làm thay đổi nội dung của hợp đồng đó. Đến nay, học thuyết
này còn ghi dấu ấn đậm nét ở một số nước, như được ghi nhận trong Bộ Luật dân
sự Liên bang Nga, hay trong Bộ Luật dân sự Đức hay như trong thực tiễn xét xử
27
của Anh. Ví dụ như tại Điều 431 Bộ luật dân sự Nga quy định: “Tòa án trước hết
chú ý giải thích nghĩa đen của từ ngữ cũng như các câu trong điều khoản, nếu
nghĩa đen của của điều khoản không rõ ràng, cần liên hệ đối chiếu với các điều
khoản khác và ý nghĩa của điều khoản nói chung; và nếu nội dung của hợp đồng
vẫn chưa thể xác định, cần phải làm rõ ý định chung của các bên với mục đích
của hợp đồng. Khi đó, phải lưu ý đến các tình tiết liên quan, bao gồm cả quá
trình thương lượng, thói quen các bên đã xác lập với nhau, tập quán và cách xử
sự sau đó của họ”, nội dung điều khoản đã thể hiện rõ sự ưu tiên học thuyết
tuyên bố đối với hoạt động giải thích hợp đồng (phần này sẽ được phân tích kỹ
hơn tại nội dung sau).
Học thuyết ý chí thực được ra đời và xem xét muộn hơn so với học thuyết
ý chí tuyên bố. Mãi đến thế kỉ thứ 3, các luật gia La Mã mà đại diện là Papinian
lại đề cao ý chí thực của các bên và cho rằng điều quan trọng đầu tiên và trước
hết của hoạt động giải thích hợp đồng đó là làm rõ ý đồ đích thực của các bên,
hơn là căn cứ vào những gì các bên đã viết, học thuyết này phát triển mạnh mẽ
và được các luật gia châu Âu phát triển thành học thuyết “ý chí thực”. Các ý kiến
bảo vệ cho học thuyết này dựa trên lập luận ý chí đích thực của các bên khi tham
gia một quan hệ là cơ sở cho mọi giao dịch, chỉ có ý chí chung và thực chất của
các bên mới có thể làm căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của hợp đồng. Và
theo đó, hậu quả pháp lý của hợp đồng phát sinh đều là do các bên tham gia hợp
đồng mong muốn và hướng tới. Vì vậy, khi giải thích hợp đồng phải căn cứ căn
nguyên vào ý chí ban đầu ấy mà giải thích nội dung hoặc bổ sung điều khoản
cho hợp đồng. Tuy nhiên, đối với các luật gia ủng hộ thuyết ý chí tuyên bố cho
rằng việc tìm được “ý chí thực” của các bên tham gia hợp đồng là điều bất khả
thi và đó cũng chính là điểm hạn chế lớn nhất đối với học thuyết này. Hiện nay,
28
pháp luật một số nước vẫn ghi nhận học thuyết “ý chí thực” căn bản phát triển
các nguyên tắc giải thích hợp đồng là Bộ luật dân sự của Pháp, Bộ luật dân sự và
thương mại Thái Lan, Luật dân sự Nhật Bản và phần nào đó là Bộ luật dân sự
2005 của Việt Nam. Ví dụ tại Điều 132 của bộ luật dân sự và thương mại Thái
Lan quy định: “Trong khi giải thích một tuyên bố ý định, cần xem xét đến ý định
thật sự của tuyên bố đó chứ không câu nệ đến chữ nghĩa, lời văn”.
Ngoài ra, một học thuyết nữa được phát triển để làm cơ sở căn cứ phát
triển và xây dựng các nguyên tắc của hoạt động giải thích hợp đồng đó là học
thuyết mang nội dung “chống lại bên đề nghị” mà được diễn đạt bằng thuật ngữ
“contra proferentem” (tiếng anh là against the offeror) và được hiểu chung là giải
thích hợp đồng chống lại bên soạn thảo, có nghĩa là việc giải thích hợp đồng theo
hướng bất lợi cho bên soạn thảo hợp đồng, theo Phó Giáo sư Ngô Huy Cương thì
trong quan hệ hợp đồng có thể có vị trí không ngang bằng nhau, chẳng hạn như
trong hợp đồng gia nhập một bên yếu thế hơn không được tự do thương lượng
với bên kia là người soạn thảo hợp đồng [9,tr.380-381], từ đó vai trò của luật là
cân bằng sự chênh lệch nàykhi xảy ra trong thực tiễn.
Có thể thấy, tuy phân tích nhìn nhận và phân tích các học thuyết, các luật
gia đều đưa ra các lập luận và ủng hộ cho học thuyết ý chí thực hoặc ý chí tuyên
bố, tuy nhiên có thể thấy khó có thể tìm được cách thức thể hiện độc lập các
nguyên tắc giải thích hợp đồng mà không có sự pha trộn giữa các học thuyết,
nhiều luật gia cũng đưa ra quan điểm dung hòa hai học thuyết và nhấn mạnh tầm
quan trọng của cả “ý chí thực” và “ý chí tuyên bố”, theo đó cố găng tận dụng các
ưu điểm để bù khuyết các nhược điểm của cả hai học thuyết này. Một trong
những ý kiến đó là của Konrad Zweigert và Hein Koetz khi cho rằng không thể
tìm được dạng thuần khiết của cả hai học thuyết này [66,tr.401]; trong khi đó
29
Giáo sư luật học người Nga Ioffe nhấn mạnh “ý chí thực và ý chí tuyên bố đều
quan trọng như nhau. Sự thống nhất giữa ý chí và thể hiện ý chí là mục đích mà
luật pháp hướng tới. Sự thống nhất đó phải được coi là yếu tố bắt buộc không thể
thiếu để giao dịch có hiệu lực”[28, tr.252].
1.2.2. Các phƣơng pháp căn bản xây dựng các nguyên tắc giải thích hợp
đồng và vận dụng các nguyên tắc trong thực tiễn.
Dựa trên các học thuyết phát triển tùy thuộc đặc thù nền tài phán mà các
nhà lập pháp xây dựng các quy định về hoạt động giải thích phù hợp với thực
tiễn và học lý, mặc dù xoay quanh việc xác định ý chí chung hay ý chí tuyên bố
và coi việc tìm yếu tố còn lại là yếu tố bổ trợ, hoặc kết hợp cả các biện pháp
nhằm tìm cả ý chí chung và ý chí tuyên bố một hợp lý tuy nhiên về cơ bản các
biện pháp để giải thích hợp đồng về căn bản dựa trên một số các phương pháp cơ
bản như sau:
Thứ nhất, phương pháp chú giải. Theo các nền tài phán đề cao học thuyết
ý chí thực thì đây là phương pháp chú trọng đến sự khám phá ý chí của các bên
tham gia giao kết hợp đồng. Có ba cách để tìm hiểu ý chí thực thông qua phương
pháp này đó là:
1) Trước một điều khoản tối nghĩa, mập mờ hoặc thiếu sót điều khoản
thẩm phán có thể dựa vào các quy định của luật quy định về loại hợp đồng đó
hay các điều khoản được xây dựng sẵn cho loại hợp đồng đó tùy vào từng trường
hợp mà bổ sung cho phù hợp (phân loại điều khoản bổ sung đã được phân tích
tại phần chức năng của giải thích hợp đồng) hoặc nhiều nền tài phán còn phụ
thuộc vào thái độ hành vi thực hiện hợp đồng trong giai đoạn tiền hợp đồng, các
quy ước hai bên đã có...
30
2) Thẩm phán cũng có thể căn cứ vào tập quán hoặc án lệ, tùy theo cách
thức quy định của nền tài phán đó.
3) Thẩm phán dựa vào tinh thần toàn bộ nội dung của hợp đồng, xem xét
mối liên hệ giữa các điều khoản khác trong hợp đồng, dựa vào mối liên hệ đó
trên cơ sở toàn thể hợp đồng để giải thích khi điều khoản có những khuyết điểm.
Thứ hai, phương pháp giải thích theo từng giai đoạn giao kết hợp đồng,
trong quá trình thực hiện hợp đồng và sau khi thực hiện. Phương pháp này chú
trọng đến việc tìm hiểu khi xây dựng hợp đồng các bên giao kết muốn đạt được
mục đích gì khi điều khoản đó được đưa vào hợp đồng, có so sánh với một chuẩn
mực nhất định (ví dụ như UNIDROIT quy định theo cách hiểu thông thường của
một người bình thường …), theo đó một điều khoản một điều khoản có thể có
những nghĩa khác đi tuy giai đoạn phụ thuộc vào các giai đoạn khác nhau của
hợp đồng đó, theo đó thẩm phán đôi khi có thể tìm ra cho điều khoản một ý
nghĩa mà chính người xây dựng chưa nghĩ đến. Tuy nhiên để tránh lạm dụng, thì
phương pháp này cần phải được kiểm soát một cách có hiệu quả tùy theo cách
thức quy định của mỗi nền tài phán khác nhau (hiện tại ở Việt Nam chưa có quy
định cụ thể về vấn đề kiểm soát này, ý kiến kiến nghị bổ sung sẽ được phân tích
tại chương 3 của luận văn). Thực tế, phương pháp này còn được hỗ trợ trong quá
trình giải thích hợp đồng nhằm thực hiện nhiệm vụ bổ sung lỗ hổng của hợp
đồng. Đó là tạo lập các điều khoản bổ sung vào hợp đồng nhằm mục tiêu công
bình đối với các bên tham gia hợp đồng hoặc điều hòa lợi ích giữa các bên.
Để có thể áp dụng các phương pháp này trong thực tiễn, các thẩm phán có
thể sử dụng một số kỹ thuật áp dụng thông dụng như: kỹ thuật suy luận tương tự,
kỹ thuật suy luận đối nghịch, kỹ thuật suy luận quy nạp và diễn dịch.
31
Đối với kỹ thuật suy luận tương tự, thẩm phán sẽ căn cứ vào một trường
hợp đã được giải quyết minh bạch và được ghi nhận để đem giải pháp đó áp
dụng cho trường hợp tương tự mà hợp đồng đó không dự liệu. Nguyên tắc chính
yếu trong kỹ thuật này là lấy sự tương đồng của hai trường hợp làm căn bản, một
trường hợp do hợp đồng quy định và trường hợp còn thiếu hụt trong các điều
khoản của hợp đồng hoặc nội dung hợp đồng không rõ ràng.
Phương pháp hay kỹ thuật suy luận đối nghịch. Trái với phương pháp trên,
phương pháp suy luận đối nghịch căn cứ vào tính cách đối nghịch của hai trường
hợp, một trường hợp đã được hợp đồng quy định cụ thể, theo đó khi một điều gì
đã được hợp đồng quy định bằng cách cho phép thì điều trái ngược có thể được
suy diễn bị cấm đoán hoặc khi hợp đồng đã cấm đoán một điều gì thì điều trái
ngược có thể không bị cấm đoán. Theo mạch suy diễn như vậy, mở rộng ra các
thẩm phán cũng có thể xem xét tới kỹ thuật suy luận tất nhiên, mở rộng phạm vi
áp dụng một điều khoản cho một trường hợp không được dự liệu, khi dự mở
rộng đó là một sự kiện tất nhiên (mặc dù cần thận trọng về vấn đề quan hệ nội
hàm ngoại diên của kỹ thuật này).
Phương pháp hay kỹ thuật suy luận theo phép quy nạp và diễn dịch. Thẩm
phán khi sử dụng phương pháp này sẽ căn cứ vào một số trường hợp tương tự đã
được quy định hoặc án lệ đã có rồi lập thành một số quy tắc tổng quát. Đó là giai
đoạn quy nạp, đi từ trường hợp cá biệt đến một nguyên tắc tổng quát. Sau khi đã
nêu được quy tắc tổng quát rồi, thẩm phán có thể đem áp dụng quy tắc đó vào
trường hợp cần giải quyết. Đó là giai đoạn diễn dịch từ từ một quy tắc tổng quát
đến một trường hợp cá biệt.
1.2.3. Quy định về giải thích hợp đồng ở một số nƣớc và theo pháp luật của
Việt Nam.
32
Theo quy định tại Bộ luật dân sự Pháp (hay còn gọi là Bộ luật Napoleon),
các quy định về giải thích hợp đồng được thể hiện tại tại mục V, bao gồm 9 điều
(từ điều 1156 đến điều 1164) ngoài ra còn có một quy định riêng tại Điều 1602
quy định về giải thích hợp đồng mua bán nhà. Về mặt nội dung, có thể thấy, theo
Bộ luật dân sự Pháp thì cơ sở để phát triển các quy định về giải thích hợp đồng
dựa trên học thuyết ý chí thực của các bên tham gia giao kết hợp đồng, điều này
được thể hiện ngay tại Điều 1156:“Khi giải thích hợp đồng, cần phải hiểu ý định
chung của các bên hơn là xem xét nghĩa của từ ngữ”. Ngoài ra, cũng có phân
tích các điều khoản xác định ngôn từ, điều khoản khác nhằm tìm ý định chung
của các bên tham gia hợp đồng là các yếu tố nội tại của hợp đồng, nhằm phân
biệt với các yếu tố ngoại tại [38, tr.62-63]
Tuy nhiên, khó có thể khẳng định rằng mục đích hướng tới của hoạt động
giải thích hợp đồng theo Bộ luật dân sự Pháp chỉ nhằm tìm ra ý chí thực chất.
Một số điều khoản đã chỉ rõ các nguyên tắc nhằm tìm ý chí tuyên bố của các bên,
khẳng định trên được thể hiện bao quát đối với các quy định chung về hợp đồng
như tại Điều 1153: “các bên không chỉ bắt buộc thực hiện những gì đã được nói
rõ trong hợp đồng mà còn tuân theo nguyên tắc “công bằng, thông lệ hoặc pháp
luật” tùy theo bản chất quan hệ nghĩa vụ. Cụ thể đối với hoạt động giải thích
hợp đồng mà mục đích nhằm tìm ý chí chung được thể hiện ở các điều khoản
như tại Điều 1158: “Từ ngữ nào có thể hiểu theo hai nghĩa thì phải được giải
thích theo nghĩa phù hợp nhất với bản chất hợp đồng”, Điều 1159: “Nếu có điều
khoản không rõ ràng thì giải thích theo tập quán nơi hợp đồng được giao kết”.
Theo cách hiểu bao quát với cách thức thể hiện của Bộ luật dân sự Pháp, có thể
nhận thấy, đối với hoạt động giải thích hợp đồng thì các điều khoản xác định ý
33
chí tuyên bố chỉ được áp dụng sau khi không thể tìm được ý chí chung của các
bên tham gia hợp đồng, và đó là các biện pháp hỗ trợ cho việc tìm ý chí chung.
Cách thức tiếp cận vấn đề giải thích hợp đồng của Nhật Bản cũng có sự
tương đồng đáng kể với Bộ luật dân sự của Pháp, mặc dù cách thức thể hiện sự
ưu tiên ý chí thực của các bên của các luật gia Nhật Bản còn khá hạn chế. Dường
như, việc xác định ý chí thực của các bên chỉ có ý nghĩa trên lý thuyết còn thực
tiễn thì xác định ý chí tuyên bố là cách thức hiệu quả hơn. Theo X.Vacaxum và
T.Aritdumi: “khi giải thích giao dịch dân sự trước hết cần làm rõ ý đồ thực chất
của các bên. tuy nhiên, bất chấp tầm quan trọng của vấn đề, trên thực tế đó là
việc nhiều khi không thể thực hiện được, ngoài ra không hiếm khi các bên hợp
đồng có ý đồ khác nhau. Cho nên khi giải thích giao dịch dân sự có thể chỉ cần
lưu ý hình thức bên ngoài của sự thể hiện ý chí của các bên để xem xét ý nghĩa
của các hành vi về mặt xã hội [64,tr.119-120]. Ngoài ra, trong Bộ luật dân sự và
thương mại của Thái Lan dường như cùng cách thức tiếp cận khi quy định tại
Điều 132: “Trong khi giải thích một tuyên bố ý định, cần xem xét đến ý định thật
sự của tuyên bố đó chứ không câu nệ đến chữ nghĩa, lời văn”.
Đối với Liên bang Nga, vấn đề ý chí thực chất hay ý chí tuyên bố luôn là
đề tài gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu pháp lý. Trong thực tiễn thể hiện
về mặt lập pháp, cách thể hiện các quy định này trong Bộ luật dân sự Liên bang
Nga 1994 ghi nhận hoạt động giải thích hợp đồng dựa trên nền tảng học thuyết ý
chí tuyên bố. Điều 431 quy định:
“Tòa án trước hết chú ý giải thích nghĩa đen của từ ngữ cũng như các câu
trong điều khoản, nếu nghĩa đen của của điều khoản không rõ ràng, cần liên hệ
đối chiếu với các điều khoản khác và ý nghĩa của điều khoản nói chung; và nếu
nội dung của hợp đồng vẫn chưa thể xác định, cần phải làm rõ ý định chung của
34
các bên với mục đích của hợp đồng. Khi đó, phải lưu ý đến các tình tiết liên
quan, bao gồm cả quá trình thương lượng, thói quen các bên đã xác lập với
nhau, tập quán và cách xử sự sau đó của họ” .
Theo cách quy định tại Điều 431 có thể thấy cách nhà lập pháp của Nga đã
chú ý phân tách thứ tự ưu tiên rõ ràng của hai học thuyết, theo đó, việc sử dụng
các biện pháp tìm ý chí tuyên bố của hợp đồng được ưu tiên áp dụng trước, chỉ
khi không thể tìm được ý chí tuyên bố của hợp đồng thì mới xác định ý chí thực
chất của các bên tham gia, tuy nhiên việc tìm ý chí thực chất này cũng nằm trong
sự hạn chế nhất định khi mà áp dụng cần phải gắn liền với tính chất và mục đích
của hợp đồng, và phải xác định trong mối liên hệ với các tình tiết liên quan bao
gồm cả quá trình thương lượng, thói quen các bên đã xác lập với nhau, tập quán
và cách xử sự của các bên. Theo các luật gia của Nga việc quy định theo Bộ luật
dân sự Nga có nhiều ưu điểm về mặt lý thuyết như (1) có thể đảm bảo tính ổn
định của các quan hệ hợp đồng (hợp pháp) đã được xác lập, (2) góp phần nâng
cao ý nghĩa của văn bản hợp đồng trong việc điều chỉnh quan hệ nghĩa vụ, đồng
thời định hướng cho các bên tham gia giao kết hợp đồng phải chú ý hơn tới việc
soạn thảo kỹ lưỡng nội dung hợp đồng [28,tr.156]. Tuy nhiên,có thể thấy, cách
thức tiếp cận và cơ sở học thuyết này cũng thể hiện phần nào thể hiện sự hạn
chế, đó là làm hạn chế đi sự tự do thể hiện ý chí, đôi khi quá lạm dụng yêu cầu
đảm bảo tính ổn định của quan hệ hợp đồng mà một số trường hợp hoạt động
giải thích hợp đồng làm thay đổi phần nào bản chất ý chí thực và các nội dung
trong hợp đồng đó.
Đối với Vương quốc Anh, trong thực tiễn xét xử, hoạt động giải thích hợp
đồng thì học thuyết ý chí tuyên bố đóng vai trò chủ đạo. Căn cứ quan trọng nhất
để giải thích hợp đồng là những biểu hiện bên ngoài của nó, cơ sở để khẳng định
35
như vậy bắt nguồn từ nhận xét cho rằng: “nếu hợp đồng đã được giao kết bằng
văn bản, thì về nguyên tắc các bên tham gia giao kết chỉ bị ràng buộc bởi văn
bản đó và bằng văn bản đó thôi. Điều đó cũng có nghĩa, trong trường hợp giải
thích hợp đồng bằng văn bản, mọi chứng cứ bằng lời dẫn tới việc thay đổi hoặc
bổ sung nội dung văn bản hợp đồng sẽ không được Tòa án chấp nhận, dù cho
những chứng cứ ấy thực sự phản ánh ý muốn đích thực của các bên vào thời
điểm họ tham gia giao kết. Tuy nhiên, nguyên tắc chung vẫn có ngoại lệ. Đó là
những trường hợp hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau, chứng cứ bằng lời sẽ được Tòa án xem xét với mục đích để làm
rõ ý nghĩa của ngôn từ hoặc điều khoản đó của hợp đồng” [28, tr.128]. Bên cạnh
đó, ngoài sự ưu tiên cho học thuyết ý chí tuyên bố, trong thực tiễn xét xử ở Anh
các luật gia còn đi sâu và phát triển hệ thống các “quy tắc mặc định” (implied
term, implied condition), các quy tắc này được tạo ra để đảm bảo chức năng bổ
sung cho các thiếu sót, lỗ hổng của hợp đồng trong hoạt động giải thích. Các quy
tắc được tạo ra hoặc vận dụng từ các nguồn đa dạng của luật, như trong khuôn
khổ pháp luật thành văn, hoặc hình thành từ tập quán, và cũng có thể tìm được
trong khuôn khổ pháp luật thành văn. Ngoài ra, một biện pháp nữa được áp dụng
đối với hoạt động giải thích hợp đồng ở Anh đó là sử dụng các biện pháp xoay
quanh các diễn giải từ nguyên tắc thiện chí và trung thực (good faith). Các
nguyên tắc này được tạo ra nhằm giải quyết một vấn đề thực tiễn phát sinh, tùy
từng trường hợp, Tòa án sẽ sử dụng một cách linh hoạt và phù hợp với thực tiễn
để bổ sung lỗ hổng cho hợp đồng.
Đối với pháp luật của Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt
động Giải thích hợp đồng, ngay từ những bộ luật dân sự Nam Kỳ giản yếu 1883,
Bộ dân luật Bắc kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung kỳ 1936 (Hoàng việt Trung kỳ hộ
36
luật) đã có những quy định cụ thể về vấn đề này. Về cơ bản, các nguyên tắc của
giải thích hợp đồng được quy định trong các Bộ luật này chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ Bộ dân luật của Pháp cho nên trong các quy định cũng thể hiện nền tảng
học thuyết ý chí thực để xây dựng và phát triển. Điều 691 Bộ dân luật Bắc kỳ
quy định và Điều 732 Bộ dân luật Trung kỳ quy định cụ thể: “khám phá ra ý chí
chung của những người kết ước hơn là nghĩa đen từng chữ”.
Trong giai đoạn sau năm 1945, sau thời gian đầu tạm sử dụng một số luật
lệ hiện hành ở Bắc – Trung – Nam cho đến lúc ban hành những bộ luật duy nhất
cho toàn quốc điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực tư, và trải qua một giai đoạn
dài áp dụng các quy định khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh tế của đất nước,
do các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, cho đến khi bộ luật Dân sự năm 1995 ra
đời thì vấn đề giải thích hợp đồng mới lại được nhắc đến và quy định tại Điều
125 Giải thích giao dịch dân sự và Điều 408 Giải thích hợp đồng dân sự
“Điều 125 Giải thích giao dịch dân sự:
1. Việc giải thích giao dịch dân sự phải căn cứ vào ý muốn đích thực của
các bên khi xác lập giao dịch và mục đích của giao dịch đó.
2. Trong trường hợp giao dịch dân sự có thể được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch,
theo tập quán nơi giao dịch được xác lập, nếu bên mạnh thế về kinh tế đưa vào
giao dịch dân sự nội dung bất lợi cho bên yếu thế về kinh tế, thì khi giải thích
giao dịch dân sự phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế.”
“Điều 408. Giải thích hợp đồng dân sự:
1- khi một hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì không chỉ dựa vào
ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải
thích điều khoản đó.
37
2. Khi một điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa,
thì phải chọn nghĩa nào làm cho điều khoản đó khi thực hiện có lợi nhất cho các
bên.
3. Khi một hợp đồng có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,
thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với tính chất của hợp đồng.
4. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu, thì phải được giải
thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.
5. Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản không thuộc nội dung chủ yếu,
thì có thể bổ sung theo tập quán đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao kết
hợp đồng.
6. Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ
với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung
hợp đồng.
Có thể nhận thấy, việc quy định về các nguyên tắc giải thích hợp đồng tại
điều 408 của Bộ luật dân sự 1995 còn mang tính tập trung liệt kê, và chưa thể
hiện được rõ nền tảng học thuyết của quy định là xuất phát từ ý chí thực hay ý
chí tuyên bố. Như tại quy định được xem là quy định chung tại Điều 135 (về mối
quan hệ giữa Giải thích hợp đồng và giải thích giao dịch dân sự sẽ được phân
tích cụ thể đối với Bộ luật dân sự 2005). Như vậy, liệu ta có thể coi Điều 135 là
các quy định mang tính định hướng chung về nền tảng học thuyết phát triển cụ
thể các nguyên tắc giải thích hợp đồng hay không? câu hỏi này dường như vẫn
chưa có câu trả lời thích đáng vì hầu như các công trình nghiên cứu về hoạt động
giải thích hợp đồng chủ yếu vẫn chỉ dừng lại xem xét các quy định tại Điều 408
và nhận xét tổng quan.
38
Đối với BLDS 2005, dường như đã kế thừa cách thức thể hiện tại Bộ luật
dân sự 1995, và tất nhiên hạn chế của Bộ luật dân sự 1995 cũng chưa được giải
quyết triệt để đối với quy định chung tại Điều 409 và mối liên hệ tưởng quan
giữa Điều 126 và Điều 409. Cụ thể:
Điều126, Bộ luật dân sự 2005 quy định về giải thích giao dịch dân sự:
“1. Trong trường hợp giao dịch dân sự cụ thể được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau
đây:
a) Theo ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dich;
b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập...”
Điều 409, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 quy định riêng cho giải thích
hợp đồng:
“1. Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì không chỉ dựa vào
ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải
thích điều khoản đó;
2. Khi một điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa thì
phải chọn nghĩa nào làm cho điều khoản đó khi thực hiện có lợi nhất cho các
bên.
3. Khi hợp đồng có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì
phải giải thích phù hợp nhất với tính chất của hợp đồng.
4. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải
thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.
5. Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản thì có thể bổ sung theo tập quán
đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng.
39
6. Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ
với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung
hợp đồng.
7. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với
ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để giải
thích hợp đồng.
8. Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi
cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu
thế.”
Như vậy, cũng gần như Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 cũng thể
hiện vấn đề giải thích hợp đồng ở mối liên hệ tại 2 điều khoản, tuy nhiên cách
thể hiện có vẻ sự thể hiện không được đồng nhất như chính cách thể hiện mối
liên hệ giữa giao dịch dân sự và hợp đồng trong bộ luật này.
Sở dĩ nhận định ta Điều 126 cũng quy định về Giải thích hợp đồng (cũng
như Điều 125 tại Bộ luật dân sự 1995) trên cơ sở suy luận Điều 126 thể hiện các
nguyên tắc giải thích hợp đồng như là cái chung, còn quy định tại Điều 409 là cái
riêng, nằm trong sự tương thuộc với giải thích giao dịch dân sự. Xuất phát của
nhận định trên là tại Điều 121 của Bộ Luật dân sự 2005 quy định rõ: “Giao dịch
dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (ở đây ta không bàn tới sự bất hợp lý của
thuật ngữ “giao dịch dân sự” trong Bộ luật dân sự 2005 và sự thay thế đối với
thuật ngữ “hành vi pháp lý – juridical acts hay còn được hiểu là giao dịch pháp
lý” theo cách hiểu chung nhất hiện nay – sau đây thống nhất sử dụng thuật ngữ
giao dịch dân sự). Mặc dù các nhà xây dựng Bộ luật dân sự 2005 đã quy định
thêm trường hợp ngoại lệ đối với giải thích hợp đồng và giải thích di chúc tại
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HAY
Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HAYMiễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HAY
Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAYĐề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
 
Luận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAY
Luận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAYLuận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAY
Luận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAY
 
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOTLuận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOTLuận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đLuận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đ
 
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệpChế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
 
Đề tài: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo pháp luật, HOT
Đề tài: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo pháp luật, HOTĐề tài: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo pháp luật, HOT
Đề tài: Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư theo pháp luật, HOT
 
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tếTòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
 
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAYLuận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trườngLuận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 
Luận văn: Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luậtLuận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
 
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOTLuận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
 

Similar to Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT

Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt namHiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt namhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Luan an hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet nam
Luan an   hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet namLuan an   hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet nam
Luan an hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet namHung Nguyen
 
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂMLuận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂMViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại.doc
Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại.docLý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại.doc
Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại.docDV Viết Luận văn luanvanmaster.com ZALO 0973287149
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfHanaTiti
 
Đối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam
Đối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt NamĐối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam
Đối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Namluanvantrust
 

Similar to Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT (20)

Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt namHiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
 
Luan an hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet nam
Luan an   hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet namLuan an   hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet nam
Luan an hieu luc cua hop dong theo qui dinh cua phap luat viet nam
 
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại, 9đ
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại, 9đThỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại, 9đ
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại, 9đ
 
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mạiLuận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
 
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂMLuận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Vấn đề về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT, 2019
Đề tài: Vấn đề về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT, 2019Đề tài: Vấn đề về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT, 2019
Đề tài: Vấn đề về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT, 2019
 
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
 
Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại.doc
Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại.docLý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại.doc
Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại.doc
 
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.docHoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
 
Luận Văn Đối Thoại Trong Giải Quyết Tranh Chấp Hành Chính Ở Việt Nam
Luận Văn Đối Thoại Trong Giải Quyết Tranh Chấp Hành Chính Ở Việt NamLuận Văn Đối Thoại Trong Giải Quyết Tranh Chấp Hành Chính Ở Việt Nam
Luận Văn Đối Thoại Trong Giải Quyết Tranh Chấp Hành Chính Ở Việt Nam
 
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAYĐề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
 
Luận văn: Pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng trong toàn cầu hóa
Luận văn: Pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng trong toàn cầu hóaLuận văn: Pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng trong toàn cầu hóa
Luận văn: Pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng trong toàn cầu hóa
 
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật Việt Nam, 9 điểm
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật Việt Nam, 9 điểmLuận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật Việt Nam, 9 điểm
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật Việt Nam, 9 điểm
 
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂMLuận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
 
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.docHoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
 
Đối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam
Đối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt NamĐối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam
Đối thoại trong giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam
 
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAYLuận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
 
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAYĐề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
 
Luận văn: Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOTLuận văn: Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỒNG HIỂN GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2016
  • 2. ii ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỒNG HIỂN GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu Hà Nội – 2016
  • 3. iii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Hồng Hiển
  • 4. iv MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU………………………………………………………………………….. 1 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG… ....... 6 1.1 Khái niệm, ý nghĩa của Giải thích hợp đồng………………………………… 6 1.1.1. Khái niệm Giải thích hợp đồng………………………………………... 6 1.1.2. Chủ thể của hoạt động Giải thích hợp đồng…………………………... 12 1.1.3. Chức năng của hoạt động Giải thích hợp đồng………………………. 16 1.1.4. Ý nghĩa của Giải thích hợp đồng……………………………………… 24 1.2. Lịch sử phát triển về Giải thích hợp đồng…………………………………… 25 1.2.1. Các học thuyết phát triển các quy định về hoạt động Giải thích hợp đồng……………………………………………………………………………….. 25 1.2.2. Các phương pháp căn bản xây dựng các nguyên tắc Giải thích hợp đồng và vận dụng các nguyên tắc trong thực tiễn………………………………… 29 1.2.3. Quy định về Giải thích hợp đồng ở một số nước và theo pháp luật của Việt Nam………………………………………………………………………….. 31 Chƣơng 2: CÁC NGUYÊN TẮC CỦA GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG……… 43 2.1. Giải thích hợp đồng theo ý chí đích thực của các bên giao kết hợp đồng…….. 43 2.2. Các nguyên tắc Giải thích theo ý chí tuyên bố của các bên………………… 52 2.2.1. Giải thích hợp đồng theo nghĩa phù hợp với mục đích giao dịch dân sự…………………………………………………………………………………... 54
  • 5. v 2.2.2. Giải thích trên cơ sở mối liên hệ các điều khoản được thể hiện trong hợp đồng và phù hợp toàn bộ nội dung hợp đồng………………………………… 60 2.2.3. Giải thích ngôn từ theo nghĩa phù hợp với tính chất của hợp đồng……. 64 2.2.4. Nguyên tắc áp dụng tập quán trong Giải thích hợp đồng…………… 67 2.2.5. Giải thích theo nguyên tắc điều hòa lợi ích của các bên………………. 73 2.2.6. Giải thích theo nguyên tắc có lợi cho bên yếu thế…………………….. 76 Chƣơng 3: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG………………………… 81 3.1. Thực tiễn Giải thích hợp đồng ở việt nam…………………………………… 81 3.2. Những đề xuất hướng hoàn thiện các quy định về Giải thích hợp đồng…… 91 KẾT LUẬN.......................................................................................................... 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 100
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp đồng là một trong những phương tiện quan trọng, chủ yếu để cá nhân, tổ chức trao đổi lợi ích, các sản phẩm, dịch vụ nhằm thỏa mãn các nhu cầu cá nhân. Hợp đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của nên kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản của sự trao đổi hàng hóa trong xã hội, nó là một phương thức quan trọng để tổ chức đời sống chung và thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Trong hầu hết các bộ luật dân sự cổ điển, hợp đồng chiếm một vị trí trung tâm và được chế định với dung lượng lớn nhất so với các chế định khác do vai trò trung tâm của nó đối với trật tự thị trường. Các quy định về hợp đồng luôn luôn chiếm đa phần trong các đạo luật thuộc lĩnh vực luật tư. Ngày nay, chế định hợp đồng nói chung và những vấn đề về hiệu lực của hợp đồng trở thành một chế định quan trong trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự nói riêng. Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu, phân tích về chế định hợp đồng, đặc biệt là những vấn đề hiệu lực của hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng nói ở đây chính là sự tạo lập ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên giao kết, là hiệu lực ràng buộc như pháp luật đối với các bên tham gia và nghiên cứu hiệu lực của hợp đồng bao quát ba vấn đề: thứ nhất, vấn đề thi hành các hợp đồng; thứ hai, giải thích ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng và thứ ba, kiềm chế hoặc bảo đảm cho việc biểu lộ ý chí ; Để đáp ứng được các yêu cầu về mặt lý thuyết áp dụng trên thực tiễn, pháp luật về hợp đồng càng hoàn thiện thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng của các chủ thể càng thuận lợi. Tuy vậy, xét trên nhiều phương diện, vấn đề hiệu lực của hợp đồng là một vấn đề pháp lý rất phức tạp cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, đặc biệt là một phạm vi của vấn đề hiệu lực của hợp đồng đó là giải thích hợp
  • 7. 2 đồng. Về mặt lý luận, các nhà luật gia vẫn còn chưa thống nhất được với nhau trong việc xác định nội dung và dung hòa các học thuyết phát triển của giải thích hợp đồng. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước ta đã trải qua nhiều truyền thống pháp luật trong suốt chiều dài lịch sử, chưa có sự chắp nối kế thừa và chọn lọc giưã các truyền thống pháp luật đó và kết hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế, xã hội hiện tại vì vậy có thể nói luật Hợp đồng của Việt Nam nói chung và vấn đề cụ thể của hiệu lực hợp đồng là giải thích hợp đồng nói riêng hiện nay thiếu tính kế thừa và thiếu đồng bộ. Bộ luật dân sự 2005 tập trung các quy định căn bản liên quan đến giải thích hợp đồng vào hai điều khoản nhất theo phân cấp tại Điều 129 về giải thích giao dịch dân sự và Điều 409 về Giải thích hợp đồng, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập gây khó khăn cho công tác giải quyết các vấn đề thực tiễn có liên quan, chưa thực sự khả thi. Về vấn đề lý thuyết, vấn đề giải thích hợp đồng vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi về học thuyết phát triển, bản chất của hoạt động này và áp dụng các nguyên tắc trong thực tiễn pháp lý. Những bất cập trên đây cần phải được nghiên cứu làm rõ và đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục, hoàn thiện. Từ những lý do trên tôi lựa chọn đề tài “Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” để làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học. Các vấn đề đưa ra trong luận văn xuất phát từ việc nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay, có tìm hiểu, tham khảo các quy định của pháp luật một số quốc gia trên thế giới, qua đó định hướng và đề xuất một số giải pháp cụ thể hoàn thiện các quy định pháp luật về giải thích hợp đồng nhằm tạo ra một cơ chế phù hợp hơn trong vấn đề này. 2. Tình hình nghiên cứu Khoa học pháp lý Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới các vấn đề khác nhau của hiệu lực hợp đồng như: đề tài luận án tiến sĩ "Hiệu lực
  • 8. 3 của hợp đồng theo quy định của Việt Nam" của tác giả Lê Minh Hùng, Thành phố Hồ Chí Minh, 2010; Đề tài luận văn thạc sĩ "Hợp đồng kinh doanh vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó" của tác giả Lê Thị Bích Thọ, 2002; "Hợp đồng kinh doanh vô hiệu: Lý luận và thực tiễn". Ngoài ra còn có một số sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu có liên quan tới một số khía cạnh pháp lý của vấn đề giải thích hợp đồng như quyển “Việt Nam dân luật – lược khảo” của GS. Vũ Văn Mẫu, Giáo trình “Luật hợp đồng Việt Nam” của PGS. TS Ngô Huy Cương, “Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” của TS Nguyễn Ngọc Khánh, “Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án” của TS. Đỗ Văn Đại.... Các công trình nghiên cứu trước đây là nguồn tài liệu quan trọng, có giá trị tham khảo và cung cấp những luận cứ khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Tuy nhiên, các nghiên cứu về hợp đồng đa phần mới chỉ nghiên cứu chung về hiệu lực của hợp đồng, phần lớn các vấn đề chủ yếu là các vấn đề nhỏ lẻ, chưa có sự đánh giá tổng quát và chưa phân tích sâu, toàn diện về giải thích hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài “Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” là một đề tài nghiên cứu mang tính cấp thiết nhằm góp phần vào viê ̣c nghiên cứu , hoàn thiê ̣n pháp luật về vấn đề này phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát. Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một trong những vấn đề của chế định hợp đồng nói chung và hiệu lực của hợp đồng nói riêng đó là giải thích hợp đồng. Trên cơ sở đó thấy được đặc điểm của chế định hợp đồng trong đời sống kinh tế, xã hội hiện nay. 3.2. Mục tiêu cụ thể - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về giải thích hợp đồng ở Việt Nam. Làm rõ bản chất vấn đề hiệu lực của hợp đồng.
  • 9. 4 - Thông qua đề cập với các vấn đề về bản chất của hoạt động giải thích hợp đồng, các học thuyết phát triển và các nguyên tắc giải thích có thể phân tích nội dung giải thích hợp dồng - Phân tích và đối chiếu, khảo sát thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó có những kiến nghị trong việc hoàn thiện quy định pháp luật về giải thích hợp đồng nói riêng. 4. Tính mới và đóng góp của đề tài Giải thích hợp đồng là vấn đề đã được nhiều luật gia nghiên cứu, đánh giá dưới góc độ pháp lý. Vấn đề này cũng đã được nhắc đến nhiều trên các tạp chí chuyên ngành pháp lý hay trong các hội thảo khoa học về pháp lý, đặc biệt trong thời điểm sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005 thì vấn đề giải thích hợp đồng đã trở thành một mục tiêu quan trọng trong việc hệ thống các vấn đề về hợp đồng. Tuy nhiên, phần lớn các vấn đề được đưa ra chủ yếu là các vấn đề nhỏ lẻ, chưa có sự đánh giá tổng quát hoặc các phân tích chủ yếu dựa trên cơ sở các quy định pháp luật, thiếu sự liên hệ với thực tế công tác giải thích hợp đồng hoặc được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Các vấn đề tác giả đưa ra trong luận văn này không chỉ là sự khái quát các vấn đề pháp lý trên cơ sở các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành mà còn hướng đến phân tích các điểm bất hợp lý trong cách thức thể hiện đó và đề xuất hướng hoàn thiện. 5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận chung về pháp luật đối với vấn đề giải thích hợp đồng, các quy định pháp luật liên quan đến nội dung và các nguyên tắc của giải thích hợp đồng. Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở thực trạng của pháp luật đối với vấn đề giải thích hợp đồng ở Việt Nam hiện nay nhằm bảo đảm vấn đề giải thích
  • 10. 5 hợp đồng là một công cụ hiệu quả trong việc điều hòa và bảo vệ lợi ích hợp pháp của đôi bên, công cụ để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 6. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu. 6.1. Nội dung nghiên cứu. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1. Khái quát chung về giải thích hợp đồng: Chương này tác giả trình bày các khái niệm, đặc điểm về giải thích hợp đồng và các vấn đề pháp lý liên quan quan đến hoạt động giải thích hợp đồng theo pháp luật Việt Nam Chương 2. Các Nguyên tắc của Giải thích hợp đồng: Chương này tác giả phân tích các nguyên tắc cơ bản của hoạt động giải thích hợp đồng, trong đó có so sánh, phân tích nhằm đưa ra các điểm hạn chế của pháp luật Việt Nam Chương 3. Thực tiễn giải thích hợp đồng và kiến nghị hoàn thiện các quy định hiện hành về giải thích hợp đồng. Chương này tác giả đi sâu phân tích một số vụ việc liên quan đến hoạt động giải thích hợp đồng và từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định hiện hành tại Việt Nam. 6.2. Địa điểm nghiên cứu. Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu đối với các quy định hiện hành của pháp luật Việt nam về giải thích hợp đồng trên lãnh thổ Việt Nam. 6.3 phương pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn sử dụng nhiều phương pháp để làm rõ vấn đề nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh... Trong đó phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và phương pháp so sánh là ba phương pháp chủ đạo, được sử dụng chủ yếu trong luận văn nhằm rút ra những vướng mắc, bất cập trong hoạt động giải thích hợp đồng trong thực tiễn.
  • 11. 6 Chƣơng I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG 1.1 KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG 1.1.1. Khái niệm giải thích hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng đóng vai trò cốt lõi đối với sự tồn tại của hợp đồng, một hợp đồng không có hiệu lực cũng có nghĩa là giữa các bên không tồn tại quan hệ hợp đồng. Khi nghiên cứu vấn đề hợp đồng, theo PGS. TS Ngô Huy Cương cho rằng, sự hỗ trợ của luật hợp đồng được thể hiện ở sự tác động của luật hợp đồng vào quan hệ hợp đồng, được thể hiện ở bốn khía cạnh đó là: thứ nhất, tạo lập hợp đồng; thứ hai, vấn đề thi hành các hợp đồng; thứ ba, giải thích ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng và thứ tư, kiềm chế hoặc bảo đảm cho việc biểu lộ ý chí ; Và Hiệu lực của hợp đồng theo nghĩa rộng bao quát ba khía cạnh sau của bốn khía cạnh nói trên [9,tr.367]. Cũng tương tự trong cách hiểu như vậy, theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu thì phạm vi việc nghiên cứu hiệu lực hợp đồng như sau: “1) Người phụ trái bị khế ước thúc buộc tới mức nào? Đây là vấn đề hiệu lực thúc buộc của nghĩa vụ. 2) Khế ước phải giải thích như thế nào? 3) Ai có thể xin thi hành nghĩa vụ và ai phải thi hành? Nói một cách khác, ai là những người bị nghĩa vụ thúc buộc? Đây là vấn đề hiệu lực tương đối của nghĩa vụ” [38, tr.242] Như vậy, nhìn chung có thể nhận xét Giải thích hợp đồng là một nội dung được phân tích trong nội hàm vấn đề hiệu lực hợp đồng và dưới góc độ nghiên
  • 12. 7 cứu vấn đề này cũng được xem xét tiếp cận trong phạm vi nghiên cứu Hiệu lực của hợp đồng nói chung. Khi nói đến vấn đề giải thích hợp đồng, người ta sẽ liên hệ tới các vấn đề khác của hiệu lực hợp đồng để có thể xác định rõ vai trò của hoạt động này, về cơ bản khi kết lập hợp đồng, các hợp đồng này có hiệu lực ràng buộc các bên giao kết, khi đó, trong nhiều trường hợp các bên tham gia giao kết hợp đồng không đồng quan điểm về vấn đề nào đó trong hợp đồng do nhầm lẫn, hoặc thiếu sót trong hợp đồng; tòa án (hoặc các chủ thể có nhiệm vụ giải thích hợp đồng tùy nền tài phán ) có quyền giải thích hợp đồng để biết rõ nội dung của hợp đồng như thế nào, xác định rõ các điểm còn tranh cãi hoặc bổ sung những điểm thiếu sót tùy các thức quy định của luật. Nghiên cứu lý luận về Giải thích hợp đồng có thể nhận thấy đã có nhiều tác giả đưa ra những khái niệm khác nhau, tuy nhiên có thể thấy phần lớn cách thức tiếp cận khái niệm này dưới góc độ trực tiếp chỉ ra nhiệm vụ hay chức năng của hoạt động này. Trong cuốn Từ điển luật học, không có định nghĩa cụ thể về giải thích hợp đồng mà chỉ có giải nghĩa về giải thích giao dịch dân sự, nếu ta hiểu theo cách thức mối liên quan tại Bộ luật dân sự 2005 quy định tại Điều 121 “giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, thì theo cách diễn giải của Từ điển luật học thì “giải thích giao dịch dân sự là việc thẩm phán làm rõ nghĩa nội dung của giao dịch dân sự đó” [65,tr. 288], dễ nhận thấy rằng, khái niệm này của Từ điển luật học xuất phát từ cách thức thể hiện tại điều khoản về giải thích giao dịch dân sự tại Điều 126 Bộ luật dân sự 2005, theo đó, cách thức diễn giải này đã thể hiện một điểm hạn chế khá rõ đó là mới chỉ đề cập tới chức năng làm rõ nghĩa của
  • 13. 8 hợp đồng, trong khi chức năng khác nữa của giải thích giao dịch hợp đồng cụ thể đó là bổ sung những thiếu sót của hợp đồng thì chưa được nhắc đến trong định nghĩa này, tạm thời có thể cân nhắc cho rằng đây là thiếu sót của những người soạn thảo Từ điển luật học vì có thể người soạn thảo nhìn nhận vấn đề giải thích giao dịch dân sự khác với giải thích hợp đồng, tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, nếu giao dịch dân sự bao hàm cả hợp đồng, thì không thể không bao trùm về nguyên tắc các vấn đề giao dịch dân sự đối với hợp đồng, cụ thể là đối với vấn đề giải thích hợp đồng được thể hiện tại Điều 409 đã thể hiện rõ chức năng bổ sung các thiếu sót ở Khoản 5 đó là: “Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản thì có thể bổ sung theo tập quán đối với hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng”. Ngoài ra, kể cả đối với giải thích giao dịch dân sự khác thì bổ sung các thiếu sót trong nội dung cũng là vấn đề không thể thiếu. Trong khi đó, Tiến sĩ Đỗ Văn Đại thì lại định nghĩa rằng “giải thích hợp đồng là việc xác định nội dung của hợp đồng, và việc giải thích thường được tiến hành ở Việt Nam để giải quyết vấn đề giao kết hợp đồng (…) và thực hiện hợp đồng để biết quyền và nghĩa vụ của các bên” [16, tr.701 - 702] tuy nhiên cũng giống như điểm thiếu sót đã phân tích, TS Đỗ Văn Đại dường như chỉ đề cập tới một chức năng của Giải thích hợp đồng đó là xác định các điều khoản mập mờ, không rõ nghĩa, chứ chưa đề cập tới chức năng khác của hoạt động này đó là bổ sung lỗ hổng cho hợp đồng. Trong khi đó, theo cách thức định nghĩa của các tác giả của Viện Khoa học pháp lý trong cuốn Bình luận khoa học bộ luật dân sự năm 2005 tiếp cận một cách đầy đủ hơn khi trình bày: “Trong nội dung của giao dịch do nhiều lý do khác nhau đôi khi có những điều khoản không rõ ràng hoặc không được quy định cụ thể, có thể dẫn đến sự hiểu lầm hoặc hiểu không đúng nội dung của giao
  • 14. 9 dịch. Trong trường hợp dẫn đến tranh chấp thì việc bảo vệ của pháp luật cũng không thể đạt được hiệu quả như các bên mong muốn. Bởi vậy, một vấn đề đặt ra là phải làm sáng tỏ nội dung của giao dịch dân sự và bổ sung những điểm còn thiếu khi xác lập giao dịch. Đó chính là nhiệm vụ giải thích giao dịch dân sự” [31,tr.303]. Mặc dù khái niệm này đã thể hiện đủ hai chức năng của giải thích hợp đồng (nếu ta xem xét rằng khái niệm đối với giao dịch dân sự cũng áp dụng đối với giải thích hợp đồng) nhưng cách thức diễn giải còn một vấn đề về mặt câu chữ, theo cách hiểu thông thường khi đọc nội dung trên, người đọc dễ hiểu nhiệm vụ giải thích giao dân sự đó là làm sáng tỏ nội dung của giao dịch dân sự và bổ sung những điểm còn thiếu, như vậy thì nhiệm làm sáng tỏ nội dung và nhiệm vụ bổ sung là hai nhiệm vụ song song với nhau, là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời trong quá trình giải thích giao dịch dân sự, tuy nhiên trong thực tế không phải trường hợp nào cũng phải đảm bảo hai nhiệm vụ này của giải thích giao dịch dân sự. Vì trong trường hợp đã đầy đủ điều khoản nhưng không rõ nghĩa thì chỉ cần áp dụng các nguyên tắc cụ thể không phải bổ sung điều khoản nào cả, hoặc trường hợp các điều khoản thể hiện đầy đủ ý nghĩa của nó, được đặt trong mối liên hệ nhất định với nhau trong hợp đồng, tuy nhiên có khả năng vẫn tồn tại lỗ hổng dẫn tới hệ quả không thể thực hiện được hoặc gây bất đồng về cách hiểu các nội dung đã quy định trong hợp đồng thì cần bổ sung. So sánh với một số cách thức định nghĩa về khái niệm Giải thích hợp đồng của một số nước, một số luật gia tại Việt Nam cũng trích dẫn các quan điểm của Nga, tiêu biểu là của tác giả E. A. Berezina cho rằng: “đó là một dạng đặc biệt của giải thích luật, được thực hiện bằng các phương pháp truyền thống của kỹ thuật pháp lý và các phương pháp xuất phát từ nội dung hợp đồng riêng biệt của những hoạt động pháp luật đặc thù của các bên trong hợp đồng, người đại diện
  • 15. 10 của họ, cơ quan tòa án và các chủ thể pháp luật khác, theo hướng làm rõ nghĩa các điều khoản từng hợp đồng riêng biệt trong mục đích của việc thực hiện nó” [24, tr.44]. Cách nhìn nhận này có một điểm hạn chế rõ ràng đó là, theo Vũ Văn Mẫu: “Dù hợp đồng có hiệu lực cũng như các nghĩa vụ do pháp luật phát sinh ra song không thể đồng hóa hợp đồng với luật pháp được” [ 38,tr.264]. Luật pháp có tầm hiệu lực bao quát hơn, không thể quan niệm giải thích hợp đồng dưới dạng là một biến thể của giải thích luật pháp được, dù có mối liên hệ tuy nhiên đối với vấn đề mang tích cách riêng biệt thì mỗi liên hệ dù có nhưng rất mong manh. Cách hiểu như trên sẽ gây ra tình trạng nhầm lẫn trong phân biệt thẩm quyền của các chủ thể giải thích hợp đồng (sẽ được nhắc đến trong phần bản chất của giải thích hợp đồng). Điểm ghi nhận trong quan niệm trên đó là có thể áp dụng các phương pháp truyền thống của kỹ thuật pháp lý và các phương pháp xuất phát từ nội dung hợp đồng riêng biệt của những hoạt động pháp luật đặc thù của các chủ thể. Một góc tiếp cận khác, một số luật gia cũng trích dẫn quan điểm tác giả N. V. Ctepanjuk cho rằng: Sự cần thiết phải giải thích hợp đồng có thể do nhiều nguyên nhân. Đối với một bên, có thể xuất hiện sự cần thiết phải xác định nội dung của một điều khoản này hoặc một điều khoản kia trong hợp đồng vì nó được thể hiện chưa rõ ràng với một bên khác – hoặc để bổ sung điều khoản của hợp đồng trong trường hợp tồn tại thiếu sót đối với nội dung của hợp đồng hoặc để khắc phục những điều khoản có sự mâu thuẫn [24, tr.44], cách thức thể hiện quan điểm này khá phù hợp và đầy đủ nếu so sánh với một số định nghĩa của một số luật gia khác. Theo hai luật gia của Đức đó là Konrad Zeigert và Hein Koetz cho rằng khái niệm Giải thích hợp đồng có thể diễn giải như sau: Qui trình thực hiện nhiệm vụ của thẩm phán xác định ý nghĩa mơ hồ hoặc không hoàn chỉnh của sự
  • 16. 11 diễn đạt quyền lợi của các bên trong quan hệ hợp đồng được gọi là giải thích hợp đồng [66, tr.400]. Có thể thấy, đây là cách thức tiếp cận khái niệm giải thích hợp đồng dưới góc độ liệt kê chức năng của giải thích hợp đồng đầy đủ và hợp lý hơn cả vì nó đáp ứng được đủ yêu cầu hai chức năng riêng tách bạch của giải thích hợp đồng đó là (1) làm rõ nghĩa cho hợp đồng; (2) bổ sung các thiếu sót của hợp đồng. Tuy nhiên, cần phải phải nhận xét thêm rằng, một điểm mấu chốt còn thiếu sót của định nghĩa này đó là yếu tố đảm bảo ý chí chung của các bên tham gia giao kết hợp đồng, và đảm bảo tính chính xác của nội dung trong hợp đồng hay mối liên hệ giữa các điều khoản với nhau, yếu tố này luôn là nguyên tắc căn bản khi xây dựng bất kì chế định nào về vấn đề giải thích hợp đồng cũng như thực tiễn hoạt động của nó trong thực tế. Nhìn chung, các khái niệm về Giải thích hợp đồng gần như chỉ giới hạn ở nội dung tiếp cận dưới góc độ các chức năng của nó liên quan đến đối tượng của hoạt động này đó là hợp đồng có điều khoản hoặc nội dung mập mờ, không rõ nghĩa hoặc (có thể đồng thời) quy định trong nội dung hợp đồng thiếu hoàn chỉnh vì nhiều lí do khác nhau khi xác lập hợp đồng. Tuy nhiên ở một số góc độ tiếp cận khác nhau, yếu tố bổ sung điều khoản hoặc các quy định còn thiếu sót trong hợp đồng dường như chưa được quan tâm nhiều trong vấn đề giải thích hợp đồng, đây là thiếu sót cực kỳ nghiêm trọng. Từ những nhận định trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về Giải thích hợp đồng như sau: Giải thích hợp đồng là hoạt động của thẩm phán hoặc các chủ thể khác tùy cách thức quy định của từng nền tài phán khác nhau (ví dụ như trọng tài viên...), thực hiện nhiệm vụ xác định rõ các điểm không rõ nghĩa hoặc bổ sung các quy định không đầy đủ trong nội dung của hợp đồng giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Giải thích hợp đồng phải dựa trên cơ sở không làm thay đổi bản
  • 17. 12 chất của hợp đồng, hay cụ thể hơn là không làm thay đổi ý chí của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Khái niệm trên đã hàm chứa những điểm cốt lõi nhất về giải thích hợp đồng, đó là: - Đây là hoạt động nhằm xác định chính xác các nội dung của hợp đồng ví dụ như quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, đối tượng, thời hạn thực hiện... , thông qua việc: thứ nhất là làm rõ nghĩa cho sự diễn đạt trong một hay nhiều nội dung của hợp đồng; thứ hai là bổ sung các thiếu sót trong một hay nhiều quy định của hợp đồng. - Chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng là các thẩm phán hoặc các chủ thể khác tùy nền tài phán khác nhau (ví dụ như trọng tài viên ...). - Đối tượng đặc trưng của hoạt động giải thích hợp đồng đó là xác định ý chí chung của các bên tham gia hợp đồng. - Bản chất của hoạt động này là làm rõ nghĩa hay bổ sung các nội dung còn thiếu của hợp đồng, vì vậy thẩm phán không có quyền thay đổi nội dung của hợp đồng. Một vấn đề nữa đó là, nhìn chung các khái niệm về giải thích hợp đồng tương đối thống nhất, vì chủ yếu là nhìn nhận hướng tới ngay chức năng và đối tượng của hoạt động đó,tuy quy định về các nguyên tắc cụ thể của hoạt động giải thích hợp đồng phát triển chủ yếu dựa trên các nền tảng học thuyết khác nhau về hợp đồng, vì vậy cách thức diễn đạt nội dung các nguyên tắc và thứ tự ưu tiên cũng có khác nhau. 1.1.2. Chủ thể của hoạt động Giải thích hợp đồng. Đối với quy định của pháp luật Việt Nam, việc xác định chủ thể giải thích hợp đồng là không rõ ràng, các tác giả của Viện khoa học pháp lý chỉ chỉ dẫn
  • 18. 13 một cách chung chung: “Pháp luật không quy định cụ thể ai là người có trách nhiệm giải thích nội dung của giao dịch dân sự. Thông thường, trong trường hợp có sự hiểu không đúng về nội dung của giao dịch dân sự trước hết cần có sự bàn bạc thỏa thuận của các bên. Nếu các bên không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hoặc Tòa án quyết định” [31,tr.305], như vậy cách thức tiếp cận về chủ thể giải thích hợp đồng này khá tương đồng với cách thể hiện của các luật gia của Nga, theo Berezina thì “đó là một dạng đặc biệt của giải thích luật, được thực hiện bằng các phương pháp truyền thống của kỹ thuật pháp lý và các phương pháp xuất phát từ nội dung hợp đồng riêng biệt của những hoạt động pháp luật đặc thù của các bên trong hợp đồng, người đại diện của họ, cơ quan tòa án và các chủ thể pháp luật khác, theo hướng làm rõ nghĩa các điều khoản từng hợp đồng riêng biệt trong mục đích của việc thực hiện nó”[24,T.44]ư, với cách định nghĩa như vậy thì theo Berezina chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng trước hết thuộc về chính các bên trong hợp đồng, sau đó là người đại diện, cơ quan tòa án và các chủ thể pháp luật khác. Cũng cùng cách thức tiếp cận như vậy, một số luật gia của Việt Nam cũng có ý kiến cho rằng các vấn đề phát sinh yêu cầu giải thích hợp đồng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng, vì vậy chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đồng thời cũng có thể giải thích hợp đồng [41, tr.32]. Tuy nhiên cách hiểu trên đây còn có một điểm khó hiểu, đó là nếu đánh giá hoạt động giải thích hợp đồng theo giai đoạn, là việc xác định ý chí, như vậy nếu giai đoạn thương lượng, hòa giải giữa các bên, hay theo cách xác định chủ thể giải thích hợp đồng đó là các bên trong hợp đồng, thì liệu nó có được coi là hoạt động giải thích hợp đồng nữa hay không khi mà sự thỏa thuận giữa các bên nhiều trường hợp đã làm thay đổi đi ý chí ban đầu muốn thể hiện, đặc biệt là đối với trường hợp không thể xác định
  • 19. 14 được ranh giới giữa việc giữ nguyên nội dung của hợp đồng và không làm thay đổi ý chí của các bên, chỉ nhằm làm rõ nghĩa hay bổ sung lỗ hổng của hợp đồng. Trong khi đó, theo cách thức quy định và cách hiểu của các luật gia truyền thống thì nhiều ý kiến cho rằng chủ thể của hoạt động của giải thích hợp đồng là các thẩm phán. Konrad Zeugert và Hein Koetz cho rằng Giải thích hợp đồng là Qui trình thực hiện nhiệm vụ của thẩm phán. TS Nguyễn Ngọc Khánh thì cho rằng: “Trên thực tế, không phải lúc nào nội dung hoặc điều khoản của hợp đồng cũng được thể hiện đầy đủ và rõ nghĩa. Khi đó Tòa án sẽ có nhiệm vụ làm sáng tỏ ý nghĩa và nội dung của hợp đồng các bên đã giao kết. Dạng hoạt động của Tòa án trong những trường hợp như vậy được gọi là giải thích hợp đồng”[28.tr126]. Còn theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu thì “khế ước có hiệu lực thúc buộc các người kết ước, các thẩm phán không có quyền thay đổi nội dung Khế ước, nhưng các thẩm phán có quyền giải thích khế ước để biết rõ nội dung ra sao vì nhiều khi các người kết ước không đồng quan điểm về vấn đề này phải nhờ thẩm phán giải quyết mối phân tranh’’ [38,tr.260] như vậy, chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng chỉ có thể là thẩm phán chứ không thể từ các bên trong hợp đồng. Đối với quan điểm này cũng còn có hạn chế nhất định đó là nếu theo quy định Thẩm phán là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích hợp đồng thì hoạt động gặp bất lợi rất lớn nếu xem xét theo các giai đoạn giao kết hợp đồng, theo đó hoạt động này chỉ có nhiều ý nghĩa sau khi có tranh chấp nảy sinh từ hợp đồng xảy ra hoặc có yêu cầu của các bên giao kết sau khi thực hiện và phát hiện điểm thiếu sót hoặc bất hợp lý từ một hoặc các điều khoản của hợp đồng, trong khi đó yêu cầu giải thích hợp đồng xảy ra xuất phát từ bản chất hợp đồng đã xảy ra ngay từ thời điểm giao kết, bản thân hợp đồng đã xuất hiện lỗ hổng hoặc chứa
  • 20. 15 các điều khoản mập mờ không rõ nghĩa, như vậy, ngay từ giai đoạn yêu cầu, nếu gặp phải trường hợp như trên thì tòa án có thẩm quyền từ giai đoạn nào thì cần phải cân nhắc thật kỹ càng. Như vậy, từ các nhận định trên, cách thức có phần hợp lý hiện nay để tiếp cận vấn đề chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng đó là nhìn nhận dưới góc độ các trường hợp hợp đồng cần phải giải thích cũng có một số đặc điểm tương đồng với tranh chấp hợp đồng (mặc dù không thể đồng nhất hợp đồng cần giải thích là một loại tranh chấp hợp đồng được vì hợp đồng cần giải thích không phát sinh từ hành vi vi phạm mà xuất phát trong nội dung của hợp đồng đó), theo đó chủ thể giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng là chủ thể của hoạt động giải thích hợp đồng. Sở dĩ có thể nhận định như vậy vì các lý do, (1) xuất phát từ dẫn giải hợp đồng có điều khoản mập mờ hay có lỗ hổng dẫn tới cách hiểu và áp dụng sai trong thực tế, từ đó có bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia giao kết (mặc dù các các bất đồng này không xuất phát từ vi phạm của các bên như tranh chấp thông thường) và do đó phát sinh yêu cầu giải thích hợp đồng từ một chủ thể độc lập có đủ khả năng (trong các trường hợp này khó có thể quy định do hai bên tự thương lượng, vì bản chất quá trình thương lượng không còn là hoạt động giải thích hợp đồng, quá trình thương lượng có thể đã làm thay đổi ý chí ban đầu của một hoặc cả hai bên tham gia hợp đồng) (2) đối với vấn đề hoạt động giải thích hợp đồng, khó có một hạn định bắt buộc nào trong việc xác định chủ thể có thẩm quyền giải thích đối với từng hợp đồng riêng rẽ, (3) thông thường chủ thể giải quyết tranh chấp có thể là thẩm phán (theo thủ tục tố tụng tại tòa án), trọng tài viên (giải quyết theo thủ tục trọng tài thương mại). Đối với những chủ thể như vậy thì các yêu cầu về chủ thể giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng đã được
  • 21. 16 đảm bảo (về chuyên môn, trình độ, mức độ am hiểu trong lĩnh vực giải quyết ...), do đó cũng đáp ứng đầy đủ khả năng đối với vấn đề giải thích hợp đồng. Như vậy có thể hiểu chủ thể có thẩm quyền giải quyết vấn đề giải thích hợp đồng hiện nay đó là thẩm phán hoặc trọng tài viên theo thủ tục tố tụng tư pháp hoặc giải quyết bởi trọng tài thương mại, tùy theo nội dung của từng hợp đồng và cách thức quy định của từng nền tài phán. 1.1.3. Chức năng của Giải thích hợp đồng Như ta đã nhận xét thông qua khảo sát các khái niệm về giải thích hợp đồng thì có thể rút ra chức năng của hoạt động này bao gồm: thứ nhất, làm rõ nghĩa cho hợp đồng; thứ hai, bổ sung các nội dung còn thiếu của hợp đồng, nó xuất phát từ đối tượng giải quyết của vấn đề này đó là (1) các quy định của hợp đồng không rõ ràng, hoặc (2) hợp đồng quy định thiếu sót. Trong thực tiễn, trong các nền tài phán khác nhau lại có cách thức phân tách đối tượng hướng tới cần giải quyết của hoạt động giải thích hợp đồng một cách chi tiết cụ thể, phần lớn có thể chia ra làm các trường hợp cần áp dụng hoạt động giải thích hợp đồng và từ đó thể hiện rõ chức năng chính của hoạt động này đó là: Thứ nhất, hợp đồng có nội dung mơ hồ, khó hiểu. Ở đây phải nhận định rõ, một hợp đồng trong bất cứ nền tài phán nào cũng cần được đòi hỏi phải thể hiện được những nội dung xác định để có thể thể hiện được ý chí của các bên và do đó cũng được sử dụng để có thể đáp ứng các yêu cầu cho hoạt động giải quyết tranh chấp, và ta hiểu nội dung của hợp đồng được biết đến như là các điều kiện của hợp đồng. Như vậy, thông thường trong các hợp đồng có các điều khoản quy định các nguyên tắc chung giữa các bên, trong đó buộc phải có các điều khoản cơ bản và có thể có các điều khoản thông thường, các điều khoản tùy nghi (điều khoản thông thường ở đây được hiểu trong mối tương quan với Điều khoản cơ
  • 22. 17 bản. Điều khoản cơ bản là điều khoản bắt buộc phải có, nếu thiếu thì hợp đồng không được coi là đã giao kết. Điều khoản thông thường là các điều khoản do các bên thỏa thuận nhưng các điều khoản này không bắt buộc phải có. Và khi phát sinh tranh chấp mà các bên không thỏa thuận thì áp dụng quy định của pháp luật để giải quyết). Nếu theo cách diễn giải trên, nội dung mơ hồ, không rõ ràng cần đến hoạt động giải thích hợp đồng nghĩa là các điều khoản của hợp đồng quy định không rõ ràng dẫn đến việc không thể hiện được ý chí của các bên tham gia giao kết hợp đồng hoặc không thể hiện được căn cứ để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đó. Giải pháp đối với trường hợp này là khác nhau tùy học thuyết phát triển của mỗi nền tài phán và thường được cụ thể hóa thành các nguyên tắc để áp dụng trong thực tiễn (các nguyên tắc này sẽ được phân tích cụ thể tại chương 2 của luận văn). Một hệ quả nữa để quy về đối tượng của hoạt động giải thích hợp đồng về nội dung mơ hồ hợp đồng đó là điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Thực tế, các điều khoản này có thể thể hiện các nguyên tắc chung mà các bên phải tuân thủ hoặc các điều khoản xác lập quyền và nghĩa của các chủ thể, một điều khoản có nhiều cách hiểu có thể dẫn tới hệ quả là làm sai lệch đi cơ bản nội dung của toàn hợp đồng, như vậy, theo cách hiểu về cơ bản là làm sai lệch đi ý chí của các bên. Tuy nhiên, đối với trường hợp điều khoản được hiểu theo nhiều nghĩa này, hoạt động giải thích hợp đồng cần đặc biệt thận trọng, vì nếu lạm dụng các nguyên tắc dựa trên ý chí tuyên bố, có thể làm sai lệch đi bản chất của hoạt động giải thích hợp đồng, đó là yêu cầu đảm bảo không làm thay đổi nội dung của hợp đồng. Thứ hai, hợp đồng tồn tại những lổ hổng cần được bổ sung. Đây là đối tượng khá đặc biệt của hoạt động giải thích hợp đồng, một hợp đồng cơ bản đảm bảo nội dung, thể hiện được ý chí của các bên, do đó có thể làm căn cứ để giải
  • 23. 18 quyết các tranh chấp. Trong thực tế, các hợp đồng khó có thể thể hiện đầy đủ nội dung hoặc điều kiện của chúng một cách lý tưởng như trong lý thuyết. Tuy nhiên, các nội dung cơ bản để thể hiện ý chí của các bên cũng đều được các nền tài phán đòi hỏi. Vì vậy, việc thiếu hụt quy định trong nội dung của hợp đồng chính là đối tượng của hoạt động giải thích hợp đồng trên. Đối với loại đối tượng này, thông thường vấn đề lớn được đặt ra sẽ là (1) khi nào các bên sử dụng các biện pháp giải thích hợp đồng để lấp “lỗ hổng” của hợp đồng; vấn đề (2) sử dụng biện pháp giải thích hợp đồng nào và sử dụng các biện pháp này như thế nào. Đối với việc áp dụng nguyên tắc bổ sung điều khoản còn thiếu trong giải thích hợp đồng thì cần lưu ý đến 2 vấn đề. Thứ nhất, khi nào thì áp dụng nguyên tắc này; thứ hai, tiêu chuẩn và cách thức bổ sung các điều khoản còn thiếu trong quá trình giải thích hợp đồng. Về vấn đề thứ nhất, đó là khi nào các bên sử dụng các biện pháp giải thích hợp đồng để bổ sung “lỗ hổng” của hợp đồng. Như ta đã phân biệt ở trên giữa các điều khoản cơ bản và các điều khoản thông thường, việc phân loại các điều khoản như trên có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực của hợp đồng vì thiếu các điều khoản cơ bản thì coi như hợp đồng chưa được giao kết, còn đối với các điều khoản thông thường thì có thể sẽ phải đặt ra vấn đề giải thích hợp đồng. Trong thực tiễn thì việc có “lỗ hổng” trong quy định của nội dung hợp đồng có thể là hệ quả trong sai sót trong bước soạn thảo hợp đồng vì nhiều lí do, có thể là do cẩu thả hoặc do các trường hợp các bên không ngờ tới khi thực hiện hợp đồng, một trường hợp có thể cân nhắc áp dụng bổ sung đó là trường hợp đối với xác định hợp đồng được định danh cụ thể và mang đầy đủ tính chất của một loại hợp đồng được quy định trong luật, tuy nhiên thực tiễn người soạn thảo có thể do hạn chế về kiến thức pháp lý về phần nội dung này hoặc sơ suất không quy định trong
  • 24. 19 hợp đồng dẫn tới thiếu sót. Ví dụ như hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng không quy định điều khoản các biện pháp nhằm bảo đảm giá trị sử dụng của tài sản thuê, hoặc hợp đồngthuê nhà không có điều khoản quy định nghĩa vụ sinh hoạt công cộng của bên thuê nhà… So sánh với một số quan điểm về việc yêu cầu đối với việc sử dụng hoạt động giải thích hợp đồng để bổ sung cho lỗ hổng của hợp đồng, theo diễn giải của UNIDROIT thì yêu cầu đặt ra đối với chức năng này như sau: “Những điều khoản còn thiếu hoặc những chỗ trống trong hợp đồng phát sinh sau khi giao kết hợp đồng, nếu chưa được các bên điều chỉnh lại cho đúng trong toàn bộ hợp đồng, thì có thể là do họ không muốn giải quyết, hoặc do họ không thể ngờ đến những trường hợp này” [6, tr.70], có thể nhận thấy vấn đề chưa rõ ràng đặt ra theo cách diễn giải của UNIDROIT ở đây là căn cứ như vậy có đảm bảo yếu tố bản chất của hợp đồng hay không, cụm diễn giải “do họ không muốn giải quyết”, vậy thì có thể hiểu, những người tham gia giao kết hợp đồng đã xác định rõ vấn đề, biết nội dung mà họ không muốn giải quyết, do đó giải thích hợp đồng có làm thay đổi bản chất ý chí của các bên ban đầu và bản chất của hợp đồng đối với nội dung “không muốn giải quyết vấn đề” đó hay không? và do đó theo quy định thôgn thường thì các thẩm phán ở trường hợp này sẽ không áp dụng hoạt động giải thích hợp đồng để giải quyết vấn đề. Về vấn đề thứ hai, tiêu chuẩn và cách thức bổ sung điều khoản. Đây là vấn đề thực tiễn đặt ra rất khó khăn cho các nhà làm luật và các chủ thể giải thích khi giải thích hợp đồng. Bổ sung làm sao để đảm bảo không thay đổi bản chất của hợp đồng và cũng đáp ứng được yêu cầu đầy đủ nội dung, UNIDROIT có đưa ra chỉ dẫn một cách khái quát, ta có thể hiểu tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng tìm các yếu tố nội tại cũng như ngoại tại của hợp đồng.
  • 25. 20 Khoản 2, Điều 4.8 của Bộ nguyên tắc UNIDROIT (Bổ sung một điều khoản còn thiếu) quy định: khi xem xét điều khoản nào là thích hợp, cần lưu ý đến những chi tiết xung quanh, ví dụ như: a. Ý định của các bên trong hợp đồng b. Tính chất và mục đích của hợp đồng c. Nguyên tắc thiện chí và trung thực d. Tính hợp lí. Cách thức quy định trên của UNIDROIT mang lại tính linh hoạt và mềm dẻo trong quá trình bổ sung, tôn trọng ý chí thực của các bên, bên cạnh đó nó cũng đảm bảo các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ thương mại nhờ nguyên tắc thiện chí và trung thực và tính hợp lý. Tuy nhiên, có thể thấy, đáp ứng các yêu cầu trên đòi hỏi sự phân tích cực kì chuẩn xác về các yêu tố nội tại và ngoại tại của hợp đồng, trên cơ sở khách quan, đồng thời phải đảm bảo không thay đổi bản chất của hợp đồng (yếu tố khó khăn nhất khi áp dụng nguyên tắc bổ sung trong giải thích hợp đồng). Đối với cách tiếp cận khác về việc bổ sung điều khoản. Một cách thức khá hiệu quả đó là xác định tính chất, định danh hợp đồng theo cách thức giải thích theo tính chất của hợp đồng (phần này sẽ được trình bày tại Chương 2 của luận văn) và bổ sung các điều khoản phù hợp theo từng quy chế pháp lý đối với hợp đồng đặc thù đó. Điều khó khăn đối với cách thức này đó là việc xác định các điều khoản bổ sung. Theo lý thuyết, để đáp ứng các yêu cầu thực hiện chức năng bổ sung điều khoản còn thiếu trong quá trình giải thích hợp đồng theo cách thức này, có thể dựa vào việc phân loại được các điều khoản bổ sung, theo đó các nhà làm luật có thể phân định thành: Thứ nhất, là các điều khoản được coi là có thể thể hiện được ý chí của các bên, cụ thể trong hợp đồng thiếu hụt điều khoản, có
  • 26. 21 thể xuất phát được từ sự thiếu sót trong việc thể hiện ra ý chí của các bên về một vấn đề gì, thì sẽ căn cứ vào các điều khoản đã được dự trù ở trong luật về vấn đề đó, trong hoàn cảnh cụ thể để áp dụng bổ sung các điểm còn thiếu. Thứ hai, cũng gần giống với các điểm ở các điều khoản bổ sung ý chí ở trên và thực tế có thể nhầm lẫn với nhau, cũng được áp dụng bổ sung cho những hợp đồng mà các bên tham gia ký kết không ấn định rõ các mục đích của mình, nhưng điểm căn bản khác biệt đó là các điều khoản ở loại này được áp dụng để bổ sung không được coi là thể hiển được ý chí thực của các bên, mà nó là các điều khoản mà các nhà làm luật dự trù rằng, trong trường hợp xảy ra tình huống đó, trong thực tiễn thì áp dụng các điều khoản đó là hoàn hảo hơn cả. Những điều khoản thuộc loại này, không được coi là các điều khoản thể hiện được ý chí của các bên tham gia hợp đồng vì trong thực tế, rất nhiều các quy định do các nhà làm luật tạo ra không thể hiện đích xác ý chí của các bên, vì nhiều lý do khác nhau mà các bên không thể hiện ý chí đó trong hợp đồng, cho nên quá trình giải thích hợp đồng, các thẩm phán buộc phải lựa chọn các giải pháp mà các nhà làm luật đã phân tích dựa trên nhiều căn cứ mà cho là hoàn hảo nhất trong trường hợp đó. Tuy nhiên, ranh giới phân loại giữa hai loại điều khoản giải thích này là rất mong manh, vì thực tế, làm thế nào để suy luận được trong thực tế thì một cách thức diễn giải được cho là thể hiện được ý chí của các bên tham gia? Ngoài ra, nếu trong trường hợp suy luận điều khoản này được tạo ra nhất định là hệ quả của một một ý chí được các bên đặt ra thì liệu có hợp lý hay đơn thuần cũng vẫn là kết quả của quá trình tìm hiểu, phân tích về tính tất yếu của các nhà làm luật. Ví dụ đối với chức năng này đối với một trường hợp cụ thể Avà B ký kết hợp đồng thầu xây dựng, theo đó hai bên đồng ý về một tỷ lệ lãi suất đặc biệt, mà bên mua phải trả khi chậm thanh toán. trước khi bắt đầu thực hiện, bên B
  • 27. 22 quyết định chấm dưt hợp đồng. Trong trường hợp chủ thầu là bên chậm trễ trong việc hoàn trả số tiền thanh toán trước sẽ nảy sinh vấn đề về việc nên áp dụng tỷ lệ lãi suất nào, trong nội dung không quy định vấn đề này thì có thể sẽ áp dụng cùng tỷ lệ lãi suất chậm thanh toán thường áp dụng cho người mua hàng cho trường hợp chậm hoàn trả tiền được ứng trước của chủ thầu (điều khoản này đã được pháp luật quy định). Đối với Bộ luật dân sự 2005, chức năng này dường như không được thể hiện như một biện pháp bao quát đối với Bộ luật dân sự 2005, vì về cơ bản,thứ nhất, nếu chỉ dẫn giải điều khoản 5 Điều 409 (bổ sung điều khoản phù hợp với tập quán) là không đầy đủ vì không phải trường hợp nào cũng có thể bổ sung điều khoản theo tập quán vì không phải tập quán nào đủ điều kiện là nguồn của pháp luật, và thứ hai là cả các giải pháp ở Điều 126 và Điều 409 liên quan đến giải thích hợp đồng đều không thể hiện chức năng bổ sung các thiếu sót của hợp đồng ngoại trừ các điều khoản theo tập quán. Khoản 5, Điều 409 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản thì có thể bổ sung theo tập quán đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng”. Về cách thức diễn giải, rõ ràng nó bản chất dựa trên cơ sở là nguyên tắc giải thích hợp đồng theo tập quán, dựa trên nền tảng chủ yếu là các tập quán được coi là nguồn của pháp luật, tuy nhiên cách thể hiện điều khoản thì lại mang tính chất của việc bổ sung điều khoản, một cách đáp ứng yêu cầu về chức năng một cách gượng ép đối với việc giải thích hợp đồng. Vì các lý do sau đây, thứ nhất, về phân loại điều khoản bổ sung, các điều khoản bổ sung này có thể hiện được ý chí của các bên tham gia hợp đồng hay không? Hoặc nó có phải loại điều khoản do các nhà dự trù để áp dụng trong thực tiễn hay không? Tìm được câu trả
  • 28. 23 lời cho tình huống này thực sự khó khăn, vì đã là bổ sung các điều khoản theo tập quán tại nơi giao kết hợp đồng thì khó có thể nói nó thể hiện cho ý chí của các bên tham gia hợp đồng, còn xếp loại nó vào cách thức dự trù của các nhà làm luật thì cũng không hợp lý, vì rõ ràng, không thể dự trù tất cả tập quán hay cụ thể tập quán tại địa phương nào trong mọi trường hợp được. Ngoài ra, vấn đề liên quan tới các tập quán nào được xác định là nguồn của luật vẫn còn nhiều quan điểm trái chiều. Thứ hai, về vấn đề phạm vi của chức năng giải thích này, việc quy định như theo Bộ luật dân sự 2005 có một điểm khá mập mờ, nếu chỉ đơn phương theo ngôn từ là bổ sung điều khoản theo tập quán, vậy thì là điều khoản đó được rút ra trong các tập quán được coi là nguồn hay là bổ sung điều khoản theo 2 cách phân loại ở trên trên cơ sở là tôn trọng nguyên tắc tập quán? Nhìn nhận khách quan, có thể đây là cách thức khá mạo hiểm đối với các thẩm phán. Vì vốn dĩ đảm bảo tính nguyên vẹn, không làm thay đổi nội dung của hợp đồng và lại đảm bảo các yêu tố tập quán như quy định theo Bộ luật dân sự 2005 là cực kỳ khó khăn. Ngoài ra, một điểm đáng chú ý về việc áp dụng chức năng giải thích bổ sung điều khoản cho hợp đồng, theo Vũ Văn Mẫu đó là theo án lệ, muốn gạt bỏ ra ngoài các đạo luật giải thích, thì các bên tham gia hợp đồng phải quy định trong hợp đồng về các điểm ấy ngược lại đối với các luật quy định ý chí mặc nhiên của các bên có thể được công nhận [38,tr.267]. Như vậy, theo cách diễn giải của Vũ Văn Mẫu có thể thấy, việc sử dụng biện pháp bổ sung điều khoản cho hợp đồng mặc nhiên nó không thể sử dụng một cách độc lập, mà cần nhiều vào việc xác định ý chí chung của các bên tham gia hợp đồng, hay xác định được tính chất, mục đích của hợp đồng, dựa vào sự phân loại, từ các yếu tố này và tính chất của điều khoản bổ sung mà thẩm phán xác định việc bổ sung điều khoản.
  • 29. 24 1.1.4. Ý nghĩa của Giải thích hợp đồng. Khi nghiên cứu hệ thống pháp luật các nước như hệ thống pháp luật của Pháp, Đức thì giải thích hợp đồng được hình thành một chế định bao gồm nhiều điều khoản, hay một số nước như Thái Lan, thì giải thích hợp đồng chỉ là một quy định với nhiều điều khoản. Tuy nhiên, nhìn chung trong hệ thống các nước theo truyền thống luật dân sự đều có sự tương đồng; ngoài ra, các quy định về giải thích hợp đồng theo một số các công ước chung như Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (năm 1980), Bộ luật Châu âu về hợp đồng, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 đều ghi nhận chế định giải thích hợp đồng là một chế định quan trọng. Điều đó cho thấy Giải thích hợp đồng là một yêu cầu điển hình và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để quan hệ hợp đồng được thực hiện thuận lợi trong thực tiễn. Về mặt lý luận hay thực tiễn, ý nghĩa thực tế của hoạt động giải thích hợp đồng bao gồm: Thứ nhất, về mặt lý luận, giải thích hợp đồng là một phần quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề hiệu lực của hợp đồng, vì như ta đã biết nội hàm hiệu lực của hợp đồng là một vấn đề pháp lý hết sức phức tạp và bao hàm nhiều vấn đề pháp lý có mối quan hệ biện chứng khác như quy định về việc thực hiện hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba, phân chia rủi ro, chấm dứt hợp đồng… và vì thế, giải thích hợp đồng là mắt xích không thể thiếu trong bất cứ một chế định về hợp đồng, ở bất kì hệ thống pháp luật nào. Thứ hai, trong thực tiễn, tình trạng những thỏa thuận thiếu vắng các nội dung cụ thể, quy định thiếu sót, không rõ nghĩa, chồng chéo hoặc vì có thể các bên sơ suất hoặc cố ý để ngỏ những điều khoản như vậy. Trong trường hợp có
  • 30. 25 tranh chấp, giải thích hợp đồng được nhắc đến như là một biện pháp tích cực để bổ túc những điểm thiếu sót trên. Thứ ba, Hợp đồng bản chất là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Để hợp đồng được xác lập và thực hiện trên thực tiễn cần có sự thống nhất của các bên chủ thể. Ý chí của các bên luôn phải được biểu hiện dưới một dạng thức nhất định, có thể là lời nói, hành vi hay văn bản. Từ ý chí của một chủ thể khi biến thành các hành vi thực hiện hợp đồng của các bên liên quan có thể dẫn đến cách hiểu không thống nhất. Việc dẫn đến tình trạng như vậy có thể xuất phát từ khi giao kết hợp đồng các bên không lường trước được phát sinh, rủi ro có thể xảy ra trong thực tế, dẫn đến giao dịch không được thực hiện. Vì vậy, giải thích hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để dung hòa ý chí của các bên chủ thể để sao cho hợp đồng tiếp tục được thực hiện. Bản chất của hoạt động này không nhằm thay đổi nội dung hợp đồng đã được thiết lập, nghĩa là không nhằm thay đổi sự thống nhất ý chí giữa các bên giao kết đó, mà chỉ nhằm làm sáng tỏ, rõ ràng ý chí chung đó. 1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VỀ GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG. 1.2.1. Các học thuyết phát triển các quy định về hoạt động giải thích hợp đồng. Như đã đề cập ở trên, quy định về các nguyên tắc cụ thể của hoạt động giải thích hợp đồng phát triển chủ yếu dựa trên các nền tảng học thuyết khác nhau về hợp đồng nên cách thức thể hiện và thứ tự ưu tiên các nguyên tắc là khác nhau. Học thuyết dựa trên nền tảng tự do ý chí để phát triển tư tưởng giải thích hợp đồng theo ý chí thật, học thuyết này đi sâu vào tâm lý bên trong của chủ thể, giải thích hợp đồng phải đáp ứng trước hết là là làm rõ ý đồ các bên (từ đây gọi là học thuyết ý chí thực)[28, tr.156]. Một học thuyết khác dựa trên trật tự pháp
  • 31. 26 lý nhằm bảo vệ quan hệ thương mại để phát triển tư tưởng giải thích hợp đồng theo ý chí tuyên bố, mà nền tảng là phân tích tới sự bộc lộ ra bên ngoài của ý chí (từ đây gọi là ý chí tuyên bố) [28, tr.156]; Ngoài hai học thuyết trên, người ta còn phát triển một học thuyết mang tên “chống lại bên đề nghị” mà được diễn đạt bằng thuật ngữ “contra proferentem” và Được hiểu chung là “giải thích hợp đồng chống lại bên soạn thảo”, có nghĩa là việc giải thích hợp đồng theo hướng bất lợi cho bên soạn thảo hợp đồng”[9, tr.380]. Học thuyết ý chí tuyên bố được phát triển rất sớm từ thời La Mã cổ đại, trước công nguyên, các luật gia ở các thế hệ đầu của La Mã đã đặt nền móng cho hoạt động giải thích hợp đồng thông qua các bài phát biểu nhấn mạnh đến việc xem xét quan trọng nhất đối với hoạt động này đó là việc đánh giá ý nghĩa cũng như nội dung của hợp đồng theo hình thức bên ngoài của sự thể hiện ý chí, khi giải thích hợp đồng phải dựa chủ yếu vào ngôn từ của hợp đồng. Học thuyết này có sức thuyết phục và phát triển mạnh mẽ vào nửa cuối thế kỷ XIX, đồng thời đi kèm với nó là những quan điểm phê phán và xem nhẹ học thuyết “ý chí”, ủng hộ học thuyết “ý chí tuyên bố”. Các ý kiến bảo vệ học thuyết này đi sâu vào việc đề cao mục đích bảo hộ các quan hệ thương mại, nội dung chủ yếu của học thuyết này cho rằng việc giải thích hợp đồng cần nhấn mạnh và ưu tiên xem xét phân tích những gì đã biểu thị trong hợp đồng. Ưu điểm của các diễn giải cho học thuyết này đó là giải thích hợp đồng khi đó sẽ đảm bảo tính ổn định tương đối của các quan hệ thương mại, đồng thời hạn chế được sự tùy tiện của các Thẩm phán khi giải thích hợp đồng và kiểm soát được hữu hiệu các giai đoạn của hoạt động này, không làm thay đổi nội dung của hợp đồng đó. Đến nay, học thuyết này còn ghi dấu ấn đậm nét ở một số nước, như được ghi nhận trong Bộ Luật dân sự Liên bang Nga, hay trong Bộ Luật dân sự Đức hay như trong thực tiễn xét xử
  • 32. 27 của Anh. Ví dụ như tại Điều 431 Bộ luật dân sự Nga quy định: “Tòa án trước hết chú ý giải thích nghĩa đen của từ ngữ cũng như các câu trong điều khoản, nếu nghĩa đen của của điều khoản không rõ ràng, cần liên hệ đối chiếu với các điều khoản khác và ý nghĩa của điều khoản nói chung; và nếu nội dung của hợp đồng vẫn chưa thể xác định, cần phải làm rõ ý định chung của các bên với mục đích của hợp đồng. Khi đó, phải lưu ý đến các tình tiết liên quan, bao gồm cả quá trình thương lượng, thói quen các bên đã xác lập với nhau, tập quán và cách xử sự sau đó của họ”, nội dung điều khoản đã thể hiện rõ sự ưu tiên học thuyết tuyên bố đối với hoạt động giải thích hợp đồng (phần này sẽ được phân tích kỹ hơn tại nội dung sau). Học thuyết ý chí thực được ra đời và xem xét muộn hơn so với học thuyết ý chí tuyên bố. Mãi đến thế kỉ thứ 3, các luật gia La Mã mà đại diện là Papinian lại đề cao ý chí thực của các bên và cho rằng điều quan trọng đầu tiên và trước hết của hoạt động giải thích hợp đồng đó là làm rõ ý đồ đích thực của các bên, hơn là căn cứ vào những gì các bên đã viết, học thuyết này phát triển mạnh mẽ và được các luật gia châu Âu phát triển thành học thuyết “ý chí thực”. Các ý kiến bảo vệ cho học thuyết này dựa trên lập luận ý chí đích thực của các bên khi tham gia một quan hệ là cơ sở cho mọi giao dịch, chỉ có ý chí chung và thực chất của các bên mới có thể làm căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của hợp đồng. Và theo đó, hậu quả pháp lý của hợp đồng phát sinh đều là do các bên tham gia hợp đồng mong muốn và hướng tới. Vì vậy, khi giải thích hợp đồng phải căn cứ căn nguyên vào ý chí ban đầu ấy mà giải thích nội dung hoặc bổ sung điều khoản cho hợp đồng. Tuy nhiên, đối với các luật gia ủng hộ thuyết ý chí tuyên bố cho rằng việc tìm được “ý chí thực” của các bên tham gia hợp đồng là điều bất khả thi và đó cũng chính là điểm hạn chế lớn nhất đối với học thuyết này. Hiện nay,
  • 33. 28 pháp luật một số nước vẫn ghi nhận học thuyết “ý chí thực” căn bản phát triển các nguyên tắc giải thích hợp đồng là Bộ luật dân sự của Pháp, Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, Luật dân sự Nhật Bản và phần nào đó là Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam. Ví dụ tại Điều 132 của bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan quy định: “Trong khi giải thích một tuyên bố ý định, cần xem xét đến ý định thật sự của tuyên bố đó chứ không câu nệ đến chữ nghĩa, lời văn”. Ngoài ra, một học thuyết nữa được phát triển để làm cơ sở căn cứ phát triển và xây dựng các nguyên tắc của hoạt động giải thích hợp đồng đó là học thuyết mang nội dung “chống lại bên đề nghị” mà được diễn đạt bằng thuật ngữ “contra proferentem” (tiếng anh là against the offeror) và được hiểu chung là giải thích hợp đồng chống lại bên soạn thảo, có nghĩa là việc giải thích hợp đồng theo hướng bất lợi cho bên soạn thảo hợp đồng, theo Phó Giáo sư Ngô Huy Cương thì trong quan hệ hợp đồng có thể có vị trí không ngang bằng nhau, chẳng hạn như trong hợp đồng gia nhập một bên yếu thế hơn không được tự do thương lượng với bên kia là người soạn thảo hợp đồng [9,tr.380-381], từ đó vai trò của luật là cân bằng sự chênh lệch nàykhi xảy ra trong thực tiễn. Có thể thấy, tuy phân tích nhìn nhận và phân tích các học thuyết, các luật gia đều đưa ra các lập luận và ủng hộ cho học thuyết ý chí thực hoặc ý chí tuyên bố, tuy nhiên có thể thấy khó có thể tìm được cách thức thể hiện độc lập các nguyên tắc giải thích hợp đồng mà không có sự pha trộn giữa các học thuyết, nhiều luật gia cũng đưa ra quan điểm dung hòa hai học thuyết và nhấn mạnh tầm quan trọng của cả “ý chí thực” và “ý chí tuyên bố”, theo đó cố găng tận dụng các ưu điểm để bù khuyết các nhược điểm của cả hai học thuyết này. Một trong những ý kiến đó là của Konrad Zweigert và Hein Koetz khi cho rằng không thể tìm được dạng thuần khiết của cả hai học thuyết này [66,tr.401]; trong khi đó
  • 34. 29 Giáo sư luật học người Nga Ioffe nhấn mạnh “ý chí thực và ý chí tuyên bố đều quan trọng như nhau. Sự thống nhất giữa ý chí và thể hiện ý chí là mục đích mà luật pháp hướng tới. Sự thống nhất đó phải được coi là yếu tố bắt buộc không thể thiếu để giao dịch có hiệu lực”[28, tr.252]. 1.2.2. Các phƣơng pháp căn bản xây dựng các nguyên tắc giải thích hợp đồng và vận dụng các nguyên tắc trong thực tiễn. Dựa trên các học thuyết phát triển tùy thuộc đặc thù nền tài phán mà các nhà lập pháp xây dựng các quy định về hoạt động giải thích phù hợp với thực tiễn và học lý, mặc dù xoay quanh việc xác định ý chí chung hay ý chí tuyên bố và coi việc tìm yếu tố còn lại là yếu tố bổ trợ, hoặc kết hợp cả các biện pháp nhằm tìm cả ý chí chung và ý chí tuyên bố một hợp lý tuy nhiên về cơ bản các biện pháp để giải thích hợp đồng về căn bản dựa trên một số các phương pháp cơ bản như sau: Thứ nhất, phương pháp chú giải. Theo các nền tài phán đề cao học thuyết ý chí thực thì đây là phương pháp chú trọng đến sự khám phá ý chí của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Có ba cách để tìm hiểu ý chí thực thông qua phương pháp này đó là: 1) Trước một điều khoản tối nghĩa, mập mờ hoặc thiếu sót điều khoản thẩm phán có thể dựa vào các quy định của luật quy định về loại hợp đồng đó hay các điều khoản được xây dựng sẵn cho loại hợp đồng đó tùy vào từng trường hợp mà bổ sung cho phù hợp (phân loại điều khoản bổ sung đã được phân tích tại phần chức năng của giải thích hợp đồng) hoặc nhiều nền tài phán còn phụ thuộc vào thái độ hành vi thực hiện hợp đồng trong giai đoạn tiền hợp đồng, các quy ước hai bên đã có...
  • 35. 30 2) Thẩm phán cũng có thể căn cứ vào tập quán hoặc án lệ, tùy theo cách thức quy định của nền tài phán đó. 3) Thẩm phán dựa vào tinh thần toàn bộ nội dung của hợp đồng, xem xét mối liên hệ giữa các điều khoản khác trong hợp đồng, dựa vào mối liên hệ đó trên cơ sở toàn thể hợp đồng để giải thích khi điều khoản có những khuyết điểm. Thứ hai, phương pháp giải thích theo từng giai đoạn giao kết hợp đồng, trong quá trình thực hiện hợp đồng và sau khi thực hiện. Phương pháp này chú trọng đến việc tìm hiểu khi xây dựng hợp đồng các bên giao kết muốn đạt được mục đích gì khi điều khoản đó được đưa vào hợp đồng, có so sánh với một chuẩn mực nhất định (ví dụ như UNIDROIT quy định theo cách hiểu thông thường của một người bình thường …), theo đó một điều khoản một điều khoản có thể có những nghĩa khác đi tuy giai đoạn phụ thuộc vào các giai đoạn khác nhau của hợp đồng đó, theo đó thẩm phán đôi khi có thể tìm ra cho điều khoản một ý nghĩa mà chính người xây dựng chưa nghĩ đến. Tuy nhiên để tránh lạm dụng, thì phương pháp này cần phải được kiểm soát một cách có hiệu quả tùy theo cách thức quy định của mỗi nền tài phán khác nhau (hiện tại ở Việt Nam chưa có quy định cụ thể về vấn đề kiểm soát này, ý kiến kiến nghị bổ sung sẽ được phân tích tại chương 3 của luận văn). Thực tế, phương pháp này còn được hỗ trợ trong quá trình giải thích hợp đồng nhằm thực hiện nhiệm vụ bổ sung lỗ hổng của hợp đồng. Đó là tạo lập các điều khoản bổ sung vào hợp đồng nhằm mục tiêu công bình đối với các bên tham gia hợp đồng hoặc điều hòa lợi ích giữa các bên. Để có thể áp dụng các phương pháp này trong thực tiễn, các thẩm phán có thể sử dụng một số kỹ thuật áp dụng thông dụng như: kỹ thuật suy luận tương tự, kỹ thuật suy luận đối nghịch, kỹ thuật suy luận quy nạp và diễn dịch.
  • 36. 31 Đối với kỹ thuật suy luận tương tự, thẩm phán sẽ căn cứ vào một trường hợp đã được giải quyết minh bạch và được ghi nhận để đem giải pháp đó áp dụng cho trường hợp tương tự mà hợp đồng đó không dự liệu. Nguyên tắc chính yếu trong kỹ thuật này là lấy sự tương đồng của hai trường hợp làm căn bản, một trường hợp do hợp đồng quy định và trường hợp còn thiếu hụt trong các điều khoản của hợp đồng hoặc nội dung hợp đồng không rõ ràng. Phương pháp hay kỹ thuật suy luận đối nghịch. Trái với phương pháp trên, phương pháp suy luận đối nghịch căn cứ vào tính cách đối nghịch của hai trường hợp, một trường hợp đã được hợp đồng quy định cụ thể, theo đó khi một điều gì đã được hợp đồng quy định bằng cách cho phép thì điều trái ngược có thể được suy diễn bị cấm đoán hoặc khi hợp đồng đã cấm đoán một điều gì thì điều trái ngược có thể không bị cấm đoán. Theo mạch suy diễn như vậy, mở rộng ra các thẩm phán cũng có thể xem xét tới kỹ thuật suy luận tất nhiên, mở rộng phạm vi áp dụng một điều khoản cho một trường hợp không được dự liệu, khi dự mở rộng đó là một sự kiện tất nhiên (mặc dù cần thận trọng về vấn đề quan hệ nội hàm ngoại diên của kỹ thuật này). Phương pháp hay kỹ thuật suy luận theo phép quy nạp và diễn dịch. Thẩm phán khi sử dụng phương pháp này sẽ căn cứ vào một số trường hợp tương tự đã được quy định hoặc án lệ đã có rồi lập thành một số quy tắc tổng quát. Đó là giai đoạn quy nạp, đi từ trường hợp cá biệt đến một nguyên tắc tổng quát. Sau khi đã nêu được quy tắc tổng quát rồi, thẩm phán có thể đem áp dụng quy tắc đó vào trường hợp cần giải quyết. Đó là giai đoạn diễn dịch từ từ một quy tắc tổng quát đến một trường hợp cá biệt. 1.2.3. Quy định về giải thích hợp đồng ở một số nƣớc và theo pháp luật của Việt Nam.
  • 37. 32 Theo quy định tại Bộ luật dân sự Pháp (hay còn gọi là Bộ luật Napoleon), các quy định về giải thích hợp đồng được thể hiện tại tại mục V, bao gồm 9 điều (từ điều 1156 đến điều 1164) ngoài ra còn có một quy định riêng tại Điều 1602 quy định về giải thích hợp đồng mua bán nhà. Về mặt nội dung, có thể thấy, theo Bộ luật dân sự Pháp thì cơ sở để phát triển các quy định về giải thích hợp đồng dựa trên học thuyết ý chí thực của các bên tham gia giao kết hợp đồng, điều này được thể hiện ngay tại Điều 1156:“Khi giải thích hợp đồng, cần phải hiểu ý định chung của các bên hơn là xem xét nghĩa của từ ngữ”. Ngoài ra, cũng có phân tích các điều khoản xác định ngôn từ, điều khoản khác nhằm tìm ý định chung của các bên tham gia hợp đồng là các yếu tố nội tại của hợp đồng, nhằm phân biệt với các yếu tố ngoại tại [38, tr.62-63] Tuy nhiên, khó có thể khẳng định rằng mục đích hướng tới của hoạt động giải thích hợp đồng theo Bộ luật dân sự Pháp chỉ nhằm tìm ra ý chí thực chất. Một số điều khoản đã chỉ rõ các nguyên tắc nhằm tìm ý chí tuyên bố của các bên, khẳng định trên được thể hiện bao quát đối với các quy định chung về hợp đồng như tại Điều 1153: “các bên không chỉ bắt buộc thực hiện những gì đã được nói rõ trong hợp đồng mà còn tuân theo nguyên tắc “công bằng, thông lệ hoặc pháp luật” tùy theo bản chất quan hệ nghĩa vụ. Cụ thể đối với hoạt động giải thích hợp đồng mà mục đích nhằm tìm ý chí chung được thể hiện ở các điều khoản như tại Điều 1158: “Từ ngữ nào có thể hiểu theo hai nghĩa thì phải được giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với bản chất hợp đồng”, Điều 1159: “Nếu có điều khoản không rõ ràng thì giải thích theo tập quán nơi hợp đồng được giao kết”. Theo cách hiểu bao quát với cách thức thể hiện của Bộ luật dân sự Pháp, có thể nhận thấy, đối với hoạt động giải thích hợp đồng thì các điều khoản xác định ý
  • 38. 33 chí tuyên bố chỉ được áp dụng sau khi không thể tìm được ý chí chung của các bên tham gia hợp đồng, và đó là các biện pháp hỗ trợ cho việc tìm ý chí chung. Cách thức tiếp cận vấn đề giải thích hợp đồng của Nhật Bản cũng có sự tương đồng đáng kể với Bộ luật dân sự của Pháp, mặc dù cách thức thể hiện sự ưu tiên ý chí thực của các bên của các luật gia Nhật Bản còn khá hạn chế. Dường như, việc xác định ý chí thực của các bên chỉ có ý nghĩa trên lý thuyết còn thực tiễn thì xác định ý chí tuyên bố là cách thức hiệu quả hơn. Theo X.Vacaxum và T.Aritdumi: “khi giải thích giao dịch dân sự trước hết cần làm rõ ý đồ thực chất của các bên. tuy nhiên, bất chấp tầm quan trọng của vấn đề, trên thực tế đó là việc nhiều khi không thể thực hiện được, ngoài ra không hiếm khi các bên hợp đồng có ý đồ khác nhau. Cho nên khi giải thích giao dịch dân sự có thể chỉ cần lưu ý hình thức bên ngoài của sự thể hiện ý chí của các bên để xem xét ý nghĩa của các hành vi về mặt xã hội [64,tr.119-120]. Ngoài ra, trong Bộ luật dân sự và thương mại của Thái Lan dường như cùng cách thức tiếp cận khi quy định tại Điều 132: “Trong khi giải thích một tuyên bố ý định, cần xem xét đến ý định thật sự của tuyên bố đó chứ không câu nệ đến chữ nghĩa, lời văn”. Đối với Liên bang Nga, vấn đề ý chí thực chất hay ý chí tuyên bố luôn là đề tài gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu pháp lý. Trong thực tiễn thể hiện về mặt lập pháp, cách thể hiện các quy định này trong Bộ luật dân sự Liên bang Nga 1994 ghi nhận hoạt động giải thích hợp đồng dựa trên nền tảng học thuyết ý chí tuyên bố. Điều 431 quy định: “Tòa án trước hết chú ý giải thích nghĩa đen của từ ngữ cũng như các câu trong điều khoản, nếu nghĩa đen của của điều khoản không rõ ràng, cần liên hệ đối chiếu với các điều khoản khác và ý nghĩa của điều khoản nói chung; và nếu nội dung của hợp đồng vẫn chưa thể xác định, cần phải làm rõ ý định chung của
  • 39. 34 các bên với mục đích của hợp đồng. Khi đó, phải lưu ý đến các tình tiết liên quan, bao gồm cả quá trình thương lượng, thói quen các bên đã xác lập với nhau, tập quán và cách xử sự sau đó của họ” . Theo cách quy định tại Điều 431 có thể thấy cách nhà lập pháp của Nga đã chú ý phân tách thứ tự ưu tiên rõ ràng của hai học thuyết, theo đó, việc sử dụng các biện pháp tìm ý chí tuyên bố của hợp đồng được ưu tiên áp dụng trước, chỉ khi không thể tìm được ý chí tuyên bố của hợp đồng thì mới xác định ý chí thực chất của các bên tham gia, tuy nhiên việc tìm ý chí thực chất này cũng nằm trong sự hạn chế nhất định khi mà áp dụng cần phải gắn liền với tính chất và mục đích của hợp đồng, và phải xác định trong mối liên hệ với các tình tiết liên quan bao gồm cả quá trình thương lượng, thói quen các bên đã xác lập với nhau, tập quán và cách xử sự của các bên. Theo các luật gia của Nga việc quy định theo Bộ luật dân sự Nga có nhiều ưu điểm về mặt lý thuyết như (1) có thể đảm bảo tính ổn định của các quan hệ hợp đồng (hợp pháp) đã được xác lập, (2) góp phần nâng cao ý nghĩa của văn bản hợp đồng trong việc điều chỉnh quan hệ nghĩa vụ, đồng thời định hướng cho các bên tham gia giao kết hợp đồng phải chú ý hơn tới việc soạn thảo kỹ lưỡng nội dung hợp đồng [28,tr.156]. Tuy nhiên,có thể thấy, cách thức tiếp cận và cơ sở học thuyết này cũng thể hiện phần nào thể hiện sự hạn chế, đó là làm hạn chế đi sự tự do thể hiện ý chí, đôi khi quá lạm dụng yêu cầu đảm bảo tính ổn định của quan hệ hợp đồng mà một số trường hợp hoạt động giải thích hợp đồng làm thay đổi phần nào bản chất ý chí thực và các nội dung trong hợp đồng đó. Đối với Vương quốc Anh, trong thực tiễn xét xử, hoạt động giải thích hợp đồng thì học thuyết ý chí tuyên bố đóng vai trò chủ đạo. Căn cứ quan trọng nhất để giải thích hợp đồng là những biểu hiện bên ngoài của nó, cơ sở để khẳng định
  • 40. 35 như vậy bắt nguồn từ nhận xét cho rằng: “nếu hợp đồng đã được giao kết bằng văn bản, thì về nguyên tắc các bên tham gia giao kết chỉ bị ràng buộc bởi văn bản đó và bằng văn bản đó thôi. Điều đó cũng có nghĩa, trong trường hợp giải thích hợp đồng bằng văn bản, mọi chứng cứ bằng lời dẫn tới việc thay đổi hoặc bổ sung nội dung văn bản hợp đồng sẽ không được Tòa án chấp nhận, dù cho những chứng cứ ấy thực sự phản ánh ý muốn đích thực của các bên vào thời điểm họ tham gia giao kết. Tuy nhiên, nguyên tắc chung vẫn có ngoại lệ. Đó là những trường hợp hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, chứng cứ bằng lời sẽ được Tòa án xem xét với mục đích để làm rõ ý nghĩa của ngôn từ hoặc điều khoản đó của hợp đồng” [28, tr.128]. Bên cạnh đó, ngoài sự ưu tiên cho học thuyết ý chí tuyên bố, trong thực tiễn xét xử ở Anh các luật gia còn đi sâu và phát triển hệ thống các “quy tắc mặc định” (implied term, implied condition), các quy tắc này được tạo ra để đảm bảo chức năng bổ sung cho các thiếu sót, lỗ hổng của hợp đồng trong hoạt động giải thích. Các quy tắc được tạo ra hoặc vận dụng từ các nguồn đa dạng của luật, như trong khuôn khổ pháp luật thành văn, hoặc hình thành từ tập quán, và cũng có thể tìm được trong khuôn khổ pháp luật thành văn. Ngoài ra, một biện pháp nữa được áp dụng đối với hoạt động giải thích hợp đồng ở Anh đó là sử dụng các biện pháp xoay quanh các diễn giải từ nguyên tắc thiện chí và trung thực (good faith). Các nguyên tắc này được tạo ra nhằm giải quyết một vấn đề thực tiễn phát sinh, tùy từng trường hợp, Tòa án sẽ sử dụng một cách linh hoạt và phù hợp với thực tiễn để bổ sung lỗ hổng cho hợp đồng. Đối với pháp luật của Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động Giải thích hợp đồng, ngay từ những bộ luật dân sự Nam Kỳ giản yếu 1883, Bộ dân luật Bắc kỳ 1931 và Bộ dân luật Trung kỳ 1936 (Hoàng việt Trung kỳ hộ
  • 41. 36 luật) đã có những quy định cụ thể về vấn đề này. Về cơ bản, các nguyên tắc của giải thích hợp đồng được quy định trong các Bộ luật này chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Bộ dân luật của Pháp cho nên trong các quy định cũng thể hiện nền tảng học thuyết ý chí thực để xây dựng và phát triển. Điều 691 Bộ dân luật Bắc kỳ quy định và Điều 732 Bộ dân luật Trung kỳ quy định cụ thể: “khám phá ra ý chí chung của những người kết ước hơn là nghĩa đen từng chữ”. Trong giai đoạn sau năm 1945, sau thời gian đầu tạm sử dụng một số luật lệ hiện hành ở Bắc – Trung – Nam cho đến lúc ban hành những bộ luật duy nhất cho toàn quốc điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực tư, và trải qua một giai đoạn dài áp dụng các quy định khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh tế của đất nước, do các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, cho đến khi bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời thì vấn đề giải thích hợp đồng mới lại được nhắc đến và quy định tại Điều 125 Giải thích giao dịch dân sự và Điều 408 Giải thích hợp đồng dân sự “Điều 125 Giải thích giao dịch dân sự: 1. Việc giải thích giao dịch dân sự phải căn cứ vào ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dịch và mục đích của giao dịch đó. 2. Trong trường hợp giao dịch dân sự có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch, theo tập quán nơi giao dịch được xác lập, nếu bên mạnh thế về kinh tế đưa vào giao dịch dân sự nội dung bất lợi cho bên yếu thế về kinh tế, thì khi giải thích giao dịch dân sự phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế.” “Điều 408. Giải thích hợp đồng dân sự: 1- khi một hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó.
  • 42. 37 2. Khi một điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa, thì phải chọn nghĩa nào làm cho điều khoản đó khi thực hiện có lợi nhất cho các bên. 3. Khi một hợp đồng có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với tính chất của hợp đồng. 4. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu, thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng. 5. Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản không thuộc nội dung chủ yếu, thì có thể bổ sung theo tập quán đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng. 6. Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng. Có thể nhận thấy, việc quy định về các nguyên tắc giải thích hợp đồng tại điều 408 của Bộ luật dân sự 1995 còn mang tính tập trung liệt kê, và chưa thể hiện được rõ nền tảng học thuyết của quy định là xuất phát từ ý chí thực hay ý chí tuyên bố. Như tại quy định được xem là quy định chung tại Điều 135 (về mối quan hệ giữa Giải thích hợp đồng và giải thích giao dịch dân sự sẽ được phân tích cụ thể đối với Bộ luật dân sự 2005). Như vậy, liệu ta có thể coi Điều 135 là các quy định mang tính định hướng chung về nền tảng học thuyết phát triển cụ thể các nguyên tắc giải thích hợp đồng hay không? câu hỏi này dường như vẫn chưa có câu trả lời thích đáng vì hầu như các công trình nghiên cứu về hoạt động giải thích hợp đồng chủ yếu vẫn chỉ dừng lại xem xét các quy định tại Điều 408 và nhận xét tổng quan.
  • 43. 38 Đối với BLDS 2005, dường như đã kế thừa cách thức thể hiện tại Bộ luật dân sự 1995, và tất nhiên hạn chế của Bộ luật dân sự 1995 cũng chưa được giải quyết triệt để đối với quy định chung tại Điều 409 và mối liên hệ tưởng quan giữa Điều 126 và Điều 409. Cụ thể: Điều126, Bộ luật dân sự 2005 quy định về giải thích giao dịch dân sự: “1. Trong trường hợp giao dịch dân sự cụ thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây: a) Theo ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dich; b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch; c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập...” Điều 409, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 quy định riêng cho giải thích hợp đồng: “1. Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó; 2. Khi một điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa thì phải chọn nghĩa nào làm cho điều khoản đó khi thực hiện có lợi nhất cho các bên. 3. Khi hợp đồng có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì phải giải thích phù hợp nhất với tính chất của hợp đồng. 4. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng. 5. Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản thì có thể bổ sung theo tập quán đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng.
  • 44. 39 6. Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng. 7. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để giải thích hợp đồng. 8. Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế.” Như vậy, cũng gần như Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 cũng thể hiện vấn đề giải thích hợp đồng ở mối liên hệ tại 2 điều khoản, tuy nhiên cách thể hiện có vẻ sự thể hiện không được đồng nhất như chính cách thể hiện mối liên hệ giữa giao dịch dân sự và hợp đồng trong bộ luật này. Sở dĩ nhận định ta Điều 126 cũng quy định về Giải thích hợp đồng (cũng như Điều 125 tại Bộ luật dân sự 1995) trên cơ sở suy luận Điều 126 thể hiện các nguyên tắc giải thích hợp đồng như là cái chung, còn quy định tại Điều 409 là cái riêng, nằm trong sự tương thuộc với giải thích giao dịch dân sự. Xuất phát của nhận định trên là tại Điều 121 của Bộ Luật dân sự 2005 quy định rõ: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (ở đây ta không bàn tới sự bất hợp lý của thuật ngữ “giao dịch dân sự” trong Bộ luật dân sự 2005 và sự thay thế đối với thuật ngữ “hành vi pháp lý – juridical acts hay còn được hiểu là giao dịch pháp lý” theo cách hiểu chung nhất hiện nay – sau đây thống nhất sử dụng thuật ngữ giao dịch dân sự). Mặc dù các nhà xây dựng Bộ luật dân sự 2005 đã quy định thêm trường hợp ngoại lệ đối với giải thích hợp đồng và giải thích di chúc tại