Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí công với đề tài: Sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai, cho các bạn làm luận văn tham khảo
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHAN THỊ LINH GIANG
SỬ DỤNG CÔNG CHỨC
TRONG CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN
THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
ĐAK LAK - NĂM 2017
3. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHAN THỊ LINH GIANG
SỬ DỤNG CÔNG CHỨC
TRONG CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN
THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS LÊ THỊ VÂN HẠNH
ĐAK LAK - NĂM 2017
4. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, thông tin, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài này hoàn toàn trung thực,
xuất phát từ thực tế nghiên cứu và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
một công trình nghiên cứu nào.
Tác giả luận văn
Phan Thị Linh Giang
5. LỜI CẢM ƠN
Ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân trong quá trình làm luận văn, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Với tấm lòng chân thành, tôi xin cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành
chính Quốc gia, Phân viện khu vực Tây Nguyên, các thầy, cô giáo giảng viên
thuộc các ban, khoa, các tổ bộ môn của Học viện và Phân viện đã tận tình dạy
bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Đặc
biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lê Thị Vân Hạnh - Học viện Hành
chính Quốc gia đã dành thời gian, công sức hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Lãnh đạo và công chức của Sở Nội vụ tỉnh
Gia Lai đã tạo điều kiện, hỗ trợ tôi trong suốt thời gian học tập và cung cấp
các số liệu, tài liệu cần thiết cũng như những kiến thức thực tế liên quan đến
đề tài luận văn.
Dù đã rất cố gắng để hoàn thiện luận văn, tuy nhiên vẫn không thể
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những
đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo và các bạn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Phan Thị Linh Giang
6. MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT...............................................................
MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU.........................................................................
MỤC LỤC CÁC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ ..................................................................
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 8
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn luận văn ............................................... 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn...............................................10
8. Kết cấu luận văn……………………………………………………10
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG CHỨC VÀ SỬ DỤNG
CÔNGCHỨC…………………………………………………………...11
1.1. Công chức và công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh...............................................................................................................11
1.2. Khái niệm, nội dung và nguyên tắc sử dụng công chức......................24
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng công chức…………………...37
1.4. Kinh nghiệm sử dụng công chức của một số địa phương trong cả nước
.....................................................................................................................43
1.5. Một vài bài học kinh nghiệm cho tỉnh Gia Lai trong công tác sử dụng
công chức. ...................................................................................................46
Chương 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CHỨC TRONG CÁC CƠ
QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UBND TỈNH GIA LAI........................50
2.1. Tổng quan về đội ngũ công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh ở Gia Lai..................................................................................50
2.2. Thực trạng sử dụng ..............................................................................60
7. 2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc sử dụng công chức trong thời gian tới.
.....................................................................................................................77
Chương 3: YÊU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CHỨC TRONG CÁC CƠ QUAN
CHUYÊN MÔN THUỘC UBND TỈNH GIA LAI.....................................81
3.1. Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện việc sử dụng công chức trong
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai ..................................81
3.2. Quan điểm, định hướng chung về sử dụng công chức trong các cơ quan
hành chính nhà nước ...................................................................................83
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc sử dụng công chức trong các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai..............................................87
KẾT LUẬN ..................................................................................................105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................107
PHỤ LỤC.....................................................................................................110
8. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC:
UBND:
HCNN:
QLNN:
NXB:
NĐ/CP:
CNH - HĐH:
XHCN:
TT:
Cán bộ, công chức
Ủy ban nhân dân
Hành chính nhà nước
Quản lý nhà nước
Nhà xuất bản
Nghị định Chính phủ
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
Xã hội chủ nghĩa
Thứ tự
9. MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1
Số lượng biên chế và công chức có mặt trong các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
51
Bảng 2.2
Cơ cấu giới tính công chức trong các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
52
Bảng 2.3
Cơ cấu độ tuổi công chức trong các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
53
Bảng 2.4
Cơ cấu công chức trong các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh Gia Lai theo dân tộc, tôn giáo
54
Bảng 2.5
Cơ cấu công chức trong các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh Gia Lai theo ngạch công chức
55
Bảng 2.6
Cơ cấu công chức trong các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh Gia Lai theo vị trí việc làm
56
Bảng 2.7
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công chức trong
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
57
Bảng 2.8
Trình độ lý luận chính trị công chức trong các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
58
Bảng 2.9
Trình độ quản lý nhà nước công chức trong các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
58
Bảng
2.10
Trình độ ngoại ngữ tin học công chức trong các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
59
10. MỤC LỤC CÁC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
Sơ đồ 1.1 Quy trình quản lý nhân lực 25
Sơ đồ 1.2
Mối liên hệ đánh giá công chức với sử dụng
công chức
31
Biểu đồ 2.1
So sánh cơ cấu giới tính công chức trong các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
52
Biểu đồ 2.2
So sánh cơ cấu độ tuổi công chức trong các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
53
Biểu đồ 2.3
Cơ cấu công chức trong các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai theo dân tộc
54
Biểu đồ 2.4
Cơ cấu công chức trong các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai theo tôn giáo
54
Biểu đồ 2.5
Cơ cấu công chức trong các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai theo ngạch công
chức
55
Biểu đồ 2.6
Cơ cấu công chức trong các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai theo vị trí việc
làm
56
Biểu đồ 2.7
Kết quả đánh giá thực thi công vụ công chức
trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh Gia Lai
67
11. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ trên toàn
cầu và trở thành xu thế phát triển khách quan của các quốc gia trên thế giới;
trong đó, nguồn lực con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất, vượt
lên tất cả các nguồn lực khác, là nguồn gốc sản sinh ra mọi của cải, trở thành
yếu tố cạnh tranh giữa các quốc gia, các tổ chức.
Kể từ Đại hội VI của Đảng năm 1986, Đảng và nhà nước ta chủ trương
phải đổi mới toàn diện đất nước trong đó trọng tâm là cải cách nền kinh tế,
từng bước đổi mới về chính trị - xã hội. Trong quá trình đổi mới và hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, kinh tế trí thức trở thành cơ hội, thách thức
mạnh mẽ đối với Việt Nam, đặt ra yêu cầu phải chú trọng đặc biệt nguồn lực
trí tuệ của con người, trong đó có nguồn nhân lực hành chính nhà nước.
Song song với công cuộc cải cách kinh tế, từ những năm 90, Việt Nam
đã tiến hành công cuộc cải cách hành chính với mục tiêu xây dựng một nền
hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
“của dân, do dân và vì dân’’; một đội ngũ cán bộ công chức đủ năng lực,
phẩm chất, hoàn thành nhiệm vụ được giao, thúc đẩy xã hội phát triển lành
mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển của đất nước.
Là nguồn lực quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức hiện nay, nguồn
nhân lực là nguồn lực vô tận nếu biết sử dụng và khai thác đúng cách để tạo
của cải vật chất và thỏa mãn mọi nhu cầu của xã hội. Là chủ thể vận hành bộ
máy hành chính nhà nước, đội ngũ công chức trực tiếp phục vụ chế độ, đại
diện cho Đảng và Nhà nước xây dựng và thực thi các chủ trương, chính sách -
là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Do đó, khai thác, sử
dụng có hiệu quả đội ngũ công chức các cơ quan HCNN là mối quan tâm
12. 2
hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Cùng với xu thế của thế giới, Chính phủ Việt Nam gần đây đưa ra
thông điệp mạnh mẽ là phải chuyển đổi nền hành chính từ quản lý thuần túy
sang nền hành chính kiến tạo, phục vụ. Trong quá trình ấy, việc xây dựng một
“nền công vụ, công chức chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch
và hiệu quả” được xem là một nhiệm vụ trọng yếu. Và xác định “ cán bộ,
công chức là vấn đề then chốt của nền hành chính”.
“Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền
với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng” [29]. Vì vậy, xây dựng được đội ngũ cán bộ, công
chức vững mạnh, có trách nhiệm và thực hiện hiệu quả công việc sẽ mang
một ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động to lớn đến sự thịnh suy, yếu kém hay
phát triển của mỗi một đất nước.
Những năm qua, đội ngũ công chức bên cạnh những đóng góp tích cực
cho công cuộc xây dựng phát triển đất nước còn bộc lộc nhiều hạn chế và yếu
kém, làm chậm tiến trình cải cách và giảm hiệu quả của công tác cải cách
hành chính, dẫn đến kết quả đạt được thấp so với yêu cầu phát triển của xã
hội. Đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng tăng về số lượng nhưng chất lượng
và năng suất lao động chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, động lực làm
việc thấp, đạo đức công vụ yếu, tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động
chưa cao. Mặt khác, công tác quản lý cán bộ, công chức, đặc biệt là khâu sử
dụng công chức cũng còn hạn chế và nhiều vấn đề cần giải quyết.
Đối với Gia Lai, là một tỉnh miền núi nằm ở Phía Bắc Tây Nguyên,
được đánh giá là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế,
quốc phòng, an ninh với diện tích lớn thứ hai cả nước và dân số hơn 1,3 triệu
người, (trong đó có khoảng 44.6% là người đồng bào dân tộc thiểu số), tuy
nhiên điều kiện kinh tế - xã hội còn rất nhiều khó khăn. Những năm qua,
13. 3
chính quyền địa phương đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng đội ngũ công
chức đủ số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tuy
nhiên, so với mặt bằng cả nước, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức còn nhiều hạn chế như: trình độ tin học, ngoại ngữ, kiến thức
hội nhập yếu; tính linh hoạt, chuyên nghiệp chưa cao; một bộ phận cán bộ
công chức còn chưa đạt trình độ chuẩn. Do đó, làm thế nào sử dụng có hiệu
quả đội ngũ công chức là một yêu cầu cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong
công cuộc xây dựng phát triển tỉnh nhà và trong tiến trình cải cách hành chính
chung của đất nước.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả lựa chọn đề tài “Sử dụng công chức
trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai” để nghiên cứu, làm
luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành quản lý công của mình nhằm nghiên
cứu một cách có hệ thống thực trạng sử dụng công chức trong các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai, từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp
để hoàn thiện việc sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh Gia Lai trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công chức và quản lý công chức là một vấn đề được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học và nhà chính trị, nhà quản lý. Trong điều kiện cải cách
hành chính, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng của đội ngũ công chức hành
chính càng thu hút sự quan tâm hơn.
Một số tác phẩm hoặc công trình có liên quan đến chế độ công vụ, công
chức đề cập đến một số vấn đề trong quản lý công chức, là tài liệu nghiên cứu,
tham khảo có giá trị cho đề tài này như: cuốn sách “phục vụ và duy trì: Cải
thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh” của Ngân hàng Châu Á,
trong đó chương 11 và 12 đề cập nhiều khía cạnh và đưa ra nhiều ý tưởng trong
quản lý nhân sự bộ máy của Chính phủ; Cuốn “Hành chính công và quản lý
14. 4
hiệu quả Chính phủ” - một tài liệu nghiên cứu về hành chính của Trung Quốc
cũng đề cập một số nội dung chế độ công vụ công chức cũng là tài liệu bổ ích
trong nghiên cứu thể chế quản lý công chức ở nước ta. Tác giả Thang Văn
Phúc và một số tác giả khác đã cùng nghiên cứu và xuất bản cuốn "Hệ thống
công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới" giới thiệu về tổ
chức nhà nước, bộ máy hành chính, lịch sử nền công vụ ở tám nước trên thế
giới: Trung quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Đức,
Anh, Mỹ - đây là một tài liệu quý để nghiên cứu các chế độ, chính sách quản lý
công chức ở các nước trên thế giới. Tác giả Phạm Hồng Thái nghiên cứu và
xuất bản cuốn "Công vụ, Công chức Nhà nước" cũng trình bày các quan niệm
về công chức, công vụ và pháp luật về công vụ ở nước ta.
Một số đề tài khoa học, công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà
quản lý, nhà khoa học trong nước đề cập trực tiếp đến vấn đề công chức và sử
dụng công chức như:
Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ có báo báo tổng hợp đề
tài: “Năng lực, hiệu quả, hiệu lực quản lý HCNN; thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp”, đề tài này đã tập trung nghiên cứu về hiệu lực quản lý HCNN,
trong đó đã đặt công chức HCNN trong mối quan hệ với việc nâng cao hiệu
quả và hiệu lực quản lý HCNN. Đề tài: “Nâng cao chất lượng đội ngũ công
chức quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước”của tác giả
Nguyễn Bắc Son đã phân tích đánh giá đội ngũ cán bộ công chức Việt Nam,
phân tích nguyên nhân dẫn tới những hạn chế về chất lượng đội ngũ công
chức QLNN và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
công chức QLNN, đáp ứng thời kì CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện
nay và trong những năm tới.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu khoa học hành
chính, các nhà hoạt động chính trị đưa ra suy nghĩ, ý tưởng về vấn đề xây
15. 5
dựng nguồn nhân lực hành chính, việc lựa chọn, sử dụng cán bộ, công chức
trong các giai đoạn khác nhau như:
Tác giả Nguyễn Văn Thâm với bài viết “Vài suy nghĩ về xây dựng
nguồn nhân lực hành chính trong thời kỳ đổi mới” đăng trên tạp chí Tổ chức
Nhà nước ngày 02/12/2015;
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Hải với bài viết “Đổi mới quản lý cán bộ,
công chức Việt Nam theo xu hướng quản lý nguồn nhân lực”, đăng trên tạp
chí Tổ chức nhà nước ngày 22/8/2016;
Tác giả Bùi Kim Hồng, “Lựa chọn cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ
Chí Minh” đăng trên Chính Phủ điện Tử, ngày 02/2/2012;
Tác giả Đinh Ngọc Thạch với bài viết “Chính sách sử dụng cán bộ hợp
lý - nhân tố động lực phòng ngừa ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống” trên Tạp chí cộng sản, ngày 30/4/2012;
Những công trình, đề tài hoặc các bài viết nói trên đều đề cập đến nền
công vụ công chức nói chung hoặc đến nội dung quản lý, nâng cao chất lượng
đội ngũ công chức trong từng phạm vi nghiên cứu, từng giai đoạn cụ thể khác
nhau. Đối với mảng đề tài sử dụng công chức - một nội dung thiết thực trong
quy trình quản lý công chức, một mảng đề tài cần khai thác sâu hơn để cung cấp
những kiến thức, giải pháp trong thực tiễn quản lý công chức ở các địa phương.
Đề tài này cũng được nhiều tác giả quan tâm lựa chọn để nghiên cứu như:
Lê Quốc Cường, 2010. Nâng cao hiệu quả sử dụng cán bộ, công chức
cấp huyện (từ thực tiễn tỉnh Gia Lai). Luận văn thạc sỹ Hành chính công. Học
viện Hành chính Quốc Gia.
Bùi Thị Thu Hương, 2011. Sử dụng hiệu quả công chức ở Bộ Kế hoạch
và Đầu tư. Luận văn thạc sỹ hành chính công. Học viện Hành chính quốc gia.
Nguyễn Tấn Lực, 2011. Sử dụng hiệu quả cán bộ, công chức chính
quyền cơ sở TP Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sỹ hành chính công. Học viện
16. 6
hành chính quốc gia.
Đặng Văn Minh, 2014. Nâng cao hiệu quả sử dụng công chức trong các
cơ quan hành chính nhà nước thành phố Huế. Luận văn thạc sỹ quản lý công.
Học viện Hành chính quốc gia.
Có thế thấy, đề tài về sử dụng công chức khá được quan tâm và lựa
chọn nghiên cứu trên nhiều phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, ngoài những vấn
đề chung đối với việc xây dựng, khai thác, sử dụng đội ngũ công chức thì mỗi
địa phương khác nhau sẽ cần có yêu cầu khác nhau, phù hợp thực tiễn địa
phương đó trong mỗi giai đoạn. Đối với Gia Lai, vấn đề phát triển nguồn
nhân lực hành chính nói chung đã giành được sự quan tâm và được nhiều
người lựa chọn nghiên cứu cụ thể trên nhiều mặt như chất lượng nhân lực,
năng lực thực thi công vụ, đào tạo, bồi dưỡng…Và trên khía cạnh sử dụng
công chức, cũng đã có tác giả tiếp cận nghiên cứu trên đối tượng cán bộ, công
chức cấp huyện. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một đề tài nào nghiên cứu
sâu về sử dụng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai.
Trong khi đó, để hoạt động quản lý công chức nói chung và khai thác, sử
dụng có hiệu quả công chức nói riêng cần có nghiên cứu sâu rộng trên các
nhóm đối tượng, trong những phạm vi khác nhau. Chính vì vậy, tác giả lựa
chọn và thực hiện đề tài: "Sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai” nhằm góp phần đưa ra cái nhìn tổng quan về
đội ngũ công chức và thực trạng sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai, từ đó nghiên cứu và đề ra một số giải pháp
phù hợp góp phần hoàn thiện việc sử dụng đội ngũ công chức này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về công chức, sử dụng công chức và thực tiễn công
tác sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia
17. 7
Lai hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc sử dụng
công chức trong cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai nhằm đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính và thực thi công vụ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu như trên luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về công chức và sử dụng công
chức; kinh nghiệm thực tiễn một số địa phương trong cả nước về sử dụng
công chức và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Gia Lai.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công chức và thực trạng sử dụng;
những mặt đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân của hạn chế, từ đó đặt ra
những vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết trong công tác sử dụng công chức
trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND Gia Lai trong thời gian tới.
- Đề xuất phương hướng cùng một số giải pháp hoàn thiện việc sử dụng
công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai, góp phần vào
việc hoàn thiện việc sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh Gia Lai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để vấn đề nghiên cứu được tập trung, trong phạm vi của một luận văn
thạc sỹ, người nghiên cứu chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
- Thời gian: từ năm 2011 đến năm 2015.
- Không gian: Trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
18. 8
- Khách thể khảo sát đánh giá: Công chức trong các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai.
- Nội dung: Việc sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh Gia Lai.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Thực hiện nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử; nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu;
Để phục vụ cho việc nghiên cứu và áp dụng các phương pháp nghiên
cứu, nguồn tài liệu được lấy từ các tài liệu cụ thể:
+ Nguồn tư liệu được lấy từ các báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết của
đi ̣a phương về công tác quản lý công chức; các kết quả điều tra nghiên cứ u đã
được công bố của các cuộc điều tra khảo sát.
+ Nguồn tư liệu và báo cáo phân tích thực trạng còn bao gồm hệ thống
các văn bản quy pha ̣m pháp luật quy đi ̣nh về quản lý, sử dụng công chức đã
được cấp có thẩm quyền ban hành.
- Phương pháp điều tra xã hội học: điều tra, nghiên cứu gián tiếp thông
qua việc lập bảng hỏi, khảo sát về thực trạng sử dụng công chức trong các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đối với đối tượng là công chức trong các
cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai và tổng hợp, phân
tích kết quả khảo sát. Tổng số phiếu khảo sát là 100 phiếu (số phiếu phát ra:
100 phiếu, số phiếu thu về 100 phiếu);
19. 9
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: Phương pháp này để hệ
thống hóa các số liệu sơ cấp và thứ cấp thu được trong quá trình điều tra,
nghiên cứu; phân tích chất lượng, số lượng công chức, thực trạng sử dụng
công chức…
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn luận văn
6.1. Đóng góp về lý luận
Luận văn làm rõ các khái niệm có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và
khái niệm của đề tài “Sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh Gia Lai”; hệ thống hoá các nội dung về sử dụng công
chức, góp phần làm phong phú thêm lý luận về sử dụng công chức trong các
cơ quan hành chính. Đồng thời phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử
dụng công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.
6.2. Đóng góp về thực tiễn
- Nghiên cứu công tác quản lý sử dụng đội ngũ công chức các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai là một vấn đề khó và có nhiều phức
tạp, đòi hỏi phải đặt trong tổng thể nhiều vấn đề của yêu cầu thực tiễn.
- Qua phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng, rút ra những mặt mạnh,
những hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. Kết quả phân tích thực trạng
có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý đánh giá thực tiễn công tác
sử dụng công chức ở tỉnh Gia Lai.
- Những giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ công
chức các cơ quan HCNH cấp tỉnh thời kì mới mà luận văn đưa ra có thể là
những tài liệu tham khảo tốt giúp cho các nhà quản lý nhân sự hành chính của
tỉnh Gia Lai tham khảo, xem xét vận dụng.
- Nội dung luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học
viên và những nhà làm công tác quản lý nhân sự hành chính.
20. 10
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các công trình
nghiên cứu có cùng đề tài liên quan sau này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Từ kết quả của việc nghiên cứu luận văn có thể nhận thấy một số ý
nghĩa như sau:
- Góp phần hệ thống một số khái niệm cơ bản về công chức và sử dụng
công chức làm cơ sở cho các nghiên cứu về vấn đề này.
- Kết quả phân tích thực trạng có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà
quản lý đánh giá thực tiễn công tác sử dụng công chức ở tỉnh Gia Lai.
- Những giải pháp của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cơ
quan quản lý hành chính nhà nước tại địa bàn tỉnh Gia Lai hoặc các cơ quan
quản lý nhà nước ở các địa phương khác trong việc khai thác, sử dụng công
chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.
- Nội dung luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học
viên và những nhà làm công tác quản lý nhân sự hành chính.
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các công trình
nghiên cứu có cùng đề tài sau này.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, các
phụ lục, bố cục của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về công chức và sử dụng công chức
Chương 2. Thực trạng về sử dụng công chức trong các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai
Chương 3. Yêu cầu, định hướng và giải pháp hoàn thiện việc sử dụng
công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Gia Lai.
21. 11
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG CHỨC VÀ SỬ DỤNG CÔNG CHỨC
1.1. Công chức và công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
“Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” là một trong những yếu
tố cốt lõi không chỉ mỗi tổ chức mà còn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội ở mỗi quốc gia.
Mỗi một tổ chức có những yêu cầu, đòi hỏi riêng về nguồn nhân lực do
tính chất, đặc điểm và việc làm trong tổ chức quyết định. Do đó, mỗi khu vực
đều phải xây dựng, phát triển nguồn lực riêng của mình phù hợp với đặc thù
từng loại hình tổ chức. Đặc biệt, các tổ chức công với bản chất hoạt động vì
mục tiêu xã hội, yêu cầu của nguồn nhân lực có sự khác biệt với tổ chức khác,
đồng thời, vai trò nguồn nhân lực trong tổ chức công cũng trở nên đặc biệt
quan trọng hơn.
Nguồn nhân lực trong tổ chức công (bao gồm tất cả những người tham
gia lao động trong tổ chức công) là nhân tố trực tiếp tạo ra và quyết định chất
lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức đó.
Công chức là một bộ phận của nguồn nhân lực trong tổ chức công.
Thuật ngữ công chức là một thuật ngữ cơ bản của chế độ công vụ công chức,
là bộ phận cốt lõi của nền công vụ các quốc gia trên thế giới. Trải qua hơn 3
thế kỷ, kể từ khi chế độ công vụ xuất hiện đầu tiên ở Anh năm 1859 đến nay
vẫn chưa có quan niệm thống nhất về công chức cho tất cả các quốc gia. Sự
khác nhau về quan niệm công chức thể hiện trên các phương diện như: phạm
vi công chức, đặc điểm công chức và chế độ công vụ. Có thể nêu một số khái
niệm công chức điển hình như sau:
Ở Anh: Mặc dù chưa có một định nghĩa mang tính pháp lý về công chức,
22. 12
tuy nhiên có thế khái quát công chức Anh là: “Các nô bộc của nhà vua, không
phải là người giữ các chức vụ chính trị hoặc tư pháp, những viên chức dân sự
hưởng lương trực tiếp và hoàn toàn từ ngân sách được Nghị viện thông”.
Như vậy, ở Anh chỉ những người làm việc ở các Bộ, ngành Trung ương
mới được gọi là công chức nhà nước, còn các nhân viên làm việc ở chính
quyền địa phương không phải là công chức nhà nước [22, tr 317].
Ở Pháp: Công chức Pháp là những người làm công vụ được Nhà nước
hoặc các cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên trong
một công sở hay công sở tự quản. Theo đó, công chức Pháp gồm ba nhóm (1)
công chức trong ngạch hành chính nhà nước, (2) công chức trực thuộc cộng
đồng lãnh thổ, (3) Công chức thuộc các công sở tự quản. Và trong ba loại trên
chỉ có công chức trong các ngạch hành chính nhà nước (nhóm 1) được xem là
công chức nhà nước [22, tr 241].
Ở Mỹ: tất cả những nhân viên trong bộ máy hành chính của Chính phủ
đều được gọi chung là công chức, bao gồm những người được bổ nhiệm về
chính trị như: bộ trưởng, thứ trưởng, trợ lý bộ trưởng (còng gọi là công chức
chính trị hay công chức chức nghiệp), những người đứng đầu bộ máy độc lập
và những quan chức ngành hành chính. Các thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ trong
ngành lập pháp và những viên chức làm thuê cho Quốc hội thì không phải là
công chức. Luật công chức chỉ điều chỉnh những công chức không phải được
bổ nhiệm chính trị. Quan hệ giữa Chính phủ với công chức là quan hệ giữa
chủ thuê và người làm thuê ngoài được điều chỉnh theo quy phạm Luật Hành
chính còn được điều chỉnh bởi hợp đồng dân sự [22, tr 352].
Ở Nhật Bản: công chức nhà nước là người làm công việc nhà nước,
chịu trách nhiệm về những công việc chung của nhà nước; được nhà nước lựa
chọn và bổ nhiệm; được trả lương từ ngân sách nhà nước. Công chức được
chia thành công chức nhà nước và công chức địa phương.
23. 13
Công chức nhà nước gồm những nhân viên giữ những chức vụ trong bộ
máy của Chính phủ Trung ương, ngành tư pháp, Quốc hội, quân đội, nhà
trường, bệnh viện quốc lập, được hưởng lương từ Ngân sách nhà nước. Công
chức nhà nước được chia thành 2 loại: công chức chung và công chức đặc
biệt. Công chức đặc biệt là loại công chức được bổ nhiệm không qua thi cử,
theo pháp luật quy định. Có 18 loại nhân viên thuộc công chức đặc biệt như
Thủ tướng nội các, quốc vụ đại thần (tương đương Bộ trưởng), còn lại đều
thuộc loại công chức chung. Công chức địa phương hưởng lương từ Ngân
sách của địa phương [22, tr 137].
Ở Trung Quốc: theo Luật công chức được ban hành năm 2005, công
chức được hiểu là những người làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước
các cấp, trừ nhân viên, tức là những người làm việc trong cơ quan quốc vụ
viện, cơ quan chính quyền tỉnh, khu tự trị, thành phố thuộc trung ương, thành
phố (châu tự trị), huyện, xã (thị trấn) không tính nhân viên phục vụ. Công
chức nhà nước gồm hai loại: Công chức lãnh đạo là những người được tuyển
vào công chức và được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo. Các công chức này
được bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều chỉnh của Hiến Pháp,
Luật công chức và Luật Tổ chức của chính quyền các cấp; Công chức nghiệp
vụ là những người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ quan hành chính các
cấp bổ nhiệm và quản lý căn cứ vào Luật công chức. Công chức nghiệp vụ
chiếm tuyệt đại đa số công chức nhà nước, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp
hành các chính sách và pháp luật [28, tr 254].
Ở Việt Nam: từ năm 1945 khi giành độc lập và thành lập Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay, quan niệm công chức được hình thành,
phát triển, thay đổi qua các giai đoạn khác nhau để phù hợp với nền hành
chính và thực tiễn của đất nước.
Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954: Đây là giai đoạn đặt nền tảng cho quá
24. 14
trình hình thành và phát triển nền công vụ, công chức nước ta về sau. Theo
Hiến pháp năm 1946, thuật ngữ công chức chưa được sử dụng mà thay vào đó
là thuật ngữ nhân viên. Sắc lệnh số 188/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban
hành ngày 29/5/1948 quy định chế độ công chức mới và đặt một thang lương
chung cho các hạng công chức, tổ chức các ngạch công chức có 5 hạng: Hạng
A (Ngạch Tá sự), Hạng B (Ngạch Cán sự), Hạng C (Ngạch Tham sự), Hạng D
(Ngạch Kiêm sự) và Hạng E (Ngạch Giám sự). Ngày 20/5/1950, Sắc lệnh số
76/SL ban hành quy chế công chức Việt Nam, đây chính là điểm khởi đầu của
sự hình thành khái niệm công chức ở Việt Nam; theo đó, "những công dân
Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên
trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước đều là công chức theo
quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định" [11].
Giai đoạn từ năm 1954 đến 1992: Khi Hiến pháp năm 1980 ra đời,
thuật ngữ cán bộ, viên chức nhà nước bắt đầu được sử dụng chính thức. Ngày
25/5/1991, Nghị định số 169/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về công chức
nhà nước quy định: "Công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ
một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay
địa phương, ở trong nước hay ngoài nước đều được xếp vào một ngạch,
hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp gọi là công chức" [15].
Giai đoạn từ năm 1992 đến 2014: Ngày 26/02/1998, Pháp lệnh cán bộ,
công chức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, Pháp lệnh quy định:
“Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước...”. Nghị định số 95/1998/NĐ-
CP ngày17/11/1998 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức
đã đề cập một cách rõ ràng, cụ thể hơn về khái niệm công chức: “Công chức là
những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường
xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào
25. 15
một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước...”.
Hiện nay, khái niệm công chức được quy định ở Luật Cán bộ, công
chức năm 2008 như sau:
“Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách Nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [23].
Cũng theo Luật Cán bộ, công chức (Điều 32), công chức gồm:
- Công chức trong các cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức
chính trị - xã hội;
- Công chức trong cơ quan nhà nước;
- Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
lập;
- Công chức trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; công
chức trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Có thể thấy, ở Việt Nam, khái niệm về công chức thay đổi theo từng giai
đoạn lịch sử và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Mặc dù vậy, các khái
26. 16
niệm về công chức qua các giai đoạn trong các văn bản luật ở nước ta quy định
đều có chung đặc điểm, đó là: Công chức là công dân Việt Nam; được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, được giao một công vụ; làm việc trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị của Nhà nước; hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Qua đó, có thể thấy khái niệm công chức là một khái niệm lịch sử,
không giống nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm chính
trị của mỗi quốc gia và từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, ở nhiều
quốc gia, công chức thường có các đặc điểm chung là: Là công dân của nước
đó, được tuyển dụng qua thi tuyển hoặc xét tuyển, được bổ nhiệm vào một
ngạch, một chức danh hoặc gắn với một vị trí việc làm, được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. Và việc xác định ai là công chức thường được quyết định
bởi các yếu tố như: Hệ thống thể chế chính trị; tổ chức bộ máy nhà nước; sự
phát triển kinh tế - xã hội; tính truyền thống và các yếu tố văn hóa, lịch sử của
mỗi quốc gia.
Từ đó, phạm vi công chức ở mỗi quốc gia khác nhau thường là khác
nhau. Ví dụ, có những quốc gia coi công chức là những người làm việc trong
bộ máy nhà nước (bao gồm cả các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự
nghiệp hay các lực lượng vũ trang, công an). Trong khi đó có những nước lại
chỉ giới hạn công chức là những người làm việc trong các cơ quan quản lý
nhà nước hay hẹp hơn nữa là trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước
hoặc trong các cơ quan hành chính cấp Trung ương.
Đối với nước ta, do đặc thù chính trị, phạm vi công chức khá rộng,
công chức có mặt trong rất nhiều cơ quan từ cơ quan Đảng, tổ chức chính trị
xã hội, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan thuộc quân đội nhân dân, công
an nhân dân và thậm chí cả doanh nghiệp nhà nước.
- Công chức trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
Các cơ quan nhà nước chính là một bộ phận quan trọng cấu thành của
27. 17
bộ máy nhà nước. Ở Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước bao gồm:
+ Cơ quan quyền lực nhà nước: bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp ở địa phương;
+ Cơ quan hành chính nhà nước (gồm Chính phủ, bộ, các cơ quan
ngang bộ và Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan chuyên môn thuộc UBND.
+ Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là loại cơ quan có thẩm
quyền chuyên môn thuộc cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, có chức
năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự
ủy quyền của UBND tỉnh và theo quy định của pháp luật, góp phần bảo đảm sự
thống nhất quản lý của ngành, lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở.
Theo quy định tại Nghị định 24/2014/NĐ-CP, cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh là các sở và cơ quan ngang sở. Như vậy, công chức trong các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnhh theo quy định tại Nghị định
06/2010/NĐ-CP quy định những ai là công chức là “người đứng đầu, cấp phó
của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND; người giữ chức vụ cấp
trưởng, cấp phó và người làm việc trong các tổ chức không phải là đơn vị sự
nghiệp công lập thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc UBND”.
Là một bộ phận của tổ chức công - cơ quan hành chính của Nhà nước, theo
quy định hiện hành của Nhà nước ta là cơ quan chấp hành và điều hành quyền
lực của Nhà nước, được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính
phủ đến các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương gồm: các Bộ, cơ quan
ngang bộ, các Tổng cục, cục, vụ, viện; cơ quan quản lý Nhà nước ở địa
phương gồm: UBND các cấp, các Sở, phòng ban thuộc UBND. Và người lao
động trong tổ chức hành chính (trừ nhân viên làm các công việc phục vụ)
được gọi chung là công chức.
28. 18
1.1.2. Đặc điểm công chức
Tổ chức nhà nước và các yếu tố cấu thành nên tổ chức nhà nước (bộ
máy nhà nước) bao gồm các tổ chức HCNN có những đặc điểm mà các tổ
chức khác không có như: (1) tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị,
tính pháp quyền, (2) tính liên tục, ổn định và thích ứng, (3) tính chuyên môn
hóa và nghề nghiệp cao, (4) hệ thống thứ bậc chặt chẽ, (5) tính nhân đạo và
không vụ lợi.
Theo đó, công chức – nguồn lao động chính trong tổ chức HCNN trở
nên khác biệt, mang những đặc trưng riêng. Cụ thể như sau:
- Tính ổn định và gắn bó với tổ chức
Công chức được vào làm việc trong các cơ quan nhà nước phải qua một
quy trình tuyển dụng theo quy tắc, tiêu chí, chỉ tiêu được pháp luật quy định
gắn từng vị trí cụ thể, được bổ nhiệm vào ngạch hoặc một chức danh. Do đó,
công chức có tính ổn định và gắn bó với tổ chức một cách đặc biệt so với các
tổ chức khác. Chế độ làm việc suốt đời gắn với việc trả lương theo thứ bậc
thâm niên, là phương tiện động lực khiến công chức yên tâm, gắn bó, trung
thành với tổ chức. Mặt khác, chính yếu tố đặc biệt hoạt động vì mục tiêu
chung của tổ chức công khiến công chức cảm thấy được hứng thú khi tham
gia và đóng góp vào những hoạt động lớn lao của đất nước. Chính vì vậy,
khác với tổ chức tư, công việc của công chức mang tính ổn định, lâu dài; một
công chức thường làm việc từ khi tuyển dụng cho đến khi nghỉ hưu và gắn bó
đặc biệt với tổ chức.
Đây chính là lợi thế của tổ chức công trong quá trình quản lý sử dụng
công chức và cần được nhà quản lý khai thác trong quá trình quản lý nhân lực
tổ chức.
- Tính chính trị cao: Công chức là những người do Nhà nước tuyển
dụng, nhận một công vụ hoặc một nhiệm vụ nhất định, do Nhà nước trả lương
29. 19
từ nguồn ngân sách và có nghĩa vụ, bổn phận phục vụ nhân dân, phục vụ Nhà
nước theo các quy định của pháp luật. Do vậy tính chất, hoạt động cũng như
các hoạt động quản lý công chức phụ thuộc nhiều vào thể chế chính trị và ý
chí của nhà cầm quyền. Như trong điều kiện thể chế chính trị của Việt Nam,
có một điểm đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn có sự liên
thông với nhau. Theo yêu cầu nhiệm vụ, cơ quan có thẩm quyền có thể điều
động, luân chuyển họ giữa các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức
chính trị- xã hội; đặc biệt công chức không được trung lập về chính trị mà
phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước xã hội
chủ nghĩa, có nghĩa vụ phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân.
- Tính chuyên môn, nghiệp vụ cao: công chức là một nghề của xã hội,
lĩnh vực hoạt động của công chức trên nhiều ngành, nghề, lĩnh vực hoạt động
khác nhau. Do vậy đòi hỏi xây dựng đội ngũ công chức có tính chuyên nghiệp
là một yêu cầu bắt buộc và tất yếu, thể hiện trên các mặt: (1) Trình độ, chuyên
môn, nghiệp vụ về công việc mà công chức đảm nhận, (2) Kỹ năng làm việc,
(3) Thái độ làm việc, mà ở công chức yêu cầu cao trong thái độ phục vụ Nhà
nước, phục vụ nhân dân.
Chính tính đa dạng về lĩnh vực hoạt động, ngành nghề chuyên môn,
mỗi một ngành, một lĩnh vực có đặc thù riêng nên đòi hỏi đội ngũ công chức
phải có kiến thức, năng lực giải quyết công vụ ở ngành, lĩnh vực đó thì mới
thực thi tốt nhiệm vụ được giao, nên công chức có những yêu cầu về chuyên
môn, nhiệm vụ cụ thể khác nhau theo từng vị trí công việc cụ thể. Đồng thời,
tùy thuộc vào mô hình hình thành và phát triển nguồn nhân lực (mô hình chức
nghiệp, mô hình việc làm) mà yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ theo từng vị
trí công việc, ngạch bậc càng được quy định rõ ràng, cụ thể hơn.
- Tính ràng buộc với hệ thống cơ chế, chính sách và quy định của nhà nước.
Khác với các nguồn lực trong tổ chức tư, việc quản lý, sử dụng nguồn
30. 20
lực lao động trong các tổ chức công mà đặc biệt là công chức phải tuân thủ
những quy định chặt chẽ của pháp luật. Từ việc tuyển dụng theo những quy
định, tiêu chuẩn cụ thể tương ứng với mỗi vị trí công việc trong bộ máy hành
chính, đến quá trình sử dụng bao gồm phân công công việc, đề bạt, sắp xếp,
khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ, trả lương… đều phải tuân thủ những quy định
cụ thể được ghi trong các văn bản luật.
Bên cạnh đó các cơ quan HCNN hoạt động trên những nguyên tắc khác
với hoạt động của các tổ chức khác, do đó hoạt động công vụ của công chức
trong các cơ quan HCNN được qui định dựa trên nhiều loại văn bản qui phạm
pháp luật khác nhau và công chức chỉ được phép làm những việc mà Nhà nước
quy định. Đồng thời, việc hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật thường mất
nhiều thời gian. Do đặc thù công việc như vậy nên đội ngũ công chức thường
tuân thủ theo những qui định máy móc, do đó tính linh hoạt kém hơn so với
khu vực tư và khi cần có sự thay đổi đòi hỏi một qui trình thay đổi phức tạp.
- Về quyền, quyền lợi, nghĩa vụ của đội ngũ công chức
Là nguồn nhân lực đặc biệt của xã hội, nên đặc điểm về quyền, quyền
lợi và nghĩa vụ của công chức cũng khác biệt so với nguồn nhân lực trong các
khu vực khác. Công chức được Nhà nước bảo đảm biên chế và quyền lợi suốt
đời. Bên cạnh đó, do tính chất đặc biệt của hoạt động của nhà nước và công
việc mà đội ngũ công chức đảm nhận, Nhà nước có những quy định riêng
mang tính đặc thù về quyền và nghĩa vụ của đội ngũ công chức. Đây cũng là
những cơ sở để xác lập quan hệ giữa người lao động làm việc cho nhà nước
với nhà nước.
1.1.3. Vị trí, vai trò của công chức
Nền hành chính nhà nước theo nghĩa rộng là hoạt động quản lý, điều
hành công việc của các tổ chức HCNN. Nền hành chính nhà nước có ba yếu
tố chính cấu thành, gồm: (1) Hệ thống thể chế để quản lý xã hội theo Luật
31. 21
pháp bao gồm: Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản pháp quy của cơ
quan hành chính, (2) cơ cấu bộ máy và cơ chế vận hành của bộ máy hành
chính nhà nước các cấp, (3) Đội ngũ CBCC hành chính.
Bất cứ một nước nào, một chế độ nào, Nhà nước muốn tổ chức và quản
lý xã hội tốt đều phải coi trọng việc xây dựng và quản lý đội ngũ công chức.
Nhà nước không thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc
quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo luật pháp nếu không
có một nền hành chính hiệu lực và hiệu quả với đội ngũ công chức có trình
độ, phẩm chất và được tổ chức khoa học. Các yếu tố cấu thành nên nền hành
chính nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hệ thống thể chế là khuôn
khổ pháp lý của nền hành chính. Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành cùng đội
ngũ công chức là thực thể của nền hành chính. Đội ngũ công chức căn cứ vào
hệ thống thể chế - khuôn khổ pháp lý để thực thi quyền hành pháp trong việc
quản lý xã hội, đưa đường lối, chủ trương của Đảng - chính sách, pháp luật
của Nhà nước vào cuộc sống. Mặt khác, hệ thống thể chế lại là môi trường
cho mọi cá nhân, tổ chức (và cả công chức) sống và làm việc theo pháp luật.
Trong tổng thể nền hành chính và xét từ các yếu tố cấu thành nền hành chính,
đội ngũ công chức giữ một vị trí vô cùng quan trọng, thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất: Đội ngũ công chức là một trong các yếu tố cấu thành nên nền
hành chính nhà nước. Đó chính là yếu tố làm cho làm cho bộ máy hành chính
nhà nước hoạt động có hiệu quả, nhằm phục vụ nhân dân một cách tốt nhất. Nếu
nền HCNN thiếu đội ngũ công chức thì toàn bộ hệ thống thể chế gồm Hiến pháp,
Luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khó đi vào cuộc sống.
Thứ hai: Trong quá trình hoạt động theo hệ thống thể chế, đội ngũ công
chức một mặt làm cho bộ máy quản lý hành chính nhà nước phát huy vai trò
trong việc quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - văn hoá - chính trị - xã hội.
Mặt khác, đội ngũ công chức lại luôn phát hiện các khiếm khuyết và các sơ
32. 22
hở của hệ thống thể chế và cơ cấu tổ chức để tham gia với Nhà nước sửa đổi,
hoàn thiện hệ thống thể chế và cơ cấu tổ chức ngày càng phù hợp với thực tế,
tạo điều kiện và môi trường để quản lý đất nước ngày một tốt hơn.
Thứ ba: Đội ngũ công chức giữ vị trí quan trọng trong việc trực tiếp
thực hiện chức năng quản lý nhà nước, vì lợi ích của toàn xã hội. Hiệu quả
hoạt động của đội ngũ này là góp phần quan trọng vào sự phát triển và tăng
trưởng trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội - giáo dục và khoa học.
Chức năng quản lý nhà nước mà đội ngũ công chức thực hiện không chỉ bao
gồm tham mưu, hoạch định chính sách cho nhà nước, mà còn thể hiện ở cả
việc tổ chức hướng dẫn hoặc trực tiếp triển khai, thực hiện chế độ, chính sách,
cơ chế; chỉ đạo hoặc trực tiếp thực hiện kiểm tra việc thực hiện, phát hiện các
sai phạm để các cấp quản lý uốn nắn, điều chỉnh; tập hợp đánh giá hiệu quả
và thanh tra xử lý sai phạm hoặc ngăn chặn các vi phạm pháp luật.
Từ đó, có thể thấy, công chức có vai trò đặc biệt quan trọng, yếu tố cốt
lõi của nền hành chính, thể hiện cụ thể trên các khía cạnh sau:
Một là: Nhờ có đội ngũ công chức mà các cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện được nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã
hội, mà thực chất là thực hiện quyền hành pháp, thi hành và chấp hành pháp
luật. Thể hiện cụ thể ở việc giúp Nhà nước thực hiện việc quản lý và điều hòa
các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo đúng pháp luật.
Hai là: Hoạt động của các cơ quan hành chính là vì mục tiêu chung, cụ
thể là đáp ứng mọi nhu cầu của nhân dân trên các mặt của đời sống xã hội.
Và công chức có trách nhiệm và bổn phận trong việc phục vụ nhân dân đáp
ứng yêu cầu đó. Bên cạnh đó, trong bối cảnh Nhà nước ta đang càng ngày
càng mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương, đa dạng, đội ngũ công chức lại
càng thể hiện rõ sự quan trọng trong việc đưa nước ta từng bước thích ứng với
luật pháp, tập quán và trình độ quốc tế mà vẫn giữ vững độc lập tự chủ, bảo
33. 23
vệ lợi ích quốc gia.
Ba là: Đội ngũ công chức hoạt động trong bộ máy quản lý hành chính
nhà nước, thực thi quyền hành pháp, không có quyền lập pháp và tư pháp.
Nhưng chính họ lại là những người góp phần quan trọng vào quy trình lập
pháp và tư pháp.
Nói tóm lại: Là một bộ phận của nguồn nhân lực vì vậy nhân lực hành
chính hay đội ngũ công chức có các dấu hiệu, đặc trưng chung của nguồn
nhân lực như: là nguồn lực của con người trong xã hội, được phát triển trên
nền tảng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên với vai trò là những người thực thi quyền
lực công, công chức là lực lượng lao động đặc biệt, là đội ngũ nhân lực tinh
hoa của xã hội và là nguồn lực cốt lõi, mang tính quyết định của nền hành
chính nhà nước.
Đội ngũ cán bộ, công chức - là sản phẩm, cũng đồng thời là chủ thể của
nền hành chính nhà nước; được tuyển chọn theo những quy định và tiêu
chuẩn riêng được pháp luật quy định cụ thể; có trình độ chuyên môn theo tiêu
chuẩn, chức danh cụ thể; được sử dụng quyền lực Nhà nước khi thực thi công
vụ; được nhà nước đảm bảo biên chế và bảo đảm quyền lợi suốt đời; Trong
quá trình hoạt động công vụ mang tính quyền lực nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước tác động đến mọi mặt đời sống xã hội, đến quyền và lợi ích
của công dân, tổ chức và cả cộng đồng xã hội. Mọi yếu tố của nền hành chính
nhà nước, như: thể chế, cơ cấu tổ chức, tài chính công và tiến trình quản lý
đều do đội ngũ công chức nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện.
Cũng như vậy, để phát triển nhân lực hành chính cần áp dụng các biện
pháp chung của phát triển nguồn nhân lực như: kế hoạch hóa, tuyển chọn, sử
dụng, đánh giá, trả công. Tuy nhiên, việc quản lý, sử dụng và phát triển nguồn
lực công chức có những mục tiêu, yêu cầu, nội dung, biện pháp riêng để đáp
ứng tính khác biệt của công chức so với các nguồn lực khác trong xã hội.
34. 24
1.2. Khái niệm, nội dung và nguyên tắc sử dụng công chức
1.2.1. Khái niệm
- Sử dụng nhân lực: Từ khái niệm nguồn nhân lực, có thể hiểu sử dụng
nguồn nhân lực xã hội là quá trình thu hút và khơi dậy và phát huy tất cả những
tiềm năng mỗi con người vào hoạt động xã hội (hoạt động lao động trong khu
vực sản xuất vật chất và khu vực phi sản xuất vật chất) nhằm tạo ra của cải vật
chất, văn hóa đáp ứng nhu cầu của xã hội và mỗi thành viên trong xã hội.
Theo nghĩa hẹp, Sử dụng nguồn nhân lực là quá trình kết hợp sức lao
động với tư liệu lao động (máy móc, thiết bị, công cụ) và đối tượng lao động
(nguyên, nhiên, vật liệu, đất đai) nhằm tạo ra sản phẩm, dịch vụ có ích đáp
ứng nhu cầu doanh nghiệp, tổ chức.
Từ khái niệm sử dụng nguồn nhân lực nói chung, tác giả cho rằng: Sử
dụng công chức là quá trình thu hút và khơi dậy và phát huy những tiềm năng
của đội ngũ công chức vào hoạt động tại các cơ quan HCNN nhằm đáp ứng
yêu cầu quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công.
Việc quản lý sử dụng nhân lực là một chu trình bao gồm các công đoạn
khác nhau, tồn tại suốt từ khi người lao động tham gia tổ chức cho đến khi rời
khỏi tổ chức vì lý do nào đó hoặc nghỉ hưu. Quy trình quản lý nhân sự trong
tổ chức được mô tả dưới nhiều giai đoạn khác nhau nhưng đều tập trung giải
quyết vấn đề sau:
- Tập hợp các hoạt động cần thiết liên quan đến quản lý nhân lực của tổ
chức nhằm duy trì hoạt động người làm việc trong tổ chức có chất lượng.
- Là quá trình tìm kiếm, bố trí và duy trì người làm việc cho tổ chức có
chất lượng thông qua công tác kế hoạch hóa nguồn nhân lực, tuyển chọn, bố
trí, đào tạo bồi dưỡng, phát triển, đánh giá và thiết lập mối quan hệ giữa người
lao động và nhà quản lý.
Các hoạt động quản lý nguồn nhân lực không tách rời nhau, luôn có
35. 25
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể chia làm bốn khối hoạt động theo chức
năng: sử dụng nguồn nhân lực; đào tạo phát triển nguồn nhân lực; duy trì
nguồn nhân lực và cung cấp những điều kiện cần thiết để đáp ứng đòi hỏi: y
tế, vệ sinh. Trong đó, khối sử dụng nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động cơ
bản: phân công công việc, đánh giá, đề bạt, luân chuyển, sắp xếp lại [21, tr
24].
Sơ đồ 1.1. Quy trình quản lý nhân lực
Tuy nhiên việc phân chia nói trên cũng chỉ mang tính tương đối, các hoạt
động quản lý nhân lực này không tồn tại riêng rẽ, độc lập mà có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, suốt từ khi người lao động tham gia tổ chức cho đến khi rời
khỏi tổ chức vì lý do nào đó hoặc nghỉ hưu. Vì vậy, cần phải quan tâm đến các
hoạt động khác nằm ngoài khối hoạt động cơ bản như việc sử dụng cần các
chính sách, chế độ lương, thưởng, kích thích, động viên, phát triển mối quan hệ
lao động; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực để duy trì và phát triển nguồn nhân lực.
Đối với công chức, việc quản lý sử dụng cũng không nằm ngoài các
hoạt động nói chung của quản lý nguồn nhân lực như trên. Hoạt động sử dụng
công chức bao gồm các hoạt động từ bố trí phân công công việc, đánh giá, đề
bạt, luân chuyển, đãi ngộ.
Là nguồn lao động đặc biệt trong loại hình tổ chức đặc biệt, việc sử
dụng công chức không chỉ dừng lại ở việc sử dụng nguồn nhân lực nói chung
mà là nguồn nhân lực làm công việc quản lý đáp ứng nhu cầu và tạo ra sự
Kế hoạch hóa
nguồn nhân lực
Thu hút người lao động Tuyển chọn
Hòa nhập người mới
vào tổ chức
Bồi dưỡng, đào tạoĐánh giáBồi dưỡng, sa thải, đề
bạt, thuyên chuyển
36. 26
chuyển biến đối với xã hội.
Quá trình sử dụng nhân lực ở bất kỳ tổ chức nào cũng hướng đến hai
mục tiêu cơ bản:
Một là: sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực nhằm tăng năng suất lao
động và nâng cao tính hiệu quả của tổ chức.
Hai là: Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân viên, tạo điều kiện
cho nhân viên được phát huy tối đa các năng lực cá nhân, được kích thích
động viên nhiều hơn và nỗ lực, tận tâm hơn với tổ chức.
1.2.2. Nội dung sử dụng công chức
Xét từ quy trình quản lý sử dụng nguồn nhân lực, hoạt động sử dụng
công chức bao gồm các hoạt động sau khi công chức được tuyển chọn chính
thức vào bộ máy cho đến khi ra khỏi bộ máy, bao gồm các hoạt động chủ yếu:
bố trí phân công công việc; đánh giá; đề bạt; luân chuyển; khen thưởng, kỷ
luật. Nội dung sử dụng công chức theo Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày
15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý công chức,
bao gồm:
1.2.2.1. Bố trí, phân công công việc
Bố trí, phân công công việc là hoạt động hết sức quan trọng trong quản
lý điều hành công sở. Có thể hiểu, bố trí phân công công việc là sắp xếp ai
vào công việc, bộ phận, tổ chức nào đó theo một kế hoạch định trước.
Việc bố trí sử dụng nhân sự nói chung phải căn cứ vào hiệu suất
công việc cá nhân đạt được và tăng hiệu suất của tập thể. Vì vậy cần bố trí
sử dụng đúng người đúng việc và lập được ekip hỗ trợ lẫn nhau. Để đảm
bảo hiệu suất cần :
+ Đảm bảo tính chuyên môn hóa, thống nhất quy trình, nghĩa vụ
công chức ;
37. 27
+ Đảm bảo sự hợp tác giữa cá nhân và nhóm trên quy tắc mục tiêu,
nghĩa vụ của mỗi cá nhân, chức năng, vị trí được quy định rõ ràng ;
+ Đảm bảo tầm giá trị phù hợp theo nguyên tắc đúng người, đúng
việc, các bộ phận phải đảm bảo phù hợp năng lực nhà quản lý, công chức
và kể cả các điều kiện hỗ trợ công việc.
Theo nguyên tắc hiệu suất trên thì sử dụng công chức phải theo
chuyên môn và sở trưởng của công chức, cần dựa vào năng lực, phẩm
chất, đạo đức để cất nhắc họ vào những vị trí phù hợp dựa đảm bảo nguyên
tắc: Đúng người, đúng việc, đúng lúc và đúng thời điểm.
Đồng thời, sử dụng công chức phải cân nhắc giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích tập thể. Khi sử dụng phải lấy nguyện vọng và lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể làm mục đích. Theo đó, cần đảm bảo vị trí việc làm, chức vụ
mới chọn người chứ không phải vì cá nhân nào mới đặt ra công việc và
chức vụ. Tránh làm lợi cho cá nhân và hại đến tập thể. Đây là việc làm rất
quan trọng, bởi công chức có được bố trí đúng khả năng, đúng trình độ thì
mới tạo điều kiện phát huy khả năng để hoàn thành nhiệm vụ được giao, để
nhận được thù lao xứng đáng với công sức họ bỏ ra. Từ đó, tạo nên sự thoải
mái trong lao động, tạo động lực cho công chức hăng say làm việc và là tiền
đề nảy sinh sáng tạo trong công việc.
Song song với phân công công việc, người quản lý cần cung cấp những
phương tiện, nguồn lực cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người
được phân công hoàn thành công việc.
Ở nước ta, việc bố trí, phân công công việc đối với công chức được
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) nhấn mạnh: Bố trí phải đảm bảo đúng
tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường. Điều đó có nghĩa là khi sử dụng công
chức, nhất là những người làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý phải xem xét cả
38. 28
hai yếu tố khách quan (tiêu chuẩn công chức) lẫn chủ quan (phẩm chất, năng
lực, nguyện vọng…) [17].
1.2.2.2 Nâng ngạch, chuyển ngạch công chức
Ngạch công chức là tên gọi thể hiện thứ bậc về năng lực và trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của công chức. Khi công chức đáp ứng đủ điều kiện,
tiêu chuẩn, trình độ, năng lực để bố trí vào các vị trí cao hơn trong nền công
vụ và để nâng cao năng lực và trình độ thì công chức phải thi nâng ngạch
công chức. Như vậy, nâng ngạch chính là sự thăng tiến về chuyên môn nghiệp
vụ, được thực hiện khi công chức có đủ trình độ, năng lực và thông qua hình
thức thi nâng ngạch. Việc nâng ngạch gắn với nâng bậc lương cho công chức.
Việc chuyển ngạch công chức được thực hiện khi công chức thay đổi vị
trí việc làm hoặc theo quy định phải chuyển đổi vị trí công tác mà ngạch công
chức đang giữ không phù hợp với yêu cầu ngạch công chức của vị trí việc làm
mới. Công chức chuyển ngạch phải đáp ứng tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp
vụ của ngạch được chuyển.
1.2.2.3. Bổ nhiệm, đề bạt công chức
Bổ nhiệm hiểu một cách chung nhất là hình thức được sử dụng để thiết
lập đội ngũ công chức lãnh đạo (quản lý, điều hành), tuyển dụng công chức,
nâng ngạch, chuyển ngạch, thăng chức, điều động công chức. Theo đó, có ba
loại bổ nhiệm:
- Bổ nhiệm vào ngạch: là việc chính thức đưa người lao động (công
chức) vào thụ ở một ngạch nhất định. Bổ nhiệm vào ngạch gồm có bổ nhiệm
sau tập sự và bổ nhiệm vào ngạch sau khi nâng ngạch hoặc chuyển ngạch. Bổ
nhiệm sau tập sự là hình thức công nhận chính thức sau thời gian tập sự, người
tập sự đó hoàn thành công việc được giao.
39. 29
- Bổ nhiệm chính trị: là hình thức bổ nhiệm gắn liền với các chức vụ
trong bộ máy hành chính. Bổ nhiệm chính trị mang ý nghĩa của bầu cử và phê
chuẩn của các cơ quan quyền lực nhà nước.
- Bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý: là bổ nhiệm công chức vào
chức vụ lãnh đạo trong một thời gian nhất định. Do đó, thuật ngữ này có thể
được hiểu tương tự như thuật ngữ "đề bạt" công chức lên một chức vụ mới,
cao hơn.
Việc bổ nhiệm phải xuất phát vào yêu cầu công việc và các tiêu chuẩn
để lựa chọn công chức có đủ năng lực, trình độ và kinh nghiệm đảm đương và
thực hiện các công việc gắn liền với vị trí được phân công. Theo đó, trong bổ
nhiệm, đề bạt công chức cần quan tâm thực hiện các vấn đề sau:
- Bổ nhiệm phải trên cơ sở xây dựng cơ cấu nhân lực của tổ chức.
- Bổ nhiệm trên cơ sở đòi hỏi của công vụ và nguồn nhân lực hiện có
(đúng người, đúng việc, đúng nơi).
- Bổ nhiệm phải tuân thủ nguyên tắc khách quan, vô tư và công bằng.
Đây là căn cứ quan trọng để thực hiện chính sách sử dụng cán bộ.
- Đề bạt, cất nhắc phải đúng lúc, đúng người, đúng việc. Bố trí, đề bạt
không đúng lúc có thể dẫn đến thừa, thiếu cán bộ, công chức không phát huy
được năng lực hoặc không đáp ứng được yêu cầu công việc dẫn đến công việc
kém phát triển, tiềm lực không được phát huy.
- Ngoài ra, trong bổ nhiệm cần chú ý đảm bảo sự cân đối giữa các vị trí
trong một cơ quan, giữa đội ngũ công chức HCNN với đội ngũ cán bộ Đảng,
đoàn thể trong phạm vi các cơ cấu của hệ thống chính trị.
1.2.2.4. Điều động, luân chuyển, biệt phái công chức
Là các hoạt động xuất phát từ phân tích công việc, đánh giá lại nhằm sắp
xếp, bố trí lại đội ngũ công chức nhằm đáp ứng những mục tiêu của tổ chức
HCNN từ đó tiến đến sử dụng một cách có hiệu quả nhất đội ngũ công chức.
40. 30
Đây là một trong những phương tiện cơ bản giảm thiểu sự chênh lệch cơ bản về
lượng và chất giữa nhu cầu và thực tế sử dụng nhân lực trong tổ chức.
Nghị định 24/2010/NĐ – CP, quy định cụ thể việc điều động, luân
chuẩn, biệt phái công chức hiện nay ở nước ta như sau:
- Điều động công chức trong trường hợp:
+ Theo yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể;
+ Chuyển đổi vị trí công tác theo quy định của pháp luật;
+ Theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng công chức trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị và giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị theo quyết định của cơ quan
có thẩm quyền.
- Luân chuyển công chức (chỉ thực hiện đối với công chức giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý và trong quy hoạch vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý cao
hơn), trong trường hợp:
+ Theo yêu cầu nhiệm vụ, quy hoạch, kế hoạch sử dụng công chức của
cơ quan, tổ chức, đơn vị;
+ Luân chuyển giữa Trung ương và địa phương, giữa các ngành, các
lĩnh vực theo quy hoạch nhằm tiếp tục rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng công
chức lãnh đạo, quản lý.
- Biệt phái công chức trong trường hợp:
+ Theo nhiệm vụ đột xuất, cấp bách;
+ Để thực hiện công việc trong một thời gian nhất định.
1.2.2.5. Đánh giá công chức
Đánh giá công chức là một trong các biện pháp quản lý thông qua việc
sử dụng những tiêu chí và phương thức nhất định nhằm làm rõ phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết quả thực
hiện nhiệm vụ của công chức. Đánh giá là một khâu quan trọng, căn bản trong
quá trình quản lý và sử dụng công chức, được tiến hành thường xuyên hàng
41. 31
năm hoặc trước khi xem xét đề bạt, chuyển công tác đối với công chức. Mục
đích của hoạt động đánh giá nhằm cung cấp thông tin cho công tác quản lý,
làm cơ sở cho các quyết định quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng, đề bạt,
lương, thưởng đối với công chức. Đồng thời, hoạt động đánh giá sẽ cung cấp
thông tin phản hồi để công chức biết rõ về năng lực và việc thực hiện công
việc của họ hiện tại đang ở mức độ nào, giúp họ phấn đấu tự hoàn thiện bản
thân và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Đánh giá đúng, chính xác kết
quả làm việc của công chức là căn cứ để lựa chọn, sắp xếp, bố trí, đề bạt, sử
dụng đúng với năng lực, sở trường, từ đó chủ động trong việc đào tạo, bồi
dưỡng, rèn luyện và bổ nhiệm cán bộ. Kết quả đánh giá công chức có thể sử
dụng cho nhiều mục đích khác nhau, là cơ sở cho việc sử dụng công chức
được tốt hơn, mối quan hệ hệ các khâu sử dụng công chức và kết quả đánh giá
công chức thể hiện như sau:
Sơ đồ 1.2: Mối liên hệ đánh giá công chức với sử dụng công chức
Đánh giá công chức có tác động trên nhiều phương diện đối với công tác
quản lý và sử dụng công chức. Trong đó, Phương pháp đánh giá công chức
Đánh giá
Quy hoạch
Sắp xếp lại
Đào tạo, bồi
dưỡng
Khen thưởng,
xử phạt
Đề bạt, bổ
nhiệm
42. 32
quan hệ trực tiếp đến kết quả đánh giá. Làm thế nào để lựa chọn phương pháp
đánh giá, học hỏi tính khoa học của các loại phương pháp nhằm xây dựng
phương pháp đánh giá phù hợp với thực tế là một vấn đề quan trọng được các
nước quan tâm. Công tác đánh giá công chức bao gồm nhiều nội dung như:
phân chia thứ bậc đánh giá, trình tự đánh giá, sử dụng kết quả đánh giá,…
những điều này đều có ảnh hưởng quan trọng đến sự công bằng và minh bạch
của công tác đánh giá. Với mỗi một quốc gia, đánh giá công chức có những
điểm khác biệt trong phương pháp hay trình tự đánh giá. Tùy vào mục đích mà
có thể lựa chọn phương pháp và tiêu chuẩn khác nhau; ví dụ như Hoa kỳ chú
trọng đánh giá hiệu quả công việc bao gồm năng lực công tác; trách nhiệm;
năng lực tổ chức; mức độ hợp tác; tuân thủ kỷ luật; số lượng và chất lượng
công việc; tính sáng tạo; Ở Anh chủ yếu là xem xét về thái độ cần cù làm việc
và đánh giá thành tích định kỳ, đồng thời lấy đánh giá thành tích làm trọng
điểm; Ở Nhật, bên cạnh đánh giá kết quả công việc, năng lực còn đánh giá tính
cách và tính thích ứng của công chức; trong khi đó ở Singapore, đánh giá công
chức tập trung vào đánh giá biểu hiện công tác và đánh giá tiềm năng.
Ở Việt Nam hiện nay, việc đánh giá công chức thực hiện theo quy định
tại Nghị định 24/2010/NĐ-CP và quy định cụ thể tại Nghị định số
56/2015/NĐ-CP của chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ công chức,
viên chức, tiêu chí đánh giá được phân cho từng đối tượng, chủ yếu gồm: việc
chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước; phẩm
chất chính trị đạo đức, lối sống, tác phong và lế lối làm việc; năng lực, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ; tiến độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ; tinh thần,
trách nhiệm, tính phối hợp.
1.2.2.6. Khuyến khích, đãi ngộ, tạo động lực làm việc
Cũng như các người lao động trong các tổ chức khác, công chức sẽ nỗ
lực làm việc và đóng góp cho tổ chức khi được nhìn nhận và trả công xứng
43. 33
đáng. Cơ cấu hệ thống trả công bao gồm thù lao vật chất (gồm lương cơ bản,
phụ cấp, thưởng, phúc lợi…) và thù lao phi vật chất (gồm cơ hội học tập và
thăng tiến, được giao công việc thú vị hay các điều kiện làm việc khác…).
Do đó, để tác động đến công chức, bên cạnh đãi ngộ về vật chất (tiền
lương, thưởng; phụ cấp chức vụ, khu vực, làm thêm giờ, trợ cấp khó khăn;
phúc lợi, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhà công vụ và các dịch vụ xã hội
được bao cấp một phần hoặc toàn bộ), cần có những đãi ngộ về tinh thần
(nghỉ ốm, nghỉ đẻ, nghỉ phép hàng năm, tham quan du lịch; khen thưởng
thành tích, tạo cơ hội thăng tiến, được cử đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao
trình độ, giao công việc mang tính thách thức và tạo môi trường làm việc tốt
hơn). Trong hệ thống chính sách đãi ngộ nêu trên, chính sách khuyến khích
bằng lợi ích vật chất là cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất; mà trong đó tiền
lương chính là cơ sở chính, quan trọng nhất giúp giữ chân công chức và thúc
đẩy họ nỗ lực làm việc. Tiền lương là sự trả công đối với công sức, tâm huyết
của công chức và ngay cả mức lương cũng chứa đựng sự đánh giá của xã hội
đối với những cống hiến của cá nhân. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, lợi
ích vật chất và tinh thần đan xen với nhau, trong phần thưởng về vật chất có
phần thưởng về tinh thần. Cũng có trường hợp đặc biệt, lợi ích về tinh thần
còn quan trọng hơn cả lợi ích về vật chất.
Có thể nói, chính sách khuyến khích, đãi ngộ công chức là một trong
những công cụ quản lý hết sức quan trọng nhằm giúp tổ chức thúc đẩy người
lao động đạt mục tiêu. Đặc biệt, đó cũng là cơ sở để xây dựng và phát triển
đội ngũ công chức gắn bó với tổ chức, hết lòng phụng sự đất nước, phụng sự
nhân dân. Việc hoàn thiện chính sách này có ý nghĩa quan trọng trong việc
thúc đẩy quá trình cống hiến, bảo đảm công bằng xã hội, khắc phục tình trạng
bình quân trong việc trả công đối với công chức, khuyến khích công chức
năng động, sáng tạo trong thực thi công vụ.
44. 34
1.2.3. Các nguyên tắc sử dụng công chức
Để việc quản lý sử dụng công chức đạt hiệu quả đảm bảo đạt mục
tiêu, quá trình sử dụng công chức phải tuân thủ một số nguyên tắc sử dụng
lao động nói chung như :
- Phải hình thành cơ cấu công chức tối ưu: Tương tự như sử dụng lao
động trong doanh nghiệp, trong sử dụng công chức phải đảm bảo cơ cấu công
chức tối ưu. Nghĩa là phải đảm bảo phù hợp giữa số lượng công chức với số
lượng ngành nghề, chất lượng, giới tính, độ tuổi…. Ngoài ra phải phân định
rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận hoặc các cá nhân
với nhau, đồng thời phải tạo được sự đồng bộ, ăn khớp giữa các cá nhân, bộ
phận trong cơ cấu nhằm thúc đẩy năng suất và hiệu quả công việc sẽ đạt được
mức cao nhất.
- Phải đảm bảo cả yếu tố vật chất và tinh thần cho công chức.
Nguyên tắc quan trọng trong sử dụng lao động là: trả công tương xứng
sức lao động mà người lao động bỏ ra. Ngoài ra, để quản lý tốt người lao
động thì nhà quản lý phải biết kết hợp khéo léo giữa lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần. Thông thường có thể dùng lợi ích vật chất để khuyến khích người
lao động nhưng cũng có trường hợp áp dụng hình thức này không có hiệu quả
hoặc chỉ mang tính chất phụ, nhất thời. Lúc này nhà quản trị phải biết kết hợp
với lợi ích tinh thần như bày tỏ sự quan tâm, thăm hỏi, động viên... để tạo
được ấn tượng trong tâm trí người lao động. Đồng thời, Phải đảm bảo các yếu
tố vật chất phục vụ cho nơi làm việc của người lao động như: trang bị máy
móc thiết bị, dụng cụ, nguyên vật liệu. Những yếu tố này phải đảm bảo cả về
số lượng và chất lượng.
- Phải tăng cường định mức lao động: Định mức lao động là xác định
lượng hao phí lao động tối đa để hoàn thành một đơn vị sản phẩm (hoặc một
khối lượng công việc) theo tiêu chuẩn và chất lượng quy định trong điều kiện
45. 35
tổ chức kỹ thuật, tâm sinh lý, kinh tế xã hội nhất định, lượng lao động phải
được lượng hoá bằng những thông số có độ chính xác và đảm bảo đô tin cậy.
Xác định được định mức lao động sẽ xác định được những trách nhiệm và kết
quả lao động của mỗi người, là cơ sở để xây dựng kế hoạch tiền lương, xây
dựng phương án tối thiểu hoá chi phí.
Ngoài ra, vì công chức là người lao động đặc biệt, do vậy, việc sử dụng
công chức còn phải tuân thủ một số các nguyên tắc riêng biệt khác. Trên cơ
sở tổng hợp một số nguyên tắc sử dụng công chức phổ biến ở các quốc gia,
những nguyên tắc đó là: [28]
- Nguyên tắc lấy con người làm gốc
Quá trình chuyển đổi quan niệm quản lý nhân sự sang quản lý nguồn
nhân lực đánh dấu bước chuyển mới trong việc nhìn nhận lại vai trò của con
người trong tổ chức và thay đổi bản chất của hoạt động quản lý con người;
thay vì coi con người là chỉ là yếu tố đầu vào, độc lập với các yếu tố khác của
quá trình quản lý, là đối tượng bị quản lý thì nay con người được coi là yếu tố
chính, quan trọng nhất của mọi tổ chức. Coi trọng việc bồi dưỡng nhân tài,
phục vụ nhân tài, coi việc phát triển nhân tài là nhiệm vụ căn bản của quản lý
nhân sự; đồng thời xây dựng hệ thống phát triển nhân tài, tạo môi trường
thuận lợi cho nhân tài phát triển, phát huy tính tích cực của nhân tài. Coi trọng
vị trí con người, hiện nay quản lý nguồn nhân lực tập trung vào việc: đầu tư
thỏa đáng cho người lao động phát triển năng lực riêng nhằm thỏa mãn nhu
cầu cá nhân, đồng thời tăng năng suất lao động, góp phần năng cao hiệu quả
tổ chức; khuyến khích động viên người lao động; có chính sách thỏa mãn nhu
cầu người lao động về vật chất và tinh thần; tạo môi trường làm việc tốt nhất
cho người lao động…
Đây là nguyên tắc hiện nay được nhiều quốc gia áp dụng triệt để, coi là
nhiệm vụ tiên quyết trong chiến lược phát triển quốc gia. Điển hình là
46. 36
Singapore với những chính sách thu hút và trọng dụng ngưới tài rõ ràng và
bài bản nhất trên thế giới với phương châm: nhân tài là yếu tố then chốt quyết
định khả năng cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế.
- Nguyên tắc phân loại một cách khoa học
Đây là cơ sở khoa học hóa công tác sử dụng công chức. Để sử dụng nhân
tài đúng chỗ, cần phân loại một cách khoa học. Có hai cách phân loại, phân loại
theo người và phân loại theo việc. Phân loại theo người là căn cứ vào quá trình
học tập, công tác, chức vụ để phân loại. Phân loại theo việc là căn cứ theo tính
chất công việc, mức độ khó dễ, trách nhiệm, điều kiện cần có để phân loại. Mỗi
các phân loại đề có ưu, nhược điểm riêng. Trên thực tế có thể kết hợp cả hai
cách phân loại trong sử dụng công chức để đạt hiệu quả hơn.
- Nguyên tắc phù hợp công việc
Trên cơ sở phân loại khoa học, việc sử dụng công chức phải đảm bảo
xuất phát từ yêu cầu và tính chất công việc. Tùy theo yêu cầu và tính chất công
việc mà lựa chọn người có tri thức, năng lực, phẩm chất, đạo đức, sở thích của
mỗi người để giao việc thích hợp.
Việc bố trí sử dụng đầu tiên cần chú ý đúng chuyên môn để họ tìm
được niềm vui và sự hứng khởi trong công việc, tiếp đến là phát huy tốt nhất
khả năng, sở trường trên nền tảng trình độ đã được đào tạo. Một người có thể
có nhiều điểm mạnh khác nhau, do đó nhà quản lý cần có tầm nhìn, phân tích
và bố trí sử dụng sao cho cá nhân phát huy được sở trường, hài hòa với lợi ích
chung của tổ chức, đem lại nhiều lợi ích nhất cho tổ chức. Nếu dùng người
không đúng sở trường sẽ lãng phí nhân tài, công việc khó thành, nhưng cũng
không nên quá cầu toàn. Tiếp đến trong sử dụng cần phân công công việc rõ
ràng, tin tưởng, giao quyền và cơ chế kiểm tra giám sát phù hợp. Việc quản lý
hiệu quả nên tập trung vào điểm mạnh, sở thích của nhân sự, tạo điều kiện để
họ phát triển đồng thời quản lý điểm yếu, hạn chế sự phát triển của nó.
47. 37
- Nguyên tắc vừa có đức, vừa có tài
Đức và tài là hai mặt bổ sung cho nhau, không thể thiếu ở mỗi người.
Đức là giác ngộ chính trị, phẩm chất đạo đức, ý thức rèn luyện ; Tài là trình
độ hiểu biết, năng lực nghiệp vụ. Ở mỗi thời kỳ tiêu chuẩn tài và đức không
giống nhau. Tuy nhiên, không khác nhau ở một chỗ, dùng người đều phải cần
đến đức và tài, như Bác Hồ từng nói « không có đức là người vô dụng, không
có tài làm việc gì cũng khó ». Do vậy, công tác sử dụng công chức cần nắm rõ
ngoài năng lực chuyên môn cần phải coi trọng phẩm chất đạo đức, cống hiến
và cam kết của công chức để sử dụng sao cho hợp lý, hiệu quả nhất.
- Nguyên tắc công bằng, bình đẳng
Nguyên tắc này nghĩa là trong sử dụng công chức phải đảm bảo tính
công bằng, không nên phân biệt đối xử, tránh tư lợi, bè phái, địa phương chủ
nghĩa, ưu ái theo quan hệ riêng. Nguyên tắc này cần nhất trong tuyển dụng
công chức, phải đảm bảo cạnh tranh, công khai, bình đẳng để tuyển chọn
người phù hợp nhất, đủ đức đủ tài vào bộ máy hành chính nhà nước.
- Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng đối với công
tác cán bộ
Với đặc trưng riêng của nền chính trị ở Việt Nam là Đảng lãnh đạo thống
nhất, toàn diện. Trong công tác sử dụng công chức cần phải tuân thủ nguyên tắc
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Và công tác cán bộ
là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, là mặt trọng yếu trong toàn bộ
hoạt động của Đảng, là nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng.
Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
theo nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện trong tất cả các khâu, các bước
của quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ công chức gồm nhiều khâu liên hoàn, đan
xen nhau, bao gồm việc đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ….
48. 38
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng công chức
1.3.1. Các yếu tố khách quan
- Các quy định pháp lý
Hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động mang tính pháp lý cao. Theo
đó, việc quản lý sử dụng công chức phải tuân thủ quy định pháp luật cụ thể;
việc sử dụng công chức ràng buộc chặt chẽ với hệ thống cơ chế, chính sách và
quy định của nhà nước; các qui trình thủ tục để thực thi công việc do các cơ
quan nhà nước đảm nhận ít mang tính linh hoạt.
Quyền lợi, nghĩa vụ của công chức cũng được quy định cụ thể trong
Luật, là những cơ sở để xác lập quan hệ giữa người lao động làm việc cho nhà
nước với nhà nước và cũng là những cơ sở pháp lý để hình thành các điều
kiện thực thi công vụ của công chức.
Ở Việt Nam hiện nay, việc quản lý, sử dụng công chức căn cứ trên quy
định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định số 24/2010/NĐ-CP
ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
công chức. Ngoài ra, đối với từng công đoạn sử dụng công chức như tuyển
dụng, bổ nhiệm, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật… đều có những quy định
riêng nhằm cụ thể hóa hơn.
Các quy định, cơ chế, chính sách trong quản lý, sử dụng công chức có
tác động rõ rệt đến hiệu quả sử dụng công chức. Nếu những quy định pháp lý
hợp lý sẽ khuyến khích, tạo động lực công chức, tạo điều kiện thuận lợi cho
sử dụng, phát triển công chức. Nếu quy định bất hợp lý sẽ là rào cản trong
quản lỷ sử dụng cũng như khơi dậy sự nhiệt tình cống hiến của công chức.
Việc hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật không đơn giản và thường mất
nhiều thời gian, do đó tính linh hoạt kém hơn so với khu vực tư và khi cần có
sự thay đổi đòi hỏi một qui trình thay đổi phức tạp.
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội
49. 39
Trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau của mỗi quốc gia, vùng
miền, địa phương đặt ra những đòi hỏi khác nhau đối với nền hành chính,
cũng như các yếu tố về pháp lý, thể chế, chính sách…Từ đó kéo theo sự phân
công công việc nhà nước và thị trường, cũng như yêu cầu đặt ra đối với nhiệm
vụ quản lý nhà nước khác nhau. Và không ai khác, đội ngũ cán bộ, công
chức sẽ phải thay đổi nhận thức, tư duy, nâng cao năng lực trong việc
tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách, thể
chế đáp ứng yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời
kỳ, giai đoạn khác nhau.
- Trình độ công nghệ quản lý
Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
tác động mạnh mẽ đến hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước. Hiện nay
hoạt động của các cơ quan đều được tin học hóa. Công nghệ thông tin ứng
dụng rộng rãi trong nghiệp vụ của cán bộ công chức, trong quản lý điều hành
công việc, lưu trữ tìm kiếm thông tin, dữ liệu…Chính điều đó đem lại thay
đổi tích cực công việc của công chức và cơ quan hành chính nhà nước, thuận
tiện hơn cho người dân, đồng thời đặt ra yêu cầu công chức phải không ngừng
nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu công việc và hội nhập quốc tế.
1.4.2. Các yếu tố về chủ quan
- Trình độ, năng lực, kỹ năng làm việc của công chức
Là chủ thể của hoạt động công vụ, cũng là yếu tố đảm bảo cho nền
công vụ hiệu lực, hiệu quả, năng lực và thái độ của công chức chính là yếu tố
quan trọng nhất tạo nên hiệu quả hoạt động của công chức.
Vì vậy, đòi hỏi mỗi công chức phải có trình độ, năng lực, kỹ năng giải
quyết công việc thuộc lĩnh vực công chức hoạt động. Đây chính là tiêu chí
đánh giá chất lượng và tính chuyên nghiệp của công chức nói riêng và nền
công vụ nói chung.