Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Sáng kiến Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong giảng dạy môn Vật lí 7
1. CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi :Hội đồng khoa học phòng GD-ĐT huyện Mỹ Lộc
Tôi ghi tên dưới đây:
S
TT Họ và tên
Ngày, tháng
năm, sinh
Nơi
công tác
Chức
danh
Trình độ
chuyên
môn
Tỷ lệ % đóng
góp tạo ra
sáng kiến
1 Vũ Thị Hạt 15/08/1978 THCS
Mỹ Thành
Tổ
trưởng
Đại học 100%
- Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường
trong giảng dạy môn Vật lí 7”.
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lớp 7 trường THCS Mỹ Thành
- Ngày sáng kiến áp dụng lần đầu hoặc dùng thử: 9/2017
- Mô tả bản chất của sáng kiến: Vấn đề môi trường là một trong các "vấn đề toàn
cầu". Những hiểm họa suy thoái môi trường đang ngày càng đe dọa cuộc sống của con
người. Chính vì vậy, bảo vệ môi trường (BVMT) trở thành nhiệm vụ cấp bách đối với
mọi người, mọi dân tộc, mọi quốc gia trên Trái Đất. Tuy nhiên, rất nhiều học sinh không
mấy quan tâm, thậm chí thờ ơ đối với việc bảo vệ môi trường. Vì vậy, trong quá trình dạy
học giáo viên cần giáo dục học sinh hiểu rõ sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và biết
cách bảo vệ môi trường, trước hết là môi trường sống xung quanh các em. Để giải quyết
được vấn đề này thì công việc giáo dục BVMT là một trong những biện pháp hữu hiệu
nhất, tinh tế nhất, có tính bền vững và sâu rộng nhất trong số các biện pháp để thực hiện
mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đất nước.
- Các điều kiện cần thiết để áp dụng: Trong trường THCS Mỹ Thành.
- Đánh giá lợi ích thu được:Nhằm góp phần hiệu quả trong phương pháp dạy học
theo định hướng phát triển năng lực, phát huy phẩm chất tốt đẹp cho học sinh .
Tôi xin cam đoan mọi thông tin trong đơn là trung thực, đúng sự thật
Mỹ Thành, ngày 22 tháng 10 năm 2018
Người nộp đơn
Vũ Thị Hạt
- 1 -
2. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
“Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong giảng dạy môn Vật lí 7”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Giảng dạy môn vật lí trường THCS Mỹ Thành
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 01 tháng 9 năm 2017 đến ngày 20 tháng 10 năm 2018
4. Tác giả:
Họ và tên: Vũ Thị Hạt
Năm sinh: 15/08/1978
Nơi thường trú: Số 9 – tổ 15 – Cửa Nam – TP Nam Định.
Trình độ chuyên môn: Đại học SP Toán.
Chức vụ công tác: Giáo viên.
Nơi làm việc: Trường THCS Mỹ Thành – huyện Mỹ Lộc – tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 0975.057.525
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THCS Mỹ Thành – huyện Mỹ Lộc – tỉnh Nam Định.
Địa chỉ: xã Mỹ Thành - huyện Mỹ Lộc
Điện thoại: 03503.810.783
- 2 -
3. BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Ngày nay vấn đề ô nhiễm môi trường, phá vỡ cân bằng sinh thái đã là vấn đề quan
tâm chung của nhân loại. Vấn đề môi trường là một trong các "vấn đề toàn cầu". Những
hiểm họa suy thoái môi trường đang ngày càng đe dọa cuộc sống của loài người. Chính vì
vậy, bảo vệ môi trường (BVMT) trở thành nhiệm vụ cấp bách đối với mọi người, mọi dân
tộc, mọi quốc gia trên Trái Đất. Để giải quyết được vấn đề này thì công việc giáo dục
BVMT là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất, tinh tế nhất, có tính bền vững và sâu
rộng nhất trong số các biện pháp để thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững đất nước.
Trong số các môn học ở trường THCS thì môn Vật lí là một trong những môn học
thực nghiệm, nó cung cấp cho học sinh rất nhiều các kiến thức cơ bản về thế giới tự nhiên
nói chung và về môi trường xung quanh. Vì thế qua môn học này, khi cung cấp một đơn
vị kiến thức cơ bản có liên quan đến môi trường thì người thầy có thể tích hợp giáo dục
BVMT vào từng đơn vị kiến thức hoặc từng bài giảng của mình. Để việc tích hợp giáo
dục BVMT vào trong bài giảng có liên quan đến môi trường đạt được hiệu quả cao nhất
thì theo tôi, ngay từ khi các em mới được làm quen với môn Vật lí chúng ta cần phải làm
sao để không những gây được sự hứng thú học tập cho các em về môn học này, mà
chúng ta còn có thể lồng ghép kiến thức về môi trường và vấn đề BVMT để rồi từ đó xây
dựng ý thức BVMT cho các em.
Là một GV dạy bộ môn vật lí, tôi luôn trăn trở về vấn đề làm thế nào vừa dạy học
sinh nắm bắt những kiến thức cơ bản của bộ môn, vừa lồng ghép những đơn vị kiến thức
về BVMT cho học sinh.
Trên cơ sở tìm tòi những tư liệu về bảo vệ môi trường, thu thập thông tin qua báo
đài và internet, đặt biệt là nắm bắt về phương pháp dạy học có tích hợp môi trường bộ
môn vật lí, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh, bên cạnh đó dựa vào việc tìm ra những đơn vị
kiến thức trong chương trình Vật lí 7 có liên quan đến việc giáo dục BVMT, cộng với quá
trình dạy thử nghiệm đạt hiệu quả khá tốt. Chính vì vậy tôi đã viết sáng kiến kinh nghiệm
“Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong giảng dạy môn Vật lí 7 ” và áp dụng vào
giảng dạy, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
II. Mô tả giải pháp kỹ thuật.
1. Mô tả giải pháp kỹ thuật trước khi có sáng kiến
1.1. Thuận lợi
- Trước khi thực nghiệm sáng kiến này tôi luôn trăn trở về việc cá nhân mình có thể
thực hiện sáng kiến này có hiệu quả hay không, nhưng được sự giúp đỡ của đồng nghiệp
từ việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học qua mỗi tiết học, đến xây dựng bài giảng, thường
xuyên dự giờ đóng góp ý kiến, hỗ trợ các thông tin cần thiết cho việc giảng dạy, bên cạnh
đó sự hợp tác của học sinh cũng là nhân tố rất quan trọng.
- 3 -
4. - Sự hỗ trợ của sách báo, đặc biệt là trên internet, thường xuyên trao đổi kiến thức
với các đồng nghiệp thông qua internet, tham khảo các bài giảng thông qua các trang cá
nhân (Trường học kết nối.vn), thường xuyên cập nhật chủ trương chính sách của bộ giáo
dục về việc đưa BVMT vào trong giảng dạy.
- Ngoài ra tôi còn thuờng xuyên nhắc nhở và giáo dục các em về kiến thức BVMT ở
mọi lúc mọi nơi.
1.2. Khó khăn
- Trước sự ô nhiễm môi trường như hiện nay, để bảo vệ chính mình và người thân
của mình, thì con người phải có ý thức bảo vệ môi trường thông qua những việc làm cụ
thể. Là học sinh lớp 7 đang ngồi trên ghế nhà trường các em đang còn nhỏ, nhiều lúc
nhận thức về môi trường cũng còn rất hạn chế.
- Hơn nữa, khái niệm môi trường là một khái niệm rất rộng mà trình độ hiểu biết
của các em lớp 7 còn hạn chế, trong khi đó thời gian của mỗi tiết học chỉ có 45 phút, việc
tiếp cận với internet chưa thường xuyên. Bên cạnh đó ý thức bảo vệ môi trường của các
em học sinh cũng như của các bậc phụ huynh còn hạn chế.
- Sáng kiến “Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong giảng dạy môn Vật lí 7 ”
là một sáng kiến rất quan trọng nhằm giáo dục ý thức BVMT cho các em học sinh ngay
từ những lớp đầu cấp học, qua đây chúng ta có thể nhờ các em mang các thông điệp
BVMT về từng gia đình, từng địa phương, và từng người chưa có sự am hiểu về môi
trường để rồi từ đó mọi người sẽ quan tâm nhiều hơn đến sự ô nhiễm môi trường cũng
như họ sẽ sống và làm việc thân thiện hơn đối với môi trường.
2. Mô tả giải pháp kỹ thuật sau khi có sáng kiến
2.1. Khái niệm về dạy học tích hợp:
Quá trình dạy học tích hợp được hiểu là một quá trình dạy học trong đó toàn thể các
hoạt động học tập góp phần hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, có dự tính
trước những điều cần thiết cho học sinh, nhằm phục vụ cho các quá trình học tập tương
lai, hoặc nhằm hòa nhập học sinh vào cuộc sống lao động. Mục tiêu cơ bản của tư tưởng
sư phạm tích hợp là nâng cao chất lượng giáo dục học sinh phù hợp các mục tiêu giáo
dục của nhà trường.
2.2. Mục tiêu giáo dục bảo vệ môi trường trong các trường học:
- Hiểu biết bản chất của các vấn đề môi trường: Tính phức tạp, quan hệ nhiều mặt,
tính hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên và khả năng chịu tải của môi trường ….
- Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của các vấn đề môi trường như một
nguồn lực để sinh sống, lao động và phát triển của mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia và
quốc tế. Từ đó có thái độ cách ứng xử đúng đắn trước các vấn đề môi trường, xây dựng
quan niệm đúng về ý thức trách nhiệm, về giá trị nhân cách.
- Có tri thức, kĩ năng, phương pháp hành động để nâng cao năng lực lựa chọn phong
cách sống thích hợp với việc sử dụng hợp lí và khôn ngoan các nguồn tài nguyên thiên
nhiên; có thể tham gia có hiệu quả vào việc phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi
trường cụ thể nơi sinh sống và làm việc.
2.3. Nguyên tắc, phương thức, phương pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi
trường trong môn vật lí ở trường Trung học cơ sở.
* Nguyên tắc
- 4 -
5. - Giáo dục bảo vệ môi trường là một lĩnh vực liên ngành, tích hợp vào các môn học
và các hoạt động.
- Mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường phải phù hợp với
mục tiêu đào tạo của cấp học, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo của cấp học.
- Phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường nhằm tạo cho người học chủ động tham
gia vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho học sinh phát hiện các vấn đề môi trường và tìm
hướng giải quyết vấn đề dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên.
- Tận dụng các cơ hội để giáo dục bảo vệ môi trường nhưng phải đảm bảo kiến thức
cơ bản của môn học, tính logic của nội dung, không làm quá tải lượng kiến thức và tăng
thời gian của bài học.
* Phương thức giáo dục:
- Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường được tích hợp trong môn Vật lí thông qua
các chương, bài cụ thể. Việc tích hợp thể hiện ở 3 mức độ:
+ Mức độ toàn phần: Mục tiêu và nội dung của bài học hoặc của chương phù hợp
hoàn toàn với mục tiêu và nội dung của giáo dục bảo vệ môi trường.
+ Mức độ bộ phận: Chỉ có một phần bài học có mục tiêu và nội dung giáo dục bảo
vệ môi trường.
+ Mức độ liên hệ: Có điều kiện liên hệ một cách logic.
- Các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường ngoài lớp học:
+ Hoạt động tham quan theo chủ đề: khu bảo tồn, danh lam thắng cảnh …
+ Điều tra, khảo sát, nghiên cứu tình hình môi trường địa phương, thảo luận phương
án xử lí.
+ Hoạt động trồng cây, xanh hóa trường học: tổ chức nhân dịp tết trồng cây, ngày
môi trường thế giới 5/6 …
+ Tổ chức thi tìm hiểu về môi trường: thi điều tra, sáng tác, văn nghệ về chủ đề môi
trường.
+ Hoạt động Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội TNTP Hồ Chí Minh về bảo vệ môi
trường: vệ sinh trường, lớp, làng xóm, tuyên truyền bảo vệ môi trường ở nhà trường và
địa phương.
* Các phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường.
- Phương pháp tham quan, điều tra, khảo sát, nghiên cứu thực địa.
- Phương pháp thí nghiệm.
- Phương pháp khai thác kinh nghiệm thực tế để giáo dục.
- Phương pháp hoạt động thực tiễn.
- Phương pháp giải quyết vấn đề cộng đồng.
- Phương pháp học tập theo dự án.
- Phương pháp nêu gương.
2.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Trong nghiên cứu lí luận ta dựa vào những lí
thuyết đã được khẳng định, những thành tựu của nhân loại trên nhiều lĩnh vực khác nhau,
những văn kiện chỉ đạo của Đảng và Nhà nước liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu để
xem xét vấn đề và tìm ra những giải pháp hợp lí, có sức thuyết phục, xây dựng một lí
thuyết mới, bổ sung hoàn chỉnh cụ thể hoá lí thuyết cũ.
- 5 -
6. - Phương pháp quan sát và đàm thoại: Việc dự giờ, quan sát quá trình và thái độ học
tập rèn luyyện của học sinh cũng như các biện pháp sư phạm của giáo viên trong các tiết
học. Trực tiếp phỏng vấn, trò chuyện, tham gia hoạt động cùng các em để có thể tìm thấy
những biểu hiện có liên quan đến hứng thú tham gia các hoạt động giáo dục của học sinh.
- Phương pháp kiểm chứng, đánh giá tổng kết thực hiện: Trên cơ sở kiểm chứng,
đánh giá các thông tin thu lượm được sẽ hình dung được thực trạng, đặc điểm hoạt động
của học sinh một cách tương đối chính xác. Từ đó có phương hướng điều chỉnh kế hoạch
sao cho phù hợp với tình hình của tập thể học sinh.
- Phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp: Dựa trên kết quả điều tra thống kê lại,
so sánh và tổng hợp để tìm nguyên nhân, từ đó đưa ra những biện pháp thích hợp để giáo
dục học sinh.
Thông thường những phương pháp nghiên cứu trên được kết hợp với nhau làm cho
các kết quả thu được vừa có sức thuyết phục về mặt lí luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.
2.5. Nội dung nghiên cứu
2.5.1. Thực trạng của vấn đề đặt ra, sự cần thiết để tiến hành nghiên cứu đề tài
Bảo vệ môi trường hiện nay đang là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó có học sinh.
Tuy nhiên, rất nhiều học sinh không mấy quan tâm, thậm chí thờ ơ đối với việc bảo vệ
môi trường. Vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên cần giáo dục học sinh hiểu rõ sự
cần thiết phải bảo vệ môi trường và biết cách bảo vệ môi trường, trước hết là môi trường
sống xung quanh các em.
Trong quá trình dạy học Vật lí, tôi chắc rằng các giáo viên đã đề cập đến các biện
pháp giáo dục bảo vệ môi trường. Tuy nhiên việc làm này còn chưa thường xuyên, đôi
khi còn mang tính sách vở, thiếu sự gần gũi với đời sống thực tế học sinh. Trong khi đó,
Vật lí là môn khoa học mang tính thực tiễn cao, chúng ta hoàn toàn có thể vừa đưa ra các
biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường liên quan đến từng nội dung trong các bài học cụ
thể lại vừa gần gũi với sự hiểu biết của học sinh. Chính điều này sẽ có tác dụng kích thích
óc tò mò, sáng tạo, hứng thú học tập, mở rộng sự hiểu biết của học sinh, đặc biệt là
hướng sự quan tâm của các em tới môi trường để từ đó biết cách bảo vệ môi trường.
Thực tế tại trường THCS Mỹ Thành và qua tìm hiểu các đồng nghiệp giảng dạy Vật
lí trên địa bàn huyện Mỹ Lộc nói chung, hiện tại chưa có một tài liệu cụ thể nào hướng
dẫn giáo viên về nội dung, chương trình cũng như phương pháp dạy học tích hợp giáo
dục môi trường trong môn Vật lí một cách cụ thể, rõ ràng và phù hợp. Hầu hết giáo viên
tự tìm tòi, nghiên cứu và tự đưa ra nội dung giáo dục môi trường cần tích hợp vì vậy
không có sự thống nhất về nội dung, chương trình và phương pháp. Cũng vì vậy trong
quá trình dạy học, hầu hết giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc dạy học tích hợp giáo
dục môi trường, nếu có chỉ mang tính đối phó. Đa số giáo viên chỉ dạy học có tích hợp
khi có sinh hoạt chuyên đề, thao giảng.
Để nắm rõ thực trạng hiểu biết về kiến thức môi trường trong môn Vật lí của học
sinh khối 7 trường THCS Mỹ Thành, khi bắt đầu nghiên cứu lí luận để viết sáng kiến này
tôi đã tiến hành 1 bài kiểm tra 15 phút lấy điểm hệ số 1 (sau khi học sinh học xong Tiết
16 –Bài 15: Chống ô nhiễm tiếng ồn – Vật lí 7) với câu hỏi về kiến thức môi trường như
sau:
- 6 -
7. Câu hỏi: Trong quá trình lưu thông của các phương tiện giao thông đường bộ, làm
phát sinh các khói bụi và gây ra rất nhiều tiếng ồn. Hiện tượng này gây ra tác hại gì đối
với môi trường và con người ? Em hãy đề xuất giải pháp để hạn chế những tác hại đó?
Kết quả học sinh trả lời câu hỏi trên như sau:
Lớp
Tổng
số học
sinh
Kết quả
Trả lời đúng
Có trả lời nhưng
chưa đầy đủ
Không có câu trả lời
hoặc trả lời sai
SL TL% SL TL% SL TL%
7A 31 7 22,6 8 25,8 16 51,6
7B 32 5 15,6 8 25,0 19 59,4
Tổng 63 12 19,4 16 25,4 35 55,6
Qua kết quả kiểm tra có thể thấy tỉ lệ học sinh hiểu biết về môi trường (sự cần thiết
phải bảo vệ môi trường và biết cách bảo vệ môi trường) còn rất hạn chế, có hơn 55% số
học sinh không quan tâm hoặc không hiểu biết về kiến thức môi trường liên quan trong
môn Vật lí.
Trước thực trạng trên, trong năm học 2017 – 2018 tôi đã viết sáng kiến kinh nghiệm
“Tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong giảng dạy môn Vật lí 7” với mục đích:
- Xây dựng nội dung, chương trình tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy
học môn Vật lí lớp 7.
- Đề xuất một số phương pháp dạy học tích hợp giáo dục môi trường trong môn Vật
lí lớp 7 đạt hiệu quả cao.
2.5.2. Một số giải pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học Vật
lí lớp 7.
2.5.2.1. Xây dựng nội dung, chương trình tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường
trong môn Vật lí lớp 7.
Tên bài Địa chỉ tích hợp
(vào nội dung nào
của bài)
Nội dung GDBVMT (kiến thức, kĩ năng có thể
tích hợp)
Bài 1.
Nhận biết
ánh sáng-
Nguồn
sáng và
vật sáng
Ta nhìn thấy một vật
khi có ánh sáng
truyền từ vật đó vào
mắt ta.
Ở các thành phố lớn, do nhà cao tầng che cắn
nên học sinh thường phải học tập và làm việc dưới
ánh sáng nhân tạo, điều này có hại cho mắt. Để
làm giảm tác hại này, học sinh cần có kế hoạch
học tập và vui chơi dã ngoại.
- 7 -
8. Bài 5.
Ảnh của
một vật
tạo bởi
gương
phẳng
Gương phẳng là một
phần của mặt phẳng,
phản xạ được ánh
sáng.
- Các mặt hồ trong xanh tạo ra cảnh quan rất đẹp,
các dòng sông trong xanh ngoài tác dụng đối với
nông nghiệp và sản xuất còn có vai trò quan trọng
trong việc điều hòa khí hậu, tạo ra môi trường
trong lành.
- Trong trang trí nội thất, trong gian phòng chật
hẹp, có thể bố trí thêm các gương phẳng lớn trên
tường để có cảm giác phòng rộng hơn.
- Các biển báo hiệu giao thông, các vạch phân chia
làn đường thường dùng sơn phản quang để người
tham gia giao thông dễ dàng nhìn thấy về ban đêm.
Bài 7.
Gương
cầu lồi
Vùng nhìn thấy của
gương cầu lồi lớn
hơn vùng nhìn thấy
của gương phẳng có
cùng kích thước
Tại vùng núi cao, đường hẹp và uốn lượn, tại các
khúc quanh người ta đặt các gương cầu lồi nhằm
làm cho lái xe dễ dáng quan sát đường và các
phương tiện khác cũng như người và súc vật đi
qua. Việc làm này đã làm giảm thiểu số vụ tai nạn
giao thông và bảo vệ tính mạng con người và các
sinh vật.
Bài 8.
Gương
cầu lõm
Gương cầu lõm có
tác dụng biến một
chùm tia sáng song
song thành một
chùm tia phản xạ hội
tụ vào một điểm và
ngược lại, biến một
chùm tia tới phân kì
thích hợp thành một
chùm tia phàn xạ
song song.
- Mặt trời là một nguồn năng lượng. Sử dụng năng
lượng Mặt Trời là một yêu cầu cấp thiết nhằm
giảm thiểu việc sử dụng năng lượng hóa thạch (tiết
kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường).
- Một cách sử dụng năng lượng Mặt Trời đó là: Sử
dụng gương cầu lõm có kích thước lớn tập trung
ánh sáng Mặt Trời vào một điểm (để đun nước,
nấu chảy kim loại.
Bài 10.
Nguồn
âm
Các vật phát ra âm
đều dao động
Để bảo vệ giọng nói của người, ta cần luyện tập
thường xuyên, tránh nói quá to, không hút thuốc
lá.
- 8 -
9. Bài 11.
Độ cao
của âm
Âm phát ra càng cao
(càng bổng) khi tần
số dao động càng
lớn. Âm phát ra càng
thấp (càng trầm) khi
tần số dao động
càng nhỏ.
- Trước cơn bảo thường có hạ âm, hạ âm làm con
người khó chịu, cảm giác buồn nôn, chống mặt;
một số sinh vật nhạy cảm với hạ âm nên có biểu
hiện khác thường. Vì vậy, người xưa dựa vào dấu
hiệu này để nhận biết các cơn bảo.
- Dơi phát ra siêu âm để săn tìm muỗi, muỗi rất sợ
siêu âm do dơi phát ra. Vì vậy, có thể chế tạo máy
phát siêu âm bắt chước tần số siêu âm của dơi để
đuổi muỗi.
Bài 14.
Phản xạ
âm tiếng
vang
Các vật mềm, có bề
mặt gồ ghề phản xạ
âm kém. Các vật
cứng, có bề mặt nhẵn
phản xạ âm tốt (hấp
thụ âm kém)
Khi thiết kế các rạp hát, cần có biện pháp để tạo ra
độ vọng hợp lí để tăng cường âm, nhưng nếu tiếng
vọng kéo dài dẽ làm âm nghe không rõ, gây cảm
giác khó chịu.
Bài 15.
Chống ô
nhiễm
tiếng ồn
Ô nhiễm tiếng ồn
xẩy ra khi tiếng ồn
to, kéo dài, gây ảnh
hưởng xấu đến sức
khỏe và hoạt động
bình thường của con
người.
Tác hại của tiếng ồn:
- Về sinh lý, nó gây mệt mỏi toàn thân, nhức đầu,
choáng váng, ăn không ngon, gầy yếu. Ngoài ra
người ta còn thấy tiếng ồn quá lớn làm suy giảm
thị lực.
- Về tâm lý, nó gây khó chịu, lo lắng, bực bội, dễ
cáu gắt, sợ hãi, ám ảnh, mất tập trung, dễ nhầm
lẫn, thiếu chính xác.
Để tránh chống ô
nhiễm tiếng ồn cần
làm giảm độ to của
tiếng ồn phát ra,
ngăn chặn đường
truyền âm theo
hướng khác.
Phòng tránh ô nhiễm tiếng ồn:
- Trồng cây: Trồng cây xung quanh trường học,
bệnh viện, nơi làm việc, trên đường phố và đường
cao tốc là cách rất hiệu quả để giàm thiểu tiếng ồn.
- Lắp đặt thiết bị giảm âm: Lắp đặt một số thiết bị
giảm âm trong phòng làm việc như: thảm, rèm,
thiết bị cách âm, để giảm thiểu tiếng ồn từ bên
ngoài truyền vào.
- Đề ra nguyên tắc: Lặp bảng thông báo quy định
về việc gây ồn. Cùng nhau xây dựng ý thức giữ
trật tự cho mọi người.
- 9 -
10. - Các phương tiện giao thông cũ, lạc hậu gây ra
những tiếng ồn rất lớn. Vì vậy, cần lắp đặt ống xả
và các thiết bị chống ồn trên xe. Kiểm tra, đình chỉ
hoạt động của các phương tiện giao thông đã cũ
hoặc lạc hậu.
- Tránh xa các nguồn gây tiếng ồn: Không đứng
gần các máy móc, thiết bị gây ồn lớn như máy bay
phản lực, các động cơ, máy khoan cắt, rèn kim
loại…. Khi cần tiếp xúc với các thiết bị đó cần sử
dụng các thiết bị bào vệ (mũ chống ồn) và
tuân thủ các quy tắc an toàn. Xây dựng các trường
học, bệnh viện, khu dân cư xa nguồn gây ra ô
nhiễm thiếng ồn.
Học sinh cần thực hiện các nếp sống văn minh tại
trường học: bước nhẹ lên cầu thang, không nói
chuyện trong lớp học, không nô đùa, mất trật tự
trong trường học….
Bài 17.
Sự nhiễm
điện do cọ
xát
Có thể làm nhiễm
điện vật bằng cách
cọ xát.
- Vào những lúc trời mưa dông, các đám mây bị cọ
xát vào nhau nêm nhiễm điện trái dấu. Sự phóng
điện giữa các đám mây (sấm) và giữa đám mây
với mặt đất (sét) vừa có lợi vừa có hại cho cuộc
sống con người.
+ Có lợi: Giúp điều hòa khí hậu, gây ra phản ứng
hóa học nhằm tăng thêm lượng ôzôn bổ sung vào
khí quyển.
+ Có hại: Phá hủy nhà của và các công trình xây
dựng, ảnh hưởng đến tính mạng con người và sinh
vật, tạo ra các khí độc hại (NO. NO2 ….)
- Để giàm tác hại của sét, bào vệ tính mạng của
người và các công trình xây dựng, cần thiết xây
dựng các cột thu lôi.
Bài 21
Hai loại
điện tích
hai loại điện tích
dương và điện tích
âm. Các vật nhiễm
điện cùng loại thì
đầy nhau, khác loại
thì hút nhau.
Trong các nhà máy thường xuất hiện bụi gây hại
cho công nhân. Bố trí các tấm kim loại tích điện
trong nhà máy khiến bụi bị nhiễm điện và bị hút
vào tấm kim loại, giữ môi trường trong sạch, bảo
vệ sức khỏe công nhân.
- 10 -
11. Bài 22.
Tác dụng
nhiệt và
tác dụng
phát sáng
của dòng
điện
Dòng điện đi qua
một vật dẫn thông
thường, đều làm cho
vật dẫn nóng lên.
Nếu vật dẫn nóng
lên đến nhiệt độ cao
thì phát sáng
Điôt phát quang có
khả năng phát sáng
khi có dòng điện đi
qua, mặc dù điôt
chưa nóng tới nhiệt
độ cao.
- Nguyên nhân gây ra tác dụng nhiệt của dòng điện
là do các vật dẫn có điện trở. Tác dụng nhiệt có thể
có lợi, có thể có hại.
- Để làm giảm tác dụng nhiệt, cách đơn giản là
làm dây dẫn bằng chất có điện trở suất nhỏ. Việc
sử dụng nhiều kim loại làm vật liệu dẫn điện dẫn
đến việc làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Ngày
nay người ta đang cố gắng sử dụng vật liệu siêu
dẫn (có điện trở suất bằng không) trong đời sống
và kỉ thuật.
Sử dụng điôt trong thắp sáng sẽ góp phần làm
giảm tác dụng nhiệt của dòng điện, nâng cao hiệu
suất sử dụng điện.
Bài 23.
Tác dụng
Từ tác
dụng hóa
học và tác
dụng sinh
lí của
dòng
điện.
Dòng điện có tác
dụng từ.
Dòng điện có tác
dụng hóa học
- Dòng điện gây ra xung quanh nó một từ trường.
Các đường dây cao áp có thể gây ra những điện từ
trường mạnh, những người dân sống gần đường
dây điện cao thế có thể chịu ảnh hưởng của trường
điện từ này.
- Dưới tác dụng của trường điện từ mạnh, các vật
đặt trong đó có thể bị nhiễm điện do hưởng ứng,
sự nhiễm điện do hưởng ứng đó có thể khiến cho
tuần hoàn máu của người bị ảnh hưởng, căng
thẳng, mệt mỏi.
- Để giảm thiểu tác hại này, cần xây dựng các lưới
điện cao áp xa khu dân cư.
- Dòng điện gây ra các phản ứng điện phân, Việt
Nam là đất nước có khí hậu nóng ẩm, do những
yếu tố tự nhiên, việc sử dụng các nguồn nhiên liệu
hóa thạch (than đá, dầu mỏ, khí đố, …) và hoạt
động sản xuất công nghiệp cũng tạo ra nhiều khí
thải độc hại (CO2, CO, NO, NO2, SO2, H2S, …).
Các khí này hòa tan trong hơi nước tạo ra môi
trường điện li. Môi trường điện li này sẽ khiến cho
kim loại bị ăn mòn (ăn mòn hóa học)
- Để giảm thiểu tác hại này cần bao bọc kim loại
bằng chất chống ăn mòn hóa học và giảm thiểu các
khí thải độc hại trên.
- 11 -
12. Dòng điện có tác
dụng sinh lí.
- Dòng điện gây ra tác dụng sinh lí.
+ Dòng điện có cường độ 1mA đi qua cơ thể người
gây ra cảm giác tê, co cơ bắp (điện giật). Dòng
điện càng mạnh càng nguy hiểm cho sức khỏe và
tính mạng con người. Dòng điện mạnh ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hệ thần kinh, tim ngừng đập,
ngạt thở, nếu dòng điện mạnh có thể
gây tử vong.
+ Dòng điện có cường độ nhỏ được sử dụng để
chữa bệnh (điện châm). Trong cách này các điện
cực được nối với các huyệt, các dòng điện làm các
huyệt được kích thích hoạt động. Việt Nam là
nước có nền y học châm cứu tiên tiến trên thế giới.
- Biện pháp an toàn: Cần tránh bị điện giật bằng
cách sử dụng các chất cách điện để cách li dòng
điện với cơ thể và tuân thủ các quy tắc an toàn
điện.
Bài 29
An toàn
khi sử
dụng
điện.
Phải thực hiện các
quy tắc an toàn khi
sử dụng điệ.
- Quá trình đóng ngắt mạch điện cao áp luôn kèm
theo các tia lửa điện, sự tiếp xúc điện không tốt
cũng có thể làm phát sinh các tia lửa điện. Tia lửa
điện có tác dụng làm nhiễu sóng điện từ ảnh
hu7ng3 đến thông tin liên lạc hoặc gây ra các phản
ứng hóa học (tạo ra các khí độc như CO2, NO, NO2
…). Vì vậy, cần đảm bảo sự tiếp xúc điện thật tốt
trong quá trình vận hành và sử dụng các thiết bị
điện. Tia lửa điện truyền đến các vật liệu xốp, dễ
cháy có thể gây ra hỏa hoạn.
- Biện pháp an toàn khi sử dụng điện.
+ Đề ra các biện pháp an toàn điện tại những
nơi cần thiết.
+ Cần tránh bị điện giật bằng cách tránh tiếp
xúc trực tiếp với dòng điện có điện áp cao.
+ Mỗi người cần tuân thủ các quy tắc an toàn
khi sử dụng điện và có những kiến thức cơ bản
nhất về sơ cứu người bị điện giật.
- 12 -
13. 2.5.2.2. Một số phương pháp dạy học tích hợp giáo dục môi trường trong môn Vật lí
lớp 7 .
Phương pháp 1: Thông qua từng tiết học của môn Vật Lí lớp 7.
Khi dạy học tích hợp giáo dục môi trường theo phương pháp này cần đảm bảo các
nguyên tắc sau:
- Không làm mất tính đặc trưng của môn học. Không biến bài học Vật lí thành bài
học giáo dục môi trường.
- Khai thác nội dung có chọn lọc, tập trung, không tràn lan, tùy tiện.
- Phát huy cao độ hoạt động tích cực nhận thức của học sinh và các kinh nghiệm
thực tế của học sinh, tận dụng cơ hội cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với môi trường
- Nội dung giáo dục môi trường cần gần gủi, thiết thực, gắn liền với hoạt động thực
tiễn của địa phương, đất nước.
Phương pháp 2: Tích hợp giáo dục môi trường thông qua một hoạt động ngoại
khóa (Có thể chỉ ngoại khóa về môn Vật lí, cũng có thể ngoại khóa về nhiều môn học
trong đó có môn Vật lí).
Để tổ chức hoạt động ngoại khóa về môi trường đòi hỏi giáo viên cần có kế hoạch
tổ chức hoạt động khoa học, hiệu quả, phù hợp với đối tượng học sinh.
*Lưu ý: Để giảng dạy các tiết có tích hợp BVMT đạt hiệu quả trước hết GV phải
nắm chắc chắn chuẩn kiến thức, kỹ năng của bài đó, kết hợp tìm tư liệu có liên
quan(tranh, ảnh, đoạn phim…)đến kiến thức BVMT của bài học đó qua báo đài hoặc
internet…, xác định được mục tiêu khi lồng ghép các kiến thức đó, những đơn vị kiến
thức đó phải dễ hiểu, và sự vật hiện tượng mà giáo viên giới thiệu phải nằm trong tầm
hiểu biết của học sinh, tránh trường hợp nó trở thành kiến thức trừu tượng, khó hình
dung, rất dễ gây sự nhàm chán cho học sinh, bằng phương pháp giảng dạy đưa những
kiến thứ BVMT đơn giản, cụ thể gắn liền với cuộc sống, với địa phương, kết hợp nhắc
nhở của giáo viên sẽ là một trong những yếu tố góp phần cho sự thành công cho tiết dạy
có tích hợp BVMT, cần tổ chức những buổi ngoại khóa để học sinh có điều kiện tìm hiểu
về vấn đề môi trường ở địa phương, để từ đó các em có biện pháp và hành động cụ thể
bảo vệ môi trường, thường xuyên liên hệ với môi trường ở trường học, ở gia đình, ở địa
phương. Người giáo viên phải là một tấm guơng trong vấn đề BVMT.
Để cụ thể vấn đề trên, Tôi có xây dựng phương pháp giảng dạy các kiến thức cho
một số bài có tích hợp BVMT môn vật lí 7 - THCS
3. Giải pháp cụ thể cho một số bài có tích hợp bảo vệ môi trường
Bài 1: NHẬN BIẾT ÁNH SÁNG – NGUỒN SÁNG VÀ VẬT SÁNG
Địa chỉ tích hợp: Ta nhìn thấy một vật khi có ánh sáng từ vật đó truyền vào mắt ta.
Phương pháp tích hợp: Sử dụng thí nghiệm để hình thành kiến thức làm thế nào để
nhìn thấy một vật (hình 1.2 a), GV kết hợp đặt ra các câu hỏi.
GV hỏi: Các em có biết vì sao các bạn học sinh ở thành phố bị cận nhiều hơn các
bạn học sinh ở nông thôn không?
HS nhận thức: Ở thành phố, do nhà cao tầng che chắn nên các học sinh thường phải
học tập, làm việc và vui chơi dưới ánh đèn điện (ánh sáng nhân tạo) hoặc ánh sáng
- 13 -
Tải bản FULL (24 trang): https://bit.ly/2PYcHzA
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
14. khuếch tán nên mắt thường dễ bị cận. Chúng ta ở nông thôn học tập, làm việc và vui chơi
dưới ánh sáng chủ yếu là ánh sáng tự nhiên vì thế mà ít bị cận hơn.
GV: Để khắc phục hiện tượng trên thì các học sinh thành phố cần phải làm gì?
HS trả lời: Các học sinh thành phố cần có kế hoạch học tập hợp lí, tổ chức vui chơi,
dã ngoại ở những nơi có nhiều ánh sáng tự nhiên.
GV nhấn mạnh: Các học sinh khi học tập phải đảm bảo ánh sáng, hạn chế học tập
dưới ánh sáng nhân tạo.
Bài 3: ỨNG DỤNG ĐỊNH LUẬT TRUYÊN THẲNG CỦA ÁNH SÁNG
Địa chỉ tích hợp: Bóng tối nằm phía sau vật cản, không nhận được ánh sáng từ
nguồn sáng truyền tới.
Phương pháp tích hợp: Làm thí nghiệm H3.1-SGK Vậ lý 7, H 3.2-SGK Vậ lý 7 để
hình thành kiến thức bống tối, sau đó kết hợp giáo dục BVMT cho học sinh(có sử dụng
hình ảnh minh họa).
GV:Trong sinh hoạt và học tập ta cần làm như thế nào để không có bóng tối?
HS trả lời: Trong sinh hoạt và học tập ta cần đảm bảo đủ ánh sáng, không có bóng
tối. Vì vậy, cần lắp đặt nhiều bóng đèn nhỏ thay vì lắp đặt một bóng đèn lớn.
GV: Vì sao người ta nói ở các thành phố thường bị ô nhiễm ánh sáng?
(sử dụng hình ảnh để học sinh quan sát)
Hình ảnh ô nhiềm ánh sáng ở các đô thị
Hs trả lời: Ở các thành phố thường bị ô nhiễm ánh sáng là do quá nhiều loại nguồn
sáng có cường độ chiếu sáng khác nhau.
GV: Sự ô nhiễm ánh sáng này có gây tác hại gì cho con người?
HS nhận thức: Sự ô nhiễm ánh sáng gây ra các tác hại cho con người như: Làm cho con
người luôn bị mệt mỏi, ảnh hưởng đến tâm lí, lãng phí năng lượng, mất an toàn giao
thông và sinh họat.
- 14 -
5293219