8. Cộng cả lại kể các các nguyên tố khác như Mg, Cu, K… Theo các nhà bác học tính ra thì với một người nặng 65kg, giá trị của chúng chỉ đáng giá chưa tới 3$. Áp dụng: Đây là tình huống có chút khôi hài nhưng có thể giúp học sinh nắm được cơ bản thành phần nguyên tố trong cơ thể con người có thể đưa vào bài giảng về thành phần nguyên tố nhằm làm rõ thêm về quan điểm duy vật (ở lớp 9 hay lớp 11).<br />* Ví dụ 20: Vì sao tay một người dính cồn iod cầm bánh mì thì có chấm xanh trên bánh?<br />Do cồn iod là hỗn hợp tan của Iod và Ancol etylic (C2H5OH), Iod gặp tinh bột tạo ra phức màu xanh dương. <br />Điều này cũng có thể giải thích khi bôi cồn iod lên phía trong quả chuối xanh lại cũng có hiện tượng tương tự (do trong chuối xanh có tinh bột (C6H10O5)n). Nhưng nếu là chuối chín thì không thấy hiện tượng này (do chuối chín chuyển tinh bột thành đường Glucozo (C6H12O6). Người ta sử dụng tinh bột để nhận biết iod và ngược lại.<br />Áp dụng: Điều này được đề cập khi dạy về Iod (ở lớp 10) và Tinh bột (ở lớp 12), giúp học sinh có thể giải thích 1 hiện tượng trong đời sống vì thực tế cồn iod có rất đại trà trong đời sống đặc biệt là trị ghẻ thú y, cung cấp cách nhận biết tinh bột. <br />* Ví dụ 21: Dấm ăn là gì? Có ích gì? <br />Trong dấm ăn có vị chua vì có 3 - 5% là Axit axetic (CH3COOH). Dấm ăn có tác dụng tạo vị chua và có tác dụng làm cho cơ thể có cảm giác muốn ăn và tiêu hoá tốt, có khả năng tiêu độc, sát khuẩn. <br />Áp dụng: Dấm ăn là một thứ gia vị rất gần gũi trong đời sống, giáo viên có thể xen vào trong bài giảng về axit axetic (ở lớp 9 hay lớp 12) để học sinh liên hệ trong thực tế, hiểu biết về vai trò của dấm ăn đối với con người.<br />* Ví dụ 22: Vì sao có thể đánh cảm bằng dây bạc và khi đó dây bạc bị hóa đen? Để dây bạc trắng sáng trở lại, người ta sẽ ngâm vào nước tiểu?<br />Người bị cảm trong cơ thể thường sinh ra những hợp chất dạng sunfua (S2−) vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có ái lực mạnh với Ag nên xảy ra phản ứng tạo Bạc sunfua (Ag2S) kết tủa màu đen. Do đó loại được chất độc ra khỏi cơ thể và cũng làm cho dây bạc chuyển thành màu đen.<br />Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ xảy ra phản ứng:<br />Nên Ag2S bị hoà tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng.<br />Áp dụng: Đây là những ứng dụng rất hay của bạc. Giáo viên có thể đưa những vấn đề này vào bài về kim loại (ở lớp 9 hay lớp 12).<br />* Ví dụ 23: Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt? <br />Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của người có các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều, tuyến nước bọt làm tăng cơ hội chuyển hoá một lượng tinh bột theo phản ứng thuỷ phân thành mantozơ, glucozơ gây ngọt theo sơ đồ: <br />Áp dụng: Vấn đề này có thể đề cập đến trong bài dạy về tinh bột (ở lớp 9, lớp 12), cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự chuyển hoá tinh bột trong khi ăn. Đó cũng là một hiện tượng tự nhiên đều cảm nhận được trong các bữa cơm của chúng ta.<br />* Ví dụ 24: Vì sao không nên ăn hoa quả ngay sau bữa ăn?<br />Trái cây có loại đường đơn là monosaccarit và một số loại axit sẽ kết hợp với axit trong dạ dày tạo ra Axit tactaric, Axit citric làm cho dạ dày đầy hơi.<br />Một số loại hoa quả có hàm lượng Tanin và Pectin cao, chúng sẽ kết hợp với dịch vị, chất xơ và protein trong thức ăn, dễ tạo thành những hạt rắn, khó tiêu hóa. Những hạt này hình thành sỏi ở dạ dày, ruột. <br />Nên ăn hoa quả sau bữa ăn khoảng 1−3 giờ.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (lớp 9, lớp 12) <br />* Ví dụ 25: Vì sao vắt chanh vào cốc sữa đặc có đường sẽ thấy có kết tủa?<br />Trong sữa có thành phần protein gọi là Cazein. Khi vắt chanh vào sữa làm tăng độ chua, tức làm giảm pH của dung dịch sữa tới pH đúng với điểm đẳng điện của cazein thì chất này sẽ kết tủa. <br />Khi làm phomat, người ta cũng tách Cazein theo nguyên tắc tương tự và cho lên men tiếp.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit cacboxylic (ở lớp 9 hay lớp 12). <br />* Ví dụ 26: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc (CO) hoặc nhiều khí thiên nhiên (CH4…) và không có oxi, để tránh khi xuống giếng bị ngạt?<br />Trong các giếng đào đặc biệt nhiều ở vùng đồng bằng thường có khí độc CO, CH4… và không có O2. Mà người dân chúng ta hay có thói quen xuống giếng thau giếng hoặc vì lấy gầu múc nước… Đã có nhiều trường hợp bị tử vong một lúc nhiều mạng người vì gặp phải giếng có khí độc (CO) gây đông máu, CH4… và không có O2 gây ngạt trong tíc tắc, làm người xuống cứu cũng chết. Để tránh, tốt nhất không nên xuống các giếng đào, nếu có xuống phải đeo bình oxi. Còn muốn biết có khí độc(CO), hoặc nhiều khí thiên nhiên(CH4…) và không có O2 chỉ cần lấy dây buộc một con gà, vịt … thả xuống nếu nó chết thì chứng tỏ có khí độc.<br />Áp dụng: Đây là một hiện tượng hay xảy ra, giáo viên nên đưa vào bài giảng để nhắc nhở học sinh, cộng đồng …tránh những cái chết thương tâm. Vấn đề này có thể xen vào bài dạy Cacbon hay Metan (ở lớp 9 hay lớp 11).<br />* Ví dụ 27: Gương soi có lịch sử như thế nào?<br />Thời xa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đến thời đồ đồng thau thì bằng gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần chuyển sang thuỷ ngân tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thuỷ ngân gây ngộ độc cho người sản xuất. Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế bằng bạc tráng sau tấm kính nhờ phản ứng anđehit (R−CHO) với dung dịch AgNO3/NH3 hay thay andehit bằng glucozơ. <br />Ag tạo ra bám chặt vào gương, người ta quét lên mặt sau chiếc gương một lớp sơn dầu bảo vệ. Phích nước cũng chế tạo kiểu này.<br /> Áp dụng: Đây là một ứng dụng của hợp chất có chức andehit vào đời sống. Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong các tiết dạy về andehit, glucozơ…(ở lớp 11 hay lớp 12). Để học sinh hiểu phần nào về sự tạo gương, ruột phích mà hàng ngày ai cũng bắt gặp.<br />* Ví dụ 28: Vì sao phèn chua có thể làm trong nước?<br />Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước:<br />[K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O]<br />Phèn chua không độc, có vị chua chát, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lững trong nước<br />Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lững ở trong nước này đã kết dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng hơn và lắng xuống. Vì vậy mà nước trở nên trong hơn.<br />Áp dụng: Đây là một ứng dụng quan trọng của phèn chua trong đời sống. Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong bài dạy về muối sunfat hoặc về các hợp chất quan trọng của nhôm (ở lớp 10 hay lớp 12).<br />* Ví dụ 29: Hàn the là chất gì?<br />Hàn the có thành phần chính là chất Natri tetraborat (hay là Borac), ở dạng tinh thể ngậm nước. Tinh thể trong suốt, tan nhiều trong nước nóng, không tan trong cồn 90o.<br />Trước đây, người ta thường dùng hàn the làm chất phụ gia cho vào giò lụa, bánh phở, bánh cuốn, … để cho những thứ này khi ăn sẽ cảm thấy dai và giòn. Ngay từ năm 1985, Tổ chức Y tế thế giới đã cấm dùng hàn the làm chất phụ gia cho thực phẩm vì nó độc, có thể gây sốc, trụy tim, co giật và hôn mê.<br />Áp dụng: Hàn the là chất được dùng trong buôn bán nhưng đã bị cấm sử dụng từ lâu. Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong bài dạy về một số hợp chất quan trọng của Natri (ở lớp 12).<br />* Ví dụ 30: Cloramin là chất gì mà sát trùng được nguồn nước?<br />Cloramin là chất NH2Cl và NHCl2. Khi hoà tan cloramin vào nước sẽ giải phóng cho ra khí Clo. Clo tác dụng với nước tạo ra HClO.<br />HClO có tính oxy hóa rất mạnh nên phá hoại hoạt tính một số enzim trong vi sinh vật, làm cho vi sinh vật chết.<br />Cloramin không gây độc hại cho người dùng nước đã được khử trùng bằng chất này.<br />Áp dụng: Cloramin là chất được sử dụng nhiều để làm sạch nước trong những vùng lụt bão. Giáo viên có thể đề cập đến chất này trong bài Clo (ở lớp 9, lớp 10).<br />* Ví dụ 31: Teflon là chất gì?<br />Teflon có tên thay thế là: Poli(tetrafloetilen) [(−CF2−CF2−)n]. Đó là loại polime nhiệt dẻo, có tính bền cao với các dung môi và hóa chất. Nó độ bền nhiệt cao, có độ bền kéo cao và có hệ số ma sát rất nhỏ. Teflon bền với môi trường hơn cả Au và Pt, không dẫn điện.<br />Do có các đặc tính quý đó, teflon được dùng để chế tạo những chi tiết máy dễ bị mài mòn mà không phải bôi mỡ (vì độ ma sát nhỏ), vỏ cách điện, tráng phủ lên chảo, nồi,… để chống dính.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài polime (ở lớp 9 hay lớp 12)<br />* Ví dụ 32: Thuốc chuột là chất gì? Nếu sau khi ăn thuốc mà không có nước uống thì chuột chết mau hơn hay lâu hơn?<br />Thuốc chuột có thành phần chính là Zn3P2. Sau khi ăn, Zn3P2 bị thủy phân rất mạnh, tạo thành khí PH3 (photphin) rất độc: <br />Làm cho hàm lượng nước trong cơ thể chuột giảm; nó khát và đi tìm nước. Chính PH3 đã giết chết chuột.<br />Càng nhiều nước đưa vào cơ thể chuột -> PH3 thoát ra càng nhiều -> chuột càng nhanh chết. Nếu không có nước, chuột càng lâu chết hơn.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng ứng dụng này trong bài Photpho (lớp 11).<br />* Ví dụ 33: Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy?<br />Do than đá tác dụng với khí O2 trong không khí tạo ra khí CO2, phản ứng tỏa nhiệt. <br />Nhiệt tỏa ra được tích góp dần dần, khi đạt đến nhiệt độ cháy của than thì than tự bốc cháy. <br />Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài C (lớp 9, lớp 11) hoặc bài O2 (lớp 8, lớp 10).<br />* Ví dụ 34: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau?<br />Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (ở lớp 9 hay lớp 11) hoặc bài một số hợp chất quan trọng của canxi (ở lớp 12).<br />* Ví dụ 35: Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà?<br />Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quang hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2.<br />Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và thải ra khí CO2 làm cho phòng thiếu khí O2 và quá nhiều khí CO2.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài tinh bột (ở lớp 9 hay lớp 12).<br />* Ví dụ 36: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết? Trong nông nghiệp, đất đèn dùng để làm gì?<br />Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua (CaC2), khi tác dụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hidroxit.<br />Axetilen có thể tác dụng với nước tạo ra andehit axetic (CH3CHO). Các chất này làm tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm chết cá.<br />Trong nông nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để làm kích thích quả xanh mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để dấm dứa, chuối, cà chua,… vào dịp cuối mùa đông, đầu mùa xuân.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Axetilen (ở lớp 9, lớp 11)<br />* Ví dụ 37: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?<br />Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng:<br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng kiến thức này vào bài HCl (ở lớp 10), bài một số hợp chất quan trọng của Natri (ở lớp 12).<br />* Ví dụ 38: Vì sao trong công nghiệp thực phẩm, muối (NH4)2CO3 được dùng làm bột nở?<br />NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm vào bột mì, lúc nướng bánh thì (NH4)2CO3 sẽ bị phân hủy thành các chất khí và hơi nên làm cho bánh xốp và nở hơn.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài muối amoni (ở lớp 11) hoặc muối cacbonat (ở lớp 9, lớp 11).<br />* Ví dụ 39: Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi?<br />Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của cơm làm cho cơm đỡ mùi khê.<br />Áp dụng: Đây là tính chất vật lí quan trọng của C, nó có khả năng hấp phụ màu và mùi. Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong bài cacbon (ở lớp 9, lớp 11).<br />* Ví dụ 40: Vì sao nước rau muống đang xanh, khi vắt chanh vào thì chuyển sang màu đỏ?<br />Có một số chất hoá học được gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu của dung dịch thay đổi khi độ axit thay đổi.<br />Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị này. Trong chanh có 7% axit citric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi màu nước rau. Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh lét là chứa chất kiềm canxi.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit cacboxylic (ở lớp 9, lớp 12).<br />* Ví dụ 41: Vì sao sau khi ăn trái cây thì không nên đánh răng ngay? <br />Các nhà khoa học khuyến cáo: Ai ăn trái cây thì phải một giờ sau mới được đánh răng. Tại sao vậy? Vì chất chua (axit hữu cơ) trong trái cây sẽ kết hợp với những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chải sẽ tấn công các kẽ răng và gây tổn thương lợi. Bởi vậy phải đợi đến khi lượng nước bọt trung hòa axit trong trái cây, nhất là táo, cam, nho, chanh.<br />Ta đã biết thức ăn vào dạ dày phải lưu giữ lại từ 1−2 giờ. Nếu sau bữa ăn, ta ăn ngay trái cây sẽ làm tăng thêm sự lưu trệ trong dạ dày.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (ở lớp 9, lớp 12) <br />* Ví dụ 42: Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thường bị xám đen? Vì sao dùng đồ bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi? <br />Do bạc tác dụng với khí O2 và H2S có trong không khí tạo ra bạc sunfua (Ag2S) màu đen.<br />Khi bạc sunfua gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion Ag+. Ion Ag+ có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít nước cũng đủ diệt vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát triển nên giữ cho thức ăn lâu bị ôi thiu.<br />Áp dụng: Đây là những ứng dụng rất hay của kim loại bạc. giáo viên có thể đưa những vấn đề này vào bài về kim loại (ở lớp 9, lớp 12).<br />* Ví dụ 43: Làm cá bớt tanh bằng phương pháp nào?<br />Khi nấu canh cá thì cho thêm chất chua (me, giấm,…) để làm giảm mùi tanh của cá.<br />Chất chua (axit lactic có trong nước dưa, me, axit axetic có trong giấm, axit citric có trong chanh…) nâng cao hương vị và hạn chế mùi tanh của cá.<br />Trong chất tanh của cá, có chứa hỗn hợp các amin [(CH3)2NH và (CH3)3N], có tính bazơ yếu. Các chất chua dùng để nấu canh cá đều là axit hữu cơ, chúng có phản ứng với các amin tạo thành muối. Do đó làm giảm hoặc làm mất vị tanh của cá.<br />Ví dụ: <br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Amin (ở lớp 12)<br />* Ví dụ 44: Vài kỷ lục trong thế giới kim loại <br />Kim loại có khối lượng riêng lớn nhất: Osmi (Os) với d = 22,7g/cm3.<br />Kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao nhất: Vonfram (W) với tnc = 34100C.<br />Kim loại nhẹ nhất: Liti (Li) với d = 0,53g/cm3.<br />Kim loại dẻo nhất: Vàng (Au)<br />Kim loại có nhiệt độ nóng chảy thấp nhất: thủy ngân (Hg) với tnc = −390C.<br />Kim loại dẫn điện, dẫn nhiệt tốt nhất: Bạc (Ag)<br />Kim loại được con người sử dụng làm công cụ sớm nhất: Đồng (Cu)<br />Kim loại có trữ lượng lớn nhất: Nhôm (Al), chiếm 7% về khối lượng vỏ trái đất.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Đại cương về kim loại (ở lớp 9, lớp 12).<br />* Ví dụ 45: Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng, người ta thường ngửi thấy mùi khai?<br />Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu chất đạm, như: nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ, … lượng Ure trong các chất hữu cơ sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, ure bị phân hủy thành CO2 và NH3.<br />Lượng NH3 sinh ra hoà tan trong nước dưới dạng một cân bằng động:<br />Như vậy, khi trời nắng (nhiệt độ tăng), cân bằng trên sẽ dịch chuyển theo chiều nghịch, tức là NH3 sinh ra do phản ứng phân hủy ure không bị hoà tan trong nước mà bị tách ra, bay vào không khí làm cho không khí xung quanh sông, hồ có mùi khai khó chịu.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài amoniac (ở lớp 11) hoặc bài cân bằng hoá học (ở lớp 10).<br />* Ví dụ 46: Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi quét mà nên rắc bột S lên trên?<br />Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một chất độc. Vì vậy khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi và làm cho quá trình thu gom khó khăn hơn. Ta phải dùng bột S rắc lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi. <br />Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Lưu huỳnh (lớp 10), tính chất hóa học của kim loại (ở lớp 9 hay lớp 12)<br />* Ví dụ 47: Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên? Khi nấu trứng thì lòng trắng trứng kết tủa lại?<br />Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là sự đông tụ. Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ bị kết tủa. <br />Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài protit (ở lớp 9 hay lớp 12) để giải thích hiện tượng thực tế này và học sinh có thể làm thí nghiệm tại nhà.<br />* Ví dụ 48: Nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế? Còn dây đồng lại được dùng làm dây dẫn điện trong nhà?<br />Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là …… Do đó, nếu như dùng đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm. Vì vậy ở trong nhà thì ta dùng dây đẫn điện bằng đồng.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Tính chất vật lý của kim loại (ở lớp 9, lớp 12)<br />* Ví dụ 49: Vì sao để bảo vệ vỏ tàu biển bằng thép, người ta gắn các tấm kẽm vào phía ngoài vỏ tàu ở phần chìm trong nước biển?<br />Khi thép và kẽm cùng ở trong nước biển thì sẽ xuất hiện cặp pin hóa học và có sự ăn mòn điện hóa.<br />Kẽm là cực âm, thép là cực dương và nước biển là dung dịch điện li. Trong quá trình ăn mòn điện hóa thì kẽm sẽ bị ăn mòn. Do đó, vỏ tàu biển được bảo vệ. Đây là phương pháp bảo vệ kim loại bằng phương pháp điện hóa.<br />Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong bài dạy về sự ăn mòn kim loại (ở lớp 12). <br />C/ KẾT LUẬN<br />Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ là mục đích hướng tới của từng người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp, nhưng đây không phải là điều đạt được dễ dàng. Người giáo viên phải nhận thức rõ vai trò là người “thắp sáng ngọn lửa” chủ động lĩnh hội tri thức trong từng học sinh . Trong nội dung đề tài mình, tôi đã đề cập đến một số vấn đề xung quanh cuộc sống và có ý nghĩa thực tiễn, thậm chí có thể gặp, tiếp xúc hàng ngày.Tôi hi vọng đây là vấn đề gợi mở ra một quan niệm trong dạy − học hoá học, mặc dù trong đề tài này tôi không thể đề cập mọi hiện tượng có liên quan. <br />1/ Kết quả nghiên cứu:<br />Riêng bản thân tôi nhờ vận dụng phương pháp dạy “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học ” kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt được một số kết quả nhất định.<br />Học sinh trở nên thích học hoá hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều hơn, thậm chí có cả những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện tượng thức tế, rồi lại đến hỏi tôi.<br />Trong giờ học, tôi đã kết hợp hài hoà trong phong cách dạy của mình có thể làm cho giờ học mang không khí rất thoải mái, nhưng khả năng tiếp thu bài cũng rất tốt. Như tôi đã khẳng định: Thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều nên cần phụ thuộc vào người dạy cần phải linh hoạt và khéo léo. Bất cứ một vấn đề gì nếu chúng ta quá lạm dụng thì đề không tối. Vì thế tôi vẫn luôn nghĩ: Dạy như thế nào cho tốt là một điều không dễ.<br />2/ Kết quả đối chứng:<br />Thực tế giảng dạy cho thấy các lớp không hoặc ít áp dụng so với lớp áp dụng giải thích thường xuyên có sự khác nhau rõ rệt.<br /> Ví dụ gần đây nhất qua năm học từ 2008 – 2009 và 2009 – 2010 giảng dạy ở trường tôi đã có số liệu cụ thể theo bảng sau:<br />LớpMức độKết quảGiỏiKháTrung bìnhYếu – Kém12B1Thường xuyên áp dụng0415100112B2Có áp dụng0104220212B3Ít áp dụng00051905<br />3/ Kiến nghị, đề xuất:<br />Vấn đề đổi mới phương pháp trong giờ học trong trường phổ thông đang là vấn đề bức xúc. Để dạy hoá học trong nhà trường phổ thông có hiện quả tôi đề nghị một số vấn đề sau: <br />Đối với giáo viên: Phải kiên trì, đầu tư nhiều tâm, sức để tìm hiểu các vấn đề hoá học, vận dụng sáng tạo phương pháp dạy hóa học, để có bài giảng thu hút được học sinh.<br />Đối với Sở GD & ĐT: Cần trang bị cho giáo viên thêm những tài liệu tham khảo cần thiết để bổ sung, hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Với những sáng kiến kinh nghiệm hay, theo tôi nên phổ biến để cho các giáo viên được học tập và vận dụng. Có như thế tay nghề và vốn kiến thức của giáo viên sẽ dần được nâng lên. <br />Với thực trạng học hoá học và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, có thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến vào việc nâng cao chất lượng học hoá học trong thời kỳ mới. Mặc dù đã cố gắng song không thể tránh được các thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.<br />Tân Lâm, ngày 01 tháng 6 năm 2010<br />Người viết đề tài<br />Bùi Xuân Đông<br />TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />[1] Sách giáo khoa hoá học lớp 8-9-10-11-12.<br />[2] Phân phối chương trình môn hoá học phổ thông.<br />[3] Sách giáo viên hoá học lớp 8-9-10-11- 12. (NXB GD)<br />[4] Tài liệu giáo khoa chuyên hoá học 11-12 (Tập 1,2 NXB GD) <br />[5] Con người và những phát minh (Bách khoa thư chuyên đề – NXB GD 1998) <br />[6] Báo hóa học và ứng dụng.<br />[7] Từ điển hoá học phổ thông.<br /> <br /> <br />