“Quyền lực nhà nước và vấn đề kiểm soát quyển lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”Phạm vi bài viết này nêu lên một số vấn đề về “Quyền lực nhà nước và vấn đề kiểm soát quyển lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
Tiểu luận Quyền lực nhà nước và vấn đề kiểm soát quyển lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
1. 1
“Quyền lựcnhà nước và vấn đề kiểm soát quyển lực nhà nướcở Việt
Nam hiện nay”
MỞ ĐẦU
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp sửa đổi năm 2013 bổ sung một
nguyên tắc mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta: “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây vừa là quan điểm,
vừa là nguyên tắc chỉ đạo công cuộc tiếp tục, xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà
nước ta trong thời kỳ mới. “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu quyền lực đều là
của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ đều là của dân, chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương do dân
tổ chức ra. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1. Đây là luận điểm thể
hiện những vấn đề căn bản nhất đó là: Nhà nước do dân thiết lập và trao quyền lực,
nghĩa là quyền lực nhân dân trở thành quyền lực nhà nước. Quyền lực đó thể hiện ý
chí của nhân dân được báo đảm thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước, trong
đó có độc quyền bộ máy cưỡng chế, trấn áp và hệ thống quy phạm pháp luật.
Đất nước trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựngnền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tổ chức và hoạt động của
bộ máy quyền lực nhà nước nóichung, các thể chế kiểm soát (kiểm tra, thanh tra, kiểm
sát, tài phán, giám sát)quyền lực nhà nước nóiriêng từ Trungương đến cơ sở có nhiều
điểm bất cập như còn chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và
tráchnhiệm của tập thể và cá nhân chưa được chế định chặt chẽ. Xảy ra tình trạng tập
trung quá mức ở Trung ương, vừa phân tán, cục bộ ở các cấp, các ngành.
1 Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 698
2. 2
Hiện nay; ở nước ta có nơi xuất hiện nguy cơ chính quyền địa phương xa rời
nhân dân, với những biểu hiện là một số cán bộ công chức nắm quyền lực được
nhân dân ủy thác lại xa dân, xa cấp dưới, xa cơ sở. Nhiều vấn đề bức xúc về chính
trị, xã hội liên quan đến quyền lực nhà nước đang gây hậu quả xấu cho xã hội, làm
suy yếu mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta đã trở thành yêu cầu
cấp bách, đòi hỏi phải được giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đồng thời đề ra
các giải pháp tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, góp phần vào
việc chống tha hóa quyền lực, đẩy mạnh thực hành dân chủ trong xã hội, bảo đảm
quyền và lợi íchchínhđáng của nhân dân lao động, của nhà nước trong chế độ chính
trị xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Phạm vi bài viết này nêu lên một số vấn đề về
“Quyền lực nhà nướcvà vấn đề kiểm soát quyển lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”
NỘI DUNG
1. Kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu tất yếu khách quan.
1.1 Khái niệm về quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước
Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, xuất hiện từ khi xã hội loài
người bị phân chia thành những giai cấp đối kháng. Quyền lực nhà nước là biểu hiện
tập trung của quyền lực chính trị và là trung tâm của quyền lực chỉnh trị, được hình
thành thông qua cuộc đấu tranh chính trị, nhằm giành quyền tổ chức nhà nước và
thực hiện chức năng thống trị xã hội. Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có việc tổ chức và việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thời còn được bảo đảm bằng
các phương tiện độc quyền như luật pháp, và bộ máy cưỡng chế chuyên nghiệp quân
đội, cảnh sát, nhà tù...
Sự thay đổi vai trò vị trí của các giai cấp trong đời sống sản xuất xã hội sẽ dẫn
tới việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác, dẫn
tới thay đổi căn bản tính chất của quyền lực nhà nước, phương thức cầm quyền, các
3. 3
quan hệ chính trị, các thể chế chính trị và hệ thống chính trị. Các cơ quan nhà nước
thực chất là các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước, được các giai cấp và lực lượng
xã hội (còn gọi là nhân dân) trao quyền cho mà thôi. Tuy nhiên, do những hình thức
ủy quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước khác nhau, nên nhiều lúc quan hệ giữa
người có chủ quyền và người được ủy quyền bị tha hóa, xuyên tạc.
Quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội có những điểm khác biệt so với
quyền lực nhà nước trong các xã hội trước đó ở chỗ nhà nước chủ nghĩa xã hội là
nhà nước chuyên chính của giai cấp công nhân. Nhưng lợi ích căn bản của giai cấp
công nhân là thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Nên quyền lực
nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội đã có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội,
giữa tính chính trị với tính công quyền. Trong các kiểu nhà nước khác, đặc biệt là
nhà nước quân chủ chuyên chế, giữa chức năng giai cấp đối lập với chức năng xã
hội, lợi ích của giai cấp thống trị đối lập với lợi ích quảng đại quần chúng.
Trong nền dân chủ chủ nghĩa xã hội, chức năng giai cấp và chức năng xã hội
tạo thành một thể thống nhất, trở thành điều kiện và tiền đề hoàn thiện cho nhau. Ở
Việt Nam, các bản hiến pháp đều nhất quán khẳng định quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Tại Điều 1 Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
quy định rõ: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo giai cấp, tôn giáo". Tư tưởng nhất
quán này đều được thể hiện qua Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp
1992. Tại Điều 2 và Điều 6 Hiến pháp 1992 thì "Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức", "nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân". Quyền lực nhà
nước bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan trong bộ máy, với những con
nguời cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy, việc thực thi quyền lực cụ thể phụ thuộc vào
4. 4
phương thức tổ chức bộ máy nhà nước và con người trong bộ máy ấy. Nếu như
người cầm quyền được trao quyền, không biết thực thi quyền lực cho đúng, hoặc sử
dụng quyền lực vì mục đích vụ lợi thì sức mạnh của quyền lực nhà nước sẽ gây
nguy hiểm cho xã hội. Vì thế muốn có một xã hội tốt đẹp, quyền tự do con người
được đề cao, xã hội không phải gánh chịu những lộng hành sai phạm vô ý thức hoặc
có ý thức của nhà nước thì phải có cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước, kiểm soát hoạt động của công chức, viên chức nhà nước. Đây là một yêu cầu
tất yếu trong tổ chức và hoạt động của một nhà nước dân chủ, kể cả trong nền dân
chủ XHCN của chúng ta.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là hoạt động có chủ đích của nhà nước và xã
hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thông qua các hình thức
hoạt động nhưgiảm sát, kiểm tra, thanh tra, kiếm sát, kiếm toán, tài phản nhằm hạn
chế nguycơ sai phạm cũng nhưnhững hànhvi lộng quyền, chuyên quyền, độc đoán
của cơ quan quyền lực nhà nước và của công chức nhà nước. Đảm bảo cho quyền
lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích, khoa học, hiệu lực và hiệu quả.
1.2 Cơ sở khoa học của việc kiểm soát quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân. Các cơ quan Nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước có trong tay quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy quyền; Tuy
nhiên các cán bộ công quyền cũng chỉ là con người, không phải là thần thánh, chính
vì vậy họ cũng hoàn toàn có thể mắc sai lầm, vì thế để hạn chế những sai lầm, thiếu
sóttrong thực thi quyền lực nhà nước thì phải kiểm tra, kiểm soát để tránh lạm quyền.
Mục đích của việc kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo cho quyền lực
nhà nước không bị lạm dụng, ngăn chặn các hiện tượng, xu hướng, quan liêu, độc tài,
chuyên quyền, độc đoán trong bộ máy nhà nước, không bị sử dụng trái với ý chỉ của
nhân dân. Khi quyền lực càng tập trung, thì khả năng kiểm soát quyền lực càng khó.
Nếu không có sự kiểm soát tốt quyền lực sẽ trở thành bức rào cản của tự do và dân
chủ, kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Xã hội càng phát triển, quyền lực của nhà nước càng
lớn thi yêu cầu của kiểm soát quyền lực nhà nước tăng lên. Quyền lực nhà nước có
5. 5
thể được kiểm soátthông qua hai yếu tố:Quá trình tổ chức bộ máy nhà nước sao cho
các bộ phận của nhà nước có khả năng kiểm soát lần nhau và hoạt động của các hệ
thống kiểm soát quyền lực từ bên trong và bên ngoài bộ máy nhà nước.
Trong các xã hội bóc lột trước đây, nhà nước xuất hiện từ xã hội, trở thành lực
lượng tách rời xã hội, đứng trên xã hội, do đó nó có nguy cơ thoát ly khỏi sự kiểm
soát của của nhân dân. Mặc dù, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Như thế
trong xã hội có giai cấp đối kháng, nhân dân có rất ít khả năng thực tể tham gia vào
việc tổ chức quyền lực nhà nước, để từ đó kiểm soát được quyền lực. Việc kiểm soát
quyền lực này thực tế phụ thuộc trước hết là vào cấu trúc quyền lực của nó. Một cấu
trúc có thể cho phép tồn tại sự kiểm soát, sau đó là năng lực kiểm soát của các chủ
thể khác. Chế độ tập quyền chuyên chế kéo dài suốt thời kỳ trung cổ thực sự là
mảnh đất cho sự lộng hành, cản trở sự phát triển xã hội. Để xóa bỏ rào cản đi đến tự
do, dân chủ đã buộc các nhà tư tưởng phải tìm ra các giái pháp cho sự tiến bộ xã hội,
học thuyết phân quyền mà trường phái khai sáng đề xướng đến nay vẫn là những chỉ
dẫn cho việc kiểm soát quyền lực ở các quốc gia, phân chia rành mạnh về chức năng
và nhân sự, cùng với cơ chế kìm chế, đối trọng vừa có tác dụng đề cao trách nhiệm
cá nhân, ở mức độ nhất định cơ chế phân quyền đảm bảo tính độc lập của cơ quan
xét xử và đảm bảo (ở mức độ nhất định) hiệu lực của hiến pháp.
Xuất phát từ ưu điểm trên đây, các nước tư bản hiện đại đã áp dụng học thuyết
phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước của minh và coi đó là một trong
những nguyên tắc quan trọng nhất, có ý nghĩa cơ sở để đảm bảo dân chủ, tự do, bình
đẳng xã hội. Tuy nhiên cũng cần nói rằng, mặt trái của phân quyền là tranh giành,
chia rẽ phân tán quyền lực nếu không được kiểm soát tốt. Vì vậy, phân quyền vừa có
mục đích kiểm soát quyền lực vừa phải kiểm soát cả sự phân quyền và thực thi
quyền lực trong cơ chế phân quyền.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền lực nhà
nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực được nhân dân ủy
quyền và giao quyền. Vì thế, tất yếu nảy sinh đòi hỏi tự nhiên và chính đáng là phải
6. 6
kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực
nhà nước lại có nguy cơ thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành
đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ của nhân dân là số đông chuyển thành số ít
của một nhóm người hoặc của một người). C. Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa
của quyền lực nhà nước. Hơn nữa, quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các
cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho những người cụ thể thực thi. Mà con
người thì “luôn luôn chịu sự ảnh hưởng của các loại tình cảm và dục vọng đối với
các hành động của con người. Điều cũng khiến cho lý tính đôi khi bị chìm khuất”.
Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả
năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Với đặc điểm đó của
con người, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ
những gì mà nhân dân đã ủy quyền. Chế độ XHCN, về nguyên tắc nhân dân có toàn
quyền quyết định đối với quyền lực nhà nước, có toàn quyền kiểm soát quyền lực
đó. Thế nhưng các nguyên tắc đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi có một cơ chế tổ
chức và thực hiện khả thi quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Nhân dân, với tư
cách là người chủ của quyền lực, có quyền và cần thiết phải thực hiện sự kiểm soát
như vậy nhằm đảm bảo quyền lực được thiết lập và thực hiện vì lợi ích của nhân dân
và xã hội. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân thông qua những người đại diện
của mình có thể kiểm soát toàn bộ quyền lực nhà nước.
1.3. Tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch sử tư tưởng
chính trị
Việc kiểm soát quyền lực có thể được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau,
trong đó có ít nhất là hai xuất phát điểm cơ bản: Từ lợi ích của những người nắm giữ
quyền lực và từ lợi ích của những người chịu tác động quyền lực.
Các nhà tư tưởng cổ đại Phương Đông bàn về quyền lực chính trị và kiểm
soát quyền lực cai trị đáng chú ý nhất trong trường phái pháp trị Trung Hoa cổ đại,
được biểu hiện trong tác phẩm của Hàn Phi Tử, một "Tập đại thành" gói trọn kinh
điển pháp gia. Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử là một hệ thống quan điểm về
7. 7
pháp - thế - thuật, lấy pháp làm nội dung cai trị. Pháp luật được Hàn Phi xem là tiêu
chuẩn để phân biệt đúng - sai, chính tà, là phương tiện của người cầm quyền dùng
để điều khiển đất nước. Theo Hàn Phi chỉ có pháp luật mới làm cho nước trị: "Cái
làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì
không ai có thể làm điều riêng tư được nữa"2
Các nhà tư tưởng cổ đại phương Tây nêu ra tư tưởng phân quyền, ở những
mức độ khác nhau. Đại biểu của những tư tưởng ấy là Platôn và Arixtôt. Aristôt
quan niệm hình thức nhà nước phụ thuộc vào cách tổ chức quyền lực chính trị. Nhà
nước là một thể thống nhất được tạo bởi ba bộ phận độc lập. Cơ quan nghị luận (làm
luật), cơ quan chấp hành (hành chính), cơ quan xét xử. Tư tưởng phân quyền thời cổ
đại chỉ là phân công lao động, phân công chức năng, thẩm quyền giữa các bộ phận
của bộ máy nhà nước. Việc thực hiện nhiệm vụ nhà nước theo chức năng, tự nó đã
có sự giám sát quyền lực. Platôn cho rằng, nguyên tắc cơ bản của xã hội lý tưởng là
chính trị phân giải thành pháp lý, hành chính, tư pháp và ngoại giao. Song tất cả các
yếu tố đỏ phải được thống nhất bởi chính trị. Tức là phân công lao động trong bộ
máy nhà nước là cần thiết, hoạt động của nhà nước như lập pháp, hành pháp, tư
pháp cùng nhằm vào một đối tượng, nhưng đồng thời chúng có khác nhau.
Các nhà tư tưởng thời cận đại đã kế thừa tư tưởng phân quyền về kiểm soát
quyền lực thời cổ đại, phát triển thành học thuyết "phân chia quyền lực" vào thời kỳ
cáchmạng tư sảnthế kỷ XVI - XVIII đạidiện là Jon Lockvà đỉnhcao là Mongtecxkiơ.
Mongtexkiơ (1689 - 1775): Là nhà tư tưởng chính trị xuất sắc của Pháp,
người đề xướng học thuyết phân quyền; tư tưởng của ông được phản ánh trong tác
phẩm "Tinh thần pháp luật" và "Những bức thư thành Ba Tư".
Nghiên cứu lịch sử của chế độ chuyên chế, quyền lực nằm trong tay một
người, hay một tổ chức tất yếu dần đến lạm quyền và sử dụng quyền lực để mưu lợi
ích riêng. Mongtexkiơ cho rằng, để loại trừ khả năng lạm quyền thì cần phải thiết
2 Phan Ngọc (1992), Hàn Phi Tử, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. 8
lập một trật tự trong đó quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp phải độc lập, trở
thành lực lượng kiềm chế nhau. Quyền lập pháp được chia giữa tư sản và phong
kiến. Nghị viện có hai viện, Thượng viện đại diện cho quý tộc; Hạ viện đại diện cho
dân. Mongtecxkiơ giải thích: "Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại
trong tay một người hay một viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì
người ta sợ rằng chính ông ta hay Viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một
cách độc tài"3. Cũng tương tự như vậy, "nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập
pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân" và "nếu
quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thi ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của
kẻ đàn áp" và ông còncho rằng, quyền tư pháp phải độc lập, không trao cho cơ quan
thường trực nào, mà trao cho nhân dân bầu theo định kỳ.
Thuyết phân chia quyền lực ra đời trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp tư
sản tập hợp quần chúng chống chế độ phong kiến. Khi giai cấp tư sản giành được
chính quyền, học thuyết này đã trở thành nguyên tắc căn bản về tổ chức và hoạt
động của nhà nước tư sản. Ý nghĩa lịch sử của học thuyết phân quyền là ở chỗ thấy
được sức mạnh của quyền lực nhà nước (với tư cách là quyền lực của nhân dân ủy
quyền). Vì thế nó không được trao cho một ai hoàn toàn, mặt khác nó cho thấy sự
nguy hiểm nếu quyền lực nhà nước không được kiểm soát để rơi vào tay quý tộc hay
tư sản. Cũng cần thấy rằng, nguồn gốc sâu xa của lý thuyết phân quyền là ở chỗ nó
đã thích ứng với tính không thuần nhất về lợi ích giữa các bộ phận khác nhau trong
nội bộ giai cấp tư sản, thích ứng với tình trạng tranh giành quyền lực diễn ra liên tục
giữa các bộ phận đó.
Quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít về kiểm tra - kiểm soát quyền lực
nhà nước
Qua di sản lý luận mà Mác - Ăngghen để lại, hầu như hai ông không đi sâu
bàn tới việc kiểm soát quyền lực một cách trực tiếp, mà bàn tới công tác kiểm tra,
kiểm soát của Đảng và Nhà nước. Trong bộ Tư bản, Mác đã đề cập đến công tác
3 Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr 100
9. 9
kiểm tra nói chung - kiểm tra là một phương thức hành động để thực hiện mục đích.
Nó như là quy luật. Như vậy theo quan điểm của Mác - Ăngghen thì kiểm tra là một
tất yếu khách quan đối với hoạt động của con người và tổ chức. Có hoạt động thì
phải có kiểm tra. Các Mác khẳng định rằng: Vào một thời kỳ ở một nước mà thế lực
vua chúa, giai cấp quý tộc và giai cấp tư sản tranh giành quyền thống trị, mà do đó
quyền thống trị bị phân chia thì học thuyết phân quyền tỏ ra là tư tưởng thống trị, nó
được người ta coi là quy luật vĩnh viễn... mỗi điều khoản của hiến pháp đều chứa
sẵn trong bản thân nó cái phản đề của bản thân nó, cái thượng viện và hạ viện của nó
tự do trong câu nói chung chung, và xóa bỏ cái tự do trong điều khoản kèm theo...
Hiến pháp đã được thảo ra sao cho nghị viện có thể gạt bỏ được tổng thống bằng con
đường lập hiến, nhưng Tổng thống lại có thể gạt bở nghị viện bằng con đường
không hợp hiến, bằng cách thủ tiêu luôn cả hiến pháp. Như thế là ở đây, bản thân
hiển pháp lại đi thách thức thủ tiêu mình bằng bạo lực. Chẳng những nó thần thánh
hóa chế độ phân quyền giống như Hiến chương 1830, mà nó còn mở rộng chế độ
phân quyền đến chỗ mâu thuẫn không sao chịu nổi... Nếu hiến pháp giao cho tổng
thống quyền thực tế thì nó lại cố gắng bảo đảm cho nghị viện quyền tinh thần...4
Khi xem xét mối liên hệ giữa thuyết phân quyền với sự phân công lao động
trong bộ máy nhà nước Ph. Ăngghen đã viết "Phân quyền được xem như là nguyên
tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm được trên thực tế, về thực chất nó không có
gì khác là sự phân công công việc lao động được áp dụng đối với bộ máy nhà nước
nhằm đơn giản hóa và để kiểm tra."5 Các ông cho rằng, Thuyết phân quyền ở đó
Nghị viện chỉ là nơi bàn cãisuông, tòaán chỉ độclập giả dối, còntoànbộ quyềnlực tập
trung vào cơ quan hành pháp. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học
thuyết chính trị pháp lý, kể cả thuyết phân chia quyền lực. Đồng thời, tổng kết kinh
nghiệm đấutranh giai cấp, Mác và Ăngghen đã cho ta thấy, trongxã hộicó giai cấp đổi
kháng, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thốngtrị; nếu chế độ nhà nước đó bị
4 C.Mác - Ph.Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị pháp lý Beclin, tr 236
5 C.Mác - Ph.Ăngghen (1981), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 405
10. 10
đập tan thì quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân, như chính cội nguồn ban đầu của
nó, nhân dânlà gốc của quyềnlực là chủthể củaquyền lực. Sựthay đổivề bản chấtnày
cần có quanđiểm mới về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, kiểm soátquyềnlực
nhà nước khi nhà nước của nhân dân lao động được thành lập dưới CNXH.
Quan điểm của V.I. Lênin về công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm kê kiểm soát,
V.I. Lênin bàn đến rất nhiều, rất sâu. Nội dung quan điểm của V.I. Lênin được thể
hiện rõ ở 4 vấn đề chủ yếu đó là: Tính tất yếu phải kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát;
Những nội dung cơ bản của kiểm tra, kiểm soát; Chủ thể kiểm tra, kiểm soát và đối
tượng của nó; tổ chức, hình thức, phương pháp tiến hành kiểm tra, kiểm soát. Theo
Lênin, những nội dung chủ yếu của kiểm tra, kiểm soát bao gồm: Kiểm tra, kiểm
soát việc sản xuất và phân phối những sản phẩm chủ yếu nhất; kiểm tra, kiểm soát
các hoạt động tài chính và tiền tệ, nhất là hoạt động của ngân hàng, lưu thông tiền tệ,
thu nhập, chi tiêu và nộp thuế của các nhà giàu; kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện
các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc thi hành các chức
trách và chấp hành kỷ luật lao động; kiểm tra, kiểm soát để phát hiện kịp thời và đấu
tranh chống các hiện tượng tiêu cực.
Đây chính là những vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, tuy nhiên ở các quy
mô rất khác nhau. Nói một cách khái quát, theo V.LLênin, nội dung công tác kiểm tra
bao gồm: kiểm tra việc và kiểm tra người. Nó bao trùm toàn bộ việc kiểm soát việc
thực thi quyền lực nhà nước, chứ không chỉ là một quá trình của công tác lãnh đạo.
Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điếm Đảng Cộng sản Việt Nam
về công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát ở Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra,
kiềm soát gắn liền với quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Người về Đảng
nóichung, xây dựng ĐảngCộngsản cầm quyền, nhà nước của dân do dân, vì dân nói
riêng. Hồ Chí Minh đãđề cập đếnvấn đề"đặt ra đặc biệt ủy viên Hội để điều tra và xử
11. 11
đoán"6 những sự kiện cáo nhau. Tiếp đó trong các văn kiện, bài nói, bài viết từ năm
1930 đến năm 1969 tư tưởng về công tác kiểm tra, kiểm soát và thi hành kỷ luật đã
không ngừng được ngườibổ sung, hoànthiện. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác kiểm tra, kiểm soát và thực hành kỷ luật được biểu hiện rõ nét ở những vấn đề chủ
yếu đó là: “Vì sao phảitiến hành côngtác kiểm tra, kiểm soát và xử lý kỷ luật?; Phải tổ
chức sự thi hành cho đúng...; phải tổ chức sự kiểm soát...”7 .
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng công tác
kiểm tra và giữ gìn kỷ luật. Điều lệ Đảng 1930 ghi rõ: Cái trách nhiệm của đảng
viên và các cán bộ là giữ theo kỷ luật Đảng một cách nghiêm khắc. Tất cả đảng viên
đều phải chấp hành các nghị quyết của Quốc tế, của Đảng đại hội, của Trung ương
và của thượng cấp cơ quan... Đối với vấn đề phạm kỷ luật thì do toàn chi bộ hoặc
các cấp Đảng bộ tra xét.
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra các
cấp lại được sửa đổi, bổ sung thêm những nội dung mới: Kiểm tra đảng viên, kể cả
cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp
ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng; xem xét, kết luận những
trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật; giải
quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng;
kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Thực chất của quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta là tổng hợp
các côngtác giám sát, thanh tra, kiểm tra, của các cơ quan trong hệ thống chỉnh trị và
của nhân dân. Bảo cáo chính trị Đại hội IX chỉ rõ: “Lãnh đạo việc đổi mới và tăng
cường công tác thanh tra của Chính phủvà cáccơ quan hànhpháp; phát huy vai trò
6 Văn kiện Đảng toàn tập (1998), Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. 12
giám sátcủa Quốc hội, Hội đồng nhân dân,Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dâ
Mã tài liệu : 600152
Tải đầy đủ luận văn theo 2 cách :
- Link tải dưới bình luận .
- Nhắn tin zalo 0932091562