SlideShare a Scribd company logo
1 of 104
LUẬN VĂN:
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc
theo quy định của Bộ luật dân sự"
mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn
hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú thì vấn
đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp. Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 quy định các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhưng việc
hiểu và áp dụng những quy định đó trong việc giải quyết phân chia di sản thừa kế theo di
chúc trên thực tế còn nhiều bất cập. Những khó khăn thường được thể hiện trong việc xác
định phải có những điều kiện gì thì di chúc mới được coi là hợp pháp, điều kiện của người
lập di chúc, ý chí của người lập di chúc, nội dung của di chúc và hình thức của di chúc.
Trong thực tiễn thì các quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc còn
có những cách hiểu khác nhau, dẫn tới việc nhận định và quyết định không giống nhau của
một số bản án giải quyết cùng một vụ án tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm làm rõ những quy định của pháp luật về các điều kiện
có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm
2005 là đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu đề tài, tác
giả cũng muốn xác định ý nghĩa của chế định về quyền thừa kế nói chung và thừa kế theo
di chúc nói riêng. Với việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn hoàn thiện hơn nữa những quy
định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhằm mục đích nâng cao hơn nữa
hiệu quả điều chỉnh của những quy định này trong Bộ luật dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cũng như thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc nói chung và các điều kiện
có hiệu lực của di chúc nói riêng đã được hầu hết các luật gia, các nhà lập pháp của các
nước trên thế giới nghiên cứu. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, Bộ luật dân sự của các nước
đều quy định về quyền định đoạt bằng di chúc của chủ sở hữu tài sản nhằm chuyển dịch tài
sản của mình cho người khác. Quyền định đoạt bằng di chúc là quyền dân sự được Nhà
nước bảo hộ, được ghi nhận trong Hiến pháp của Nhà nước ta và của các nước khác trên
thế giới.
ở nước ta, việc nghiên cứu về thừa kế theo di chúc nói chung và nghiên cứu về các
điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng đã có từ xa xưa. Chúng ta có thể kể đến nhiều
bộ luật như: Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung Kỳ...
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các điều kiện có hiệu lực của di
chúc cũng đã được các nhà lập pháp nghiên cứu, nhưng những quy định đó còn đơn giản
và chưa đầy đủ. Trong số các loại văn bản này, đáng chú ý là Thông tư số 81-TATC ngày
24-7-1981 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp thừa kế (đúc kết
từ thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân) và Pháp lệnh Thừa kế ngày 10-9-1990. Chỉ
khi Bộ luật dân sự năm 1995 được ban hành thì vấn đề các điều kiện có hiệu lực của di
chúc mới được quy định rõ ràng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Bộ luật này,
cũng còn nhiều vấn đề cần phải trao đổi.
Về kết quả nghiên cứu của các luật gia: Tính đến thời điểm hiện nay cũng đã có
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thừa kế, nhưng chỉ có một số ít công trình nghiên
cứu về thừa kế theo di chúc. Đáng chú ý trong các công trình nghiên cứu này, phải kể đến
đề tài: "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay" của tiến sĩ
Phùng Trung Tập; đề tài: "Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt
Nam" của tiến sĩ Phạm Văn Tuyết; cuốn sách: "Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân
sự Việt Nam" của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện... Tuy nhiên, những công trình trên không
nghiên cứu riêng và có tính hệ thống về các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
Nhận thức được vấn đề này, tác giả luận văn đã nghiên cứu trong một diện hẹp về
các điều kiện có hiệu lực của di chúc để nhằm làm sáng tỏ việc xác định các điều kiện có
hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm
2005. Với kết quả nghiên cứu của đề tài: "Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy
định của Bộ luật dân sự" sẽ giúp các cơ quan lập pháp ban hành các văn bản dưới luật để
hoàn thiện những quy định về điều kiện có hiệu lực của di chúc, đồng thời giúp các cơ
quan áp dụng pháp luật trong việc nhận thức đúng đắn và toàn diện khi giải quyết những
tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nội dung của luận văn không nghiên cứu toàn diện những quy định của pháp luật
về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng, mà chỉ tập trung nghiên cứu về các
điều kiện có hiệu lực của di chúc được quy định trong Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 và có sự đối chiếu với những quy định tương ứng trong Bộ
luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 (có hiệu lực kể từ ngày 1-
1-2006). Qua đó, tác giả so sánh, đối chiếu với những quy định pháp luật trước khi Bộ luật
dân sự được ban hành để làm nổi bật tính hiện đại của những quy định về các điều kiện có
hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Mặt
khác, đề tài cũng có sự so sánh (ở diện hẹp) về các điều kiện có hiệu lực của di chúc ở các
nước như Nhật Bản, Cộng hòa Pháp với Việt Nam để làm nổi bật những nét đặc thù và
tính hiện đại của pháp luật Việt Nam quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
Trong quá trình nghiên cứu, một số các quy định của pháp luật có liên quan đến
nội dung của đề tài cũng được tìm hiểu như: Năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự, giao dịch dân sự... theo pháp luật dân sự Việt Nam để có sự so sánh, đối chiếu, với
mục đích làm nổi bật những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc theo quy định của pháp luật ở Việt Nam.
- Luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống và toàn diện từng điều kiện có hiệu
lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005,
hiệu quả điều chỉnh của những quy định pháp luật về các điều kiện đó. Luận văn tìm ra
những điểm phù hợp với đời sống xã hội và những điểm cần phải bổ sung các quy định về
các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.
- Qua nghiên cứu, tác giả luận văn có những kiến nghị nhằm hoàn thiện một bước
những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc, giúp các nhà lập
pháp bổ sung những quy định còn thiếu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc để đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội trong quan hệ thừa kế nói chung và thừa kế theo di
chúc nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, những phương pháp khoa học khác như:
So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà
đề tài đã đặt ra.
Một số vụ án giải quyết tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc cũng
được sử dụng có chọn lọc để bình luận và các số liệu thống kê của ngành Tòa án nhân dân
cũng được tham khảo để việc nghiên cứu được toàn diện và sâu sắc hơn.
6. Kết quả đạt được và những điểm mới của luận văn
- Luận văn phân tích có hệ thống những quy định pháp luật về các điều kiện có
hiệu lực của di chúc. Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra những quy định phù hợp với quan hệ
thừa kế theo di chúc và những điểm còn bất cập về các điều kiện có hiệu lực của di chúc
trong Bộ luật dân sự năm 1995, những điểm cần hướng dẫn thực hiện theo Bộ luật dân sự
năm 2005.
- Kết quả nghiên cứu đề tài, tác giả đã có những điểm mới sau đây:
+ Đây là đề tài khoa học được nghiên cứu lần đầu tiên ở nước ta ở cấp thạc sĩ luật
học.
+ Luận văn hệ thống hóa được những quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực
của di chúc ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, làm cơ sở để nghiên cứu toàn diện và hệ
thống những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc được quy
định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Luận văn chỉ ra những hạn chế, những vấn đề còn thiếu của những quy định
pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995, phân tích
những quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
năm 2005, qua đó có những kiến nghị khoa học nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật
về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Luận văn chỉ ra được những bất cập trong việc hiểu không đúng các quy định
pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời
có những kiến nghị để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành những văn bản
hướng dẫn cần thiết.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 10 mục.
Chương 1
Khái quát chung về di chúc
1.1. Vài nét về thừa kế và quyền thừa kế
Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ thừa kế đã tồn tại như
một yếu tố khách quan. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất
hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Thừa kế và để lại thừa kế mặc dù
chưa được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, nhưng nó vẫn tồn tại một cách khách
quan trong xã hội. ở thời kỳ này, quan hệ thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống và do
những phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu
và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khi có tư hữu, nhà nước ra đời,
quyền thừa kế được pháp luật quy định, bảo vệ. Mỗi nhà nước khác nhau có hệ thống
những quy phạm pháp luật về thừa kế khác nhau. Pháp luật thừa kế thể hiện rõ bản chất
giai cấp. Quyền thừa kế với tư cách là một chế định pháp luật, luôn gắn liền với một nhà
nước nhất định.
Trong chế độ phong kiến và tư bản, giai cấp bóc lột chiếm hữu hầu hết tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội. Các quy định của pháp luật thừa kế phong kiến và tư bản đảm bảo
sự chuyển dịch tài sản từ người bóc lột này sang người bóc lột khác. Qua việc chuyển dịch
tài sản bằng hình thức thừa kế, giai cấp tư sản, giai cấp phong kiến duy trì sự thống trị cả
về chính trị và kinh tế. Bằng công cụ pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng,
giai cấp bóc lột duy trì sự thống trị xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác qua việc nắm giữ
các tư liệu sản xuất, để từ đó nắm giữ thành quả lao động của xã hội. Có thể nhận thấy
rằng, bản thân thừa kế không tạo ra quyền thống trị cho giai cấp bóc lột mà nó chỉ duy trì
quyền lực đó mà thôi.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân lao động. Vì vậy,
pháp luật thừa kế trước hết đảm bảo cho công dân yên tâm lao động, sản xuất, hưởng thành
quả lao động của mình và có quyền để lại thành quả lao động đó cho người khác theo di
chúc hoặc theo pháp luật khi người đó chết. Pháp luật về thừa kế trong chế độ xã hội chủ
nghĩa đã động viên, khuyến khích được nhân dân trong việc tạo ra nhiều sản phẩm cho xã
hội.
1.2. Di chúc và đặc điểm của di chúc
1.2.1. Di chúc
Theo quy định tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 và Điều 646 Bộ luật dân sự
năm 2005: "Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết". Di chúc chính là phương tiện để phản ánh ý chí của người có tài
sản trong việc định đoạt tài sản của họ cho người khác hưởng sau khi người lập di chúc
chết. Một người có thể có nhiều bản di chúc định đoạt một loại tài sản và những di chúc
này đều thể hiện ý chí tự nguyện của họ, phù hợp với những quy định của pháp luật nhưng
không phải tất cả các di chúc trên đều phát sinh hiệu lực mà di chúc có hiệu lực pháp luật
là di chúc thể hiện ý chí sau cùng của người lập di chúc.
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định. Theo quy định
tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 649 Bộ luật dân sự năm 2005), di chúc được
thể hiện dưới hai hình thức: Di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Pháp luật chỉ cho
phép người lập di chúc miệng trong những trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 654
Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2005). Về chữ viết trong di chúc
cũng được pháp luật quy định: Đối với người dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng
chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.
Với những quy định trên, pháp luật dân sự nước ta đã có những quy định cụ thể về
di chúc. Cùng chung sống trên đất nước ta gồm có nhiều dân tộc, nên pháp luật dân sự
cũng đã tính đến yếu tố lịch sử, nhận thức… tạo điều kiện cho mọi cá nhân thực hiện
quyền lập di chúc, nếu cá nhân đó có năng lực lập di chúc theo luật định.
Đối với di chúc bằng văn bản, pháp luật quy định có 4 loại di chúc bằng văn bản:
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm
chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của
ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được
chứng nhận, chứng thực.
Quyền của người lập di chúc được pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự
năm 1995, bao gồm những quyền sau:
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Trong thực tế thì không phải bất cứ người lập di chúc nào cũng thực hiện đúng các
quyền được ghi nhận trên, hoặc là sử dụng một phần, hoặc lại sử dụng quá cả phần quyền
được pháp luật quy định. Về thực hiện quyền phân định di sản thì người lập di chúc cũng có
sự phân định di sản khác nhau: Có di chúc chỉ phân định một phần di sản cho người thừa kế,
còn một phần di sản di chúc không nhắc đến. Trên thực tế cũng có những di chúc định đoạt cả
phần tài sản của người khác (thường là định đoạt toàn bộ tài sản chung vợ chồng). Trong
trường hợp này, di chúc chỉ có hiệu lực một phần tương ứng với di sản của người lập di chúc.
Theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp thì di chúc có nhiều điểm tương tự như
pháp luật dân sự nước ta, được thể hiện:
Điều 895 quy định: "Di chúc là một chứng thư theo đó người để lại di chúc định
đoạt sau khi chết, một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình, người đó có thể hủy bỏ di chúc"
[5].
Điều 967 quy định: "Mọi người đều có thể định đoạt bằng di chúc để lập thừa kế
hoặc để di tặng hoặc được gọi bằng bất cứ tên nào khác để thể hiện ý chí của mình" [5].
Điều 969 quy định: "Di chúc có thể viết tay, lập công chứng thư hoặc di chúc bí
mật" [5].
Còn Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định di chúc tuy có những đặc trưng riêng,
nhưng về cơ bản các quy định cũng tương tự như Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp.
Pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp và pháp luật dân sự Nhật Bản còn có quy
định hình thức của di chúc bí mật. Bản chất của di chúc bí mật tương tự như di chúc được
lập tại công chứng nhà nước ở nước ta, nhưng có thủ tục chặt chẽ hơn (chúng tôi xin phân
tích kỹ hơn ở phần hình thức của di chúc).
1.2.2. Đặc điểm của di chúc
Di chúc có những đặc điểm riêng biệt so với các giao dịch dân sự khác ở những
điểm sau:
Trước hết, di chúc chính là sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc. ý
chí đơn phương này được thể hiện qua việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc không phải
bàn bạc với bất kỳ ai trong việc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (trường
hợp lập di chúc chung vợ chồng thực chất thì vẫn là phần tài sản của ai thì người đó có
quyền định đoạt). Người lập di chúc không có nghĩa vụ phải trao đổi với những người thừa
kế về nội dung di chúc. Người lập di chúc phải tự nguyện, không bị đe dọa, cưỡng ép trong
việc lập di chúc. Di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc, không bị sự chi phối nào của
người khác. Bằng việc lập di chúc, người để lại di sản đã xác lập một giao dịch dân sự về
thừa kế theo di chúc.
ý chí đơn phương của người lập di chúc còn được thể hiện việc người lập di chúc
toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho ai bao
nhiêu phần trăm số tài sản thuộc quyền sở hữu của mình mà không phụ thuộc vào việc
người được hưởng thừa kế theo di chúc có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích
với người lập di chúc. Người lập di chúc có thể cho người này nhiều, người kia ít, hoặc
không cho người nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, nếu như trong tất cả các loại hợp đồng dân sự đều phải thể hiện ý chí của
các bên tham gia hợp đồng và các bên đều phải tự nguyện thỏa thuận, bàn bạc, trao đổi...,
thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của bên lập di chúc. Hợp đồng dân sự chỉ phát sinh hiệu lực
khi các bên tham gia hợp đồng thống nhất được những điều khoản ghi nhận trong hợp
đồng và cùng nhau ký kết hợp đồng, còn trong di chúc thì không có sự thống nhất giữa
người lập di chúc và người được thừa kế theo di chúc. Thực tế đã có nhiều trường hợp
người được hưởng thừa kế theo di chúc không thể biết mình có quyền được hưởng di sản
theo di chúc vì di chúc chưa được công bố và được cất giữ bí mật.
Đối với những di chúc do vợ chồng lập chung, trong đó mặc dù thể hiện ý chí
chung của hai người, nhưng thực chất vẫn thể hiện ý chí đơn phương của từng người trong
việc định đoạt tài sản chung (ý chí đơn phương của chồng và vợ trùng nhau trong việc định
đoạt tài sản chung vợ chồng). Mặt khác, di chúc chung của vợ chồng vẫn chỉ thể hiện ý chí
của một bên - bên chuyển giao tài sản.
ý chí đơn phương này là đặc điểm khác biệt của di chúc với các loại giao dịch dân
sự khác. Đây không phải chỉ riêng di chúc theo pháp luật dân sự Việt Nam mà pháp luật
dân sự của hầu hết các nước thì vấn đề này cũng được quy định rõ như: Bộ luật dân sự của
Cộng hòa Pháp, Đức…
Đặc điểm thứ hai: Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di chúc
nhằm chuyển dịch tài sản cho người khác, sau khi người lập di chúc chết.
Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của các chủ thể
nhằm chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác thì di chúc lại nhằm chuyển dịch
tài sản của người đã chết sang cho người còn sống. Người thừa kế theo di chúc phải còn
sống vào thời điểm mở thừa kế.
Thực tế cho thấy không phải bất cứ ai trước khi chết cũng lập di chúc, mà có
người trước khi chết họ chỉ để lại những lời dặn dò, ví dụ: Dặn dò các con phải thương yêu
nhau, phải cố gắng học tập, tránh xa các thói hư, tật xấu...
Với khái niệm về di chúc tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 646 Bộ luật
dân sự năm 2005) thì di chúc phải thể hiện việc chuyển dịch tài sản của người lập di chúc
cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Vì vậy, nếu như một tài liệu nào đó của
người chết để lại mà không hàm chứa nội dung chuyển tài sản cho người khác, thì không
thể được coi là di chúc. Pháp luật cho phép công dân có quyền định đoạt tài sản, trong đó
có việc để lại di sản thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật cũng chỉ công nhận khi di chúc
của công dân đó thỏa mãn những điều kiện nhất định. Trong thực tiễn đã có không ít
những di chúc không tuân theo những quy định của pháp luật về hình thức và nội dung,
dẫn tới di chúc không được công nhận hoặc chỉ được công nhận một phần.
Đặc điểm thứ ba: Di chúc là một loại giao dịch dân sự đặc biệt, chỉ có hiệu lực khi
người lập di chúc chết.
Khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 667 Bộ luật dân sự
năm 2005) quy định: "Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế" [6], [7].
Về thời điểm mở thừa kế, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005
quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa
án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy
định của pháp luật.
Đây là một đặc điểm thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa di chúc với các loại giao
dịch dân sự khác, ví dụ như hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, còn thời điểm có hiệu
lực của di chúc lại phụ thuộc vào thời điểm mà người lập di chúc chết hoặc thời điểm mà
quyết định của Tòa án tuyên bố người lập di chúc chết có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, việc
xác định đúng thời điểm mở thừa kế (thời điểm người lập di chúc chết) có ý nghĩa trong
việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc. Mặt khác, xác định đúng thời điểm mở
thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định di chúc nào là di chúc có hiệu lực trong
trường hợp một người có nhiều di chúc. Di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người lập
di chúc và người lập di chúc có quyền thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung di chúc
hay hủy bỏ di chúc. Sự thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể được thể hiện dưới hình thức
người đó lập di chúc mới ghi nhận về việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc, nhưng cũng có thể
bằng di chúc mới (mặc dù không nói rằng thay đổi hay hủy bỏ di chúc) người lập di chúc
định đoạt tài sản mà nội dung định đoạt khác với di chúc đã viết trước đó. Việc đánh giá
hiệu lực của di chúc như vậy dựa theo quy định tại khoản 5 Điều 670 Bộ luật dân sự năm
1995: "Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ có bản di chúc
sau cùng mới có hiệu lực pháp luật" [6].
Tóm lại, khi người lập di chúc còn sống thì di chúc dù có phù hợp với các quy
định của pháp luật về hình thức và nội dung, thì di chúc cũng chưa phát sinh hiệu lực. Do
di chúc chưa phát sinh hiệu lực (khi người lập di chúc chưa chết) nên những người thừa kế
theo di chúc chưa có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản mà họ sẽ được hưởng. Quyền
đối với tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc cho đến khi người lập di chúc chết.
1.3 Tiến trình phát triển của những quy định pháp luật về thừa kế nói chung
và các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng ở Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
Dưới chế độ phong kiến, đời sống của nhân dân ta vô cùng khổ cực vì chế độ sưu
cao, thuế nặng. Người nông dân chiếm đại đa số trong xã hội, nhưng bị trói buộc bởi ruộng
đất của địa chủ, phong kiến. Giai cấp địa chủ chiếm số ít trong xã hội nhưng lại nắm đa số
các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhà nước phong kiến dùng pháp luật trong đó có pháp luật về
thừa kế để duy trì và củng cố quyền sở hữu của giai cấp địa chủ đối với ruộng đất từ đời
này sang đời khác.
Chế độ phong kiến đã tồn tại ở nước ta qua nhiều thế kỷ. Trải qua nhiều triều đại,
mỗi Nhà nước phong kiến đều ban hành các văn bản pháp luật để củng cố quyền lực và
phục vụ việc quản lý đất nước. Từ xa xưa, các bộ cổ luật của các triều đại phong kiến đã
có nhiều quy định cụ thể về thừa kế. Đáng chú ý của thời kỳ phong kiến là: Bộ luật Hồng
Đức (năm 1943), Bộ luật Gia Long (năm 1815), Bộ Dân luật Bắc kỳ (năm 1931), Bộ Dân
luật Trung kỳ (năm 1936). Ngoài các bộ luật, các nhà nước phong kiến còn ban hành nhiều
văn bản như chiếu, chỉ, dụ, lệnh của vua…
Trong Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật hoặc Luật hình triều
Lê có quy định tôn trọng ý muốn và quyền quyết định của người có tài sản.
Điều 388 Bộ luật Hồng Đức quy định:
Cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị
em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruộng đất làm hương hỏa, giao cho
người con trai trưởng giữ, còn thì chia nhau. Phần con của vợ lẽ, nàng hầu, thì
phải kém. Nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư, thì phải theo đúng, trái thì
mất phần mình.
Điều 390 Bộ luật Hồng Đức quy định: "Người làm cha mẹ phải liệu tuổi già mà
lập sẵn chúc thư…" [11].
Như vậy, Bộ luật Hồng Đức đã quy định quyền lập chúc thư để lại di sản, đặc biệt
là những người tuổi cao.
Di chúc được lập dưới dạng văn bản gọi là chúc thư. Bộ luật Hồng Đức cũng quy
định về hình thức lập di chúc tại Điều 366: "Những người làm chúc thư, văn khế mà không
nhờ quan trưởng trong làng viết thay và chứng kiến, thì phải phạt 80 trượng, phạt tiền theo
việc nặng nhẹ. Chúc thư văn khế ấy không có giá trị. Nếu biết chữ mà viết lấy thì được"
[11].
Như vậy, người có tài sản có thể tự mình viết chúc thư. Nếu người để lại di sản
không biết chữ thì chỉ được phép nhờ quan trưởng viết thay, không được nhờ người khác.
Nếu nhờ người khác viết hộ di chúc mà không nhờ quan trưởng thì ngoài việc bị phạt, di
chúc không có giá trị, di sản được chia theo pháp luật. Vấn đề hình thức lập di chúc trong
thời kỳ này đã được coi trọng.
Bộ luật Gia Long (hay còn gọi là Hoàng Việt luật lệ) là phiên bản của Bộ luật Mãn
Thanh (Trung Quốc). Bộ luật không thừa nhận quyền thừa kế của con gái mà chú trọng
đến quyền lợi của con trai, thể hiện rõ việc trọng nam khinh nữ. Bộ luật cũng công nhận
vai trò của việc thừa kế theo di chúc, thể hiện tại Điều 388 Bộ luật này quy định: "Nếu có
mệnh lệnh của cha mẹ, phải theo đúng. Vi phạm điều này sẽ mất phần" [9].
Bộ Dân luật Bắc kỳ được ban hành bằng một Nghị định của Thống sứ Bắc kỳ ngày
30-3-1931. Bộ luật bao gồm 1.464 điều, được chia làm 4 quyển. Quyển thứ nhất bao gồm
12 thiên quy định về gia đình, chế độ hôn sản và thừa kế, trong đó có 17 điều luật quy định
về thừa kế theo di chúc. Nội dung của bộ luật phản ánh được những phong tục, tập quán
của người Việt Nam như: Việc thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng truyền thống và đặc trưng
của người Việt Nam…
Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định người lập di chúc có quyền dành một phần di sản để
thờ cúng. Việc chăm sóc nuôi dưỡng nhau giữa những người trong cùng một gia đình được
coi là bổn phận của đạo đức. Bộ luật quy định con cháu không được phân chia khối tài sản
của gia đình khi cha mẹ còn sống nếu không được sự đồng ý của họ. Con cháu của người
chết buộc phải nhận di sản của người đó và thay họ thực hiện các nghĩa vụ về tài sản mà
họ để lại... Bộ luật còn quy định cha mẹ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái, phải đảm
bảo cho cuộc sống lâu dài của con cái nên họ phải để lại tài sản của mình cho những người
ở thế hệ sau khi họ chết. Điều 321 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định người vợ không có quyền
lập di chúc để định đoạt tài sản riêng của mình nếu không được người chồng đồng ý. Người
cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình tùy theo ý mình, nhưng phải giữ quyền
lợi cho người vợ chính. Người lập chúc thư có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều
người trong những người được thừa kế. Việc truất quyền thừa kế phải lập thành văn bản do
viên quản lý văn khế lập hoặc do lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư. Chúc thư phải
làm thành văn bản hoặc do viên quản lý văn khế làm ra hoặc có công chứng thị thực. Chúc thư
không có viên chức thị thực phải do người lập chúc thư viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc
thư đọc để người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên làm chứng. Người
làm chứng thường là lý trưởng tại nơi trú quán của người lập chúc thư, nếu
ở xa không về nơi trúquán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởngnơi hiện
ở của người lập chúc thư (Điều 326 Dân luật Bắc kỳ). Chúc thư phải ghi rõ ngày, tháng
năm lập chúc thư; tên, họ, tuổi, nơi trú quán của người làm chứng. Chúc thư khi đã làm
xong thì lý trưởng đọc to cho mọi người cùng nghe rồi lý trưởng, người lập chúc thư,
người viết hộ (nếu có) và những người làm chứng cùng ký tên vào văn bản. Có bao nhiêu
người được thừa kế thì chúc thư được làm thành bấy nhiêu bản gốc để gửi cho mỗi người
thừa kế một bản.
Khi người lập chúc thư muốn thay đổi một phần hay toàn bộ chúc thư, thì bản
chúc thư sau phải tiến hành đúng những thủ tục trên và phải nêu rõ việc người lập chúc thư
thay đổi một phần hay toàn bộ bản chúc thư, nếu không nói rõ thì chỉ những điều khoản
nào không hợp hoặc có trái với bản chúc thư sau mới bị bỏ mà thôi.
Điều 113 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: Khi người vợ chết trước, người chồng trở
thành chủ sở hữu duy nhất tất cả của cải chung trong đó có cả phần của vợ (tức là tài sản
riêng của vợ). Còn nếu chồng chết thì người vợ chỉ có quyền hưởng dụng tài sản riêng của
chồng khi không còn người thừa kế nào bên nội, bên ngoại của chồng (Điều 346). Nếu
người vợ góa tái giá thì tài sản riêng của chồng phải trả lại nhà chồng, tài sản riêng của vợ
được mang theo đi, còn tài sản của vợ chồng thì để lại cho con (Điều 360) [14].
Bộ luật Trung kỳ hay còn gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật gồm 1709 điều,
được chia làm 5 quyển. Có thể nói, Bộ luật này hầu như sao chép lại nhiều điều khoản
trong Bộ luật Bắc kỳ, ví dụ: Điều 341 Bộ luật Trung kỳ giống Điều 346 Bộ Dân luật Bắc
kỳ; Điều 359 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 360 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 111 Bộ Dân
luật Trung kỳ giống Điều 113 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 313 Bộ Dân luật Trung kỳ giống
Điều 321 Bộ Dân luật Bắc kỳ... [15].
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1990
Với thắng lợi rực rỡ của Cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, đánh dấu một trang sử mới của cách mạng nước ta. Ngay sau khi thành lập, nhà
nước non trẻ đã phải đối phó với rất nhiều những khó khăn cả về chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa xã hội… Để giữ vững thành quả cách mạng, Nhà nước ta đã có những chính
sách vừa mềm dẻo, vừa cương quyết để tập trung quyền lực về tay Nhà nước. Trong thời
kỳ này, những vấn đề lớn đều được điều chỉnh bằng các Sắc lệnh, còn những vấn đề thuộc
về dân sự thì Nhà nước vẫn cho phép áp dụng các văn bản cũ, nếu nó không trái nguyên
tắc vi phạm đến độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa (Sắc lệnh
số 90/SL ngày 10-9-1945). Trong quan hệ về thừa kế, Nhà nước ta vẫn cho phép áp dụng
các quy định trong các Bộ Dân luật Bắc kỳ, Bộ Dân luật Trung Kỳ.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội thì những điều khoản của các Bộ dân
luật trở nên lạc hậu. Để xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, nhằm mục đích bảo vệ lợi
ích của nhân dân lao động... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-5-
1950. Điều 5 của Sắc lệnh quy định: "Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình". Về
thừa kế cũng được Sắc lệnh quy định: Con cháu hoặc vợ chồng của người chết cũng không
bắt buộc phải nhận thừa kế của người ấy. Khi nhận thừa kế thì các chủ nợ của người chết
cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại (Điều 10). Trong lúc còn sinh thời người
chồng góa hay vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền
sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung (Điều 11) [38].
Với những quy định này, tuy còn ở mức độ nhất định nhưng nó đã thể hiện sự tiến
bộ vượt bậc của pháp luật nói chung và về thừa kế nói riêng so với Bộ dân luật Bắc kỳ và
Bộ dân luật Trung kỳ.
Sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 đã đánh dấu bước trưởng thành lớn của công
tác lập pháp nước ta. Quyền thừa kế được Hiến pháp ghi nhận tại Điều 19: "Nhà nước
chiểu theo pháp luật để bảo hộ quyền thừa kế về tài sản của công dân" [24]. Đây là một
nguyên tắc Hiến định, là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền thừa
kế cho công dân.
Ngày 29-12-1959 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Luật Hôn nhân và gia đình, có
hiệu lực thi hành từ 13-1-1960 (gọi là Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959). Với Luật hôn
nhân và gia đình đầu tiên này đã phá bỏ chế độ gia đình phụ quyền của chế độ cũ, đảm bảo
chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng. Vợ chồng có quyền bình đẳng
trong mọi quyền lợi, trong đó có quyền thừa kế tài sản của nhau; con cái trong và ngoài giá
thú cũng được đối xử bình đẳng... [31].
Để thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Tòa án nhân dân tối cao đã
thường xuyên tổng kết công tác xét xử, ban hành nhiều thông tư, hướng dẫn cho Tòa án
các địa phương trong việc áp dụng thống nhất pháp luật.
Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 1964 của ngành Tòa án, Tòa án nhân dân tối
cao đã hướng dẫn việc xét xử của Tòa án cấp dưới trong việc xét xử các vụ án tranh chấp
di sản thừa kế. Theo tổng kết này thì có ba hàng thừa kế sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất: Vợ góa hay chồng góa; các con đẻ và con nuôi của người
chết; bố mẹ mất sức lao động được người để lại di sản nuôi dưỡng.
- Hàng thừa kế thứ hai: Bố mẹ còn sức lao động.
- Hàng thừa kế thứ ba: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi.
Ngày 27-8-1968, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 594/NCPL hướng
dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp thừa kế. Thông tư đã nêu rõ các đặc điểm cơ bản
(thực chất là các nguyên tắc) của chế độ thừa kế của nhà nước ta: Nam nữ bình đẳng về
quyền thừa kế, người thừa kế được hưởng các quyền tài sản của người chết để lại và phải
chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi giá trị tài
sản nhận được, tôn trọng quyền định đoạt bằng di chúc của người có di sản, đồng thời bảo
vệ thích đáng quyền lợi của một số người thừa kế theo luật. Thông tư nói rõ: Di sản thừa
kế bao gồm không những quyền sở hữu cá nhân về những tài sản mà người chết để lại mà
còn gồm cả những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản phát sinh do quan hệ hợp đồng hoặc
do việc gây thiệt hại mà người chết để lại. Về thừa kế theo pháp luật, Thông tư đưa ra khái
niệm diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật, thứ tự hưởng di sản căn cứ vào hàng
thừa kế. Diện những người thừa kế theo pháp luật gồm: Vợ góa (vợ cả góa và vợ lẽ góa)
hoặc chồng góa, con đẻ và con nuôi, bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột. Như vậy, trong diện những người thừa kế theo pháp luật
có thêm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Những người trong diện thừa kế được xếp
làm hai hàng thừa kế:
Hàng thừa kế thứ nhất: Vợ góa (vợ cả góa và vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, các con
đẻ và con nuôi, bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi.
Hàng thừa kế thứ hai: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi, ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại.
Thông tư đã ghi nhận: Anh chị em cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ có
quan hệ huyết thống với nhau không hoàn toàn nhưng trong nhiều gia đình họ đối xử với
nhau thân mật không khác gì anh chị em cùng cha, cùng mẹ. Do đó, cần xác định họ có
quyền thừa kế di sản của nhau.
Về thừa kế theo di chúc: Thông tư 594 xác nhận quyền tự do định đoạt theo di
chúc nhưng không được trái với chính sách và pháp luật hiện hành, không trái với tinh
thần đoàn kết, tương trợ trong gia đình và phải bảo đảm đời sống cho vợ hoặc chồng, con
vị thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất sức lao động và cha mẹ già yếu, túng
thiếu. Do đó, người lập di chúc khi định đoạt tài sản của mình phải giữ một phần tài sản
cho những người nói trên. Phần di sản bắt buộc phải dành lại cho những người này nên
tính tùy theo tình hình di sản và số người thừa kế cần được bảo vệ quyền lợi, nó không nên
quá thấp so với phần di sản mà họ đáng lẽ được hưởng nếu không có di chúc. Trường hợp
di chúc không dành phần bắt buộc thích đáng cho những người nói trên thì cần phải điều
chỉnh lại. Phần di sản dư ra sau khi đã dành những phần bắt buộc, Tòa án vẫn chiếu theo di
chúc để chia cho người thừa kế được chỉ định trong di chúc.
Thông tư số 594 ngày 27-8-1968 của Tòa án nhân dân tối cao đã xóa bỏ quan điểm
của Dân luật cũ thời Pháp thuộc (Điều 321 Dân luật Bắc kỳ, Điều 313 Hoàng Việt Trung
kỳ Hộ luật) về quyền tự do tuyệt đối khi lập di chúc. Đây là vấn đề mới từ thực tiễn xét xử
nên ở thời điểm đó Tòa án nhân dân tối cao chưa thể ấn định cụ thể phần di sản bắt buộc
này là bao nhiêu [41].
Với thắng lợi to lớn của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước ta đã hoàn toàn
thống nhất năm 1975. Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước tháng 7-1976,
Nhà nước ta lấy tên là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 25-3-1977 Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/CP quy định về việc thực hiện thống nhất pháp
luật trên cả nước. Kể từ thời điểm này, pháp luật đã được áp dụng thống nhất trong toàn
quốc. Tuy nhiên, ở giai đoạn này vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định riêng về
thừa kế.
Trước sự thay đổi lớn của đất nước, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã thông
qua bản Hiến pháp (gọi là Hiến pháp 1980) - Hiến pháp đầu tiên trong thời kỳ thống nhất
đất nước - là cơ sở nền tảng cho việc phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp
luật về thừa kế theo di chúc nói riêng. Hiến pháp năm 1980 là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản
của Nhà nước. Hiến pháp đã quy định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… tạo tiền đề, cơ sở pháp lý cho việc ban hành các
văn bản pháp luật về thừa kế sau này.
Điều 27 Hiến pháp năm 1980 quy định: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công
dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản
xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ. Pháp luật bảo hộ quyền
thừa kế tài sản của công dân". Hiến pháp năm 1980 cũng quy định mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, sự bình đẳng giữa nam và nữ, Nhà nước và xã hội không thừa nhận
sự phân biệt, đối xử giữa các con...
Hiến pháp năm 1980 đã quy định đất đai thuộc sở hữu nhà nước. Nhà nước thống
nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và
tiết kiệm. Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng
kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật [25].
Để đảm bảo thống nhất đường lối xét xử, trên cơ sở tổng kết công tác xét xử, đồng
thời bổ sung một số vấn đề cho phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 1980, Tòa án
nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 81-TANDTC ngày 24-7-1981 hướng dẫn giải
quyết tranh chấp về thừa kế. Ngay từ Phần nguyên tắc chung (Phần I), Thông tư đã quy
định về quyền lập di chúc của công dân để định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Nếu
không có di chúc thì mới chia thừa kế theo pháp luật, tôn trọng quyền định đoạt bằng di
chúc của người có di sản, đồng thời bảo hộ thích đáng quyền lợi của một số người thừa kế
theo luật (người thừa kế bắt buộc không phụ thuộc vào nội dung di chúc), phụ nữ và nam
giới bình đẳng về quyền lập di chúc, người thừa kế có quyền nhận hay không nhận di sản
thừa kế, người nhận thừa kế được hưởng các tài sản và các quyền về tài sản của người chết
để lại, đồng thời phải chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ về tài sản mà người chết để
lại trong phạm vi giá trị tài sản đã nhận được. Thông tư số 81 đã hướng dẫn về việc xác
định di sản thừa kế, diện và hàng thừa kế, việc phân chia di sản thừa kế... Đặc biệt, Thông
tư đã dành chương IV để hướng dẫn về thừa kế theo di chúc, trong đó quy định rõ về hình
thức của di chúc, quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc, nghĩa vụ phải dành lại một
phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc của người lập di chúc (hạn chế quyền của
người lập di chúc)… Những người thừa kế bắt buộc gồm: Vợ góa hoặc chồng góa, con
chưa thành niên hoặc tuy đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, bố mẹ già yếu
và túng thiếu. Phần di sản phải dành cho mỗi người thừa kế bắt buộc ít nhất là 2/3 suất của
thừa kế theo pháp luật [44].
Ngày 29-12-1986 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành và có hiệu
lực thi hành từ 3-1-1987 đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật hôn nhân gia đình
nước ta, thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Luật hôn nhân và gia đình
1986 có những điều khoản quan trọng đối với những quy định của pháp luật thừa kế. Ví
dụ: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 xác định nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa các thành
viên trong gia đình là cơ sở cho pháp luật thừa kế xác định ai là người thừa kế được hưởng
di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc [32].
Thắng lợi của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã tạo bước ngoặt
mới trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã
bị xóa bỏ, nền kinh tế nhiều thành phần (trong đó có kinh tế tư nhân) đã được pháp luật
thừa nhận và khuyến khích phát triển.
Ngày 29-12-1987 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua Luật Đất đai (gọi là Luật Đất đai năm 1987). Luật Đất đai đã quy định chế độ sở hữu
toàn dân đối với đất đai và đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho
người sử dụng đất để sử dụng ổn định, lâu dài hoặc tạm thời, có thời hạn. Điều 5 của Luật
Đất đai năm 1987 quy định: "Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn, chiếm đất đai, phát canh thu
tô dưới mọi hình thức, nhận đất được giao mà không sử dụng, sử dụng đất không đúng
mục đích, tự tiện sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm hủy hoại
đất đai". Nhà nước bảo đảm cho người sử dụng đất được hưởng những quyền lợi hợp pháp
trên đất được giao, kể cả quyền chuyển, nhượng, bán thành quả lao động, kết quả đầu tư
trên đất được giao khi không còn sử dụng đất và đất đó được giao cho người khác sử dụng
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định [28].
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến 1 tháng 7 năm 1996
Để đáp ứng với sự biến động, phát triển không ngừng của xã hội, ngày 30-8-1990
Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh
Thừa kế, có hiệu lực từ ngày 10-9-1990. Đây là văn bản pháp luật có hệ thống và ở tầm
văn bản pháp lý cao nhất về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng kể từ ngày
thành lập nước. Pháp lệnh Thừa kế gồm 38 điều, được chia làm 6 chương, trong đó đã xác
định được những nguyên tắc cơ bản về thừa kế, về quyền bình đẳng về thừa kế của công
dân. Pháp lệnh Thừa kế đưa ra những khái niệm về: Thời điểm mở thừa kế, địa điểm mở
thừa kế, di sản, người thừa kế… Thừa kế theo di chúc được Pháp lệnh quy định tại chương
II từ Điều 10 đến Điều 23. Pháp lệnh đã quy định về quyền của người lập di chúc. Theo
quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh thì công dân có quyền lập di chúc để chuyển quyền sở
hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một hoặc nhiều người trong hoặc ngoài
các hàng thừa kế theo pháp luật, cũng như cho Nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế. Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, phân định tài sản
cho người thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của một
hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lý do. Người lập di
chúc có quyền sửa đổi, bổ sung di chúc đã lập, thay thế di chúc đã lập bằng di chúc khác,
hủy bỏ di chúc.
Pháp lệnh Thừa kế cũng quy định về di chúc hợp pháp là di chúc do người từ đủ
mười tám tuổi trở lên tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái
với quy định của pháp luật. Di chúc cũng được coi là hợp pháp nếu do người từ đủ mười
sáu tuổi trở lên nhưng chưa đủ mười tám tuổi tự nguyện lập trong khi minh mẫn và phải
được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu, không bị lừa dối và không trái với quy
định của pháp luật. Di chúc do công dân Việt Nam lập ở nước ngoài theo pháp luật của
nước ngoài, nếu có nội dung không trái với pháp luật Việt Nam cũng được coi là di chúc
hợp pháp.
Về nội dung của di chúc được Pháp lệnh quy định tại Điều 13: Trong bản di chúc
phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc, họ, tên và nơi thường trú của người lập di chúc,
họ, tên người được hưởng di sản, tên cơ quan tổ chức được hưởng di sản… Đặc biệt, Pháp
lệnh quy định rõ về việc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Pháp lệnh quy định về hiệu lực của di chúc viết được cơ quan công chứng hoặc ủy
ban nhân dân chứng thực, di chúc viết được cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của
Việt Nam ở nước ngoài chứng thực, di chúc viết không có chứng thực, xác nhận và di chúc
miệng…
Pháp lệnh Thừa kế đã quy định cụ thể về những người được hưởng di sản không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc tại Điều 20. Theo quy định này thì trong trường hợp
không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp
luật, thì con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên không đủ khả năng lao
động và túng thiếu của người lập di chúc vẫn được hưởng phần di sản bằng ít nhất là hai
phần ba suất đó, trừ trường hợp họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 7 của Pháp lệnh. Đây là sự kế thừa và pháp điển hóa so với quy định về
người thừa kế bắt buộc tại Thông tư số 81-TANDTC ngày 24-7-1981 của Tòa án nhân dân
tối cao.
Pháp lệnh cũng quy định về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc, hiệu lực của di
chúc, di sản dùng vào việc thờ cúng [35].
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới do sự đổi mới toàn diện của
đất nước kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng, Quốc hội nước ta đã sửa đổi Hiến pháp năm
1980. Hồi 11 giờ 45 phút ngày 15-4-1992 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 11 đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm
1992 đã khẳng định về việc tiếp tục đưa đất nước ta đi theo con đường chủ nghĩa xã hội,
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tư tưởng chủ đạo này, trong chương II về chế
độ kinh tế, Hiến pháp đã quy định việc đảm bảo tính thống nhất của sự phát triển kinh tế
sao cho nền kinh tế được phát triển theo cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế
khác nhau theo định hướng xã hội chủ nghĩa...
Hiến pháp năm 1992 đã quy định về quyền bình đẳng của công dân trước pháp
luật, quyền bình đẳng giữa nam và nữ, Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân
biệt, đối xử giữa các con. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân có quyền sở
hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn
và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác... Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân".
Hiến pháp năm 1992 quy định về việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước
ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất
nước.
Để thi hành Hiến pháp năm 1992, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX đã thông qua Luật Đất đai năm 1993, có hiệu lực kể từ
15-10-1993. Kể từ đây, việc "được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo
quy định của pháp luật" của tổ chức và cá nhân theo quy định tại Điều 18 Hiến pháp năm
1992 đã được thể chế hóa. Khoản 2 Điều 3 Luật Đất đai năm 1993 quy định:
Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất.
Các quyền nói trên chỉ được thực hiện trong thời hạn giao đất và đúng
mục đích sử dụng của đất được giao theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật.
Điều 76 Luật Đất đai năm 1993 quy định:
1. Cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng
năm, nuôi trồng thủy sản, sau khi chết thì quyền sử dụng đất của họ được để lại
cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế.
2. Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng
năm, nuôi trồng thủy sản, nếu trong hộ có thành viên chết thì các thành viên
khác trong hộ được quyền tiếp tục sử dụng diện tích đất mà Nhà nước đã giao
cho hộ. Trường hợp trong hộ gia đình không còn thành viên nào thì Nhà nước
thu hồi đất.
3. Cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất nông nghiệp trồng
cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở, sau khi chết, quyền sử dụng
đất của họ được để lại cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật
thừa kế [29].
Với những quy định trên, quyền sử dụng đất đã được coi là di sản thừa kế.
1.3.4. Giai đoạn từ 1-7-1996 đến nay
Với đường lối chính trị, kinh tế đúng đắn được Đảng và Nhà nước ta thể hiện
trong Hiến pháp năm 1992, tất cả mọi mặt trong đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội đều thay đổi trên mọi bình diện. Vì vậy, trong đời sống dân sự cũng phát sinh
nhiều vấn đề mà pháp luật chưa kịp điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ. Các văn bản
pháp luật dưới nhiều hình thức như: Nghị định, Pháp lệnh, Thông tư, Nghị quyết... chưa đủ
bao quát để điều chỉnh một cách rộng khắp các quan hệ dân sự nói chung và vấn đề các
điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng.
Chính từ thực tiễn đòi hỏi, ngày 28-10-1995, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã
thông qua Bộ luật dân sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (gọi là
Bộ luật dân sự năm 1995).
Bộ luật dân sự năm 1995 tương đối đồ sộ với 7 phần, 838 điều. Trong mỗi phần
được chia làm nhiều chương, mục. Bộ luật có hiệu lực kể từ ngày 1-7-1996 (riêng những
quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực áp dụng
kể từ ngày Luật Đất đai 1993 có hiệu lực 15-10-1993).
Bộ luật dân sự năm 1995 là công cụ pháp lý thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi
trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bộ luật góp phần bảo đảm
cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết,
tương thân, tương ái trong nhân dân.
Bộ luật đã dành hẳn Phần thứ tư và Chương VI Phần thứ năm để quy định về thừa
kế với tổng số 63 điều luật (nếu tính cả 9 điều thuộc chương những quy định chung về
chuyển quyền sử dụng đất mà thừa kế quyền sử dụng đất phải áp dụng thì tổng số lên đến
72 điều).
Bộ luật đã đưa ra những khái niệm về thời điểm, địa điểm mở thừa kế, người thừa
kế, người quản lý di sản, di chúc… Đặc biệt, Bộ luật có quy định cụ thể về quyền, nghĩa
vụ của người quản lý di sản, người thừa kế, việc từ chối nhận di sản, về những người
không được hưởng di sản…
Do sự phát triển đất nước, các tranh chấp dân sự diễn ra ngày càng phức tạp, Bộ
luật dân sự năm 1995 đã bộc lộ những khiếm khuyết của nó. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội
khóa XI, từ ngày 5-5-2005 đến ngày 14-6-2005 Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật dân
sự năm 2005. Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2006.
Với 7 phần, 777 điều, Bộ luật dân sự năm 2005 không "đồ sộ" được như Bộ luật
dân sự năm 1995, nhưng những quy định về thừa kế có nhiều tiến bộ hơn Bộ luật dân sự
năm 1995, đặc biệt về thừa kế quyền sử dụng đất. Về các điều kiện có hiệu lực của di chúc
thì những quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về cơ bản vẫn được Bộ luật dân sự năm
2005 giữ lại và có sự phát triển.
Kết luận chương 1
Thừa kế theo di chúc là một trong hai hình thức thừa kế được pháp luật quy định.
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển di sản của một người đã chết cho người khác
theo sự định đoạt ý chí của người để lại di sản khi còn sống. Trong những trường hợp cụ
thể, quyền định đoạt của người lập di chúc được pháp luật thừa nhận toàn bộ, nhưng trong
một số trường hợp khác thì quyền tự định đoạt của người lập di chúc lại bị hạn chế. Di
chúc là giao dịch dân sự một bên, do vậy di chúc cũng cần phải thỏa mãn các điều kiện có
hiệu lực của di chúc.
Theo tiến trình phát triển của pháp luật thừa kế, các điều kiện có hiệu lực của di
chúc trong mỗi thời kỳ cũng được quy định khác nhau. Nhưng nhìn chung, pháp luật của
Nhà nước ta luôn nhằm bảo vệ những quyền dân sự hợp pháp của cá nhân, trong đó có
quyền lập di chúc và quyền này ngày càng được pháp luật quy định cụ thể hơn.
Với sự ra đời của Bộ luật dân sự năm 1995, các quy định pháp luật về điều kiện có
hiệu lực của di chúc nói riêng và pháp luật về thừa kế nói chung đã được quy định một
cách hệ thống. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Bộ luật dân sự năm 1995 đã phát sinh
những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải có sự khắc phục kịp thời. Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội
khóa VI, từ ngày 5-5-2005 đến ngày 14-6-2005, Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật
dân sự năm 2005. Bộ luật dân sự năm 2005 đã có những tiến bộ hơn so với Bộ luật dân sự
năm 1995 trong việc quy định về thừa kế nói chung và các điều kiện có hiệu lực của di
chúc nói riêng.
Chương 2
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc
2.1. Người lập di chúc
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì người
lập di chúc phải đáp ứng được những điều kiện nhất định thì di chúc mới có hiệu lực.
Người lập di chúc phải đảm bảo được những điều kiện sau đây:
Điều 650 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định
về người lập di chúc:
1- Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó
bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình.
2- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di
chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Như vậy, pháp luật dân sự đã quy định cụ thể về người được lập di chúc.
Theo quy định tại các điều luật trên có thể nhận thấy hai yêu cầu về người lập di
chúc, đó là:
- Yêu cầu về độ tuổi của người lập di chúc.
- Yêu cầu về nhận thức của người lập di chúc.
2.1.1. Yêu cầu về độ tuổi của người lập di chúc
Pháp luật dân sự quy định chỉ người thành niên mới có quyền lập di chúc, còn
người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi muốn lập di chúc phải được sự đồng
ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó.
Có quy định trên bởi vì chỉ khi đạt đến một độ tuổi nhất định thì con người mới có
đủ nhận thức để điều chỉnh hành vi của mình.
Đối với những người đã thành niên, nhưng bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các
bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì những người đó
không có quyền lập di chúc. Trong trường hợp những người này lập di chúc, thì di chúc đó
không phát sinh hiệu lực pháp luật.
Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về người thành niên: Người từ đủ mười tám
tuổi trở lên là người thành niên (Điều 20). Người thành niên có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, trừ trường hợp người thành niên đó bị mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, những người thành niên bị mất quyền lập di chúc khi họ là người:
- Mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác.
- Không thể nhận thức được hành vi của mình.
- Không thể điều chỉnh được hành vi của mình [6].
Pháp luật dân sự của Nhà nước ta cũng quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Người mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi mặc dù là người chưa thành niên,
nhưng họ có những nhận thức nhất định. Về mặt thực tế thì có người trong số họ đã có tài
sản riêng do được thừa kế hoặc được tặng cho, thậm chí có người đã tích lũy từ lao động
phù hợp với sức lao động của mình. Để đảm bảo phần nào quyền định đoạt tài sản của họ,
pháp luật đã cho phép họ lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ đồng ý.
Bàn về quy định này còn có những ý kiến khác nhau do chưa có sự hướng dẫn của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền:
- Cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý là đồng ý về việc cho phép người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc hay là đồng ý về nội dung di chúc?
- Sự đồng ý của cha hoặc mẹ hay là cả cha và mẹ. Trường hợp nào thì cần đến sự
đồng ý của người giám hộ?
Về vấn đề thứ nhất, chúng tôi cho rằng chỉ là việc đồng ý cho phép người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc vì nếu hiểu là đồng ý với nội dung di
chúc thì vô hình chung pháp luật đã can thiệp đến quyền tự định đoạt, đến ý chí tự nguyện
của người lập di chúc, trong khi ý chí tự nguyện là một trong những điều kiện để di chúc
được coi là hợp pháp. Với tư cách là người thừa kế hàng thứ nhất theo pháp luật của người
con, người cha, người mẹ có thể can thiệp vào nội dung của di chúc, can thiệp vào sự định
đoạt của người con nếu được hiểu theo cách việc lập di chúc của người từ đủ mười lăm
tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được sự đồng ý của cha, mẹ về nội dung di chúc. Và
một điều đương nhiên, nếu hiểu cha mẹ phải đồng ý về nội dung di chúc thì đã bao hàm cả
việc đồng ý cho lập di chúc.
Về vấn đề thứ hai, căn cứ vào cách hành văn của điều luật thì chỉ cần một trong
hai người là cha hoặc mẹ đồng ý là đủ, mà không cần thiết phải được sự đồng ý của hai
người. Pháp luật dân sự cũng đã quy định rõ ràng về việc giám hộ tại Mục 5 Chương II,
Phần thứ nhất Bộ luật dân sự năm 1995. Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan
nhà nước (gọi là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc
chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị bệnh tâm
thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
(gọi là người được giám hộ). Trong quan hệ pháp luật thừa kế theo di chúc, thì người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi chỉ có quyền lập di chúc khi được sự đồng ý của
người giám hộ trong trường hợp người chưa thành niên này không còn cha, mẹ hoặc không
xác định được cha, mẹ hoặc cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ
không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu
cầu.
Một vấn đề cần đặt ra khi nghiên cứu về sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám
hộ đối với hành vi lập di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi,
đó là: Sự đồng ý này phải được thể hiện dưới hình thức như thế nào? Có bắt buộc việc
đồng ý phải được thể hiện bằng văn bản riêng hay chỉ cần xác nhận vào di chúc, hay chỉ
cần bằng miệng? Sự đồng ý đó có cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận hay không? Sự đồng ý được thể hiện trước hay sau khi người chưa thành niên lập di
chúc?...
Đây là một câu hỏi vì vấn đề này chưa được sự hướng dẫn, giải đáp của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
2.1.2. Yêu cầu về nhận thức
Kết quả nghiên cứu về y học cho thấy độ tuổi và nhận thức có quan hệ mật thiết
với nhau. Con người chỉ khi đạt đến một độ tuổi nhất định thì mới có đủ nhận thức để điều
chỉnh được hành vi dân sự của mình (trong đó có hành vi lập di chúc), trừ trường hợp
người đó bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình. Pháp luật dân sự nước ta quy định người từ đủ mười tám tuổi trở lên là
người thành niên. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, độ tuổi và
khả năng nhận thức là hai tiêu chí để xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Tại khoản 1 Điều 655 Bộ luật dân sự năm 1995 và điểm a, khoản 1 Điều 652 Bộ
luật dân sự năm 2005 có quy định như nhau về nhận thức của người lập di chúc: "Người
lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc…".
Tuy nhiên, người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt đến mức độ nào? Người
lập di chúc có phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc hay không? Nếu người lập di
chúc phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc thì cơ quan nào có thẩm quyền giám
định? Có cần hay không cần kết quả giám định sức khỏe thì cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mới được chứng thực vào di chúc ?...
Hiện nay, pháp luật dân sự của nước ta chưa có quy định nào về việc người lập di
chúc phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc. Vì vậy, người lập di chúc có thể khám
sức khỏe hoặc không khám sức khỏe trước khi lập di chúc. Có một số trường hợp khám
sức khỏe thì cơ quan khám sức khỏe cũng không thống nhất: Có trường hợp khám tại trung
tâm y tế cấp huyện, tỉnh; nhưng cũng có trường hợp lại đi khám ở các bệnh viện về tâm
thần.
Trên thực tế người lập di chúc ít khi đi giám định sức khỏe, khám sức khỏe trước
khi lập di chúc. Vì vậy, tình trạng sức khỏe của người lập di chúc tại thời điểm lập di chúc
không được thể hiện. Khi có tranh chấp xảy ra, bên đương sự nào cho rằng người lập di
chúc không đủ sức khỏe, ảnh hưởng đến sự minh mẫn của người lập di chúc trong khi lập
di chúc thì họ phải có nghĩa vụ chứng minh. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế tại
Tòa án nhân dân cho thấy tình trạng này diễn ra tương đối phổ biến. Bên yêu cầu chia thừa
kế theo di chúc có nghĩa vụ xuất trình trước Tòa án các chứng cứ liên quan đến việc người
lập di chúc hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc. Ngược lại, bên yêu cầu chia
thừa kế theo pháp luật có nghĩa vụ xuất trình các chứng cứ để chứng minh người lập di
chúc không minh mẫn, sáng suốt để bác bỏ yêu cầu chia thừa kế theo di chúc.
Về nguyên tắc, tất cả các di chúc đều được coi là do người để lại di sản lập trong
lúc minh mẫn, sáng suốt. Vì vậy, đương sự nào cho rằng khi lập di chúc người lập di chúc
không minh mẫn, sáng suốt phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa án có thẩm quyền. Chỉ
khi có đầy đủ cơ sở khẳng định người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt như: Kết
luận của cơ quan y tế, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án… thì Tòa án có thẩm quyền
tuyên bố di chúc vô hiệu. Thông thường, những di chúc được chứng nhận, chứng thực của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ít khi xảy ra tranh chấp về việc người lập di chúc có
minh mẫn, sáng suốt hay không. Tranh chấp về việc minh mẫn, sáng suốt của người lập di
chúc lại thường xảy ra đối với những di chúc không có chứng nhận, chứng thực. Vì vậy, để
hạn chế tranh chấp thì việc lập di chúc có chứng thực, chứng nhận cần được khuyến khích.
Quy định về vấn đề này, pháp luật dân sự Cộng hòa Pháp chỉ yêu cầu người lập di
chúc có tinh thần minh mẫn (Điều 901 Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp). Còn Điều 963 Bộ
luật dân sự Nhật Bản quy định: "Người lập di chúc tại thời điểm lập di chúc phải có đủ
năng lực để làm việc này" [5].
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chính là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình để xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Nếu như năng lực pháp luật của cá
nhân phát sinh ngay từ khi cá nhân được sinh ra thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân
chỉ phát sinh đầy đủ khi người đó đạt đến độ tuổi nhất định (đủ 18 tuổi); nếu như năng lực
pháp luật của cá nhân chỉ chấm dứt khi người đó chết thì năng lực hành vi dân sự của cá
nhân chấm dứt khi người đó bị mất năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, một người được coi là có năng lực hành vi dân sự (trong đó có năng lực
hành vi viết di chúc), khi người đó bằng khả năng của mình thực hiện hành vi, mà bằng hành
vi đó, người đó đã xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ pháp luật thừa kế, người
lập di chúc bằng hành vi định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình thông qua việc lập di chúc,
người lập di chúc đã xác lập quyền hưởng di sản cho người được thừa kế theo di chúc.
Cũng đồng thời với việc xác lập quyền hưởng di sản cho người thừa kế theo di chúc, người
lập di chúc đương nhiên đã xác lập nghĩa vụ cho người quản lý di sản. Bằng hành vi lập di
chúc, người lập di chúc đã thực hiện quyền định đoạt đối với những tài sản của mình cho
người thừa kế được chỉ định trong di chúc. Việc thực hiện quyền của người lập di chúc thể
hiện ở chỗ: Người lập di chúc có quyền định đoạt cho ai, cho ai cho bao nhiêu, chỉ cho sử
dụng tài sản hay cho sở hữu tài sản…
Pháp luật dân sự không quy định về việc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
bị mất quyền lập di chúc. Chỉ trong những trường hợp nhất định: Một người bị nghiện ma
túy hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn tới phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan hoặc tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra
quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời với quyết định
tuyên bố một người hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án quyết định người đại diện
theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. Như vậy,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không phải là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc
các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình theo quy định
của Điều 650 Bộ luật dân sự năm 1995 nên họ vẫn có quyền lập di chúc mà không phải
được sự đồng ý của người đại diện.
Đối với những người đã thành niên nhưng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh
khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì không có quyền lập di
chúc. Nếu họ lập di chúc, thì di chúc đó không được công nhận.
2.2. ý chí của người lập di chúc
2.2.1. Người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện
Nguyên tắc tự nguyện trong việc tham gia các giao dịch dân sự là một nguyên tắc
cơ bản được ghi nhận tại Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Trong giao
lưu dân sự, các bên đều phải hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán,
cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào.
Lập di chúc là giao dịch dân sự, là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di
chúc. Vì vậy, cũng như các giao dịch dân sự khác, việc lập di chúc cũng phải thể hiện ý chí
tự nguyện của người lập di chúc. Tự nguyện được hiểu theo nghĩa khái quát chính là việc
thực hiện một việc gì đó hoàn toàn theo ý mình, do mình nghĩ ra và thực hiện. Về mặt bản
chất, tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Vì vậy, khi đánh giá ý chí của
một người về một vấn đề nào đó có phải tự nguyện hay không, cần phải dựa vào sự thống
nhất biện chứng giữa hai phạm trù: ý chí và sự bày tỏ ý chí.
ý chí là cái bên trong, là cái mà người khác khó có thể nhận biết được, nếu ý chí
đó chưa được thể hiện ra ngoài bằng hành động thực tiễn. Để người khác nhận biết được
mong muốn của mình, con người phải thể hiện ý chí bằng những hành vi cụ thể. ý chí và
sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với
nhau.
Trong việc lập di chúc, người lập di chúc thể hiện ý chí của mình thông qua hành
vi lập di chúc. Thông qua việc cho người này nhiều, người kia ít… người lập di chúc thể
hiện tâm tư, tình cảm… với người thừa kế. Vì vậy, muốn xác định một di chúc có phải là ý
chí tự nguyện của người lập di chúc hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất giữa ý chí
của người lập di chúc và sự thể hiện ý chí đó trong nội dung của di chúc. Chỉ khi nào di
chúc phản ánh một cách trung thực, khách quan những mong muốn của người lập di chúc
thì sự định đoạt đó mới được coi là tự nguyện.
Thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế theo di chúc cho thấy, việc xác
định di chúc có được lập một cách tự nguyện hay không là một vấn đề gây nhiều khó khăn
cho Toà án. Một bên đương sự xuất trình di chúc và yêu cầu được chia thừa kế theo di
chúc và họ cho rằng di chúc hoàn toàn do người để lại di sản tự nguyện lập. Đương sự phía
bên kia thì lại cho rằng, nguyên nhân của sự phân chia di sản không công bằng (đa số các
di chúc đều có sự phân chia di sản khác nhau, dẫn đến tình trạng người được nhiều, người
được ít) là do người lập di chúc không tự nguyện. Để giải quyết các vụ án này, trước tiên
người Thẩm phán buộc phải yêu cầu cả hai bên đương sự xuất trình những chứng cứ để
chứng minh cho những lời khai của mình. Bên cạnh đó, việc lấy lời khai nhân chứng, xác
minh chính quyền địa phương, đối chất… cũng là những biện pháp cần thiết để tìm ra sự
thật của vụ án: Người lập di chúc có tự nguyện lập di chúc hay không?...
2.2.2. Người lập di chúc không bị đe dọa
Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia sợ hãi
mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của những người thân thích.
Cũng như các loại giao dịch dân sự khác, đe dọa trong việc lập di chúc trước hết
phải được thực hiện bằng hành vi cố ý. Hành vi cố ý này phải có sự toan tính từ phía người
đe dọa về việc đe dọa người lập di chúc như thế nào, hình thức, địa điểm đe dọa, phương
tiện để thực hiện việc đe dọa… Hậu quả của việc thực hiện hành vi đe dọa là người lập di
chúc phải sợ hãi đến mức phải lập di chúc theo ý muốn của người đe dọa. Việc phải lập di
chúc đó có thể không gây thiệt hại cho người lập di chúc về tính mạng, sức khỏe, tài sản vì
việc đe dọa mới ở mức độ nhẹ. Thực tế cho thấy, người lập di chúc không bao giờ bị thiệt
hại về tài sản cả, vì khi chết, họ không thể mang theo được tài sản mà họ đang có và chỉ
khi người để lại di sản chết thì di chúc mới phát sinh hiệu lực. Vì vậy, đối với đe dọa trong
việc lập di chúc thì người lập di chúc luôn luôn không bị thiệt hại về tài sản. Người bị thiệt
hại về tài sản sẽ là những người thân thích của người lập di chúc vì khối tài sản của người
lập di chúc có hạn, nên cho người này hưởng rồi thì đương nhiên những người khác không
còn để hưởng. Tuy nhiên, do bị đe dọa nên người lập di chúc phải viết di chúc theo ý kiến
của người đe dọa, nên sẽ có ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của người lập di chúc. Ví dụ:
Người lập di chúc tên là Nguyễn Văn A, có 4 con là Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn C,
Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn E. Ông A được C chăm sóc, nuôi dưỡng…, còn B, D, E đối
xử ngược đãi với ông A. Vì vậy, ông A tuyên bố với mọi người là sau này sẽ để lại toàn bộ
tài sản cho C và ông A đã lập di chúc cho C được hưởng toàn bộ tài sản của mình. Biết
được sự việc trên, B, D và E đã bàn bạc với nhau đe dọa buộc ông A phải lập di chúc khác
có nội dung cho B, D, E cùng được hưởng di sản của ông A. Như vậy, việc ông A phải lập
di chúc sau đã ảnh hưởng đến quyền lợi về tài sản của C, nhưng lại ảnh hưởng đến uy tín,
danh dự của người lập di chúc là ông A.
Như đã phân tích, khi bị đe dọa thì người lập di chúc không thể hiện được ý chí tự
nguyện, mà lại thể hiện ý chí của người đe dọa. Vì vậy, trong trường hợp người lập di chúc
bị đe dọa thì di chúc đó bị vô hiệu, không phát sinh hiệu lực pháp luật.
Trong thực tế đã xảy ra không ít những trường hợp mà các đương sự khai là người
lập di chúc bị đe dọa. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác minh, lấy lời khai nhân
chứng, thậm chí kiểm tra cả những vật chứng (nếu có)... Tuy nhiên, việc xác định người
khác đã can thiệp vào việc lập di chúc đến mức độ nào có ý nghĩa quan trọng trong việc
xem xét hiệu lực pháp luật của di chúc. Vấn đề đặt ra là sự can thiệp đó đã đến mức làm
cho người lập di chúc sợ hãi và phải lập di chúc theo ý muốn của người can thiệp hay
chưa? Còn khi đã lập di chúc theo ý chí của người khác thì đương nhiên đã gây thiệt hại
cho người lập di chúc như đã phân tích ở phần trên. Để xem xét về việc người lập di chúc
đã đến mức sợ hãi hay chưa là một vấn đề rất khó, đòi hỏi Tòa án phải cân nhắc kỹ lưỡng
toàn bộ các chứng cứ của vụ án. Trường hợp người can thiệp đã bị bản án của Tòa án xử lý
về hành vi đe dọa rồi thì sẽ có nhiều thuận lợi cho việc xem xét. Ví dụ: Một người có hành
vi đe dọa người lập di chúc để buộc người lập di chúc phải viết di chúc không đúng với ý
chí của người lập di chúc. Để thực hiện hành vi đe dọa của mình, anh ta đã dùng vũ lực và
gây ra thương tích nặng cho người lập di chúc đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bằng bản án hình sự, Tòa án đã xác định có hành vi đe dọa trong việc lập di chúc và có
hành vi cố ý gây thương tích, đồng thời Tòa án đã xử lý về mặt hình sự đối với hành vi cố
ý gây thương tích. Sau đó do người lập di chúc chết, người được thừa kế theo di chúc khởi
kiện yêu cầu được thừa kế theo di chúc. Trong trường hợp này, Tòa án dễ dàng trong việc
tuyên bố về việc di chúc trên không có hiệu lực pháp luật do người lập di chúc bị đe dọa.
Đối với trường hợp các bên có ý kiến khác nhau về việc người lập di chúc có bị đe
dọa trong khi lập di chúc hay không, thì cả hai bên đương sự đều phải có nghĩa vụ chứng
minh theo quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 1-1-
2005). Bên đương sự cho rằng, người lập di chúc bị đe dọa trong khi lập di chúc phải có
nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh. Nếu các chứng cứ do bên khai rằng có việc đe
dọa không đủ hoặc không có cơ sở tin cậy, thì Tòa án công nhận di chúc.
Đã có không ít những trường hợp xảy ra trong thực tế, mặc dù có sự can thiệp của
người khác, nhưng chưa đến mức làm cho người lập di chúc sợ hãi phải viết di chúc trái
với ý muốn của mình. Người lập di chúc vẫn lập di chúc một cách tự nguyện, thể hiện ý
chí của mình. Do vậy, di chúc vẫn có hiệu lực.
2.2.3. Người lập di chúc không bị lừa dối
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác
lập giao dịch đó (Điều 142 Bộ luật dân sự năm 1995). Lừa dối là thủ đoạn có tính toán
trước của người này (người lừa dối) đối với người khác (người bị lừa dối) nhằm làm cho
người bị lừa dối hiểu sai vấn đề, dẫn đến quyết định một việc gì đó theo mục đích đã định
sẵn của người lừa dối. Thủ đoạn của người lừa dối có thể bằng lời nói, có thể bằng hành
động. Mục đích của người lừa dối là làm cho người bị lừa dối hiểu sai vấn đề, dẫn đến
những quyết định không đúng, có lợi cho người lừa dối.
Trong việc lập di chúc, người lừa dối làm cho người lập di chúc hiểu sai lệch về
những người thừa kế, dẫn đến quyết định phân chia di sản theo ý muốn của người lừa dối.
Di chúc là giao dịch dân sự đơn phương, nó chỉ thể hiện ý chí của người lập di
chúc. ý chí của người lập di chúc phải hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt trong khi
minh mẫn và sáng suốt. Mọi hành vi lừa dối, đe dọa, cưỡng ép… người lập di chúc đều bị
coi là trái pháp luật.
Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, hầu như không có
việc các đương sự tranh chấp về di chúc có bị lừa dối hay không. Trường hợp nếu có tranh
chấp, thì việc giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng là vấn đề khó vì việc
chứng minh rằng người lập di chúc bị lừa dối là việc không đơn giản.
2.2.4. Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế,
phân định di sản cho từng người thừa kế
Đây là quyền của người lập di chúc được quy định tại khoản 1 Điều 651 Bộ luật
dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005) [6], [7].
Chỉ định người thừa kế là hành vi của người lập di chúc cho phép người nào đó
được hưởng phần tài sản thuộc sở hữu của mình, thông qua việc lập di chúc. Một nội dung
không thể thiếu được của di chúc đó là: Ai là người được hưởng di sản và được hưởng
những tài sản nào, số lượng, đặc điểm, chủng loại tài sản. Người lập di chúc có quyền chỉ
định người thừa kế là người bất kỳ, mà không bó buộc trong số những người thừa kế theo
pháp luật của người lập di chúc. Người lập di chúc cũng có quyền chia cho người này
nhiều hơn người kia, chia cho người này động sản, người kia bất động sản, người khác
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc
Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc

More Related Content

Similar to Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất- Một số vấn đề lý luận và thực tiễnHợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất- Một số vấn đề lý luận và thực tiễnDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất - Một số vấn đề lý luận và thực...
Luận văn: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất - Một số vấn đề lý luận và thực...Luận văn: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất - Một số vấn đề lý luận và thực...
Luận văn: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất - Một số vấn đề lý luận và thực...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 

Similar to Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc (20)

Quyền Và Nghĩa Vụ Của Cha, Mẹ Sau Ly Hôn, HAY
Quyền Và Nghĩa Vụ Của Cha, Mẹ Sau Ly Hôn, HAYQuyền Và Nghĩa Vụ Của Cha, Mẹ Sau Ly Hôn, HAY
Quyền Và Nghĩa Vụ Của Cha, Mẹ Sau Ly Hôn, HAY
 
Hình thức Di chúc theo quy định của Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005.doc
Hình thức Di chúc theo quy định của Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005.docHình thức Di chúc theo quy định của Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005.doc
Hình thức Di chúc theo quy định của Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005.doc
 
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
 
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAYLuận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
 
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.docThừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
 
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trườngLuận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Luận văn: Pháp luật hợp đồng đáp yêu cầu của nền kinh tế thị trường
 
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.docThừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
 
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.docHoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
 
Chế định giải quyết việc dân sự trong Pháp luật tố tụng dân sự việt nam.doc
Chế định giải quyết việc dân sự trong Pháp luật tố tụng dân sự việt nam.docChế định giải quyết việc dân sự trong Pháp luật tố tụng dân sự việt nam.doc
Chế định giải quyết việc dân sự trong Pháp luật tố tụng dân sự việt nam.doc
 
Thực trạng và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về ...
Thực trạng và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về ...Thực trạng và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về ...
Thực trạng và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về ...
 
Thực trạng và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về ...
Thực trạng và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về ...Thực trạng và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về ...
Thực trạng và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về ...
 
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.docHoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Hoàn Thiện Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
 
Phân Loại Tài Sản Trong Pháp Luật Dân Sự Việt Nam.doc
Phân Loại Tài Sản Trong Pháp Luật Dân Sự Việt Nam.docPhân Loại Tài Sản Trong Pháp Luật Dân Sự Việt Nam.doc
Phân Loại Tài Sản Trong Pháp Luật Dân Sự Việt Nam.doc
 
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân, HOT
 
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất- Một số vấn đề lý luận và thực tiễnHợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất - Một số vấn đề lý luận và thực...
Luận văn: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất - Một số vấn đề lý luận và thực...Luận văn: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất - Một số vấn đề lý luận và thực...
Luận văn: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất - Một số vấn đề lý luận và thực...
 
Luận văn: Vấn đề về thừa kế theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vấn đề về thừa kế theo pháp luật, HOTLuận văn: Vấn đề về thừa kế theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vấn đề về thừa kế theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễn
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 

Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự.doc

  • 1. LUẬN VĂN: Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự"
  • 2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp. Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 quy định các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhưng việc hiểu và áp dụng những quy định đó trong việc giải quyết phân chia di sản thừa kế theo di chúc trên thực tế còn nhiều bất cập. Những khó khăn thường được thể hiện trong việc xác định phải có những điều kiện gì thì di chúc mới được coi là hợp pháp, điều kiện của người lập di chúc, ý chí của người lập di chúc, nội dung của di chúc và hình thức của di chúc. Trong thực tiễn thì các quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc còn có những cách hiểu khác nhau, dẫn tới việc nhận định và quyết định không giống nhau của một số bản án giải quyết cùng một vụ án tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm làm rõ những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 là đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu đề tài, tác giả cũng muốn xác định ý nghĩa của chế định về quyền thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng. Với việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn hoàn thiện hơn nữa những quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhằm mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả điều chỉnh của những quy định này trong Bộ luật dân sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cũng như thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc nói chung và các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng đã được hầu hết các luật gia, các nhà lập pháp của các nước trên thế giới nghiên cứu. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, Bộ luật dân sự của các nước đều quy định về quyền định đoạt bằng di chúc của chủ sở hữu tài sản nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác. Quyền định đoạt bằng di chúc là quyền dân sự được Nhà nước bảo hộ, được ghi nhận trong Hiến pháp của Nhà nước ta và của các nước khác trên thế giới.
  • 3. ở nước ta, việc nghiên cứu về thừa kế theo di chúc nói chung và nghiên cứu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng đã có từ xa xưa. Chúng ta có thể kể đến nhiều bộ luật như: Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung Kỳ... Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các điều kiện có hiệu lực của di chúc cũng đã được các nhà lập pháp nghiên cứu, nhưng những quy định đó còn đơn giản và chưa đầy đủ. Trong số các loại văn bản này, đáng chú ý là Thông tư số 81-TATC ngày 24-7-1981 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp thừa kế (đúc kết từ thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân) và Pháp lệnh Thừa kế ngày 10-9-1990. Chỉ khi Bộ luật dân sự năm 1995 được ban hành thì vấn đề các điều kiện có hiệu lực của di chúc mới được quy định rõ ràng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Bộ luật này, cũng còn nhiều vấn đề cần phải trao đổi. Về kết quả nghiên cứu của các luật gia: Tính đến thời điểm hiện nay cũng đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thừa kế, nhưng chỉ có một số ít công trình nghiên cứu về thừa kế theo di chúc. Đáng chú ý trong các công trình nghiên cứu này, phải kể đến đề tài: "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay" của tiến sĩ Phùng Trung Tập; đề tài: "Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam" của tiến sĩ Phạm Văn Tuyết; cuốn sách: "Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam" của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện... Tuy nhiên, những công trình trên không nghiên cứu riêng và có tính hệ thống về các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Nhận thức được vấn đề này, tác giả luận văn đã nghiên cứu trong một diện hẹp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc để nhằm làm sáng tỏ việc xác định các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Với kết quả nghiên cứu của đề tài: "Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự" sẽ giúp các cơ quan lập pháp ban hành các văn bản dưới luật để hoàn thiện những quy định về điều kiện có hiệu lực của di chúc, đồng thời giúp các cơ quan áp dụng pháp luật trong việc nhận thức đúng đắn và toàn diện khi giải quyết những tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
  • 4. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Nội dung của luận văn không nghiên cứu toàn diện những quy định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng, mà chỉ tập trung nghiên cứu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc được quy định trong Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 và có sự đối chiếu với những quy định tương ứng trong Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 (có hiệu lực kể từ ngày 1- 1-2006). Qua đó, tác giả so sánh, đối chiếu với những quy định pháp luật trước khi Bộ luật dân sự được ban hành để làm nổi bật tính hiện đại của những quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Mặt khác, đề tài cũng có sự so sánh (ở diện hẹp) về các điều kiện có hiệu lực của di chúc ở các nước như Nhật Bản, Cộng hòa Pháp với Việt Nam để làm nổi bật những nét đặc thù và tính hiện đại của pháp luật Việt Nam quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Trong quá trình nghiên cứu, một số các quy định của pháp luật có liên quan đến nội dung của đề tài cũng được tìm hiểu như: Năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, giao dịch dân sự... theo pháp luật dân sự Việt Nam để có sự so sánh, đối chiếu, với mục đích làm nổi bật những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của pháp luật ở Việt Nam. - Luận văn tập trung nghiên cứu có hệ thống và toàn diện từng điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005, hiệu quả điều chỉnh của những quy định pháp luật về các điều kiện đó. Luận văn tìm ra những điểm phù hợp với đời sống xã hội và những điểm cần phải bổ sung các quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự. - Qua nghiên cứu, tác giả luận văn có những kiến nghị nhằm hoàn thiện một bước những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc, giúp các nhà lập pháp bổ sung những quy định còn thiếu về các điều kiện có hiệu lực của di chúc để đáp
  • 5. ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội trong quan hệ thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng. 5. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, những phương pháp khoa học khác như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà đề tài đã đặt ra. Một số vụ án giải quyết tranh chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc cũng được sử dụng có chọn lọc để bình luận và các số liệu thống kê của ngành Tòa án nhân dân cũng được tham khảo để việc nghiên cứu được toàn diện và sâu sắc hơn. 6. Kết quả đạt được và những điểm mới của luận văn - Luận văn phân tích có hệ thống những quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra những quy định phù hợp với quan hệ thừa kế theo di chúc và những điểm còn bất cập về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995, những điểm cần hướng dẫn thực hiện theo Bộ luật dân sự năm 2005. - Kết quả nghiên cứu đề tài, tác giả đã có những điểm mới sau đây: + Đây là đề tài khoa học được nghiên cứu lần đầu tiên ở nước ta ở cấp thạc sĩ luật học. + Luận văn hệ thống hóa được những quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, làm cơ sở để nghiên cứu toàn diện và hệ thống những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. + Luận văn chỉ ra những hạn chế, những vấn đề còn thiếu của những quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 1995, phân tích những quy định về các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự
  • 6. năm 2005, qua đó có những kiến nghị khoa học nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong Bộ luật dân sự năm 2005. + Luận văn chỉ ra được những bất cập trong việc hiểu không đúng các quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời có những kiến nghị để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành những văn bản hướng dẫn cần thiết. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 10 mục.
  • 7. Chương 1 Khái quát chung về di chúc 1.1. Vài nét về thừa kế và quyền thừa kế Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ thừa kế đã tồn tại như một yếu tố khách quan. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Thừa kế và để lại thừa kế mặc dù chưa được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, nhưng nó vẫn tồn tại một cách khách quan trong xã hội. ở thời kỳ này, quan hệ thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Khi có tư hữu, nhà nước ra đời, quyền thừa kế được pháp luật quy định, bảo vệ. Mỗi nhà nước khác nhau có hệ thống những quy phạm pháp luật về thừa kế khác nhau. Pháp luật thừa kế thể hiện rõ bản chất giai cấp. Quyền thừa kế với tư cách là một chế định pháp luật, luôn gắn liền với một nhà nước nhất định. Trong chế độ phong kiến và tư bản, giai cấp bóc lột chiếm hữu hầu hết tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Các quy định của pháp luật thừa kế phong kiến và tư bản đảm bảo sự chuyển dịch tài sản từ người bóc lột này sang người bóc lột khác. Qua việc chuyển dịch tài sản bằng hình thức thừa kế, giai cấp tư sản, giai cấp phong kiến duy trì sự thống trị cả về chính trị và kinh tế. Bằng công cụ pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng, giai cấp bóc lột duy trì sự thống trị xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác qua việc nắm giữ các tư liệu sản xuất, để từ đó nắm giữ thành quả lao động của xã hội. Có thể nhận thấy rằng, bản thân thừa kế không tạo ra quyền thống trị cho giai cấp bóc lột mà nó chỉ duy trì quyền lực đó mà thôi. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân lao động. Vì vậy, pháp luật thừa kế trước hết đảm bảo cho công dân yên tâm lao động, sản xuất, hưởng thành quả lao động của mình và có quyền để lại thành quả lao động đó cho người khác theo di
  • 8. chúc hoặc theo pháp luật khi người đó chết. Pháp luật về thừa kế trong chế độ xã hội chủ nghĩa đã động viên, khuyến khích được nhân dân trong việc tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. 1.2. Di chúc và đặc điểm của di chúc 1.2.1. Di chúc Theo quy định tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 và Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005: "Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết". Di chúc chính là phương tiện để phản ánh ý chí của người có tài sản trong việc định đoạt tài sản của họ cho người khác hưởng sau khi người lập di chúc chết. Một người có thể có nhiều bản di chúc định đoạt một loại tài sản và những di chúc này đều thể hiện ý chí tự nguyện của họ, phù hợp với những quy định của pháp luật nhưng không phải tất cả các di chúc trên đều phát sinh hiệu lực mà di chúc có hiệu lực pháp luật là di chúc thể hiện ý chí sau cùng của người lập di chúc. Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định. Theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 649 Bộ luật dân sự năm 2005), di chúc được thể hiện dưới hai hình thức: Di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Pháp luật chỉ cho phép người lập di chúc miệng trong những trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 654 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2005). Về chữ viết trong di chúc cũng được pháp luật quy định: Đối với người dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình. Với những quy định trên, pháp luật dân sự nước ta đã có những quy định cụ thể về di chúc. Cùng chung sống trên đất nước ta gồm có nhiều dân tộc, nên pháp luật dân sự cũng đã tính đến yếu tố lịch sử, nhận thức… tạo điều kiện cho mọi cá nhân thực hiện quyền lập di chúc, nếu cá nhân đó có năng lực lập di chúc theo luật định. Đối với di chúc bằng văn bản, pháp luật quy định có 4 loại di chúc bằng văn bản: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực.
  • 9. Quyền của người lập di chúc được pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự năm 1995, bao gồm những quyền sau: - Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; - Phân định phần di sản cho từng người thừa kế; - Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; - Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản; - Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. Trong thực tế thì không phải bất cứ người lập di chúc nào cũng thực hiện đúng các quyền được ghi nhận trên, hoặc là sử dụng một phần, hoặc lại sử dụng quá cả phần quyền được pháp luật quy định. Về thực hiện quyền phân định di sản thì người lập di chúc cũng có sự phân định di sản khác nhau: Có di chúc chỉ phân định một phần di sản cho người thừa kế, còn một phần di sản di chúc không nhắc đến. Trên thực tế cũng có những di chúc định đoạt cả phần tài sản của người khác (thường là định đoạt toàn bộ tài sản chung vợ chồng). Trong trường hợp này, di chúc chỉ có hiệu lực một phần tương ứng với di sản của người lập di chúc. Theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp thì di chúc có nhiều điểm tương tự như pháp luật dân sự nước ta, được thể hiện: Điều 895 quy định: "Di chúc là một chứng thư theo đó người để lại di chúc định đoạt sau khi chết, một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình, người đó có thể hủy bỏ di chúc" [5]. Điều 967 quy định: "Mọi người đều có thể định đoạt bằng di chúc để lập thừa kế hoặc để di tặng hoặc được gọi bằng bất cứ tên nào khác để thể hiện ý chí của mình" [5]. Điều 969 quy định: "Di chúc có thể viết tay, lập công chứng thư hoặc di chúc bí mật" [5]. Còn Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định di chúc tuy có những đặc trưng riêng, nhưng về cơ bản các quy định cũng tương tự như Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp. Pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp và pháp luật dân sự Nhật Bản còn có quy định hình thức của di chúc bí mật. Bản chất của di chúc bí mật tương tự như di chúc được
  • 10. lập tại công chứng nhà nước ở nước ta, nhưng có thủ tục chặt chẽ hơn (chúng tôi xin phân tích kỹ hơn ở phần hình thức của di chúc). 1.2.2. Đặc điểm của di chúc Di chúc có những đặc điểm riêng biệt so với các giao dịch dân sự khác ở những điểm sau: Trước hết, di chúc chính là sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc. ý chí đơn phương này được thể hiện qua việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc không phải bàn bạc với bất kỳ ai trong việc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (trường hợp lập di chúc chung vợ chồng thực chất thì vẫn là phần tài sản của ai thì người đó có quyền định đoạt). Người lập di chúc không có nghĩa vụ phải trao đổi với những người thừa kế về nội dung di chúc. Người lập di chúc phải tự nguyện, không bị đe dọa, cưỡng ép trong việc lập di chúc. Di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc, không bị sự chi phối nào của người khác. Bằng việc lập di chúc, người để lại di sản đã xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế theo di chúc. ý chí đơn phương của người lập di chúc còn được thể hiện việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho ai bao nhiêu phần trăm số tài sản thuộc quyền sở hữu của mình mà không phụ thuộc vào việc người được hưởng thừa kế theo di chúc có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích với người lập di chúc. Người lập di chúc có thể cho người này nhiều, người kia ít, hoặc không cho người nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Như vậy, nếu như trong tất cả các loại hợp đồng dân sự đều phải thể hiện ý chí của các bên tham gia hợp đồng và các bên đều phải tự nguyện thỏa thuận, bàn bạc, trao đổi..., thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của bên lập di chúc. Hợp đồng dân sự chỉ phát sinh hiệu lực khi các bên tham gia hợp đồng thống nhất được những điều khoản ghi nhận trong hợp đồng và cùng nhau ký kết hợp đồng, còn trong di chúc thì không có sự thống nhất giữa người lập di chúc và người được thừa kế theo di chúc. Thực tế đã có nhiều trường hợp người được hưởng thừa kế theo di chúc không thể biết mình có quyền được hưởng di sản theo di chúc vì di chúc chưa được công bố và được cất giữ bí mật.
  • 11. Đối với những di chúc do vợ chồng lập chung, trong đó mặc dù thể hiện ý chí chung của hai người, nhưng thực chất vẫn thể hiện ý chí đơn phương của từng người trong việc định đoạt tài sản chung (ý chí đơn phương của chồng và vợ trùng nhau trong việc định đoạt tài sản chung vợ chồng). Mặt khác, di chúc chung của vợ chồng vẫn chỉ thể hiện ý chí của một bên - bên chuyển giao tài sản. ý chí đơn phương này là đặc điểm khác biệt của di chúc với các loại giao dịch dân sự khác. Đây không phải chỉ riêng di chúc theo pháp luật dân sự Việt Nam mà pháp luật dân sự của hầu hết các nước thì vấn đề này cũng được quy định rõ như: Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp, Đức… Đặc điểm thứ hai: Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di chúc nhằm chuyển dịch tài sản cho người khác, sau khi người lập di chúc chết. Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của các chủ thể nhằm chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác thì di chúc lại nhằm chuyển dịch tài sản của người đã chết sang cho người còn sống. Người thừa kế theo di chúc phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Thực tế cho thấy không phải bất cứ ai trước khi chết cũng lập di chúc, mà có người trước khi chết họ chỉ để lại những lời dặn dò, ví dụ: Dặn dò các con phải thương yêu nhau, phải cố gắng học tập, tránh xa các thói hư, tật xấu... Với khái niệm về di chúc tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005) thì di chúc phải thể hiện việc chuyển dịch tài sản của người lập di chúc cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Vì vậy, nếu như một tài liệu nào đó của người chết để lại mà không hàm chứa nội dung chuyển tài sản cho người khác, thì không thể được coi là di chúc. Pháp luật cho phép công dân có quyền định đoạt tài sản, trong đó có việc để lại di sản thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật cũng chỉ công nhận khi di chúc của công dân đó thỏa mãn những điều kiện nhất định. Trong thực tiễn đã có không ít những di chúc không tuân theo những quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, dẫn tới di chúc không được công nhận hoặc chỉ được công nhận một phần. Đặc điểm thứ ba: Di chúc là một loại giao dịch dân sự đặc biệt, chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết.
  • 12. Khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định: "Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế" [6], [7]. Về thời điểm mở thừa kế, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định của pháp luật. Đây là một đặc điểm thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa di chúc với các loại giao dịch dân sự khác, ví dụ như hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, còn thời điểm có hiệu lực của di chúc lại phụ thuộc vào thời điểm mà người lập di chúc chết hoặc thời điểm mà quyết định của Tòa án tuyên bố người lập di chúc chết có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, việc xác định đúng thời điểm mở thừa kế (thời điểm người lập di chúc chết) có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc. Mặt khác, xác định đúng thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định di chúc nào là di chúc có hiệu lực trong trường hợp một người có nhiều di chúc. Di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc và người lập di chúc có quyền thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung di chúc hay hủy bỏ di chúc. Sự thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể được thể hiện dưới hình thức người đó lập di chúc mới ghi nhận về việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc, nhưng cũng có thể bằng di chúc mới (mặc dù không nói rằng thay đổi hay hủy bỏ di chúc) người lập di chúc định đoạt tài sản mà nội dung định đoạt khác với di chúc đã viết trước đó. Việc đánh giá hiệu lực của di chúc như vậy dựa theo quy định tại khoản 5 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995: "Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ có bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật" [6]. Tóm lại, khi người lập di chúc còn sống thì di chúc dù có phù hợp với các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, thì di chúc cũng chưa phát sinh hiệu lực. Do di chúc chưa phát sinh hiệu lực (khi người lập di chúc chưa chết) nên những người thừa kế theo di chúc chưa có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản mà họ sẽ được hưởng. Quyền đối với tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc cho đến khi người lập di chúc chết.
  • 13. 1.3 Tiến trình phát triển của những quy định pháp luật về thừa kế nói chung và các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng ở Việt Nam 1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945 Dưới chế độ phong kiến, đời sống của nhân dân ta vô cùng khổ cực vì chế độ sưu cao, thuế nặng. Người nông dân chiếm đại đa số trong xã hội, nhưng bị trói buộc bởi ruộng đất của địa chủ, phong kiến. Giai cấp địa chủ chiếm số ít trong xã hội nhưng lại nắm đa số các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhà nước phong kiến dùng pháp luật trong đó có pháp luật về thừa kế để duy trì và củng cố quyền sở hữu của giai cấp địa chủ đối với ruộng đất từ đời này sang đời khác. Chế độ phong kiến đã tồn tại ở nước ta qua nhiều thế kỷ. Trải qua nhiều triều đại, mỗi Nhà nước phong kiến đều ban hành các văn bản pháp luật để củng cố quyền lực và phục vụ việc quản lý đất nước. Từ xa xưa, các bộ cổ luật của các triều đại phong kiến đã có nhiều quy định cụ thể về thừa kế. Đáng chú ý của thời kỳ phong kiến là: Bộ luật Hồng Đức (năm 1943), Bộ luật Gia Long (năm 1815), Bộ Dân luật Bắc kỳ (năm 1931), Bộ Dân luật Trung kỳ (năm 1936). Ngoài các bộ luật, các nhà nước phong kiến còn ban hành nhiều văn bản như chiếu, chỉ, dụ, lệnh của vua… Trong Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật hoặc Luật hình triều Lê có quy định tôn trọng ý muốn và quyền quyết định của người có tài sản. Điều 388 Bộ luật Hồng Đức quy định: Cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruộng đất làm hương hỏa, giao cho người con trai trưởng giữ, còn thì chia nhau. Phần con của vợ lẽ, nàng hầu, thì phải kém. Nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư, thì phải theo đúng, trái thì mất phần mình. Điều 390 Bộ luật Hồng Đức quy định: "Người làm cha mẹ phải liệu tuổi già mà lập sẵn chúc thư…" [11]. Như vậy, Bộ luật Hồng Đức đã quy định quyền lập chúc thư để lại di sản, đặc biệt là những người tuổi cao.
  • 14. Di chúc được lập dưới dạng văn bản gọi là chúc thư. Bộ luật Hồng Đức cũng quy định về hình thức lập di chúc tại Điều 366: "Những người làm chúc thư, văn khế mà không nhờ quan trưởng trong làng viết thay và chứng kiến, thì phải phạt 80 trượng, phạt tiền theo việc nặng nhẹ. Chúc thư văn khế ấy không có giá trị. Nếu biết chữ mà viết lấy thì được" [11]. Như vậy, người có tài sản có thể tự mình viết chúc thư. Nếu người để lại di sản không biết chữ thì chỉ được phép nhờ quan trưởng viết thay, không được nhờ người khác. Nếu nhờ người khác viết hộ di chúc mà không nhờ quan trưởng thì ngoài việc bị phạt, di chúc không có giá trị, di sản được chia theo pháp luật. Vấn đề hình thức lập di chúc trong thời kỳ này đã được coi trọng. Bộ luật Gia Long (hay còn gọi là Hoàng Việt luật lệ) là phiên bản của Bộ luật Mãn Thanh (Trung Quốc). Bộ luật không thừa nhận quyền thừa kế của con gái mà chú trọng đến quyền lợi của con trai, thể hiện rõ việc trọng nam khinh nữ. Bộ luật cũng công nhận vai trò của việc thừa kế theo di chúc, thể hiện tại Điều 388 Bộ luật này quy định: "Nếu có mệnh lệnh của cha mẹ, phải theo đúng. Vi phạm điều này sẽ mất phần" [9]. Bộ Dân luật Bắc kỳ được ban hành bằng một Nghị định của Thống sứ Bắc kỳ ngày 30-3-1931. Bộ luật bao gồm 1.464 điều, được chia làm 4 quyển. Quyển thứ nhất bao gồm 12 thiên quy định về gia đình, chế độ hôn sản và thừa kế, trong đó có 17 điều luật quy định về thừa kế theo di chúc. Nội dung của bộ luật phản ánh được những phong tục, tập quán của người Việt Nam như: Việc thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng truyền thống và đặc trưng của người Việt Nam… Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định người lập di chúc có quyền dành một phần di sản để thờ cúng. Việc chăm sóc nuôi dưỡng nhau giữa những người trong cùng một gia đình được coi là bổn phận của đạo đức. Bộ luật quy định con cháu không được phân chia khối tài sản của gia đình khi cha mẹ còn sống nếu không được sự đồng ý của họ. Con cháu của người chết buộc phải nhận di sản của người đó và thay họ thực hiện các nghĩa vụ về tài sản mà họ để lại... Bộ luật còn quy định cha mẹ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái, phải đảm bảo cho cuộc sống lâu dài của con cái nên họ phải để lại tài sản của mình cho những người ở thế hệ sau khi họ chết. Điều 321 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định người vợ không có quyền
  • 15. lập di chúc để định đoạt tài sản riêng của mình nếu không được người chồng đồng ý. Người cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình tùy theo ý mình, nhưng phải giữ quyền lợi cho người vợ chính. Người lập chúc thư có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người trong những người được thừa kế. Việc truất quyền thừa kế phải lập thành văn bản do viên quản lý văn khế lập hoặc do lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư. Chúc thư phải làm thành văn bản hoặc do viên quản lý văn khế làm ra hoặc có công chứng thị thực. Chúc thư không có viên chức thị thực phải do người lập chúc thư viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên làm chứng. Người làm chứng thường là lý trưởng tại nơi trú quán của người lập chúc thư, nếu ở xa không về nơi trúquán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởngnơi hiện ở của người lập chúc thư (Điều 326 Dân luật Bắc kỳ). Chúc thư phải ghi rõ ngày, tháng năm lập chúc thư; tên, họ, tuổi, nơi trú quán của người làm chứng. Chúc thư khi đã làm xong thì lý trưởng đọc to cho mọi người cùng nghe rồi lý trưởng, người lập chúc thư, người viết hộ (nếu có) và những người làm chứng cùng ký tên vào văn bản. Có bao nhiêu người được thừa kế thì chúc thư được làm thành bấy nhiêu bản gốc để gửi cho mỗi người thừa kế một bản. Khi người lập chúc thư muốn thay đổi một phần hay toàn bộ chúc thư, thì bản chúc thư sau phải tiến hành đúng những thủ tục trên và phải nêu rõ việc người lập chúc thư thay đổi một phần hay toàn bộ bản chúc thư, nếu không nói rõ thì chỉ những điều khoản nào không hợp hoặc có trái với bản chúc thư sau mới bị bỏ mà thôi. Điều 113 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: Khi người vợ chết trước, người chồng trở thành chủ sở hữu duy nhất tất cả của cải chung trong đó có cả phần của vợ (tức là tài sản riêng của vợ). Còn nếu chồng chết thì người vợ chỉ có quyền hưởng dụng tài sản riêng của chồng khi không còn người thừa kế nào bên nội, bên ngoại của chồng (Điều 346). Nếu người vợ góa tái giá thì tài sản riêng của chồng phải trả lại nhà chồng, tài sản riêng của vợ được mang theo đi, còn tài sản của vợ chồng thì để lại cho con (Điều 360) [14]. Bộ luật Trung kỳ hay còn gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật gồm 1709 điều, được chia làm 5 quyển. Có thể nói, Bộ luật này hầu như sao chép lại nhiều điều khoản trong Bộ luật Bắc kỳ, ví dụ: Điều 341 Bộ luật Trung kỳ giống Điều 346 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 359 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 360 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 111 Bộ Dân
  • 16. luật Trung kỳ giống Điều 113 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 313 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 321 Bộ Dân luật Bắc kỳ... [15]. 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1990 Với thắng lợi rực rỡ của Cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu một trang sử mới của cách mạng nước ta. Ngay sau khi thành lập, nhà nước non trẻ đã phải đối phó với rất nhiều những khó khăn cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội… Để giữ vững thành quả cách mạng, Nhà nước ta đã có những chính sách vừa mềm dẻo, vừa cương quyết để tập trung quyền lực về tay Nhà nước. Trong thời kỳ này, những vấn đề lớn đều được điều chỉnh bằng các Sắc lệnh, còn những vấn đề thuộc về dân sự thì Nhà nước vẫn cho phép áp dụng các văn bản cũ, nếu nó không trái nguyên tắc vi phạm đến độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa (Sắc lệnh số 90/SL ngày 10-9-1945). Trong quan hệ về thừa kế, Nhà nước ta vẫn cho phép áp dụng các quy định trong các Bộ Dân luật Bắc kỳ, Bộ Dân luật Trung Kỳ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội thì những điều khoản của các Bộ dân luật trở nên lạc hậu. Để xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-5- 1950. Điều 5 của Sắc lệnh quy định: "Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình". Về thừa kế cũng được Sắc lệnh quy định: Con cháu hoặc vợ chồng của người chết cũng không bắt buộc phải nhận thừa kế của người ấy. Khi nhận thừa kế thì các chủ nợ của người chết cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại (Điều 10). Trong lúc còn sinh thời người chồng góa hay vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung (Điều 11) [38]. Với những quy định này, tuy còn ở mức độ nhất định nhưng nó đã thể hiện sự tiến bộ vượt bậc của pháp luật nói chung và về thừa kế nói riêng so với Bộ dân luật Bắc kỳ và Bộ dân luật Trung kỳ. Sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 đã đánh dấu bước trưởng thành lớn của công tác lập pháp nước ta. Quyền thừa kế được Hiến pháp ghi nhận tại Điều 19: "Nhà nước chiểu theo pháp luật để bảo hộ quyền thừa kế về tài sản của công dân" [24]. Đây là một
  • 17. nguyên tắc Hiến định, là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền thừa kế cho công dân. Ngày 29-12-1959 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Luật Hôn nhân và gia đình, có hiệu lực thi hành từ 13-1-1960 (gọi là Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959). Với Luật hôn nhân và gia đình đầu tiên này đã phá bỏ chế độ gia đình phụ quyền của chế độ cũ, đảm bảo chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng. Vợ chồng có quyền bình đẳng trong mọi quyền lợi, trong đó có quyền thừa kế tài sản của nhau; con cái trong và ngoài giá thú cũng được đối xử bình đẳng... [31]. Để thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Tòa án nhân dân tối cao đã thường xuyên tổng kết công tác xét xử, ban hành nhiều thông tư, hướng dẫn cho Tòa án các địa phương trong việc áp dụng thống nhất pháp luật. Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 1964 của ngành Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn việc xét xử của Tòa án cấp dưới trong việc xét xử các vụ án tranh chấp di sản thừa kế. Theo tổng kết này thì có ba hàng thừa kế sau: - Hàng thừa kế thứ nhất: Vợ góa hay chồng góa; các con đẻ và con nuôi của người chết; bố mẹ mất sức lao động được người để lại di sản nuôi dưỡng. - Hàng thừa kế thứ hai: Bố mẹ còn sức lao động. - Hàng thừa kế thứ ba: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi. Ngày 27-8-1968, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 594/NCPL hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp thừa kế. Thông tư đã nêu rõ các đặc điểm cơ bản (thực chất là các nguyên tắc) của chế độ thừa kế của nhà nước ta: Nam nữ bình đẳng về quyền thừa kế, người thừa kế được hưởng các quyền tài sản của người chết để lại và phải chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi giá trị tài sản nhận được, tôn trọng quyền định đoạt bằng di chúc của người có di sản, đồng thời bảo vệ thích đáng quyền lợi của một số người thừa kế theo luật. Thông tư nói rõ: Di sản thừa kế bao gồm không những quyền sở hữu cá nhân về những tài sản mà người chết để lại mà còn gồm cả những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản phát sinh do quan hệ hợp đồng hoặc do việc gây thiệt hại mà người chết để lại. Về thừa kế theo pháp luật, Thông tư đưa ra khái niệm diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật, thứ tự hưởng di sản căn cứ vào hàng
  • 18. thừa kế. Diện những người thừa kế theo pháp luật gồm: Vợ góa (vợ cả góa và vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, con đẻ và con nuôi, bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột. Như vậy, trong diện những người thừa kế theo pháp luật có thêm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Những người trong diện thừa kế được xếp làm hai hàng thừa kế: Hàng thừa kế thứ nhất: Vợ góa (vợ cả góa và vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi, bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi. Hàng thừa kế thứ hai: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Thông tư đã ghi nhận: Anh chị em cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ có quan hệ huyết thống với nhau không hoàn toàn nhưng trong nhiều gia đình họ đối xử với nhau thân mật không khác gì anh chị em cùng cha, cùng mẹ. Do đó, cần xác định họ có quyền thừa kế di sản của nhau. Về thừa kế theo di chúc: Thông tư 594 xác nhận quyền tự do định đoạt theo di chúc nhưng không được trái với chính sách và pháp luật hiện hành, không trái với tinh thần đoàn kết, tương trợ trong gia đình và phải bảo đảm đời sống cho vợ hoặc chồng, con vị thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất sức lao động và cha mẹ già yếu, túng thiếu. Do đó, người lập di chúc khi định đoạt tài sản của mình phải giữ một phần tài sản cho những người nói trên. Phần di sản bắt buộc phải dành lại cho những người này nên tính tùy theo tình hình di sản và số người thừa kế cần được bảo vệ quyền lợi, nó không nên quá thấp so với phần di sản mà họ đáng lẽ được hưởng nếu không có di chúc. Trường hợp di chúc không dành phần bắt buộc thích đáng cho những người nói trên thì cần phải điều chỉnh lại. Phần di sản dư ra sau khi đã dành những phần bắt buộc, Tòa án vẫn chiếu theo di chúc để chia cho người thừa kế được chỉ định trong di chúc. Thông tư số 594 ngày 27-8-1968 của Tòa án nhân dân tối cao đã xóa bỏ quan điểm của Dân luật cũ thời Pháp thuộc (Điều 321 Dân luật Bắc kỳ, Điều 313 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật) về quyền tự do tuyệt đối khi lập di chúc. Đây là vấn đề mới từ thực tiễn xét xử nên ở thời điểm đó Tòa án nhân dân tối cao chưa thể ấn định cụ thể phần di sản bắt buộc này là bao nhiêu [41].
  • 19. Với thắng lợi to lớn của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước ta đã hoàn toàn thống nhất năm 1975. Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước tháng 7-1976, Nhà nước ta lấy tên là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 25-3-1977 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/CP quy định về việc thực hiện thống nhất pháp luật trên cả nước. Kể từ thời điểm này, pháp luật đã được áp dụng thống nhất trong toàn quốc. Tuy nhiên, ở giai đoạn này vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định riêng về thừa kế. Trước sự thay đổi lớn của đất nước, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã thông qua bản Hiến pháp (gọi là Hiến pháp 1980) - Hiến pháp đầu tiên trong thời kỳ thống nhất đất nước - là cơ sở nền tảng cho việc phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về thừa kế theo di chúc nói riêng. Hiến pháp năm 1980 là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản của Nhà nước. Hiến pháp đã quy định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… tạo tiền đề, cơ sở pháp lý cho việc ban hành các văn bản pháp luật về thừa kế sau này. Điều 27 Hiến pháp năm 1980 quy định: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ. Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân". Hiến pháp năm 1980 cũng quy định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, sự bình đẳng giữa nam và nữ, Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt, đối xử giữa các con... Hiến pháp năm 1980 đã quy định đất đai thuộc sở hữu nhà nước. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật [25]. Để đảm bảo thống nhất đường lối xét xử, trên cơ sở tổng kết công tác xét xử, đồng thời bổ sung một số vấn đề cho phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 1980, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 81-TANDTC ngày 24-7-1981 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế. Ngay từ Phần nguyên tắc chung (Phần I), Thông tư đã quy định về quyền lập di chúc của công dân để định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Nếu
  • 20. không có di chúc thì mới chia thừa kế theo pháp luật, tôn trọng quyền định đoạt bằng di chúc của người có di sản, đồng thời bảo hộ thích đáng quyền lợi của một số người thừa kế theo luật (người thừa kế bắt buộc không phụ thuộc vào nội dung di chúc), phụ nữ và nam giới bình đẳng về quyền lập di chúc, người thừa kế có quyền nhận hay không nhận di sản thừa kế, người nhận thừa kế được hưởng các tài sản và các quyền về tài sản của người chết để lại, đồng thời phải chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ về tài sản mà người chết để lại trong phạm vi giá trị tài sản đã nhận được. Thông tư số 81 đã hướng dẫn về việc xác định di sản thừa kế, diện và hàng thừa kế, việc phân chia di sản thừa kế... Đặc biệt, Thông tư đã dành chương IV để hướng dẫn về thừa kế theo di chúc, trong đó quy định rõ về hình thức của di chúc, quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc, nghĩa vụ phải dành lại một phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc của người lập di chúc (hạn chế quyền của người lập di chúc)… Những người thừa kế bắt buộc gồm: Vợ góa hoặc chồng góa, con chưa thành niên hoặc tuy đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, bố mẹ già yếu và túng thiếu. Phần di sản phải dành cho mỗi người thừa kế bắt buộc ít nhất là 2/3 suất của thừa kế theo pháp luật [44]. Ngày 29-12-1986 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 3-1-1987 đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật hôn nhân gia đình nước ta, thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Luật hôn nhân và gia đình 1986 có những điều khoản quan trọng đối với những quy định của pháp luật thừa kế. Ví dụ: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 xác định nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình là cơ sở cho pháp luật thừa kế xác định ai là người thừa kế được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc [32]. Thắng lợi của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã tạo bước ngoặt mới trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã bị xóa bỏ, nền kinh tế nhiều thành phần (trong đó có kinh tế tư nhân) đã được pháp luật thừa nhận và khuyến khích phát triển. Ngày 29-12-1987 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Đất đai (gọi là Luật Đất đai năm 1987). Luật Đất đai đã quy định chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai và đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho người sử dụng đất để sử dụng ổn định, lâu dài hoặc tạm thời, có thời hạn. Điều 5 của Luật
  • 21. Đất đai năm 1987 quy định: "Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn, chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức, nhận đất được giao mà không sử dụng, sử dụng đất không đúng mục đích, tự tiện sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác, làm hủy hoại đất đai". Nhà nước bảo đảm cho người sử dụng đất được hưởng những quyền lợi hợp pháp trên đất được giao, kể cả quyền chuyển, nhượng, bán thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao khi không còn sử dụng đất và đất đó được giao cho người khác sử dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định [28]. 1.3.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến 1 tháng 7 năm 1996 Để đáp ứng với sự biến động, phát triển không ngừng của xã hội, ngày 30-8-1990 Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh Thừa kế, có hiệu lực từ ngày 10-9-1990. Đây là văn bản pháp luật có hệ thống và ở tầm văn bản pháp lý cao nhất về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng kể từ ngày thành lập nước. Pháp lệnh Thừa kế gồm 38 điều, được chia làm 6 chương, trong đó đã xác định được những nguyên tắc cơ bản về thừa kế, về quyền bình đẳng về thừa kế của công dân. Pháp lệnh Thừa kế đưa ra những khái niệm về: Thời điểm mở thừa kế, địa điểm mở thừa kế, di sản, người thừa kế… Thừa kế theo di chúc được Pháp lệnh quy định tại chương II từ Điều 10 đến Điều 23. Pháp lệnh đã quy định về quyền của người lập di chúc. Theo quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh thì công dân có quyền lập di chúc để chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một hoặc nhiều người trong hoặc ngoài các hàng thừa kế theo pháp luật, cũng như cho Nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế. Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, phân định tài sản cho người thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lý do. Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung di chúc đã lập, thay thế di chúc đã lập bằng di chúc khác, hủy bỏ di chúc. Pháp lệnh Thừa kế cũng quy định về di chúc hợp pháp là di chúc do người từ đủ mười tám tuổi trở lên tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật. Di chúc cũng được coi là hợp pháp nếu do người từ đủ mười sáu tuổi trở lên nhưng chưa đủ mười tám tuổi tự nguyện lập trong khi minh mẫn và phải
  • 22. được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật. Di chúc do công dân Việt Nam lập ở nước ngoài theo pháp luật của nước ngoài, nếu có nội dung không trái với pháp luật Việt Nam cũng được coi là di chúc hợp pháp. Về nội dung của di chúc được Pháp lệnh quy định tại Điều 13: Trong bản di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc, họ, tên và nơi thường trú của người lập di chúc, họ, tên người được hưởng di sản, tên cơ quan tổ chức được hưởng di sản… Đặc biệt, Pháp lệnh quy định rõ về việc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Pháp lệnh quy định về hiệu lực của di chúc viết được cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân chứng thực, di chúc viết được cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài chứng thực, di chúc viết không có chứng thực, xác nhận và di chúc miệng… Pháp lệnh Thừa kế đã quy định cụ thể về những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc tại Điều 20. Theo quy định này thì trong trường hợp không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, thì con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên không đủ khả năng lao động và túng thiếu của người lập di chúc vẫn được hưởng phần di sản bằng ít nhất là hai phần ba suất đó, trừ trường hợp họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Pháp lệnh. Đây là sự kế thừa và pháp điển hóa so với quy định về người thừa kế bắt buộc tại Thông tư số 81-TANDTC ngày 24-7-1981 của Tòa án nhân dân tối cao. Pháp lệnh cũng quy định về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc, hiệu lực của di chúc, di sản dùng vào việc thờ cúng [35]. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới do sự đổi mới toàn diện của đất nước kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng, Quốc hội nước ta đã sửa đổi Hiến pháp năm 1980. Hồi 11 giờ 45 phút ngày 15-4-1992 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 11 đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định về việc tiếp tục đưa đất nước ta đi theo con đường chủ nghĩa xã hội,
  • 23. phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tư tưởng chủ đạo này, trong chương II về chế độ kinh tế, Hiến pháp đã quy định việc đảm bảo tính thống nhất của sự phát triển kinh tế sao cho nền kinh tế được phát triển theo cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế khác nhau theo định hướng xã hội chủ nghĩa... Hiến pháp năm 1992 đã quy định về quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, quyền bình đẳng giữa nam và nữ, Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt, đối xử giữa các con. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác... Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân". Hiến pháp năm 1992 quy định về việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước. Để thi hành Hiến pháp năm 1992, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX đã thông qua Luật Đất đai năm 1993, có hiệu lực kể từ 15-10-1993. Kể từ đây, việc "được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật" của tổ chức và cá nhân theo quy định tại Điều 18 Hiến pháp năm 1992 đã được thể chế hóa. Khoản 2 Điều 3 Luật Đất đai năm 1993 quy định: Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất. Các quyền nói trên chỉ được thực hiện trong thời hạn giao đất và đúng mục đích sử dụng của đất được giao theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật. Điều 76 Luật Đất đai năm 1993 quy định: 1. Cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, sau khi chết thì quyền sử dụng đất của họ được để lại cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế.
  • 24. 2. Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu trong hộ có thành viên chết thì các thành viên khác trong hộ được quyền tiếp tục sử dụng diện tích đất mà Nhà nước đã giao cho hộ. Trường hợp trong hộ gia đình không còn thành viên nào thì Nhà nước thu hồi đất. 3. Cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở, sau khi chết, quyền sử dụng đất của họ được để lại cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế [29]. Với những quy định trên, quyền sử dụng đất đã được coi là di sản thừa kế. 1.3.4. Giai đoạn từ 1-7-1996 đến nay Với đường lối chính trị, kinh tế đúng đắn được Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong Hiến pháp năm 1992, tất cả mọi mặt trong đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đều thay đổi trên mọi bình diện. Vì vậy, trong đời sống dân sự cũng phát sinh nhiều vấn đề mà pháp luật chưa kịp điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ. Các văn bản pháp luật dưới nhiều hình thức như: Nghị định, Pháp lệnh, Thông tư, Nghị quyết... chưa đủ bao quát để điều chỉnh một cách rộng khắp các quan hệ dân sự nói chung và vấn đề các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Chính từ thực tiễn đòi hỏi, ngày 28-10-1995, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Bộ luật dân sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (gọi là Bộ luật dân sự năm 1995). Bộ luật dân sự năm 1995 tương đối đồ sộ với 7 phần, 838 điều. Trong mỗi phần được chia làm nhiều chương, mục. Bộ luật có hiệu lực kể từ ngày 1-7-1996 (riêng những quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực áp dụng kể từ ngày Luật Đất đai 1993 có hiệu lực 15-10-1993). Bộ luật dân sự năm 1995 là công cụ pháp lý thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bộ luật góp phần bảo đảm
  • 25. cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong nhân dân. Bộ luật đã dành hẳn Phần thứ tư và Chương VI Phần thứ năm để quy định về thừa kế với tổng số 63 điều luật (nếu tính cả 9 điều thuộc chương những quy định chung về chuyển quyền sử dụng đất mà thừa kế quyền sử dụng đất phải áp dụng thì tổng số lên đến 72 điều). Bộ luật đã đưa ra những khái niệm về thời điểm, địa điểm mở thừa kế, người thừa kế, người quản lý di sản, di chúc… Đặc biệt, Bộ luật có quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người quản lý di sản, người thừa kế, việc từ chối nhận di sản, về những người không được hưởng di sản… Do sự phát triển đất nước, các tranh chấp dân sự diễn ra ngày càng phức tạp, Bộ luật dân sự năm 1995 đã bộc lộ những khiếm khuyết của nó. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI, từ ngày 5-5-2005 đến ngày 14-6-2005 Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật dân sự năm 2005. Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2006. Với 7 phần, 777 điều, Bộ luật dân sự năm 2005 không "đồ sộ" được như Bộ luật dân sự năm 1995, nhưng những quy định về thừa kế có nhiều tiến bộ hơn Bộ luật dân sự năm 1995, đặc biệt về thừa kế quyền sử dụng đất. Về các điều kiện có hiệu lực của di chúc thì những quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về cơ bản vẫn được Bộ luật dân sự năm 2005 giữ lại và có sự phát triển. Kết luận chương 1 Thừa kế theo di chúc là một trong hai hình thức thừa kế được pháp luật quy định. Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển di sản của một người đã chết cho người khác theo sự định đoạt ý chí của người để lại di sản khi còn sống. Trong những trường hợp cụ thể, quyền định đoạt của người lập di chúc được pháp luật thừa nhận toàn bộ, nhưng trong một số trường hợp khác thì quyền tự định đoạt của người lập di chúc lại bị hạn chế. Di chúc là giao dịch dân sự một bên, do vậy di chúc cũng cần phải thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của di chúc.
  • 26. Theo tiến trình phát triển của pháp luật thừa kế, các điều kiện có hiệu lực của di chúc trong mỗi thời kỳ cũng được quy định khác nhau. Nhưng nhìn chung, pháp luật của Nhà nước ta luôn nhằm bảo vệ những quyền dân sự hợp pháp của cá nhân, trong đó có quyền lập di chúc và quyền này ngày càng được pháp luật quy định cụ thể hơn. Với sự ra đời của Bộ luật dân sự năm 1995, các quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng và pháp luật về thừa kế nói chung đã được quy định một cách hệ thống. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Bộ luật dân sự năm 1995 đã phát sinh những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải có sự khắc phục kịp thời. Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI, từ ngày 5-5-2005 đến ngày 14-6-2005, Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật dân sự năm 2005. Bộ luật dân sự năm 2005 đã có những tiến bộ hơn so với Bộ luật dân sự năm 1995 trong việc quy định về thừa kế nói chung và các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng.
  • 27. Chương 2 Các điều kiện có hiệu lực của di chúc 2.1. Người lập di chúc Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì người lập di chúc phải đáp ứng được những điều kiện nhất định thì di chúc mới có hiệu lực. Người lập di chúc phải đảm bảo được những điều kiện sau đây: Điều 650 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định về người lập di chúc: 1- Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. 2- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Như vậy, pháp luật dân sự đã quy định cụ thể về người được lập di chúc. Theo quy định tại các điều luật trên có thể nhận thấy hai yêu cầu về người lập di chúc, đó là: - Yêu cầu về độ tuổi của người lập di chúc. - Yêu cầu về nhận thức của người lập di chúc. 2.1.1. Yêu cầu về độ tuổi của người lập di chúc Pháp luật dân sự quy định chỉ người thành niên mới có quyền lập di chúc, còn người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi muốn lập di chúc phải được sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó. Có quy định trên bởi vì chỉ khi đạt đến một độ tuổi nhất định thì con người mới có đủ nhận thức để điều chỉnh hành vi của mình.
  • 28. Đối với những người đã thành niên, nhưng bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì những người đó không có quyền lập di chúc. Trong trường hợp những người này lập di chúc, thì di chúc đó không phát sinh hiệu lực pháp luật. Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về người thành niên: Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên (Điều 20). Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp người thành niên đó bị mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, những người thành niên bị mất quyền lập di chúc khi họ là người: - Mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác. - Không thể nhận thức được hành vi của mình. - Không thể điều chỉnh được hành vi của mình [6]. Pháp luật dân sự của Nhà nước ta cũng quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Người mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi mặc dù là người chưa thành niên, nhưng họ có những nhận thức nhất định. Về mặt thực tế thì có người trong số họ đã có tài sản riêng do được thừa kế hoặc được tặng cho, thậm chí có người đã tích lũy từ lao động phù hợp với sức lao động của mình. Để đảm bảo phần nào quyền định đoạt tài sản của họ, pháp luật đã cho phép họ lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ đồng ý. Bàn về quy định này còn có những ý kiến khác nhau do chưa có sự hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: - Cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý là đồng ý về việc cho phép người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc hay là đồng ý về nội dung di chúc? - Sự đồng ý của cha hoặc mẹ hay là cả cha và mẹ. Trường hợp nào thì cần đến sự đồng ý của người giám hộ? Về vấn đề thứ nhất, chúng tôi cho rằng chỉ là việc đồng ý cho phép người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc vì nếu hiểu là đồng ý với nội dung di chúc thì vô hình chung pháp luật đã can thiệp đến quyền tự định đoạt, đến ý chí tự nguyện
  • 29. của người lập di chúc, trong khi ý chí tự nguyện là một trong những điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp. Với tư cách là người thừa kế hàng thứ nhất theo pháp luật của người con, người cha, người mẹ có thể can thiệp vào nội dung của di chúc, can thiệp vào sự định đoạt của người con nếu được hiểu theo cách việc lập di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được sự đồng ý của cha, mẹ về nội dung di chúc. Và một điều đương nhiên, nếu hiểu cha mẹ phải đồng ý về nội dung di chúc thì đã bao hàm cả việc đồng ý cho lập di chúc. Về vấn đề thứ hai, căn cứ vào cách hành văn của điều luật thì chỉ cần một trong hai người là cha hoặc mẹ đồng ý là đủ, mà không cần thiết phải được sự đồng ý của hai người. Pháp luật dân sự cũng đã quy định rõ ràng về việc giám hộ tại Mục 5 Chương II, Phần thứ nhất Bộ luật dân sự năm 1995. Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước (gọi là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình (gọi là người được giám hộ). Trong quan hệ pháp luật thừa kế theo di chúc, thì người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi chỉ có quyền lập di chúc khi được sự đồng ý của người giám hộ trong trường hợp người chưa thành niên này không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ hoặc cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Một vấn đề cần đặt ra khi nghiên cứu về sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với hành vi lập di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi, đó là: Sự đồng ý này phải được thể hiện dưới hình thức như thế nào? Có bắt buộc việc đồng ý phải được thể hiện bằng văn bản riêng hay chỉ cần xác nhận vào di chúc, hay chỉ cần bằng miệng? Sự đồng ý đó có cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận hay không? Sự đồng ý được thể hiện trước hay sau khi người chưa thành niên lập di chúc?... Đây là một câu hỏi vì vấn đề này chưa được sự hướng dẫn, giải đáp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
  • 30. 2.1.2. Yêu cầu về nhận thức Kết quả nghiên cứu về y học cho thấy độ tuổi và nhận thức có quan hệ mật thiết với nhau. Con người chỉ khi đạt đến một độ tuổi nhất định thì mới có đủ nhận thức để điều chỉnh được hành vi dân sự của mình (trong đó có hành vi lập di chúc), trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Pháp luật dân sự nước ta quy định người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, độ tuổi và khả năng nhận thức là hai tiêu chí để xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tại khoản 1 Điều 655 Bộ luật dân sự năm 1995 và điểm a, khoản 1 Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định như nhau về nhận thức của người lập di chúc: "Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc…". Tuy nhiên, người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt đến mức độ nào? Người lập di chúc có phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc hay không? Nếu người lập di chúc phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc thì cơ quan nào có thẩm quyền giám định? Có cần hay không cần kết quả giám định sức khỏe thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được chứng thực vào di chúc ?... Hiện nay, pháp luật dân sự của nước ta chưa có quy định nào về việc người lập di chúc phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc. Vì vậy, người lập di chúc có thể khám sức khỏe hoặc không khám sức khỏe trước khi lập di chúc. Có một số trường hợp khám sức khỏe thì cơ quan khám sức khỏe cũng không thống nhất: Có trường hợp khám tại trung tâm y tế cấp huyện, tỉnh; nhưng cũng có trường hợp lại đi khám ở các bệnh viện về tâm thần. Trên thực tế người lập di chúc ít khi đi giám định sức khỏe, khám sức khỏe trước khi lập di chúc. Vì vậy, tình trạng sức khỏe của người lập di chúc tại thời điểm lập di chúc không được thể hiện. Khi có tranh chấp xảy ra, bên đương sự nào cho rằng người lập di chúc không đủ sức khỏe, ảnh hưởng đến sự minh mẫn của người lập di chúc trong khi lập di chúc thì họ phải có nghĩa vụ chứng minh. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế tại Tòa án nhân dân cho thấy tình trạng này diễn ra tương đối phổ biến. Bên yêu cầu chia thừa
  • 31. kế theo di chúc có nghĩa vụ xuất trình trước Tòa án các chứng cứ liên quan đến việc người lập di chúc hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc. Ngược lại, bên yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật có nghĩa vụ xuất trình các chứng cứ để chứng minh người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt để bác bỏ yêu cầu chia thừa kế theo di chúc. Về nguyên tắc, tất cả các di chúc đều được coi là do người để lại di sản lập trong lúc minh mẫn, sáng suốt. Vì vậy, đương sự nào cho rằng khi lập di chúc người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa án có thẩm quyền. Chỉ khi có đầy đủ cơ sở khẳng định người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt như: Kết luận của cơ quan y tế, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án… thì Tòa án có thẩm quyền tuyên bố di chúc vô hiệu. Thông thường, những di chúc được chứng nhận, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ít khi xảy ra tranh chấp về việc người lập di chúc có minh mẫn, sáng suốt hay không. Tranh chấp về việc minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc lại thường xảy ra đối với những di chúc không có chứng nhận, chứng thực. Vì vậy, để hạn chế tranh chấp thì việc lập di chúc có chứng thực, chứng nhận cần được khuyến khích. Quy định về vấn đề này, pháp luật dân sự Cộng hòa Pháp chỉ yêu cầu người lập di chúc có tinh thần minh mẫn (Điều 901 Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp). Còn Điều 963 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: "Người lập di chúc tại thời điểm lập di chúc phải có đủ năng lực để làm việc này" [5]. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chính là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Nếu như năng lực pháp luật của cá nhân phát sinh ngay từ khi cá nhân được sinh ra thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ phát sinh đầy đủ khi người đó đạt đến độ tuổi nhất định (đủ 18 tuổi); nếu như năng lực pháp luật của cá nhân chỉ chấm dứt khi người đó chết thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân chấm dứt khi người đó bị mất năng lực hành vi dân sự. Như vậy, một người được coi là có năng lực hành vi dân sự (trong đó có năng lực hành vi viết di chúc), khi người đó bằng khả năng của mình thực hiện hành vi, mà bằng hành vi đó, người đó đã xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ pháp luật thừa kế, người lập di chúc bằng hành vi định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình thông qua việc lập di chúc, người lập di chúc đã xác lập quyền hưởng di sản cho người được thừa kế theo di chúc.
  • 32. Cũng đồng thời với việc xác lập quyền hưởng di sản cho người thừa kế theo di chúc, người lập di chúc đương nhiên đã xác lập nghĩa vụ cho người quản lý di sản. Bằng hành vi lập di chúc, người lập di chúc đã thực hiện quyền định đoạt đối với những tài sản của mình cho người thừa kế được chỉ định trong di chúc. Việc thực hiện quyền của người lập di chúc thể hiện ở chỗ: Người lập di chúc có quyền định đoạt cho ai, cho ai cho bao nhiêu, chỉ cho sử dụng tài sản hay cho sở hữu tài sản… Pháp luật dân sự không quy định về việc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự bị mất quyền lập di chúc. Chỉ trong những trường hợp nhất định: Một người bị nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn tới phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan hoặc tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời với quyết định tuyên bố một người hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. Như vậy, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không phải là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình theo quy định của Điều 650 Bộ luật dân sự năm 1995 nên họ vẫn có quyền lập di chúc mà không phải được sự đồng ý của người đại diện. Đối với những người đã thành niên nhưng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì không có quyền lập di chúc. Nếu họ lập di chúc, thì di chúc đó không được công nhận. 2.2. ý chí của người lập di chúc 2.2.1. Người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện Nguyên tắc tự nguyện trong việc tham gia các giao dịch dân sự là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Trong giao lưu dân sự, các bên đều phải hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Lập di chúc là giao dịch dân sự, là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc. Vì vậy, cũng như các giao dịch dân sự khác, việc lập di chúc cũng phải thể hiện ý chí
  • 33. tự nguyện của người lập di chúc. Tự nguyện được hiểu theo nghĩa khái quát chính là việc thực hiện một việc gì đó hoàn toàn theo ý mình, do mình nghĩ ra và thực hiện. Về mặt bản chất, tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Vì vậy, khi đánh giá ý chí của một người về một vấn đề nào đó có phải tự nguyện hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: ý chí và sự bày tỏ ý chí. ý chí là cái bên trong, là cái mà người khác khó có thể nhận biết được, nếu ý chí đó chưa được thể hiện ra ngoài bằng hành động thực tiễn. Để người khác nhận biết được mong muốn của mình, con người phải thể hiện ý chí bằng những hành vi cụ thể. ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau. Trong việc lập di chúc, người lập di chúc thể hiện ý chí của mình thông qua hành vi lập di chúc. Thông qua việc cho người này nhiều, người kia ít… người lập di chúc thể hiện tâm tư, tình cảm… với người thừa kế. Vì vậy, muốn xác định một di chúc có phải là ý chí tự nguyện của người lập di chúc hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất giữa ý chí của người lập di chúc và sự thể hiện ý chí đó trong nội dung của di chúc. Chỉ khi nào di chúc phản ánh một cách trung thực, khách quan những mong muốn của người lập di chúc thì sự định đoạt đó mới được coi là tự nguyện. Thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế theo di chúc cho thấy, việc xác định di chúc có được lập một cách tự nguyện hay không là một vấn đề gây nhiều khó khăn cho Toà án. Một bên đương sự xuất trình di chúc và yêu cầu được chia thừa kế theo di chúc và họ cho rằng di chúc hoàn toàn do người để lại di sản tự nguyện lập. Đương sự phía bên kia thì lại cho rằng, nguyên nhân của sự phân chia di sản không công bằng (đa số các di chúc đều có sự phân chia di sản khác nhau, dẫn đến tình trạng người được nhiều, người được ít) là do người lập di chúc không tự nguyện. Để giải quyết các vụ án này, trước tiên người Thẩm phán buộc phải yêu cầu cả hai bên đương sự xuất trình những chứng cứ để chứng minh cho những lời khai của mình. Bên cạnh đó, việc lấy lời khai nhân chứng, xác minh chính quyền địa phương, đối chất… cũng là những biện pháp cần thiết để tìm ra sự thật của vụ án: Người lập di chúc có tự nguyện lập di chúc hay không?... 2.2.2. Người lập di chúc không bị đe dọa
  • 34. Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của những người thân thích. Cũng như các loại giao dịch dân sự khác, đe dọa trong việc lập di chúc trước hết phải được thực hiện bằng hành vi cố ý. Hành vi cố ý này phải có sự toan tính từ phía người đe dọa về việc đe dọa người lập di chúc như thế nào, hình thức, địa điểm đe dọa, phương tiện để thực hiện việc đe dọa… Hậu quả của việc thực hiện hành vi đe dọa là người lập di chúc phải sợ hãi đến mức phải lập di chúc theo ý muốn của người đe dọa. Việc phải lập di chúc đó có thể không gây thiệt hại cho người lập di chúc về tính mạng, sức khỏe, tài sản vì việc đe dọa mới ở mức độ nhẹ. Thực tế cho thấy, người lập di chúc không bao giờ bị thiệt hại về tài sản cả, vì khi chết, họ không thể mang theo được tài sản mà họ đang có và chỉ khi người để lại di sản chết thì di chúc mới phát sinh hiệu lực. Vì vậy, đối với đe dọa trong việc lập di chúc thì người lập di chúc luôn luôn không bị thiệt hại về tài sản. Người bị thiệt hại về tài sản sẽ là những người thân thích của người lập di chúc vì khối tài sản của người lập di chúc có hạn, nên cho người này hưởng rồi thì đương nhiên những người khác không còn để hưởng. Tuy nhiên, do bị đe dọa nên người lập di chúc phải viết di chúc theo ý kiến của người đe dọa, nên sẽ có ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của người lập di chúc. Ví dụ: Người lập di chúc tên là Nguyễn Văn A, có 4 con là Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn E. Ông A được C chăm sóc, nuôi dưỡng…, còn B, D, E đối xử ngược đãi với ông A. Vì vậy, ông A tuyên bố với mọi người là sau này sẽ để lại toàn bộ tài sản cho C và ông A đã lập di chúc cho C được hưởng toàn bộ tài sản của mình. Biết được sự việc trên, B, D và E đã bàn bạc với nhau đe dọa buộc ông A phải lập di chúc khác có nội dung cho B, D, E cùng được hưởng di sản của ông A. Như vậy, việc ông A phải lập di chúc sau đã ảnh hưởng đến quyền lợi về tài sản của C, nhưng lại ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của người lập di chúc là ông A. Như đã phân tích, khi bị đe dọa thì người lập di chúc không thể hiện được ý chí tự nguyện, mà lại thể hiện ý chí của người đe dọa. Vì vậy, trong trường hợp người lập di chúc bị đe dọa thì di chúc đó bị vô hiệu, không phát sinh hiệu lực pháp luật. Trong thực tế đã xảy ra không ít những trường hợp mà các đương sự khai là người lập di chúc bị đe dọa. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác minh, lấy lời khai nhân
  • 35. chứng, thậm chí kiểm tra cả những vật chứng (nếu có)... Tuy nhiên, việc xác định người khác đã can thiệp vào việc lập di chúc đến mức độ nào có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét hiệu lực pháp luật của di chúc. Vấn đề đặt ra là sự can thiệp đó đã đến mức làm cho người lập di chúc sợ hãi và phải lập di chúc theo ý muốn của người can thiệp hay chưa? Còn khi đã lập di chúc theo ý chí của người khác thì đương nhiên đã gây thiệt hại cho người lập di chúc như đã phân tích ở phần trên. Để xem xét về việc người lập di chúc đã đến mức sợ hãi hay chưa là một vấn đề rất khó, đòi hỏi Tòa án phải cân nhắc kỹ lưỡng toàn bộ các chứng cứ của vụ án. Trường hợp người can thiệp đã bị bản án của Tòa án xử lý về hành vi đe dọa rồi thì sẽ có nhiều thuận lợi cho việc xem xét. Ví dụ: Một người có hành vi đe dọa người lập di chúc để buộc người lập di chúc phải viết di chúc không đúng với ý chí của người lập di chúc. Để thực hiện hành vi đe dọa của mình, anh ta đã dùng vũ lực và gây ra thương tích nặng cho người lập di chúc đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Bằng bản án hình sự, Tòa án đã xác định có hành vi đe dọa trong việc lập di chúc và có hành vi cố ý gây thương tích, đồng thời Tòa án đã xử lý về mặt hình sự đối với hành vi cố ý gây thương tích. Sau đó do người lập di chúc chết, người được thừa kế theo di chúc khởi kiện yêu cầu được thừa kế theo di chúc. Trong trường hợp này, Tòa án dễ dàng trong việc tuyên bố về việc di chúc trên không có hiệu lực pháp luật do người lập di chúc bị đe dọa. Đối với trường hợp các bên có ý kiến khác nhau về việc người lập di chúc có bị đe dọa trong khi lập di chúc hay không, thì cả hai bên đương sự đều phải có nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 1-1- 2005). Bên đương sự cho rằng, người lập di chúc bị đe dọa trong khi lập di chúc phải có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh. Nếu các chứng cứ do bên khai rằng có việc đe dọa không đủ hoặc không có cơ sở tin cậy, thì Tòa án công nhận di chúc. Đã có không ít những trường hợp xảy ra trong thực tế, mặc dù có sự can thiệp của người khác, nhưng chưa đến mức làm cho người lập di chúc sợ hãi phải viết di chúc trái với ý muốn của mình. Người lập di chúc vẫn lập di chúc một cách tự nguyện, thể hiện ý chí của mình. Do vậy, di chúc vẫn có hiệu lực. 2.2.3. Người lập di chúc không bị lừa dối
  • 36. Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó (Điều 142 Bộ luật dân sự năm 1995). Lừa dối là thủ đoạn có tính toán trước của người này (người lừa dối) đối với người khác (người bị lừa dối) nhằm làm cho người bị lừa dối hiểu sai vấn đề, dẫn đến quyết định một việc gì đó theo mục đích đã định sẵn của người lừa dối. Thủ đoạn của người lừa dối có thể bằng lời nói, có thể bằng hành động. Mục đích của người lừa dối là làm cho người bị lừa dối hiểu sai vấn đề, dẫn đến những quyết định không đúng, có lợi cho người lừa dối. Trong việc lập di chúc, người lừa dối làm cho người lập di chúc hiểu sai lệch về những người thừa kế, dẫn đến quyết định phân chia di sản theo ý muốn của người lừa dối. Di chúc là giao dịch dân sự đơn phương, nó chỉ thể hiện ý chí của người lập di chúc. ý chí của người lập di chúc phải hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt trong khi minh mẫn và sáng suốt. Mọi hành vi lừa dối, đe dọa, cưỡng ép… người lập di chúc đều bị coi là trái pháp luật. Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, hầu như không có việc các đương sự tranh chấp về di chúc có bị lừa dối hay không. Trường hợp nếu có tranh chấp, thì việc giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng là vấn đề khó vì việc chứng minh rằng người lập di chúc bị lừa dối là việc không đơn giản. 2.2.4. Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế, phân định di sản cho từng người thừa kế Đây là quyền của người lập di chúc được quy định tại khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005) [6], [7]. Chỉ định người thừa kế là hành vi của người lập di chúc cho phép người nào đó được hưởng phần tài sản thuộc sở hữu của mình, thông qua việc lập di chúc. Một nội dung không thể thiếu được của di chúc đó là: Ai là người được hưởng di sản và được hưởng những tài sản nào, số lượng, đặc điểm, chủng loại tài sản. Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế là người bất kỳ, mà không bó buộc trong số những người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc. Người lập di chúc cũng có quyền chia cho người này nhiều hơn người kia, chia cho người này động sản, người kia bất động sản, người khác