Roland Barthes: không căn cứ vào cái tựa và những ý kiến khác để kết luận tác giả không có ý nghĩa gì: Tôi nói như vậy không có nghĩa là tg ko có tác giả không có ý nghĩa. Nhưng khi tác phẩm ra đời cần có 1 đời sống riêng=> Tác giả có vai trò nhưng không phải là thượng đế, độc tôn mà cũng giống như người đọc, mang lại ý nghĩa cho tác phẩm
2. Sự giao lưu văn
học Đông Tây là
nguyên nhân
chính dẫn đến sự
ra đời của Phong
trào thơ mới
1932-1945.
Sự ra đời
của giai cấp
tư sản và
tiểu tư sản.
Cùng với sự ra
đời của hai giai
cấp trên là sự
xuất hiện tầng
lớp trí thức Tây
học.
12. Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói
trên, Phong trào thơ mới còn bộc lộ một vài hạn
chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi
vào bế tắc, không tìm được lối ra, thậm chí thoát
ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không
tốt đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá
trình “nhận đường” những năm đầu sau cách
mạng thángTám.
15. “Tôi là con chim đến từ
núi lạ …”
“Tôi là con nai bị chiều
đánh lưới”…
16. Thoảng hoặc có khi lại là “Ta”:
“Ta là Một, là Riêng là
Thứ Nhất Không có
chi bè bạn nổi cùng ta”.
17. “ Thơ mới là thơ của cái Tôi”. Thơ mới
đề cao cái Tôi như một sự cố gắng
cuối cùng để khẳng định bản ngã của
mình và mong được đóng góp vào
“văn mạch dân tộc”, mở đường cho sự
phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
19. Trong bài “Về cái buồn trong Thơ
mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là
Thơ mới buồn, buồn nhiều”, “Cái
buồn của Thơ mới không phải là cái
buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái
buồn của những người có tâm huyết,
đau buồn vì bị bế tắc chưa tìm thấy lối
ra”.
20. Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào
nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu
cũng thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn
cô đơn tràn ngập trong cảm thức về
Tiếng thu với hình ảnh:
21. “Con nai vàng ngơ
ngác
Đạp trên lá vàng khô”.
(Lưu Trọng Lư ).
22. Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng
của chủ nghĩa lãng mạn. Với
các nhà thơ mới, nỗi buồn ấy
còn là cách giải thoát tâm hồn,
là niềm mong ước được trải
lòng với đời và với chính mình.
24. Ngay từ khi ra đời, “Thơ mới đã đổi
mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc
mới trước cuộc đời và trước thiên
nhiên, vũ trụ”. Cảm hứng về thiên
nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt
riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi
mới, đầy hương sắc, âm thanh, tràn
trề sự sống.
32. Thơ mới là một bước phát
triển quan trọng trong tiến
trình hiện đại hóa nền văn học
nước nhà những năm đầu thế
kỉ XX với những cuộc cách
tân nghệ thuật sâu sắc.
33. Về thể loại, ban đầu Thơ mới phá phách một
cách phóng túng nhưng dần dần trở về với các
thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ
ngôn, thất ngôn, thơ lục bát. Các bài thơ ngũ
ngôn có Tiếng thu (Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ
Đình Liên), Em đi chùa Hương (Nguyễn Nhược
Pháp)… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, T.T.KH chủ yếu viết theo thể thơ thất
ngôn, còn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng thể
thơ lục bát v.v…
34. Cách hiệp vần trong Thơ mới rất
phong phú, ít sử dụng một vần (độc
vận) mà dùng nhiều vần như trong
thơ cổ phong trường thiên: vần ôm,
vần lưng, vần chân, vần liên tiếp,
vần gián cách hoặc không theo một
trật tự nhất định
35. Sự kết hợp giữa vần và
thanh điệu tạo nên cho
Thơ mới một nhạc điệu
riêng. Đây là những câu
thơ toàn thanh bằng:
37. Ô hay! Buồn vương
cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng
rơi! Thu mênh
mông. (Bích Khê)
38. Ngoài việc sử dụng
âm nhạc, Thơ mới
còn vận dụng cách
ngắt nhịp một cách
linh hoạt:
39. “Thu lạnh / càng thêm
nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước /
lạnh / trời ơi!”
(Xuân Diệu)
40. Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về
ngôn ngữ Thơ mới diễn ra khá rầm rộ.
Thoát khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ
thống ước lệ dày đặc của “Thơ cũ”, Thơ
mới mang đến cho người đọc một thế giới
nghệ thuật giàu giá trị tạo hình và gợi cảm
sâu sắc:
41. “Con đường nhỏ
nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành
hoang nắng trở
chiều”
(Xuân Diệu)
42. Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc
điệu cùng với tính hình tượng, cảm xúc
của ngôn ngữ đã tạo nên một phong
cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm giác,
bằng màu sắc hội họa của thơ mới. Đây
là bức tranh “Mùa xuân chín” được Hàn
Mặc Tử cảm nhận qua màu sắc và âm
thanh:
43. “Trong làn nắng ửng, khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang”.
44. 5. Sự ảnh hưởng của
thơ Đường và thơ ca
lãng mạn Pháp.
45. Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét.
Sự gặp gỡ giữa thơ Đường và Thơ mới chủ
yếu ở thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu
và giữ lại những mặt tích cực, tiến bộ của thơ
Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý
Bạch, Bạch Cư Dị,… Trong bàiTràng giang, Huy
Cận mượn tứ thơ của Thôi Hiệu để bày tỏ lòng
yêu nước:
46. “Lòng quê dợn dợn
vời con nước
Không khói
hoàng hôn cũng
nhớ nhà”.
47. Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm
cho thơ tiếng Việt càng phong phú
giàu có thêm, tinh tế hơn thì sự
ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp
góp phần cho Thơ mới sáng tạo về
thi hứng, bút pháp và cách diễn
đạt mới lạ, độc đáo.
48. Một trong những nhà thơ đầu tiên
chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp
là Thế Lữ, Huy Thông, về sau là
Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,…Hầu hết
các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng
khá sâu sắc chủ nghĩa tượng trưng
của thơ ca lãng mạn Pháp mà đại
biểu là Budelaire, Verlaine,
Rimbaud.
49. Sau 75 năm, kể từ khi ra đời cho đến nay,
Phong trào thơ mới đã có chỗ đứng vững
chắc trong đời sống văn học dân tộc. Qua
thời gian, những giá trị tốt đẹp của Phong
trào thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng
được thử thách và có sức sống lâu bền
trong lòng các thế hệ người đọc.