SlideShare a Scribd company logo
1 of 105
Download to read offline
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
____________________
Nguyễn Văn Công
NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ
TƯ TƯỞNG VÀ BÚT PHÁP TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU
1975
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
THƯ
VIỆN
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả học tập, nghiên cứu của tác giả khi kết thúc khóa đào tạo Cao
học tại Trường ĐHSP Tp.HCM. Để hoàn thành luận văn, người viết đã nhờ đến sự giúp đỡ
nhiệt tình của nhiều thầy cô, bạn bè và người thân.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Thành Thi – người đã
tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn này.
Người viết cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã tận tình chỉ dạy trong
suốt khóa học.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của gia đình và bạn bè đồng
môn trong suốt thời gian qua.
Nguyễn Văn Công
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, v
ới sự kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước, đất nước ta bước vào một thời kì mới, hòa bình, ổn định nhưng đồng thời cũng đối diện với
nhiều khó khăn thách thức của thời hậu chiến. Cuộc sống mới với nhiều đổi thay đòi hỏi văn học
cũng phải có sự chuyển mình biến đổi để kịp thời đáp ứng những yêu cầu của thời đại. Từ một nền
văn học “chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất
nước” suốt trong những năm tháng chiến tranh từ 1945 đến 1975, văn học Việt Nam sau 1975 đã
từng bước chuyển sang một giai đoạn mới. Đặc biệt kể từ năm 1986, hòa cùng công cuộc đổi mới
của đất nước, văn học Việt Nam đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều phương diện để làm nên
một diện mạo mới cho văn học nước nhà, trong đó sự vận động theo “khuynh hướng dân chủ hóa,
mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc” trở thành một đặc điểm nổi bật.
Trong quá trình v
ận động và phát triển của văn học Việt Nam qua hai giai đoạn nêu trên,
Nguyễn Minh Châu có vinh dự trở thành một trong số ít những nhà văn mà sáng tác đã trở thành
hiện tượng tiêu biểu cho văn học ở cả hai chặng đường. Đến với văn học vào thời điểm mà cả dân
tộc đang dồn sức cho cuộc chiến đấu chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu nhanh chóng khẳng định chỗ
đứng của mình trong lòng bạn đọc qua một loạt tác phẩm nóng hổi hơi thở đời sống chiến tranh và
cách mạng. Những Cửa sông, Dấu chân người lính, Những vùng trời khác nhau… đã góp thêm cho
văn học trước 1975 những trang viết hào sảng về những tháng ngày hào hùng của lịch sử đất nước.
Không chỉ là cây bút văn xuôi có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học thời kì kháng chiến
chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu còn thuộc trong số những người mở đường cho công cuộc đổi mới
văn học Việt Nam sau 1975. Trong cuộc chuyển mình đầy khó khăn của văn học những năm đầu
thời kì đổi mới, bằng một sự “dũng cảm rất điềm đạm” (Vương Trí Nhàn), ông đ
ã đã từng bước
thay đổi lối nghĩ, lối viết, lặng lẽ nhận lãnh vai trò của một người lính tiên phong trong việc vượt
lên chính mình, tìm một hướng đi mới cho mình và cho cả một nền văn học. Những tập truyện ngắn
của ông ra đời trong những năm 80 của thế kỉ XX đã trở thành một hiện tượng văn học thu hút được
nhiều sự quan tâm của dư luận.
Là nhà văn có quá trình sáng tác tiêu biểu cho sự chuyển mình của văn học Việt Nam qua hai
giai đoạn, 1945 – 1975 và sau 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu đương nhiên có những chuyển
biến trong tư tưởng và bút pháp. Đó là những chuyển biến như thế nào? Phải chăng có một mối
quan hệ nhân – quả giữa chuyển biến về tư tưởng (nhân) và chuy
ển biến về bút pháp ( quả) trong
sáng tác của nhà văn này? Việc tìm hiểu và trả lời một cách thỏa đáng những câu hỏi này sẽ giúp ích
nhiều cho nhà nghiên cứu trong việc tìm kiếm sự vận động mang tính qui luật trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu nói riêng và các nhà văn thế hệ ông nói chung.
Nguyễn Minh Châu cũng là tác giả có tác phẩm truyện ngắn được đưa vào giảng dạy trong
chương trình trung học (trước đây là Bức tranh – THCS, Mảnh trăng cuối rừng – THPT; sau này là
Bến quê – THCS, Chiếc thuyền ngoài xa – THPT). Việc nghiên cứu bước chuyển trong tư tưởng và
bút pháp của ông sau 1975 sẽ giúp cho việc giảng dạy phân tích tác phẩm truyện ngắn của ông trở
nên đúng hướng, sâu sắc, thỏa đáng hơn.
Đây cũng chính là những lý do chủ yếu khiến người viết lựa chọn đề tài “Những chuyển biến
về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975” để thực hiện luận văn cao
học của mình.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Là một trong những tác giả có vị trí quan trọng trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, đặc biệt là
trong giai đoạn đổi mới, Nguyễn Minh Châu và sáng tác của ông đã được các nhà nghiên cứu chú ý
tìm hiểu trên nhiều phương diện. Tính cho đ
ến nay, đã có hàng trăm bài viết đăng trên các báo và
tạp chí cùng rất nhiều những chuyên luận, công trình nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm của ông.
Theo cuốn sách Nguyễn Minh Châu – về tác gia và tác phẩm, thư mục tài liệu nghiên cứu tác gia,
tác phẩm Nguyễn Minh Châu ghi nhận có đến 150 bài viết và công trình nghiên cứu lớn nhỏ. Sáng
tác của Nguyễn Minh Châu còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn tốt nghiệp bậc đại học,
cao học.
Trên cơ s
ở khảo sát những tài liệu hiện có trong tay, chúng tôi nh
ận thấy các bài viết về
Nguyễn Minh Châu đã tiếp cận khá kĩ lưỡng cả hai phương diện con người và tác phẩm của nhà
văn. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu, sau đây, chủ yếu người viết sẽ chỉ điểm qua những ý kiến
và công trình nghiên cứu có liên quan đến truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
Như đã nêu, cùng v
ới tiểu thuyết, truyện ngắn là thể loại đem lại nhiều thành tựu cho sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Sức hấp dẫn của từng thiên truyện ngắn đã lôi cuốn các
nhà nghiên cứu đi sâu phâ n tích, m
ổ xẻ, đánh giá…Trong số những bài viết quan tâm đến truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu, có thể kể đến những ý kiến đáng chú ý của Nguyễn Kiên, Trần Đình Sử,
Nguyễn Văn Long, Lại Nguyên Ân, Phạm Vĩnh Cư, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Trọng Hoàn, Tôn
Phương Lan, Trịnh Thu Tuyết, Huỳnh Như Phương, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến, Hoàng Thị
Văn,…
Về các tác phẩm trong đó có truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thời kì chống Mĩ, các ý
kiến tỏ ra khá thống nhất khi đánh giá về cảm hứng sáng tác và bút pháp của tác giả thể hiện trong
các tác phẩm. Tiêu biểu là ý kiến của Mai Hương trong Lời giới thiệu Nguyễn Minh Châu toàn tập
(Nxb Văn học, H.,2001) : “Suốt trong những năm chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu đã dành trọn vẹn
nửa đời văn của mình đi sâu khám phá, phản ánh những “đề tài sinh tử” trong mảng hiện thực
chiến tranh và người lính cách mạng… Những tác phẩm nóng hổi hơi thở đời sống, như còn sặc
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
mùi thuốc súng, khói bom…đã phản ánh được khát vọng tinh thần cháy bỏng của của cả dân tộc,
thời đại – khát vọng độc lập, tự do – góp phần tái hiện bức tranh lịch sử hoành tráng của dân tộc
trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại… Những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong chiến tranh
thường nghiêng về vẻ đẹp hào hùng và tươi tắn của cả cộng đồng, nghiêng về những sự kiện vĩ đại,
những người anh hùng và đư
ợc thể hiện với bút pháp trữ tình đậm đà, giàu chất thơ. Ở đó, cảm
hứng trữ tình hòa nhập, giao thoa nhuần nhị với cảm hứng anh hùng”. Truyện ngắn Mảnh trăng
cuối rừng sáng tác ở giai đoạn này cũng thu hút được nhiều ý kiến giảng bình mà trong đó đa phần
là nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn con người trong chiến tranh và chất thơ trữ tình của thiên truyện.
Đặc biệt, trong những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã thu hút được sự quan
tâm sâu rộng từ phía bạn đọc và giới nghiên cứu.
Vào tháng 6 năm 1985, báo Văn ngh
ệ đã tổ chức một cuộc Trao đổi về truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu những năm gần đây. Trong cuộc hội thảo này, có những ý kiến vẫn còn tỏ ra băn khoăn,
nghi ngờ về những tìm tòi đổi mới của ông, cho rằng trong tác phẩm còn có điều gì đó “mung lung”,
“hụt hẫng”, “khó nắm bắt”, “kém đi vẻ chân thực sinh động ”. Nhiều ý kiến khác thì đánh giá cao
những tìm tòi, trăn trở trong ngòi bút của ông, ghi nhận tác phẩm của ông “có nhiều thành tựu, có
nhiều đóng góp rất đáng quý” [58, tr.288-311].
Sau cuộc hội thảo, nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu tiếp tục bàn luận về truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu, dần dần đi tới những thống nhất trong đó có sự khẳng định quá trình đổi mới
tích cực và đầy hiệu quả của ông. Về những tập truyện ra đời trong giai đoạn sau này, có thể kể đến
những ý kiến của Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân,...
Trần Đình Sử nhận xét rằng: “Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh, rồi tập Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện như là
một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới… Đặc sắc của tập Bến quê chủ yếu là
sự thể nghiệm một hướng trần thuật có chiều sâu…, phát hiện các hiện tượng đời sống trong chiều
sâu triết học và lịch sử, thể hiện nhu cầu chiêm nghiệm, tự đối thoại với chính mình và với ý thức
của mình… Có thể nói thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín là một đặc điểm nổi bật
mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu” [78, tr.505-508].
Lại Nguyên Ân, “khi nhận xét về xu hướng triết lí nhận thức trong những truyện ngắn gần
đây của Nguyễn Minh Châu”, đã tạm xếp thử các truyện ấy vào một số dạng chính, “Từ loại truyện
“tự thú” mà trung tâm thường là một nhân vật đang sám hối,…nhà văn chuyển sang thể nghiệm
loại truyện tuy có dạng thức tự nhiên khách quan nhưng phê phán gay gắt những lối sống vô ý
thức… Thêm một mức nữa, nhà văn đi tới loại truyện cũng có dạng khách quan tự nhiên, nhưng
không phải để lên án phê phán đối tượng cụ thể nào mà chủ yếu để nhận thức những tình thế,
những khía cạnh trái ngược vốn có trong đời sống con người…” [58, tr.269].
Một số ý kiến khác như của Ngọc Trai, khi nhận xét đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, đã cho r
ằng : “Phần lớn các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là loại truyện luận đề -
những luận đề về đạo đức, nhân văn, về tâm lí xã hội…” [58, tr.325]. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết
khác đi vào bình giá, phân tích giá tr
ị của từng truyện ngắn cụ thể, trong đó có sự ghi nhận những
tìm tòi đổi mới của nhà văn ở cả hai phương diện tư tưởng và bút pháp thể hiện.
Những năm sau khi Nguyễn Minh Châu mất, trong số những bài viết tiếp tục nghiên cứu về
truyện ngắn của ông, có nhiều bài viết đi theo một lối tiếp cận mới mà theo đánh giá của Đỗ Lai
Thúy (trong Phê bình thi pháp h
ọc như là sự thay đổi hệ hình ) thì “bài viết về Phiên chợ Giát của
Đỗ Đức Hiểu có ý nghĩa mở đường” [45, tr.109]. Đỗ Đức Hiểu đánh giá rất cao về truyện ngắn cuối
cùng của Nguyễn Minh Châu khi cho rằng: “ Phiên chợ Giát có một tầm cỡ lớn”;…“một truyện
mở; từ cái logic của ngôn ngữ trên bề mặt, truyện đi tới ngôn ngữ thứ hai, ngôn ngữ biểu tượng
xiêu vẹo, những ảo giác, với những cơn sốc, những nghịch lí, tức là một thế giới quyện nhòe giữa
hư và thực… Sự hóa thân người / bò của ông lão Khúng / Khoang Đen, sự phân đôi nhân cách ấy,
sự kết hợp hai ý thức con người / con vật ấy, là bi kịch của nhân vật, của thời đại…” [30, tr.256].
Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng: “Truyện này là một giả thuyết văn học về bản chất và thân phận
người nông dân…” [26, tr.237].
Có nhiều bài viết đi vào khai thác về một khía cạnh nào đó trong thế giới nghệ thuật của tác
phẩm như không gian nghệ thuật (Lê Văn Tùng), những hình ảnh biểu tượng (Dương Thị Thanh
Hiên)…
Dưới góc độ thi pháp thể loại, Bùi Việt Thắng đi vào tìm hiểu cấu trúc và tình huống trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, phân chia ra các d
ạng cơ bản là tình huống – tương phản, tình
huống – thắt nút, tình huống – luận đề [58, tr.313]. Cũng nhìn dưới góc độ thể loại, Phạm Vĩnh Cư
phát hiện ra “những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu” [58, tr.346].
Thời gian gần đây, tiếp tục có những ý kiến bàn về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Nguyễn
Trọng Hoàn, trong bài Tiếp tục hành trình đọc Nguyễn Minh Châu [58], đã dành nhiều trang viết về
truyện ngắn của ông và nhìn chung là các ý kiến ở đây khá nhất quán với những nhận định đã có
trước đó.
Trong công trình Truyện ngắn Việt Nam, lịch sử - thi pháp – chân dung do Phan Cự Đệ chủ
biên, in 2007, khi vi
ết về đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, người viết đã khái quát lại
trong hai luận điểm lớn. Đó là:
- Xu hướng ôm trùm những thể loại lớn
- Chất luận đề tan hòa vào tình huống và nhân vật
Theo chúng tôi, đây là những gợi mở đáng chú ý, có thể suy nghĩ để nghiên cứu thêm.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ngoài những bài viết đề cập trực tiếp đến truyện ngắn nêu trên, không thể không nhắc đến
hai chuyên luận nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu là Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu
(Nxb KHXH, 2002) của tác giả Tôn Phương Lan và Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn
học Việt Nam sau 1975 (Nxb ĐHSP, H. 2007) của các tác gi
ả Nguyễn Văn Long – Trịnh Thu
Tuyết. Những công trình này, dù có đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau, nhưng đều dành
nhiều dung lượng cho phần nghiên cứu mảng truyện ngắn.
Cuốn Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, như tên gọi của nó, không phải là công
trình nghiên cứu chuyên biệt về truyện ngắn, nhưng rõ ràng để khái quát và nhận diện phong cách
nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, không thể không nghiên cứu truyện ngắn. Trong công trình này,
Tôn Phương Lan đ
ã đi vào t
ìm hiểu tư tưởng nghệ thuật cũng như quan niệm nghệ thuật về con
người của Nguyễn Minh Châu, tìm hiểu hệ thống nhân vật cũng như nghệ thuật trần thuật, những
đặc điểm về ngôn ngữ và giọng điệu…, từ đó phác họa được những nét cơ bản về phong cách nghệ
thuật của nhà văn.
Cuốn Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đặt vấn đề
nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong sự vận động của văn xuôi đương đại
(chủ yếu từ 1975 trở đi). Người viết đã cố gắng chỉ ra quá trình vận động đổi mới của sáng tác
Nguyễn Minh Châu, tất nhiên trong đó có cả truyện ngắn, trên ba bình diện:
-Về quá trình đổi mới ý thức nghệ thuật mà trọng tâm là quan niệm nghệ thuật về con người:
từ con người được thể hiện chủ yếu ở bình diện xã hội trong những mô hình giản đơn và vận động
xuôi chiều đến con người cá nhân trong đời thường với những mối quan hệ phức tạp, đa dạng.
-Về thế giới nhân vật: Trư
ớc 1975, chủ yếu là dạng nhân vật loại hình, sau 1975, có các
dạng nhân vật tư tưởng, nhân vật tính cách, nhân vật thế sự. Nghệ thuật xây dựng nhân vật được đổi
mới nhờ vào các thủ pháp tăng cường độc thoại nội tâm; miêu tả nhân vật qua những chi tiết tâm lí
chân thực, tinh tế; khắc họa nhân vật qua những chi tiết ngoại hình sinh động
-Về đổi mới kết cấu và nghệ thuật trần thuật: từ cốt truyện có hành động bên ngoài chiếm ưu
thế (trước 75) chuyển sang cốt truyện không có biến cố; một số đổi mới ở các hình thức trần thuật từ
ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất; một số đổi mới về nhịp điệu trần thuật, giọng điệu trần thuật…
Như vậy, có thể nói hai cuốn sách trên đã đề cập đến được nhiều phương diện trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu, tuy nhiên, chúng không phải là những công trình nghiên cứu riêng biệt về
thể loại truyện ngắn.
Những đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cũng được đề cập khá nhiều
trong luận án tiến sĩ “Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90” (2001) của
Hoàng Thị Văn, trong chuyên luận “Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 –
2000” của Nguyễn Văn Kha (Nxb ĐHQG, 2006) . Ngoài ra cũng còn có nhiều ý kiến nhắc đến
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong những bài nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn sau
1975 mà luận văn không thể nêu hết. Những công trình nêu trên đã cho thấy sự quan tâm sâu sắc
của giới nghiên cứu đến sáng tác Nguyễn Minh Châu. Sức hấp dẫn của tác phẩm Nguyễn Minh
Châu, đặc biệt là mảng truyện ngắn chắc chắn sẽ còn cần thêm nhiều công trình nghiên cứu khác
quan tâm làm rõ.
3. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN
VĂN
Những bài viết đề cập trực tiếp đến truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mà tác giả luận văn đã nêu
ở phần trên, nhìn chung đã khai thác được khá đầy đủ nhiều phương diện trong truyện ngắn của ông.
Tuy nhiên, những bài viết trên, do chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nào đó hay chỉ đi sâu vào một
vài tác phẩm cụ thể nên chưa nói hết được những đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
một cách đầy đủ, cũng như chưa có một sự đánh giá toàn diện về những chuyển biến về tư tưởng và
bút pháp trong truyện ngắn của ông sau 1975. Những công trình nghiên cứu về phong cách nghệ
thuật hay sự đổi mới trong sáng tác Nguyễn Minh Châu đã nêu cũng chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ
thể những đặc trưng của thể loại truyện ngắn như là một vấn đề nghiên cứu chuyên biệt.
Đặt vấn đề nghiên cứu đề tài “Những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975”, luận văn muốn đi vào tìm hiểu truyện ngắn của ông dưới góc độ thể
loại, thấy được những nét chuyển biến trong tư tưởng và bút pháp nghệ thuật qua quá trình vận động
và đổi mới suốt chiều dài sự nghiệp sáng tác, đồng thời góp phần hiểu rõ hơn những đặc trưng
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Với định hướng như vậy, trong phạm vi của đề tài, luận văn sẽ tập
trung vào việc xem xét, đối chiếu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn trước
và sau 1975, từ đó làm rõ quá trình vận độn g chuyển đổi về quan niệm nghệ thuật và phương thức
biểu hiện trong truyện ngắn của nhà văn giai đoạn sau 1975 cùng những đóng góp của ông cho văn
học thời kì đổi mới.
Trên cơ sở đào sâu những phát hiện của những nhà nghiên cứu đi trước, luận văn cố gắng hệ
thống hóa và phân tích kĩ một số đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn
sáng tác trước và sau 1975, thấy được những đổi mới trong cách cảm nhận hiện thực và con người,
thấy được cùng với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật là sự thay đổi từ loại hình truyện ngắn sử thi
hóa sang loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa, thấy được những đóng góp của nhà văn về phương
diện nghệ thuật biểu hiện cho thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Phương pháp xã hội học được dùng để làm rõ sự tác động cũng như ảnh hưởng của hoàn
cảnh xã hội đối với quá trình vận động đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước và sau
1975.
Phương pháp lo
ại hình được sử dụng nhằm khảo sát, phân loại và xác định đặc điểm của
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong từng giai đoạn.
Phương pháp hệ thống giúp xác định vị trí truyện ngắn của ông trong tiến trình vận động của
văn xuôi Việt Nam qua hai giai đoạn.
Phương pháp so sánh đư
ợc dùng như là một phương pháp chủ yếu để thấy được những đổi
mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 so với giai đoạn trước đó.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thi pháp học, tự sự học và các thao tác nghiên
cứu hỗ trợ như thống kê, phân tích, tổng hợp...
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn, ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tham khảo, Phụ lục, được tổ chức triển khai
thành 3 chương:
Chương 1:
Truyện ngắn trong sáng tác văn học của Nguyễn Minh Châu
Chương 2 :
Những chuyển biến về quan niệm nghệ thuật và nội dung tự sự trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu (sau 1975)
Chương 3 :
Những chuyển biến về kĩ thuật thể loại, phương thức tự sự và lời văn nghệ thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (sau 1975)
Trong đó, chương 2 và chương 3 tập trung giải quyết một số nội dung chuyên sâu.
Chương 2 tập trung giải quyết hai nội dung chính:
- Bước chuyển về quan niệm nghệ thuật: khước từ văn chương “minh họa” để đến với văn
chương thực sự là cây đời; từ hứng thú với con người sử thi đơn phiến đến hứng thú với con
người thường nhật phức tạp, bí ẩn chưa biết hết,…
- Bước chuyển về nội dung tự sự: từ tự sự về “bài ca ra trận” của cộng đồng với những phẩm
chất huyền thoại của người anh hùng đến tự sự về những bi kịch, những nỗi đau, những lời
sám hối, những khủng hoảng, và cả hoài nghi…
Chương 3 tập trung làm rõ ba nội dung:
- Chuyển biến về kĩ thuật thể loại (tiểu thuyết hóa, phức thể hóa truyện ngắn)
- Chuyển biến về phương thức tự sự: phương thức khắc họa nhân vật, phương thức sử dụng
biểu tượng nghệ thuật, phương thức trần thuật (dịch chuyển, phối hợp điểm nhìn, vai kể,…)
- Chuyển biến trong cách sáng tạo ngôn từ: đa dạng hóa, phức điệu hóa lời văn nghệ thuật (các
loại diễn ngôn kể, diễn ngôn thoại, diễn ngôn trữ tình ngoại đề; tổ chức lời văn nghệ thuật,
giọng điệu nghệ thuật…).
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Chương 1:
TRUYỆN NGẮN TRONG SÁNG TÁC VĂN HỌC
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu
1.1.1. Cuộc đời nhà văn Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930 tại làng Thơi, xã Quỳnh Hải, thuộc
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ, Nguyễn Minh Châu đã được tạo điều kiện học hành khá
chu đáo. Học ở quê rồi vào Huế, học tiếp đến năm 1945 thi đỗ bằng Thành Chung. Những năm đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Minh Châu tiếp tục học trung học trong vùng kháng chiến.
Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn
Minh Châu tình nguy
ện vào quân đội, theo học trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Sau đó, Nguyễn
Minh Châu về công tác ở sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo h
ọc Trường Văn hóa quân đội ở Lạng
Sơn. Từ năm 1962 cho đến khi mất, Nguyễn Minh Châu làm việc tại tạp chí Văn nghệ quân đội.
Ông mất ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội.
Vốn là một sĩ quan tham mưu trong quân đội, Nguyễn Minh Châu sống và làm việc trước hết
với tư cách là một người lính, nhưng lại là một người lính viết văn. Cũng như đối với nhiều nhà văn
mặc áo lính cùng thời, công việc sáng tác đòi hỏi người cầm bút phải có nhiều lăn lộn thực tế ở
những nơi đầu sóng ngọn gió, ông đã tham gia nhiều chiến dịch, đã từng trải qua những khó khăn
gian khổ ở rừng Trường Sơn. Hòa bình lập lại, ông cũng đi nhiều nơi, vào thành phố Hồ Chí Minh
rồi trở ra Hà Nội, nhưng có lẽ dải đất miền Trung mới là miền đất để lại cho ông nhiều yêu thương
nhất. Hình ảnh cái làng quê nghèo ven biển miền Trung cứ trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của
ông như một nỗi ám ảnh khôn nguôi. Những năm cuối đời, ông còn ấp ủ dự định viết một cuốn tiểu
thuyết về cuộc chiến ở thành cổ Quảng Trị, rất tiếc nó không thể hoàn thành vì ông đã đột ngột ra đi
khi đang ở giai đoạn tài năng chín muồi nhất. Sau hơn một năm trời vật lộn với cơn bệnh ung thư
máu hiểm nghèo, ông đã vĩnh viễn chia tay với cuộc đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Viện
Quân y 108 Hà Nội.
Những người thân, những người bạn của ông cùng với nhiều người trong giới nghiên cứu
đương thời luôn dành cho ông một sự yêu quý và kính trọng sâu sắc. Họ nhìn thấy ở ông “một sự
dũng cảm rất điềm đạm” (Vương Trí Nhàn), “một chiến sĩ chiến đấu đến cùng cho điều mình nhận
thức là đúng” (Thái Bá Lợi), với vẻ ngoài “hiền lành, có khi lại còn nhút nhát nữa, nhưng bên trong
dường như có một ngọn lửa, ngọn lửa ấy luôn luôn tạo ra sức nóng ở nơi đầu ngọn bút” (Ngô Vĩnh
Bình)… Đọc những bài viết của họ về ông, ta hình dung ra một Nguyễn Minh Châu thâm trầm lặng
lẽ, ít nói nhưng giàu lòng thương yêu, luôn sống trung thực với chính mình và mọi người. Ông
không thích ồn ào, không thích bon chen tranh đoạt mà lặng lẽ nhẫn nại theo đuổi những công việc
và mục đích mình đã lựa chọn. Có cảm giác như ông luôn ngơ ngác giữa dòng đời xuôi ngược đầy
những hệ lụy phiền toái. Nhưng ông rất nhạy cảm và quyết liệt với những gì được coi là cái xấu, cái
ác, làm tổn hại đến con người. Và trên hết, Nguyễn Minh Châu là một người có ý thức sâu sắc về
thiên chức của nhà văn, về trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút.
Ở góc độ một công dân, ông đã làm hết sức mình để sống một cuộc sống có ích cho xã hội và
những người xung quanh mình. Ở góc độ một nhà văn, bằng tài năng và tấm lòng nhiệt tình yêu
nghề, với thái độ điềm đạm nhưng cũng hết sức dũng cảm, ông cũng đã dành trọn cuộc đời mình để
cống hiến hết thảy cho những mục tiêu cao đẹp của văn chương nghệ thuật, xứng đáng là “niềm
hãnh diện của những người cầm bút về một đời văn trong sáng và trọn vẹn” (Nguyễn Khải).
1.1.2. Sáng tác văn học của Nguyễn Minh Châu
Con đường sáng tác văn chương của Nguyễn Minh Châu bắt đầu tương đối muộn, mãi đến
năm 1960 m
ới bắt đầu có sáng tác đầu tiên, và chỉ thực sự được bạn đọc biết đến với tiểu thuyết
Cửa sông in năm 1967. Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu đã để lại 9 cuốn
tiểu thuyết, 4 tập truyện ngắn, 1 tập tiểu luận phê bình và một số bút kí, truyện ngắn khác đăng rải
rác trên các báo, tạp chí.
Các tác phẩm đã xuất bản gồm : Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau
(tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết viết
cho thiếu nhi, 1974), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977),
Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, 1981), Những người đi từ trong rừng ra (tiểu
thuyết, 1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn, 1983), Đảo đá kì lạ (tiểu
thuyết viết cho thiếu nhi, 1985), Bến quê ( tập truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu ( tiểu thuyết,
1987), Cỏ lau (tập truyện, 1989), tập tiểu luận phê bình
Có thể nói với một khối lượng sáng tác tương đối dày dặn như trên, Nguyễn Minh Châu đã
kịp ghi tên mình vào lịch sử văn học Việt Nam hiện đại như một tên tuổi hết sức quan trọng.
Trang giâý trước đèn...
Là một nhà văn quân đội, tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết nhiều về đề
tài chiến tranh như là một điều tất yếu. Tác phẩm “Dấu chân người lính” của ông từ lúc mới ra đời
đã được bạn đọc và giới nghiên cứu đánh giá cao, được xem như là một trong những tiểu thuyết tiêu
biểu viết về chiến tranh chống Mĩ. Bám sát hiện thực đời sống những năm chiến tranh, các sáng tác
của Nguyễn Minh Châu trước 1975 (Cửa sông, Những vùng trời khác nhau, Dấu chân người
lính…) đã cho chúng ta một cái nhìn tương đối trọn vẹn về một thời kì hào hùng của cả dân tộc.
Sau 1975, hiện thực cuộc sống mới đòi hỏi văn học phải có sự nhìn nhận toàn diện và thấu
đáo hơn. Là một nhà văn luôn có ý thức gắn bó với đời sống, nhạy cảm với những đổi thay của thời
cuộc, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những vấn đề mới của đất nước ngay vào thời điểm
chuyển giao từ chiến tranh sang hòa bình. Trong các tiểu thuyết Miền cháy, Những người đi từ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
trong rừng ra, Mảnh đất tình yêu…, mảng hiện thực quen thuộc về chiến tranh cách mạng và người
lính vẫn tiếp tục được ông quan tâm nhưng các vấn đề đặt ra trong tác phẩm đã cho thấy ở nhà văn
một cách nhìn khác trước. Ngòi bút nhà văn hướng đến nhiều vấn đề đặt ra ở thời kì hậu chiến như
việc tổ chức lại cuộc sống và làm ăn kinh tế trong thời kì mới, vấn đề giải quyết hậu quả và hàn gắn
những vết thương chiến tranh, vấn đề chống lại những tiêu cực mới nảy sinh trong cuộc sống hôm
nay…
Trước đây, ngay trong những năm tháng chiến đấu chống Mĩ ác liệt, Nguyễn Minh Châu đã
từng băn khoăn : “Ngòi bút của chúng ta sẽ trở nên phản bội người chiến sĩ nếu chỉ biết cái lúc họ
vác súng ra mặt trận với một tâm hồn phơi phới mà không biết cái lúc buồn bã, đau đớn, những lúc
đói rét, những lúc nằm giữa đồng đội chết và bị thương, trong bùn lầy, trong mưa bom bão đạn… ”
[14, tr.190]. Sau chi
ến tranh, cái nhìn sử thi lí tưởng hóa về con người của văn học một thời tỏ ra
không còn phù h
ợp khi đối mặt với thực tế bộn bề, phức tạp của cuộc sống thường nhật. Ý thức
hướng tới một thứ văn chương sâu sắc hơn đã trở thành một nhu cầu hết sức bức xúc trong ông, đòi
hỏi ở ông một sự thay đổi quyết liệt hơn. Với tiểu luận “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh họa” (1987), Nguyễn Minh Châu đã mạnh dạn đề nghị đoạn tuyệt với lối văn chương
minh họa “chỉ quen với công việc cài hoa kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ đã có sẵn”, quyết
tâm chọn cho mình một hướng đi mới, tiếp cận đời sống và con người dưới góc độ nhân bản. Nhà
văn lặng lẽ và kiên trì thực hiện một loạt những cuộc đối chứng lại với quá khứ để nâng tầm tác
phẩm, tạo ra trong tác phẩm của mình một chiều sâu suy nghĩ và nhận thức mới về con người. Ông
muốn tác phẩm văn chương phải làm “hiện lên những mẫu người của xã hội với tất cả da thịt và hơi
thở, với tất cả những mầu vẻ của những mối quan hệ xã hội bên ngoài và những gì đang được giấu
kín và cũng đang giao tranh với nhau ở bên trong: những lý tưởng và dục vọng, trí tuệ và bản năng,
thiện và ác, những phần con người ý thức được và những phần vô thức của con người mà chỉ ngòi
bút nhà văn mới có thể soi sáng, lý giải và báo hiệu” [14,tr.345].
Bằng tài năng và tâm huyết của một nhà văn luôn trăn trở với sự nghiệp văn học nước nhà,
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những thay đổi trong tư duy nghệ thuật của mình qua một loạt tác
phẩm có nhiều tìm tòi, khám phá. Những truyện ngắn viết vào những năm 80 của thế kỉ XX in trong
các tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau của ông đã tạo nên một hiện
tượng mới lạ trong văn học đương đại. Bạn đọc từng biết đến Nguyễn Minh Châu như một cây bút
tiểu thuyết tên tuổi giờ đây còn phát hiện ở ông một tài năng viết truyện ngắn hết sức tài hoa, độc
đáo. Đánh giá về vai trò của Nguyễn Minh Châu đối với văn học sau 1975, nhà văn Nguyên Ngọc
trân trọng khẳng định: “Thời gian, nhà phê bình nghiêm khắc và công bằng ấy rồi sẽ xác định lại
đúng đắn hơn nữa vị trí của Nguyễn Minh Châu. Song tôi nghĩ, hôm nay có lẽ cũng đã có thể nói
không sai rằng Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất
của văn học ta hiện nay”.
Các bài phê bình, ti
ểu luận cùng với những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao ra đời trong
thập kỉ 80 là minh chứng rõ nét cho bước chuyển âm thầm mà quyết liệt của hành trình đổi mới ở
Nguyễn Minh Châu, đem đến cho ông một vị trí không thể thay thế trong giai đoạn quá độ của văn
học Việt Nam sau 1975.
Không chỉ trong sáng tác, ông còn lưu lại dấu ấn cá nhân của mình qua những trang tiểu luận
phê bình hết sức sâu sắc được viết rải rác suốt một khoảng thời gian dài, sau này được tập hợp lại
trong cuốn Trang giấy trước đèn. Các bài tiểu luận của ông đã đề cập đến nhiều phương diện trong
quá trình văn học: từ tác dụng của văn học đến mối quan hệ giữa văn học và đời sống chiến tranh
cách mạng, mối quan hệ giữa nhà văn – nhân vật – bạn đọc, vai trò và trách nhiệm của người cầm
bút, chân dung nhà văn, kinh nghi
ệm sáng t ác… Những bài viết của ông cũng đã góp phần không
nhỏ vào việc tạo nên một không khí sôi nổi trong đời sống văn học những năm cuối thế kỉ XX, đồng
thời giúp cho người đọc hôm nay hiểu thêm về con người và sáng tác của ông, một trong những nhà
văn đi đầu công cuộc đổi mới văn học.
Đời văn của Nguyễn Minh Châu được khép lại với thiên truyện ngắn nổi tiếng Phiên chợ
Giát. Được viết trên giường bệnh trong những ngày cuối đời, thiên truyện đặt dấu chấm hết cho một
đời văn đầy nhọc nhằn nhưng cũng rất đáng tự hào của ông.
1.2. Truyện ngắn và hành trình đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Với những đóng góp sau ba mươi năm
miệt mài cầm bút, Nguyễn Minh Châu đã vinh dự được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học và nghệ thuật (đợt II, năm 2000).
1.2.1. Truyện ngắn và truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
1.2.1.1. Truyện ngắn (khái niệm – đặc trưng – ưu thế thẩm mĩ)
Truyện ngắn hiện đại là một thể loại hết sức quen thuộc và gần gũi nhưng để tìm một định
nghĩa duy nh
ất, đầy đủ và chính xác về nó thì không dễ. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, truyện
ngắn được xác định như sau: “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm
hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn.
Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [23, tr.370]. Mục
Truyện ngắn trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cũng ghi nhận đây là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ,
thường được viết bằng văn xuôi… Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng…” [1,
tr.345].
Nhìn chung, các nhà nghiên c
ứu đều thống nhất nhận dạng truyện ngắn trước hết ở dung
lượng và tính chất của nó. “Hình thức tự sự nhỏ, ngắn” trở thành đặc điểm hàng đầu và cũng là dấu
hiệu đầu tiên để người đọc nhận ra diện mạo của truyện ngắn.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Cũng chính do dung lượng ngắn là yếu tố thuộc về bản chất nên khác với các hình thức tự sự
cỡ lớn, truyện ngắn có tính cô đọng, hàm súc cao.
Với dung lượng câu chữ giới hạn, truyện ngắn giúp người đọc có thể tiếp nhận liền mạch
trong một khoảng thời gian ngắn. Đây cũng là thế mạnh của những hình thức tự sự cỡ nhỏ, tỏ ra hết
sức phù hợp với xu thế của thời đại bùng nổ thông tin hiện nay.
Thông thường, một truyện ngắn có thể kéo dài từ vài ba trang đến mấy chục trang. Số chữ
trung bình trong một truyện ngắn khoảng từ 10.000 đến 12.000 chữ nhưng có thể nhiều hoặc ít hơn.
Trong cuốn Truyện ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm, tác giả Lê Huy Bắc có ghi nhận là : “Dung
lượng truyện ngắn kéo dài từ vài chục chữ đến khoảng 20.000 chữ” [3, tr.28].
Bên cạnh đặc điểm “ngắn”, các nhà nghiên cứu còn khu biệt truyện ngắn ở tính chất giới hạn
trong việc phản ánh đời sống và ở hiệu quả nghệ thuật mà nó tạo ra khi so sánh với một thể loại gần
gũi là tiểu thuyết.
Cùng thuộc về loại hình tự sự hư cấu bằng văn xuôi, truyện ngắn và tiểu thuyết tuy gần gũi
nhưng vẫn có những đặc trưng thẩm mĩ khác nhau. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn ít nhiều bị
hạn hẹp trong khuôn khổ của một không gian, thời gian có tính giới hạn. “Khác với tiểu thuyết là thể
loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng
tới việc khắc họa một hiện tượng, phác họa một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống
tâm hồn con người…” [23, tr. 370].
So với truyện ngắn, tiểu thuyết thường có cấu trúc phức tạp với nhiều nhân vật trung tâm,
nhiều chủ đề, nhiều tuyến cốt truyện đan xen nhau. Trong khi đó, mỗi truyện ngắn thường xoay
quanh một chủ đề tập trung, có xu hướng ưu tiên cho những cốt truyện có quy mô nhỏ, có tính khám
phá, gợi vấn đề, số lượng nhân vật cũng ít hơn.
Chỉ là một “lát cắt đời sống”, nhiệm vụ chính của truyện ngắn cũng không phải là trình bày
đầy đủ một bức tranh xã hội rộng lớn mà chủ yếu là tập trung thể hiện một khoảnh khắc, một bước
ngoặt quan trọng nào đó của đời sống, của đời người.
Do vì ngắn mà vẫn không phải là tiểu thuyết rút ngắn nên chất lượng nghệ thuật của truyện
ngắn thường được yêu cầu cao ở sự chọn lọc, cô đúc, tiết kiệm. Một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn vẫn có
thể có những đoạn tầm thường, những phần dàn trải nhưng truyện ngắn thì không được phép như
thế. Ở đây, mỗi chữ mỗi câu, mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết đều phải đáng giá. Vì thế khi sáng tác
truyện ngắn, nhà văn cần chọn lựa ngôn từ, tìm kiếm các chi tiết tiêu biểu có giá trị biểu đạt cao
nhằm tạo nên một chiều sâu chưa nói hết cho nhân vật, cho tác phẩm. Kết cấu của một truyện ngắn
hay đòi hỏi phải có sự chặt chẽ, đảm bảo sự thống nhất cao độ để có thể tạo nên một hiệu quả nghệ
thuật duy nhất, từ đó tạo nên một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nói như Nguyễn Minh
Châu : “Chỉ cần ít trang văn xuôi… có thể làm nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ người đọc những
điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc
lại vẫn không thấy chán” [14, tr.313].
Là thể loại có khả năng cập nhật và thích ứng linh hoạt, trong quá trình phát triển của mình,
truyện ngắn hiện đại cũng đã dung chứa và bao hàm những đặc điểm của nhiều thể loại khác. Nhìn
sang tiểu thuyết, kịch, thơ trữ tình, bút kí…, truyện ngắn đã biết chọn cho mình mọi kiểu dung
lượng, mọi phong cách khác nhau để làm tròn vai trò của một thể loại nhanh nhạy, đi đầu trong việc
đáp ứng những yêu cầu của đời sống xã hội.
1.2.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong sự nghiệp văn học của ông
Như đã nêu, n
ếu xét về số lượng trang viết, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu
nghiêng về thể loại tiểu thuyết hơn là thể loại truyện ngắn. Tuy nhiên, không vì thế mà nói rằng
truyện ngắn ít có vai trò hơn trong việc làm nên tên tuổi của ông. Nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư,
trong một bài viết của mình về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tuy không phủ nhận những thành
tựu của mảng tiểu thuyết nhưng vẫn cho rằng: “…cái mà nhà văn đ
ể lại cho đời lại không phải là
những tác phẩm dài hơi ấy, mà là dăm ba truyện ngắn in rải rác trên báo chí, trong các tập truyện
cuối đời của anh” [58, tr.346]. Đi vào t
ìm hiểu sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Minh
Châu qua hai giai đo
ạn, nhất là giai đoạn sau 1975, ta thấy truyện ngắn có một vị trí đặc biệt trên
nhiều bình diện: lượng, chất, nhịp độ chuyển biến, khả năng thể hiện tư tưởng nghệ thuật đáp ứng
tinh thần “tiên phong” trong hoạt động sáng tác của nhà văn,… Khảo sát hành trình đổi mới trong
sáng tác Nguyễn Minh Châu, chỉ cần nhìn vào quá trình sáng tác ở mảng truyện ngắn, ta đã có thể
nhận thấy được một cách rõ nét những chuyển biến trong tư tưởng và bút pháp của nhà văn qua hai
giai đoạn trước và sau 1975, nếu không nói là nổi bật và dễ nhận thấy hơn là ở mảng tiểu thuyết.
Nguyễn Minh Châu mở đầu nghiệp văn của mình bằng một truyện ngắn và kết thúc cũng
bằng một truyện ngắn. Truyện ngắn đầu tay “Sau một buổi tập” của Nguyễn Minh Châu được in
trên tạp chí Văn nghệ quân đội vào năm 1960. Ti
ếp sau đó là một loạt các truyện ngắn khác cũng
được đăng trên tạp chí này. Theo tài liệu mà người viết có trong tay, tính đến 1975, ông có tất cả 19
truyện ngắn, gồm 7 truyện in trong tập “Những vùng trời khác nhau”, 11 truyện khác đăng trên tạp
chí Văn nghệ quân đội (Xem Phụ lục, Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 5, Nxb Văn học, 2001) và 1
truyện in trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) nhưng thời gian sáng tác là năm
1967 (truyện Mùa hè nămấy ). Ngoài ra còn ph
ải kể thêm “ Ký sự hai bờ đất” mà tác gi
ả luận văn
cho là có tính ch
ất của một truyện ngắn hơn là một bài kí. Nhìn chung, chất lượng của các truyện
ngắn giai đoạn này không đồng đều. Những truyện ngắn ở giai đoạn đầu như Sau một buổi tập, Con
đường đến trường học, Buổi tập cuối năm…chỉ có tính chất thử nghiệm, chất lượng nghệ thuật chưa
cao. Những truyện hay hơn đã được tuyển chọn vào tập Những vùng trời khác nhau, trong số đó có
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Mảnh trăng cuối rừng được xem là truyện hay nhất và cũng tiêu biểu nhất cho cảm hứng và bút
pháp trữ tình, lãng mạn của nhà văn.
Sau 1975, Nguyễn Minh Châu có 23 truyện ngắn, gồm 8 truyện in trong tập “Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành”, 9 truyện in trong tập “Bến quê”, 3 truyện in trong tập “Cỏ lau”, 3 truyện
đăng trên t
ạp chí Văn nghệ quân đội (Chú chim, Ch
ợ Tết, Sân cỏ Tây Ban Nha – xem Phụ lục,
Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 5).
Điểm qua quá trình sáng tác truyện ngắn của ông, ta có thể nhận thấy số lượng truyện ngắn
viết sau 1975 dù không nhiều hơn bao nhiêu nhưng có chất lượng vượt trội so với các truyện viết
trước 1975. Những truyện được đánh giá cao như Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát…đều thuộc về giai đoạn
thứ hai này.
Căn cứ vào thời gian ra đời và những chuyển đổi trên nhiều phương diện nghệ thuật, có thể
coi Bức tranh là tác phẩm đánh dấu bước ngoặt trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu qua hai giai
đoạn trước và sau 1975. Thiên truyện này được viết từ 1976, ngay sau khi kết thúc chiến tranh
nhưng mãi đến 1982 mới được in. Dù không phải là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu
nhưng truyện ngắn này đã cắm một cột mốc quan trọng trong hành trình sáng tạo văn học của nhà
văn, dự báo cho sự ra đời những tác phẩm tiếp theo với một quan niệm, một mô hình, một bút pháp
hoàn toàn mới. Từ đây, cái nhìn của nhà văn đã thay đổi theo hướng tiến gần đến sự thực hơn, quan
tâm nhiều hơn đến hiện thực đời thường với số phận của con người cá nhân.
Xuất phát từ mối quan tâm lo lắng của nhà văn về những vấn đề phức tạp nảy sinh trong cuộc
sống mới thời hậu chiến, mỗi truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thời kì này thường ngầm chứa
một bức thông điệp nào đó về đạo đức, lối sống, về quan niệm nhân sinh. Cùng với Bức tranh, một
loạt truyện ngắn ra đời sau đó đã cho người đọc thấy được nhiều ưu tư trăn trở của ông về cuộc sống
và con người, trong đó nổi bật lên vấn đề về sự thức tỉnh của lương tâm để hướng tới cái đẹp và sự
hoàn thiện nhân cách. Ông lưu ý mọi người về sự độc ác hồn nhiên ngoài ý muốn (Đứa ăn cắp),
nhắc nhở về lối ứng xử của con cái đối với cha mẹ (Mẹ con chị Hằng), cảnh báo về hậu quả của lối
sống gia trưởng (Giao thừa), ông day d
ứt về hậu quả của sự đánh mất bản thân mình ( Sắm vai),
mong muốn mỗi người hãy luôn tự đối chứng, tự vấn lương tâm (Bức tranh, Hạng)…
Tiếp theo những thể nghiệm bước đầu trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, các
tập Bến quê, Cỏ lau ra đời sau đó càng được dư luận đặc biệt chú ý, được xem “như là một hiện
tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới”. Lấy số phận con người làm tiêu điểm cho lăng
kính nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đi sâu khám phá những tầng vỉa sâu thẳm của thế
giới bên trong con người. Trong các truyện ngắn của ông, xu hướng triết lí nhận thức ngày càng rõ
nét hơn, con người trong tác phẩm luôn khao khát nhận thức, chiêm nghiệm đời sống, tự đối thoại
và tự nhận thức mình trong mối tương quan với tự nhiên và xã hội. Đằng sau những câu chuyện đời
thường trong Dấu vết nghề nghiệp, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối chứng… là những
chiêm nghiệm sâu sắc về lẽ đời, là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống.
Các truyện như Khách ở quê ra, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Phiên chợ Giát… còn như
muốn bao quát thêm nhiều vấn đề có tính lịch sử vào trong cái nhỏ bé của một đời người. Về nội
dung phản ánh, ở các truyện này vấn đề không chỉ là “một lát cắt của đời sống” mà đã có tham vọng
muốn tái hiện diễn tiến của một cuộc đời, một số phận với nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp. Nhà
văn dường như muốn thông qua câu chuyện về một cuộc đời mà gợi lên những vấn đề có tầm vóc
dân tộc, thời đại.
Muôn mặt đời thường đã đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, đem lại cho tác phẩm của
ông sự đóng góp quan trọng trong việc nỗ lực lấp đầy một khoảng trống của văn chương trước đó
bằng cái hằng ngày, bằng những số phận cá nhân trong đời sống cộng đồng. Ông quan niệm: “Con
người vừa dễ hiểu vừa đầy bí ẩn. Chúng ta đào bằng ngòi bút cho đến cùng đáy cái thật chứa đầy bí
ẩn, đầy nỗi niềm nguồn cơn của con người đất nước mình thì sẽ gặp con người nhân loại, sẽ gặp cái
nhân bản của nhân loại, con người Việt Nam sẽ giao hòa với nhân loại” [14,tr.144]. Việc tìm tòi,
khám phá, đào sâu vào b
ản chất con người cũng là con đường để tác phẩm của ông vươn đến tiếp
cận với những giá trị vĩnh hằng của cuộc đời.
Song song v
ới việc mở rộng diện phản ánh dưới một góc nhìn mới, truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu sau 1975 c
ũng có nhiều thay đổi về bút pháp thể hiện. Quan niệm nghệ thuật về con
người thay đổi tất yếu kéo theo nhiều sự thay đổi về nghệ thuật biểu đạt: từ nhân vật đến cốt truyện,
tình huống, giọng điệu, ngôn ngữ … Một điều đáng ghi nhận nữa là về mặt dung lượng, một số
truyện ngắn sau 1975 có xu hướng mở rộng số trang nhiều hơn thông thường. Có khá nhiều truyện
dài trên 60 trang (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Mùa
trái cóc ở miền Nam, Phiên chợ Giát ), đặc biệt có truyện dài đến cả 100 trang như Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành. Có lẽ vì vậy mà nhiều người đã gọi những truyện này là truyện vừa chứ
không phải truyện ngắn.
Để lí giải cho việc Nguyễn Minh Châu chuyên tâm về thể loại truyện ngắn trong giai đoạn
thập niên 80, ta cần phải nhắc đến ý kiến của ông trong cuộc trao đổi do tuần báo Văn nghệ tổ chức:
“Cái đời sống của ngày hôm nay nó bắt tôi phải quan tâm…, tôi muốn dùng ngòi bút tham gia trợ
lực vào cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu bên trong mỗi người…”. Và theo như l
ời ông nói:
“Mỗi truyện ngắn tôi nêu ra một trường hợp cụ thể và xen vào mạch kể chuyện, tôi bàn bạc về quan
niệm sống hoặc báo động một điều gì” [58, tr.294].
Như vậy, lí do chính nằm ở tính kịp thời và khả năng tác động mạnh mẽ của truyện ngắn
trong việc thể hiện những vấn đề nóng hổi của cuộc sống hằng ngày. Mặt khác, tính hàm súc và khả
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
năng khái quát ở chiều sâu của truyện ngắn giúp cho nhà văn vẫn có thể biểu hiện được những vấn
đề xã hội có tầm khái quát rộng lớn qua những câu chuyện đời thường.
Phát huy thế mạnh của thể loại, truyện ngắn chính là nơi chuyên chở những tư tưởng nghệ
thuật mới của Nguyễn Minh Châu. Sự đầu tư của ông cho thể loại truyện ngắn đã thu được nhiều
thành quả tốt đẹp, đồng thời góp phần tạo nên một diện mạo mới cho văn học nước nhà.
1.2.2. Hành trìnhđổi mới của truyện ngắn N guyễn Minh Châu trong hành trìnhđổi
mới văn xuôi Việt Nam (từ văn học thời chiến sang văn học thời hậu chiến và thời hội nhập)
1.2.2.1. Văn xuôi Việt Nam – từ văn học thời chiến sang văn h
ọc thời hậu chiến (sau
1975)
Năm 1975 là một mốc son lịch sử đánh dấu một thời kì mới của đất nước. Chiến tranh đã đi
qua và đất nước bước vào thời kì xây dựng trong hòa bình. Văn học cũng như nhiều lĩnh vực đời
sống xã hội khác đứng trước yêu cầu cần phải có sự thay đổi để giải quyết những vấn đề mới nảy
sinh từ cuộc sống sau chiến tranh.
Quá trình phát triển của văn học Việt Nam sau 1975 có thể chia ra làm hai chặng đường tiếp
nối nhau: từ 1975 đến 1985 là chặng đường có tính chất chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến
tranh sang văn h
ọc thời hậu chiến; từ 1986 trở đi, văn học chính thức bước vào giai đoạn đổi mới
một cách toàn diện.
Những năm đầu sau 1975, văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật và
những cảm hứng chủ đạo trong thời kì chiến tranh trước đó. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian giao
thời này, ở một số cây bút nhạy cảm với những vấn đề của đời sống, ý thức muốn đổi mới đã bộc lộ
qua việc thay đổi cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sống.
So với thơ ca, văn xuôi có nhiều khởi sắc hơn. Một loạt các sáng tác của Nguyễn Khải (Gặp
gỡ cuối năm, Thời gian của người), Nguyễn Mạnh Tuấn (Đứng trước biển, Cù lao Tràm), Ma Văn
Kháng (Mùa lá rụng trong vườn), Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến
quê)… ra đời và được bạn đọc hoan nghênh đón nhận. Các sáng tác nói trên đã khởi ra một hướng
tiếp cận mới, chú ý nhiều đến mảng hiện thực đời thường, đặc biệt là các vấn đề đạo đức – thế sự.
Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986), văn học thật sự bước vào thời kì đổi mới. Đường
lối đổi mới của Đảng đã tạo động lực lớn lao cho sự chuyển biến mạnh mẽ của đời sống văn học
nghệ thuật nước nhà, mở ra một thời kỳ mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy
và nhìn thẳng vào sự thật. Không khí dân chủ được đề cao hơn.
Văn xuôi ti
ếp tục khởi sắc với nhiều tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao như Thời xa
vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh, Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp…Tiếp tục
hướng đi đã được khai mở ở chặng trước, nhiều cây bút đã đi vào “thể hiện mọi khía cạnh của đời
sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phồn tạp mà vĩnh hằng”
[45, tr.12]. Hiện thực đời sống được khám phá trên nhiều phương diện, nhất là đời sống nội tâm con
người với những trăn trở, khát vọng thầm kín mà trước đây văn học thời chiến tranh chưa có điều
kiện nói đến. Tinh thần nhân văn, ý thức cá nhân đã trở thành cảm hứng sáng tạo cho các văn nghệ
sĩ.
Cùng với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật, các nhà văn đã có nhiều tìm tòi đổi mới về những
phương diện nghệ thuật. Văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn
trần thuật đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng các thủ pháp độc thoại nội tâm và dòng ý thức,
tính đa thanh, đa giọng điệu…
Nhìn chung, văn học Việt Nam từ sau 1975 trong đó có văn xuôi đã vận động theo khuynh
hướng dân chủ hóa, đổi mới các quan niệm về văn học, quan niệm nghệ thuật về con người, phát
huy cá tính sáng t
ạo và phong cách nghệ thuật của nhà văn với những tìm tòi, thể nghiệm mới về
nghệ thuật.
1.2.2.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: từ loại hình truyện ngắn sử thi hóa sang loại
hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa có tính tổng hợp cao
Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về phân loại truyện ngắn. Dựa vào tiêu
chí phân loại là tư duy nghệ thuật, có thể chia truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975
theo các loại hình truyện ngắn sử thi hóa và loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa.
Khảo sát sơ bộ về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong quá trình sáng tác, có thể thấy trong
giai đoạn đầu, truyện ngắn của ông được sáng tác theo hướng sử thi hóa, chuyển sang giai đoạn sau
1975 là những truyện ngắn được sáng tác theo hướng tiểu thuyết hóa.
Cũng như nhiều sáng tác của giai đoạn 1945 – 1975, một giai đoạn mà văn học “có đặc điểm
gần gũi và mang “tính tương đồng” về chất liệu và nội dung phản ánh hiện thực” [19, tr.314],
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mang đậm tính chất sử thi trên nhiều phương diện.
Nói đến truyện ngắn sử thi hóa không phải là muốn đề cập đến quy mô sử thi của tác phẩm
mà chủ yếu muốn nói đến tính chất sử thi trong tư duy nghệ thuật, trong cách nhìn nhận con người
và đời sống hiện thực. Biểu hiện của truyện ngắn sử thi hóa là ở sự chiếm lĩnh và bao quát những
vấn đề hiện thực lớn lao của dân tộc, của đất nước; giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm là ngợi ca,
khẳng định; nhân vật được khai thác chủ yếu ở những nét đẹp tiêu biểu cho phẩm chất và ý chí của
cộng đồng; trong truyện luôn tồn tại một “khoảng cách sử thi” [2, tr.35,38] giữa nhân vật và chủ thể
trần thuật…
Hoàn cảnh đất nước ta trong giai đoạn 1945- 1975 là một hoàn cảnh đặc biệt. Đối mặt với hai
cuộc chiến tranh ác liệt chống Pháp và chống Mĩ, vấn đề được quan tâm hàng đầu là sự sống còn
của cả dân tộc. Yêu cầu đặt ra cho tất cả mọi người lúc này là phải lấy trách nhiệm công dân, nghĩa
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
vụ đối với đất nước làm phương châm hành động, là thước đo cao nhất để định giá mọi giá trị. Văn
học giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy việc phục vụ chính trị, phục vụ cách mạng làm
nhiệm vụ hàng đầu. Ý thức công dân cùng với nhiệt tình của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư
tưởng đã thúc giục các nhà văn hòa mình vào cuộc sống chiến đấu lao động của nhân dân, kịp thời
phản ánh và biểu dương những việc làm tốt, những tấm gương anh hùng. Những vấn đề khác trong
cuộc sống của con người tạm thời được gạt sang một bên, hoặc có được đề cập đến thì cũng chỉ là
để thêm chút “gia vị” làm cho hình ảnh “con người mới” thêm sinh động. Những vấn đề của cuộc
sống đời thường được nâng lên tầm sử thi, được soi chiếu theo góc nhìn của các quan hệ chính trị.
Xét truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn trước 1975, ta thấy nhà văn đề cập chủ yếu
đến hai mảng hiện thực lớn là cuộc sống chiến đấu chống giặc ngoại xâm, công cuộc xây dựng chế
độ mới và những khoảnh khắc đời thường của con người trong bối cảnh của cuộc sống thời chiến.
Không khí chiến trường không chỉ có ở nơi tiền tuyến mà còn hiện diện ở cả hậu phương, trong thao
trường huấn luyện và cả trong những giây phút riêng tư của cuộc sống gia đình. Có thể nói đây cũng
là những không gian mang màu sắc sử thi của thời đại.
Bám sát hiện thực đời sống chiến tranh, Nguyễn Minh Châu kịp thời có nhiều truyện ngắn
viết về đủ loại quân binh chủng, từ những người lính phòng không (Những vùng trời khác nhau,
Câu chuyện trên trận địa…), những chiến sĩ hải quân (Lá thư vui), bộ đội giao thông, thanh niên
xung phong (Mảnh trăng cuối rừng)… Bên cạnh những truyện ngắn viết về cuộc chiến chống Mĩ
cứu nước, nhà văn cũng còn mở rộng sang những mảng đề tài khác như câu chuyện về cuộc nổi dậy
của những người dân quê năm đói Ất Dậu (Những hạt thóc lép), một người phụ nữ với cuộc đời mới
ở một nông trường khai hoang (Đất rừng)… Dù viết về đề tài gì thì chung quy lại vẫn không nằm
ngoài những vấn đề được quan tâm hàng đầu của cả đất nước lúc bấy giờ.
Qua những câu chuyện dù bình thường hay bất ngờ, đầy kịch tính, cái đích cuối cùng vẫn là
biểu dương vẻ đẹp của con người sống hết mình cho lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH. Các nhân
vật như Nguyệt, Lãm (Mảnh trăng cuối rừng), Sơn, Lê (Những vùng trời khác nhau), Ngạn (Nguồn
suối),…được xây dựng như là những biểu tượng cho vẻ đẹp của con người thời đại. Họ đều là
những con người giàu lòng yêu nước, yêu lí tưởng cách mạng. Cuộc đời riêng của họ hòa vào cuộc
đời chung của dân tộc. Những suy nghĩ riêng tư của họ nếu có thì cũng hướng về cái chung, vì lợi
ích của tập thể, của số đông. Những câu chuyện của họ cũng là của nhiều người, bên cạnh họ luôn
có sự hiện diện của tổ chức, của đồng đội, của nhân dân sẵn sàng ủng hộ, giúp đỡ. Tính cách của
nhân vật vì vậy có tính nhất quán, được khai thác chủ yếu ở các khía cạnh tích cực. Nhà văn dùng
những lời lẽ hết sức trân trọng để ca ngợi vẻ đẹp của họ. Giọng điệu chính trong tác phẩm là giọng
ngợi ca, tự hào, khẳng định.
Trong những truyện ngắn sử thi này, chiều hướng vận động của cốt truyện nhìn chung đều
phát triển theo mô hình đơn nhất. Số phận của nhân vật thường trải qua những biến cố bất lợi ban
đầu nhưng cuối cùng đều kết thúc trong th
ắng lợi hoặc tạo ra một niềm tin lạc quan về sự chiến
thắng. Chính điều này cũng góp phần tạo nên âm hưởng lãng mạn hào hùng cho hầu hết các tác
phẩm.
Một điều đáng lưu ý là bên cạnh những truyện ngắn đậm chất sử thi được đánh giá cao như
Mảnh trăng cuối rừng, ở một số truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn này còn xuất hiện màu
sắc đời tư rõ nét. Ở các truyện như Chuyện đại đội, Lá thư vui, Đất rừng, chất đời tư thể hiện qua
những chi tiết gần gũi ấm áp tình người, những cảm xúc cùng sự quan tâm mà con người dành cho
nhau. Đấy là những chi tiết xoay quanh sự ra đời của chú nghé con trong doanh trại của một đại đội,
chi tiết về những giây phút hồi hộp đầy thương yêu của cô trò lớp mẫu giáo khi nhận được nhhững
bức thư từ tiền tuyến, chi tiết về cảnh ngộ éo le trước khi lên công trường khai hoang của cô Ngàn
trong Đất rừng. Chất đời tư trong những tác phẩm này một mặt có tác dụng điểm xuyết để câu
chuyện thêm sinh động, mặt khác làm cho chất sử thi trong truyện mang một nét mới không còn
giống với đặc điểm sử thi truyền thống. Riêng trong truyện Đất quê ta, cách nhìn cùng v
ấn đề mà
tác giả đặt ra hoàn toàn khác các tác phẩm vừa nêu. Qua câu chuyện về cô diễn viên điện ảnh tên
Hương mải mê chạy theo những ảo ảnh phù hoa để rồi gia đình tan vỡ, tác giả muốn đặt ra vấn đề
về sự tha hóa trong nhân cách con người, sự lựa chọn của mỗi người để đem lại hạnh phúc cho mình
và người thân. Dĩ nhiên truyện ngắn này trở thành tiếng đàn lạc điệu trong dàn đồng ca sử thi thời
ấy, nhưng đã hé lộ một hướng đi sẽ được nhà văn triệt để khai thác sau này.
Khác với tư duy sử thi, tư duy tiểu thuyết “là một cách nhìn, cách tiếp cận với thế giới và con
người hết sức tỉnh táo, phi huyễn hoặc, phi thành kính, xóa bỏ mọi khoảng cách, đó là sự cảm thụ
sống động tính phức tạp vô tận, tính mâu thuẫn nội tại và sự biến động liên tục của sinh tồn, đó là
sự phát hiện ra con người nhiều chiều, con người không đồng nhất với chính mình, không thể hóa
thân đến cùng vào cái thân xác xã hội – lịch sử hiện hữu của mình, với những mối quan hệ biện
chứng chằng chịt giữa tính cách và hoàn cảnh của nó” [58, tr.348].
Trong giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
chuyển dần sang xu hướng tiểu thuyết hóa mà biểu hiện chủ yếu là sự quan tâm đến những vấn đề
của đời thường, của số phận con người trong những mối quan hệ đa dạng, phức hợp của đời sống;
cảm hứng ngợi ca, khẳng định được thay bằng cảm hứng suy tư, chiêm nghiệm; nhân vật được
khám phá ở chiều sâu tâm lí cùng với những mâu thuẫn giằng xé phức tạp; khoảng cách trần thuật
giữa nhân vật và chủ thể trần thuật dần thu hẹp; tính thống nhất sử thi đã bị phá vỡ, thay vào đó là
sự đa giọng điệu với nhiều tiếng nói khác nhau…
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Lấy thể tài đời tư, đời thường làm trung tâm cho cảm quan nghệ thuật, nhà văn hướng cái
nhìn của mình vào hiện thực bề sâu trong số phận con người. Những vấn đề lớn lao của cuộc sống
sau chiến tranh được xu hướng tiểu thuyết hóa kéo xuống mặt bằng đời thường. Trong truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu sau 1975, đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được khai thác nhưng bắt đầu được
nhìn với những góc độ khác trước. Trong Bên đường chiến tranh, dù vẫn tiếp tục sử dụng bút pháp
trữ tình quen thuộc trước đó nhưng câu chuyện tình của An và Hạnh đã mang một sắc thái khác.
Chiến tranh đã để lại một dấu ấn buồn lên cuộc tình đẹp của họ trong sự chờ đợi mỏi mòn đến tận
cuối đời của nhân vật. Đến Cơn giông, Cỏ lau… bộ mặt chiến tranh còn hiện ra ở cả mặt trái khốc
liệt của nó với những mất mát, đau thương không gì bù đắp nổi, con người hiện ra không chỉ với
lòng dũng cảm cao thượng mà còn ở những ích kỉ nhỏ nhen, cả ở sự phản bội.
Những vấn đề đời tư tạm gác lại trong giai đoạn trước, bây giờ lại được đặt ra cụ thể với sự
thôi thúc quy
ết liệt hơn. Đó là các vấn đề hạnh phúc cá nhân, những cô đơn, nỗi buồn của con
người, những nguyên tắc ứng xử giữa con người trong mối quan hệ phức tạp của đời thường…Nhà
văn quan tâm đ
ến mọi chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày như trong các truyện Mẹ con
chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K…Nhà văn nhập thân vào nhân vật, nói lên tiếng nói bên
trong của nhân vật với nhiều suy tư ngẫm ngợi về bản thân và cuộc đời. Nhân vật không còn là
những mô hình trùng lặp mà trở nên sinh động hơn trong tính toàn vẹn chỉnh thể của nó và cũng
chính vì vậy mà không hề đơn giản dễ hiểu. Các nhân vật như Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành), lão Khúng (Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát) sẽ còn tiếp tục làm nhiều thế hệ người đọc
phải tranh luận mà không dễ đi đến những thống nhất. Trong cái nhìn không còn bị ngăn cách bởi
những quan niệm, định kiến cũ kĩ, nhà văn nhìn thấy trong mỗi con người là một thế giới riêng với
biết bao điều vừa giản dị vừa phức tạp, vừa tầm thường vừa hết sức cao thượng, đẹp đẽ.
Bên cạnh sự chuyển đổi từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu sau 1975 còn có xu hướng tổng hợp vào bản thân mình đặc điểm của các thể loại khác. Có thể
gọi đây là xu hướng phức thể hóa, tức là ngoài những yếu tố thuộc về bản chất của thể loại, truyện
ngắn còn pha trộn thêm các yếu tố của tiểu thuyết, trữ tình, kịch…
Rõ nét nhất là sự pha trộn với chất tiểu thuyết mà biểu hiện trước hết là sự nới rộng về kích
thước và phạm vi phản ánh. Phạm vi cuộc sống được phản ánh không còn bó hẹp trong một không
gian, thời gian giới hạn. Dung lượng truyện nở rộng cho phép tái hiện không chỉ là một khoảnh khắc
của đời sống mà còn là câu chuyện về một đời người, một thế hệ, một dòng họ…
Lấy Phiên chợ Giát làm ví dụ. Đọc truyện này ta dễ dàng nhận thấy nó không đơn giản chỉ là
một “lát cắt” của cuộc đời, mà là một cuộc đời thật sự, vắt mình qua nhiều giai đoạn của lịch sử đất
nước. Nhiều vấn đề có ý nghĩa tầm cỡ đã được gợi lên từ câu chuyện của một gia đình nông dân,
không chỉ là chuyện một đời, một người mà còn là chuyện của một thời, một đất nước. Tuy nhiên,
tác phẩm này không là tiểu thuyết mà vẫn là một truyện ngắn nhờ vào cách tổ chức có tính dụng ý
của tác giả. Nội dung câu chuyện có thể mở ra nhiều chiều kích đa dạng nhưng vẫn được khéo léo
khuôn vào trong m
ột tình huống cụ thể – cái tình huống của hành trình giải thoát cho con Khoang
đen chợt nảy lên trong suy nghĩ bất chợt của lão Khúng có được từ những giấc mơ đầy ám ảnh. Và
khi gấp sách lại, người đọc vẫn không thể nào dứt bỏ khỏi tâm trí mình hình ảnh cái giây phút trớ
trêu khi ngư
ời chủ và con bò nhìn nhau ảo não, phiền muộn. Chính tình huống truyện và cái ấn
tượng mạnh mẽ mà nó đem lại đã đảm bảo cái chất “ngắn” cho thiên truyện. Nói cách khác, truyện
mang trong mình cái tham vọng của tiểu thuyết muốn khái quát cuộc đời ở một tầm vóc lớn lao hơn
nhưng về cấu trúc vẫn có tính chặt chẽ của một truyện ngắn.
Tầm khái quát được nâng lên một mặt đòi hỏi truyện ngắn phải tăng cường độ nén để có thể
ôm chứa được nhiều đề tài, chủ đề, đặt ra nhiều vấn đề về các phạm trù đạo đức, lí tưởng, thân phận
con người…, mặt khác phải có sự biến hóa về khuôn khổ. Chính vì thế mà trong nhiều truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau này có sự tăng vọt về số trang.
Khảo sát sơ bộ truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (dựa vào bản in trong Nguyễn Minh Châu
toàn tập), người viết nhận thấy ở giai đoạn trước 1975, truyện có số trang ít nhất là 8 trang (Con
đường đến trường học), truyện có số trang nhiều nhất là 30 trang (Đất rừng), đa số còn lại dao động
từ khoảng 20 trang đến dưới 30 trang. Sau 1975, tình hình đổi khác rất nhiều. Trong số 23 truyện,
có đến 11 truyện có độ dài từ 30 trang trở lên. Trong đó có một số truyện có tầm vóc của một truyện
vừa, nếu căn cứ vào độ dài, gồm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (103 trang), Khách ở quê
ra ( 49 trang), Sống mãi với cây xanh ( 83 trang), Cỏ lau ( 90 trang), Mùa trái cóc ở miền Nam (74
trang), Phiên chợ Giát ( 68 trang).
Sự khảo sát trên chỉ có tính tương đ
ối ( dựa trên bản in trong Nguyễn Minh Châu toàn tập,
Nxb Văn học, 2001, khổ 14 x 20,5 cm, in cỡ chữ lớn), mục đích chính là để thấy được sự thay đổi
về độ dài truyện ngắn của ông qua hai giai đoạn. Nếu dựa vào bản in trong Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn h
ọc, 2006, khổ 14,5 x 20,5, gồm 25 truyện, in cỡ chữ nhỏ, thì số
lượng trang có rút ngắn so với trên. Ví dụ: Mảnh trăng cuối rừng (trong toàn tập) dài 25 trang thì ở
tuyển tập còn 18 trang, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ở tuyển tập chỉ còn 69 trang, Cỏ lau
ở tuyển tập còn 60 trang…
Bên cạnh việc học tập tiểu thuyết, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 còn nhìn sang
các thể loại khác như trữ tình, kịch để tạo nên sự đa dạng hóa trong cách thức diễn đạt. Cốt truyện
co giãn linh ho
ạt, có lúc chứa đựng những tình huống giàu kịch tính như trong Bức tranh, Cơn
giông, Chiếc thuyền ngoài xa, Mùa trái cóc ở miền Nam…, có lúc thiên về những tình huống giàu
tâm trạng như trong Bến quê, Cỏ lau, Phiên chợ Giát... Việc tăng cường những cốt truyện tâm lí, đi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
sâu vào thế giới nội tâm, xen lẫn vào mạch truyện những đoạn bình luận ngoại đề giúp tạo nên chất
trữ tình triết luận cho tác phẩm.
Như vậy, trong sự tương tác với các thể loại khác, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
ngày càng có xu hư
ớng hiện đại hơn so với trước. Chất hiện đại trong truyện N guyễn Minh Châu
sau 1975 còn làở chỗ nhà văn không cố khuôn vào một kiểu loại cụ thể. T ùy vấn đề mà có cách tổ
chức khác nhau, không cứ ngắn hay dài, chặt chẽ hay lỏng lẻo, quan trọng là hình thức đó phải
chuyển tải được những nghiền ngẫm của nhà văn, tùy thuộc vào độ lớn của cái điều ông muốn nói
ra thông qua những câu chuyện hết sức gần gũi.
Nguyễn Minh Châu thuộc vào số những nhà văn mà trong hành trình sáng tác của mình, gắn
với sự đổi thay của đất nước qua từng giai đoạn, đều có những tác phẩm xuất sắc nói lên được
những vấn đề của thời cuộc. Sự chuyển đổi từ loại hình truyện ngắn sử thi hóa sang loại hình truyện
ngắn tiểu thuyết hóa, phức thể hóa trong sự nghiệp sáng tác của ông dường như là một sự vận động
tất yếu để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Vấn đề đáng nói là ở Nguyễn Minh Châu, sự vận động
chuyển đổi đó diễn ra quyết liệt và đúng vào thời điểm mà văn học rất cần một tiếng nói tiên phong
để cất lên giọng điệu đổi mới, thay đổi cái giọng đồng ca mà một thời rất cần thiết nhưng nay đã đến
lúc không thể giữ nguyên như cũ.
Chương 2:
NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
VÀ NỘI DUNG TỰ SỰ TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU (sau 1975)
Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù hết sức quan trọng trong sáng tác của
bất kì nhà văn nào. “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con
người đã được hóa thân thành các nguyên t
ắc, phương tiện, biện pháp, hình thức thể hiện con
người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật trong đó”
[78, tr.59]. Như vậy, quan niệm nghệ thuật về con người là cốt lõi tư tưởng, là cách nhìn nhận, thể
hiện con người bằng nghệ thuật của tác giả. Tìm hiểu về sự thay đổi trong truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu trước và sau 1975 không thể không xét đến những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật
về con người của ông. Sự thay đổi về quan niệm nghệ thuật tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về nội
dung tự sự và bút pháp thể hiện trong quá trình sáng tạo tác phẩm văn học của nhà văn.
2.1. Bước chuyển về quan niệm nghệ thuật
Quá trình nhà văn khước từ văn chương “minh họa” để đến với văn chương thực sự là cây
đời; từ hứng thú với con người sử thi đơn phiến đến hứng thú với con người thường nhật phức tạp,
bí ẩn chưa biết hết,…
2.1.1. Sáng tạo nghệ thuật là một thứ lao động hết sức nhọc nhằn, vất vả và luôn phải tự làm
mới mình để tồn tại và phát triển. Trong hành trình sáng tạo ấy, người nghệ sĩ phải dám chấp nhận
dứt bỏ những giá trị cũ khi chúng đã lỗi thời và không còn nhiều ý nghĩa. Đây là điều hết sức khó
khăn nhưng cũng hết sức cần thiết.
Vượt lên chính mình đã khó, vượt lên cả một hệ thống còn khó khăn gấp bội. Trong bối cảnh
của những năm sau 1975, khi văn học có dấu hiệu “chững lại và không ít người viết lâm vào tình
trạng bối rối” [45, tr.10], những trăn trở, tìm tòi đổi mới của Nguyễn Minh Châu thực sự là những
nỗ lực đáng trân trọng. Lời kêu gọi “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”
được coi như là một tuyên ngôn nghệ thuật của ông, có thể có tính cực đoan nhưng trên hết đó là sự
khát khao thay đổi hết sức mạnh dạn và quyết liệt.
Trước đây, trong những năm chiến tranh, với ý thức về trách nhiệm của một nhà văn – chiến
sĩ, Nguyễn Minh Châu từng tâm niệm: “Lẽ nào có thể làm ngơ được ? Lẽ nào chúng ta có thể viết
những câu văn trái với điều nhiều người chung quanh hiện đang phải lo nghĩ để chiến thắng giặc ?
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, mỗi người viết văn đang tự chứng tỏ tư cách ngòi bút của
mình trên mặt trận cứu nước. Chưa lúc nào bằng lúc này, thái độ nhà văn trước vận mệnh chung
của dân tộc lại đặt ra cấp bách và nghiêm khắc đến như thế” [14, tr.28]. Trong nhận thức và tình
cảm của nhà văn, viết để góp phần chống giặc cứu nước là một lẽ sống hết sức tự nhiên. Từ tâm
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
niệm ấy đã xuất hiện những trang viết chứa đầy nhiệt huyết của thời đại (Cửa sông, Dấu chân người
lính, Những vùng trời khác nhau…), góp ph
ần không nhỏ vào thàn h tựu chung của nền văn học
cách mạng.
Được định hướng bởi những quan điểm chỉ đạo về văn nghệ của Đảng, nội dung tác phẩm
của Nguyễn Minh Châu, trong đó có truyện ngắn, luôn bám sát những vấn đề chính trị - xã hội của
đất nước. Nhà văn xây dựng các nhân vật chủ yếu nhằm khái quát vẻ đẹp của con người thời đại,
biểu dương lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Những Nguyệt, Lãm (Mảnh
trăng cuối rừng), Sơn, Lê (Những vùng trời khác nhau)… là những hình tượng đẹp có tính chất điển
hình mà nhà văn đã đóng góp cho văn học thời chống Mĩ. Có thể dễ dàng nhận ra ở trong họ những
phẩm chất tiêu biểu nhất cho vẻ đẹp của con người thời đại bấy giờ như giàu lòng yêu nước, say mê
lí tưởng, gan dạ dũng cảm, sẵn sàng hi sinh tình cảm cá nhân, lợi ích riêng tư cho lợi ích của cộng
đồng, dân tộc.
Quán triệt định đề văn học phải phản ánh đời sống, phục vụ chính trị, tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu trước 1975, dù muốn hay không, ít nhiều cũng là những bức tranh minh họa cho những
chủ trương, đường lối văn nghệ của Đảng. Mỗi nhân vật của ông đều có đời sống riêng, đều được
khắc họa trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau, tuy nhiên, sự phong phú ấy không nhằm nói lên
sự đa dạng phức tạp trong tính cách, số phận con người mà chủ yếu là muốn cho thấy bộ mặt nhiều
vẻ của dân tộc, nhân dân trong sự đồng lòng quyết tâm thực hiện những nhiệm vụ cao cả chống giặc
ngoại xâm, giành lại độc lập tự do cho đất nước. Chiến tranh là nền cảnh chủ yếu của đời sống cộng
đồng, có vai trò như một không gian khung, một sân khấu để nhân vật hoạt động. Qua nhân vật, nhà
văn thể hiện sự quan sát, đánh giá, bày tỏ tình cảm thái độ về cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc.
Đời sống cá nhân của con người chưa thực sự trở thành đối tượng chủ yếu để nhà văn phản ánh mà
chỉ là một yếu tố trong bức tranh hiện thực lịch sử xã hội của tác phẩm.
Có lẽ lúc bấy giờ, trong ông chưa xuất hiện khái niệm “văn nghệ minh họa”, tuy nhiên cũng
ngay trong những tháng ngày mơ mộng và hào hùng ấy, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những
bất cập: “Hình như cuộc chiến đấu anh hùng sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ ca đôi khi
tráng lên một lớp men “trữ tình”hơi dày, cho nên ngắm nó thấy mỏng mảnh, bé bỏng và óng chuốt
quá khiến người ta phải ngờ vực” [14, tr.33].
Những manh nha về một bước chuyển trong nhận thức nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu,
như vậy đã có từ sớm nhưng phải đến những năm sau 1975, xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống, đặc
biệt là trong không khí đổi mới từ Đại hội VI thì mới được bộc lộ một cách triệt để.
Khi chiến tranh kết thúc, cuộc sống dần trở lại với nhịp sống bình thường của nó thì cũng là
lúc có nhiều vấn đề mới nảy sinh. Con người không chỉ biết mỗi việc là cầm súng đánh giặc mà còn
phải biết làm kinh tế, phải biết tổ chức lại cuộc sống của mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh của
thời bình. Cuộc sống thay đổi làm cho các nhu cầu của con người cũng thay đổi, những vấn đề cơm
áo, gạo tiền, địa vị xã hội… trở thành những mối lo âu thường trực trong suy nghĩ của nhiều người.
Đối mặt với hiện thực đời thường, ý thức cá nhân trong mỗi con người được thức tỉnh, đòi hỏi phải
được đáp ứng, phải được quan tâm. Quan hệ đời sống cũng trở nên phức tạp hơn, các ranh giới,
khuôn mẫu trong thời chiến nay đã bị xóa nhòa hoặc biến dạng. Bên cạnh cái tốt, cái thiện, bắt đầu
xuất hiện những cái xấu, cái ác nấp trong những vỏ bọc không dễ phát hiện. Lối sống bao cấp trong
nhiều năm dài làm cho con người quen với những nếp nghĩ đơn giản, khiến cho họ không khỏi có
những bỡ ngỡ, va vấp khi đối diện với những thực tế hoàn toàn khác trước. Trong hoàn cảnh ấy, văn
học cũng cần phải có sự điều chỉnh để nhìn lại mình và tìm tòi một hướng đi mới, một cách tiếp cận
mới đối với hiện thực đời sống và con người.
Với mong muốn làm cho tác phẩm phải tiếp cận được với chân lí đời sống, Nguyễn Minh
Châu tâm niệm: “Cái ngày hôm nay với những khó khăn không cho phép chúng tôi, những người đã
nếm trải chiến tranh, đã biết như thế nào là cái nghiêm khắc của chiến tranh, cầm bút một cách
điệu đàng, ca ngợi và vuốt ve đời sống một cách dễ dãi” [14, tr.110].
Giống như Nam Cao, Nguyễn Minh Châu quan ni
ệm nghệ thuật phải được bắt rễ từ cuộc
sống hiện thực, người nghệ sĩ không được dễ dãi với những cách nhìn đơn giản một chiều mà “phải
đào bằng ngòi bút cho đến cùng đáy cái thật chứa đầy bí ẩn” để có thể hiểu và cảm thông với số
phận vất vả của người lao động. Cái nhìn đa chiều giúp cho nhà văn có điều kiện đào sâu phát hiện
những mạch ngầm bí ẩn trong thế giới tinh thần của con người, những khoảng tối khuất lấp, “những
gì đang được giấu kín và cũng đang giao tranh với nhau ở bên trong: những lý tưởng và dục vọng,
trí tuệ và bản năng, thiện và ác, những phần con người ý thức được và những phần vô thức của con
người” [14, tr.345], tức “đào sâu vào hiện thực ở cái tầng đáy của đời sống”[14, tr.337].
Hiện thực trong tác phẩm không còn chỉ là hiện thực cách mạng với các biến cố lịch sử và
đời sống cộng đồng mà còn là hiện thực của đời sống thường ngày với các mối quan hệ thế sự phức
tạp, đan xen. Dịch chuyển phạm vi nhận thức và phản ánh hướng vào hiện thực của đời sống hằng
ngày, nhà văn chúý nhiều đến đời sống cá nhân của mỗi người. Con người vẫn được đặt trong mối
quan hệ với hoàn cảnh lịch sử xã hội, tuy nhiên hoàn cảnh lịch sử xã hội chỉ là cái nền để nhà văn
khai thác những khía cạnh của số phận cá nhân trong những trăn trở đời thường, trong quan hệ với
gia đình, những người xung quanh, với chính bản thân mình. Trong Cỏ lau, Phiên chợ Giát…, số
phận con người cũng được đặt trong những bối cảnh hiện thực rộng lớn với nhiều biến cố, nhiều sự
kiện lịch sử phức tạp chi phối mạnh mẽ đến cuộc sống của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, điều đáng nói là
ở đây, nhà văn không có chủ ý nhằm vào việc tái hiện bộ mặt lịch sử. Điều nhà văn quan tâm thể
hiện là những số phận cá nhân với những biến động, những cảm xúc bên trong thế giới tinh thần
con người.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ở những truyện cuối đời như Cỏ lau, Sống mãi với cây xanh, Phiên chợ Giát, từ số phận cá
nhân, tác giả mở rộng suy ngẫm, chiêm nghiệm về những vấn đề mang tính thời cuộc, mang ý nghĩa
nhân sinh đối với đời người…Như lối dự cảm của người nông dân, đôi khi mơ hồ nhưng lại chính
xác, Nguyễn Minh Châu đặt ra nhiều vần đề cho mai sau: vấn đề môi trường, cách ứng xử với thiên
nhiên, việc quy hoạch và chính sách đối với nông thôn và nông dân… Những vấn đề ấy cho đến nay
vẫn còn ý nghĩa thời sự nóng hổi, vẫn là những vấn đề hết sức bức xúc mà xã hội cần quan tâm và
giải quyết.
Từ lối văn chương minh họa của một thời để đến được với những tác phẩm tràn đầy nhựa
sống của cây đời, từ lối viết dễ dãi chủ yếu ngợi ca một chiều đến việc day dứt suy ngẫm về số phận
con người, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã đi được một chặng đường dài, ngày càng cận
nhân tình hơn.
2.1.2. Trước 1975, trong bối cảnh đất nước đang diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại,
cảm hứng sử thi anh hùng là cảm hứng chủ đạo chi phối cách nắm bắt và thể hiện vấn đề của
Nguyễn Minh Châu. Con người trong truyện ngắn giai đoạn này được soi chiếu và nhận diện chủ
yếu trên những bình diện xã hội, trong mối quan hệ với giai cấp, với cộng đồng, với dân tộc, được
đặt vào trong những hoàn cảnh điển hình, là những hoàn cảnh của các biến cố lịch sử, những xung
đột xã hội mà trung tâm là cuộc chiến tranh hào hùng của dân tộc chống đế quốc Mĩ xâm lược.
Nhân vật mang trong mình những phẩm chất cao đẹp, ý chí và sức mạnh phi thường, kết tinh những
vẻ đẹp tinh thần và lí tưởng cao cả của một dân tộc anh hùng.
Quan niệm về con người sử thi chi phối cách cảm nhận về con người trong mối quan hệ với
hiện thực đời sống. Cũng giống như trong nhiều tác phẩm của các nhà văn khác, con người trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 được cảm nhận không bao giờ tách rời với các sự kiện
chính trị, các nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đất nước. Ta bắt gặp hình ảnh những sĩ quan, những
người lính ngày đêm ra sức tập luyện để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu sắp tới trong Sau một buổi
tập, Con đường đến trường học, Trên vùng đất sỏi, hình ảnh những người lính dũng cảm đang đối
mặt với kẻ thù trong cuộc chiến bảo vệ mảnh đất quê hương trong Những vùng trời khác nhau, Câu
chuyện trên trận địa, hình ảnh đôi trai gái gan dạ bình tĩnh trên cung đường Trường Sơn bị đánh phá
ác liệt trong Mảnh trăng cuối rừng, hình ảnh bà mẹ nén đau thương động viên giúp đỡ bộ đội chiến
đấu trong Người mẹ xóm nhà thờ… Ở những truyện không trực tiếp đề cập đến cuộc chiến tranh
chống Mĩ thì câu chuyện trong tác phẩm cũng không nằm ngoài những vấn đề chung của đất nước
trước đó. Trong Những hạt thóc lép, câu chuyện về gia đình bác Chắm cũng là câu chuyện chung
của nhiều người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu, không chịu nằm chờ chết đói, họ
đã nổi dậy đấu tranh để tìm đường sống. Truyện đã tái hiện được không khí quyết liệt của cuộc đấu
tranh chống địa chủ tay sai cho giặc, sự tất yếu của con đường cách mạng mà người dân làng Truồi
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf
minh chau.pdf

More Related Content

Similar to minh chau.pdf

Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfHanaTiti
 
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdfLUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdfNuioKila
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháinataliej4
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Trần Đức Anh
 
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Trần Đức Anh
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy TựTìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy TựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC nataliej4
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxhiutrn809713
 
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhấtĐề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhấtMaloda
 

Similar to minh chau.pdf (20)

Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdfLUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
 
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.docĐặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngườiLuận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn...
 
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂMLuận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
 
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
 
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
 
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
Ngôn ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan - Gửi miễn ...
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy TựTìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
 
Đặc Điểm Văn Xuôi Nam Cao Sau 1945.doc
Đặc Điểm Văn Xuôi Nam Cao Sau 1945.docĐặc Điểm Văn Xuôi Nam Cao Sau 1945.doc
Đặc Điểm Văn Xuôi Nam Cao Sau 1945.doc
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
 
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhấtĐề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhất
 

minh chau.pdf

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ____________________ Nguyễn Văn Công NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ TƯ TƯỞNG VÀ BÚT PHÁP TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh – 2011 THƯ VIỆN
  • 2. LỜI CẢM ƠN Luận văn này là kết quả học tập, nghiên cứu của tác giả khi kết thúc khóa đào tạo Cao học tại Trường ĐHSP Tp.HCM. Để hoàn thành luận văn, người viết đã nhờ đến sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều thầy cô, bạn bè và người thân. Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Thành Thi – người đã tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn này. Người viết cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã tận tình chỉ dạy trong suốt khóa học. Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của gia đình và bạn bè đồng môn trong suốt thời gian qua. Nguyễn Văn Công Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 3. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, v ới sự kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đất nước ta bước vào một thời kì mới, hòa bình, ổn định nhưng đồng thời cũng đối diện với nhiều khó khăn thách thức của thời hậu chiến. Cuộc sống mới với nhiều đổi thay đòi hỏi văn học cũng phải có sự chuyển mình biến đổi để kịp thời đáp ứng những yêu cầu của thời đại. Từ một nền văn học “chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước” suốt trong những năm tháng chiến tranh từ 1945 đến 1975, văn học Việt Nam sau 1975 đã từng bước chuyển sang một giai đoạn mới. Đặc biệt kể từ năm 1986, hòa cùng công cuộc đổi mới của đất nước, văn học Việt Nam đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều phương diện để làm nên một diện mạo mới cho văn học nước nhà, trong đó sự vận động theo “khuynh hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc” trở thành một đặc điểm nổi bật. Trong quá trình v ận động và phát triển của văn học Việt Nam qua hai giai đoạn nêu trên, Nguyễn Minh Châu có vinh dự trở thành một trong số ít những nhà văn mà sáng tác đã trở thành hiện tượng tiêu biểu cho văn học ở cả hai chặng đường. Đến với văn học vào thời điểm mà cả dân tộc đang dồn sức cho cuộc chiến đấu chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu nhanh chóng khẳng định chỗ đứng của mình trong lòng bạn đọc qua một loạt tác phẩm nóng hổi hơi thở đời sống chiến tranh và cách mạng. Những Cửa sông, Dấu chân người lính, Những vùng trời khác nhau… đã góp thêm cho văn học trước 1975 những trang viết hào sảng về những tháng ngày hào hùng của lịch sử đất nước. Không chỉ là cây bút văn xuôi có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu còn thuộc trong số những người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975. Trong cuộc chuyển mình đầy khó khăn của văn học những năm đầu thời kì đổi mới, bằng một sự “dũng cảm rất điềm đạm” (Vương Trí Nhàn), ông đ ã đã từng bước thay đổi lối nghĩ, lối viết, lặng lẽ nhận lãnh vai trò của một người lính tiên phong trong việc vượt lên chính mình, tìm một hướng đi mới cho mình và cho cả một nền văn học. Những tập truyện ngắn của ông ra đời trong những năm 80 của thế kỉ XX đã trở thành một hiện tượng văn học thu hút được nhiều sự quan tâm của dư luận. Là nhà văn có quá trình sáng tác tiêu biểu cho sự chuyển mình của văn học Việt Nam qua hai giai đoạn, 1945 – 1975 và sau 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu đương nhiên có những chuyển biến trong tư tưởng và bút pháp. Đó là những chuyển biến như thế nào? Phải chăng có một mối quan hệ nhân – quả giữa chuyển biến về tư tưởng (nhân) và chuy ển biến về bút pháp ( quả) trong sáng tác của nhà văn này? Việc tìm hiểu và trả lời một cách thỏa đáng những câu hỏi này sẽ giúp ích nhiều cho nhà nghiên cứu trong việc tìm kiếm sự vận động mang tính qui luật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu nói riêng và các nhà văn thế hệ ông nói chung.
  • 4. Nguyễn Minh Châu cũng là tác giả có tác phẩm truyện ngắn được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học (trước đây là Bức tranh – THCS, Mảnh trăng cuối rừng – THPT; sau này là Bến quê – THCS, Chiếc thuyền ngoài xa – THPT). Việc nghiên cứu bước chuyển trong tư tưởng và bút pháp của ông sau 1975 sẽ giúp cho việc giảng dạy phân tích tác phẩm truyện ngắn của ông trở nên đúng hướng, sâu sắc, thỏa đáng hơn. Đây cũng chính là những lý do chủ yếu khiến người viết lựa chọn đề tài “Những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975” để thực hiện luận văn cao học của mình. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Là một trong những tác giả có vị trí quan trọng trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới, Nguyễn Minh Châu và sáng tác của ông đã được các nhà nghiên cứu chú ý tìm hiểu trên nhiều phương diện. Tính cho đ ến nay, đã có hàng trăm bài viết đăng trên các báo và tạp chí cùng rất nhiều những chuyên luận, công trình nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm của ông. Theo cuốn sách Nguyễn Minh Châu – về tác gia và tác phẩm, thư mục tài liệu nghiên cứu tác gia, tác phẩm Nguyễn Minh Châu ghi nhận có đến 150 bài viết và công trình nghiên cứu lớn nhỏ. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn tốt nghiệp bậc đại học, cao học. Trên cơ s ở khảo sát những tài liệu hiện có trong tay, chúng tôi nh ận thấy các bài viết về Nguyễn Minh Châu đã tiếp cận khá kĩ lưỡng cả hai phương diện con người và tác phẩm của nhà văn. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu, sau đây, chủ yếu người viết sẽ chỉ điểm qua những ý kiến và công trình nghiên cứu có liên quan đến truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Như đã nêu, cùng v ới tiểu thuyết, truyện ngắn là thể loại đem lại nhiều thành tựu cho sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Sức hấp dẫn của từng thiên truyện ngắn đã lôi cuốn các nhà nghiên cứu đi sâu phâ n tích, m ổ xẻ, đánh giá…Trong số những bài viết quan tâm đến truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, có thể kể đến những ý kiến đáng chú ý của Nguyễn Kiên, Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Long, Lại Nguyên Ân, Phạm Vĩnh Cư, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Trọng Hoàn, Tôn Phương Lan, Trịnh Thu Tuyết, Huỳnh Như Phương, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến, Hoàng Thị Văn,… Về các tác phẩm trong đó có truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thời kì chống Mĩ, các ý kiến tỏ ra khá thống nhất khi đánh giá về cảm hứng sáng tác và bút pháp của tác giả thể hiện trong các tác phẩm. Tiêu biểu là ý kiến của Mai Hương trong Lời giới thiệu Nguyễn Minh Châu toàn tập (Nxb Văn học, H.,2001) : “Suốt trong những năm chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu đã dành trọn vẹn nửa đời văn của mình đi sâu khám phá, phản ánh những “đề tài sinh tử” trong mảng hiện thực chiến tranh và người lính cách mạng… Những tác phẩm nóng hổi hơi thở đời sống, như còn sặc Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 5. mùi thuốc súng, khói bom…đã phản ánh được khát vọng tinh thần cháy bỏng của của cả dân tộc, thời đại – khát vọng độc lập, tự do – góp phần tái hiện bức tranh lịch sử hoành tráng của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại… Những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong chiến tranh thường nghiêng về vẻ đẹp hào hùng và tươi tắn của cả cộng đồng, nghiêng về những sự kiện vĩ đại, những người anh hùng và đư ợc thể hiện với bút pháp trữ tình đậm đà, giàu chất thơ. Ở đó, cảm hứng trữ tình hòa nhập, giao thoa nhuần nhị với cảm hứng anh hùng”. Truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng sáng tác ở giai đoạn này cũng thu hút được nhiều ý kiến giảng bình mà trong đó đa phần là nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn con người trong chiến tranh và chất thơ trữ tình của thiên truyện. Đặc biệt, trong những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã thu hút được sự quan tâm sâu rộng từ phía bạn đọc và giới nghiên cứu. Vào tháng 6 năm 1985, báo Văn ngh ệ đã tổ chức một cuộc Trao đổi về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm gần đây. Trong cuộc hội thảo này, có những ý kiến vẫn còn tỏ ra băn khoăn, nghi ngờ về những tìm tòi đổi mới của ông, cho rằng trong tác phẩm còn có điều gì đó “mung lung”, “hụt hẫng”, “khó nắm bắt”, “kém đi vẻ chân thực sinh động ”. Nhiều ý kiến khác thì đánh giá cao những tìm tòi, trăn trở trong ngòi bút của ông, ghi nhận tác phẩm của ông “có nhiều thành tựu, có nhiều đóng góp rất đáng quý” [58, tr.288-311]. Sau cuộc hội thảo, nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu tiếp tục bàn luận về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, dần dần đi tới những thống nhất trong đó có sự khẳng định quá trình đổi mới tích cực và đầy hiệu quả của ông. Về những tập truyện ra đời trong giai đoạn sau này, có thể kể đến những ý kiến của Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân,... Trần Đình Sử nhận xét rằng: “Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh, rồi tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới… Đặc sắc của tập Bến quê chủ yếu là sự thể nghiệm một hướng trần thuật có chiều sâu…, phát hiện các hiện tượng đời sống trong chiều sâu triết học và lịch sử, thể hiện nhu cầu chiêm nghiệm, tự đối thoại với chính mình và với ý thức của mình… Có thể nói thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín là một đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu” [78, tr.505-508]. Lại Nguyên Ân, “khi nhận xét về xu hướng triết lí nhận thức trong những truyện ngắn gần đây của Nguyễn Minh Châu”, đã tạm xếp thử các truyện ấy vào một số dạng chính, “Từ loại truyện “tự thú” mà trung tâm thường là một nhân vật đang sám hối,…nhà văn chuyển sang thể nghiệm loại truyện tuy có dạng thức tự nhiên khách quan nhưng phê phán gay gắt những lối sống vô ý thức… Thêm một mức nữa, nhà văn đi tới loại truyện cũng có dạng khách quan tự nhiên, nhưng không phải để lên án phê phán đối tượng cụ thể nào mà chủ yếu để nhận thức những tình thế, những khía cạnh trái ngược vốn có trong đời sống con người…” [58, tr.269].
  • 6. Một số ý kiến khác như của Ngọc Trai, khi nhận xét đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đã cho r ằng : “Phần lớn các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là loại truyện luận đề - những luận đề về đạo đức, nhân văn, về tâm lí xã hội…” [58, tr.325]. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết khác đi vào bình giá, phân tích giá tr ị của từng truyện ngắn cụ thể, trong đó có sự ghi nhận những tìm tòi đổi mới của nhà văn ở cả hai phương diện tư tưởng và bút pháp thể hiện. Những năm sau khi Nguyễn Minh Châu mất, trong số những bài viết tiếp tục nghiên cứu về truyện ngắn của ông, có nhiều bài viết đi theo một lối tiếp cận mới mà theo đánh giá của Đỗ Lai Thúy (trong Phê bình thi pháp h ọc như là sự thay đổi hệ hình ) thì “bài viết về Phiên chợ Giát của Đỗ Đức Hiểu có ý nghĩa mở đường” [45, tr.109]. Đỗ Đức Hiểu đánh giá rất cao về truyện ngắn cuối cùng của Nguyễn Minh Châu khi cho rằng: “ Phiên chợ Giát có một tầm cỡ lớn”;…“một truyện mở; từ cái logic của ngôn ngữ trên bề mặt, truyện đi tới ngôn ngữ thứ hai, ngôn ngữ biểu tượng xiêu vẹo, những ảo giác, với những cơn sốc, những nghịch lí, tức là một thế giới quyện nhòe giữa hư và thực… Sự hóa thân người / bò của ông lão Khúng / Khoang Đen, sự phân đôi nhân cách ấy, sự kết hợp hai ý thức con người / con vật ấy, là bi kịch của nhân vật, của thời đại…” [30, tr.256]. Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng: “Truyện này là một giả thuyết văn học về bản chất và thân phận người nông dân…” [26, tr.237]. Có nhiều bài viết đi vào khai thác về một khía cạnh nào đó trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm như không gian nghệ thuật (Lê Văn Tùng), những hình ảnh biểu tượng (Dương Thị Thanh Hiên)… Dưới góc độ thi pháp thể loại, Bùi Việt Thắng đi vào tìm hiểu cấu trúc và tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, phân chia ra các d ạng cơ bản là tình huống – tương phản, tình huống – thắt nút, tình huống – luận đề [58, tr.313]. Cũng nhìn dưới góc độ thể loại, Phạm Vĩnh Cư phát hiện ra “những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu” [58, tr.346]. Thời gian gần đây, tiếp tục có những ý kiến bàn về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Trọng Hoàn, trong bài Tiếp tục hành trình đọc Nguyễn Minh Châu [58], đã dành nhiều trang viết về truyện ngắn của ông và nhìn chung là các ý kiến ở đây khá nhất quán với những nhận định đã có trước đó. Trong công trình Truyện ngắn Việt Nam, lịch sử - thi pháp – chân dung do Phan Cự Đệ chủ biên, in 2007, khi vi ết về đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, người viết đã khái quát lại trong hai luận điểm lớn. Đó là: - Xu hướng ôm trùm những thể loại lớn - Chất luận đề tan hòa vào tình huống và nhân vật Theo chúng tôi, đây là những gợi mở đáng chú ý, có thể suy nghĩ để nghiên cứu thêm. Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 7. Ngoài những bài viết đề cập trực tiếp đến truyện ngắn nêu trên, không thể không nhắc đến hai chuyên luận nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu là Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu (Nxb KHXH, 2002) của tác giả Tôn Phương Lan và Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 (Nxb ĐHSP, H. 2007) của các tác gi ả Nguyễn Văn Long – Trịnh Thu Tuyết. Những công trình này, dù có đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau, nhưng đều dành nhiều dung lượng cho phần nghiên cứu mảng truyện ngắn. Cuốn Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, như tên gọi của nó, không phải là công trình nghiên cứu chuyên biệt về truyện ngắn, nhưng rõ ràng để khái quát và nhận diện phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, không thể không nghiên cứu truyện ngắn. Trong công trình này, Tôn Phương Lan đ ã đi vào t ìm hiểu tư tưởng nghệ thuật cũng như quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu, tìm hiểu hệ thống nhân vật cũng như nghệ thuật trần thuật, những đặc điểm về ngôn ngữ và giọng điệu…, từ đó phác họa được những nét cơ bản về phong cách nghệ thuật của nhà văn. Cuốn Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đặt vấn đề nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong sự vận động của văn xuôi đương đại (chủ yếu từ 1975 trở đi). Người viết đã cố gắng chỉ ra quá trình vận động đổi mới của sáng tác Nguyễn Minh Châu, tất nhiên trong đó có cả truyện ngắn, trên ba bình diện: -Về quá trình đổi mới ý thức nghệ thuật mà trọng tâm là quan niệm nghệ thuật về con người: từ con người được thể hiện chủ yếu ở bình diện xã hội trong những mô hình giản đơn và vận động xuôi chiều đến con người cá nhân trong đời thường với những mối quan hệ phức tạp, đa dạng. -Về thế giới nhân vật: Trư ớc 1975, chủ yếu là dạng nhân vật loại hình, sau 1975, có các dạng nhân vật tư tưởng, nhân vật tính cách, nhân vật thế sự. Nghệ thuật xây dựng nhân vật được đổi mới nhờ vào các thủ pháp tăng cường độc thoại nội tâm; miêu tả nhân vật qua những chi tiết tâm lí chân thực, tinh tế; khắc họa nhân vật qua những chi tiết ngoại hình sinh động -Về đổi mới kết cấu và nghệ thuật trần thuật: từ cốt truyện có hành động bên ngoài chiếm ưu thế (trước 75) chuyển sang cốt truyện không có biến cố; một số đổi mới ở các hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất; một số đổi mới về nhịp điệu trần thuật, giọng điệu trần thuật… Như vậy, có thể nói hai cuốn sách trên đã đề cập đến được nhiều phương diện trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, tuy nhiên, chúng không phải là những công trình nghiên cứu riêng biệt về thể loại truyện ngắn. Những đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cũng được đề cập khá nhiều trong luận án tiến sĩ “Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90” (2001) của Hoàng Thị Văn, trong chuyên luận “Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 – 2000” của Nguyễn Văn Kha (Nxb ĐHQG, 2006) . Ngoài ra cũng còn có nhiều ý kiến nhắc đến
  • 8. truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong những bài nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 mà luận văn không thể nêu hết. Những công trình nêu trên đã cho thấy sự quan tâm sâu sắc của giới nghiên cứu đến sáng tác Nguyễn Minh Châu. Sức hấp dẫn của tác phẩm Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là mảng truyện ngắn chắc chắn sẽ còn cần thêm nhiều công trình nghiên cứu khác quan tâm làm rõ. 3. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Những bài viết đề cập trực tiếp đến truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mà tác giả luận văn đã nêu ở phần trên, nhìn chung đã khai thác được khá đầy đủ nhiều phương diện trong truyện ngắn của ông. Tuy nhiên, những bài viết trên, do chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nào đó hay chỉ đi sâu vào một vài tác phẩm cụ thể nên chưa nói hết được những đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu một cách đầy đủ, cũng như chưa có một sự đánh giá toàn diện về những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn của ông sau 1975. Những công trình nghiên cứu về phong cách nghệ thuật hay sự đổi mới trong sáng tác Nguyễn Minh Châu đã nêu cũng chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể những đặc trưng của thể loại truyện ngắn như là một vấn đề nghiên cứu chuyên biệt. Đặt vấn đề nghiên cứu đề tài “Những chuyển biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975”, luận văn muốn đi vào tìm hiểu truyện ngắn của ông dưới góc độ thể loại, thấy được những nét chuyển biến trong tư tưởng và bút pháp nghệ thuật qua quá trình vận động và đổi mới suốt chiều dài sự nghiệp sáng tác, đồng thời góp phần hiểu rõ hơn những đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Với định hướng như vậy, trong phạm vi của đề tài, luận văn sẽ tập trung vào việc xem xét, đối chiếu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn trước và sau 1975, từ đó làm rõ quá trình vận độn g chuyển đổi về quan niệm nghệ thuật và phương thức biểu hiện trong truyện ngắn của nhà văn giai đoạn sau 1975 cùng những đóng góp của ông cho văn học thời kì đổi mới. Trên cơ sở đào sâu những phát hiện của những nhà nghiên cứu đi trước, luận văn cố gắng hệ thống hóa và phân tích kĩ một số đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975, thấy được những đổi mới trong cách cảm nhận hiện thực và con người, thấy được cùng với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật là sự thay đổi từ loại hình truyện ngắn sử thi hóa sang loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa, thấy được những đóng góp của nhà văn về phương diện nghệ thuật biểu hiện cho thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 9. Phương pháp xã hội học được dùng để làm rõ sự tác động cũng như ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội đối với quá trình vận động đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975. Phương pháp lo ại hình được sử dụng nhằm khảo sát, phân loại và xác định đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong từng giai đoạn. Phương pháp hệ thống giúp xác định vị trí truyện ngắn của ông trong tiến trình vận động của văn xuôi Việt Nam qua hai giai đoạn. Phương pháp so sánh đư ợc dùng như là một phương pháp chủ yếu để thấy được những đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 so với giai đoạn trước đó. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thi pháp học, tự sự học và các thao tác nghiên cứu hỗ trợ như thống kê, phân tích, tổng hợp... 5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Luận văn, ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tham khảo, Phụ lục, được tổ chức triển khai thành 3 chương: Chương 1: Truyện ngắn trong sáng tác văn học của Nguyễn Minh Châu Chương 2 : Những chuyển biến về quan niệm nghệ thuật và nội dung tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (sau 1975) Chương 3 : Những chuyển biến về kĩ thuật thể loại, phương thức tự sự và lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (sau 1975) Trong đó, chương 2 và chương 3 tập trung giải quyết một số nội dung chuyên sâu. Chương 2 tập trung giải quyết hai nội dung chính: - Bước chuyển về quan niệm nghệ thuật: khước từ văn chương “minh họa” để đến với văn chương thực sự là cây đời; từ hứng thú với con người sử thi đơn phiến đến hứng thú với con người thường nhật phức tạp, bí ẩn chưa biết hết,… - Bước chuyển về nội dung tự sự: từ tự sự về “bài ca ra trận” của cộng đồng với những phẩm chất huyền thoại của người anh hùng đến tự sự về những bi kịch, những nỗi đau, những lời sám hối, những khủng hoảng, và cả hoài nghi… Chương 3 tập trung làm rõ ba nội dung: - Chuyển biến về kĩ thuật thể loại (tiểu thuyết hóa, phức thể hóa truyện ngắn) - Chuyển biến về phương thức tự sự: phương thức khắc họa nhân vật, phương thức sử dụng biểu tượng nghệ thuật, phương thức trần thuật (dịch chuyển, phối hợp điểm nhìn, vai kể,…)
  • 10. - Chuyển biến trong cách sáng tạo ngôn từ: đa dạng hóa, phức điệu hóa lời văn nghệ thuật (các loại diễn ngôn kể, diễn ngôn thoại, diễn ngôn trữ tình ngoại đề; tổ chức lời văn nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật…). Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 11. Chương 1: TRUYỆN NGẮN TRONG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU 1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu 1.1.1. Cuộc đời nhà văn Nguyễn Minh Châu Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930 tại làng Thơi, xã Quỳnh Hải, thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ, Nguyễn Minh Châu đã được tạo điều kiện học hành khá chu đáo. Học ở quê rồi vào Huế, học tiếp đến năm 1945 thi đỗ bằng Thành Chung. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Minh Châu tiếp tục học trung học trong vùng kháng chiến. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn Minh Châu tình nguy ện vào quân đội, theo học trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Sau đó, Nguyễn Minh Châu về công tác ở sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo h ọc Trường Văn hóa quân đội ở Lạng Sơn. Từ năm 1962 cho đến khi mất, Nguyễn Minh Châu làm việc tại tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông mất ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội. Vốn là một sĩ quan tham mưu trong quân đội, Nguyễn Minh Châu sống và làm việc trước hết với tư cách là một người lính, nhưng lại là một người lính viết văn. Cũng như đối với nhiều nhà văn mặc áo lính cùng thời, công việc sáng tác đòi hỏi người cầm bút phải có nhiều lăn lộn thực tế ở những nơi đầu sóng ngọn gió, ông đã tham gia nhiều chiến dịch, đã từng trải qua những khó khăn gian khổ ở rừng Trường Sơn. Hòa bình lập lại, ông cũng đi nhiều nơi, vào thành phố Hồ Chí Minh rồi trở ra Hà Nội, nhưng có lẽ dải đất miền Trung mới là miền đất để lại cho ông nhiều yêu thương nhất. Hình ảnh cái làng quê nghèo ven biển miền Trung cứ trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của ông như một nỗi ám ảnh khôn nguôi. Những năm cuối đời, ông còn ấp ủ dự định viết một cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến ở thành cổ Quảng Trị, rất tiếc nó không thể hoàn thành vì ông đã đột ngột ra đi khi đang ở giai đoạn tài năng chín muồi nhất. Sau hơn một năm trời vật lộn với cơn bệnh ung thư máu hiểm nghèo, ông đã vĩnh viễn chia tay với cuộc đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Viện Quân y 108 Hà Nội. Những người thân, những người bạn của ông cùng với nhiều người trong giới nghiên cứu đương thời luôn dành cho ông một sự yêu quý và kính trọng sâu sắc. Họ nhìn thấy ở ông “một sự dũng cảm rất điềm đạm” (Vương Trí Nhàn), “một chiến sĩ chiến đấu đến cùng cho điều mình nhận thức là đúng” (Thái Bá Lợi), với vẻ ngoài “hiền lành, có khi lại còn nhút nhát nữa, nhưng bên trong dường như có một ngọn lửa, ngọn lửa ấy luôn luôn tạo ra sức nóng ở nơi đầu ngọn bút” (Ngô Vĩnh Bình)… Đọc những bài viết của họ về ông, ta hình dung ra một Nguyễn Minh Châu thâm trầm lặng lẽ, ít nói nhưng giàu lòng thương yêu, luôn sống trung thực với chính mình và mọi người. Ông không thích ồn ào, không thích bon chen tranh đoạt mà lặng lẽ nhẫn nại theo đuổi những công việc
  • 12. và mục đích mình đã lựa chọn. Có cảm giác như ông luôn ngơ ngác giữa dòng đời xuôi ngược đầy những hệ lụy phiền toái. Nhưng ông rất nhạy cảm và quyết liệt với những gì được coi là cái xấu, cái ác, làm tổn hại đến con người. Và trên hết, Nguyễn Minh Châu là một người có ý thức sâu sắc về thiên chức của nhà văn, về trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút. Ở góc độ một công dân, ông đã làm hết sức mình để sống một cuộc sống có ích cho xã hội và những người xung quanh mình. Ở góc độ một nhà văn, bằng tài năng và tấm lòng nhiệt tình yêu nghề, với thái độ điềm đạm nhưng cũng hết sức dũng cảm, ông cũng đã dành trọn cuộc đời mình để cống hiến hết thảy cho những mục tiêu cao đẹp của văn chương nghệ thuật, xứng đáng là “niềm hãnh diện của những người cầm bút về một đời văn trong sáng và trọn vẹn” (Nguyễn Khải). 1.1.2. Sáng tác văn học của Nguyễn Minh Châu Con đường sáng tác văn chương của Nguyễn Minh Châu bắt đầu tương đối muộn, mãi đến năm 1960 m ới bắt đầu có sáng tác đầu tiên, và chỉ thực sự được bạn đọc biết đến với tiểu thuyết Cửa sông in năm 1967. Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu đã để lại 9 cuốn tiểu thuyết, 4 tập truyện ngắn, 1 tập tiểu luận phê bình và một số bút kí, truyện ngắn khác đăng rải rác trên các báo, tạp chí. Các tác phẩm đã xuất bản gồm : Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, 1974), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977), Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, 1981), Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn, 1983), Đảo đá kì lạ (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, 1985), Bến quê ( tập truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu ( tiểu thuyết, 1987), Cỏ lau (tập truyện, 1989), tập tiểu luận phê bình Có thể nói với một khối lượng sáng tác tương đối dày dặn như trên, Nguyễn Minh Châu đã kịp ghi tên mình vào lịch sử văn học Việt Nam hiện đại như một tên tuổi hết sức quan trọng. Trang giâý trước đèn... Là một nhà văn quân đội, tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết nhiều về đề tài chiến tranh như là một điều tất yếu. Tác phẩm “Dấu chân người lính” của ông từ lúc mới ra đời đã được bạn đọc và giới nghiên cứu đánh giá cao, được xem như là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh chống Mĩ. Bám sát hiện thực đời sống những năm chiến tranh, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 (Cửa sông, Những vùng trời khác nhau, Dấu chân người lính…) đã cho chúng ta một cái nhìn tương đối trọn vẹn về một thời kì hào hùng của cả dân tộc. Sau 1975, hiện thực cuộc sống mới đòi hỏi văn học phải có sự nhìn nhận toàn diện và thấu đáo hơn. Là một nhà văn luôn có ý thức gắn bó với đời sống, nhạy cảm với những đổi thay của thời cuộc, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những vấn đề mới của đất nước ngay vào thời điểm chuyển giao từ chiến tranh sang hòa bình. Trong các tiểu thuyết Miền cháy, Những người đi từ Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 13. trong rừng ra, Mảnh đất tình yêu…, mảng hiện thực quen thuộc về chiến tranh cách mạng và người lính vẫn tiếp tục được ông quan tâm nhưng các vấn đề đặt ra trong tác phẩm đã cho thấy ở nhà văn một cách nhìn khác trước. Ngòi bút nhà văn hướng đến nhiều vấn đề đặt ra ở thời kì hậu chiến như việc tổ chức lại cuộc sống và làm ăn kinh tế trong thời kì mới, vấn đề giải quyết hậu quả và hàn gắn những vết thương chiến tranh, vấn đề chống lại những tiêu cực mới nảy sinh trong cuộc sống hôm nay… Trước đây, ngay trong những năm tháng chiến đấu chống Mĩ ác liệt, Nguyễn Minh Châu đã từng băn khoăn : “Ngòi bút của chúng ta sẽ trở nên phản bội người chiến sĩ nếu chỉ biết cái lúc họ vác súng ra mặt trận với một tâm hồn phơi phới mà không biết cái lúc buồn bã, đau đớn, những lúc đói rét, những lúc nằm giữa đồng đội chết và bị thương, trong bùn lầy, trong mưa bom bão đạn… ” [14, tr.190]. Sau chi ến tranh, cái nhìn sử thi lí tưởng hóa về con người của văn học một thời tỏ ra không còn phù h ợp khi đối mặt với thực tế bộn bề, phức tạp của cuộc sống thường nhật. Ý thức hướng tới một thứ văn chương sâu sắc hơn đã trở thành một nhu cầu hết sức bức xúc trong ông, đòi hỏi ở ông một sự thay đổi quyết liệt hơn. Với tiểu luận “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” (1987), Nguyễn Minh Châu đã mạnh dạn đề nghị đoạn tuyệt với lối văn chương minh họa “chỉ quen với công việc cài hoa kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ đã có sẵn”, quyết tâm chọn cho mình một hướng đi mới, tiếp cận đời sống và con người dưới góc độ nhân bản. Nhà văn lặng lẽ và kiên trì thực hiện một loạt những cuộc đối chứng lại với quá khứ để nâng tầm tác phẩm, tạo ra trong tác phẩm của mình một chiều sâu suy nghĩ và nhận thức mới về con người. Ông muốn tác phẩm văn chương phải làm “hiện lên những mẫu người của xã hội với tất cả da thịt và hơi thở, với tất cả những mầu vẻ của những mối quan hệ xã hội bên ngoài và những gì đang được giấu kín và cũng đang giao tranh với nhau ở bên trong: những lý tưởng và dục vọng, trí tuệ và bản năng, thiện và ác, những phần con người ý thức được và những phần vô thức của con người mà chỉ ngòi bút nhà văn mới có thể soi sáng, lý giải và báo hiệu” [14,tr.345]. Bằng tài năng và tâm huyết của một nhà văn luôn trăn trở với sự nghiệp văn học nước nhà, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những thay đổi trong tư duy nghệ thuật của mình qua một loạt tác phẩm có nhiều tìm tòi, khám phá. Những truyện ngắn viết vào những năm 80 của thế kỉ XX in trong các tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau của ông đã tạo nên một hiện tượng mới lạ trong văn học đương đại. Bạn đọc từng biết đến Nguyễn Minh Châu như một cây bút tiểu thuyết tên tuổi giờ đây còn phát hiện ở ông một tài năng viết truyện ngắn hết sức tài hoa, độc đáo. Đánh giá về vai trò của Nguyễn Minh Châu đối với văn học sau 1975, nhà văn Nguyên Ngọc trân trọng khẳng định: “Thời gian, nhà phê bình nghiêm khắc và công bằng ấy rồi sẽ xác định lại đúng đắn hơn nữa vị trí của Nguyễn Minh Châu. Song tôi nghĩ, hôm nay có lẽ cũng đã có thể nói
  • 14. không sai rằng Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”. Các bài phê bình, ti ểu luận cùng với những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao ra đời trong thập kỉ 80 là minh chứng rõ nét cho bước chuyển âm thầm mà quyết liệt của hành trình đổi mới ở Nguyễn Minh Châu, đem đến cho ông một vị trí không thể thay thế trong giai đoạn quá độ của văn học Việt Nam sau 1975. Không chỉ trong sáng tác, ông còn lưu lại dấu ấn cá nhân của mình qua những trang tiểu luận phê bình hết sức sâu sắc được viết rải rác suốt một khoảng thời gian dài, sau này được tập hợp lại trong cuốn Trang giấy trước đèn. Các bài tiểu luận của ông đã đề cập đến nhiều phương diện trong quá trình văn học: từ tác dụng của văn học đến mối quan hệ giữa văn học và đời sống chiến tranh cách mạng, mối quan hệ giữa nhà văn – nhân vật – bạn đọc, vai trò và trách nhiệm của người cầm bút, chân dung nhà văn, kinh nghi ệm sáng t ác… Những bài viết của ông cũng đã góp phần không nhỏ vào việc tạo nên một không khí sôi nổi trong đời sống văn học những năm cuối thế kỉ XX, đồng thời giúp cho người đọc hôm nay hiểu thêm về con người và sáng tác của ông, một trong những nhà văn đi đầu công cuộc đổi mới văn học. Đời văn của Nguyễn Minh Châu được khép lại với thiên truyện ngắn nổi tiếng Phiên chợ Giát. Được viết trên giường bệnh trong những ngày cuối đời, thiên truyện đặt dấu chấm hết cho một đời văn đầy nhọc nhằn nhưng cũng rất đáng tự hào của ông. 1.2. Truyện ngắn và hành trình đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu Với những đóng góp sau ba mươi năm miệt mài cầm bút, Nguyễn Minh Châu đã vinh dự được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (đợt II, năm 2000). 1.2.1. Truyện ngắn và truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 1.2.1.1. Truyện ngắn (khái niệm – đặc trưng – ưu thế thẩm mĩ) Truyện ngắn hiện đại là một thể loại hết sức quen thuộc và gần gũi nhưng để tìm một định nghĩa duy nh ất, đầy đủ và chính xác về nó thì không dễ. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, truyện ngắn được xác định như sau: “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [23, tr.370]. Mục Truyện ngắn trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cũng ghi nhận đây là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi… Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng…” [1, tr.345]. Nhìn chung, các nhà nghiên c ứu đều thống nhất nhận dạng truyện ngắn trước hết ở dung lượng và tính chất của nó. “Hình thức tự sự nhỏ, ngắn” trở thành đặc điểm hàng đầu và cũng là dấu hiệu đầu tiên để người đọc nhận ra diện mạo của truyện ngắn. Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 15. Cũng chính do dung lượng ngắn là yếu tố thuộc về bản chất nên khác với các hình thức tự sự cỡ lớn, truyện ngắn có tính cô đọng, hàm súc cao. Với dung lượng câu chữ giới hạn, truyện ngắn giúp người đọc có thể tiếp nhận liền mạch trong một khoảng thời gian ngắn. Đây cũng là thế mạnh của những hình thức tự sự cỡ nhỏ, tỏ ra hết sức phù hợp với xu thế của thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Thông thường, một truyện ngắn có thể kéo dài từ vài ba trang đến mấy chục trang. Số chữ trung bình trong một truyện ngắn khoảng từ 10.000 đến 12.000 chữ nhưng có thể nhiều hoặc ít hơn. Trong cuốn Truyện ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm, tác giả Lê Huy Bắc có ghi nhận là : “Dung lượng truyện ngắn kéo dài từ vài chục chữ đến khoảng 20.000 chữ” [3, tr.28]. Bên cạnh đặc điểm “ngắn”, các nhà nghiên cứu còn khu biệt truyện ngắn ở tính chất giới hạn trong việc phản ánh đời sống và ở hiệu quả nghệ thuật mà nó tạo ra khi so sánh với một thể loại gần gũi là tiểu thuyết. Cùng thuộc về loại hình tự sự hư cấu bằng văn xuôi, truyện ngắn và tiểu thuyết tuy gần gũi nhưng vẫn có những đặc trưng thẩm mĩ khác nhau. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn ít nhiều bị hạn hẹp trong khuôn khổ của một không gian, thời gian có tính giới hạn. “Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phác họa một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người…” [23, tr. 370]. So với truyện ngắn, tiểu thuyết thường có cấu trúc phức tạp với nhiều nhân vật trung tâm, nhiều chủ đề, nhiều tuyến cốt truyện đan xen nhau. Trong khi đó, mỗi truyện ngắn thường xoay quanh một chủ đề tập trung, có xu hướng ưu tiên cho những cốt truyện có quy mô nhỏ, có tính khám phá, gợi vấn đề, số lượng nhân vật cũng ít hơn. Chỉ là một “lát cắt đời sống”, nhiệm vụ chính của truyện ngắn cũng không phải là trình bày đầy đủ một bức tranh xã hội rộng lớn mà chủ yếu là tập trung thể hiện một khoảnh khắc, một bước ngoặt quan trọng nào đó của đời sống, của đời người. Do vì ngắn mà vẫn không phải là tiểu thuyết rút ngắn nên chất lượng nghệ thuật của truyện ngắn thường được yêu cầu cao ở sự chọn lọc, cô đúc, tiết kiệm. Một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn vẫn có thể có những đoạn tầm thường, những phần dàn trải nhưng truyện ngắn thì không được phép như thế. Ở đây, mỗi chữ mỗi câu, mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết đều phải đáng giá. Vì thế khi sáng tác truyện ngắn, nhà văn cần chọn lựa ngôn từ, tìm kiếm các chi tiết tiêu biểu có giá trị biểu đạt cao nhằm tạo nên một chiều sâu chưa nói hết cho nhân vật, cho tác phẩm. Kết cấu của một truyện ngắn hay đòi hỏi phải có sự chặt chẽ, đảm bảo sự thống nhất cao độ để có thể tạo nên một hiệu quả nghệ thuật duy nhất, từ đó tạo nên một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nói như Nguyễn Minh Châu : “Chỉ cần ít trang văn xuôi… có thể làm nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ người đọc những
  • 16. điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại vẫn không thấy chán” [14, tr.313]. Là thể loại có khả năng cập nhật và thích ứng linh hoạt, trong quá trình phát triển của mình, truyện ngắn hiện đại cũng đã dung chứa và bao hàm những đặc điểm của nhiều thể loại khác. Nhìn sang tiểu thuyết, kịch, thơ trữ tình, bút kí…, truyện ngắn đã biết chọn cho mình mọi kiểu dung lượng, mọi phong cách khác nhau để làm tròn vai trò của một thể loại nhanh nhạy, đi đầu trong việc đáp ứng những yêu cầu của đời sống xã hội. 1.2.1.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong sự nghiệp văn học của ông Như đã nêu, n ếu xét về số lượng trang viết, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu nghiêng về thể loại tiểu thuyết hơn là thể loại truyện ngắn. Tuy nhiên, không vì thế mà nói rằng truyện ngắn ít có vai trò hơn trong việc làm nên tên tuổi của ông. Nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư, trong một bài viết của mình về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tuy không phủ nhận những thành tựu của mảng tiểu thuyết nhưng vẫn cho rằng: “…cái mà nhà văn đ ể lại cho đời lại không phải là những tác phẩm dài hơi ấy, mà là dăm ba truyện ngắn in rải rác trên báo chí, trong các tập truyện cuối đời của anh” [58, tr.346]. Đi vào t ìm hiểu sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Minh Châu qua hai giai đo ạn, nhất là giai đoạn sau 1975, ta thấy truyện ngắn có một vị trí đặc biệt trên nhiều bình diện: lượng, chất, nhịp độ chuyển biến, khả năng thể hiện tư tưởng nghệ thuật đáp ứng tinh thần “tiên phong” trong hoạt động sáng tác của nhà văn,… Khảo sát hành trình đổi mới trong sáng tác Nguyễn Minh Châu, chỉ cần nhìn vào quá trình sáng tác ở mảng truyện ngắn, ta đã có thể nhận thấy được một cách rõ nét những chuyển biến trong tư tưởng và bút pháp của nhà văn qua hai giai đoạn trước và sau 1975, nếu không nói là nổi bật và dễ nhận thấy hơn là ở mảng tiểu thuyết. Nguyễn Minh Châu mở đầu nghiệp văn của mình bằng một truyện ngắn và kết thúc cũng bằng một truyện ngắn. Truyện ngắn đầu tay “Sau một buổi tập” của Nguyễn Minh Châu được in trên tạp chí Văn nghệ quân đội vào năm 1960. Ti ếp sau đó là một loạt các truyện ngắn khác cũng được đăng trên tạp chí này. Theo tài liệu mà người viết có trong tay, tính đến 1975, ông có tất cả 19 truyện ngắn, gồm 7 truyện in trong tập “Những vùng trời khác nhau”, 11 truyện khác đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội (Xem Phụ lục, Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 5, Nxb Văn học, 2001) và 1 truyện in trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) nhưng thời gian sáng tác là năm 1967 (truyện Mùa hè nămấy ). Ngoài ra còn ph ải kể thêm “ Ký sự hai bờ đất” mà tác gi ả luận văn cho là có tính ch ất của một truyện ngắn hơn là một bài kí. Nhìn chung, chất lượng của các truyện ngắn giai đoạn này không đồng đều. Những truyện ngắn ở giai đoạn đầu như Sau một buổi tập, Con đường đến trường học, Buổi tập cuối năm…chỉ có tính chất thử nghiệm, chất lượng nghệ thuật chưa cao. Những truyện hay hơn đã được tuyển chọn vào tập Những vùng trời khác nhau, trong số đó có Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 17. Mảnh trăng cuối rừng được xem là truyện hay nhất và cũng tiêu biểu nhất cho cảm hứng và bút pháp trữ tình, lãng mạn của nhà văn. Sau 1975, Nguyễn Minh Châu có 23 truyện ngắn, gồm 8 truyện in trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, 9 truyện in trong tập “Bến quê”, 3 truyện in trong tập “Cỏ lau”, 3 truyện đăng trên t ạp chí Văn nghệ quân đội (Chú chim, Ch ợ Tết, Sân cỏ Tây Ban Nha – xem Phụ lục, Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 5). Điểm qua quá trình sáng tác truyện ngắn của ông, ta có thể nhận thấy số lượng truyện ngắn viết sau 1975 dù không nhiều hơn bao nhiêu nhưng có chất lượng vượt trội so với các truyện viết trước 1975. Những truyện được đánh giá cao như Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát…đều thuộc về giai đoạn thứ hai này. Căn cứ vào thời gian ra đời và những chuyển đổi trên nhiều phương diện nghệ thuật, có thể coi Bức tranh là tác phẩm đánh dấu bước ngoặt trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn trước và sau 1975. Thiên truyện này được viết từ 1976, ngay sau khi kết thúc chiến tranh nhưng mãi đến 1982 mới được in. Dù không phải là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu nhưng truyện ngắn này đã cắm một cột mốc quan trọng trong hành trình sáng tạo văn học của nhà văn, dự báo cho sự ra đời những tác phẩm tiếp theo với một quan niệm, một mô hình, một bút pháp hoàn toàn mới. Từ đây, cái nhìn của nhà văn đã thay đổi theo hướng tiến gần đến sự thực hơn, quan tâm nhiều hơn đến hiện thực đời thường với số phận của con người cá nhân. Xuất phát từ mối quan tâm lo lắng của nhà văn về những vấn đề phức tạp nảy sinh trong cuộc sống mới thời hậu chiến, mỗi truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thời kì này thường ngầm chứa một bức thông điệp nào đó về đạo đức, lối sống, về quan niệm nhân sinh. Cùng với Bức tranh, một loạt truyện ngắn ra đời sau đó đã cho người đọc thấy được nhiều ưu tư trăn trở của ông về cuộc sống và con người, trong đó nổi bật lên vấn đề về sự thức tỉnh của lương tâm để hướng tới cái đẹp và sự hoàn thiện nhân cách. Ông lưu ý mọi người về sự độc ác hồn nhiên ngoài ý muốn (Đứa ăn cắp), nhắc nhở về lối ứng xử của con cái đối với cha mẹ (Mẹ con chị Hằng), cảnh báo về hậu quả của lối sống gia trưởng (Giao thừa), ông day d ứt về hậu quả của sự đánh mất bản thân mình ( Sắm vai), mong muốn mỗi người hãy luôn tự đối chứng, tự vấn lương tâm (Bức tranh, Hạng)… Tiếp theo những thể nghiệm bước đầu trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, các tập Bến quê, Cỏ lau ra đời sau đó càng được dư luận đặc biệt chú ý, được xem “như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới”. Lấy số phận con người làm tiêu điểm cho lăng kính nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đi sâu khám phá những tầng vỉa sâu thẳm của thế giới bên trong con người. Trong các truyện ngắn của ông, xu hướng triết lí nhận thức ngày càng rõ nét hơn, con người trong tác phẩm luôn khao khát nhận thức, chiêm nghiệm đời sống, tự đối thoại
  • 18. và tự nhận thức mình trong mối tương quan với tự nhiên và xã hội. Đằng sau những câu chuyện đời thường trong Dấu vết nghề nghiệp, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối chứng… là những chiêm nghiệm sâu sắc về lẽ đời, là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống. Các truyện như Khách ở quê ra, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Phiên chợ Giát… còn như muốn bao quát thêm nhiều vấn đề có tính lịch sử vào trong cái nhỏ bé của một đời người. Về nội dung phản ánh, ở các truyện này vấn đề không chỉ là “một lát cắt của đời sống” mà đã có tham vọng muốn tái hiện diễn tiến của một cuộc đời, một số phận với nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp. Nhà văn dường như muốn thông qua câu chuyện về một cuộc đời mà gợi lên những vấn đề có tầm vóc dân tộc, thời đại. Muôn mặt đời thường đã đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, đem lại cho tác phẩm của ông sự đóng góp quan trọng trong việc nỗ lực lấp đầy một khoảng trống của văn chương trước đó bằng cái hằng ngày, bằng những số phận cá nhân trong đời sống cộng đồng. Ông quan niệm: “Con người vừa dễ hiểu vừa đầy bí ẩn. Chúng ta đào bằng ngòi bút cho đến cùng đáy cái thật chứa đầy bí ẩn, đầy nỗi niềm nguồn cơn của con người đất nước mình thì sẽ gặp con người nhân loại, sẽ gặp cái nhân bản của nhân loại, con người Việt Nam sẽ giao hòa với nhân loại” [14,tr.144]. Việc tìm tòi, khám phá, đào sâu vào b ản chất con người cũng là con đường để tác phẩm của ông vươn đến tiếp cận với những giá trị vĩnh hằng của cuộc đời. Song song v ới việc mở rộng diện phản ánh dưới một góc nhìn mới, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 c ũng có nhiều thay đổi về bút pháp thể hiện. Quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi tất yếu kéo theo nhiều sự thay đổi về nghệ thuật biểu đạt: từ nhân vật đến cốt truyện, tình huống, giọng điệu, ngôn ngữ … Một điều đáng ghi nhận nữa là về mặt dung lượng, một số truyện ngắn sau 1975 có xu hướng mở rộng số trang nhiều hơn thông thường. Có khá nhiều truyện dài trên 60 trang (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, Phiên chợ Giát ), đặc biệt có truyện dài đến cả 100 trang như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Có lẽ vì vậy mà nhiều người đã gọi những truyện này là truyện vừa chứ không phải truyện ngắn. Để lí giải cho việc Nguyễn Minh Châu chuyên tâm về thể loại truyện ngắn trong giai đoạn thập niên 80, ta cần phải nhắc đến ý kiến của ông trong cuộc trao đổi do tuần báo Văn nghệ tổ chức: “Cái đời sống của ngày hôm nay nó bắt tôi phải quan tâm…, tôi muốn dùng ngòi bút tham gia trợ lực vào cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu bên trong mỗi người…”. Và theo như l ời ông nói: “Mỗi truyện ngắn tôi nêu ra một trường hợp cụ thể và xen vào mạch kể chuyện, tôi bàn bạc về quan niệm sống hoặc báo động một điều gì” [58, tr.294]. Như vậy, lí do chính nằm ở tính kịp thời và khả năng tác động mạnh mẽ của truyện ngắn trong việc thể hiện những vấn đề nóng hổi của cuộc sống hằng ngày. Mặt khác, tính hàm súc và khả Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 19. năng khái quát ở chiều sâu của truyện ngắn giúp cho nhà văn vẫn có thể biểu hiện được những vấn đề xã hội có tầm khái quát rộng lớn qua những câu chuyện đời thường. Phát huy thế mạnh của thể loại, truyện ngắn chính là nơi chuyên chở những tư tưởng nghệ thuật mới của Nguyễn Minh Châu. Sự đầu tư của ông cho thể loại truyện ngắn đã thu được nhiều thành quả tốt đẹp, đồng thời góp phần tạo nên một diện mạo mới cho văn học nước nhà. 1.2.2. Hành trìnhđổi mới của truyện ngắn N guyễn Minh Châu trong hành trìnhđổi mới văn xuôi Việt Nam (từ văn học thời chiến sang văn học thời hậu chiến và thời hội nhập) 1.2.2.1. Văn xuôi Việt Nam – từ văn học thời chiến sang văn h ọc thời hậu chiến (sau 1975) Năm 1975 là một mốc son lịch sử đánh dấu một thời kì mới của đất nước. Chiến tranh đã đi qua và đất nước bước vào thời kì xây dựng trong hòa bình. Văn học cũng như nhiều lĩnh vực đời sống xã hội khác đứng trước yêu cầu cần phải có sự thay đổi để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống sau chiến tranh. Quá trình phát triển của văn học Việt Nam sau 1975 có thể chia ra làm hai chặng đường tiếp nối nhau: từ 1975 đến 1985 là chặng đường có tính chất chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn h ọc thời hậu chiến; từ 1986 trở đi, văn học chính thức bước vào giai đoạn đổi mới một cách toàn diện. Những năm đầu sau 1975, văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật và những cảm hứng chủ đạo trong thời kì chiến tranh trước đó. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian giao thời này, ở một số cây bút nhạy cảm với những vấn đề của đời sống, ý thức muốn đổi mới đã bộc lộ qua việc thay đổi cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sống. So với thơ ca, văn xuôi có nhiều khởi sắc hơn. Một loạt các sáng tác của Nguyễn Khải (Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người), Nguyễn Mạnh Tuấn (Đứng trước biển, Cù lao Tràm), Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn), Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê)… ra đời và được bạn đọc hoan nghênh đón nhận. Các sáng tác nói trên đã khởi ra một hướng tiếp cận mới, chú ý nhiều đến mảng hiện thực đời thường, đặc biệt là các vấn đề đạo đức – thế sự. Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986), văn học thật sự bước vào thời kì đổi mới. Đường lối đổi mới của Đảng đã tạo động lực lớn lao cho sự chuyển biến mạnh mẽ của đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra một thời kỳ mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật. Không khí dân chủ được đề cao hơn. Văn xuôi ti ếp tục khởi sắc với nhiều tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao như Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp…Tiếp tục hướng đi đã được khai mở ở chặng trước, nhiều cây bút đã đi vào “thể hiện mọi khía cạnh của đời
  • 20. sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phồn tạp mà vĩnh hằng” [45, tr.12]. Hiện thực đời sống được khám phá trên nhiều phương diện, nhất là đời sống nội tâm con người với những trăn trở, khát vọng thầm kín mà trước đây văn học thời chiến tranh chưa có điều kiện nói đến. Tinh thần nhân văn, ý thức cá nhân đã trở thành cảm hứng sáng tạo cho các văn nghệ sĩ. Cùng với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật, các nhà văn đã có nhiều tìm tòi đổi mới về những phương diện nghệ thuật. Văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn trần thuật đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng các thủ pháp độc thoại nội tâm và dòng ý thức, tính đa thanh, đa giọng điệu… Nhìn chung, văn học Việt Nam từ sau 1975 trong đó có văn xuôi đã vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, đổi mới các quan niệm về văn học, quan niệm nghệ thuật về con người, phát huy cá tính sáng t ạo và phong cách nghệ thuật của nhà văn với những tìm tòi, thể nghiệm mới về nghệ thuật. 1.2.2.2. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: từ loại hình truyện ngắn sử thi hóa sang loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa có tính tổng hợp cao Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về phân loại truyện ngắn. Dựa vào tiêu chí phân loại là tư duy nghệ thuật, có thể chia truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975 theo các loại hình truyện ngắn sử thi hóa và loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa. Khảo sát sơ bộ về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong quá trình sáng tác, có thể thấy trong giai đoạn đầu, truyện ngắn của ông được sáng tác theo hướng sử thi hóa, chuyển sang giai đoạn sau 1975 là những truyện ngắn được sáng tác theo hướng tiểu thuyết hóa. Cũng như nhiều sáng tác của giai đoạn 1945 – 1975, một giai đoạn mà văn học “có đặc điểm gần gũi và mang “tính tương đồng” về chất liệu và nội dung phản ánh hiện thực” [19, tr.314], truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mang đậm tính chất sử thi trên nhiều phương diện. Nói đến truyện ngắn sử thi hóa không phải là muốn đề cập đến quy mô sử thi của tác phẩm mà chủ yếu muốn nói đến tính chất sử thi trong tư duy nghệ thuật, trong cách nhìn nhận con người và đời sống hiện thực. Biểu hiện của truyện ngắn sử thi hóa là ở sự chiếm lĩnh và bao quát những vấn đề hiện thực lớn lao của dân tộc, của đất nước; giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm là ngợi ca, khẳng định; nhân vật được khai thác chủ yếu ở những nét đẹp tiêu biểu cho phẩm chất và ý chí của cộng đồng; trong truyện luôn tồn tại một “khoảng cách sử thi” [2, tr.35,38] giữa nhân vật và chủ thể trần thuật… Hoàn cảnh đất nước ta trong giai đoạn 1945- 1975 là một hoàn cảnh đặc biệt. Đối mặt với hai cuộc chiến tranh ác liệt chống Pháp và chống Mĩ, vấn đề được quan tâm hàng đầu là sự sống còn của cả dân tộc. Yêu cầu đặt ra cho tất cả mọi người lúc này là phải lấy trách nhiệm công dân, nghĩa Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 21. vụ đối với đất nước làm phương châm hành động, là thước đo cao nhất để định giá mọi giá trị. Văn học giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy việc phục vụ chính trị, phục vụ cách mạng làm nhiệm vụ hàng đầu. Ý thức công dân cùng với nhiệt tình của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng đã thúc giục các nhà văn hòa mình vào cuộc sống chiến đấu lao động của nhân dân, kịp thời phản ánh và biểu dương những việc làm tốt, những tấm gương anh hùng. Những vấn đề khác trong cuộc sống của con người tạm thời được gạt sang một bên, hoặc có được đề cập đến thì cũng chỉ là để thêm chút “gia vị” làm cho hình ảnh “con người mới” thêm sinh động. Những vấn đề của cuộc sống đời thường được nâng lên tầm sử thi, được soi chiếu theo góc nhìn của các quan hệ chính trị. Xét truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn trước 1975, ta thấy nhà văn đề cập chủ yếu đến hai mảng hiện thực lớn là cuộc sống chiến đấu chống giặc ngoại xâm, công cuộc xây dựng chế độ mới và những khoảnh khắc đời thường của con người trong bối cảnh của cuộc sống thời chiến. Không khí chiến trường không chỉ có ở nơi tiền tuyến mà còn hiện diện ở cả hậu phương, trong thao trường huấn luyện và cả trong những giây phút riêng tư của cuộc sống gia đình. Có thể nói đây cũng là những không gian mang màu sắc sử thi của thời đại. Bám sát hiện thực đời sống chiến tranh, Nguyễn Minh Châu kịp thời có nhiều truyện ngắn viết về đủ loại quân binh chủng, từ những người lính phòng không (Những vùng trời khác nhau, Câu chuyện trên trận địa…), những chiến sĩ hải quân (Lá thư vui), bộ đội giao thông, thanh niên xung phong (Mảnh trăng cuối rừng)… Bên cạnh những truyện ngắn viết về cuộc chiến chống Mĩ cứu nước, nhà văn cũng còn mở rộng sang những mảng đề tài khác như câu chuyện về cuộc nổi dậy của những người dân quê năm đói Ất Dậu (Những hạt thóc lép), một người phụ nữ với cuộc đời mới ở một nông trường khai hoang (Đất rừng)… Dù viết về đề tài gì thì chung quy lại vẫn không nằm ngoài những vấn đề được quan tâm hàng đầu của cả đất nước lúc bấy giờ. Qua những câu chuyện dù bình thường hay bất ngờ, đầy kịch tính, cái đích cuối cùng vẫn là biểu dương vẻ đẹp của con người sống hết mình cho lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH. Các nhân vật như Nguyệt, Lãm (Mảnh trăng cuối rừng), Sơn, Lê (Những vùng trời khác nhau), Ngạn (Nguồn suối),…được xây dựng như là những biểu tượng cho vẻ đẹp của con người thời đại. Họ đều là những con người giàu lòng yêu nước, yêu lí tưởng cách mạng. Cuộc đời riêng của họ hòa vào cuộc đời chung của dân tộc. Những suy nghĩ riêng tư của họ nếu có thì cũng hướng về cái chung, vì lợi ích của tập thể, của số đông. Những câu chuyện của họ cũng là của nhiều người, bên cạnh họ luôn có sự hiện diện của tổ chức, của đồng đội, của nhân dân sẵn sàng ủng hộ, giúp đỡ. Tính cách của nhân vật vì vậy có tính nhất quán, được khai thác chủ yếu ở các khía cạnh tích cực. Nhà văn dùng những lời lẽ hết sức trân trọng để ca ngợi vẻ đẹp của họ. Giọng điệu chính trong tác phẩm là giọng ngợi ca, tự hào, khẳng định.
  • 22. Trong những truyện ngắn sử thi này, chiều hướng vận động của cốt truyện nhìn chung đều phát triển theo mô hình đơn nhất. Số phận của nhân vật thường trải qua những biến cố bất lợi ban đầu nhưng cuối cùng đều kết thúc trong th ắng lợi hoặc tạo ra một niềm tin lạc quan về sự chiến thắng. Chính điều này cũng góp phần tạo nên âm hưởng lãng mạn hào hùng cho hầu hết các tác phẩm. Một điều đáng lưu ý là bên cạnh những truyện ngắn đậm chất sử thi được đánh giá cao như Mảnh trăng cuối rừng, ở một số truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn này còn xuất hiện màu sắc đời tư rõ nét. Ở các truyện như Chuyện đại đội, Lá thư vui, Đất rừng, chất đời tư thể hiện qua những chi tiết gần gũi ấm áp tình người, những cảm xúc cùng sự quan tâm mà con người dành cho nhau. Đấy là những chi tiết xoay quanh sự ra đời của chú nghé con trong doanh trại của một đại đội, chi tiết về những giây phút hồi hộp đầy thương yêu của cô trò lớp mẫu giáo khi nhận được nhhững bức thư từ tiền tuyến, chi tiết về cảnh ngộ éo le trước khi lên công trường khai hoang của cô Ngàn trong Đất rừng. Chất đời tư trong những tác phẩm này một mặt có tác dụng điểm xuyết để câu chuyện thêm sinh động, mặt khác làm cho chất sử thi trong truyện mang một nét mới không còn giống với đặc điểm sử thi truyền thống. Riêng trong truyện Đất quê ta, cách nhìn cùng v ấn đề mà tác giả đặt ra hoàn toàn khác các tác phẩm vừa nêu. Qua câu chuyện về cô diễn viên điện ảnh tên Hương mải mê chạy theo những ảo ảnh phù hoa để rồi gia đình tan vỡ, tác giả muốn đặt ra vấn đề về sự tha hóa trong nhân cách con người, sự lựa chọn của mỗi người để đem lại hạnh phúc cho mình và người thân. Dĩ nhiên truyện ngắn này trở thành tiếng đàn lạc điệu trong dàn đồng ca sử thi thời ấy, nhưng đã hé lộ một hướng đi sẽ được nhà văn triệt để khai thác sau này. Khác với tư duy sử thi, tư duy tiểu thuyết “là một cách nhìn, cách tiếp cận với thế giới và con người hết sức tỉnh táo, phi huyễn hoặc, phi thành kính, xóa bỏ mọi khoảng cách, đó là sự cảm thụ sống động tính phức tạp vô tận, tính mâu thuẫn nội tại và sự biến động liên tục của sinh tồn, đó là sự phát hiện ra con người nhiều chiều, con người không đồng nhất với chính mình, không thể hóa thân đến cùng vào cái thân xác xã hội – lịch sử hiện hữu của mình, với những mối quan hệ biện chứng chằng chịt giữa tính cách và hoàn cảnh của nó” [58, tr.348]. Trong giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu chuyển dần sang xu hướng tiểu thuyết hóa mà biểu hiện chủ yếu là sự quan tâm đến những vấn đề của đời thường, của số phận con người trong những mối quan hệ đa dạng, phức hợp của đời sống; cảm hứng ngợi ca, khẳng định được thay bằng cảm hứng suy tư, chiêm nghiệm; nhân vật được khám phá ở chiều sâu tâm lí cùng với những mâu thuẫn giằng xé phức tạp; khoảng cách trần thuật giữa nhân vật và chủ thể trần thuật dần thu hẹp; tính thống nhất sử thi đã bị phá vỡ, thay vào đó là sự đa giọng điệu với nhiều tiếng nói khác nhau… Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 23. Lấy thể tài đời tư, đời thường làm trung tâm cho cảm quan nghệ thuật, nhà văn hướng cái nhìn của mình vào hiện thực bề sâu trong số phận con người. Những vấn đề lớn lao của cuộc sống sau chiến tranh được xu hướng tiểu thuyết hóa kéo xuống mặt bằng đời thường. Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975, đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được khai thác nhưng bắt đầu được nhìn với những góc độ khác trước. Trong Bên đường chiến tranh, dù vẫn tiếp tục sử dụng bút pháp trữ tình quen thuộc trước đó nhưng câu chuyện tình của An và Hạnh đã mang một sắc thái khác. Chiến tranh đã để lại một dấu ấn buồn lên cuộc tình đẹp của họ trong sự chờ đợi mỏi mòn đến tận cuối đời của nhân vật. Đến Cơn giông, Cỏ lau… bộ mặt chiến tranh còn hiện ra ở cả mặt trái khốc liệt của nó với những mất mát, đau thương không gì bù đắp nổi, con người hiện ra không chỉ với lòng dũng cảm cao thượng mà còn ở những ích kỉ nhỏ nhen, cả ở sự phản bội. Những vấn đề đời tư tạm gác lại trong giai đoạn trước, bây giờ lại được đặt ra cụ thể với sự thôi thúc quy ết liệt hơn. Đó là các vấn đề hạnh phúc cá nhân, những cô đơn, nỗi buồn của con người, những nguyên tắc ứng xử giữa con người trong mối quan hệ phức tạp của đời thường…Nhà văn quan tâm đ ến mọi chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày như trong các truyện Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K…Nhà văn nhập thân vào nhân vật, nói lên tiếng nói bên trong của nhân vật với nhiều suy tư ngẫm ngợi về bản thân và cuộc đời. Nhân vật không còn là những mô hình trùng lặp mà trở nên sinh động hơn trong tính toàn vẹn chỉnh thể của nó và cũng chính vì vậy mà không hề đơn giản dễ hiểu. Các nhân vật như Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), lão Khúng (Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát) sẽ còn tiếp tục làm nhiều thế hệ người đọc phải tranh luận mà không dễ đi đến những thống nhất. Trong cái nhìn không còn bị ngăn cách bởi những quan niệm, định kiến cũ kĩ, nhà văn nhìn thấy trong mỗi con người là một thế giới riêng với biết bao điều vừa giản dị vừa phức tạp, vừa tầm thường vừa hết sức cao thượng, đẹp đẽ. Bên cạnh sự chuyển đổi từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 còn có xu hướng tổng hợp vào bản thân mình đặc điểm của các thể loại khác. Có thể gọi đây là xu hướng phức thể hóa, tức là ngoài những yếu tố thuộc về bản chất của thể loại, truyện ngắn còn pha trộn thêm các yếu tố của tiểu thuyết, trữ tình, kịch… Rõ nét nhất là sự pha trộn với chất tiểu thuyết mà biểu hiện trước hết là sự nới rộng về kích thước và phạm vi phản ánh. Phạm vi cuộc sống được phản ánh không còn bó hẹp trong một không gian, thời gian giới hạn. Dung lượng truyện nở rộng cho phép tái hiện không chỉ là một khoảnh khắc của đời sống mà còn là câu chuyện về một đời người, một thế hệ, một dòng họ… Lấy Phiên chợ Giát làm ví dụ. Đọc truyện này ta dễ dàng nhận thấy nó không đơn giản chỉ là một “lát cắt” của cuộc đời, mà là một cuộc đời thật sự, vắt mình qua nhiều giai đoạn của lịch sử đất nước. Nhiều vấn đề có ý nghĩa tầm cỡ đã được gợi lên từ câu chuyện của một gia đình nông dân, không chỉ là chuyện một đời, một người mà còn là chuyện của một thời, một đất nước. Tuy nhiên,
  • 24. tác phẩm này không là tiểu thuyết mà vẫn là một truyện ngắn nhờ vào cách tổ chức có tính dụng ý của tác giả. Nội dung câu chuyện có thể mở ra nhiều chiều kích đa dạng nhưng vẫn được khéo léo khuôn vào trong m ột tình huống cụ thể – cái tình huống của hành trình giải thoát cho con Khoang đen chợt nảy lên trong suy nghĩ bất chợt của lão Khúng có được từ những giấc mơ đầy ám ảnh. Và khi gấp sách lại, người đọc vẫn không thể nào dứt bỏ khỏi tâm trí mình hình ảnh cái giây phút trớ trêu khi ngư ời chủ và con bò nhìn nhau ảo não, phiền muộn. Chính tình huống truyện và cái ấn tượng mạnh mẽ mà nó đem lại đã đảm bảo cái chất “ngắn” cho thiên truyện. Nói cách khác, truyện mang trong mình cái tham vọng của tiểu thuyết muốn khái quát cuộc đời ở một tầm vóc lớn lao hơn nhưng về cấu trúc vẫn có tính chặt chẽ của một truyện ngắn. Tầm khái quát được nâng lên một mặt đòi hỏi truyện ngắn phải tăng cường độ nén để có thể ôm chứa được nhiều đề tài, chủ đề, đặt ra nhiều vấn đề về các phạm trù đạo đức, lí tưởng, thân phận con người…, mặt khác phải có sự biến hóa về khuôn khổ. Chính vì thế mà trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau này có sự tăng vọt về số trang. Khảo sát sơ bộ truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (dựa vào bản in trong Nguyễn Minh Châu toàn tập), người viết nhận thấy ở giai đoạn trước 1975, truyện có số trang ít nhất là 8 trang (Con đường đến trường học), truyện có số trang nhiều nhất là 30 trang (Đất rừng), đa số còn lại dao động từ khoảng 20 trang đến dưới 30 trang. Sau 1975, tình hình đổi khác rất nhiều. Trong số 23 truyện, có đến 11 truyện có độ dài từ 30 trang trở lên. Trong đó có một số truyện có tầm vóc của một truyện vừa, nếu căn cứ vào độ dài, gồm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (103 trang), Khách ở quê ra ( 49 trang), Sống mãi với cây xanh ( 83 trang), Cỏ lau ( 90 trang), Mùa trái cóc ở miền Nam (74 trang), Phiên chợ Giát ( 68 trang). Sự khảo sát trên chỉ có tính tương đ ối ( dựa trên bản in trong Nguyễn Minh Châu toàn tập, Nxb Văn học, 2001, khổ 14 x 20,5 cm, in cỡ chữ lớn), mục đích chính là để thấy được sự thay đổi về độ dài truyện ngắn của ông qua hai giai đoạn. Nếu dựa vào bản in trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn h ọc, 2006, khổ 14,5 x 20,5, gồm 25 truyện, in cỡ chữ nhỏ, thì số lượng trang có rút ngắn so với trên. Ví dụ: Mảnh trăng cuối rừng (trong toàn tập) dài 25 trang thì ở tuyển tập còn 18 trang, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ở tuyển tập chỉ còn 69 trang, Cỏ lau ở tuyển tập còn 60 trang… Bên cạnh việc học tập tiểu thuyết, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 còn nhìn sang các thể loại khác như trữ tình, kịch để tạo nên sự đa dạng hóa trong cách thức diễn đạt. Cốt truyện co giãn linh ho ạt, có lúc chứa đựng những tình huống giàu kịch tính như trong Bức tranh, Cơn giông, Chiếc thuyền ngoài xa, Mùa trái cóc ở miền Nam…, có lúc thiên về những tình huống giàu tâm trạng như trong Bến quê, Cỏ lau, Phiên chợ Giát... Việc tăng cường những cốt truyện tâm lí, đi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 25. sâu vào thế giới nội tâm, xen lẫn vào mạch truyện những đoạn bình luận ngoại đề giúp tạo nên chất trữ tình triết luận cho tác phẩm. Như vậy, trong sự tương tác với các thể loại khác, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ngày càng có xu hư ớng hiện đại hơn so với trước. Chất hiện đại trong truyện N guyễn Minh Châu sau 1975 còn làở chỗ nhà văn không cố khuôn vào một kiểu loại cụ thể. T ùy vấn đề mà có cách tổ chức khác nhau, không cứ ngắn hay dài, chặt chẽ hay lỏng lẻo, quan trọng là hình thức đó phải chuyển tải được những nghiền ngẫm của nhà văn, tùy thuộc vào độ lớn của cái điều ông muốn nói ra thông qua những câu chuyện hết sức gần gũi. Nguyễn Minh Châu thuộc vào số những nhà văn mà trong hành trình sáng tác của mình, gắn với sự đổi thay của đất nước qua từng giai đoạn, đều có những tác phẩm xuất sắc nói lên được những vấn đề của thời cuộc. Sự chuyển đổi từ loại hình truyện ngắn sử thi hóa sang loại hình truyện ngắn tiểu thuyết hóa, phức thể hóa trong sự nghiệp sáng tác của ông dường như là một sự vận động tất yếu để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Vấn đề đáng nói là ở Nguyễn Minh Châu, sự vận động chuyển đổi đó diễn ra quyết liệt và đúng vào thời điểm mà văn học rất cần một tiếng nói tiên phong để cất lên giọng điệu đổi mới, thay đổi cái giọng đồng ca mà một thời rất cần thiết nhưng nay đã đến lúc không thể giữ nguyên như cũ.
  • 26. Chương 2: NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VÀ NỘI DUNG TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU (sau 1975) Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù hết sức quan trọng trong sáng tác của bất kì nhà văn nào. “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên t ắc, phương tiện, biện pháp, hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật trong đó” [78, tr.59]. Như vậy, quan niệm nghệ thuật về con người là cốt lõi tư tưởng, là cách nhìn nhận, thể hiện con người bằng nghệ thuật của tác giả. Tìm hiểu về sự thay đổi trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975 không thể không xét đến những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người của ông. Sự thay đổi về quan niệm nghệ thuật tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về nội dung tự sự và bút pháp thể hiện trong quá trình sáng tạo tác phẩm văn học của nhà văn. 2.1. Bước chuyển về quan niệm nghệ thuật Quá trình nhà văn khước từ văn chương “minh họa” để đến với văn chương thực sự là cây đời; từ hứng thú với con người sử thi đơn phiến đến hứng thú với con người thường nhật phức tạp, bí ẩn chưa biết hết,… 2.1.1. Sáng tạo nghệ thuật là một thứ lao động hết sức nhọc nhằn, vất vả và luôn phải tự làm mới mình để tồn tại và phát triển. Trong hành trình sáng tạo ấy, người nghệ sĩ phải dám chấp nhận dứt bỏ những giá trị cũ khi chúng đã lỗi thời và không còn nhiều ý nghĩa. Đây là điều hết sức khó khăn nhưng cũng hết sức cần thiết. Vượt lên chính mình đã khó, vượt lên cả một hệ thống còn khó khăn gấp bội. Trong bối cảnh của những năm sau 1975, khi văn học có dấu hiệu “chững lại và không ít người viết lâm vào tình trạng bối rối” [45, tr.10], những trăn trở, tìm tòi đổi mới của Nguyễn Minh Châu thực sự là những nỗ lực đáng trân trọng. Lời kêu gọi “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” được coi như là một tuyên ngôn nghệ thuật của ông, có thể có tính cực đoan nhưng trên hết đó là sự khát khao thay đổi hết sức mạnh dạn và quyết liệt. Trước đây, trong những năm chiến tranh, với ý thức về trách nhiệm của một nhà văn – chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu từng tâm niệm: “Lẽ nào có thể làm ngơ được ? Lẽ nào chúng ta có thể viết những câu văn trái với điều nhiều người chung quanh hiện đang phải lo nghĩ để chiến thắng giặc ? Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, mỗi người viết văn đang tự chứng tỏ tư cách ngòi bút của mình trên mặt trận cứu nước. Chưa lúc nào bằng lúc này, thái độ nhà văn trước vận mệnh chung của dân tộc lại đặt ra cấp bách và nghiêm khắc đến như thế” [14, tr.28]. Trong nhận thức và tình cảm của nhà văn, viết để góp phần chống giặc cứu nước là một lẽ sống hết sức tự nhiên. Từ tâm Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 27. niệm ấy đã xuất hiện những trang viết chứa đầy nhiệt huyết của thời đại (Cửa sông, Dấu chân người lính, Những vùng trời khác nhau…), góp ph ần không nhỏ vào thàn h tựu chung của nền văn học cách mạng. Được định hướng bởi những quan điểm chỉ đạo về văn nghệ của Đảng, nội dung tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, trong đó có truyện ngắn, luôn bám sát những vấn đề chính trị - xã hội của đất nước. Nhà văn xây dựng các nhân vật chủ yếu nhằm khái quát vẻ đẹp của con người thời đại, biểu dương lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Những Nguyệt, Lãm (Mảnh trăng cuối rừng), Sơn, Lê (Những vùng trời khác nhau)… là những hình tượng đẹp có tính chất điển hình mà nhà văn đã đóng góp cho văn học thời chống Mĩ. Có thể dễ dàng nhận ra ở trong họ những phẩm chất tiêu biểu nhất cho vẻ đẹp của con người thời đại bấy giờ như giàu lòng yêu nước, say mê lí tưởng, gan dạ dũng cảm, sẵn sàng hi sinh tình cảm cá nhân, lợi ích riêng tư cho lợi ích của cộng đồng, dân tộc. Quán triệt định đề văn học phải phản ánh đời sống, phục vụ chính trị, tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975, dù muốn hay không, ít nhiều cũng là những bức tranh minh họa cho những chủ trương, đường lối văn nghệ của Đảng. Mỗi nhân vật của ông đều có đời sống riêng, đều được khắc họa trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau, tuy nhiên, sự phong phú ấy không nhằm nói lên sự đa dạng phức tạp trong tính cách, số phận con người mà chủ yếu là muốn cho thấy bộ mặt nhiều vẻ của dân tộc, nhân dân trong sự đồng lòng quyết tâm thực hiện những nhiệm vụ cao cả chống giặc ngoại xâm, giành lại độc lập tự do cho đất nước. Chiến tranh là nền cảnh chủ yếu của đời sống cộng đồng, có vai trò như một không gian khung, một sân khấu để nhân vật hoạt động. Qua nhân vật, nhà văn thể hiện sự quan sát, đánh giá, bày tỏ tình cảm thái độ về cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc. Đời sống cá nhân của con người chưa thực sự trở thành đối tượng chủ yếu để nhà văn phản ánh mà chỉ là một yếu tố trong bức tranh hiện thực lịch sử xã hội của tác phẩm. Có lẽ lúc bấy giờ, trong ông chưa xuất hiện khái niệm “văn nghệ minh họa”, tuy nhiên cũng ngay trong những tháng ngày mơ mộng và hào hùng ấy, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những bất cập: “Hình như cuộc chiến đấu anh hùng sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ ca đôi khi tráng lên một lớp men “trữ tình”hơi dày, cho nên ngắm nó thấy mỏng mảnh, bé bỏng và óng chuốt quá khiến người ta phải ngờ vực” [14, tr.33]. Những manh nha về một bước chuyển trong nhận thức nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, như vậy đã có từ sớm nhưng phải đến những năm sau 1975, xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống, đặc biệt là trong không khí đổi mới từ Đại hội VI thì mới được bộc lộ một cách triệt để. Khi chiến tranh kết thúc, cuộc sống dần trở lại với nhịp sống bình thường của nó thì cũng là lúc có nhiều vấn đề mới nảy sinh. Con người không chỉ biết mỗi việc là cầm súng đánh giặc mà còn phải biết làm kinh tế, phải biết tổ chức lại cuộc sống của mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh của
  • 28. thời bình. Cuộc sống thay đổi làm cho các nhu cầu của con người cũng thay đổi, những vấn đề cơm áo, gạo tiền, địa vị xã hội… trở thành những mối lo âu thường trực trong suy nghĩ của nhiều người. Đối mặt với hiện thực đời thường, ý thức cá nhân trong mỗi con người được thức tỉnh, đòi hỏi phải được đáp ứng, phải được quan tâm. Quan hệ đời sống cũng trở nên phức tạp hơn, các ranh giới, khuôn mẫu trong thời chiến nay đã bị xóa nhòa hoặc biến dạng. Bên cạnh cái tốt, cái thiện, bắt đầu xuất hiện những cái xấu, cái ác nấp trong những vỏ bọc không dễ phát hiện. Lối sống bao cấp trong nhiều năm dài làm cho con người quen với những nếp nghĩ đơn giản, khiến cho họ không khỏi có những bỡ ngỡ, va vấp khi đối diện với những thực tế hoàn toàn khác trước. Trong hoàn cảnh ấy, văn học cũng cần phải có sự điều chỉnh để nhìn lại mình và tìm tòi một hướng đi mới, một cách tiếp cận mới đối với hiện thực đời sống và con người. Với mong muốn làm cho tác phẩm phải tiếp cận được với chân lí đời sống, Nguyễn Minh Châu tâm niệm: “Cái ngày hôm nay với những khó khăn không cho phép chúng tôi, những người đã nếm trải chiến tranh, đã biết như thế nào là cái nghiêm khắc của chiến tranh, cầm bút một cách điệu đàng, ca ngợi và vuốt ve đời sống một cách dễ dãi” [14, tr.110]. Giống như Nam Cao, Nguyễn Minh Châu quan ni ệm nghệ thuật phải được bắt rễ từ cuộc sống hiện thực, người nghệ sĩ không được dễ dãi với những cách nhìn đơn giản một chiều mà “phải đào bằng ngòi bút cho đến cùng đáy cái thật chứa đầy bí ẩn” để có thể hiểu và cảm thông với số phận vất vả của người lao động. Cái nhìn đa chiều giúp cho nhà văn có điều kiện đào sâu phát hiện những mạch ngầm bí ẩn trong thế giới tinh thần của con người, những khoảng tối khuất lấp, “những gì đang được giấu kín và cũng đang giao tranh với nhau ở bên trong: những lý tưởng và dục vọng, trí tuệ và bản năng, thiện và ác, những phần con người ý thức được và những phần vô thức của con người” [14, tr.345], tức “đào sâu vào hiện thực ở cái tầng đáy của đời sống”[14, tr.337]. Hiện thực trong tác phẩm không còn chỉ là hiện thực cách mạng với các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà còn là hiện thực của đời sống thường ngày với các mối quan hệ thế sự phức tạp, đan xen. Dịch chuyển phạm vi nhận thức và phản ánh hướng vào hiện thực của đời sống hằng ngày, nhà văn chúý nhiều đến đời sống cá nhân của mỗi người. Con người vẫn được đặt trong mối quan hệ với hoàn cảnh lịch sử xã hội, tuy nhiên hoàn cảnh lịch sử xã hội chỉ là cái nền để nhà văn khai thác những khía cạnh của số phận cá nhân trong những trăn trở đời thường, trong quan hệ với gia đình, những người xung quanh, với chính bản thân mình. Trong Cỏ lau, Phiên chợ Giát…, số phận con người cũng được đặt trong những bối cảnh hiện thực rộng lớn với nhiều biến cố, nhiều sự kiện lịch sử phức tạp chi phối mạnh mẽ đến cuộc sống của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, điều đáng nói là ở đây, nhà văn không có chủ ý nhằm vào việc tái hiện bộ mặt lịch sử. Điều nhà văn quan tâm thể hiện là những số phận cá nhân với những biến động, những cảm xúc bên trong thế giới tinh thần con người. Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
  • 29. Ở những truyện cuối đời như Cỏ lau, Sống mãi với cây xanh, Phiên chợ Giát, từ số phận cá nhân, tác giả mở rộng suy ngẫm, chiêm nghiệm về những vấn đề mang tính thời cuộc, mang ý nghĩa nhân sinh đối với đời người…Như lối dự cảm của người nông dân, đôi khi mơ hồ nhưng lại chính xác, Nguyễn Minh Châu đặt ra nhiều vần đề cho mai sau: vấn đề môi trường, cách ứng xử với thiên nhiên, việc quy hoạch và chính sách đối với nông thôn và nông dân… Những vấn đề ấy cho đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự nóng hổi, vẫn là những vấn đề hết sức bức xúc mà xã hội cần quan tâm và giải quyết. Từ lối văn chương minh họa của một thời để đến được với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống của cây đời, từ lối viết dễ dãi chủ yếu ngợi ca một chiều đến việc day dứt suy ngẫm về số phận con người, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã đi được một chặng đường dài, ngày càng cận nhân tình hơn. 2.1.2. Trước 1975, trong bối cảnh đất nước đang diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại, cảm hứng sử thi anh hùng là cảm hứng chủ đạo chi phối cách nắm bắt và thể hiện vấn đề của Nguyễn Minh Châu. Con người trong truyện ngắn giai đoạn này được soi chiếu và nhận diện chủ yếu trên những bình diện xã hội, trong mối quan hệ với giai cấp, với cộng đồng, với dân tộc, được đặt vào trong những hoàn cảnh điển hình, là những hoàn cảnh của các biến cố lịch sử, những xung đột xã hội mà trung tâm là cuộc chiến tranh hào hùng của dân tộc chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân vật mang trong mình những phẩm chất cao đẹp, ý chí và sức mạnh phi thường, kết tinh những vẻ đẹp tinh thần và lí tưởng cao cả của một dân tộc anh hùng. Quan niệm về con người sử thi chi phối cách cảm nhận về con người trong mối quan hệ với hiện thực đời sống. Cũng giống như trong nhiều tác phẩm của các nhà văn khác, con người trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước 1975 được cảm nhận không bao giờ tách rời với các sự kiện chính trị, các nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đất nước. Ta bắt gặp hình ảnh những sĩ quan, những người lính ngày đêm ra sức tập luyện để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu sắp tới trong Sau một buổi tập, Con đường đến trường học, Trên vùng đất sỏi, hình ảnh những người lính dũng cảm đang đối mặt với kẻ thù trong cuộc chiến bảo vệ mảnh đất quê hương trong Những vùng trời khác nhau, Câu chuyện trên trận địa, hình ảnh đôi trai gái gan dạ bình tĩnh trên cung đường Trường Sơn bị đánh phá ác liệt trong Mảnh trăng cuối rừng, hình ảnh bà mẹ nén đau thương động viên giúp đỡ bộ đội chiến đấu trong Người mẹ xóm nhà thờ… Ở những truyện không trực tiếp đề cập đến cuộc chiến tranh chống Mĩ thì câu chuyện trong tác phẩm cũng không nằm ngoài những vấn đề chung của đất nước trước đó. Trong Những hạt thóc lép, câu chuyện về gia đình bác Chắm cũng là câu chuyện chung của nhiều người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu, không chịu nằm chờ chết đói, họ đã nổi dậy đấu tranh để tìm đường sống. Truyện đã tái hiện được không khí quyết liệt của cuộc đấu tranh chống địa chủ tay sai cho giặc, sự tất yếu của con đường cách mạng mà người dân làng Truồi