QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
báo cáo nghiên cưu khoa học sinh viên môn ppnckh đề tài thái độ của sinh viên về vấn đề kết hôn sớm
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
----------
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN, HỌC VIÊN
NĂM HỌC 2016
ĐỀ TÀI: THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC VỀ
VẤN ĐỀ KẾT HÔN SỚM
Thực hiện: Nhóm 14
Đặng Thị Quỳnh 14010804 K59 SP Sinh
Lưu Quý Kông 14010075 K59 SP Sinh
Doãn Thanh Tú 14010183 K59 SP Sinh
Tô Minh Tứ 14010185 K59 SP Sinh
Vũ Thị Thanh Thủy 14010162 K59 SP Sinh
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Công
Hà Nội, ngày 1 tháng 6 năm 2016
1
2. LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài nghiên cứu khoa học này, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình từ thầy cô và các bạn sinh viên.
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Trần Văn Công và chị
Nguyễn Phương Hồng Ngọc là những người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ
chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Đồng thời chúng tôi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình từ phía các bạn sinh
viên trường Đại học Giáo dục-Đại học Quốc gia Hà Nội trong quá trình khảo sát nghiên
cứu của mình.
Cuối cùng, xin cảm ơn tất cả các thành viên trong nhóm, trong suốt quá trình
nghiên cứu chúng ta đã gắn bó và giúp đỡ lẫn nhau. Dù có nhiều lúc bất đồng quan điểm
nhưng thực sự nếu không có sự nỗ lực, nhiệt huyết, sáng tạo và đầy trách nhiệm của mỗi
thành viên thì có lẽ bài nghiên cứu này chắc chắn rất khó có thể được hoàn thành.
Hà Nội, ngày 1 tháng 6 năm 2016
2
4. MỤC LỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Bảng 1: Bảng số lượng khách thể theo khóa
Bảng 2: Điểm trung bình về nhận thức của sinh viên đối với việc kết hôn sớm
Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ phần trăm số khách thể nghiên cứu theo giới tính
Biểu đồ 2: Biểu đồ thể hiện tình trạng hôn nhân của khách thể nghiên cứu
Biểu đồ 3: Biểu đồ thể hiện độ tuổi kết hôn hợp lý của nam và nữ
Biểu đồ 4: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ phần trăm sinh viên đồng ý với lý do chọn độ tuổi kết
hôn phù hợp
Biểu đồ 5: Biểu đồ thể hiện nguyên nhân kết hôn sớm
Biểu đồ 6: Biểu đồ thể hiện mức độ thông cảm của sinh viên trong các trường hợp liên
quan đến vấn đề kết hôn sớm
Biểu đồ 7: Biểu đồ thể hiện cảm xúc của sinh viên về vấn đề kết hôn sớm
Biểu đồ 8: Biểu đồ thể hiện hành vi của sinh viên về vấn đề kết hôn sớm
4
5. I. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU
1. Lý do và mục đích chọn đề tài
1.1. Lý do chọn đề tài
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa một người đàn ông và một
người phụ nữ được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình. Sự liên kết đó phát sinh
và hình thành do việc kết hôn. Theo quy định tại khoản 1, Điều 9 Luật Hôn nhân và
gia đình, nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo điều kiện: nam từ 20 tuổi trở lên, nữ
từ 18 tuổi trở lên. Đây là độ tuổi thích hợp cả về sức khỏe lẫn tinh thần để bước vào
hôn nhân. Tuy nhiên, theo thống kê của UNICEF ở Việt Nam số phụ nữ trong độ tuổi
15-19 kết hôn hiện nay đã tăng lên 10,3% so với 8% báo cáo MICS 2011. Bên cạnh
đó, có mối quan hệ mạnh mẽ với giáo dục, điều kiện kinh tế và kết hôn sớm, với tỉ lệ
26% phụ nữ trong độ tuổi 15-19 từ những hộ gia đình nghèo nhất kết hôn sớm so với
chỉ 2% từ những hộ gia đình khá giả. Đặc biệt, gần 30% phụ nữ dân tộc thiểu số từ
15-19 đã kết hôn. Và họ chưa chắc đủ điều kiện để đảm bảo có cuộc sống gia đình ổn
định và hạnh phúc. Còn có nhiều người kết hôn khi còn đang ngồi trên giảng đường
trường đại học, cao đẳng. Ở tuổi đó, nhiều người vẫn còn phải đến trường để hoàn
thiện bản thân mình nâng cao trí tuệ và rèn luyện tư duy nhận thức, thậm chí có nhiều
người vẫn còn phụ thuộc kinh tế vào gia đình. Một trong những lý do chính không
nên bắt đầu một gia đình khi bạn còn quá trẻ là bạn có thể thiếu sự ổn định cần thiết
về tình cảm.Hầu hết chúng ta phải trải qua một vài mối tình trước khi gặp được đối
tác phù hợp để tiến tới hôn nhân. Bên cạnh đó, bản thân chúng ta thường chưa đủ sự
trưởng thành và chín chắn để làm cha, làm mẹ. Như vậy việc họ kết hôn sớm sẽ gây
đến nhiều hệ lụy đối với bản thân họ, gia đình họ, tạo thêm gánh nặng cho xã hội và
các mối quan hệ xã hội khác.
Ngày nay, sự phát triển của xã hội cũng như những vấn đề về tâm sinh lí của con
người càng trở nên phức tạp ảnh hưởng đến quan hệ hôn nhân, gia đình trong đó có
việc kết hôn giữa hai bên. Thực trạng hiện nay việc kết hôn sớm xảy ra khá phổ biến
làm ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống cũng như tâm lý của chính họ. Không
5
6. những thế, còn có nhiều người kết hôn khi chưa đủ tuổi mà pháp luật quy định gây
ảnh hưởng lớn đến đời sống, tâm lý và cả sức khỏe sinh sản của họ.
Sinh viên chúng ta là những chủ nhân tương lai của đất nước, nhiệm vụ của
chúng ta là không ngừng rèn luyện, trau dồi kiến thức, góp phần đưa đất nước ngày
càng phát triển, hội nhập quốc tế. Thế nhưng hiện nay, một bộ phận nhỏ sinh viên khi
đang còn đang ngồi trên giảng đường trường đại học mà đã kết hôn, trong đó đa số là
sinh viên nữ vì người đàn ông thường có xu hướng xây dựng sự nghiệp ổn định trước
rồi mới kết hôn. Bên cạnh đó, một vài sinh viên nữ kết hôn và làm mẹ khi còn đang đi
học. Điều này khiến cho họ phải nhận thái độ không tốt từ một bộ phận không nhỏ
sinh viên trong trường. Nhiều bạn sinh viên nữ học tập rất xuất sắc, tương lai sau này
có thể giúp ích rất nhiều cho đất nước nhưng chỉ vì kết hôn khi đang học đại học mà
học tập sa sút dần, có khi bỏ học luôn hoặc vẫn đi học tiếp để lấy cái bằng rồi ra
trường nhưng lại không được theo đuổi nghề nghiệp đã chọn vì còn bận việc gia đình.
Cũng có nhiều trường hợp kết hôn mà cả hai vợ chồng vẫn còn đang đi học không tự
chủ về mặt kinh tế được nên bố mẹ người chồng phải lo cho cả con trai và con dâu đi
học, tăng thêm gánh nặng kinh tế cho cả gia đình. Chưa kể nhiều cặp vợ chồng trẻ con
tâm lí còn chưa đủ trưởng thành, khi về chung một nhà sẽ có những cãi vã có khi còn
đòi li hôn, làm ảnh hưởng lớn đến tâm lý của bản thân họ cũng như gia đình họ. Bên
cạnh những mặt hạn chế của việc kết hôn sớm, chúng ta cũng không thể không nhắc
tới những mặt tích cực của nó. Nhiều sinh viên sau khi kết hôn tâm lý trở nên vững
vàng hơn, vợ chồng hỗ trợ cho nhau trong việc học tập, kết quả học tập tốt hơn so với
khi vẫn còn độc thân.
Tóm lại, sinh viên chúng ta cần phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề
kết hôn sớm này để định hướng bản thân từ đó học tập thật tốt góp phần xây dựng
nước nhà ngày càng phát triển.
Trên cơ sở đó chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu về “ Thái độ của sinh viên
trường Đại học Giáo dục về vấn đề kết hôn sớm”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
6
7. Đề tài này nghiên cứu nhằm xác định được các nhân tố tác động tới việc kết hôn
sớm của nhiều người và ảnh hưởng của nó tới các mặt của cuộc sống, từ đó nâng cao
nhận thức của sinh viên về vấn đề kết hôn sớm.
2. Lịch sử nghiên cứu
Có một câu châm ngôn nước ngoài “Behind every successful guy, is a woman”,
được dịch là “Đằng sau sự thành công của đàn ông luôn có bóng dáng của người phụ nữ”.
Quả thực, để một người đàn ông có thể tập trung, toàn tâm toàn ý lo cho sự nghiệp của
mình thì bên cạnh anh ta không thể thiếu một người phụ nữ tuyệt vời biết lo toan công
việc, chăm sóc gia đình. Hôn nhân là cầu nối giữa hai người, họ cùng nhau chung sống và
trải qua mọi vui buồn trong cuộc sống. Tuy nhiên, không phải vì mục đích đó mà ở độ
tuổi nào chúng ta cũng nên và có thể kết hôn. Theo Luật hôn nhân và gia đình số
52/2014/QH13, độ tuổi kết hôn của nam là trên 20 tuổi và nữ là trên 18 tuổi. Ở độ tuổi
này, cả nam và nữ đều đã phát triển đầy đủ cả về sức khỏe lẫn tinh thần. Thế nhưng,
không phải mọi cuộc hôn nhân hiện nay đều tuân theo quy định này. Cùng với sự phát
triển của xã hội, lại thêm việc tâm sinh lý của con người trở nên phức tạp, việc kết hôn
cũng có nhiều ảnh hưởng.
2.1. Về vấn đề kết hôn:
Có rất nhiều nghiên cứu khoa học, hội thảo, tạp chí, bài báo,… nói về vấn đề kết
hôn ở nước ta hiện nay. Theo tài liệu tham khảo “Cấu trúc tuổi_ giới tính và tình trạng
hôn nhân của dân số Việt Nam” cho thấy, độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu (SMAM)
của nam giới năm 2009 là 26,2 và nữ giới là 22,8. Trong khi đó SMAM của cả nam và nữ
ở thành thị đều cao hơn ở nông thôn ( 27,7 và 24,4 với 25,6 và 22,0). Ngoài ra, độ tuổi
kết hôn lần đầu (SMAM) ở các dân tộc khác nhau cũng khác nhau. Người Kinh có
SMAM cao nhất (nam 26,6 và nữ 23,1) và thấp nhất là người Mông (nam 19,9 và nữ
18,8). Sở dĩ có sự chênh lệch như vậy là do sự khác biệt về văn hóa và tập quán hôn nhân
ở các vùng và các dân tộc là khác nhau.
2.2. Về vấn đề kết hôn sớm.
7
8. Một trong những vấn đề nóng của việc kết hôn là kết hôn sớm. Nghiên cứu về vấn
đề này đã có rất nhiều bài báo khoa học, luận án, hội thảo khoa học,.. cả trong và ngoài
nước. Có thể kể đến như : Singh, S., & Samara, R. (1996). Early marriage among women
in developing countries. International family planning perspectives, 148-175, hay Raj,
A., Saggurti, N., Balaiah, D., & Silverman, J. G. (2009). Prevalence of child marriage and
its effect on fertility and fertility-control outcomes of young women in India: a cross-
sectional, observational study. The Lancet, 373(9678), 1883-1889,…
Trong nghiên cứu Raj, A., Saggurti, N., Balaiah, D., & Silverman, J. G. (2009).
Prevalence of child marriage and its effect on fertility and fertility-control outcomes of
young women in India, tác giả đã nghiên cứu trên 22.807 khách thể từ 20-24 tuổi về độ
tuổi kết hôn sớm của phụ nữ Ấn Độ và mối quan hệ giữa việc kết hôn sớm với trình độ
học vấn, nơi sinh sống của họ. Theo đó, trong số những người tham gia nghiên cứu có
11.902 người kết hôn khi chưa đủ 18 tuổi. Cụ thể có 44,5% kết hôn trong độ tuổi từ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi; 22,6% kết hôn trong độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi và đáng ngạc
nhiên hơn khi có khoảng 2,6% kết hôn trước 13 tuổi. Khoảng 67,2% trong số này sống ở
nông thôn. Trong số những người kết hôn sớm, thì có đến 31,4% không được học chính
thức và đa số họ kết thúc việc học của mình ở cấp Trung học (42,9%).
Theo Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2005: Những kết quả
chủ yếu, trong năm 2004 trên phạm vi cả nước có 1,5% nam giới và 6,2% nữ giới kết hôn
ở độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi. Trong khi đó tỷ trọng kết hôn trong độ tuổi vị thành niên ở
nông thôn cao hơn gấp hai lần so với thành thị. Cũng trong kết quả điều tra cũng cho
thấy, tỷ lệ kết hôn ở các vùng trên cả nước là khác nhau. Tỷ lệ kết hôn ở độ tuổi từ 15-19
tuổi cao nhất ở vùng Tây Bắc. Đáng kể là ở đây có khoảng 12,5% nam giới và 26,1% nữ
giới kết hôn ở tuổi 18. Tỷ trọng nam giới kết hôn trong độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi ở Đồng
Bằng Sông Hồng là thấp nhất (0,4%) và ở nữ giới ở Bắc Trung Bộ là thấp nhất (3,5%).
Những số liệu trên phần nào cho thấy những khía cạnh của việc kết hôn sớm. Kết
hôn sớm xảy ra ở bất cứ nơi đâu dù điều kiện môi trường sống, văn hóa, tập quán hôn
8
9. nhân có khác nhau như thế nào. Đây cũng là nguồn tài liệu quan trọng để dựa vào đó
chúng tôi có thể kiểm tra, so sánh với đề tài nghiên cứu của mình.
2.3. Về thái độ của sinh viên với vấn đề kết hôn sớm.
Hiện nay, vấn đề kết hôn sớm hay tảo hôn là một vấn đề vô cùng nóng bỏng.
Nhiều nghiên cứu khoa học, báo chí,.. nói về thực trạng, nguyên nhân, hậu quả cũng như
ảnh hưởng của việc kết hôn sớm. Tuy nhiên, nghiên cứu về thái độ của sinh viên đối với
vấn đề này còn khá mới mẻ. Hầu như có rất ít nghiên cứu hay bài báo khoa học ở Việt
Nam cũng như nước ngoài làm về vấn đề này. Rõ ràng, ta thấy những nghiên cứu về thái
độ của sinh viên hiện nay về việc kết hôn sớm là vô cùng cần thiết. Nó giúp ta có thể tìm
hiểu rõ hơn về tâm lý, suy nghĩ của các bạn sinh viên về hôn nhân, từ đó tìm biện pháp
nhằm nâng cao nhận thức, ý thức của sinh viên.
3. Khung lý luận
3.1. Những khái niệm liên quan
3.1.1. Các vấn đề lí luận về thái độ
3.1.1.1. Khái niệm thái độ
Có nhiều định nghĩa khác nhau khi bàn về thái độ :
Theo nhà tâm lí học người Mỹ G.W Allport (1935), thái độ là trạng thái của hệ
thần kinh, là sự sẵn sàng phản ứng, là một trạng thái có tổ chức, được hình thành trên cơ
sở kinh nghiệm quá khứ và nó điều khiển cũng như hành vi của cá nhân.
Năm 1971 nhà tâm lí học người Mỹ H.C Triandis đã đưa ra một định nghĩa khác
về thái độ. Ông cho rằng: “ Thái độ là tư tưởng được tạo nên từ các xúc cảm, tình cảm.
Nó gây tác động đến hành vi nhất định, ở một giai cấp nhất định, trong những tình huống
xã hội nhất định. Thái độ của con người bao gồm những điều mà họ cảm thấy suy nghĩ về
đối tượng, cũng như cách sử dụng của họ đối với đối tượng đó”.
Còn gần đây James, W Kalat đã đưa ra định nghĩa: ”Thái độ là sự thích hay không
thích một sự vật hay một người nào đó của cá nhân, từ đó có ảnh hưởng tới hành vi của
anh ta khi ứng xử với sự vật hay con người đó”.
9
10. Trong từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (1988), thái độ được định nghĩa là “cách
nhìn nhận, hành động của cá nhân về một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình
huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra sự bên ngoài của ý nghĩ, tình
cảm của cá nhân đói với con người hay một sự việc nào đó”.
Nói tóm lại, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về thái độ, nhưng có thể nêu ra định
nghĩa về thái độ thông dụng hiện nay, đó là” thái độ là một bộ phận hợp thành, một thuộc
tính trọn vẹn của ý thức, quy định tính sẵn sàng hành động của con người đối với đối
tượng theo một hướng nhất định, được bộc lộ qua nhận thức, hành vi và cảm xúc của
người đó trong những tình huống, điều kiên cụ thể”.
3.1.1.2. Đặc trưng của thái độ
Thái độ là một thuộc tính nhân cách nó bao gồm các đặc trưng sau:
- Có sự thống nhất: thái độ của con người là một chính thể thống nhất, bao gồm các
mặt nhận thức, hứng thú , hành vi. Các mặt này có liên quan tới nhau, kết hợp chặt chẽ
với nhau taọ thành một tổng thể thống nhất, chứ không phải là phép cộng trừ đơn giản
của các mặt riêng lẻ. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá thái độ của con người đối với một đối
tượng nào đó, chúng ta cần xem xét chúng trong mối liên hệ của các mặt thái độ.
- Tính không ổn định: dưới tác động của xã hội và giáo dục thì thái độ của con
người cũng có thể thay đổi, nó có thể thay đổi theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu
cực tùy theo khả năng nhận thức của cá nhân hoặc tác động của xã hội. Tuy nhiên, thái
độ thái độ thay đổi từ từ chứ không thay đổi ngay tức khắc khi có tác động.
- Có tính chân thực: thái độ của con người biểu hiện rõ ra bên ngoài thông qua các
hành vi, hành động, thái độ của con người như thế nào thì hành vi, hành động của con
người như thế đó, con người không thể che dấu được thái độ của mình, như vậy thông
qua hành vi, hành động của chúng ta có thể biết được thái độ của con người.
3.1.2. Sinh viên
10
11. Thuật ngữ “Sinh viên” được bắt nguồn tư một từ gốc latinh: “Students” với nghĩa
là người làm việc, người học việc, học tập, tìm hiểu, khai thác tri thức. (Từ điển bách
khoa thư – tiếng Nga).
Hiểu theo nghĩ thông thường thì “Sinh viên” là những người đang học trong các
trường đại học, cao đẳng. Sau khi tốt nghiệp họ sẽ có được một tấm bằng cử nhân.
Nói một cách ngắn gọn “Sinh viên” là người học tập tại các trường đại học, cao
đẳng. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công
việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá
trình học. Quá trình học của họ theo phương pháp chính quy, tức là họ đã phải trải qua
bậc tiểu học và trung học.
3.1.3. Kết hôn
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa một người đàn ông và một
người phụ nữ được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình. Sự liên kết đó phát sinh và
hình thành do việc kết hôn. Theo quy định tại khoản 1, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia
đình, nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo điều kiện: nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18
tuổi trở lên. Đây là độ tuổi thích hợp cả về sức khỏe lẫn tinh thần để bước vào hôn nhân.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình là một trong các tổ chức cơ sở đẻ thực
hiện chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước về tất cả các mặt kinh tế- chính
trị- văn hóa- dân sự- môi trường. Gia đình còn là một đơn vị gồm có vợ chồng, con cái ,
rộng hơn thì bao gồm một dòng họ, gồm ông bà, cha mẹ, anh chị em gắn bó với nhau dựa
trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Đối với mỗi thành viên, gia đình
là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng, giáo dục, nâng đỡ mình suốt cuộc đời, là môi trường để
hình thành và phát triển nhân cách con người, là nơi để thế hệ trẻ rèn luyện lối sống có
tình nghĩa, có đạo lí để thực hàh trong cuộc đời, là nơi truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ
trước cho thế hệ sau. Và hôn nhân được coi là phương thức để phát triển gia đình và kết
hôn chính là nền tảng của hôn nhân.
11
12. 3.1.4. Kết hôn sớm
Luật Hôn nhân và Gia đình quy định tuổi kết hôn tối thiểu của nam là 20 tuổi và
của nữa là 18 tuổi. Nếu kết hôn trước độ tuổi này thì được gọi là tảo hôn. Không có quy
định rõ thế nào là kết hôn sớm, nhưng chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình ở Việt
Nam khuyến khích nam giới không kết hôn trước tuổi 22 và nữ không kết hôn trước tuổi
20 nên có thể coi kết hôn trước các độ tuổi này là kết hôn sớm. Vì thế theo các chuyên
gia dân số, kết hôn sớm là một khái niệm bao gồm cả tảo hôn và không tảo hôn. Khái
niệm này có thể hiểu là việc nam giới lấy vợ trước 22 tuổi và nữ giới lấy chồng trước 20
tuổi.
3.1.5. Công cụ nghiên cứu
Công cụ nghiên cứu là sử dụng các công cụ đo lường đo đạc để thu thập dữ liệu.
Công cụ nghiên cứu được sử dụng được xác định bởi phương pháp nghiên cứu
được sử dụng và nhiệm vụ- câu hỏi- giả thiết- khách thể- đối tượng nghiên cứu.
Để xây dựng công cụ nghiên cứu cho đề tài “ thái độ của sinh viên về vấn đề kết
hôn sớm” cần làm rõ khái niệm công cụ.
Từ những khái niệm thái độ, sinh viên, kết hôn sớm, chúng tôi rút ra kết luận rằng
“ thái độ của sinh viên về vấn đề kết hôn sớm” sẽ được khách thể biểu hiện thông qua “
nhận thức, cảm xúc và hành vi”.
Từ đây, chúng tôi quyết định xây dựng công cụ nghiên cứu bằng bảng hỏi dựa trên
các kết luận trên.
3.2. Nguyên nhân kết hôn sớm
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật
về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn. Khi thực hiện việc kết hôn, ngoài yếu tố tự
12
13. nhiên, một trong những điều kiện phải tuân thủ là độ tuổi kết hôn theo quy định của pháp
luật. Theo quy định tại khoản 1 điều 9 luật hôn nhân và gia đình năm 2000, độ tuổi kết
hôn đối với nam là từ hai mươi tuổi trở lên , nữ từ mười tám tuổi trở lên. Quy định này
dựa trên cơ sở nghiên cứu các điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta nhằm đảm bảo sự phát
triển bình thường về tâm lý của nam, nữ thanh niên và điều quan trọng là để họ có thể
đảm đương trách nhiệm là vợ chồng, làm cha mẹ trước khi bước vào cuộc sống gia đình.
Nhưng do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau mà hiện nay, việc nam
nữ kết hôn sớm diễn ra khá phổ biến.
Theo thống kê của UNICEF ở Việt Nam số phụ nữ trong độ tuổi 15-19 kết hôn
hiện nay đã tăng lên 10,3% so với 8% báo cáo MICS 2011. Bên cạch đó , có mối quan hệ
mạnh mẽ với giáo dục, điều kiện kinh tế và kết hôn sớm , với tỉ lệ 26% phụ nữ trong độ
tuổi 15-19 từ những hộ gia đình nghèo nhất kết hôn sớm so với chỉ 2% từ những hộ gia
đình khá giả. Đặc biệt, gần 30% phụ nữ dân tộc thiểu số từ 15-19 đã kết hôn. Và họ chưa
chắc đủ điều kiện để đảm bảo có cuộc sống gia đình ổn định và hạnh phúc. Còn có nhiều
người kết hôn khi còn đang ngồi trên giảng đường trường đại học, cao đẳng. Ở tuổi đó,
nhiều người vẫn còn phải đến trường để hoàn thiện bản thân mình nâng cao trí tuệ và rèn
luyện tư duy nhận thức, thậm chí có nhiều người vẫn còn phụ thuộc kinh tế vào gia đình.
Họ có thể thiếu sự ổn định cần thiết về tình cảm.Hầu hết chúng ta phải trải qua một vài
mối tình trước khi gặp được đối tác phù hợp để tiến tới hôn nhân. Bên cạnh đó, bản thân
chúng ta thường chưa đủ sự trưởng thành và chín chắn để làm cha, làm mẹ.
Tác giả Hoàng Thị Tây Ninh (2008) có nêu ra các nguyên nhân của hiện tượng kết
hôn sớm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ phong tục tập quán, điều kiện kinh tế và nhận thức
của người dân. Những khó khăn về điều kiện phát triển kinh tế cộng với sự hạn chế về
trình độ văn hoá là các nguyên nhân khách quan tạo cơ hội cho sự tồn tại của cho hiện
tượng này. Nguyên nhân là do gia đình. Ở nước ta có những tục lệ, lễ nghi đã ăn sâu vào
trong đời sống của người Việt Nam, nhà nào cũng có tâm lý muốn con đàn cháu đống,
thêm lao động cho gia đình. Nhà nào có con gái thì muốn gả sớm để bớt miệng ăn, nhà
nào có con trai thì muốn cưới vợ để lo toan cho cuộc sống cũng như để có cháu lối dõi
13
14. tông đường. Do tâm lý trên mà rất nhiều cặp vợ chồng đã lấy nhau khi độ tuổi còn rất
sớm.
Hay do chính họ muốn kết sớm. Trong điều kiện kinh tế, con người dần biến đổi
để thích nghi được với những điều kiện mới. Họ trở nên năng động sáng tạo linh hoạt và
độc lập hơn trong cách nghĩ cách làm. Quan điểm đời sống của họ trở nên cởi mở hơn,
đơn giản hơn, không bị gò bó bởi quan niệm đạo đức xưa. Họ nhận thấy rằng kết hôn
sớm có thể tiết kiệm được nhiều tiền hơn,dễ dàng điều chỉnh bản thân vì hôn nhân đòi hỏi
mỗi người buộc phải thay đổi một phần nào đó thói quen cá nhân để phù hợp với cuộc
sống gia đình. Họ có nhiều thời gian dành cho một nửa của mình hơn, thuận lợi cho việc
sinh con. Kết hôn sớm gắn họ với cuộc sống có trách nhiệm hơn nhờ đó mà bản thân sớm
chín chắn, trưởng thành trong tính cách. Đó là một lợi thế để họ đối phó với các mối quan
hệ xã hội cũng như những vấn đề gặp phải trong cuộc sống không riêng gì các vấn đề của
hôn nhân. Cũng như có chỗ dựa vững chắc trong cuộc sống. Những áp lực công việc,
những thứ vụn vặt trong cuộc sống đôi khi khiến họ mệt mỏi tuy nhiên nên như bên họ có
một người luôn thấu hiểu , có một người luôn cho họ bờ vai để dựa thì còn gì tuyệt vời
hơn nữa. Hay do họ có những mối quan hệ với nhau quá dễ dàng. Một trong những hệ
lụy đó là việc chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ trở nên hết sức bình thường.
Điều đó đã dẫn đến những trường phải cưới chui khi đôi nam nữ còn quá trẻ.
Hoặc theo tác giả Nguyễn Kim Thoa (2014) cũng nêu ra việc thực tiễn áp dụng
luật HN&GĐ năm 2000 đã cho thấy một số quy định về chế định kết hôn đã bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập, không còn phù hợp trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay.
Quy định về độ tuổi kết hôn chưa thống nhất với các văn bản trong hệ thống pháp luật
của nhà nước ta. Các quy định về giải quyết hậu quả phát sinh từ việc chung sống như vợ
chồng không có đăng kí kết hôn chưa được ghi nhận trong Luật HN&GĐ năm 2000 và
chưa đảm bảo tính đồng bộ.
Đồng thời kết hôn sớm còn do phụ thuộc vào giới. Theo điều tra biến động dân số
và KHHGĐ 1/4/2015 nữ có xu hướng kết hôn sớm hơn nam. Trong khi chưa đến 2 trên
14
Tải bản FULL (file word 32 trang): bit.ly/2Ywib4t
Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ
15. 100 nam giới đã từng kết hôn ở tuổi 15-19, tỷ trọng tương ứng cuẩ nữ trong nhóm tuổi đó
là 6%. Ở nhóm tuổi 20-24, phần trăm đã từng kết hôn cao gấp hơn 2 lần so với nam( 42%
so với 20%).
Và nguyên nhân cuối cùng để dẫn đến việc kết hôn sớm là trình độ học vấn của
giữa nông thôn và thành thị. ở nông thông trình độ học vấn còn thấp, họ còn giữ những
phong tục lạc hậu, do chưa hiểu biết pháp luật, chưa được giáo dục đầy đủ việc ảnh
hưởng của kết hôn sớm. Ở thành thị họ được biết đầy đủ kiến thức về độ tuổi kết hôn
cũng như còn phải học tập, nghiên cứu để có sự nghiệp vững chắc khi bước vào cuộc
sống gia đình. Nên theo điều tra biến động dân số và KHHGĐ 1/4/2015 tỷ trọng kết hôn
vị thành niên của nông thôn cao gấp hai lần so với thành thị. Vào tuổi 18, một trong mười
phụ nữ nông thông đã từng kết hôn, con số đó vào tuổi 19 cao đấp đôi –đạt 20%. Các con
số tương ứng của phụ nữ thành thị chỉ là 5 và 10%.
3.3. Ảnh hưởng của việc kết hôn sớm
Hiện nay, vấn đề kết hôn sớm xảy ra khá phổ biến và gây những ảnh hưởng không
nhỏ đến đời sống, học tập, công việc cũng như tâm sinh lí của chính họ. Có những ảnh
hưởng tích cực nhưng cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của vấn đề
này.
3.3.1. Ảnh hưởng của việc kết hôn sớm đến đời sống
Nếu như kết hôn sớm họ sẽ phải làm hai việc lớn cùng một lúc, lúc đó họ phải có
sự kiên trì và quyết tâm rất lớn để có thể làm được. Cũng có thể họ sẽ chịu rất nhiều áp
lực từ các mối quan hệ xung quanh hay việc xây dựng sự nghiệp sau này của mình gây
ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập của bản thân. Vì sự nghiệp ổn định là yếu tố rất
quan trọng trong cuộc sống. Nó cho phép bạn tạo lập tài chính ổn định để chăm sóc gia
đình và nuôi dưỡng con cái, nó cũng là nguồn sinh sống, dự phòng cho bạn trong tương
lai. Như vậy kết hôn sớm trước khi ổn định sự nghiệp sẽ khiến bạn gặp nhiều khó khăn,
không tự lập được về tài chính còn phải dựa dẫm vào cha mẹ.
15
3673351