SlideShare a Scribd company logo
1 of 94
VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG
NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
Nguyễn Trung
Hiếu
11 Sinh
Mục lục
I. GIỚI THIỆU CHUNG IV. TƯ TƯỞNG NHÂN
ĐẠO VÀ HỒN THƠ HỒ
XUÂN HƯƠNG
II. TÁC GIẢ HỒ XUÂN
HƯƠNG
V. TỔNG KẾT
III. HÌNH TƯỢNG
NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
THƠ NÔM HỒ XUÂN
HƯƠNG
I
GIỚI THIỆU CHUNG
“Vứt kimono sang bên
Em ngồi xuống lòng thuyền
Chống sào tôi rời bến
Bơi mãi về tận xa”
Không phải ngẫu nhiên mà những
câu thơ tươi tắn, táo bạo ấy của thi sĩ
huyền thoại người Nhật bản —
Rubokoso lại được người Việt Nam
đời nay gọi với cái tên trìu mền: “Hồ
Xuân Hương của Nhật Bản”.
Sánh vai cùng những đấng mày râu như Nguyễn Du, Cao Bá Quát.... tên tuổi Hổ Xuân Hương
nghiễm nhiên chiếm một chỗ đứng ngang tàng trong nền văn học. Người ta nhắc đến Xuân Hương
trong nhiều cảm nhận khác nhau nhưng nhắc đến một nhà thơ nữ viết về phụ nữ, trước hết phải kể
đến Xuân Hương. Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho
thơ văn tiếng nói chung của những người phụ nữ. Những tiếng nói ấy không chỉ là sự tự ý thức cao
độ về bản thân mà còn là “những tiếng than và tiếng thét, những tiếng căm hờn và những lời châm
biếm sâu cay”
Thơ Xuân Hương đã làm cho dời sống văn học trở nên sôi nổi, với hàng trăm bài viết, hàng
trăm ý kiến khác nhau về thơ bà. Có người khen, kẻ chế nhưng những giá trị bất diệt trong thơ bà
vẫn sẽ còn mãi với thời gian. Có thể khẳng định lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân Hương là một hành
trình lịch sử dài bắt đầu từ nhiều thập kỉ trước và chưa bao giờ đứt đoạn. Đây là một chuỗi những bí
ẩn và gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu. Hồ Xuân Hương với một tài thơ độc đáo đã trở
thành một trung tâm thu hút biết bao nhiêu thế hệ nhà nghiên cứu và độc giả yêu quý thơ bà vào
cuộc tìm kiếm, nhưng cho đến nay đề tài về Hồ Xuân Hương vẫn mãi là một vấn đề mang tính thời
sự văn học nóng bỏng là đề tài không bao giờ nhàm chán.
Qua các công trình nghiên cứu về thơ Hồ Xuân Hương từ trước đến nay, chúng ta thấy, việc
đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương diễn ra rất phức tạp và đã có rất nhiều ý kiến khác nhau thậm chí
đối lập nhau, chẳng hạn như: Nguyễn Khắc Hiếu, đầu những năm 20 của thế kỉ XX phê bình: “Thơ
Hồ Xuân Hương thật tinh quái, những câu thơ hay đọc lên đến ghê người”. Trương Từu thấy trong
thơ bà có tục và dâm và ông gọi Xuân Hương là “thiên tài hiếu dâm” ...và còn nhiều ý kiến khác
nữa.
Trên cơ sở tiếp thu những công trình của các nhà nghiên cứu, phê bình, các bài luận và các tài
liệu có liên quan, đề tài: “Vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương “ của em
mong muốn đóng góp thêm một tiếng nói bên cạnh những công trình nghiên cứu về cuộc đời, sự
nghiệp thơ Xuân Hương cũng như đóng góp một tiếng nói về hình ảnh người phụ nữ trong nền văn
học trung đại Việt Nam qua cái nhìn của nhà thơ được mệnh danh là “thị trung bình quý này”.
II. TÁC GIẢ HỒ XUÂN HƯƠNG
1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
3. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ
NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG
ĐẠI
3.1. Khái niệm hình tượng và hình
tượng trong văn học
3.2. Hình tượng người phụ nữ trong
văn học trung đại
Cuộc đời đầy sóng gió
trong những chuyển mình
của thời đại
1.1. Thời đại
1.2. Cuộc đời
2. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
01
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1.1
Thời đại
Chế độ phong kiến Việt Nam, sau khi đạt đến chỗ cực thịnh vào thế kỉ XV, nhất là với triều đại Lê
Thánh Tông, thì bắt đầu xuống dốc. Theo đó, ý thức hệ Nho giáo cũng bắt đầu rạn nứt. Hàng loạt nho sĩ ra
sức vứt bỏ khí tiết “Trung thần bất sự nhị quân” (Tôi trung không thờ hai vua). Nội bộ lục đục triền miên,
ra sức áp bức, bóc lột, đè nén nhân dân. Và tất yếu, giai cấp phong kiến đã đi ngược lại với quyền lợi của
nhân dân, thi nhau đẻ ra đủ thứ pháp trị với lễ nghi.
Từ thế kỉ XVIII, sự khủng hoảng của toàn bộ chế độ phong kiến đã hằn những vệt đen dài trên trang sử.
Lịch sử Việt Nam có lẽ không có thời nào tồi tệ cho bằng những năm cuối đời Lê. Đàng ngoài thì kết bè
kéo đảng, tranh giành quyền lực. Đảng trong chúa Nguyễn lăm le ra đánh phá, quấy nhiễu. Quan lại chỉ còn
biết lấy nịnh hót, luồn cúi làm lẽ sống. Tất cả chỉ còn là bộ mặt giả nhân giả nghĩa của Tống Nho. Nhân dân
sống trong cảnh loạn ly, các giá trị đạo đức bị băng hoại. Bao nhiêu nghĩa quân thần, tình gia quyến, bao
nhiêu ước thúc luân lý...bị lật nhào. Bởi thế bao nhiêu cặn bã xã hội đều nổi trên mặt. Những bậc già cả,
những vị có học nhìn thời cuộc đâm chán nản, trái lại những kẻ cơ hội thoả mãn những mưu đồ vô đạo, bất
chính.
Trong thời đại mục nát như vậy, thân phận con người trở nên mong manh nhỏ bé. Và thân phận người
phụ nữ thì lại càng bị vùi dập, bị đẩy xuống chốn bùn sâu. Người phụ nữ sinh ra đã mang lấy cái gông trên
cổ với đủ thứ “tam cương, ngũ thường” nghiệt ngã. Ngày trước Khổng Tử dạy rằng: “Đức hạnh làm đẹp
con người” còn thời nay người ta quan niệm: “...chết đói là việc cực nhỏ, thất tiết mới là việc lớn” (Lỗ
Tấn).
1.2
Cuộc đời
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ kỳ tài, điều đó có lẽ không cần phải bàn cãi gì nhiều. Nhưng xét
đến tiểu sử của bà thì thật là mờ mịt, tất cả đều chỉ là giả thuyết và phỏng đoán của thế hệ đi sau.
Xung quanh vấn đề này còn rất nhiều giả thuyết khác nhau. Căn cứ vào những nghiên cứu của
Nguyễn Hữu Tiến trong cuốn “Giai nhân di mặc” (1915), Song An trong bài “Thân thế và văn
chương cô Hồ Xuân Hương” (in trên báo Đông Tây số 12/1929), Dương Quảng Hàm trong “Việt
văn giáo khoa thư” (1940) đều thống nhất ở một số điểm sau:
Hồ Xuân Hương là người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, sống khoảng cuối
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Họ Hồ ở Quỳnh Lưu là một họ nổi tiếng, từng có nhiều người đỗ đạt
cao và làm quan to. Xuân Hương sinh ra ở đâu, năm nào chưa rõ. Chỉ truyền ngôn là gia đình một
thời sống ở Thăng Long, lúc ở phường Khán Xuân, lúc ở thôn Tiên Thị, và tuổi trưởng thành, Xuân
Hương lại dựng một ngôi nhà bên hồ Tây đặt tên là Cổ Nguyệt Đường, bạn bè thường lui tới nhiều
ở ngôi nhà này. Đường chồng con của Xuân Hương cũng nhiều lận đận. Hồ Xuân Hương đã từng
làm lẽ một cai tổng (Tổng Cóc) và một tri phủ (Vĩnh Tường). Bà còn là bạn thơ của Chiêu Hổ (tức
Phạm Đình Hổ?). Như vậy Hồ Xuân Hương sống khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Nhưng đến năm 1957, trên Tạp chí văn học, Hồ Tuấn Niêm căn cứ vào sáu bộ gia phả của các
chi họ Hồ ở Nghệ An rút ra một thông tin cực kỳ hấp dẫn: Xuân Hương là người cùng một họ và
bằng vai với Quang Trung – Nguyễn Huệ. Với việc công bố tài liệu này, gốc gác Xuân Hương xem
ra sáng tỏ hơn. Rồi đến năm 1963, trên Tạp chí Văn học số 4 – 1963, Trần Thanh Mại phát hiện một
tập thơ chữ Hán với nhan đề “Lưu hương ký” mà tên tác giả lại cũng là Hồ Xuân Hương. Tập thơ
này còn cho biết Hồ Xuân Hương còn là bạn tình của tác giả Truyện Kiều. Nhưng sách này lại cho
hay rằng Hồ Xuân Hương là em gái ruột của Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1739 – 1785) tức con gái Hồ
Sĩ Danh. Vấn đề thành ra rắc rối!
Càng rắc rối thêm là tới năm 1974, một tài liệu mới được công bố nêu thêm một nghi vấn về lai
lịch của bậc tài tử này: Trên Tạp chí Văn học số 3/1974 có đăng bản dịch Xuân Hương đàm thoại
của Tam nguyên Trần Bích San (1840 – 1878) một danh nhân của Nam Định. Bài này cho biết vào
năm Tự Đức 22 (1870) một nhóm văn nhân họp bạn cuối năm. Một người đến chậm, cáo lỗi vì phải
đi dự đám tang của “tài nữ quê Nghệ An, hiệu là Cổ Nguyệt Đường, nàng ở Từ Sơn, mộ mai táng
bên núi Nguyệt Hằng”. Như vậy, có một Hồ Xuân Hương mất vào năm 1870 và mộ bên núi Nguyệt
Hằng tức núi Chè, nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh. Bà cũng là người Nghệ An, cũng là tài nữ
có kiếp sống long đong. Lại cũng nhắc đến một bài thơ của hoàng tử Tùng Thiện Vương: theo bài
thơ này thì có một Hồ Xuân Hương mà phần mộ ngay ở Hà Nội và nàng mất trước 1842 là năm
Tùng Thiện Vương ra thăm Hà Nội.
Vậy ai là Xuân Hương Bà chúa thơ Nôm? Vấn đề đang treo ở đấy thì đến năm 1985, ông Hoàng
Xuân Hãn Trên tạp chí Khoa học xã hội in ở Pháp, với nhiều thư tịch, tư liệu mới tìm ra đã chứng
minh rằng Hồ Xuân Hương - Bà chúa thơ Nôm và Hồ Xuân Hương - tác giả “Lưu hương ký” cùng
với Hồ Xuân Hương có phần mộ ở Hà Nội chỉ là một người. Ông còn cho biết rằng khoảng năm
1818 Hồ Xuân Hương đang làm vợ lẽ của viên quan tham hiệp trấn Yên Quảng (nay là tỉnh Quảng
Ninh), tên là Trần Phúc Hiển. Năm 1819, Phúc Hiển bị triều đình khép án tử hình.
Như vậy tiểu sử của Xuân Hương vẫn còn phải nghiên cứu thêm. Nhưng một điều thường được
thừa nhận là Xuân Hương đã từng lãng du nhiều nơi. Dấu chân bà in dấu lên tận Tuyên Quang, vào
tới Thanh Hóa, ra đến An Quảng, sang cả Ninh Bình và cả Vĩnh Yên, Sơn Tây, Hà Đông. Xuân
Hương lãng du vào thời gian nào khó mà xác định nhưng bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình là chỗ từng
trải của bà.
Người ta không hề chào đón một Xuân Hương nhưng nàng đã đến trong cái xã hội ấy, đến với
một trái tim và một khối óc tuyệt vời, với đôi mắt tinh đời và đặc biệt là với tất cả mọi giác quan
còn nguyên vẻ tinh khôi. Cả cuộc đời nàng không có lấy một ngày hạnh phúc, chưa bao giờ thấy
nàng cười, nàng có cười vả chăng chỉ là cái cười mỉa mai, chua xót. Sinh vào cái thời xã hội rối
loạn, nhố nhăng, phải giãy giụa trong đống tro tàn, làm con một người thiếp, sống cuộc đời làm kiếp
vợ lẽ; ta hiểu vì sao hình ảnh người phụ nữ và tiếng nói của nữ quyền lại in dấu đậm nét trong thơ
bà.
02
SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
Hồ Xuân Hương được coi là “nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc”. Sáng
tác thơ Nôm của Xuân Hương chắc chắn đã thất lạc đi nhiều, thơ Hồ Xuân Hương còn lại đến nay đều do
người đời sau ghi chép, không một tài liệu nào có thể tin cậy hoàn toàn.
Thơ Xuân Hương cũng phức tạp như chính cuộc đời bà.Có thể tạm chia sáng tác của Xuân Hương
thành hai mảng: mảng thơ Nôm theo truyền tụng và “Lưu hương ký”. Thơ Nôm truyền tụng được ghi lại và
xuất bản lần đầu tiên với nhan đề “Xuân Hương thi tập” năm 1913. Từ đó, thơ Hồ Xuân Hương được ghi
chép nhiều. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có
nhiều dị bản. Hiện tượng dân gian hóa là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng không thống nhất
trong nội dung thơ cũng như vấn đề đâu là tác phẩm của Xuân Hương vẫn còn nhiều nghi vấn. Theo Lê Trí
Viễn trong cuốn “Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương”, “tính những bài được nhiều người, nhiều sách công nhận
là của Xuân Hương thì có khoảng 40 bài”, tiêu biểu như: “Mời trầu”, “Dở dang”, “Lấy chồng chung”, “Sư
hổ mang”, “Đèo Ba Dội”, “Quả mít”, “Vịnh cái quạt”, “Thiếu nữ ngủ ngày”,... Hiện nay những thắc mắc về
việc “Lưu hương kỉ” liệu có phải là tác phẩm của Hồ Xuân Hương vẫn còn là câu hỏi lớn của giới nghiên
cứu văn học. “Lưu hương kỉ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964, gom lại được 31 bài thơ và
văn chữ Hán, 28 bài thơ chữ Nôm (một số tài liệu trước đó công bố là 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ Nôm),
gồm các thể 5 chữ, 7 chữ, ca, từ, phú. Đây là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, viết về tâm sự
và những mối tình của mình với những người bạn trai. Đọc kĩ người ta thấy có một khoảng cách khá xa
giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và “Lưu Hương ký”, chủ yếu là về phong cách biểu hiện. Vì lí do trên,
để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn “Lưu hương ký”
được coi là một tập thơ để tham khảo.
Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của nữ sĩ trên báo Văn nghệ viết
về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này
(bao gồm: “Độ Hoa Phong”, “Hải ốc trù”, “Nhãn phóng thanh”, “Trạo ca thanh”, “Thuỷ vân
hương”) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã
hội, tại Paris năm 1984.
Tuy còn nhiều khúc mắc nhưng cũng có thể thấy “Sự nghiệp của Hồ Xuân Hương là ngọn hải
đăng” như lời đề tựa thứ hai của “Tuyển tập Hồ Xuân Hương” bằng tiếng Pháp.
03
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
3.1
Khái niệm hình tượng và hình
tượng trong văn học
“Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức
những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính” . Hình tượng là
phương thức để văn học tái hiện và phản ánh đời sống. Trong văn học, hình tượng nhân vật phải có
sức tập trung khái quát cao. Nhân vật ấy phải có những nét chung nhất của tầng lớp, giai cấp... mà
mình đại diện trong bối cảnh xã hội điển hình của một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất
định.
3.2
Hình tượng người phụ nữ trong
văn học trung đại
Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, cùng với sự xuất hiện của trào lưu nhân
đạo chủ nghĩa, lần đầu tiên hình ảnh người phụ nữ được đề cập đến một cách phổ biến trong nhiều
tác phẩm. Đặng Trần Côn có người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”, Nguyễn Gia Thiều có
người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc”, Nguyễn Du có Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” và
nhiều cô gái khác như Dao Tiên, Quỳnh Thư, Trần Kiều Liên,... của tác giả những truyện Nôm
“Hoa tiên”, “Sơ kinh tân trang”, “Phan Trần”. Đây có lẽ là một bước phát triển mới, táo bạo trong
thời đại còn bị chi phối nặng nề bởi Tống Nho. Tuy nhiên không khó để nhận thấy rằng những nhân
vật phụ nữ này đều xuất thân từ tầng lớp quý phái. Đó là những bà mệnh phụ cao quý trong “Chinh
phụ ngâm”, “Cung oán ngâm khúc”. Cả những cô gái trong truyện Nôm bác học đều bước ra từ
trướng gấm. Người đầu tiên và có thể là duy nhất đưa vào văn học giai đoạn này không phải cô gái
quý tộc, mà đích thực là cô gái bình dân, bình dân từ cốt cách cho tới hình hài là Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương đề cao những người phụ nữ ấy, và nhà thơ nhìn đời cũng bằng con mắt của
những người phụ nữ ấy.
III. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ
NỮ TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN
HƯƠNG
Phụ nữ trong thơ Xuân Hương với
những vẻ đẹp muôn đời của tạo hóa
1. VẺ ĐẸP HÌNH THỨC 3. VẺ ĐẸP TRÍ TUỆ
2. VẺ ĐẸP TÂM HỒN
01
VẺ ĐẸP HÌNH THỨC
Hồ Xuân Hương là nhà thơ của tuổi trẻ, nhà thơ của bản năng, của giác quan nhạy bén, của sức
sống vươn lên, đầy tin tưởng. Tư tưởng chủ đạo của thơ Hồ Xuân Hương – điều mà bấy lâu nay
người ta tranh luận nhiều – là triết lí tự nhiên, triết lí xuất hiện đậm đặc trong văn học dân gian. Một
phần không nhỏ ca dao tục ngữ của ta là tiếng nói bồng bột, sôi nổi của bản năng, đòi hỏi quyền
sống của phụ nữ, chống lại sự áp bức của xã hội; nhiều bài dân ca ca ngợi đời sống vui trẻ, tự do,
chống lại đạo đức tam tòng.
Hồ Xuân Hương, một nhà thơ có một không hai của phụ nữ Việt Nam, tiếp tục truyền thống đấu
tranh của văn học dân gian, đã là người lên tiếng mạnh mẽ nhất bảo vệ quyền tự do của người phụ
nữ. Không phải thơ Hồ Xuân Hương chỉ là tiếng nói cách mạng của người phụ nữ. Không phải thơ
Hồ Xuân Hương là tiếng nói hùng tráng và đầu tiên đòi quyền dân chủ. Thơ Hồ Xuân Hương chủ
yếu là bản trường ca ca ngợi cuộc đời vui tươi, khỏe mạnh chan hòa sức sống, chứa chan tình yêu
đời nồng thắm. Khi nói về thiên nhiên, Xuân Hương thu lại những đường nét, màu sắc của non
sông. Với cuộc sống, Xuân Hương lại làm dậy lên muôn nghìn hình thái, chính là màu sắc, âm
thanh rộn rã, chính là nhan sắc mặn mà, mơn mởn của người thiếu nữ:
“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh”
(Tranh tố nữ)
Những cô gái của Xuân Hương không phải là cô gái yểu điệu kín cổng cao tường, sống trong
lầu son gác tía mà là những bông hoa ngát hương đồng nội. Họ là những cô gái thắt đáy lưng ong,
yếm thắm hoa tiên, tóc bỏ đuôi gà đi dự hội xuân hay đi làm, đi chợ. Họ là những cô gái của cuộc
sống. Họ sống hồn nhiên và tinh nghịch. Họ táo tợn trêu ghẹo cả những anh trai, gọi là mình, là
chồng, là anh trai làm cho họ phải đỏ mặt tía tại. Và cũng mê chơi đến quả giấc nồng:
“Mùa hè hay hay gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng”.
(Thiếu nữ ngủ ngày)
“Thế giới quan, nhân sinh quan của Xuân Hương là một nhãn quan nõn nường, bất cứ cái gì, bất
kể lúc nào và ở đâu, vẫn vang ngân lên chỉ nõn nường”. Cái nõn nường ấy là cái tươi non của tuổi
trẻ:
“Đôi lửa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh”
Cái nõn nường ấy là hình ảnh của những cuộc vui ngày hội, của những sinh hoạt lành mạnh tươi
vui:
“Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”
(Đánh đu)
Và có khi nó táo tợn hiện lên thành hình, thành khối.
“Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông”
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà thơ không có một
chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân trọng. Phụ nữ được người đời nay
tôn vinh là “Phái đẹp”. Cái danh từ “Phái đẹp” ấy tất có nguyên do của nó nhưng trước tiên, quan
trọng hơn là thấy được ý nghĩa của việc miêu tả này. Xét cho cùng văn chương thời xưa cũng chẳng
mấy ai dám táo tợn như Xuân Hương, mang cả cái thân thể con người ta vào thơ ca. Cái mà ta thấy
được trong tư tưởng Hồ Xuân Hương khi miêu tả vẻ đẹp hình thể con người, mà lại là người phụ nữ
dân dã, đó là lòng quý trọng, yêu thương con người, đề cao tự nhiên. Câu tục ngữ cổ mà Marx rất
thích: “Cái gì thuộc về con người đối với tôi đều quý” thật hết sức phủ hợp với quan niệm của Xuân
Hương. Táo bạo như Nguyễn Du mà khi miêu tả cảnh Thúy Kiều tắm cũng còn đầy kiểu cách:
“Buồng the phải buổi thong dong
Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên”
(Truyện Kiều)
Xuân Hương không kiểu cách như vậy, bà không bày biện chi mà sẵn lòng ca ngợi cái cơ thể
đẹp của người phụ nữ ngay giữa “mùa hè hây hẩy gió nồm đông”. Xã hội phong kiến coi cơ thể
người phụ nữ là nguồn gốc của tội lỗi, là tai họa của con người. Cái thứ đạo đức ỉ eo đó nhan nhản
truyền ra từ cung vua phủ chúa – nơi có hàng ngàn cung tần mĩ nữ, ra tới dân gian, tới Xuân Hương
bỗng trở nên vô giá trị. Một người yêu đời ham sống làm sao có thể chấp nhận những lễ giáo trói
buộc con người, trói buộc những gì hồn nhiên nhất, đẹp tươi nhất của đời người! Người phụ nữ trở
thành nhân vật trung tâm trong thơ Hồ Xuân Hương, có khi xuất đầu lộ diện, có khi giấu mặt. Xưa
nay anh hùng thường khó qua ải mĩ nhân. Nếu như Victor Hugo có lí khi cho rằng: “Người ta có
một tôn giáo thứ hai là tình yêu, và Chúa của đạo ấy chính là người phụ nữ”, thì phải chăng Hồ
Xuân Hương không có lí với những bài thơ đề cao phụ nữ?
Đối với Xuân Hương, cái cơ thể đẹp là niềm tự hào, giống như người ta tự hào về tài năng, về
tuổi trẻ của mình. Thiên nhiên trong thơ Xuân Hương do vậy mà cũng cựa quậy, nổi loạn để thay bà
phá tung cái trật tự xã hội giả dối, nhợt nhạt, nghèo nàn và phô bày cái đẹp của cơ thể phồn thực nữ
giới qua hình hài núi non, cây cỏ, hang động...
“Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt,
Khối tình cọ mãi với non sông.”
(Đá ông chồng bà chồng)
Vì thành kiến mà xã hội phụ quyền đã chèn ép phụ nữ để phục vụ cho những lợi ích của nam
giới. Phụ nữ nếu không mang cốt cách cao quý thì cũng là con người của đức hạnh và bổn phận. Tất
cả đã được an bài. Nhưng mọi chuyện đã khác khi bước vào thế giới quan Xuân Hương: “Sáng
mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào”. Thiếu nữ với mùa xuân – cái
đẹp cuộc sống, biểu tượng của cái đẹp muôn đời. Hình ảnh người thiếu nữ không phải là hình ảnh
của một nội tưởng trong gia đình, mà là hình ảnh người chủ thực sự của đất trời, của tự nhiên, của
vũ trụ. Nhà thơ giữ cho mình nguyên vẹn cặp mắt trong veo để nhìn người, nhìn đời, để thấy hết vẻ
đẹp của người phụ nữ mà xã hội khó lòng thừa nhận. Cũng vì thế mà thơ Xuân Hương có giá trị
nhân đạo sâu sắc.
02
VẺ ĐẸP TÂM HỒN
Phụ nữ Việt Nam, nhất là những người phụ nữ trong ca dao, dân ca cũng như trong thơ Xuân
Hương mang một vẻ đẹp chân quê, giản dị và đáng yêu. Ở họ không phải lúc nào cũng là liễu yếu
đào tơ, là cái bóng của người đàn ông mà luôn tiềm ẩn một sức mạnh chẳng kém gì nam giới. Họ là
một nửa của nhân loại. Phụ nữ Việt Nam từ nghìn năm trước còn lưu danh thiên cổ với Bà Trưng,
Bà Triệu trong tiếng cồng, tiếng trống ra quân, trong lòng yêu nước nồng nàn:
“Ai ơi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tưởng cưỡi voi đánh cồng”.
(Ca dao)
Đến Xuân Hương, tiếp xúc với những nhân vật nữ trong thơ Xuân Hương, ta không chỉ thấy
được sức sống ngồn ngộn nơi những “tòa thiên nhiên” ấy mà còn thấy những tấm lòng đẹp, nồng
hậu:
“Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dày”
(Quả mít)
Hồ Xuân Hương đã học được từ dân gian những phẩm chất tốt đẹp được hun đúc qua bao đời.
Những người phụ nữ trong thơ Xuân Hương mang trong mình một đức tính vô cùng quý báu: lòng
yêu đời và ham sống. Và những người phụ nữ cũng với đức tính ấy đã biểu lộ bằng lòng yêu sự
sống, bằng những ước ao hạnh phúc. Đôi lúc nó là sự đùa cợt ngạo nghễ, có khi là sự bền bỉ “thân
này đâu đã chịu già tom”, nuôi dưỡng trong mình những mầm sống – những hi vọng của tương lai
trong cuộc đời đầy nước mắt:
“Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh”
(Tự tình 3)
Đó cũng là tiếng cười đùa, là nỗi lòng của bao cô gái dân gian:
“Bao giờ lão móm chầu trời
Thì em lại lấy một người trai tơ”
(Ca dao)
Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu... nhưng trong sâu
thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn ngời lên lòng yêu cuộc sống đến nồng hậu, quấn
quýt. Và Xuân Hương đã “kêu to lên nhu cầu về quyền sống cá nhân, quyền hưởng hạnh phúc cá
nhân như một quyền tự nhiên”. Bàn đến khát vọng tình yêu hạnh phúc trần tục, Nguyễn Lộc đã cho
rằng: “Nhu cầu về cuộc sống bản năng cũng là một nhu cầu chính đáng của con người... Hồ Xuân
Hương nói nhiều đến dục vọng thể xác, nhưng bà thể hiện những dục vọng ấy trong sáng tác một
cách lành mạnh, khỏe khoắn”. Đến với thơ Hồ Xuân Hương là ta đã đến với những tình cảm yêu
đời tha thiết. Đó là ước ao về một cuộc sống hạnh phúc: “Có phải duyên nhau thì thắm lại” (Mời
trầu). Đó là vẻ đẹp của những tâm hồn yêu đời, khát sống – một cuộc sống với những hạnh phúc
chân chính. M. Gorki đã có nhận xét thật hay: “Đời không mẹ hiền, không phụ nữ - Anh hùng thi sĩ
hỏi còn đâu”. Vì dân tộc ta đã lớn lên như thế, trong tiếng ru của những người mẹ dân gian giàu
nghị lực, giàu lòng yêu thương và giàu niềm tin vào sự sống. Tấm lòng Xuân Hương đồng điệu
cùng tinh thần nhân đạo của tiếng nói dân gian. Hắn cũng vì thế nên bà đã cùng nhân dân đứng lên
bênh vực cho những kiếp người đau khổ:
“Cả nể cho nên hóa dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng
chàng”
(Chửa hoang)
Để rồi mới dịu dàng:
“Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có, mới
ngoan”.
(Chửa hoang)
Đứng ra bênh vực cho những người con gái dở dang ấy, dám ngang nhiên thừa nhận những quy
tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng
ấm của một tâm hồn nghệ sĩ, một con người giàu lòng cảm thông.
Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi họ, tìm thấy vẻ
đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh, hẩm hiu của
người phụ nữ như chiếc bánh trôi “bảy nổi ba chim”; hay quả mít “xù xì”; con ốc nhồi “đêm ngày
lăn lóc đám cỏ hồi”... Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi nó dày” cũng như vẻ đẹp tiềm ẩn bên
trong, cái đẹp tâm hồn của người phụ nữ.
Trong bài “Bánh trôi nước”, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của
người phụ nữ. Dù bị nhào nặn bởi xã hội phụ quyền nhưng dù “rắn”, “nát”, dù trong hoàn cảnh nào
họ vẫn ngời sáng một tấm lòng son:
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà en vẫn giữ tấm lòng son”
(Bánh trôi nước)
Mặc dù số phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời nhưng họ đành
cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng thủy chung, son sắt.
Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu bền chặt, nồng cháy.
Nàng cũng muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình yêu nồng thắm từ người bạn đời tri âm tri kỉ,
đón những hương sắc của cuộc đời. Xuân Hương hồi hộp chờ đợi. Nhưng rồi năm tháng trôi qua,
những mùa xuân đi không trở lại, nhà thơ dần dần nhận ra cái bạc bẽo của con người và cuộc đời,
cái hẩm hiu của số phận.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
(Tự tình 2)
“Câu thơ nhân hậu của hờn dỗi, duyên dáng mà có cái gì như đanh đá, thách thức” vậy.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
(Tự tình II)
03
VẺ ĐẸP TRÍ TUỆ
Con người cá nhân trong văn học chính là sự phản ánh cái tôi, là sự giãi bày, diễn tả thế giới tư
tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nói cách khác, con người cá nhân trong văn học chính là sự tự
khắc họa tâm tư, tình cảm, ý chí của tác giả được thể hiện thông qua những tác phẩm mà họ sáng
tác. Tùy theo từng giai đoạn, thời kỳ văn học, mà con người cá nhân có những đặc điểm khác nhau.
Dường như không phải ý thức mà đã trở thành tiềm thức con người cá nhân - Hồ Xuân Hương có
một lòng tin mãnh liệt vào tài trí và khả năng sáng tạo của người phụ nữ. Xuân Hương là người phụ
nữ đầu tiên dám cất lên tiếng nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng
được khẳng định mình:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Cái ước vọng ấy là của một người luôn ý thức được giá trị của mình, luôn có những cái vỗ ngực
tự xưng đầy thách thức:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hội
Này của Xuân Hương đã quệt rồi”
(Mời trầu)
Hay như:
“Tài tử văn nhân ai đó tả
Thân này đâu đã chịu già tom”
(Tự tình 1)
Như đã biết, “Khổng giáo chủ trương nam tôn nữ ti, trọng nam khinh nữ, lại vun đắp thêm
quyền uy của gia trưởng mà đè nên địa vị của đàn bà”. Nền văn học của chế độ phong kiến Việt
Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Khổng giáo nên các truyền thống về giá trị và chuẩn
mực văn hóa đều được đặt ra để phục vụ cho phải nam. Nền văn học đó đồng thời cũng được dùng
để khuyến dụ và cưỡng chế đàn bà phải chấp nhận vai trò thua kém đàn ông vì trời đã đặt định như
vậy. Xuân Hương không bao giờ có mặc cảm phụ nữ phải thua đàn ông. Đối với Xuân Hương, mọi
chuyện dường như ngược lại.
Bên cạnh những “Quả mít”, “Cái giếng”. “Dệt cửi”.... Chúng ta không thể quên giá trị nhiều mặt của những bài
thơ lâu nay vẫn được coi là của Hồ Xuân Hương. Nếu những bài đấu tranh cho phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
quả là của Hồ Xuân Hương thì có thể nói thi sĩ là người phụ nữ đầu tiên trong văn học viết đã dũng cảm lên tiếng
đòi hỏi giải phóng phụ nữ, chống lại những áp bức ràng buộc của ý thức hệ phong kiến một cách khá quyết liệt và
với một tư thể ngang tàng. Nghệ thuật thi ca mang bản chất hồn nhiên. Nhưng ở mỗi thời đại, mỗi tầng lớp tác giả,
phẩm chất này lại thể hiện ở những mức độ khác nhau. Và trong thơ trữ tình chính thống Việt Nam, đỉnh cao của
tinh hồn nhiên dường như rõ ràng đã thuộc về “bà chúa thơ Nôm”. Tính hồn nhiên trong thơ bà bắt nguồn từ tư
tưởng tự do, tự do phá bỏ mọi giáo lí và những quan niệm đạo đức bỏ buộc người phụ nữ. Đôi mắt của những cô
tóc bỏ đuôi gà, yếm thắm hoa đào ngày nào trẩy hội mới thật tinh tường, sắc sảo và nghịch ngợm. Với những con
mắt tinh ranh kia, họ đi ngang qua đền Sầm Nghi Đống cũng chỉ “ghé mắt trông ngang”. Lại còn trêu chọc cả hiền
nhân quân tử, chế giễu cả sư sãi và đối với những bậc chí tôn thì táo tợn, hạ bệ thẳng thừng: “Chúa dấu vua yêu một
cái này” (Vịnh cái quạt). Chính sự tự do về tư tưởng đã khiến cho tư duy thơ Xuân Hương mang đậm tính hồn
nhiên, tự do như trên.
Trong thơ Hồ Xuân Hương, khát vọng tình yêu luôn luôn đi kèm với khát vọng cuộc sống bản năng. Thơ bà
không ngần ngại khi nói đến những nhu cầu, tâm sự, hạnh phúc ái ân trong đời sống tình cảm của con người. Bà
văng tục vào cái kiếp sống làm lẽ:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng”
(Lấy chồng chung)
Đó là nghịch lí không thể chấp nhận được nên cần phải chấm dứt, cần phải “loại bỏ” (chém) cho
bằng được. Với Xuân Hương con người phải sống đúng chất người. Đó là sự hài hòa giữa đời sống
tinh thần và đời sống bản năng.
Trong xã hội cũ, có lẽ các thầy khóa rất mực được kính trọng bởi họ nghĩ: mình là người hiểu
biết, lại theo đạo thánh hiền. Ăn sâu trong tiềm thức xã hội, tư tưởng ấy khiến cả những kẻ chẳng
hiểu và biết gì cũng được người ta dành cho chữ kính nốt. Nhưng khoa cử thời Xuân Hương đã trở
thành một cái tệ. Ngay những môn đồ của của Khổng sân Trình như Phạm Đình Hổ cũng phải kêu
lên: “Ôi các tệ khoa cử đến thế là cùng, văn vận với thế đạo ngày càng kém, thực đáng thương
thay” (Vũ trung tùy bút). Với Xuân Hương, nàng biết rất rõ, rõ mình và rõ cả cái đám “ngẫn ngơ”
ấy:
“Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ”
(Mắng học trò dốt)
Thật là “Những chữ tức chết người ta! Những chữ thần tình gắn liền với tinh thần Việt Nam
đến nỗi không tài nào dịch được” (Xuân Diệu). Hạ một chữ “lũ” khinh thị xô bồ, lại thêm cái tuồng
“ngẩn ngơ” thật là bị Xuân Hương cho một đòn roi nhức buốt lắm thay! Về tài, Xuân Hương quả
đã ăn đứt bao nhiêu “phường lòi tói” không tự biết mình nhan nhản trong xã hội.
Với cách xưng hô trịnh thương, thái độ Xuân Hương không phải của người ngang hàng đứng
chê bai, phê phán mà trước sau vẫn đứng ở vị trí cao hơn, vị trí mà bọn phong kiến ngay trong
tưởng tượng cũng không thể có.
Chế độ phong kiến gắn với cái ách nam quyền trong bản chất. Và vì thế, mang thần phận thấp
kém, không được học hành nên phụ nữ cũng bị coi là không biết gì. Trong những câu nói thường
nhật, trong những khi hội họp bàn bạc trong nhà thường chỉ có nam giỏi tham gia, chẳng may có bà
có cô nào nói chen vào là ngay lập tức bị người ta xua đuổi với cái câu muôn thuở: “Đàn bà con gái
biết gì!”.
Trong những giai thoại thơ về người bạn tri kỉ của Xuân Hương: Chiêu Hổ, ta lại thấy được cái
vẻ tinh nghịch trong thơ bà. Tuy rằng là phụ nữ nhưng Xuân Hương cũng chẳng chịu lép vế Chiêu
Hồ bao giờ:
“Anh đồ tỉnh, anh đồ say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này, chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hùm chớ mò tay!”
Lời trách cử của Xuân Hương cũng thiệt là tải đầu kém gì các cụ đồ xưa:
“Sao nói rằng năm lại có ba?
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhớ hái cho xin nắm lá đa”.
(Trách Chiêu Hổ)
Thế mới biết hiền nhân quân tử cũng “nói dối như Cuội” vậy! Và ta thấy rõ ràng rằng tác giả của những vần thơ
kia đã chống lại cái tư tưởng “nam tôn nữ ti” bằng những cái nhìn xách mé, vui nhộn, ngang tàng như mang cả tiếng
cười của những cô gái dân gian:
“Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về, sự ốm tương tư
Ốm lăn ốm lốc nên sư trọc đầu
Ai làm cho dạ sư sầu
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây” (Ca dao)
Tiếng cười trong thơ Xuân Hương vừa hài hước châm biếm vừa trữ tình triết lí, ngang nhiên công kích những
bọn đạo đức giả, hủ Nho và thách thức chế độ phụ quyền:
“Nào nón tu lờ, nào mũ thâm
Đi đâu không đội để ong châm
Đầu sư hả phải gì... bà cốt
Bá ngọ con ong, bé cái nhầm” (Sư bị ong châm)
Hay hạ bệ cả đẳng đế vương:
“Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này”
(Vịnh cái quạt)
Đọc thơ Xuân Hương, ta không chỉ thấy được cái tinh thần dân tộc, sự gần gũi trong những
“quả mít, cái quạt, củ ấu, con ốc nhồi”, những sự vật gắn liền với cảnh quê, với làng quê Việt Nam.
Hồn thơ Xuân Hương quyện chặt cùng tâm hồn thời đại, trong lòng yêu nước giản dị mà nồng nàn,
trong cái nhìn lạc quan yêu đời, lòng nhân đạo và trong cả ý thức về thân phận con người cùng tinh
thần dân chủ mạnh mẽ:
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo”.
(Đề đền Sầm Nghi Đồng)
Theo các nhà xã hội học thì trong xã hội đầu tiên của con người – xã hội thượng cổ, người
thượng cổ đẻ ra theo họ mẹ và chỉ biết có mẹ thôi. Cái quyền trong gia đình là thuộc về đàn bà, về
người làm mẹ, gọi là “Mẫu quyền gia đình”. Như vậy cũng đủ để biết rằng những thuyết “nam tôn
nữ ti”, cái thói “trọng nam khinh nữ” là do về sau đàn ông ỷ mạnh ăn hiếp đàn bà mà bày đặt ra,
chứ vốn không phải là luật tự nhiên, và loài người lúc ban đầu cũng không hề như vậy. Cho nên
thi sĩ mới ngán ngẩm mà hạ một câu:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đồng)
Đặt mình giữa cuộc đời, chuyện vị trí xã hội của nhi nữ và mày râu mà cân đong. Xuân Hương
đã lồng cái coi thường tên tướng giặc trong cái chẳng chịu thua đàn ông. Xuân Hương nói “phận
gái” chứ không phải “thân gái”. Đem cái “phận gái”, cái phận “rúc không khỏi ba ông táo” nếu đổi
thành cái phận được trọng của “phận làm trai” Xuân Hương hẳn sẽ làm được những việc anh hùng
chứ không phải cái “sự anh hùng” ô danh như tên tướng giặc!
IV. TƯ TƯỞNG NHÂN ĐẠO VÀ
HỒN THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
A. Tư tưởng và hồn thơ của “Bà
chúa thơ Nôm”
B. Nghệ thuật đặc sắc trong thơ
Hồ Xuân Hương
A
Tư tưởng và hồn thơ của “Bà
chúa thơ Nôm”
01
Xuân Hương và nỗi niềm đồng cảm
trước những kiếp hồng nhan
Từ cuộc đời và trải nghiệm thực tế của chính mình, Hồ Xuân
Hương đưa vào thơ bà niềm cảm thông sâu sắc.
1.1
Người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất
hạnh
Người ta thường nói “hồng nhan đa truân”. Cuộc đời Xuân Hương – cuộc đời in dấu trong thơ
bà là điển hình cho một kiếp “nổi nênh” của số “má đào”. Những người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân
Hương, họ là những người phụ nữ tài sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận bi đát, bé nhỏ trong xã
hội:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi, ba chìm với nước non”
(Bánh trôi nước)
Hai chữ “thân em” sao mà xót xa, cơ cực. Toàn bộ xã hội trung đại được nhìn nhận trong một hệ
thống tôn giáo đạo đức. Cho nên, con người luôn được nhìn nhận ở phương diện đạo đức luân lí.
Vì thế, văn chương xưa chia xã hội thành hai tuyến: thiện - ác, tốt – xấu với mục đích, chức năng
nổi bật là giáo huấn. Chính vì vậy, con người sống theo luận lí đạo đức, theo lí trí thì được coi là
chân chính; còn những người sống theo xúc cảm, theo những luân lí trần thế, nhân bản thì bị coi
thường, chê trách.
Vì vậy mà phụ nữ sinh ra đã được dạy phải làm đầy tớ cho chồng, phải chiều cả lòng thiên hạ:
“Con đừng học thói chua ngoa
Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười
Dầu no dầu đói cho tươi
Khoan ăn bớt ngủ liệu bài lo toan
Phòng khi đóng góp việc làng
Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng”
(Ca dao)
Tuy người phụ nữ có lòng yêu cuộc sống nhiệt thành, muốn níu kéo hạnh phúc về mình mà bất
lực:
“Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công”
(Lấy chồng chung)
Bản thân Xuân Hương cũng bị cái lễ giáo khắc nghiệt ấy cuốn chặt lấy
nên bà không chỉ nói về nỗi khổ của mình mà còn nói thay cho những người
đàn bà chung cảnh ngộ. Xuân Hương đã nói một cách trần trụi nhất, với cái
mạnh mẽ của sự phản kháng và gắn chặt đời minh cùng với số phận của
những người phụ nữ nói chung trong xã hội cũ. Ý thức sâu sắc về thân phận
nên mỗi lời thơ Xuân Hương cũng như những tiếng “oán hận”, căm hờn của
những bà, những mẹ, những chị:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Lấy chồng chung)
1.2
Người phụ nữ với nỗi đau trong đường
tinh duyên
Người phụ nữ không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống mà còn đau khổ trong đường
tình duyên.
Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên, hai lần làm lẽ nhưng cả hai lần đều ngắn
ngủi nên Xuân Hương rất hiểu và đồng cảm với phận của những người phụ nữ kém may mắn. Đó
là nỗi khổ của người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa, người phụ nữ chết
chồng... Điều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáo gay gắt, quyết liệt xã hội phong kiến thổi
nát, mục ruỗng mà ít ai dám lên tiếng. Hồ Xuân Hương đã chỉ rõ cho chúng ta thấy thân phận khổ
nhục của người làm lẽ, “năm thì mười họa” mới được gần chồng. Họ là thứ “làm mướn không
công” và để thỏa ham muốn nhục dục của bọn nhà giàu:
“Năm thì mười họa hay chăng chở.
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hầm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công”
(Lấy chồng chung)
Nhà thơ nói về thân phận của người phụ nữ làm lẽ đồng thời đó cũng là cảnh ngộ riêng của cuộc đời
mình. Nhưng điều đáng nói là bà dám chống lại những quan niệm giáo lí đang thịnh hành đương thời, dám
nói lên những khát vọng của mình. Bà ngang nhiên ca ngợi người phụ nữ “cả nề” trong tình yêu, dám dũng
cảm, bao dung chấp nhận sự dở dang của tình yêu: “Mảnh tình một khối thiếp xin mang”. Ai cũng biết, cuộc
đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là
phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của
phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng
ra gì của mình; vì vậy, thơ Xuân Hương luôn là tiếng kêu xé lòng. Không chỉ cảm thông với thân phận của
người làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chưa mà Hồ Xuân Hương còn muốn dỗ họ, muốn an ủi họ,
muốn dịu dàng đùa với họ, để cho họ khuây khỏa nỗi đau và dìu họ trở lại với cuộc sống bình thường:
“Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông”
(Dỗ người đàn bà khóc chồng)
Lúc thì đùa nghịch nhưng rất thân tình:
“Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên mới khóc tì ti...”
(Bỡn bà lang khóc chồng)
Hồ Xuân Hương đã trở thành một nhà thơ chống đối phong kiến quyết liệt, một con người đả
kích gay gắt những kẻ đại diện cho giai cấp phong kiến thống trị cùng những gì chà đạp con người.
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”
(Tự tình 2)
Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thưở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm
hiu trong số phận, trong tình duyên, tình duyên đã ít lại còn phải chia ba sẻ bảy nữa. Đọc thơ bà,
người đọc có cảm giác người phụ nữ gần như chưa một lần được bén mùi hạnh phúc.
02
Tiếng nói phê phán, đã kích giai cấp
phong kiến thống trị
Trong tác phẩm trữ tình, dù là cảm xúc ngợi ca, lên án, tố cáo hay sầu buồn thì đối tượng trung
tâm mà tác phẩm hướng tới vẫn là hình ảnh con người. Thơ ca cũng như nghệ thuật, luôn vươn tới
cái đẹp, tới những giá trị vững bền. Và ta nhận thấy rằng khi đặt cái đẹp trong những tương quan
với những mặt đối lập thì cái đẹp càng rực rỡ, tỏa sáng. Vì vậy mà tiếng nói phê phán, đả kích giai
cấp thống trị cũng là một cách ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ vậy.
“Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học
dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy: những tiếng than và những
tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay”. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ,
phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách
là người phụ nữ nói chung, họ còn bị áp bức về mặt giới tính với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ
cũng không lặng câm mà chịu đau khổ, họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi. Nhưng nhìn chung, tiếng
nói ấy chỉ là nững tiếng kêu thương thất vọng. “Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói
bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn với tiếng nói của nhân dân lao động.
Tiếng nói đã kích, tố cáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống văn học
dân tộc, cũng như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm”. Mặc dù bị trói buộc trong những
quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu... nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn
luôn vùng lên để đòi bình quyền để muốn nói rằng: họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội
là rất lớn.
Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vua khi vua không ra vua nữa. Riêng Hồ Xuân Hương với thân
phận nữ nhi, chắc bà không có ý định chống vua, mà chỉ mắng nhẹ mà đau vô kể:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu yêu vua một cái này
(Vịnh cái Quạt)
Nếu đối với chúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bọn quan thị, nữ sĩ đã giơ cao
đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng. Đứng trước cái dị hợm, quái gở ấy, bà văng tục, bà chửi
đổng, cười mỉa:
Đố ai biết đó vông hay chốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
(Vô âm nữ)
Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ chịu nhiều nhất là bọn “hiền nhân quân
tử”, bọn mô phạm phong kiến. Đối với “quân tử”, Xuân Hương không chỉ chôn chân chúng trước bức tranh
thiếu nữ ngủ ngày, mà còn bắt chúng “mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” lên đèo Ba Dội.
Bên cạnh những “hiền nhân quân tử” là đám nho sĩ dốt nát lại còn huênh hoang. Xuân Hương gọi chúng
là “phường lòi tói”, là “lũ ngẩn ngơ”, xưng chị và đòi dạy chúng làm thơ:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
(Mắng học trò dốt)
Sự dâm đãng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn thờ phật:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
(Chế sư)
Không những thế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua:
Khen thay con tạo khéo khôn phàm
(Hang Thánh Hóa)
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
(hang Cắc Cớ)
Qua thơ Xuân Hương ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế giễu, đả kích. Bà dùng
tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai cấp thống trị để từ đó đả
kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Nhưng thơ Xuân Hương đâu chỉ biết cười, mà đọc thơ bà
ta nghe như có tiếng nấc bên trong. Tôi muốn lấy ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu thay cho lời kết
của mình: “những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng cả lời nói,
họ ném trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại.
Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó thôi”.
B
Nghệ thuật đặc sắc trong thơ Hồ
Xuân Hương
01
Sử dụng từ ngữ tinh tế, độc đáo, chính xác
Đọc lại thơ Nôm Hồ Xuân Hương, ta thấy
cần nói thêm đôi lời về cách biểu đạt âm thanh
trong thơ chữ Nôm của nữ thi sĩ họ Hồ. Nó thể
hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo có một
không hai của một nhà thơ Việt Nam được
yêu mến nhất từ trước đến nay.
Âm thanh và vần điệu vốn là một trong
những thủ pháp cơ bản để các nhà thơ tạo ra
thần thái, cũng như sự hấp dẫn, quyến rũ cho
thơ. Nó mang cho người đọc vẻ đẹp của ngôn
ngữ, hình ảnh thơ thông qua những xúc cảm
âm thanh, nhịp điệu. Tuy vậy, mỗi nhà thơ đều
có cách biểu đạt âm thanh riêng, thể hiện
phong cách và bản sắc sáng tạo.
Thi sĩ họ Hồ đã cho người đọc tahays
được điều này qua tác phẩm Tự tình 2 của
mình:
Ở bài thơ trên, tác giả đã vận dụng sáng tạo thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật với ngôn ngữ
tiếng Việt nhưng không làm mất đi giá trị của thể thơ mà trái lại nó còn mang đến cho thể thơ cổ
điển ấy một vẻ đẹp mới, gần gũi, thân thuộc hơn với người Việt. Xuân Hương sử dụng từ ngữ giản
dị mà đặc sắc với những động từ mạnh (xiên ngang mặt đất/ đâm toạc chân mây), từ láy tượng
thanh đã thể hiện khao khát đến cháy bỏng và sự nổi loạn trong tâm hồn của bà. Đồng thời, việc sử
dụng những hình ảnh giàu sức gợi (trăng khuyết chưa tròn, rêu từng đám, đá mấy hòn,...) đã diễn tả
các cung bậc cảm xúc, sự tinh tế, phong phú trong tâm trạng của người phụ nữ khi nghĩ đến thân
phận của mình.
Âm thanh của đời sống sinh động muôn vẻ thường được vang vọng trực tiếp vào từng câu thơ
của bà. Tôi tạm gọi đây là những âm thanh “nguyên thủy” được nhà thơ chắt lọc từ đời sống, từ
thiên nhiên, vũ trụ. Đa số các nhà thơ tránh lối diễn tả trực tiếp này mà nó thường được thăng hoa,
biến tấu qua bàn tay của những “phù thủy ngôn ngữ”. Những âm thanh này thường được các nhà
thơ cho khúc xạ, ẩn nấp trong tâm trạng và xúc cảm, hoặc đi kèm với những hình ảnh, thán từ, thán
ngữ… Với thơ Hồ Xuân Hương, thi sĩ thường dẫn bạn đọc đi lối tắt. Ta hãy nghe âm thanh của
tiếng mõ và tiếng chuông bất ngờ vang lên trong bài thơ “Tự tình” của bà: “Mõ thảm không khua
mà cũng cốc/Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”. Tiếng “cốc” và “om” quả thật rất tài tình và bất
ngờ. Nhất là tiếng “cốc” đã làm người đọc giật mình, phá vỡ quy luật của cảm xúc, mà vang lên
đột ngột, lạ lẫm, đầy thách thức. Điều kỳ lạ ở đây là tiếng “cốc” lại vọng ra từ “mõ thảm”, mà
trước đó không ai động vào chiếc mõ đó.
02
Đưa nét dân gian vào thơ
Hồ Xuân Hương đã vận dụng tối đa cách nói dân gian, dân dã, để tạo nên những câu thơ sinh
động mà mang hàm nghĩa mới cho những từ tượng thanh: “Thương chồng nên phải khóc tì ti”
(Khóc chồng làm thuốc), “Gió vật sườn non kêu lắc rắc/Sóng dồn mặt nước vỗ long bong” (Núi
Kẽm Trống)…
Hệ thống các từ láy tượng thanh mang đậm chất Việt Nam trong thơ Hồ Xuân Hương như “rúc
rích”, “phập phòm”, “lõm bõm”, “lắc rắc”, “long bong”… cho thấy, chúng được phát ra trong tâm
thế một kẻ du ca, luôn có ý thức phá vỡ cái nghiêm trang, giả tạo chốn cung đình, khuê các, mà
hồn nhiên ăn nằm, cười khóc với nhân gian lấm láp, nhọc nhằn. Qua cách sử dụng từ ngữ nêu trên,
nhà thơ cũng cho ta thấy cái tâm trạng, tâm thế của người viết thật trẻ trung, hóm hỉnh và tinh
nghịch.
Có một số câu thơ của Hồ Xuân Hương không nằm trong hệ thống các từ tượng thanh, nhưng
khi đọc lên ta lại thấy vang vọng những âm thanh được phát ra từ những hình ảnh táo bạo, lạ lùng:
“Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện/Trống mang dùi cắp đã phanh phanh” (Duyên kỳ ngộ).
Nghệ thuật sử dụng âm thanh trong thơ ca vốn mang đặc trưng vùng miền, rộng hơn là trong
phạm vi cộng đồng, dân tộc. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn những từ tượng thanh trong tiếng
Việt đều có hình thức láy, thí dụ: oa oa, oe oe, ti tỉ, oai oái, chí chóe… Nhưng trong thơ Hồ Xuân
Hương, ngoài những từ láy, ta thấy tác giả còn dùng từ đơn âm tượng thanh rất độc đáo, như
“cốc”, “om”, “phòm”…
Trong thơ Hồ Xuân Hương, việc sử dụng từ nói trên bắt nguồn từ ngôn ngữ dân gian, phong
tục, văn hóa Bắc Bộ. Cái vỏ vật chất âm thanh của thơ bà luôn ăn khớp, hòa quyện với nội dung ý
nghĩa của văn bản và càng làm gia tăng biểu nghĩa trong tiếng Việt, vốn là một ngôn ngữ đa âm
sắc và giàu khả năng biểu cảm. Cách biểu đạt âm thanh trong thơ chữ Nôm của Hồ Xuân Hương
thêm một lần nữa cho chúng ta thấy tài năng, bản lĩnh của “Bà Chúa thơ Nôm”.
V
TỔNG KẾT
Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể mà họ còn là
những con người có đầy tài năng.
Tiếng thơ Xuân Hương là tiếng thơ của một người phụ nữ tài hoa, cá tính nhưng phải chịu sự gò
bó của lễ giáo phong kiến khắt khe, kìm kẹp cuộc sống. Bao khao khát, bao nguồn sống mãnh liệt
không được bộc lộ trong cuộc sống được bà gởi gắm cả vào trong thơ. Thơ Xuân Hương là những
nỗi niềm không chỉ của riêng tác giả mà của tất cả những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong
kiến.Cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức phức tạp, còn nhiều điều chưa rõ.
Dẫu sao ta cũng tự hào vì trong văn học Việt Nam có một nữ thi sĩ đầy tài năng lại xuất hiện trong
một xã hội mục ruỗng.
Ai cũng biết, cuộc đời đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu
đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê
riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh
nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói
lên những tiếng nói chia sẻ với họ.
Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám cất lên tiếng nói khẳng
định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng định mình. Và cao hơn hết
chính là tư tưởng nhân đạo trong thơ Xuân Hương đem lại cho đến nay vẫn còn giá trị.
Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chưa có tầm nhìn xa để
thấy hết những đau khổ và khát vọng của con người, song Hồ Xuân Hương cũng đã đóng góp cho
nền thơ ca dân tộc một tiếng thơ hết sức độc đáo. Thơ bà là thứ thơ giải phóng cá tính, dám khẳng
định cá tính và bản lĩnh riêng. Bà là nhà thơ đầu tiên dám đưa cá tính vào trong thơ. Chính cá tính
ấy đã giúp cho tiếng thơ của bà khi nói về người phụ nữ có một sắc thái riêng, hoàn toàn khác với
những nhà thơ viết về phụ nữ trước đó và cả sau này. Hình tượng người phụ nữ trong thơ Xuân
Hương luôn ngẩng cao ở tư thế hiên ngang, đầy bản lĩnh và bà không chìm vào khóc thương cho số
phận của họ.
Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ nữ. Nhưng có
những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của người phụ nữ và đâu đó xung quanh ta vẫn
còn nhiều mảnh đời chị em bất hạnh. Vì vậy, mà thơ Xuân Hương vẫn còn vẹn nguyên giá trị và
sức sống. Đọc thơ Xuân Hương, không chỉ là để đồng cảm, để sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm,
suy ngẫm. Thơ của bà sẽ chảy mãi với nguồn cội văn học Việt Nam, là nguồn cảm hứng cho biết
bao người, là nền móng của nhiều tác phẩm nghệ thuật ngày nay…..
“Phận duyên be bé cơi trầu buồng cau
Hẹn thề bên nhau đến khi bạc đầu
Tròn lăn lông lốc trên dòng tình duyên
Chuyện hợp hay tan còn chăng hồng nhan?
Thuyền tình em đi có chăng vội vàng
Chuyện tình em trôi ghềnh thác ngược xuôi
Đêm khuya thanh vắng
Trống canh dồn trong đêm đen
Tim em đã hát mối duyên tình con con
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Phải duyên ta lại thắm nồng cùng nhau
Đừng xanh như lá, bạc như là vôi
Thuyền tình em đi có chăng vội vàng
Chuyện tình em trôi ghềnh thác ngược xuôi
Đêm khuya thanh vắng
Trống canh dồn trong đêm đen
Tim em đã hát mối duyên tình con con”
(Mời trầu – Masew, Tuấn Cry)
Instructions for use
In order to use this template, you must credit Slidesgo by keeping the Thanks slide.
You are allowed to:
- Modify this template.
- Use it for both personal and commercial projects.
You are not allowed to:
- Sublicense, sell or rent any of Slidesgo Content (or a modified version of Slidesgo Content).
- Distribute Slidesgo Content unless it has been expressly authorized by Slidesgo.
- Include Slidesgo Content in an online or offline database or file.
- Offer Slidesgo templates (or modified versions of Slidesgo templates) for download.
- Acquire the copyright of Slidesgo Content.
For more information about editing slides, please read our FAQs or visit Slidesgo School:
https://slidesgo.com/faqs and https://slidesgo.com/slidesgo-school
As a Premium user, you can use this template without attributing Slidesgo or keeping the "Thanks" slide.
You are allowed to:
● Modify this template.
● Use it for both personal and commercial purposes.
● Hide or delete the “Thanks” slide and the mention to Slidesgo in the credits.
● Share this template in an editable format with people who are not part of your team.
You are not allowed to:
● Sublicense, sell or rent this Slidesgo Template (or a modified version of this Slidesgo Template).
● Distribute this Slidesgo Template (or a modified version of this Slidesgo Template) or include it in a database or in
any other product or service that offers downloadable images, icons or presentations that may be subject to
distribution or resale.
● Use any of the elements that are part of this Slidesgo Template in an isolated and separated way from this
Template.
● Register any of the elements that are part of this template as a trademark or logo, or register it as a work in an
intellectual property registry or similar.
For more information about editing slides, please read our FAQs or visit Slidesgo School:
https://slidesgo.com/faqs and https://slidesgo.com/slidesgo-school
Instructions for use (premium users)
Fonts & colors used
This presentation has been made using the following fonts:
Concert One
(https://fonts.google.com/specimen/Concert+One)
Roboto Mono
(https://fonts.google.com/specimen/Roboto+Mono)
#f1c232 #b44141 #df7070
#a8d68c #7a9e64 #595959
Storyset
Create your Story with our illustrated concepts. Choose the style you like the most, edit its colors, pick
the background and layers you want to show and bring them to life with the animator panel! It will boost
your presentation. Check out How it works.
Pana Amico Bro Rafiki Cuate
Use our editable graphic resources...
You can easily resize these resources without losing quality. To change the color, just ungroup the resource
and click on the object you want to change. Then, click on the paint bucket and select the color you want.
Group the resource again when you’re done. You can also look for more infographics on Slidesgo.
JANUARY FEBRUARY MARCH APRIL
PHASE 1
Task 1
Task 2
JANUARY FEBRUARY MARCH APRIL MAY JUNE
PHASE 1
PHASE 2
Task 1
Task 2
Task 1
Task 2
...and our sets of editable icons
You can resize these icons without losing quality.
You can change the stroke and fill color; just select the icon and click on the paint bucket/pen.
In Google Slides, you can also use Flaticon’s extension, allowing you to customize and add even more icons.
Educational Icons Medical Icons
Business Icons Teamwork Icons
Help & Support Icons Avatar Icons
Creative Process Icons Performing Arts Icons
Nature Icons
SEO & Marketing Icons
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx

More Related Content

What's hot

Ngân Hàng Câu Hỏi Trắc Nghiệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh (Có Đáp Án)
Ngân Hàng Câu Hỏi Trắc Nghiệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh (Có Đáp Án) Ngân Hàng Câu Hỏi Trắc Nghiệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh (Có Đáp Án)
Ngân Hàng Câu Hỏi Trắc Nghiệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh (Có Đáp Án) nataliej4
 
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.Mark Pham
 
Chương 3,ttuong
Chương 3,ttuongChương 3,ttuong
Chương 3,ttuongmai_mai_yb
 
Chuong ii cac phuong tien thanh toan quoc te
Chuong ii cac phuong tien thanh toan quoc teChuong ii cac phuong tien thanh toan quoc te
Chuong ii cac phuong tien thanh toan quoc teTruong Hong Ha
 
Câu hỏi n tập tiền tệ ltđh copy
Câu hỏi n tập tiền tệ ltđh   copyCâu hỏi n tập tiền tệ ltđh   copy
Câu hỏi n tập tiền tệ ltđh copychickencute
 
请介绍一下儿你自己?
请介绍一下儿你自己?请介绍一下儿你自己?
请介绍一下儿你自己?Học Huỳnh Bá
 
[Luật kt] cty tnhh một thành viên
[Luật kt] cty tnhh một thành viên[Luật kt] cty tnhh một thành viên
[Luật kt] cty tnhh một thành viênCat Tuong
 
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi MinhCau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi MinhBinh Boong
 
Tồn Tại Xã Hội & Ý Thức Xã Hội | MLN101
Tồn Tại Xã Hội & Ý Thức Xã Hội | MLN101Tồn Tại Xã Hội & Ý Thức Xã Hội | MLN101
Tồn Tại Xã Hội & Ý Thức Xã Hội | MLN101Hoa PN Thaycacac
 
Thảo luận luật kinh tế ĐHTM
Thảo luận luật kinh tế ĐHTMThảo luận luật kinh tế ĐHTM
Thảo luận luật kinh tế ĐHTMtrần Nam
 
Bài ktra số 2 tttc
Bài ktra số 2 tttcBài ktra số 2 tttc
Bài ktra số 2 tttcHoàng Diệu
 
Bai thu hoach dang loai gioi 2016
Bai thu hoach dang loai gioi 2016Bai thu hoach dang loai gioi 2016
Bai thu hoach dang loai gioi 2016Thích Hô Hấp
 
Bai1 nhungvandecobanve nhà nước
Bai1 nhungvandecobanve nhà nướcBai1 nhungvandecobanve nhà nước
Bai1 nhungvandecobanve nhà nướccuongnd11
 
Quản trị tài chính phân tích tình hình tài chính tập đoàn vingroup
Quản trị tài chính   phân tích tình hình tài chính tập đoàn vingroupQuản trị tài chính   phân tích tình hình tài chính tập đoàn vingroup
Quản trị tài chính phân tích tình hình tài chính tập đoàn vingrouphttps://www.facebook.com/garmentspace
 
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh 56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh Phước Nguyễn
 
vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội
vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hộivận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội
vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hộiVuJonny
 

What's hot (20)

Ngân Hàng Câu Hỏi Trắc Nghiệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh (Có Đáp Án)
Ngân Hàng Câu Hỏi Trắc Nghiệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh (Có Đáp Án) Ngân Hàng Câu Hỏi Trắc Nghiệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh (Có Đáp Án)
Ngân Hàng Câu Hỏi Trắc Nghiệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh (Có Đáp Án)
 
Chuong 7
Chuong 7Chuong 7
Chuong 7
 
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
 
Chương 3,ttuong
Chương 3,ttuongChương 3,ttuong
Chương 3,ttuong
 
Đề tài vận dụng mô hình binary logistic, ĐIỂM 8, RẤT HAY
Đề tài  vận dụng mô hình binary logistic, ĐIỂM 8, RẤT HAYĐề tài  vận dụng mô hình binary logistic, ĐIỂM 8, RẤT HAY
Đề tài vận dụng mô hình binary logistic, ĐIỂM 8, RẤT HAY
 
Chuong ii cac phuong tien thanh toan quoc te
Chuong ii cac phuong tien thanh toan quoc teChuong ii cac phuong tien thanh toan quoc te
Chuong ii cac phuong tien thanh toan quoc te
 
Câu hỏi n tập tiền tệ ltđh copy
Câu hỏi n tập tiền tệ ltđh   copyCâu hỏi n tập tiền tệ ltđh   copy
Câu hỏi n tập tiền tệ ltđh copy
 
请介绍一下儿你自己?
请介绍一下儿你自己?请介绍一下儿你自己?
请介绍一下儿你自己?
 
[Luật kt] cty tnhh một thành viên
[Luật kt] cty tnhh một thành viên[Luật kt] cty tnhh một thành viên
[Luật kt] cty tnhh một thành viên
 
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi MinhCau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
 
Tồn Tại Xã Hội & Ý Thức Xã Hội | MLN101
Tồn Tại Xã Hội & Ý Thức Xã Hội | MLN101Tồn Tại Xã Hội & Ý Thức Xã Hội | MLN101
Tồn Tại Xã Hội & Ý Thức Xã Hội | MLN101
 
Thảo luận luật kinh tế ĐHTM
Thảo luận luật kinh tế ĐHTMThảo luận luật kinh tế ĐHTM
Thảo luận luật kinh tế ĐHTM
 
Bài ktra số 2 tttc
Bài ktra số 2 tttcBài ktra số 2 tttc
Bài ktra số 2 tttc
 
Bai thu hoach dang loai gioi 2016
Bai thu hoach dang loai gioi 2016Bai thu hoach dang loai gioi 2016
Bai thu hoach dang loai gioi 2016
 
Bai1 nhungvandecobanve nhà nước
Bai1 nhungvandecobanve nhà nướcBai1 nhungvandecobanve nhà nước
Bai1 nhungvandecobanve nhà nước
 
Quản trị tài chính phân tích tình hình tài chính tập đoàn vingroup
Quản trị tài chính   phân tích tình hình tài chính tập đoàn vingroupQuản trị tài chính   phân tích tình hình tài chính tập đoàn vingroup
Quản trị tài chính phân tích tình hình tài chính tập đoàn vingroup
 
Thuyet trinh-tthcm
Thuyet trinh-tthcmThuyet trinh-tthcm
Thuyet trinh-tthcm
 
Xã hội học 123
Xã hội học 123Xã hội học 123
Xã hội học 123
 
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh 56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội
vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hộivận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội
vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội
 

Similar to Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx

CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRU...
CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRU...CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRU...
CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRU...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Dong Kinh Nghia Thuc
Dong Kinh Nghia ThucDong Kinh Nghia Thuc
Dong Kinh Nghia ThucVũ Hiếu
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNuioKila
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmjackjohn45
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfHanaTiti
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfHanaTiti
 
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...jackjohn45
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Trần Đức Anh
 
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2hach nguyen phan
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhKelsi Luist
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
Cái tôi trong thơ nguyễn bính
Cái tôi trong thơ nguyễn bínhCái tôi trong thơ nguyễn bính
Cái tôi trong thơ nguyễn bínhAlolove Nguyễn
 
Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính
Cái tôi trong thơ Nguyễn BínhCái tôi trong thơ Nguyễn Bính
Cái tôi trong thơ Nguyễn BínhAlolove Nguyễn
 
Mot mang van hoc bi bo quen
Mot mang van hoc bi bo quenMot mang van hoc bi bo quen
Mot mang van hoc bi bo quenKelsi Luist
 

Similar to Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx (20)

CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRU...
CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRU...CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRU...
CẤM KỴ VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CẤM KỴ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM TRU...
 
Dong Kinh Nghia Thuc
Dong Kinh Nghia ThucDong Kinh Nghia Thuc
Dong Kinh Nghia Thuc
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
 
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngườiLuận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
 
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
 
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Cái tôi trong thơ nguyễn bính
Cái tôi trong thơ nguyễn bínhCái tôi trong thơ nguyễn bính
Cái tôi trong thơ nguyễn bính
 
Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính
Cái tôi trong thơ Nguyễn BínhCái tôi trong thơ Nguyễn Bính
Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính
 
Mot mang van hoc bi bo quen
Mot mang van hoc bi bo quenMot mang van hoc bi bo quen
Mot mang van hoc bi bo quen
 
123
123123
123
 

Recently uploaded

Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx

  • 1. VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Nguyễn Trung Hiếu 11 Sinh
  • 2. Mục lục I. GIỚI THIỆU CHUNG IV. TƯ TƯỞNG NHÂN ĐẠO VÀ HỒN THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG II. TÁC GIẢ HỒ XUÂN HƯƠNG V. TỔNG KẾT III. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
  • 4. “Vứt kimono sang bên Em ngồi xuống lòng thuyền Chống sào tôi rời bến Bơi mãi về tận xa” Không phải ngẫu nhiên mà những câu thơ tươi tắn, táo bạo ấy của thi sĩ huyền thoại người Nhật bản — Rubokoso lại được người Việt Nam đời nay gọi với cái tên trìu mền: “Hồ Xuân Hương của Nhật Bản”.
  • 5. Sánh vai cùng những đấng mày râu như Nguyễn Du, Cao Bá Quát.... tên tuổi Hổ Xuân Hương nghiễm nhiên chiếm một chỗ đứng ngang tàng trong nền văn học. Người ta nhắc đến Xuân Hương trong nhiều cảm nhận khác nhau nhưng nhắc đến một nhà thơ nữ viết về phụ nữ, trước hết phải kể đến Xuân Hương. Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói chung của những người phụ nữ. Những tiếng nói ấy không chỉ là sự tự ý thức cao độ về bản thân mà còn là “những tiếng than và tiếng thét, những tiếng căm hờn và những lời châm biếm sâu cay” Thơ Xuân Hương đã làm cho dời sống văn học trở nên sôi nổi, với hàng trăm bài viết, hàng trăm ý kiến khác nhau về thơ bà. Có người khen, kẻ chế nhưng những giá trị bất diệt trong thơ bà vẫn sẽ còn mãi với thời gian. Có thể khẳng định lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân Hương là một hành trình lịch sử dài bắt đầu từ nhiều thập kỉ trước và chưa bao giờ đứt đoạn. Đây là một chuỗi những bí ẩn và gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu. Hồ Xuân Hương với một tài thơ độc đáo đã trở thành một trung tâm thu hút biết bao nhiêu thế hệ nhà nghiên cứu và độc giả yêu quý thơ bà vào cuộc tìm kiếm, nhưng cho đến nay đề tài về Hồ Xuân Hương vẫn mãi là một vấn đề mang tính thời sự văn học nóng bỏng là đề tài không bao giờ nhàm chán.
  • 6. Qua các công trình nghiên cứu về thơ Hồ Xuân Hương từ trước đến nay, chúng ta thấy, việc đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương diễn ra rất phức tạp và đã có rất nhiều ý kiến khác nhau thậm chí đối lập nhau, chẳng hạn như: Nguyễn Khắc Hiếu, đầu những năm 20 của thế kỉ XX phê bình: “Thơ Hồ Xuân Hương thật tinh quái, những câu thơ hay đọc lên đến ghê người”. Trương Từu thấy trong thơ bà có tục và dâm và ông gọi Xuân Hương là “thiên tài hiếu dâm” ...và còn nhiều ý kiến khác nữa. Trên cơ sở tiếp thu những công trình của các nhà nghiên cứu, phê bình, các bài luận và các tài liệu có liên quan, đề tài: “Vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương “ của em mong muốn đóng góp thêm một tiếng nói bên cạnh những công trình nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp thơ Xuân Hương cũng như đóng góp một tiếng nói về hình ảnh người phụ nữ trong nền văn học trung đại Việt Nam qua cái nhìn của nhà thơ được mệnh danh là “thị trung bình quý này”.
  • 7. II. TÁC GIẢ HỒ XUÂN HƯƠNG 1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ 3. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI 3.1. Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học 3.2. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại Cuộc đời đầy sóng gió trong những chuyển mình của thời đại 1.1. Thời đại 1.2. Cuộc đời 2. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
  • 10. Chế độ phong kiến Việt Nam, sau khi đạt đến chỗ cực thịnh vào thế kỉ XV, nhất là với triều đại Lê Thánh Tông, thì bắt đầu xuống dốc. Theo đó, ý thức hệ Nho giáo cũng bắt đầu rạn nứt. Hàng loạt nho sĩ ra sức vứt bỏ khí tiết “Trung thần bất sự nhị quân” (Tôi trung không thờ hai vua). Nội bộ lục đục triền miên, ra sức áp bức, bóc lột, đè nén nhân dân. Và tất yếu, giai cấp phong kiến đã đi ngược lại với quyền lợi của nhân dân, thi nhau đẻ ra đủ thứ pháp trị với lễ nghi. Từ thế kỉ XVIII, sự khủng hoảng của toàn bộ chế độ phong kiến đã hằn những vệt đen dài trên trang sử. Lịch sử Việt Nam có lẽ không có thời nào tồi tệ cho bằng những năm cuối đời Lê. Đàng ngoài thì kết bè kéo đảng, tranh giành quyền lực. Đảng trong chúa Nguyễn lăm le ra đánh phá, quấy nhiễu. Quan lại chỉ còn biết lấy nịnh hót, luồn cúi làm lẽ sống. Tất cả chỉ còn là bộ mặt giả nhân giả nghĩa của Tống Nho. Nhân dân sống trong cảnh loạn ly, các giá trị đạo đức bị băng hoại. Bao nhiêu nghĩa quân thần, tình gia quyến, bao nhiêu ước thúc luân lý...bị lật nhào. Bởi thế bao nhiêu cặn bã xã hội đều nổi trên mặt. Những bậc già cả, những vị có học nhìn thời cuộc đâm chán nản, trái lại những kẻ cơ hội thoả mãn những mưu đồ vô đạo, bất chính. Trong thời đại mục nát như vậy, thân phận con người trở nên mong manh nhỏ bé. Và thân phận người phụ nữ thì lại càng bị vùi dập, bị đẩy xuống chốn bùn sâu. Người phụ nữ sinh ra đã mang lấy cái gông trên cổ với đủ thứ “tam cương, ngũ thường” nghiệt ngã. Ngày trước Khổng Tử dạy rằng: “Đức hạnh làm đẹp con người” còn thời nay người ta quan niệm: “...chết đói là việc cực nhỏ, thất tiết mới là việc lớn” (Lỗ Tấn).
  • 12. Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ kỳ tài, điều đó có lẽ không cần phải bàn cãi gì nhiều. Nhưng xét đến tiểu sử của bà thì thật là mờ mịt, tất cả đều chỉ là giả thuyết và phỏng đoán của thế hệ đi sau. Xung quanh vấn đề này còn rất nhiều giả thuyết khác nhau. Căn cứ vào những nghiên cứu của Nguyễn Hữu Tiến trong cuốn “Giai nhân di mặc” (1915), Song An trong bài “Thân thế và văn chương cô Hồ Xuân Hương” (in trên báo Đông Tây số 12/1929), Dương Quảng Hàm trong “Việt văn giáo khoa thư” (1940) đều thống nhất ở một số điểm sau: Hồ Xuân Hương là người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, sống khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Họ Hồ ở Quỳnh Lưu là một họ nổi tiếng, từng có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to. Xuân Hương sinh ra ở đâu, năm nào chưa rõ. Chỉ truyền ngôn là gia đình một thời sống ở Thăng Long, lúc ở phường Khán Xuân, lúc ở thôn Tiên Thị, và tuổi trưởng thành, Xuân Hương lại dựng một ngôi nhà bên hồ Tây đặt tên là Cổ Nguyệt Đường, bạn bè thường lui tới nhiều ở ngôi nhà này. Đường chồng con của Xuân Hương cũng nhiều lận đận. Hồ Xuân Hương đã từng làm lẽ một cai tổng (Tổng Cóc) và một tri phủ (Vĩnh Tường). Bà còn là bạn thơ của Chiêu Hổ (tức Phạm Đình Hổ?). Như vậy Hồ Xuân Hương sống khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
  • 13. Nhưng đến năm 1957, trên Tạp chí văn học, Hồ Tuấn Niêm căn cứ vào sáu bộ gia phả của các chi họ Hồ ở Nghệ An rút ra một thông tin cực kỳ hấp dẫn: Xuân Hương là người cùng một họ và bằng vai với Quang Trung – Nguyễn Huệ. Với việc công bố tài liệu này, gốc gác Xuân Hương xem ra sáng tỏ hơn. Rồi đến năm 1963, trên Tạp chí Văn học số 4 – 1963, Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ chữ Hán với nhan đề “Lưu hương ký” mà tên tác giả lại cũng là Hồ Xuân Hương. Tập thơ này còn cho biết Hồ Xuân Hương còn là bạn tình của tác giả Truyện Kiều. Nhưng sách này lại cho hay rằng Hồ Xuân Hương là em gái ruột của Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1739 – 1785) tức con gái Hồ Sĩ Danh. Vấn đề thành ra rắc rối! Càng rắc rối thêm là tới năm 1974, một tài liệu mới được công bố nêu thêm một nghi vấn về lai lịch của bậc tài tử này: Trên Tạp chí Văn học số 3/1974 có đăng bản dịch Xuân Hương đàm thoại của Tam nguyên Trần Bích San (1840 – 1878) một danh nhân của Nam Định. Bài này cho biết vào năm Tự Đức 22 (1870) một nhóm văn nhân họp bạn cuối năm. Một người đến chậm, cáo lỗi vì phải đi dự đám tang của “tài nữ quê Nghệ An, hiệu là Cổ Nguyệt Đường, nàng ở Từ Sơn, mộ mai táng bên núi Nguyệt Hằng”. Như vậy, có một Hồ Xuân Hương mất vào năm 1870 và mộ bên núi Nguyệt Hằng tức núi Chè, nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh. Bà cũng là người Nghệ An, cũng là tài nữ có kiếp sống long đong. Lại cũng nhắc đến một bài thơ của hoàng tử Tùng Thiện Vương: theo bài thơ này thì có một Hồ Xuân Hương mà phần mộ ngay ở Hà Nội và nàng mất trước 1842 là năm Tùng Thiện Vương ra thăm Hà Nội.
  • 14. Vậy ai là Xuân Hương Bà chúa thơ Nôm? Vấn đề đang treo ở đấy thì đến năm 1985, ông Hoàng Xuân Hãn Trên tạp chí Khoa học xã hội in ở Pháp, với nhiều thư tịch, tư liệu mới tìm ra đã chứng minh rằng Hồ Xuân Hương - Bà chúa thơ Nôm và Hồ Xuân Hương - tác giả “Lưu hương ký” cùng với Hồ Xuân Hương có phần mộ ở Hà Nội chỉ là một người. Ông còn cho biết rằng khoảng năm 1818 Hồ Xuân Hương đang làm vợ lẽ của viên quan tham hiệp trấn Yên Quảng (nay là tỉnh Quảng Ninh), tên là Trần Phúc Hiển. Năm 1819, Phúc Hiển bị triều đình khép án tử hình. Như vậy tiểu sử của Xuân Hương vẫn còn phải nghiên cứu thêm. Nhưng một điều thường được thừa nhận là Xuân Hương đã từng lãng du nhiều nơi. Dấu chân bà in dấu lên tận Tuyên Quang, vào tới Thanh Hóa, ra đến An Quảng, sang cả Ninh Bình và cả Vĩnh Yên, Sơn Tây, Hà Đông. Xuân Hương lãng du vào thời gian nào khó mà xác định nhưng bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình là chỗ từng trải của bà. Người ta không hề chào đón một Xuân Hương nhưng nàng đã đến trong cái xã hội ấy, đến với một trái tim và một khối óc tuyệt vời, với đôi mắt tinh đời và đặc biệt là với tất cả mọi giác quan còn nguyên vẻ tinh khôi. Cả cuộc đời nàng không có lấy một ngày hạnh phúc, chưa bao giờ thấy nàng cười, nàng có cười vả chăng chỉ là cái cười mỉa mai, chua xót. Sinh vào cái thời xã hội rối loạn, nhố nhăng, phải giãy giụa trong đống tro tàn, làm con một người thiếp, sống cuộc đời làm kiếp vợ lẽ; ta hiểu vì sao hình ảnh người phụ nữ và tiếng nói của nữ quyền lại in dấu đậm nét trong thơ bà.
  • 16. Hồ Xuân Hương được coi là “nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc”. Sáng tác thơ Nôm của Xuân Hương chắc chắn đã thất lạc đi nhiều, thơ Hồ Xuân Hương còn lại đến nay đều do người đời sau ghi chép, không một tài liệu nào có thể tin cậy hoàn toàn. Thơ Xuân Hương cũng phức tạp như chính cuộc đời bà.Có thể tạm chia sáng tác của Xuân Hương thành hai mảng: mảng thơ Nôm theo truyền tụng và “Lưu hương ký”. Thơ Nôm truyền tụng được ghi lại và xuất bản lần đầu tiên với nhan đề “Xuân Hương thi tập” năm 1913. Từ đó, thơ Hồ Xuân Hương được ghi chép nhiều. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản. Hiện tượng dân gian hóa là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng không thống nhất trong nội dung thơ cũng như vấn đề đâu là tác phẩm của Xuân Hương vẫn còn nhiều nghi vấn. Theo Lê Trí Viễn trong cuốn “Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương”, “tính những bài được nhiều người, nhiều sách công nhận là của Xuân Hương thì có khoảng 40 bài”, tiêu biểu như: “Mời trầu”, “Dở dang”, “Lấy chồng chung”, “Sư hổ mang”, “Đèo Ba Dội”, “Quả mít”, “Vịnh cái quạt”, “Thiếu nữ ngủ ngày”,... Hiện nay những thắc mắc về việc “Lưu hương kỉ” liệu có phải là tác phẩm của Hồ Xuân Hương vẫn còn là câu hỏi lớn của giới nghiên cứu văn học. “Lưu hương kỉ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964, gom lại được 31 bài thơ và văn chữ Hán, 28 bài thơ chữ Nôm (một số tài liệu trước đó công bố là 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ Nôm), gồm các thể 5 chữ, 7 chữ, ca, từ, phú. Đây là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, viết về tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai. Đọc kĩ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và “Lưu Hương ký”, chủ yếu là về phong cách biểu hiện. Vì lí do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn “Lưu hương ký” được coi là một tập thơ để tham khảo.
  • 17. Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của nữ sĩ trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: “Độ Hoa Phong”, “Hải ốc trù”, “Nhãn phóng thanh”, “Trạo ca thanh”, “Thuỷ vân hương”) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã hội, tại Paris năm 1984. Tuy còn nhiều khúc mắc nhưng cũng có thể thấy “Sự nghiệp của Hồ Xuân Hương là ngọn hải đăng” như lời đề tựa thứ hai của “Tuyển tập Hồ Xuân Hương” bằng tiếng Pháp.
  • 18. 03 HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
  • 19. 3.1 Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học
  • 20. “Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính” . Hình tượng là phương thức để văn học tái hiện và phản ánh đời sống. Trong văn học, hình tượng nhân vật phải có sức tập trung khái quát cao. Nhân vật ấy phải có những nét chung nhất của tầng lớp, giai cấp... mà mình đại diện trong bối cảnh xã hội điển hình của một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất định.
  • 21. 3.2 Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
  • 22. Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, cùng với sự xuất hiện của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa, lần đầu tiên hình ảnh người phụ nữ được đề cập đến một cách phổ biến trong nhiều tác phẩm. Đặng Trần Côn có người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”, Nguyễn Gia Thiều có người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc”, Nguyễn Du có Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” và nhiều cô gái khác như Dao Tiên, Quỳnh Thư, Trần Kiều Liên,... của tác giả những truyện Nôm “Hoa tiên”, “Sơ kinh tân trang”, “Phan Trần”. Đây có lẽ là một bước phát triển mới, táo bạo trong thời đại còn bị chi phối nặng nề bởi Tống Nho. Tuy nhiên không khó để nhận thấy rằng những nhân vật phụ nữ này đều xuất thân từ tầng lớp quý phái. Đó là những bà mệnh phụ cao quý trong “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm khúc”. Cả những cô gái trong truyện Nôm bác học đều bước ra từ trướng gấm. Người đầu tiên và có thể là duy nhất đưa vào văn học giai đoạn này không phải cô gái quý tộc, mà đích thực là cô gái bình dân, bình dân từ cốt cách cho tới hình hài là Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương đề cao những người phụ nữ ấy, và nhà thơ nhìn đời cũng bằng con mắt của những người phụ nữ ấy.
  • 23. III. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG Phụ nữ trong thơ Xuân Hương với những vẻ đẹp muôn đời của tạo hóa 1. VẺ ĐẸP HÌNH THỨC 3. VẺ ĐẸP TRÍ TUỆ 2. VẺ ĐẸP TÂM HỒN
  • 25. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của tuổi trẻ, nhà thơ của bản năng, của giác quan nhạy bén, của sức sống vươn lên, đầy tin tưởng. Tư tưởng chủ đạo của thơ Hồ Xuân Hương – điều mà bấy lâu nay người ta tranh luận nhiều – là triết lí tự nhiên, triết lí xuất hiện đậm đặc trong văn học dân gian. Một phần không nhỏ ca dao tục ngữ của ta là tiếng nói bồng bột, sôi nổi của bản năng, đòi hỏi quyền sống của phụ nữ, chống lại sự áp bức của xã hội; nhiều bài dân ca ca ngợi đời sống vui trẻ, tự do, chống lại đạo đức tam tòng. Hồ Xuân Hương, một nhà thơ có một không hai của phụ nữ Việt Nam, tiếp tục truyền thống đấu tranh của văn học dân gian, đã là người lên tiếng mạnh mẽ nhất bảo vệ quyền tự do của người phụ nữ. Không phải thơ Hồ Xuân Hương chỉ là tiếng nói cách mạng của người phụ nữ. Không phải thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói hùng tráng và đầu tiên đòi quyền dân chủ. Thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu là bản trường ca ca ngợi cuộc đời vui tươi, khỏe mạnh chan hòa sức sống, chứa chan tình yêu đời nồng thắm. Khi nói về thiên nhiên, Xuân Hương thu lại những đường nét, màu sắc của non sông. Với cuộc sống, Xuân Hương lại làm dậy lên muôn nghìn hình thái, chính là màu sắc, âm thanh rộn rã, chính là nhan sắc mặn mà, mơn mởn của người thiếu nữ:
  • 26. “Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình Chị cũng xinh mà em cũng xinh” (Tranh tố nữ)
  • 27. Những cô gái của Xuân Hương không phải là cô gái yểu điệu kín cổng cao tường, sống trong lầu son gác tía mà là những bông hoa ngát hương đồng nội. Họ là những cô gái thắt đáy lưng ong, yếm thắm hoa tiên, tóc bỏ đuôi gà đi dự hội xuân hay đi làm, đi chợ. Họ là những cô gái của cuộc sống. Họ sống hồn nhiên và tinh nghịch. Họ táo tợn trêu ghẹo cả những anh trai, gọi là mình, là chồng, là anh trai làm cho họ phải đỏ mặt tía tại. Và cũng mê chơi đến quả giấc nồng: “Mùa hè hay hay gió nồm đông, Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng”. (Thiếu nữ ngủ ngày) “Thế giới quan, nhân sinh quan của Xuân Hương là một nhãn quan nõn nường, bất cứ cái gì, bất kể lúc nào và ở đâu, vẫn vang ngân lên chỉ nõn nường”. Cái nõn nường ấy là cái tươi non của tuổi trẻ: “Đôi lửa như in tờ giấy trắng Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh”
  • 28. Cái nõn nường ấy là hình ảnh của những cuộc vui ngày hội, của những sinh hoạt lành mạnh tươi vui: “Bốn cột khen ai khéo khéo trồng Người thì lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng” (Đánh đu) Và có khi nó táo tợn hiện lên thành hình, thành khối. “Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông” (Thiếu nữ ngủ ngày)
  • 29. Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà thơ không có một chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân trọng. Phụ nữ được người đời nay tôn vinh là “Phái đẹp”. Cái danh từ “Phái đẹp” ấy tất có nguyên do của nó nhưng trước tiên, quan trọng hơn là thấy được ý nghĩa của việc miêu tả này. Xét cho cùng văn chương thời xưa cũng chẳng mấy ai dám táo tợn như Xuân Hương, mang cả cái thân thể con người ta vào thơ ca. Cái mà ta thấy được trong tư tưởng Hồ Xuân Hương khi miêu tả vẻ đẹp hình thể con người, mà lại là người phụ nữ dân dã, đó là lòng quý trọng, yêu thương con người, đề cao tự nhiên. Câu tục ngữ cổ mà Marx rất thích: “Cái gì thuộc về con người đối với tôi đều quý” thật hết sức phủ hợp với quan niệm của Xuân Hương. Táo bạo như Nguyễn Du mà khi miêu tả cảnh Thúy Kiều tắm cũng còn đầy kiểu cách: “Buồng the phải buổi thong dong Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên” (Truyện Kiều)
  • 30. Xuân Hương không kiểu cách như vậy, bà không bày biện chi mà sẵn lòng ca ngợi cái cơ thể đẹp của người phụ nữ ngay giữa “mùa hè hây hẩy gió nồm đông”. Xã hội phong kiến coi cơ thể người phụ nữ là nguồn gốc của tội lỗi, là tai họa của con người. Cái thứ đạo đức ỉ eo đó nhan nhản truyền ra từ cung vua phủ chúa – nơi có hàng ngàn cung tần mĩ nữ, ra tới dân gian, tới Xuân Hương bỗng trở nên vô giá trị. Một người yêu đời ham sống làm sao có thể chấp nhận những lễ giáo trói buộc con người, trói buộc những gì hồn nhiên nhất, đẹp tươi nhất của đời người! Người phụ nữ trở thành nhân vật trung tâm trong thơ Hồ Xuân Hương, có khi xuất đầu lộ diện, có khi giấu mặt. Xưa nay anh hùng thường khó qua ải mĩ nhân. Nếu như Victor Hugo có lí khi cho rằng: “Người ta có một tôn giáo thứ hai là tình yêu, và Chúa của đạo ấy chính là người phụ nữ”, thì phải chăng Hồ Xuân Hương không có lí với những bài thơ đề cao phụ nữ? Đối với Xuân Hương, cái cơ thể đẹp là niềm tự hào, giống như người ta tự hào về tài năng, về tuổi trẻ của mình. Thiên nhiên trong thơ Xuân Hương do vậy mà cũng cựa quậy, nổi loạn để thay bà phá tung cái trật tự xã hội giả dối, nhợt nhạt, nghèo nàn và phô bày cái đẹp của cơ thể phồn thực nữ giới qua hình hài núi non, cây cỏ, hang động...
  • 31. “Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt, Khối tình cọ mãi với non sông.” (Đá ông chồng bà chồng) Vì thành kiến mà xã hội phụ quyền đã chèn ép phụ nữ để phục vụ cho những lợi ích của nam giới. Phụ nữ nếu không mang cốt cách cao quý thì cũng là con người của đức hạnh và bổn phận. Tất cả đã được an bài. Nhưng mọi chuyện đã khác khi bước vào thế giới quan Xuân Hương: “Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào”. Thiếu nữ với mùa xuân – cái đẹp cuộc sống, biểu tượng của cái đẹp muôn đời. Hình ảnh người thiếu nữ không phải là hình ảnh của một nội tưởng trong gia đình, mà là hình ảnh người chủ thực sự của đất trời, của tự nhiên, của vũ trụ. Nhà thơ giữ cho mình nguyên vẹn cặp mắt trong veo để nhìn người, nhìn đời, để thấy hết vẻ đẹp của người phụ nữ mà xã hội khó lòng thừa nhận. Cũng vì thế mà thơ Xuân Hương có giá trị nhân đạo sâu sắc.
  • 33. Phụ nữ Việt Nam, nhất là những người phụ nữ trong ca dao, dân ca cũng như trong thơ Xuân Hương mang một vẻ đẹp chân quê, giản dị và đáng yêu. Ở họ không phải lúc nào cũng là liễu yếu đào tơ, là cái bóng của người đàn ông mà luôn tiềm ẩn một sức mạnh chẳng kém gì nam giới. Họ là một nửa của nhân loại. Phụ nữ Việt Nam từ nghìn năm trước còn lưu danh thiên cổ với Bà Trưng, Bà Triệu trong tiếng cồng, tiếng trống ra quân, trong lòng yêu nước nồng nàn: “Ai ơi lên núi mà coi Coi bà Triệu tưởng cưỡi voi đánh cồng”. (Ca dao) Đến Xuân Hương, tiếp xúc với những nhân vật nữ trong thơ Xuân Hương, ta không chỉ thấy được sức sống ngồn ngộn nơi những “tòa thiên nhiên” ấy mà còn thấy những tấm lòng đẹp, nồng hậu: “Thân em như quả mít trên cây Da nó xù xì, múi nó dày” (Quả mít)
  • 34. Hồ Xuân Hương đã học được từ dân gian những phẩm chất tốt đẹp được hun đúc qua bao đời. Những người phụ nữ trong thơ Xuân Hương mang trong mình một đức tính vô cùng quý báu: lòng yêu đời và ham sống. Và những người phụ nữ cũng với đức tính ấy đã biểu lộ bằng lòng yêu sự sống, bằng những ước ao hạnh phúc. Đôi lúc nó là sự đùa cợt ngạo nghễ, có khi là sự bền bỉ “thân này đâu đã chịu già tom”, nuôi dưỡng trong mình những mầm sống – những hi vọng của tương lai trong cuộc đời đầy nước mắt: “Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng Nửa mạn phong ba luống bập bềnh” (Tự tình 3) Đó cũng là tiếng cười đùa, là nỗi lòng của bao cô gái dân gian: “Bao giờ lão móm chầu trời Thì em lại lấy một người trai tơ” (Ca dao)
  • 35. Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu... nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn ngời lên lòng yêu cuộc sống đến nồng hậu, quấn quýt. Và Xuân Hương đã “kêu to lên nhu cầu về quyền sống cá nhân, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự nhiên”. Bàn đến khát vọng tình yêu hạnh phúc trần tục, Nguyễn Lộc đã cho rằng: “Nhu cầu về cuộc sống bản năng cũng là một nhu cầu chính đáng của con người... Hồ Xuân Hương nói nhiều đến dục vọng thể xác, nhưng bà thể hiện những dục vọng ấy trong sáng tác một cách lành mạnh, khỏe khoắn”. Đến với thơ Hồ Xuân Hương là ta đã đến với những tình cảm yêu đời tha thiết. Đó là ước ao về một cuộc sống hạnh phúc: “Có phải duyên nhau thì thắm lại” (Mời trầu). Đó là vẻ đẹp của những tâm hồn yêu đời, khát sống – một cuộc sống với những hạnh phúc chân chính. M. Gorki đã có nhận xét thật hay: “Đời không mẹ hiền, không phụ nữ - Anh hùng thi sĩ hỏi còn đâu”. Vì dân tộc ta đã lớn lên như thế, trong tiếng ru của những người mẹ dân gian giàu nghị lực, giàu lòng yêu thương và giàu niềm tin vào sự sống. Tấm lòng Xuân Hương đồng điệu cùng tinh thần nhân đạo của tiếng nói dân gian. Hắn cũng vì thế nên bà đã cùng nhân dân đứng lên bênh vực cho những kiếp người đau khổ:
  • 36. “Cả nể cho nên hóa dở dang Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng” (Chửa hoang) Để rồi mới dịu dàng: “Quản bao miệng thế lời chênh lệch Không có, nhưng mà có, mới ngoan”. (Chửa hoang)
  • 37. Đứng ra bênh vực cho những người con gái dở dang ấy, dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng ấm của một tâm hồn nghệ sĩ, một con người giàu lòng cảm thông. Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi họ, tìm thấy vẻ đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như chiếc bánh trôi “bảy nổi ba chim”; hay quả mít “xù xì”; con ốc nhồi “đêm ngày lăn lóc đám cỏ hồi”... Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi nó dày” cũng như vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong, cái đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Trong bài “Bánh trôi nước”, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của người phụ nữ. Dù bị nhào nặn bởi xã hội phụ quyền nhưng dù “rắn”, “nát”, dù trong hoàn cảnh nào họ vẫn ngời sáng một tấm lòng son: “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà en vẫn giữ tấm lòng son” (Bánh trôi nước) Mặc dù số phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời nhưng họ đành cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng thủy chung, son sắt.
  • 38. Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu bền chặt, nồng cháy. Nàng cũng muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình yêu nồng thắm từ người bạn đời tri âm tri kỉ, đón những hương sắc của cuộc đời. Xuân Hương hồi hộp chờ đợi. Nhưng rồi năm tháng trôi qua, những mùa xuân đi không trở lại, nhà thơ dần dần nhận ra cái bạc bẽo của con người và cuộc đời, cái hẩm hiu của số phận. “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con” (Tự tình 2) “Câu thơ nhân hậu của hờn dỗi, duyên dáng mà có cái gì như đanh đá, thách thức” vậy.
  • 39. Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non. Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn, Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám. Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn. Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con! (Tự tình II)
  • 41. Con người cá nhân trong văn học chính là sự phản ánh cái tôi, là sự giãi bày, diễn tả thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nói cách khác, con người cá nhân trong văn học chính là sự tự khắc họa tâm tư, tình cảm, ý chí của tác giả được thể hiện thông qua những tác phẩm mà họ sáng tác. Tùy theo từng giai đoạn, thời kỳ văn học, mà con người cá nhân có những đặc điểm khác nhau. Dường như không phải ý thức mà đã trở thành tiềm thức con người cá nhân - Hồ Xuân Hương có một lòng tin mãnh liệt vào tài trí và khả năng sáng tạo của người phụ nữ. Xuân Hương là người phụ nữ đầu tiên dám cất lên tiếng nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng định mình: “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu” (Đề đền Sầm Nghi Đống) Cái ước vọng ấy là của một người luôn ý thức được giá trị của mình, luôn có những cái vỗ ngực tự xưng đầy thách thức: “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hội Này của Xuân Hương đã quệt rồi” (Mời trầu)
  • 42. Hay như: “Tài tử văn nhân ai đó tả Thân này đâu đã chịu già tom” (Tự tình 1) Như đã biết, “Khổng giáo chủ trương nam tôn nữ ti, trọng nam khinh nữ, lại vun đắp thêm quyền uy của gia trưởng mà đè nên địa vị của đàn bà”. Nền văn học của chế độ phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Khổng giáo nên các truyền thống về giá trị và chuẩn mực văn hóa đều được đặt ra để phục vụ cho phải nam. Nền văn học đó đồng thời cũng được dùng để khuyến dụ và cưỡng chế đàn bà phải chấp nhận vai trò thua kém đàn ông vì trời đã đặt định như vậy. Xuân Hương không bao giờ có mặc cảm phụ nữ phải thua đàn ông. Đối với Xuân Hương, mọi chuyện dường như ngược lại.
  • 43. Bên cạnh những “Quả mít”, “Cái giếng”. “Dệt cửi”.... Chúng ta không thể quên giá trị nhiều mặt của những bài thơ lâu nay vẫn được coi là của Hồ Xuân Hương. Nếu những bài đấu tranh cho phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương quả là của Hồ Xuân Hương thì có thể nói thi sĩ là người phụ nữ đầu tiên trong văn học viết đã dũng cảm lên tiếng đòi hỏi giải phóng phụ nữ, chống lại những áp bức ràng buộc của ý thức hệ phong kiến một cách khá quyết liệt và với một tư thể ngang tàng. Nghệ thuật thi ca mang bản chất hồn nhiên. Nhưng ở mỗi thời đại, mỗi tầng lớp tác giả, phẩm chất này lại thể hiện ở những mức độ khác nhau. Và trong thơ trữ tình chính thống Việt Nam, đỉnh cao của tinh hồn nhiên dường như rõ ràng đã thuộc về “bà chúa thơ Nôm”. Tính hồn nhiên trong thơ bà bắt nguồn từ tư tưởng tự do, tự do phá bỏ mọi giáo lí và những quan niệm đạo đức bỏ buộc người phụ nữ. Đôi mắt của những cô tóc bỏ đuôi gà, yếm thắm hoa đào ngày nào trẩy hội mới thật tinh tường, sắc sảo và nghịch ngợm. Với những con mắt tinh ranh kia, họ đi ngang qua đền Sầm Nghi Đống cũng chỉ “ghé mắt trông ngang”. Lại còn trêu chọc cả hiền nhân quân tử, chế giễu cả sư sãi và đối với những bậc chí tôn thì táo tợn, hạ bệ thẳng thừng: “Chúa dấu vua yêu một cái này” (Vịnh cái quạt). Chính sự tự do về tư tưởng đã khiến cho tư duy thơ Xuân Hương mang đậm tính hồn nhiên, tự do như trên. Trong thơ Hồ Xuân Hương, khát vọng tình yêu luôn luôn đi kèm với khát vọng cuộc sống bản năng. Thơ bà không ngần ngại khi nói đến những nhu cầu, tâm sự, hạnh phúc ái ân trong đời sống tình cảm của con người. Bà văng tục vào cái kiếp sống làm lẽ: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng” (Lấy chồng chung)
  • 44. Đó là nghịch lí không thể chấp nhận được nên cần phải chấm dứt, cần phải “loại bỏ” (chém) cho bằng được. Với Xuân Hương con người phải sống đúng chất người. Đó là sự hài hòa giữa đời sống tinh thần và đời sống bản năng. Trong xã hội cũ, có lẽ các thầy khóa rất mực được kính trọng bởi họ nghĩ: mình là người hiểu biết, lại theo đạo thánh hiền. Ăn sâu trong tiềm thức xã hội, tư tưởng ấy khiến cả những kẻ chẳng hiểu và biết gì cũng được người ta dành cho chữ kính nốt. Nhưng khoa cử thời Xuân Hương đã trở thành một cái tệ. Ngay những môn đồ của của Khổng sân Trình như Phạm Đình Hổ cũng phải kêu lên: “Ôi các tệ khoa cử đến thế là cùng, văn vận với thế đạo ngày càng kém, thực đáng thương thay” (Vũ trung tùy bút). Với Xuân Hương, nàng biết rất rõ, rõ mình và rõ cả cái đám “ngẫn ngơ” ấy: “Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ ? Lại đây cho chị dạy làm thơ” (Mắng học trò dốt)
  • 45. Thật là “Những chữ tức chết người ta! Những chữ thần tình gắn liền với tinh thần Việt Nam đến nỗi không tài nào dịch được” (Xuân Diệu). Hạ một chữ “lũ” khinh thị xô bồ, lại thêm cái tuồng “ngẩn ngơ” thật là bị Xuân Hương cho một đòn roi nhức buốt lắm thay! Về tài, Xuân Hương quả đã ăn đứt bao nhiêu “phường lòi tói” không tự biết mình nhan nhản trong xã hội. Với cách xưng hô trịnh thương, thái độ Xuân Hương không phải của người ngang hàng đứng chê bai, phê phán mà trước sau vẫn đứng ở vị trí cao hơn, vị trí mà bọn phong kiến ngay trong tưởng tượng cũng không thể có. Chế độ phong kiến gắn với cái ách nam quyền trong bản chất. Và vì thế, mang thần phận thấp kém, không được học hành nên phụ nữ cũng bị coi là không biết gì. Trong những câu nói thường nhật, trong những khi hội họp bàn bạc trong nhà thường chỉ có nam giỏi tham gia, chẳng may có bà có cô nào nói chen vào là ngay lập tức bị người ta xua đuổi với cái câu muôn thuở: “Đàn bà con gái biết gì!”. Trong những giai thoại thơ về người bạn tri kỉ của Xuân Hương: Chiêu Hổ, ta lại thấy được cái vẻ tinh nghịch trong thơ bà. Tuy rằng là phụ nữ nhưng Xuân Hương cũng chẳng chịu lép vế Chiêu Hồ bao giờ:
  • 46. “Anh đồ tỉnh, anh đồ say, Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày? Này này, chị bảo cho mà biết, Chốn ấy hang hùm chớ mò tay!” Lời trách cử của Xuân Hương cũng thiệt là tải đầu kém gì các cụ đồ xưa: “Sao nói rằng năm lại có ba? Trách người quân tử hẹn sai ra. Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt, Nhớ hái cho xin nắm lá đa”. (Trách Chiêu Hổ)
  • 47. Thế mới biết hiền nhân quân tử cũng “nói dối như Cuội” vậy! Và ta thấy rõ ràng rằng tác giả của những vần thơ kia đã chống lại cái tư tưởng “nam tôn nữ ti” bằng những cái nhìn xách mé, vui nhộn, ngang tàng như mang cả tiếng cười của những cô gái dân gian: “Ba cô đội gạo lên chùa Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư Sư về, sự ốm tương tư Ốm lăn ốm lốc nên sư trọc đầu Ai làm cho dạ sư sầu Cho ruột sư héo như bầu đứt dây” (Ca dao) Tiếng cười trong thơ Xuân Hương vừa hài hước châm biếm vừa trữ tình triết lí, ngang nhiên công kích những bọn đạo đức giả, hủ Nho và thách thức chế độ phụ quyền: “Nào nón tu lờ, nào mũ thâm Đi đâu không đội để ong châm Đầu sư hả phải gì... bà cốt Bá ngọ con ong, bé cái nhầm” (Sư bị ong châm)
  • 48. Hay hạ bệ cả đẳng đế vương: “Hồng hồng má phấn duyên vì cậy Chúa dấu vua yêu một cái này” (Vịnh cái quạt) Đọc thơ Xuân Hương, ta không chỉ thấy được cái tinh thần dân tộc, sự gần gũi trong những “quả mít, cái quạt, củ ấu, con ốc nhồi”, những sự vật gắn liền với cảnh quê, với làng quê Việt Nam. Hồn thơ Xuân Hương quyện chặt cùng tâm hồn thời đại, trong lòng yêu nước giản dị mà nồng nàn, trong cái nhìn lạc quan yêu đời, lòng nhân đạo và trong cả ý thức về thân phận con người cùng tinh thần dân chủ mạnh mẽ: “Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo”. (Đề đền Sầm Nghi Đồng)
  • 49. Theo các nhà xã hội học thì trong xã hội đầu tiên của con người – xã hội thượng cổ, người thượng cổ đẻ ra theo họ mẹ và chỉ biết có mẹ thôi. Cái quyền trong gia đình là thuộc về đàn bà, về người làm mẹ, gọi là “Mẫu quyền gia đình”. Như vậy cũng đủ để biết rằng những thuyết “nam tôn nữ ti”, cái thói “trọng nam khinh nữ” là do về sau đàn ông ỷ mạnh ăn hiếp đàn bà mà bày đặt ra, chứ vốn không phải là luật tự nhiên, và loài người lúc ban đầu cũng không hề như vậy. Cho nên thi sĩ mới ngán ngẩm mà hạ một câu: “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu” (Đề đền Sầm Nghi Đồng) Đặt mình giữa cuộc đời, chuyện vị trí xã hội của nhi nữ và mày râu mà cân đong. Xuân Hương đã lồng cái coi thường tên tướng giặc trong cái chẳng chịu thua đàn ông. Xuân Hương nói “phận gái” chứ không phải “thân gái”. Đem cái “phận gái”, cái phận “rúc không khỏi ba ông táo” nếu đổi thành cái phận được trọng của “phận làm trai” Xuân Hương hẳn sẽ làm được những việc anh hùng chứ không phải cái “sự anh hùng” ô danh như tên tướng giặc!
  • 50. IV. TƯ TƯỞNG NHÂN ĐẠO VÀ HỒN THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG A. Tư tưởng và hồn thơ của “Bà chúa thơ Nôm” B. Nghệ thuật đặc sắc trong thơ Hồ Xuân Hương
  • 51. A Tư tưởng và hồn thơ của “Bà chúa thơ Nôm”
  • 52. 01 Xuân Hương và nỗi niềm đồng cảm trước những kiếp hồng nhan Từ cuộc đời và trải nghiệm thực tế của chính mình, Hồ Xuân Hương đưa vào thơ bà niềm cảm thông sâu sắc.
  • 53. 1.1 Người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất hạnh
  • 54. Người ta thường nói “hồng nhan đa truân”. Cuộc đời Xuân Hương – cuộc đời in dấu trong thơ bà là điển hình cho một kiếp “nổi nênh” của số “má đào”. Những người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, họ là những người phụ nữ tài sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận bi đát, bé nhỏ trong xã hội: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi, ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước) Hai chữ “thân em” sao mà xót xa, cơ cực. Toàn bộ xã hội trung đại được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo đạo đức. Cho nên, con người luôn được nhìn nhận ở phương diện đạo đức luân lí. Vì thế, văn chương xưa chia xã hội thành hai tuyến: thiện - ác, tốt – xấu với mục đích, chức năng nổi bật là giáo huấn. Chính vì vậy, con người sống theo luận lí đạo đức, theo lí trí thì được coi là chân chính; còn những người sống theo xúc cảm, theo những luân lí trần thế, nhân bản thì bị coi thường, chê trách.
  • 55. Vì vậy mà phụ nữ sinh ra đã được dạy phải làm đầy tớ cho chồng, phải chiều cả lòng thiên hạ: “Con đừng học thói chua ngoa Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười Dầu no dầu đói cho tươi Khoan ăn bớt ngủ liệu bài lo toan Phòng khi đóng góp việc làng Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng” (Ca dao) Tuy người phụ nữ có lòng yêu cuộc sống nhiệt thành, muốn níu kéo hạnh phúc về mình mà bất lực: “Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn, mướn không công” (Lấy chồng chung)
  • 56. Bản thân Xuân Hương cũng bị cái lễ giáo khắc nghiệt ấy cuốn chặt lấy nên bà không chỉ nói về nỗi khổ của mình mà còn nói thay cho những người đàn bà chung cảnh ngộ. Xuân Hương đã nói một cách trần trụi nhất, với cái mạnh mẽ của sự phản kháng và gắn chặt đời minh cùng với số phận của những người phụ nữ nói chung trong xã hội cũ. Ý thức sâu sắc về thân phận nên mỗi lời thơ Xuân Hương cũng như những tiếng “oán hận”, căm hờn của những bà, những mẹ, những chị: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” Lấy chồng chung)
  • 57. 1.2 Người phụ nữ với nỗi đau trong đường tinh duyên
  • 58. Người phụ nữ không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống mà còn đau khổ trong đường tình duyên. Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên, hai lần làm lẽ nhưng cả hai lần đều ngắn ngủi nên Xuân Hương rất hiểu và đồng cảm với phận của những người phụ nữ kém may mắn. Đó là nỗi khổ của người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa, người phụ nữ chết chồng... Điều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáo gay gắt, quyết liệt xã hội phong kiến thổi nát, mục ruỗng mà ít ai dám lên tiếng. Hồ Xuân Hương đã chỉ rõ cho chúng ta thấy thân phận khổ nhục của người làm lẽ, “năm thì mười họa” mới được gần chồng. Họ là thứ “làm mướn không công” và để thỏa ham muốn nhục dục của bọn nhà giàu: “Năm thì mười họa hay chăng chở. Một tháng đôi lần có cũng không. Cố đấm ăn xôi, xôi lại hầm Cầm bằng làm mướn, mướn không công” (Lấy chồng chung)
  • 59. Nhà thơ nói về thân phận của người phụ nữ làm lẽ đồng thời đó cũng là cảnh ngộ riêng của cuộc đời mình. Nhưng điều đáng nói là bà dám chống lại những quan niệm giáo lí đang thịnh hành đương thời, dám nói lên những khát vọng của mình. Bà ngang nhiên ca ngợi người phụ nữ “cả nề” trong tình yêu, dám dũng cảm, bao dung chấp nhận sự dở dang của tình yêu: “Mảnh tình một khối thiếp xin mang”. Ai cũng biết, cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; vì vậy, thơ Xuân Hương luôn là tiếng kêu xé lòng. Không chỉ cảm thông với thân phận của người làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chưa mà Hồ Xuân Hương còn muốn dỗ họ, muốn an ủi họ, muốn dịu dàng đùa với họ, để cho họ khuây khỏa nỗi đau và dìu họ trở lại với cuộc sống bình thường: “Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng Nín đi kẻo thẹn với non sông” (Dỗ người đàn bà khóc chồng) Lúc thì đùa nghịch nhưng rất thân tình: “Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì Thương chồng nên mới khóc tì ti...” (Bỡn bà lang khóc chồng)
  • 60. Hồ Xuân Hương đã trở thành một nhà thơ chống đối phong kiến quyết liệt, một con người đả kích gay gắt những kẻ đại diện cho giai cấp phong kiến thống trị cùng những gì chà đạp con người. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con” (Tự tình 2) Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thưở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình duyên, tình duyên đã ít lại còn phải chia ba sẻ bảy nữa. Đọc thơ bà, người đọc có cảm giác người phụ nữ gần như chưa một lần được bén mùi hạnh phúc.
  • 61. 02 Tiếng nói phê phán, đã kích giai cấp phong kiến thống trị
  • 62. Trong tác phẩm trữ tình, dù là cảm xúc ngợi ca, lên án, tố cáo hay sầu buồn thì đối tượng trung tâm mà tác phẩm hướng tới vẫn là hình ảnh con người. Thơ ca cũng như nghệ thuật, luôn vươn tới cái đẹp, tới những giá trị vững bền. Và ta nhận thấy rằng khi đặt cái đẹp trong những tương quan với những mặt đối lập thì cái đẹp càng rực rỡ, tỏa sáng. Vì vậy mà tiếng nói phê phán, đả kích giai cấp thống trị cũng là một cách ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ vậy. “Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay”. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách là người phụ nữ nói chung, họ còn bị áp bức về mặt giới tính với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ cũng không lặng câm mà chịu đau khổ, họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi. Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là nững tiếng kêu thương thất vọng. “Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn với tiếng nói của nhân dân lao động. Tiếng nói đã kích, tố cáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống văn học dân tộc, cũng như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm”. Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu... nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để đòi bình quyền để muốn nói rằng: họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn.
  • 63. Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vua khi vua không ra vua nữa. Riêng Hồ Xuân Hương với thân phận nữ nhi, chắc bà không có ý định chống vua, mà chỉ mắng nhẹ mà đau vô kể: Hồng hồng má phấn duyên vì cậy Chúa dấu yêu vua một cái này (Vịnh cái Quạt) Nếu đối với chúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bọn quan thị, nữ sĩ đã giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng. Đứng trước cái dị hợm, quái gở ấy, bà văng tục, bà chửi đổng, cười mỉa: Đố ai biết đó vông hay chốc Còn kẻ nào hay cuống với đầu (Vô âm nữ) Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ chịu nhiều nhất là bọn “hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Đối với “quân tử”, Xuân Hương không chỉ chôn chân chúng trước bức tranh thiếu nữ ngủ ngày, mà còn bắt chúng “mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” lên đèo Ba Dội. Bên cạnh những “hiền nhân quân tử” là đám nho sĩ dốt nát lại còn huênh hoang. Xuân Hương gọi chúng là “phường lòi tói”, là “lũ ngẩn ngơ”, xưng chị và đòi dạy chúng làm thơ: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ? Lại đây cho chị dạy làm thơ (Mắng học trò dốt)
  • 64. Sự dâm đãng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn thờ phật: Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà. Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha. (Chế sư) Không những thế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua: Khen thay con tạo khéo khôn phàm (Hang Thánh Hóa) Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc (hang Cắc Cớ) Qua thơ Xuân Hương ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế giễu, đả kích. Bà dùng tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai cấp thống trị để từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Nhưng thơ Xuân Hương đâu chỉ biết cười, mà đọc thơ bà ta nghe như có tiếng nấc bên trong. Tôi muốn lấy ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu thay cho lời kết của mình: “những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng cả lời nói, họ ném trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó thôi”.
  • 65. B Nghệ thuật đặc sắc trong thơ Hồ Xuân Hương
  • 66. 01 Sử dụng từ ngữ tinh tế, độc đáo, chính xác
  • 67. Đọc lại thơ Nôm Hồ Xuân Hương, ta thấy cần nói thêm đôi lời về cách biểu đạt âm thanh trong thơ chữ Nôm của nữ thi sĩ họ Hồ. Nó thể hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo có một không hai của một nhà thơ Việt Nam được yêu mến nhất từ trước đến nay. Âm thanh và vần điệu vốn là một trong những thủ pháp cơ bản để các nhà thơ tạo ra thần thái, cũng như sự hấp dẫn, quyến rũ cho thơ. Nó mang cho người đọc vẻ đẹp của ngôn ngữ, hình ảnh thơ thông qua những xúc cảm âm thanh, nhịp điệu. Tuy vậy, mỗi nhà thơ đều có cách biểu đạt âm thanh riêng, thể hiện phong cách và bản sắc sáng tạo. Thi sĩ họ Hồ đã cho người đọc tahays được điều này qua tác phẩm Tự tình 2 của mình:
  • 68. Ở bài thơ trên, tác giả đã vận dụng sáng tạo thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật với ngôn ngữ tiếng Việt nhưng không làm mất đi giá trị của thể thơ mà trái lại nó còn mang đến cho thể thơ cổ điển ấy một vẻ đẹp mới, gần gũi, thân thuộc hơn với người Việt. Xuân Hương sử dụng từ ngữ giản dị mà đặc sắc với những động từ mạnh (xiên ngang mặt đất/ đâm toạc chân mây), từ láy tượng thanh đã thể hiện khao khát đến cháy bỏng và sự nổi loạn trong tâm hồn của bà. Đồng thời, việc sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi (trăng khuyết chưa tròn, rêu từng đám, đá mấy hòn,...) đã diễn tả các cung bậc cảm xúc, sự tinh tế, phong phú trong tâm trạng của người phụ nữ khi nghĩ đến thân phận của mình. Âm thanh của đời sống sinh động muôn vẻ thường được vang vọng trực tiếp vào từng câu thơ của bà. Tôi tạm gọi đây là những âm thanh “nguyên thủy” được nhà thơ chắt lọc từ đời sống, từ thiên nhiên, vũ trụ. Đa số các nhà thơ tránh lối diễn tả trực tiếp này mà nó thường được thăng hoa, biến tấu qua bàn tay của những “phù thủy ngôn ngữ”. Những âm thanh này thường được các nhà thơ cho khúc xạ, ẩn nấp trong tâm trạng và xúc cảm, hoặc đi kèm với những hình ảnh, thán từ, thán ngữ… Với thơ Hồ Xuân Hương, thi sĩ thường dẫn bạn đọc đi lối tắt. Ta hãy nghe âm thanh của tiếng mõ và tiếng chuông bất ngờ vang lên trong bài thơ “Tự tình” của bà: “Mõ thảm không khua mà cũng cốc/Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”. Tiếng “cốc” và “om” quả thật rất tài tình và bất ngờ. Nhất là tiếng “cốc” đã làm người đọc giật mình, phá vỡ quy luật của cảm xúc, mà vang lên đột ngột, lạ lẫm, đầy thách thức. Điều kỳ lạ ở đây là tiếng “cốc” lại vọng ra từ “mõ thảm”, mà trước đó không ai động vào chiếc mõ đó.
  • 69. 02 Đưa nét dân gian vào thơ
  • 70. Hồ Xuân Hương đã vận dụng tối đa cách nói dân gian, dân dã, để tạo nên những câu thơ sinh động mà mang hàm nghĩa mới cho những từ tượng thanh: “Thương chồng nên phải khóc tì ti” (Khóc chồng làm thuốc), “Gió vật sườn non kêu lắc rắc/Sóng dồn mặt nước vỗ long bong” (Núi Kẽm Trống)… Hệ thống các từ láy tượng thanh mang đậm chất Việt Nam trong thơ Hồ Xuân Hương như “rúc rích”, “phập phòm”, “lõm bõm”, “lắc rắc”, “long bong”… cho thấy, chúng được phát ra trong tâm thế một kẻ du ca, luôn có ý thức phá vỡ cái nghiêm trang, giả tạo chốn cung đình, khuê các, mà hồn nhiên ăn nằm, cười khóc với nhân gian lấm láp, nhọc nhằn. Qua cách sử dụng từ ngữ nêu trên, nhà thơ cũng cho ta thấy cái tâm trạng, tâm thế của người viết thật trẻ trung, hóm hỉnh và tinh nghịch. Có một số câu thơ của Hồ Xuân Hương không nằm trong hệ thống các từ tượng thanh, nhưng khi đọc lên ta lại thấy vang vọng những âm thanh được phát ra từ những hình ảnh táo bạo, lạ lùng: “Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện/Trống mang dùi cắp đã phanh phanh” (Duyên kỳ ngộ).
  • 71. Nghệ thuật sử dụng âm thanh trong thơ ca vốn mang đặc trưng vùng miền, rộng hơn là trong phạm vi cộng đồng, dân tộc. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn những từ tượng thanh trong tiếng Việt đều có hình thức láy, thí dụ: oa oa, oe oe, ti tỉ, oai oái, chí chóe… Nhưng trong thơ Hồ Xuân Hương, ngoài những từ láy, ta thấy tác giả còn dùng từ đơn âm tượng thanh rất độc đáo, như “cốc”, “om”, “phòm”… Trong thơ Hồ Xuân Hương, việc sử dụng từ nói trên bắt nguồn từ ngôn ngữ dân gian, phong tục, văn hóa Bắc Bộ. Cái vỏ vật chất âm thanh của thơ bà luôn ăn khớp, hòa quyện với nội dung ý nghĩa của văn bản và càng làm gia tăng biểu nghĩa trong tiếng Việt, vốn là một ngôn ngữ đa âm sắc và giàu khả năng biểu cảm. Cách biểu đạt âm thanh trong thơ chữ Nôm của Hồ Xuân Hương thêm một lần nữa cho chúng ta thấy tài năng, bản lĩnh của “Bà Chúa thơ Nôm”.
  • 73. Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể mà họ còn là những con người có đầy tài năng. Tiếng thơ Xuân Hương là tiếng thơ của một người phụ nữ tài hoa, cá tính nhưng phải chịu sự gò bó của lễ giáo phong kiến khắt khe, kìm kẹp cuộc sống. Bao khao khát, bao nguồn sống mãnh liệt không được bộc lộ trong cuộc sống được bà gởi gắm cả vào trong thơ. Thơ Xuân Hương là những nỗi niềm không chỉ của riêng tác giả mà của tất cả những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến.Cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức phức tạp, còn nhiều điều chưa rõ. Dẫu sao ta cũng tự hào vì trong văn học Việt Nam có một nữ thi sĩ đầy tài năng lại xuất hiện trong một xã hội mục ruỗng. Ai cũng biết, cuộc đời đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ.
  • 74. Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám cất lên tiếng nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng định mình. Và cao hơn hết chính là tư tưởng nhân đạo trong thơ Xuân Hương đem lại cho đến nay vẫn còn giá trị. Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chưa có tầm nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con người, song Hồ Xuân Hương cũng đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc một tiếng thơ hết sức độc đáo. Thơ bà là thứ thơ giải phóng cá tính, dám khẳng định cá tính và bản lĩnh riêng. Bà là nhà thơ đầu tiên dám đưa cá tính vào trong thơ. Chính cá tính ấy đã giúp cho tiếng thơ của bà khi nói về người phụ nữ có một sắc thái riêng, hoàn toàn khác với những nhà thơ viết về phụ nữ trước đó và cả sau này. Hình tượng người phụ nữ trong thơ Xuân Hương luôn ngẩng cao ở tư thế hiên ngang, đầy bản lĩnh và bà không chìm vào khóc thương cho số phận của họ. Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ nữ. Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của người phụ nữ và đâu đó xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời chị em bất hạnh. Vì vậy, mà thơ Xuân Hương vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc thơ Xuân Hương, không chỉ là để đồng cảm, để sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm, suy ngẫm. Thơ của bà sẽ chảy mãi với nguồn cội văn học Việt Nam, là nguồn cảm hứng cho biết bao người, là nền móng của nhiều tác phẩm nghệ thuật ngày nay…..
  • 75. “Phận duyên be bé cơi trầu buồng cau Hẹn thề bên nhau đến khi bạc đầu Tròn lăn lông lốc trên dòng tình duyên Chuyện hợp hay tan còn chăng hồng nhan? Thuyền tình em đi có chăng vội vàng Chuyện tình em trôi ghềnh thác ngược xuôi Đêm khuya thanh vắng Trống canh dồn trong đêm đen Tim em đã hát mối duyên tình con con Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi Phải duyên ta lại thắm nồng cùng nhau Đừng xanh như lá, bạc như là vôi Thuyền tình em đi có chăng vội vàng Chuyện tình em trôi ghềnh thác ngược xuôi Đêm khuya thanh vắng Trống canh dồn trong đêm đen Tim em đã hát mối duyên tình con con” (Mời trầu – Masew, Tuấn Cry)
  • 76.
  • 77. Instructions for use In order to use this template, you must credit Slidesgo by keeping the Thanks slide. You are allowed to: - Modify this template. - Use it for both personal and commercial projects. You are not allowed to: - Sublicense, sell or rent any of Slidesgo Content (or a modified version of Slidesgo Content). - Distribute Slidesgo Content unless it has been expressly authorized by Slidesgo. - Include Slidesgo Content in an online or offline database or file. - Offer Slidesgo templates (or modified versions of Slidesgo templates) for download. - Acquire the copyright of Slidesgo Content. For more information about editing slides, please read our FAQs or visit Slidesgo School: https://slidesgo.com/faqs and https://slidesgo.com/slidesgo-school
  • 78. As a Premium user, you can use this template without attributing Slidesgo or keeping the "Thanks" slide. You are allowed to: ● Modify this template. ● Use it for both personal and commercial purposes. ● Hide or delete the “Thanks” slide and the mention to Slidesgo in the credits. ● Share this template in an editable format with people who are not part of your team. You are not allowed to: ● Sublicense, sell or rent this Slidesgo Template (or a modified version of this Slidesgo Template). ● Distribute this Slidesgo Template (or a modified version of this Slidesgo Template) or include it in a database or in any other product or service that offers downloadable images, icons or presentations that may be subject to distribution or resale. ● Use any of the elements that are part of this Slidesgo Template in an isolated and separated way from this Template. ● Register any of the elements that are part of this template as a trademark or logo, or register it as a work in an intellectual property registry or similar. For more information about editing slides, please read our FAQs or visit Slidesgo School: https://slidesgo.com/faqs and https://slidesgo.com/slidesgo-school Instructions for use (premium users)
  • 79. Fonts & colors used This presentation has been made using the following fonts: Concert One (https://fonts.google.com/specimen/Concert+One) Roboto Mono (https://fonts.google.com/specimen/Roboto+Mono) #f1c232 #b44141 #df7070 #a8d68c #7a9e64 #595959
  • 80. Storyset Create your Story with our illustrated concepts. Choose the style you like the most, edit its colors, pick the background and layers you want to show and bring them to life with the animator panel! It will boost your presentation. Check out How it works. Pana Amico Bro Rafiki Cuate
  • 81. Use our editable graphic resources... You can easily resize these resources without losing quality. To change the color, just ungroup the resource and click on the object you want to change. Then, click on the paint bucket and select the color you want. Group the resource again when you’re done. You can also look for more infographics on Slidesgo.
  • 82.
  • 83.
  • 84. JANUARY FEBRUARY MARCH APRIL PHASE 1 Task 1 Task 2 JANUARY FEBRUARY MARCH APRIL MAY JUNE PHASE 1 PHASE 2 Task 1 Task 2 Task 1 Task 2
  • 85.
  • 86.
  • 87. ...and our sets of editable icons You can resize these icons without losing quality. You can change the stroke and fill color; just select the icon and click on the paint bucket/pen. In Google Slides, you can also use Flaticon’s extension, allowing you to customize and add even more icons.
  • 90. Help & Support Icons Avatar Icons
  • 91. Creative Process Icons Performing Arts Icons