Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Sự lựa chọn mô hình bảo hiếm ở Việt Nam, cho các bạn tham khảo làm đề tài nghiên cứu
Luận văn: Sự lựa chọn mô hình bảo hiếm ở Việt Nam, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI HẢI ĐƯỜNG
SỰ LỰA CHỌN MÔ HÌNH BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI HẢI ĐƯỜNG
SỰ LỰA CHỌN MÔ HÌNH BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lý luận - Lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chủ tịch Hội đồng Người hướng dẫn
GS. TS Phạm Hồng Thái TS. Đặng Minh Tuấn
Hà Nội - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ
Bùi Hải Đường
4. MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------- 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
MÔ HÌNH BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI----------------------------------- 8
1.1. Khái niệm, vị trí vai trò của bảo hiến ---------------------------------- 8
1.1.1 Khái niệm bảo hiến-------------------------------------------------------- 8
1.1.2. Vị trí, vai trò bảo hiến---------------------------------------------------11
1.2. Sự hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến điển hình
trên thế giới.-----------------------------------------------------------------------13
1.2.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Cộng hòa Pháp ---------------------13
1.2.2. Mô hình bảo hiến bằng tòa án ở Hoa Kỳ -----------------------------19
1.2.3. Mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức--------------------------------------23
1.2.4.Mô hình bảo hiến Quốc hội ---------------------------------------------25
1.3. Lý do lựa chọn mô hình bảo hiến trên thế giới------------------------26
1.3.1. Các yếu tố pháp luật-----------------------------------------------------27
1.3.2. Các yếu tố chính trị------------------------------------------------------28
1.3.3. Sự ảnh hưởng mô hình bảo hiến nước ngoài-------------------------30
1.3.4. Ưu, nhược điểm của mô hình bảo hiến -------------------------------31
CHƯƠNG II: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM---------------------------------------------------------------------34
2.1. Bảo hiến theo quy định của các Hiến pháp trong lịch sử -----------34
2.1.1. Những nền tảng ban đầu cho sự hình thành bảo hiến theo Hiến
pháp năm 1946 ------------------------------------------------------------------34
2.1.2. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959 -----------------------------------36
5. 2.1.3. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980 -----------------------------------37
2.1.4. Bảo hiến theo Hiến pháp 1992 -----------------------------------------39
2.2. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013 --------------------------40
2.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình bảo hiến ở Việt Nam ----47
2.3.1. Ưu điểm-------------------------------------------------------------------49
2.3.2. Hạn chế--------------------------------------------------------------------50
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM -----57
3.1. Yêu cầu xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam-----57
3.2. Cơ sở xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam-------60
3.2.1. Tồn tại một bản Hiến pháp quy định tính pháp lý tối cao ----------60
3.2.2. Từng bước hoàn thiện và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam ----------------------------------------------------------61
3.2.3. Cơ chế phân quyền có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền
lực nhà nước ---------------------------------------------------------------------63
3.2.4. Quyền con người, quyền công dân được từng bước ghi nhận---------64
3.2.5. Sự thống nhất về tư tưởng hoàn thiện cơ chế bảo hiến -------------65
3.3. Đánh giá sự phù hợp của các mô hình bảo hiến ở Việt Nam-------66
3.4. Đề xuất mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam-----------------------73
3.4.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam----------------------------75
3.4.2. Cách thức tổ chức hội đồng Hiến pháp -------------------------------78
3.4.3. Chức năng của hội đồng Hiến pháp -----------------------------------79
3.4.4.Trình tự, thủ tục hoạt động của hội đồng Hiến pháp-----------------83
KẾT LUẬN------------------------------------------------------------------------86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ------------------------------------88
6. 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử pháp lý thế giới đã ghi nhận Hiến pháp xuất hiện nhằm mục
đích tạo sự cân bằng, kiểm soát quyền lực nhà nước, đặt ra một phạm vi
giới hạn mà nhà nước buộc phải tuân thủ để bảo vệ quyền công dân. Hiến
pháp đại diện cho nền dân chủ đối với mỗi quốc gia, thể hiện ý chí và
quyền lực nhân dân. Tuy nhiên, Hiến pháp ở nhiều quốc gia chưa được coi
trọng đúng giá trị. Khi Hiến pháp không được bảo vệ giá trị pháp lý tối cao,
không được ghi nhận là đạo luật nền tảng cho hệ thống pháp luật quốc gia
thì nhu cầu về cơ chế bảo vệ Hiến pháp xuất hiện. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp
nhằm mục đích bảo vệ Hiến pháp đồng thời bảo vệ nền dân chủ, bảo vệ
quyền lực mà nhân dân đã trao cho nhà nước. Hiến pháp và cơ chế bảo hiến
trở thành công cụ thiết yếu để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân trong bất cứ một mô hình nhà nước dân chủ ở mọi giai đoạn của lịch sử
nhân loại.
Xây dựng mô hình bảo hiến nhằm bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của
Hiến pháp là một trong những nội dung quan trọng để hướng tới xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đường lối và
chính sách của nhà nước nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật đã chỉ rõ mục
tiêu coi Hiến pháp là nền tảng hệ thống pháp luật, cần được bảo vệ giá trị
pháp lý. Nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020: Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng
và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp
phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập
7. 2
quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 [1].
Trên cơ sở nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020, báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng - Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X năm 2006 của Đảng tiếp tục ghi nhận: “tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” xác định “xây
dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát và tính hợp hiến và hợp pháp
trong hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền”, xây dựng cơ chế
phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành
pháp và tư pháp” [2].
Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã là mục tiêu hướng đến trong
một khoảng thời gian rất dài tuy nhiên bởi nhiều lý do mà một cơ quan
chuyên trách bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam chưa thể hình thành. Việt Nam
mới hoàn thiện và ban hành Hiến pháp 2013 nhưng nhu cầu hình thành một
mô hình bảo hiến chuyên trách trong thời kỳ mới vẫn còn tồn tại. Hiến
pháp 2013 là bản Hiến pháp của thời kỳ mới; trên cơ sở quán triệt và thể
chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng; tạo cơ sở chính trị - pháp lý
cho việc thực hiện công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 2013 sẽ tiếp tục sứ mệnh lịch sử của mình:
Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh [3].
Hiện nay bối cảnh tình hình thế giới đã có nhiều biến chuyển sâu sắc;
trong khi đó ở Việt Nam quan điểm tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối pháp
luật vẫn chưa tồn tại trên thực tế. Đối với hầu hết những công dân, người
được Hiến pháp trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì đều không
8. 3
hiểu hết tầm quan trọng của Hiến pháp và nhu cầu cần hạn chế sự vi phạm
Hiến pháp.
Thực tế cho thấy, các hành vi bị nhận định vi hiến thường xuyên đến
từ phía cơ quan nhà nước, đơn cử trong lĩnh vực rõ ràng nhất là việc ban
hành các văn bản pháp luật. Hiến pháp 2013 không ghi nhận mô hình bảo
hiến chuyên trách khiến cho việc hạn chế, xử lý các hành vi hiến gặp nhiều
khó khăn. Thực trạng hiện nay, cần tìm ra mô hình bảo hiến chuyên trách
phù hợp cho Việt Nam nhằm đề xuất vào các bản Hiến pháp trong tương
lai. Theo Hiến pháp 2013, Việt Nam cũng đã có cơ chế bảo vệ Hiến pháp
thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan nhà nước, giữa
công dân với cơ quan nhà nước tuy nhiên cơ chế trên thực tế vừa không
đầy đủ, vừa yếu, lại không thống nhất, không đồng bộ, thiếu thủ tục trình tự
dẫn đến việc tuyên bố một quyết định vi hiến ở Việt Nam là một việc nằm
ngoài phạm vi thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Trong bối cảnh hiện tại,
việc xây dựng một Hiến pháp tốt và xây dựng một cơ chế để bảo vệ Hiến
pháp hiệu quả là một nhu cầu chính đáng. "Lịch sử không ban tặng cho một
quốc gia nhiều cơ hội như thế và khi cơ hội đến, phải vượt qua các thách
thức vì tương lai của quốc gia bị đe dọa”[4]. Mô hình bảo hiến nào thực sự
cần thiết với Việt Nam, các quốc gia trên thế giới đã lựa chọn mô hình bảo
hiến thông qua những yếu tố như thế nào. Nghiên cứu nhằm đánh giá mô
hình phù hợp nhất với hoàn cảnh nước ta thời kỳ hiện tại.
Từ những lý do trên, tôi xin lựa chọn đề tài: “Sự lựa chọn mô hình
bảo hiến ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ chuyên nghành Lý luận lịch sử
nhà nước và pháp luật. Đây là đề tài có tính cần thiết, cấp bách, thời sự.
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu về Hiến pháp, đặc biệt về cơ chế bảo hiến không phải là
đề tài quá mới với các nhà nghiên cứu cả ở thế giới và Việt Nam. Đặc biệt
là trong giai đoạn sửa đổi Hiến pháp năm 1992, hàng loạt những hội nghị,
9. 4
hội thảo, tọa đàm được tổ chức nhằm đưa ra những nghiên cứu, kiến nghị
về việc xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách trong Hiến pháp mới. Tuy
Hiến pháp 2013 không ghi nhận mô hình bảo hiến chuyên trách như kỳ
vọng nhưng những nghiên cứu về mô hình bảo hiến đã tạo nền tảng cho
việc tiếp tục xây dựng bảo hiến ở Việt Nam trong tương lai. Trong thời
gian qua đã có những nghiên cứu khoa học, công trình khoa học, bài viết,
chuyên đề, sách chuyên khảo nổi bật và đáng chú ý bao gồm:
GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Chủ nghĩa Hiến pháp và vấn đề bảo
hiến ở Việt Nam, Kỷ yếu về Hội thảo quốc tế về bảo hiến, Văn phòng Quốc
hội năm, 2009.
GS.TSKH Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán
Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 10, năm 2006.
Sách chuyên khảo Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, đồng chủ
biên, nhà xuất bản Lao động - xã hội, năm 2012.
Sách chuyên khảo Mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến
pháp ở một số nước trên thế giới, Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2013.
Sách chuyên khảo Các thiết chế hiến định độc lập kinh nghiệm quốc
tế và triển vọng ở Việt Nam, Viện chính sách công và pháp luật, nhà xuất
bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013.
Sách chuyên khảo Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoa luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011.
Tài liệu tham khảo Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về bảo hiến, Văn phòng
Quốc hội, nhà xuất bản Thời đại, năm 2009.
Một số đề tài nghiên cứu thạc sỹ, tiến sĩ liên quan về đề tài bảo vệ
Hiến pháp như:
10. 5
Luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật “Bảo hiến trong nhà nước pháp quyền” của tác giả Nguyễn Mậu Tuân,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật “Cơ chế bảo hiến trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” tác giả
Tào Thị Quyên, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2012.
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam của tác giả Bùi Thanh Cương,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
Các công trình khoa học nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý
luận chung về bảo hiến, khái niệm, vai trò bảo hiến, cung cấp những nền
tảng cơ bản về mô hình bảo hiến trên thế giới, mô hình bảo hiến hiện tại ở
Việt Nam đồng thời chỉ rõ ra những kinh nghiệm Việt Nam có thể tham
khảo, cũng như lựa chọn cho mình một mô hình bảo hiến phù hợp với đặc
thù quốc gia. Những nghiên cứu đã thể hiện những ưu điểm, hạn chế của
mô hình bảo hiến Việt Nam hiện tại đồng thời đề xuất khắc phục hạn chế
nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiến từ đó tạo nền tảng cho việc xây dựng cơ
quan bảo hiến chuyên trách ở nước ta. Những nghiên cứu khoa học trên là
nguồn tham khảo, vận dụng và học hỏi quan trọng để đề tài luận văn có thể
thực hiện hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến lịch sử bảo hiến ở nước ta, các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn mô
hình bảo hiến… để đóng góp một phần ý nghĩa thực tiễn và lý luận về cơ
chế bảo hiến ở nước ta.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích của luận văn nhằm tìm hiểu cơ bản về các mô hình bảo
hiến trên thế giới thông qua việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá những
11. 6
khái niệm, vai trò của bảo hiến đối với mỗi quốc gia, làm rõ các yếu tố tác
động đến sự lựa chọn xây dựng mô hình bảo hiến ở mỗi quốc gia.
Đồng thời nghiên cứu xác định những ưu điểm và hạn chế của mô
hình bảo hiến hiện tại, xem xét nền tảng để hoàn thiện mục tiêu xây dựng
mô hình bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam, đưa ra những minh chứng
chứng tỏ tầm quan trọng của mô hình bảo vệ Hiến pháp tại Việt Nam, nhu
cầu cần thiết phải tồn tại mô hình bảo hiến trong hoạt động của bộ máy nhà
nước. Trên cơ sở đó kiến nghị, đề xuất thiết chế bảo hiến chuyên trách ở
nước ta, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền công dân,
quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Để hoàn thành mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ:
- Nghiên cứu các đặc điểm của các cơ quan bảo vệ Hiến pháp trên
thế giới. Bên cạnh đó, tìm hiểu tại sao các quốc gia lại lựa chọn mô hình
bảo hiến đó, nhằm tìm ra những mô hình phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn ở
Việt Nam.
- Nghiên cứu cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu cần thiết
cho sự đổi mới của mô hình
- Nghiên cứu đưa ra các kiến nghị, kế thừa và phát triển một mô hình
bảo hiến chuyên trách phù hợp với đặc điểm quốc gia đối với Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm đổi mới
nhà nước và pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài vận dụng phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng; đồng thời sử dụng một số phương pháp là so
sánh luật học, so sánh chính trị học
12. 7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một đề tài luận văn thạc sỹ, tôi xác định phạm
vi của đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề pháp lý liên
quan đến việc hình thành mô hình bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam;
những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong việc xây dựng mô hình bảo
hiến, trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng
có hiệu quả mô hình bảo hiến.
6. Tính mới của nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên nền tảng nhu cầu về mô hình bảo hiến
chuyên trách ở Việt Nam, đưa ra những luận điểm khoa học về sự cần thiết
phải tồn tại nhu cầu bảo hiến. Đồng thời, nghiên cứu những đặc điểm tác
động đến mô hình bảo hiến của một quốc gia, gắn với thực tiễn Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra đề xuất mô hình bảo hiến chuyên trách phù
hợp với yêu cầu trong hoàn cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Tác giả mong muốn luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Về kết cấu, Luận văn bao gồm Phần mở đầu, Phần Kết luận và ba chương:
Chương I: Cơ sở hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến
trên thế giới.
Chương II: Sự hình thành và phát triển của bảo hiến ở Việt Nam.
Chương III: Đề xuất mô hình bảo hiến ở Việt Nam.
13. 8
Chương I:
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC MÔ HÌNH
BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Khái niệm, vị trí vai trò của bảo hiến
1.1.1 Khái niệm bảo hiến
Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật tối cao của một quốc gia, Hiến
pháp ra đời thể hiện ý chí của nhân dân nhằm mục đích giới hạn quyền lực
nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân. Hiến pháp là cơ sở để xem
xét tính pháp lý của mọi văn bản, mọi quyết định và mọi hành vi của bộ
máy nhà nước và công dân; là một dạng khế ước cam kết giữa nhân dân và
nhà nước. Nhân dân có quyền xem xét tính hợp hiến của pháp luật. Hiến
pháp xuất hiện trong một xã hội có nền dân chủ, có sự phân chia quyền lực
nhà nước, phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước với
nhau. Hiến pháp đặt nền móng cho mọi hoạt động của bộ máy nhà nước,
nguyên tắc, chức năng, thẩm quyền bộ máy nhà nước đều theo sự điều
chỉnh của Hiến pháp.
Chủ nghĩa hợp hiến được hình thành bởi ý tưởng chính trị tự do ở
Tây Âu và Hoa Kỳ là hình thức bảo vệ quyền cá nhân đối với sức khỏe, tài
sản, tự do tôn giáo và ngôn luận. Để đảm bảo những quyền trên, người
soạn thảo Hiến pháp đã nhấn mạnh kiểm soát quyền lực nhà nước trong
mỗi ngành quyền lực. Bất cứ cơ quan nào sử dụng đủ quyền lực để bảo vệ
tôi khỏi bị hàng xóm cướp bóc, tất có thể sử dụng đủ quyền lực để phá hủy
hoặc nô lệ hóa tôi. Nghịch lý này nằm trong gốc rễ của lý thuyết hiện đại
về tình trạng tự nhiên: Làm sao chúng ta thoát khỏi tình trạng vô chính
phủ mà không sa vào chính thể chuyên quyền để điều khiển người bị trị mà
vẫn có thể ngăn ngừa quyền hành tích lũy này không bị lạm dụng?...Giải
pháp dân chủ tự do cho vấn nạn này chính là chủ nghĩa hợp hiến [4].
14. 9
Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất, chính xác
nào về bảo hiến. Các thuật ngữ được dùng trong mỗi hoàn cảnh khác nhau
tùy thuộc vào hoàn cảnh quốc gia, điều kiện chính trị của quốc gia. Bảo
hiến hay cách gọi thông thường khác gọi là bảo vệ Hiến pháp hay tài phán
Hiến pháp có thể hiểu là cách thức đánh giá tính hợp hiến của các văn bản
pháp luật, các hành vi pháp lý của các cơ quan quyền lực nhà nước được
thực hiện bởi một cơ quan hiến định.
Theo nghĩa hẹp, bảo hiến được giải thích là bảo vệ tính hợp hiến của
các đạo luật, mục đích nhằm tìm ra sự phù hợp giữa Hiến pháp, đạo luật
gốc với những văn bản mang tính pháp lý khác, sự phù hợp ở đây không
mang tính khuyến cáo mà là sự chính xác. Mỗi văn bản có tính pháp lý
được ban hành ở bất kỳ cơ quan nào đều cần có sự tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp.
Ở một góc độ theo nghĩa rộng hơn, bảo hiến là bảo vệ tinh thần và
nội dung của Hiến pháp. Tinh thần trong bản Hiến pháp mà các nhà lập
hiến đã truyền tải vảo bản Hiến pháp, bảo vệ mối liên hệ giữa hành pháp, tư
pháp và lập pháp, kiểm soát tính hợp hiến của các hành vi thực hiện bởi
thiết chế nhà nước được quy định trong Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến
pháp chỉ cách thức tổ chức thực hiện bảo vệ Hiến pháp của một quốc gia
được thể hiện thông qua mô hình bảo hiến mà quốc gia đó lựa chọn. Cơ chế
bảo vệ Hiến pháp ở mỗi quốc gia thường không giống nhau nhưng vẫn có
điểm chung nhất định.
Nền móng của bảo hiến được cho là có thể xuất hiện vào thời Hy
Lạp cổ đại. Những hình thức sơ khai của mô hình bảo hiến xuất hiện ngày
càng nhiều ở châu Âu trung đại, các quốc gia bắt đầu có những điều luật
liên quan đến mô hình bảo hiến. Tuy không thành chế định bảo hiến cụ thể
nhưng lại có giá trị tham khảo rất lớn như: Đức, Pháp, Bồ Đầu Nha, Na Uy,
Đan Mạch, Hy Lạp, Áo, Rumani. Vương quốc Anh cũng có những đóng
góp nhất định vào sự phát triển của cơ chế bảo hiến. Anh quốc được coi là
15. 10
quê hương của nền dân chủ, quê hương của nghị viện hiện đại. Với việc
xuất hiện bản "Đại Hiến chương" hay Magna Carta là một trong những văn
bản pháp luật quan trọng trong lịch sử nước Anh, không chỉ đơn thuần là
cột mốc cho tự do, dân chủ của nước Anh; mà người ta xem Đại Hiến
chương là một văn kiện đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển của chủ
nghĩa tự do và nền dân chủ trên thế giới, được ban hành vào năm 1215. Sự
kiện này đã đánh dấu những bước chuyển biến lớn với lịch sử pháp luật
nước Anh, trong đó có quan điểm về tính tối cao của Hiến pháp, mặc dù
nước Anh không có một bản Hiến pháp thành văn. Người Anh đã khởi
xướng ra thủ tục luận tội quan chức nhà nước đồng thời đề xuất ra tính tối
thượng của pháp luật và quyền được tào án xem xét tính hợp pháp của hoạt
động chính phủ. Thế kỷ XVIII, tòa án đã ra một phán quyết tuyên bố các
luật của đế chế Anh không còn giá trị pháp lý trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Sự
kiện xác nhận quyền bảo hiện của tòa án Hoa Kỳ mới được chính thức xác
nhận hình thành mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ do những tòa án thường
thực hiện.
Từ sự ra đời của chế định bảo hiến ở Hoa Kỳ, đã mở đường cho
hàng loạt các quốc gia khác với các bản Hiến pháp sau đó. Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha thế kỷ 19, dưới sự ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ năm
1812 tại Tây Ban Nha, Hiến pháp Cadiz đã ra đời. Sau đó, Hiến pháp này
lại làm nền tảng cho Hiến pháp Bồ Đào Nha ra đời năm 1822. Các bản
Hiến pháp này, dưới sự ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ đều mang
những mầm mống của cơ chế bảo vệ Hiến pháp - tính tối cao của Hiến
pháp trong hệ thống pháp luật quốc gia; Na Uy, Đan Mạch, Hy Lạp đưa
quyền giám sát Hiến pháp vào thế kỷ 19; năm 1867, Tòa án Liên bang Áo
được trao quyền giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền, Tòa án Tiểu
bang được trao quyền ra quyết định với các vụ kiện vi phạm Hiến pháp...
Tới giai đoạn 1918 - 1939 mô hình bảo hiến của Áo nổi lên, giai
đoạn này được coi là "thời kỳ của nước Áo" (the Austrian Period). Nước
16. 11
Áo áp dụng công trình của hai nhà khoa học Hans Kelsen và Adolf Merkl
sáng tạo ra mô hình bảo hiến tập trung. Mô hình này đã mở đường cho
hàng loạt các Tòa án Hiến pháp ở Châu Âu. Hiến pháp năm 1920 ở Áo xác
nhận nền tảng của Tòa án Hiến pháp. Mô hình Tòa án Hiến pháp chịu trách
nhiệm cơ bản bảo hiến như là một nhiệm vụ độc lập đã được xác nhận ở
Áo và phổ biến ra nhiều quốc gia khác nhất là ở châu Âu, trở thành một
trong những mô hình cơ bản về cơ chế bảo hiến trên thế giới.
Sau giai đoạn này, rất nhiều các quốc gia ở khắp các khu vực trên
thế giới thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp theo những mô hình khác
nhau như Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ, Myanma, Italia [5]… Ngoài tòa án
(tòa án thường và tòa án Hiến pháp) như ở Mỹ và Áo, ở một số nước, pháp
luật còn giao quyền bảo hiến cho một số cơ quan khác với những tên gọi,
ví dụ như hội đồng Hiến pháp, các tòa đặc biệt thuộc Toà án tối cao, hoặc
cho bản thân Nghị viện. Mô hình hội đồng Hiến pháp của Pháp năm 1958
và mô hình bảo hiến Quốc hội - nghị viện của Liên Xô đã mở ra thêm
nhiều sự lựa chọn phù hợp hơn hoàn cảnh của mỗi quốc gia.
Các mô hình bảo hiến trên thế giới hiện nay đã được phát triển
nhanh chóng, được đa số các quốc gia trên thế giới ghi nhận là một trong
những chế định bắt buộc tồn tại trong hệ thống pháp luật quốc gia, được
quy định trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia đó ở dạng
thành văn hoặc bất thành văn. Tính đến nay theo những số liệu không
chính thức đã có ít nhất hơn 80% các quốc gia trên thế giới quy định về
vấn đề bảo vệ Hiến pháp dưới những hình thức khác nhau.
1.1.2. Vị trí, vai trò bảo hiến
Bảo hiến đóng góp rất lớn cho sự hoàn thiện của pháp luật, nền dân
chủ quốc gia cũng như sự phát triển của quốc gia. Mô hình bảo hiến ở mỗi
quốc gia tùy thuộc vào hoàn cảnh nên có những đặc điểm riêng biệt nhưng
17. 12
cơ bản bảo hiến được xây dựng với những vai trò và mục đích chung. Mô
hình bảo hiến được xây dựng với những mục tiêu cơ bản sau:
- Kiểm soát quyền lực nhà nước, duy trì hiệu quả hoạt động cả bộ máy
nhà nước, hoàn chỉnh chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Bảo hiến nhằm mục đích để bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến
pháp, cũng như hoàn thiện các chế định pháp luật. Hiến pháp như tên gọi
của nó, sẽ bảo vệ những giá trị cốt lõi, những điểm căn bản nhất của quốc
gia cho dù bản Hiến pháp đó tồn tại ở bất kỳ dạng nào: thành văn hay bất
thành văn. Khi tiến hành xây dựng pháp luật, những văn bản pháp luật xây
dựng có thể không hoàn toàn dựa trên cái nhìn khách quan về vấn đề mà
còn mang nhiều tính hạn chế, cá nhân. Việc tồn tại những điểm sai sót,
không thống nhất, mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi trong thực tiễn.
Mô hình bảo hiến được hình thành sẽ bảo vệ xã hội khỏi những văn bản,
những điều luật mâu thuẫn, tạo nên sự thống nhất trong phạm vi của Hiến
pháp và pháp luật. Hiến pháp có thể hạn chế một phần hoặc toàn bộ những
vấn đề có thể phát sinh trong việc xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật.
Bảo hiến bảo vệ hoàn chỉnh quy trình “Lập hiến - lập pháp”, đưa
quy trình vào trong thực tế và áp dụng. Hệ thống pháp luật sẽ được xây
dựng hoàn chỉnh, đúng trình tự, có sự giám sát chặt chẽ, có sự điều chỉnh
kịp thời khi cần. Hiến pháp điều chỉnh những mối quan hệ xã hội đúng theo
khuôn khổ pháp luật, theo những cốt lõi của Hiến pháp. Hiến pháp hạn chế
quyền lực của cơ quan nhà nước trong phạm vi mà Hiến pháp quy định,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quyền công dân được xây dựng
hoàn thiện trong Hiến pháp được bảo vệ tuyệt đối. Nhân dân thông qua cơ
quan bảo hiến thực hiện quyền giám sát của mình, yêu cầu cơ quan bảo
18. 13
hiến bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước những văn bản vi hiến, hành vi
vi hiến của cơ quan quyền lực nhà nước hay của những cá nhân thẩm quyền.
Bảo hiến là điều kiện tiên quyết để có thể đưa Hiến pháp vào thực
tiễn cuộc sống, bảo đảm giá trị pháp lý của các quy phạm pháp luật, tạo
nên sự thống nhất trong toàn bộ quá trình xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật, khiến cho pháp luật có thể đi sâu vào thực tiễn. Bảo hiến xây
dựng một cơ chế cụ thể không chỉ bảo vệ tính pháp lý của Hiến pháp đồng
thời xây dựng cơ chế để công dân yêu cầu nhà nước xem xét tính hợp hiến
của một điều luật, một đạo luật hay một hành vi bất kỳ vi hiến xảy ra. Đối
tượng bảo vệ Hiến pháp ở hướng tới là những hành vi vi hiến và cả những
văn bản vi hiến.
1.2. Sự hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến điển
hình trên thế giới.
Mô hình bảo hiến trên thế giới có thể phân chia thành các kiểu mô
hình khác nhau. Nếu phân chia theo cách thức giám sát thì có mô hình giám
sát Hiến pháp tập trung và mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung. Cách
thức phân chia theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền cơ quan bảo hiến thông
thường là cách phân chia được sử dụng nhiều nhất thì trên thế giới có bốn
mô hình bảo hiến điển hình được áp dụng như sau:
- Mô hình bảo hiến bằng tòa án Hiến pháp (điển hình tại Áo, Đức).
- Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp (điển hình tại Hoa Kỳ).
- Mô hình bảo hiến bằng hội đồng Hiến pháp (điển hình tại Pháp).
- Mô hình bảo hiến khác.
1.2.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Cộng hòa Pháp
Bối cảnh hình thành của mô hình: Cộng hòa Pháp là một quốc gia
có nền pháp luật dân chủ hàng đầu trên thế giới, mô hình tài phán Hiến
pháp cũng là một trong ba mô hình đặc thù được nhiều quốc gia lựa chọn
áp dụng.
19. 14
Mô hình hội đồng Hiến pháp được hình thành đầu tiên ở cộng hòa
Pháp và dần dần phát triển đến nhiều quốc gia, đa phần là những quốc gia
chịu ảnh hưởng chính trị và pháp lý cũng như văn hóa từ cộng hòa Pháp.
Để có thể xây dựng và áp dụng hiệu quả được mô hình hội đồng Hiến pháp,
nước Pháp cũng đã phải trải qua một quá trình đấu tranh hàng trăm năm, bắt
nguồn từ thế kỷ 18.
Hiến pháp năm 1799 đã chính thức ghi nhận sự xuất hiện của cơ chế
bảo hiến với mục đích chính nhằm tìm sự cân bằng giữa hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Hiến pháp 1799 quy định trao quyền bảo hiến cho một
trong hai viện thuộc nghị viện. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng nhà nước
Cộng hòa Pháp đã bắt đầu thừa nhận bảo hiến rất sớm. Thượng viện có
thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến, có thể tuyên bố hủy bỏ văn bản vi hiến
không có giá trị pháp lý (mô hình có đôi nét gần giống với mô hình bảo
hiến nghị viện của Liên Xô). Tất nhiên với trình tự và lập pháp vừa kiểm
tra thì việc thượng viện kiểm tra tính hợp hiến chắc chắn chỉ mang tính
hình thức. Đến Hiến pháp năm 1892, cộng hòa Pháp vẫn thừa nhận sự tồn
tại của bảo hiến thông qua Thượng viện. Thượng viện vẫn được trao quyền
kiểm tra, tuyên bố hủy bỏ văn bản không có giá trị pháp lý và thêm quyền
đình chỉ văn bản pháp luật đang thi hành. Quyền năng thì tăng lên nhưng
Thượng viện lại không sử dụng quyền năng của mình vào bảo vệ Hiến pháp
nên chỉ dừng lại ở những quy định mang đậm tính hình thức.
Thời kỳ cộng hòa đệ Tam: Hiến pháp 1985 đã không còn thừa nhận
cơ chế bảo vệ Hiến pháp của Thượng viện, quy định về tài phán Hiến pháp
hoàn toàn bị xóa bỏ trong bản Hiến pháp thời kỳ này. Tuy vậy, các học giả
đã bắt đầu tìm hiểu được tầm quan trọng của mô hình bảo hiến đối với sự
phát triển của cộng hòa Pháp. Hiến pháp năm 1946 đã quy định thành lập
một Ủy ban Hiến pháp do tổng thống đứng đầu, nhằm kiểm tra tính hợp
hiến của dự luật cho được thông qua của nghị viện. Đến thời điểm này mô
hình bảo hiến vẫn chỉ mang tính hình thức. Do nhiều nguyên nhân khi quy
20. 15
định Hiến pháp không có giá trị thực tế để kiểm soát những đạo luật dễ gây
lên tình trạng vi hiến - vi phạm nghiêm trọng quyền về con người, gây lên
những ảnh hưởng xấu cho xã hội. Đến năm 1958, những mâu thuẫn bắt đầu
bùng nổ, xã hội Pháp trở nên vô cùng phức tạp, Pháp kiều ở Algieri liên lục
nổi dậy chống lại chính phủ Pháp. Chính phủ Pháp được sự ủng hộ của
nghị viện cũng không thể ổn định được tình hình xã hội. Giữa năm 1958,
chính phủ Pháp tuyên bố từ chức, nghị viện Pháp tìm mọi cách để thành lập
ra chính phủ mới nhưng đều không thành công. Bất ổn chính trị ở nước
Pháp kéo dài suốt từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến thời điểm này khiến
cho lòng tin của nhân dân vào nghị viện và các Đảng phái chính trị hoàn
toàn không còn. Đứng trước hoàn cảnh khó khăn, nghị viện Pháp đã phải
thay đổi thể chế, hoàn thiện lại chế độ chính trị nhằm tìm ra lối thoát cho sự
khủng hoảng. Tháng 9 năm 1958, tướng Đờ Gôn được mời làm thủ tướng
cho một chính phủ mới, sự xuất hiện của anh hùng quốc gia với uy tín rất
cao đã khiến cho sự ủng hộ của nhân dân tăng cao cho chính phủ Pháp.
Hiến pháp năm 1958 [6] do tướng Đờ Gôn khởi xướng được thông qua đã
mở ra một thời kỳ mới cho cộng hòa Pháp đồng thời đầu cho một trong
những mô hình bảo hiến tiêu biểu trên thế giới được hình thành. Bản Hiến
pháp đã thiết lập nên một nền cộng hòa mới gắn liền với tướng Đờ gôn,
Hiến pháp 1958 ra đời đã tiến hành giải quyết hai vấn đề chủ chốt mà suốt
thời gian dài trước sức ép của nghị viện mà không thể tiến hành được
Thứ nhất, Hiến pháp 1958 đã tăng quyền hạn cho tổng thống, hạn
chế được sự tham gia của nghị viện vào mọi hoạt động của chính phủ.
Thứ hai, Hiến pháp 1958 đã quy định thành lập thành công hội đồng
Hiến pháp đúng nghĩa để có thể xem xét hoạt động lập pháp, vốn là hoạt
động quan trọng nhất của nghị viện. Nghị viện có rất nhiều quyền hạn vào
thời gian trước đã bị hạn chế thông qua bản Hiến pháp 1958 mang đậm
chất tổng thống Đờ gôn. Tại sao nước Pháp tại thời điểm đó lại lựa chọn
21. 16
mô hình riêng biệt là hội đồng Hiến pháp chứ không đi theo những mô hình
tòa án Hiến pháp hay tòa án tư pháp đã tồn tại và phát triển trước đó [7].
Trong một khoảng thời gian dài, khoảng hơn hai thế kỷ, các nhà học
giả Pháp đã bắt đầu nghiên cứu để lựa chọn mô hình bảo hiến phù hợp. Sự
nghiên cứu, tích lũy phân tích trong giai đoạn đó đã tạo nên nhận thức pháp
lý khi xây dựng mô hình hội đồng Hiến pháp. Nhận thức pháp lý của nhân
dân Pháp tại thời điểm đó yêu cầu tồn tại mô hình bảo hiến để hạn chế
quyền lực của nghị viện. Mọi tầng lớp xã hội Pháp đều nhận thấy quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm khi để nghị viện quá nhiều quyền
lực, cần thiết phải lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình. Hiến pháp 1958 thể
theo nguyện vọng nhân dân, xây dựng cơ chế đảm bảo sự phân chia quyền
lực giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Cộng hòa Pháp với bản Hiến pháp
1958 đã thể hiện được sự nhìn nhận đúng đắn về tầm quan trọng của mô
hình bảo hiến và mục đích đúng đắn khi xây dựng mô hình bảo hiến.
Mô hình hội đồng Hiến pháp được xây dựng trong Hiến pháp 1958
đã đáp ứng được lợi ích của nhiều thành phần trong xã hội. Hội đồng Hiến
pháp trước hết hạn chế quyền lực nghị viện, phục vụ lợi ích của tổng thống
và chính phủ mới, đồng thời bảo vệ lợi ích chính trị của các tầng lớp trong
xã hội. Mô hình hội đồng Hiến pháp về cơ bản phục vụ phần lớn lợi ích của
số đông nhân dân và lợi ích chính trị của chính phủ mà tướng Đề gôn đã
xây dựng so với nghị viện.
Cộng hòa Pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền pháp luật châu Âu lục
địa, đồng thời là những ảnh hưởng nhất định từ những nền pháp luật tiến bộ
khác như hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Khi đề cập đến việc xây dựng mô
hình bảo hiến, các nhà nghiên cứu khoa học Pháp đều hướng tới mô hình
bảo hiến theo kiểu Anh Mỹ, mô hình bảo hiến bằng tòa án thường với hệ
thống tòa án đã tồn tại ở Pháp. Tuy nhiên, nhận thấy mô hình tòa án không
thể phù hợp với hoàn cảnh xây dựng mô hình bảo hiến ở Pháp bởi vì: hệ
22. 17
thống tòa án của cộng hòa Pháp không đủ khả năng để đảm nhận nhiệm vụ
bảo hiến khi gần như bị phụ thuộc hoàn toàn và nghị viện, tính độc lập của
tư pháp không tồn tại. Đồng thời, với truyền thống pháp lý lâu dài, nước
Pháp đã không cho phép mình rập khuôn mô hình nào khác mà lựa chọn
con đường khó khăn hơn rất nhiều là tự xây dựng cho mình mô hình bảo
hiến đặc thù, riêng biệt và phù hợp với hoàn cảnh quốc gia.
Đặc điểm của mô hình hội đồng Hiến pháp:
Mô hình hội đồng Hiến pháp mang tính đặc thù so với những mô
hình khác trên thế giới.
Thứ nhất, mô hình không chỉ mang bản chất đúng của tài phán Hiến
pháp, mà còn mang đậm yếu tố tổ chức chính trị ở trong đó. Mô hình hội
đồng Hiến pháp vận hành hoạt động theo một cơ chế đặc biệt không công
khai quy trình bảo hiến. Thành viên mô hình cũng không phải toàn bộ là
những nhà nghiên cứu pháp luật mà còn bao gồm những nhân vật được quy
định trong đó có cả những tổng thống đã hết nhiệm kỳ. Hội đồng Hiến pháp
thời gian đầu xây dựng chỉ có nhiệm vụ kiểm tra dự án luật chưa được
thông qua bởi nghị viện. Tuy nhiên, sau một thời gian dài nhận thấy việc
chỉ kiểm tra dự án đã làm mất đi tính thực tế của Hiến pháp. Nhiều vấn đề
pháp luật khi áp dụng và thực tiễn mới có thể phát hiện được sự vi hiến tồn
tại trong quy phạm pháp luật, đến khi sửa đổi Hiến pháp đã quy định đầy
đủ quyền hạn của hội đồng Hiến pháp trong việc thẩm tra những dự án luật
và cả những văn bản pháp luật đã được thông qua bởi nghị viện. Hội đồng
Hiến pháp sau khi thẩm tra được tuyên bố văn bản hay hành vi là vi hiến,
có thể hủy bỏ hoặc sửa đổi những văn bản hay hành vi pháp luật có sự vi
hiến. Khi mới đầu xây dựng, các nhà lập pháp đã không nhất quán ý tưởng,
cho rằng nhiều khả năng những quy định về hội đồng Hiến pháp mang tính
hình thức. Tuy nhiên, khi vận hành mô hình đã hoạt động mang lại sự hiệu
quả, trở thành mô hình tiêu biểu trong các mô hình bảo hiến.
23. 18
Thứ hai, mô hình hội đồng Hiến pháp là mô hình có thể phù hợp với
hoàn cảnh đặc thù và khó có thể áp dụng rộng rãi được. Một thể chế mang
bản chất chính trị phải có những cách thức riêng mới có thể tránh được sự
ảnh hưởng của những cơ quan quyền lực nhà nước khác. Hội đồng Hiến
pháp là mô hình rất khó để áp dụng thành công nếu không thực sự phù hợp
quốc gia lựa chọn mô hình.
Sự phát triển của mô hình hội đồng Hiến pháp trên thế giới:
Mô hình hội đồng Hiến pháp đặc trưng về bảo hiến được hình thành
đầu tiên ở Pháp. Hội đồng Hiến pháp cũng có nhiều điểm tương đồng với mô
hình tòa án Hiến pháp, tuy nhiên hội đồng Hiến pháp được xây dựng theo xu
hướng một cơ quan thuộc hệ thống chính trị chức không thuộc ngành quyền
lực tài phán, một dạng của hệ thống Tư pháp. Hội đồng Hiến pháp đã được
phát triển trong một khoảng thời gian dài và được ghi nhận như một trong ba
mô hình bảo hiến lớn trên thế giới. Tuy nhiên, hội đồng Hiến pháp không
phải là dạng mô hình bảo hiến có thể phổ biến và lan tỏa mạnh mẽ như Tòa
án Hiến pháp hay tòa án bảo hiến kiểu Mỹ. Đây là mô hình chứa đựng
những điểm đặc thù, các quốc gia trên thế giới hiện nay áp dụng mô hình hội
đồng Hiến pháp không quá nhiều. Hầu hết các nước áp dụng mô hình là ở
Châu Phi, Trung Đông và Châu Á, Pháp là quốc gia duy nhất áp dụng mô
hình tại châu Âu.
Mô hình hội đồng bảo hiến mang đặc điểm của cơ quan chính trị trộn
lẫn với cơ chế bảo hiến. Chức năng, thẩm quyền và trình tự thực hiện bảo
hiến của hội đồng Hiến pháp đều không giống cơ chế tài phán thông thường.
Các quốc gia khi lựa chọn mô hình hội đồng Hiến pháp đều phải chấp nhận
những khó khăn nhất định. Những quốc gia lựa chọn hội đồng bảo hiến đa
phần chịu ảnh hưởng nhất định bởi cộng hòa Pháp như các nước Bắc Phi
hoặc tìm ra điểm phù hợp của mô hình hội đồng Hiến pháp. Trên thế giới đã
24. 19
có các quốc gia áp dụng mô hình hội đồng Hiến pháp bao gồm: Pháp,
Tuynidi, Eetiopia, Senegal, Bờ Biển Ngà, Iran, Campuchia, Li băng…
1.2.2. Mô hình bảo hiến bằng tòa án ở Hoa Kỳ
Mô hình bảo hiến Hoa Kỳ là mô hình bảo hiến được áp dụng phổ
biến, hiệu quả trên toàn thế giới. Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp
được đánh giá đã thể hiện được toàn bộ giá trị cần có của cơ chế bảo vệ
Hiến pháp hiệu quả.
Bối cảnh hình thành của mô hình: Hoàn cảnh ra đời của mô hình
bảo hiến kiểu Hoa Kỳ cũng mang đúng bản chất sử dụng án lệ là nguồn
luật của hệ thống pháp luật khi mô hình được xây dựng từ vụ án cụ thể.
Đầu thế kỷ 19, trong cuộc bầu cử tổng thống John Adams và đảng
Federalist của ông thất cử, Thomas Jefferson người của đảng Dân chủ và
Cộng hòa Hoa Kỳ trúng cử Tổng thống. Trước khi rời khỏi ghế tổng thống,
nhằm đảm bảo cho sự quyền lợi của mình sau khi rời vị trí, John Adams đã
bổ nhiệm hàng loạt thành viên của đảng Federalist vào chức vụ thẩm phán
và thẩm phán hòa giải. Khi Jefferson lên làm tổng thống, các quyết định
của John Adams đã được ký và đóng dấu nhưng lại chưa được chuyển đi
hết. Jefferson chỉ đạo cho James Madison, lúc đó là bộ trưởng bộ Ngoại
giao không chuyển quyết định mà Adams đã ký cho những người có tên để
họ không thể nhận chức vụ Thẩm phán.Trong số những người không nhận
được quyết định đó có William Marbury. Khi không nhận được quyết định,
William Marbury đã khởi kiện James Madison yêu cầu giải thích lý do tại
sao các quyết định lại không được chuyển cho mình; đồng thời Marbury
yêu cầu tòa án tối cao quyết định buộc trao quyết định để những người có
liên quan thực thi nhiệm vụ của mình. Chánh án lúc đó là John Marshall
lúc đó, vì những tình huống chính trị, đã rất khó khăn khi giải quyết vụ
việc này. John Marshall đã đưa ra phán quyết cho vụ việc này:
25. 20
Thứ nhất, Madison đã vi phạm pháp luật vì không chuyển giao
quyết định cho những người liên quan.
Thứ hai, Đạo luật thành lập các tòa án tư pháp năm 1789 cho phép
tòa án ban hành mệnh lệnh trên là trái với Hiến pháp. Marshall đã tuyên bố
tòa án tối cao liên bang không có quyền giải quyết vấn đề này, mặc dù mục
13 của Đạo luật Tư pháp liên bang trao cho tòa án thẩm quyền trong lĩnh
vực đó nhưng quy định này trái với điều 3 của Hiến pháp Hoa Kỳ năm
1787. Ông cho rằng Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước và có hiệu lực
pháp lý tối cao. Vì vậy khi một đạo luật thông thường trái với Hiến pháp
thì đạo luật đó phải bị tuyên bố là vô hiệu. Cuối cùng, John Marshall đã
đưa ra phán quyết lịch sử: Hiến pháp là luật tối cao của đất nước, những
luật hay quyết định được đưa ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ phận của
Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp. Thẩm phán, người đã từng
tuyên thệ bảo vệ Hiến pháp, phải tuyên bố hủy bỏ những luật, lệ quy định
nào của cơ quan lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp.
Ba phán quyết trên đây đã xác lập chức năng bảo vệ Hiến pháp của
tòa án và quyền tài phán của tòa án về các quyết định của lập pháp và hành
pháp liên quan đến Hiến pháp. Với những tuyên bố trên đây và những
đóng góp lớn lao cho ngành tư pháp, John Marshall được coi là Chánh án
tòa án Tối cao vĩ đại nhất của Hoa Kỳ. Ông đã thực sự khẳng định sức
mạnh của nhánh quyền lực thứ ba trong ba nhánh quyền lực nhà nước. Với
phán quyết trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến thế giới, tòa án có
quyền xem xét tính hợp hiến của một đạo luật đến từ hành pháp, đây được
coi là lần xuất hiện chính thức đầu tiên của chế định bảo vệ Hiến pháp. Vụ
việc này cũng dẫn những đặc trưng trong mô hình bảo hiến kiểu Mỹ sau
này. Đó là việc chứng minh một đạo luật vi hiến luôn luôn là trách nhiệm
của bên nguyên, và chỉ những người có quyền và lợi ích bị xâm phạm bởi
đạo luật hay hành vi mới được quyền khởi kiện xem xét tính vi hiến .
26. 21
Đặc điểm của mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ:
Thứ nhất, cơ quan bảo hiến Hoa Kỳ hoạt động dựa trên mô hình tòa
án tư pháp thông thường. Từ tòa án địa phương cho đến tòa án liên bang
đều có thẩm quyền xét xử những vụ án liên quan đến vi hiến. Tuy quyền
hạn trao cho tất cả các tòa án các cấp quyền bảo hiến nhưng các quyết định
của các tòa án cấp cao nhất có ưu thế bởi chỉ những quyết định đó mới có
tính bắt buộc với mọi tòa khác. Sau khi tòa án cấp cao nhất phủ nhận tính
hợp hiến của đạo luật thì đạo luật đó trên thực tế mới mất hiệu lực pháp lý.
Thứ hai, tòa án thực hiện giám sát Hiến pháp sau khi văn bản pháp
luật được ban hành hoặc có hiệu lực. Đây là một cái nhìn thực tiễn sâu sắc,
mang màu sắc của án lệ, đặc trưng của hệ thống thông luật, mọi đạo luật
đều được kiểm nghiệm tính pháp lý thông qua thực tiễn chứ không phải chỉ
trên giấy tờ. Sự ảnh hưởng của đạo luật nhất định phải được chứng minh
bằng thực tiễn áp dụng.
Thứ ba, tòa án bảo vệ Hiến pháp trong từng sự việc cụ thể, điều này
một phần xuất phát từ triết lý chân lý luôn mang tính cụ thể của Hoa Kỳ.
Tòa án chỉ giám sát tính hợp hiến của văn bản pháp luật khi có những sự
kiện pháp lý nhất định, hay nói cách khác kiện tụng chính là tiền đề để Tòa
án phán xét tính hợp hiến của một đạo luật. Đây là ưu thế lớn của mô hình
bảo hiến kiểu Hoa Kỳ khi mà ngay cả việc hình thành cơ chế bảo vệ Hiến
pháp mang dáng dấp của án lệ (Án lệ đánh dấu sự ra đời của Hiến pháp
trong vụ kiến Marbury chống Madison với phán quyết của Chánh án Tòa
án Tối cao Marshall). Quyền bảo hiến chỉ được các Tòa án sử dụng trong
trường hợp tìm thấy sự liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người đề nghị xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Đặc điểm này
xác định rõ ràng hơn phạm vi của quyền giám sát, tránh sự trừu tượng và
kém hiệu quả. Từ đây, mô hình này cho phép các bên có tranh chấp trong
vụ án bình thường, khi nhận ra những phán quyết hay những hành động
27. 22
trái Hiến pháp của bên còn lại gây ảnh hưởng đến lợi ích của mình thì đều
có quyền đề nghị thực hiện quyền bảo vệ Hiến pháp (xuất phát từ một hành
vi vi hiến ảnh hưởng trực tiếp đến mình).
Sự phát triển của mô hình bảo hiến tòa án kiểu Hoa Kỳ
Mô hình bảo hiến Hoa Kỳ mang đúng bản chất mô hình tài phán Hiến
pháp khi tập trung hoàn toàn vào việc xét xử những vấn đề vi hiến. Có thể
khẳng định đây là một trong ba mô hình bảo vệ Hiến pháp lớn nhất trên thế
giới. Sau khi ra đời ở Hoa Kỳ, mô hình có sức lan tỏa vô cùng lớn, được rất
nhiều các quốc gia lựa chọn để học tập kinh nghiệm để tiến hành xây dựng.
Đánh giá về hiệu quả, mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ hoạt động hiệu
quả bảo vệ giá tối cao của Hiến pháp, mọi đạo luật có dấu hiệu vi hiến đều
bị xem xét và được xử lý. Có thể khẳng định đây là mô hình vô cùng hiệu
quả trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này sẽ giúp Hiến pháp
được bảo vệ giá trị pháp lý tối cao, quyền con người được bảo đảm và thực
hiện trên góc độ nhất định.
Cơ sở cho sự phát triển rộng rãi của mô hình chính là hiệu quả trong
việc bảo vệ Hiến pháp mà cơ chế bảo hiến mang lại, thừa nhận và lựa chọn
mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc đảm bảo yêu cầu trong
hoạt động bảo vệ Hiến pháp.
Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp đã được lựa chọn áp dụng hiệu
quả ở rất nhiều quốc gia trên thế giới: Hoa Kỳ, các nước Trung Đông, Châu
Âu. Bắc Mỹ và các nước Mỹ La Tinh… Tuy nhiên, mô hình bảo hiến tòa án
tư pháp đòi hỏi yêu cầu rất khắt khe để các quốc gia lựa chọn có thể áp dụng
hiệu quả. Đó là yêu cầu về hệ thống pháp luật hoàn thiện, sử dụng án lệ làm
nguồn pháp luật, áp dụng cơ chế phân quyền, cách thức đào tạo và bổ nhiệm
thẩm phán luôn ở yêu cầu rất cao. Chính những yêu cầu trên vừa đem lại
hiệu quả cho mô hình và cũng là hạn chế đi sự phát triển, lan tỏa của mô
hình trên thế giới. Mô hình bảo hiến bằng tòa án kiểu Hoa Kỳ là mô hình chỉ
28. 23
có thể áp dụng hiệu quả khi có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của mô
hình. Các nước khi xác định lựa chọn mô hình cần có sự nghiên cứu những
điều kiện cụ thể sao cho đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của mô hình.
1.2.3. Mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Bối cảnh hình thành của mô hình
Giai đoạn 1918 được coi là "thời kỳ của nước Áo" (the Austrian
Period). Nước Áo áp dụng công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học
Hans Kelsen và Adolf Merkl hình thành ra mô hình bảo hiến Tòa án Hiến
pháp. Mô hình đã mở đường cho hàng loạt các Tòa án Hiến pháp xuất hiện
ở Châu Âu. Hiến pháp năm 1920 ở Áo xác nhận nền tảng của Tòa án Hiến
pháp quốc gia. Mô hình Tòa án Hiến pháp chịu trách nhiệm cơ bản bảo vệ
Hiến pháp như là một nhiệm vụ độc lập đã được xác nhận ở Áo và phổ
biến ra nhiều quốc gia khác nhất là ở châu Âu, trở thành một trong những
mô hình cơ bản về cơ chế bảo hiến trên thế giới. Sau đó tại Đức, dựa trên
những yêu cầu thực tiễn về một cơ quan bảo hiến chuyên trách nhằm bảo
vệ giá trị tối cao của Hiến pháp, đồng thời đánh giá những ưu nhược điểm
của mô hình bảo hiến Hoa Kỳ và cộng hòa Áo, năm 1949, Cộng hòa Đức
đã quyết định xây dựng cơ quan chuyên trách theo hướng tòa án Hiến
pháp, vẫn dựa vào học thuyết của Hans Kelsen và Adolf Merkl để đặt nền
tảng cho tòa án Hiến pháp ở Đức. Tại thời điểm Đức xây dựng mô hình
Tòa án Hiến pháp, cơ chế bảo hiến bằng tòa án kiểu Hoa Kỳ đang thể hiện
rất nhiều những nét ưu việt sau một thời gian sử dụng trong thực tiễn, nếu
có thể áp dụng sẽ đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, mô hình
tòa án bảo hiến kiểu Hoa Kỳ nếu muốn áp dụng sẽ tồn tại rất nhiều khó
khăn bởi nguyên tắc “nghị viện tối cao” vẫn tồn tại rất mạnh mẽ ở châu Âu
và Đức. Quyền lực tối cao của nghị viện sẽ bị ảnh hưởng khi mọi tòa án
đều có quyền đưa ra những phán quyết về tính hợp hiến văn bản pháp luật
của nghị viện. Không những thế, nhận định mô hình bảo hiến Hoa Kỳ đòi
29. 24
hỏi yêu cầu rất khắt khe về đội ngũ thẩm phán cũng như cần một hệ thống
nguồn pháp luật, án lệ hoàn chỉnh, mô hình này cũng đi ngược lại việc vẫn
đang sử dụng tập quán pháp trong hệ thống pháp luật tại Đức. Vậy nên, mô
hình bảo hiến Hoa Kỳ không được thừa nhận và áp dụng tại Đức. Từ
những nguyên nhân kể trên, dựa trên nền tảng mô hình bảo hiến của Áo,
nước Đức đã lựa chọn xây dựng tòa án Hiến pháp là cơ quan bảo hiến
chuyên trách với những điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh đất nước.
Đặc điểm mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Thứ nhất, tòa án Hiến pháp tiến hành hoạt động xem xét văn bản
pháp lý, hành vi, sự kiện một cách độc lập, có trình tự và thủ tục hoạt động
riêng, thống nhất và đồng bộ, không bị ảnh hưởng bởi hệ thống tư pháp.
Trình tự thủ tục bảo hiến được xây dựng theo tính đặc thù mô hình, không
bị trùng lập với bất kỳ thủ tục tố tụng dân sự, hình sự hay hành chính. Tòa
án Hiến pháp xem xét tất cả những vấn đề liên quan đến bảo vệ Hiến pháp,
thụ lý không chỉ những vụ việc mang tính cụ thể mà còn tiến hành xem xét
cả những vấn đề có dấu hiệu vi hiến. Tòa án Hiến pháp sẽ thụ lý tất cả
những vụ việc được yêu cầu đúng trình tự thủ tục tố tụng.
Thứ hai, tòa án Hiến pháp hoạt động độc lập với hệ thống cơ quan
quyền lực nhà nước, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ nhánh quyền lực lập
pháp, hành pháp hay tư pháp. Tòa án Hiến pháp có quyền tuyên bố những
văn bản pháp lý là vi hiến, có quyền đình chỉ hay hủy bỏ văn bản pháp luật
đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, tòa án Hiến pháp là hoạt động trên nguyên tắc công khai,
thông thường hướng đến việc xem xét kiểm hiến sau, kiểm tra các văn bản
đã có hiệu lực pháp luật chứ không thực hiện nhiệm vụ kiểm hiến trước.
Điều này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của nước Đức khi xây dựng cơ
quan chuyên trách, đặc điểm trên vừa mang tính đặc thù, vừa là hạn chế
của tòa án Hiến pháp.
30. 25
Sự phát triển của mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Mô hình bảo hiến bằng Tòa Hiến pháp với ưu điểm là một thiết chế tài
phán độc lập, riêng biệt, có quyền hạn đặc biệt so với hệ thống tư pháp cũng
như các cơ quan quyền lực nhà nước, là một trong những mô hình có thể áp
dụng một cách thống nhất và đồng bộ từ việc xây dựng cơ quan bảo hiến đến
trình tự, thủ tục xem xét mô hình tòa án Hiến pháp.
Mô hình tòa án Hiến pháp là mô hình bảo vệ Hiến pháp được nhiều
nước sử dụng nhất trên thế giới, có sự phát triển và lan tỏa rộng rãi trên toàn
thế giới. Mô hình tòa án Hiến pháp được đánh giá hiệu quả bậc nhất trong
hoạt động bảo hiến. Mô hình thể hiện được ưu điểm tối ưu của một thiết chế
bảo hiến tập trung với sức mạnh phán quyết của cơ quan tư pháp. Mọi quyết
định của tòa án Hiến pháp đều mang tính độc lập, có thẩm quyền quyết định
chung thẩm, bắt buộc với mọi đối tượng.
Mô hình tòa án Hiến pháp ra đời với những ưu điểm của mình đã
phát triển vô cùng mạnh mẽ ở châu Âu điển hình là Áo và Đức. Sau đó rất
nhiều các quốc gia trên thế giới lựa chọn và áp dụng cơ chế bảo vệ Hiến
pháp. Đến nay, tòa án Hiến pháp đã trở thành mô hình bảo hiến mà rất nhiều
quốc gia ở khắp các khu vực trên thế giới lựa chọn áp dụng: Đức, Tây Ban
Nha, Bỉ, Nga, Ba Lan, Séc, Hunggari, Hàn Quốc, Thái Lan….
1.2.4. Mô hình bảo hiến Quốc hội
Ngoài ba mô hình đặc thù đã nêu ở trên, thì trong lịch sử hình thành
và phát triển cơ chế bảo hiến trên thế giới cũng đã xuất hiện các mô hình
bảo hiến khác. Trong đó, mô hình bảo hiến nghị viện là mô hình được áp
dụng ở một số quốc gia và đem lại những giá trị nhất định.
Mô hình bảo hiến mà Quốc hội là cơ quan đại diện cho nhân dân có
quyền bảo hiến. Mô hình bảo hiến bằng nghị viện được áp dụng ở một số
quốc gia như Liên Xô, các nước Đông Âu cũ, ở Trung Quốc, Lào và Việt
Nam. Mô hình được áp dụng ở không nhiều quốc gia và đã bộc lộ nhiều
31. 26
những nhược điểm khiến cho vấn đề bảo vệ Hiến pháp không được hiệu quả
ở các quốc gia áp dụng. Mô hình bảo hiến xây dựng cơ quan thuộc ngành
quyền lực lập pháp để xem xét những hành vi vi hiến. Bên cạnh đó, Quốc
hội là cơ quan không đủ trình tự và thủ tục đặc biệt để tiến hành xem xét vấn
đề vi hiến. Việc lựa chọn mô hình bảo hiến bằng Quốc hội sẽ đem lại rất
nhiều những hạn chế trong quá trình thực hiện chức năng Hiến pháp ở mỗi
quốc gia.
Mô hình bảo hiến Quốc hội tuy có những điểm hạn chế nhưng tại
thời điểm xây dựng thì đây có thể coi là mô hình phù hợp nhất với chế độ
chính trị Xã hội chủ nghĩa [8].
Quốc hội là cơ quan chuyên trách thực hiện hai chức năng bao gồm:
lập hiến và kiểm hiến. Quyền hạn Quốc hội là cao nhất, Quốc hội có thể tự
mình thực hiện việc bảo vệ Hiến pháp, kiểm tra văn bản pháp luật hoặc trao
quyền cho một ủy ban trực thuộc tiến hành bảo hiến. Thông thường Quốc
hội trao quyền cho ủy ban trực thuộc thực hiện bảo hiến.
Mô hình bảo hiến bằng Quốc hội có trình tự và thủ tục đặc biệt,
không được công bố rộng rãi. Cơ quan có thẩm quyền sẽ tự động xem xét
những hành vi, văn bản có dấu hiệu vi hiến và thông báo lại cho Quốc hội
xử lý nếu phát hiện sự vi hiến. Quốc hội là cơ quan cuối cùng quyết định
tính hợp hiến của vấn đề.
1.3. Lý do lựa chọn mô hình bảo hiến trên thế giới
Như đã nhận định ở trên, mô hình bảo vệ Hiến pháp tồn tại ở mỗi
quốc gia sẽ có những điểm khác biệt. Trong điều kiện xây dựng cơ chế bảo
hiến ở mỗi quốc gia, việc lựa chọn xây dựng mô hình bảo hiến nào phục
thuộc vào rất nhiều yếu tố tác động khác nhau. Bao gồm những yếu tố nội
tại của một quốc gia như hoàn cảnh xã hội, chế độ chính trị mà quốc gia
đấy lựa chọn hay sự tác động của những yếu tố từ bên ngoài, khách quan
mang lại. Sự tác động sẽ dẫn đến hình thành những mô hình bảo hiến khác
32. 27
nhau. Xét tổng quan lại một mô hình bảo hiến có thể phải chịu những sự tác
động từ những yếu tố cơ bản sau [9].
1.3.1. Các yếu tố pháp luật
Hoàn thiện hệ thống pháp luật là yêu cầu quyết định trong việc xây
dựng và phát triển của một quốc gia. Quá trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật bắt đầu từ xây dựng một bản Hiến pháp phù hợp với hoàn cảnh thực
tiễn quốc gia và được thừa nhận giá trị pháp lý. Hệ thống pháp luật cần
được xây dựng trên sự nhìn nhận đúng đắn về vai trò quan trọng của bảo vệ
Hiến pháp thì bảo hiến mới có thể xuất hiện, hướng đến sự phát triển hoàn
thiện của pháp luật. Bảo vệ Hiến pháp được xây dựng dựa trên nhu cầu cơ
bản của hệ thống pháp luật, cũng phải chịu sự tác động của các yếu tố pháp
luật. Mô hình bảo hiến được lựa chọn bởi sự nhận thức của những nhà lập
pháp về tính cần thiết của việc bảo vệ Hiến pháp.
Bảo vệ Hiến pháp không chỉ là bảo vệ riêng một bản khế ước giữa
nhân dân và nhà nước mà bảo vệ tính thống nhất của pháp luật. Sự tồn tại
của cơ chế bảo hiến sẽ khiến các yếu tố của pháp luật luôn được đặt trong
sự giới hạn bảo vệ mà mọi hành vi tác động của các chủ thể khác đều
không tiến tới được. Đánh giá đúng được vai trò của bảo vệ Hiến pháp là
vấn đề mà bất cứ hệ thống pháp luật cũng cần phải thực hiện. Các quy định
của pháp luật cần thiết phải hoàn thiện, thống nhất và đầy đủ để có thể đưa
cơ chế bảo hiến vào thực tiễn xã hội. Nếu các cơ quan xây dựng pháp luật
chưa nhìn nhận đúng vai trò của cơ quan tài phán Hiến pháp, chưa nhìn
nhận tầm quan trọng của Hiến pháp với hệ thống pháp luật sẽ khiến cho cơ
chế bảo hiến cho dù tồn tại cũng sẽ không hoạt động hiệu quả.
Sự du nhập pháp luật cũng ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành cơ
chế tài phán Hiến pháp. Các quốc gia thông thường sẽ lựa chọn hệ thống
pháp luật tương ứng với chế độ chính trị mà quốc gia đã xây dựng. Việt
Nam và các nước Đông Âu chọn hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa của
33. 28
Liên Xô để xây dựng hệ thống pháp luật của mình. Đến khi Liên Xô sụp đổ
mới bắt đầu có những thay đổi, hệ thống pháp luật của Liên Xô đề cao cơ
chế tập quyền nhà nước không nhìn nhận đúng đắn về vai trò của cơ chế
bảo hiến dẫn đến việc Việt Nam cũng đã từng có đường lối và định hướng
tương tự.
Mô hình bảo vệ Hiến pháp hiệu quả chỉ được xây dựng khi hệ thống
pháp luật của một quốc gia hướng tới sự hoàn chỉnh, khi yêu cầu hệ thống
pháp luật yêu cầu có sự bảo vệ Hiến pháp. Mô hình bảo vệ Hiến pháp sẽ
tương ứng phù hợp sẽ với độ nhận thức, tầm quan trọng của pháp luật.
Thực tế đã chứng minh không phải quốc gia nào cũng có thể nhận thức
đúng đắn vai trò của cơ chế bảo hiến. Tuy nhiên, sau từng bước nghiên cứu
và xây dựng sẽ khẳng định sự tồn tại của mô hình bảo hiến yêu cầu thiết thực.
1.3.2. Các yếu tố chính trị
Lợi ích chính trị là yếu tố đầu tiên mà giai cấp thống trị hướng tới
khi xây dựng nhà nước. Lợi ích chính trị có thể được hiểu là quyền lực của
một người (chế độ độc tài) của một nhóm người (chế độ tư sản) hay số
đông nhân dân (chế độ xã hội chủ nghĩa) dùng các công cụ, phương pháp
để quản lý xã hội nhằm phục vụ nhu cầu của nhóm đối tượng mình. Lợi ích
chính trị liên quan mật thiết đến bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ, các điều kiện
về mặt kinh tế, xã hội hay đặc biệt là mức độ dân chủ của nhà nước. Các
nhóm đối tượng đã sử dụng nhiều cách thức để phục vụ lợi ích chính trị của
mình, thực hiện quyền lực nhà nước nhưng về cơ bản có hai phương pháp
chính để giai cấp thống trị thể hiện quyển lực của mình bao gồm [10]:
- Phương pháp dân chủ: chế độ nhà nước dân chủ (chế độ nhà nước
dân chủ chủ nô, nhà nước dân chủ phong kiến, nhà nước dân chủ tư sản,
nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa).
34. 29
- Phương pháp phản dân chủ: chế độ nhà nước phản dân chủ (chế độ
nhà nước độc tài, chế độ nhà nước chuyên chế chủ nô, chế độ nhà nước độc
tài chuyên chế phong kiến, chế độ độc tài phát xít tư sản).
Bản chất của nhà nước quyết định đến mô hình bảo hiến mà quốc gia
đấy xây dựng. Nhà nước được hình thành là một tổ chức chính trị xã hội
đặc biệt có giai cấp, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước
hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động nảy sinh từ bản
chất của xã hội. Pháp luật là công cụ mạnh mẽ nhất để nhà nước sử dụng để
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị đồng thời điều chỉnh những quan hệ xã
hội. Pháp luật được xây dựng dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Mô hình bảo hiến xây dựng nhằm mục đích cơ bản là bảo vệ Hiến pháp,
hạn chế sự lạm quyền của cơ quan nhà nước, phục vụ giai cấp thống trị và
bảo vệ lợi ích cho nhân dân. Vậy nên, xét cho cùng không phải trong bất kỳ
thực thể nhà nước nào, mô hình bảo hiến cũng có thể tồn tại đúng nghĩa, có
những chế độ mà mô hình bảo hiến gần như không thể hoặc có tồn tại cũng
chỉ mang nặng tính hình thức. Đặc biệt là những chế độ phản dân chủ khi
nhà nước chỉ được dựng lên trên danh nghĩa, chuyên phục vụ lợi ích cho
một cá nhân hay một nhóm người cụ thể. Trong chế độ như thế, sự lạm
quyền hay vi hiến (nếu tồn tại Hiến pháp) là điều xảy ra hết sức nghiêm
trọng. Hiến pháp có tồn tại thì cũng không thể can thiệp vào những mô hình
như thế.
Bởi vậy, chỉ có những chế độ nhà nước tiến bộ, hướng tới nền dân
chủ thì mới xây dựng và hoàn thiện được mô hình bảo hiến đúng nghĩa.
Như đã giải thích, một nhà nước bao giờ cũng mang bản chất phục vụ một
giai cấp nhất định. Tuy nhiên, lợi ích chính trị của giai cấp cần được điều
chỉnh phù hợp sao cho để có thể phục vụ lợi ích của số đông nhân dân. Mô
hình bảo hiến được xây dựng trong một chế độ dựa trên nền tảng dân chủ
(ở mức độ nhất định) trong đó lợi ích chính trị của giai cấp phải hài hòa với
lợi ích chính trị của nhân dân trong quốc gia. Các quốc gia khi xây dựng
35. 30
mô hình bảo hiến cũng sẽ lựa chọn mô hình bảo hiến phù hợp với lợi ích
chính trị của giai cấp thống trị, đồng thời phục vụ cơ bản nhu cầu các giai
cấp còn lại. Mô hình bảo hiến sẽ chỉ được chấp nhận khi không gây ảnh
hưởng quá lớn đến lợi ích của giai cấp thống trị.
1.3.3. Sự ảnh hưởng mô hình bảo hiến nước ngoài
Các quốc gia khi lựa chọn xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp sẽ chịu
ảnh hưởng của những yếu tố từ chủ quan đến khách quan, đặc biệt là sự du
nhập các mô hình bảo hiến từ những quốc gia khác. Một số quốc gia chịu
ảnh hưởng từ sự du nhập bởi những yếu tố địa lý hay văn hóa, còn đa phần
thì chịu ảnh hưởng bởi sự du nhập thông qua con đường chính trị hay chiến
tranh, các quốc gia thuộc địa sau khi giành độc lập chắc chắn sẽ chịu ảnh
hưởng đa phần từ hệ thống pháp luật từ quốc gia khác. Điển hình như các
nước Bắc Phi luôn chịu ảnh hưởng bởi hệ thống pháp luật của Pháp, sự ảnh
hưởng còn bao hàm cả lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tinh thần và xã hội. Nước
Nhật sau chiến tranh phụ thuộc hoàn toàn vào Hoa Kỳ, nên đã lựa chọn xây
dựng Hiến pháp sau chiến tranh có những đặc điểm cơ bản của hệ thống
pháp luật Hoa Kỳ.
Hệ thống pháp luật chịu sự du nhập thì mô hình bảo hiến cũng sẽ
chịu ảnh hưởng tương ứng. Thời điểm sau chiến tranh thế giới thứ II, các
quốc gia giành được độc lập bắt đầu xây dựng hệ thống pháp luật của quốc
gia mình, đồng thời các quốc gia từng bước lựa chọn mô hình tài phán phù
hợp để bảo vệ Hiến pháp. Nếu như hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa
thường đi theo mô hình tòa án Hiến pháp, các nước theo hệ thống thông
luật sẽ sử dụng mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ, các nước xã hội chủ nghĩa
lựa chọn mô hình bảo hiến nghị viện. Sự du nhập các mô hình bảo hiến có
thể mang đến mô hình bảo hiến nhưng không đồng nghĩa với việc đảm bảo
được phù hợp với mỗi quốc gia. Vì vậy luôn cần có sự điều chỉnh khi xây
dựng mô hình bảo hiến. Sự khác biệt giữa du nhập và áp dụng hoàn toàn
36. 31
một mô hình là rất lớn, áp dụng rập khuôn một mô hình chắc chắn sẽ không
mang lại tính hiệu quả, các quốc gia cần có sự điều chỉnh trong mô hình tài
phán Hiến pháp để mô hình có thể thực sự hiệu quả trong vấn đề bảo vệ
Hiến pháp.
1.3.4. Ưu, nhược điểm của mô hình bảo hiến
Mỗi mô hình bảo hiến trên thế giới đều mang những ưu, nhược điểm
của riêng mình. Khi lựa chọn xây dựng mô hình bảo hiến các quốc gia đều
có nghiên cứu nhằm có sự điều chỉnh các đặc điểm cơ bản để phù hợp với
chế độ chính trị, hoàn cảnh xã hội. Sự điều chỉnh đều dựa trên những ưu,
nhược điểm của mô hình tài phán Hiến pháp được lựa chọn.Việc lựa chọn
mô hình bảo hiến đều hướng tới sự phù hợp với bối cảnh quốc gia, hạn chế
những nhược điểm và tận dụng những điểm mạnh của mô hình.
Đối với mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ thực hiện tài phán Hiến pháp
sẽ tồn tại những ưu điểm chung nhất bao gồm: Mô hình bảo hiến sử dụng
tòa án ngay trong hệ thống tòa án tư pháp mà không cần xây dựng mới bất
kỳ cơ quan mới để tiến hành xem xét những hành vi vi hiến, những vụ việc
liên quan đến vấn đề Hiến pháp. Mô hình được xây dựng một cách đồng
nhất, luôn đạt được hiệu quả cao trong việc bảo vệ Hiến pháp. Tuy nhiên,
mô hình bảo hiến bằng tòa án thường thì phán quyết của Tòa tối cao bao
giờ cũng có giá trị chung thẩm quyết định mọi vấn đề. Tòa án có thể tuyên
bố có sự vi hiến, không tiến hành sử dụng văn bản đó trong hoạt động tố
tụng của mình, khuyến cáo đến cơ quan lập pháp là nghị viện chứ không
thể tự mình tuyên bố văn bản đó không còn hiệu lực pháp lý do đây là thẩm
quyền cơ quan lập pháp hay Quốc hội.
Bên cạnh đó, mô hình Tòa án Tư pháp bảo hiến cần có những yêu
cầu khắt khe: hệ thống Tư pháp có đủ sự độc lập, đội ngũ thẩm phán có
năng lực, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, sử dụng án lệ là nguồn pháp luật,
37. 32
cơ chế phân quyền triệt để, tư pháp độc lập với lập pháp và hành pháp có
thẩm quyền tồn tại trong một cơ chế phân chia quyền lực rõ ràng
Việc lựa chọn mô hình cụ thể đều nhìn nhận từ những đặc điểm cơ
bản của mô hình, đồng thời luôn có sự sáng tạo trong việc áp dụng. Khi áp
dụng mô hình bảo hiến cụ thể thì cần phải xem những ưu điểm của mô hình
bảo hiến và đưa ra những yêu cầu điều chỉnh cụ thể với mô hình, nhắm
hướng tới việc chế độ chính trị, hoàn cảnh quốc gia mình có phù hợp được
yêu cầu của mô hình hay không. Đặc điểm của mô hình đó có khiến mô
hình đó áp dụng được hiệu quả hay không.
38. 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Phần lớn các quốc gia trên thế giới đã thừa nhận tầm quan trọng của
bảo vệ Hiến pháp đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật, cũng như sự
tôn trọng bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Tư tưởng bảo vệ Hiến pháp đã
xuất hiện được một thời gian rất dài, ghi nhận thành nhiều mô hình bảo
hiến khác nhau nhưng đều chung mục đích đảm bảo giá trị pháp lý tối cao
của Hiến pháp. Các quốc gia lựa chọn mô hình bảo hiến không giống nhau
tuỳ thuộc vào những điều kiện tác động đến việc lựa chọn một cách khách
quan hay chủ quan.
Dựa trên mục đích, những đặc điểm cơ bản của mô hình bảo hiến các
quốc gia có thể nhận thấy việc lựa chọn mô hình bảo hiến thường dựa trên
bốn yếu tố bao gồm: các yếu tố chính trị, pháp luật, sự ảnh hưởng các mô
hình bảo hiến và các ưu, nhược điểm của mô hình. Sự hiệu quả của mô
hình bảo hiến không phải là yếu tố quyết định đến việc lựa chọn mô hình
do có thể điều chỉnh nhằm tăng tính hiệu quả trong quá trình hoạt động.
Điểm cốt yếu khi lựa chọn mô hình bảo hiến là tìm mô hình thực sự phù
hợp với quốc gia, thể chế chính trị và đảm bảo sự phát triển, ổn định cho
toàn xã hội.
39. 34
CHƯƠNG II:
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM
2.1. Bảo hiến theo quy định của các Hiến pháp trong lịch sử
2.1.1. Những nền tảng ban đầu cho sự hình thành bảo hiến theo
Hiến pháp năm 1946
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên
của nước ta được ra đời sau khi cách mạng tháng Tám thành công đã giành
lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng
hoà. Hiến pháp 1946 được xây dựng trong hoàn cảnh chiến tranh vẫn đang
còn tiếp diễn, thù trong giặc ngoài vẫn còn đe dọa đến nền độc lập non trẻ
của đất nước. Việc ban hành Hiến pháp 1946 tại thời điểm là một cố gắng
rất lớn nhằm tạo dựng hệ thống pháp luật cho đất nước. Tuy được xây dựng
trong khoảng thời gian ngắn, gặp vô vàn những điều kiện khó khăn nhưng
Hiến pháp 1946 vẫn để lại những giá trị to lớn trong lịch sử lập hiến của đất
nước. Bản Hiến pháp thành văn đầu tiên được xây dựng trong những ngày
đầu đất nước, quy định những vấn đề cơ bản nhất của đất nước trong thời
kỳ đầu giành được độc lập.
Những nền tảng hình thành bảo hiến: Hiến pháp 1946 chưa ghi
nhận một mô hình bảo hiến cụ thể nhưng đã đánh giá chính xác tầm quan
trọng của Hiến pháp với thực tiễn. Hiến pháp năm 1946 không có điều
khoản ghi nhận giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp
1946 cũng để lại những nền tảng nhất định về tư tưởng để có thể xây dựng
mô hình bảo hiến ở nước ta trong những giai đoạn sau. Thứ nhất, thông
qua những quy định về quyền hạn ban hành, sửa đổi, những quy định về thể
chế, nội dung thì có thể nhận thấy Hiến pháp 1946 là đạo luật nền tảng và
cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất [11]. Hiến pháp 1946
phân chia quyền lực nhà nước thành ba nghành quyền lực bao gồm: lập
40. 35
pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, nghị viên nhân dân là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Các cơ quan
nhà nước được trao quyền thông qua sự quy định của Hiến pháp, bộ máy và
hoạt động của các cơ quan nói trên đều tuân thủ quy định Hiến pháp.
Thứ hai, Hiến pháp 1946 đã ghi nhận quyền quyết định hiệu lực tồn
tại của Hiến pháp thông qua phúc quyết của nhân dân. Hiến pháp 1946 quy
định: Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ
đến vận mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và 70 [11’].
Hiến pháp 1946 quy định là đạo luật cơ bản quốc gia trao quyền lực
cho Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quy định quyền
nghĩa vụ công dân, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương và địa
phương-cơ quan hành pháp và tư pháp. Về cơ bản, các cơ quan nhà nước thực
hiện và chấp hành đầy đủ quy định của Hiến pháp về quyền hạn và nghĩa vụ.
Thứ ba, Hiến pháp 1946 tuy không thể hiện mô hình bảo vệ Hiến
pháp cho quốc gia nhưng đã có quy định cụ thể và rõ ràng về cơ quan có
nhiệm vụ kiểm tra giám sát các văn bản quy phạm pháp luật tại điều 31
cũng như điều 36. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp tại giai đoạn đã bắt đầu ghi
nhận sự bảo vệ Hiến pháp thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc
hội với cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, quyền kiểm tra giám
sát đối với các cơ quan nhà nước vẫn thường dựng lại ở mức khuyến nghị, sự
ràng buộc giữa những văn bản mang tính pháp lý và Hiến pháp chưa cao.
Quyền quyết định vẫn thuộc về các cơ quan ban hành văn bản. Hiến pháp
chưa được ghi nhận đúng giá trị, hệ thống pháp luật vẫn còn rất nhiều lỗ hổng.
Cơ chế bảo hiến chưa được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 là do
những nguyên khách quan là chủ yếu. Hiến pháp xây dựng trong một
khoảng thời gian ngắn, chưa có sự tiếp cận những mô hình bảo hiến trên
thế giới do thời điểm đó các cơ chế tài phán Hiến pháp chưa được phổ biến
rộng rãi, bên cạnh đó hoàn cảnh chiến tranh nên không tránh khỏi những
41. 36
hạn chế nhất định. Yêu cầu cơ chế bảo hiến dù là đơn giản vào thời điểm
đó là điều khó khăn.
Hiến pháp 1946 sau khi được thông qua cũng không được ghi nhận
và áp dụng vào thực tiễn do toàn quốc bước vào kháng chiến chống Pháp
kéo dài 9 năm. Nhưng những quy định Hiến pháp 1946 đã để lại những giá
trị to lớn cho toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời đã có những
quy định làm nền tảng cho mô hình bảo hiến ở Việt Nam.
2.1.2. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1959 được ban hành sau khi kháng chiến
chống Pháp kết thúc, miền Bắc hoàn toàn độc lập. Bản Hiến pháp đã được
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họp thứ 11,
nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 31 tháng 12 năm 1959. Hiến pháp
1959 ra đời trong giai đoạn đất nước vẫn bị chia cắt, chiến tranh chưa chấm
dứt, hòa bình chưa được lập lại. Hiến pháp 1959 được xây dựng trên nền
tảng kế thừa, sửa đổi và bổ sung những quy định của Hiến pháp năm 1946.
Hiến pháp 1959 được xây dựng trong thời kỳ chiến tranh, mang đặc thù của
hệ thống pháp luật thời chiến, khi quân lệnh chiếm vị trí tối thượng trong
hệ thống quyền lực.
Hiến pháp 1959 đã ghi nhận bước đầu sự xuất hiện của cơ chế bảo
hiến đầu tiên ở Việt Nam. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng dựa
trên nền tảng những quy định của Hiến pháp 1946 cùng với sự tham khảo
học tập kinh nghiệm từ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đồng nghĩa
với việc Việt Nam sẽ hướng tới mô hình bảo hiến nghị viện mà các nước xã
hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Hiến pháp 1959 và cơ chế bảo hiến đầu tiên ra
đời trong hoàn cảnh hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ pháp
luật xã hội chủ nghĩa một cách thụ động, máy móc và rập khuôn
42. 37
Đặc điểm mô hình bảo hiến:
Mô hình bảo hiến theo theo Hiến pháp 1959 không tồn tại dưới dạng
một cơ quan bảo hiến chuyên trách. Cơ chế bảo hiến bước đầu dựa trên nền
tảng quy định cho một số cơ quan nhà nước nhất định có thẩm quyền kiểm
tra và giám sát các loại văn bản nhất định. Về cơ sở pháp lý để hoạt động
bảo hiến, Hiến pháp 1959 quy định gián tiếp giá trị pháp lý tối cao của
Hiến pháp so với những văn bản pháp lý được ban hành mà Quốc hội thông
qua, văn bản quy phạm pháp luật không được trái Hiến pháp. Hiến pháp
1959 quy định thẩm quyền cho Quốc hội xử lý văn bản quy phạm pháp
luật, đặc biệt làm quyền ban hành những văn bản pháp luật. Theo quy định
của điều 48 Các đạo luật và các nghị quyết của Quốc hội phải được quá
nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp quy
định ở Điều 112 của Hiến pháp
Hiến pháp 1959 định những cơ quan ban hành sửa đổi, thủ tục thông
qua các văn bản pháp luật, cũng như gián tiếp quy định Hiến pháp là văn
bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo nên trình tự pháp lý nhất định buộc
các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp buộc phải tuân thủ, tạo điều kiện cho
mô hình bảo hiến có thể hoạt động.
Tuy mô hình bảo hiến vẫn bị lu mờ so với các chế định cơ bản của
Hiến pháp khác nhưng Hiến pháp 1959 đã ghi nhận những giá trị bảo hiến
đầu tiên, mô hình bảo hiến tuy chỉ mới hình thành nhưng đó là bước tiến
lớn về tư tưởng lập hiến ở nước ta.
2.1.3. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1980 được xây dựng khi đất nước hoàn
toàn độc lập, là điều kiện thuận lợi đưa đất nước đi lên con đường xã hội
chủ nghĩa. Hiến pháp 1980 là bản Hiến pháp đầu tiên có giá trị pháp lý trên
toàn quốc, được nhân dân đón nhận, khẳng định độc lập chủ quyền cũng
như con đường xã hội chủ nghĩa mà dân tộc đã lựa chọn.
43. 38
Hiến pháp 1980 đã ghi nhận và kế thừa của cơ chế bảo hiến đã được
quy định ở Hiến pháp 1959. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng và
phát triển dựa trên nền tảng những quy định của Hiến pháp cùng với sự lựa
chọn những ưu điểm từ Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1980 và cơ chế bảo
hiến Quốc hội đã bước đầu đi vào thực tiễn trong hoàn cảnh đất nước đã
hoàn toàn độc lập.
Đặc điểm mô hình bảo hiến: Hiến pháp 1980 vẫn quy định tiếp tục
sử dụng mô hình bảo hiến như Hiến pháp 1959, lấy Quốc hội làm trung
tâm, sử dụng cơ chế kiểm tra, giám sát để bảo vệ giá trị của Hiến pháp. Tại
khoản 3, Điều 83, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1980 đã quy định: Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện
quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội
được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Căn
cứ vào thẩm quyền được quy định, Quốc hội vẫn tiếp tục là cơ quan bảo vệ
giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp.
Để bảo đảm thực hiện cơ chế bảo hiến, Hiến pháp 1980 đã quy định
đầy đủ và thống nhất giá trị pháp lý của Hiến pháp 1980. Điều 146, Hiến
pháp 1980 quy định: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là luật cơ bản của nhà nước, có giá trị pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp
luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Quy định được ghi nhận trong Hiến
pháp thể hiện rõ ràng giá trị pháp lý của Hiến pháp, tạo nền tảng, cơ sở để
đưa Hiến pháp vào thực tiễn xã hội và khiến cơ chế bảo hiến có thể được áp
dụng trong hệ thống pháp luật. Quy định ngắn gọn nhưng chứ đựng sự đổi
mới to lớn trong toàn bộ lịch sử lập hiến của nước ta, đưa Hiến pháp trở về
đúng với giá trị.
44. 39
Mô hình bảo hiến Quốc hội được áp dụng, tuy nhiên không tồn tại
quy định pháp lý về trình tự, thủ tục xem xét xử lý các văn bản trái Hiến
pháp, đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp cũng chưa
có cách thức xử lý kịp thời nhằm đảm bảo giá trị tối cao của Hiến pháp. Từ
trung ương đến địa phương, các cơ quan nhà nước đều có nhiệm vụ, thẩm
quyền, giám sát kiểm tra Hiến pháp nhưng lại không có cơ quan chuyên
trách xử lý các vi phạm liên quan đến Hiến pháp.
Kế thừa những tinh hoa từ những bản Hiến pháp trước, Hiến pháp
1980 cũng qui định cơ chế về việc tuân thủ và thực hiện Hiến pháp của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức, công dân. Tuy nhiên, mô hình bảo hiến theo
Hiến pháp 1980 vẫn mang tính hình thức, thiếu trình tự, khó đi vào hoạt
động hiệu quả. Tinh thần lập hiến và bảo vệ Hiến pháp đã được hình thành
nhưng do nhiều điều kiện khách quan mô hình bảo hiến vẫn chưa tồn tại
đúng bản chất.
2.1.4. Bảo hiến theo Hiến pháp 1992
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp có giá trị thực
tiễn to lớn khi ban hành vào giai đoạn đất nước đang bắt đầu mở cửa hội
nhập toàn cầu, kinh tế trong nước đang chuyển từ hình thức tập trung bao
cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, xã hội
Việt Nam cũng có những bước chuyển mình to lớn.
Tiếp tục kế thừa và duy trì tư tưởng các bản Hiến pháp 1946, 1959,
1980, Hiến pháp 1992 vẫn lựa chọn mô hình bảo hiến quốc hội thông qua
cơ chế giám sát, kiểm tra pháp luật của Quốc hội làm cơ chế bảo vệ Hiến
pháp. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp 1992 thể chế hóa cụ thể và rõ ràng
hơn việc giám sát và thực thi pháp luật, quy định rõ những thẩm quyền cụ
thể của quốc hội, các cơ quan nhà nước khác trong viêc thi hành pháp luật.
Đặc điểm của mô hình: Hiến pháp năm 1992 xây dựng cơ chế bảo
hiến thông qua kiểm tra giám sát các cơ quan quyền lực nhà nước và nhân