BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG. THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM đã chia sẻ đến cho các bạn sinh viên về bài mẫu báo cáo thực tập luật lao động hoàn toàn miễn phí.
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG. THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM
1. 1
TRƯỜNG…….
KHOA……………..
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO
ĐỘNG. THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM
GVHD:
SVTH:
LỚP:
NGÀNH:
TP.HCM, 2020
2. 2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực
tiễn tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được sự hướng dẫn tận
tình của giảng viên hướng dẫn ..................., hoàn toàn không sao chép từ tác
phẩm khác. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong khóa luận đã được nêu
rõ trong phần trích dẫn tài liệu tham khảo. Các bản án, thông tin được nêu trong
khóa luận là trung thực và hoàn toàn chính xác, đúng sự thật.
Tác giả
3. 3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Chữ được viết tắt
BLLĐ Bộ luật lao động
BTTH Bồi thường thiệt hại
HVVP Hành vi vi phạm
4. 4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài..................................................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài............................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài ...................................................................................4
5. Kết cấu khóa luận.................................................................................................................4
CHƯƠNG 1...............................................................................................................................6
KHÁI QUÁT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG..................6
1.1. Khái niệm về tai nạn lao động.........................................................................................6
1.2. Đặc điểm của tai nạn lao đông ........................................................................................8
1.3. Các trường hợp bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động ......................................... 11
CHƯƠNG 2.............................................................................................................................14
MỨC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG ....................................14
2.1. Quy định pháp luật......................................................................................................... 14
2.2. Thực tiễn áp dụng về mức bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động....................... 16
2.2.1. Bản án thứ nhất ........................................................................................................... 17
2.2.2. Bản án thứ hai ............................................................................................................. 22
2.2.3. Bản án thứ ba............................................................................................................... 25
CHƯƠNG 3.............................................................................................................................30
QUY TRÌNH BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG.......................30
3.1. Quy định pháp luật......................................................................................................... 30
3.2. Thực tiễn áp dụng quy trình bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động trong thực
tiễn........................................................................................................................................... 35
3.2.1. Bản án thứ nhất ........................................................................................................... 35
3.2.2. Bản án thứ hai: ............................................................................................................ 39
KỂT LUẬN ............................................................................................................................ 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................48
5. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quan hệ pháp luật lao động thì hoạt động bồi thường cho người lao
động bị chấn thương, thương tật và đau ốm do tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp được quy định trong Luật bảo hiểm hoặc Luật về bồi thường tai nạn lao
động tại nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp được quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012, nay là BLLĐ 2019, Luật
an toàn, vệ sinh lao động 2015 và Luật về Bảo hiểm xã hội năm 2014. Thực
trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện luật pháp về bồi thường tai nạn lao động
trong thời gian qua cho thấy, pháp luật về bồi thường tai nạn lao động ở Việt
Nam còn tồn tại những khiếm khuyết, hạn chế trong nội dung các quy phạm
pháp luật và cả trong cơ chế áp dụng pháp luật thể hiện qua sự chồng chéo và
thiếu đồng bộ, phân tán và thiếu cơ chế đầu tư phòng ngừa để đảm bảo sự bền
vững và phát triển. “Việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường tai nạn lao động
phải xuất phát từ yêu cầu cuộc sống và điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia.
Chế định bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động đặt ra nhằm xác định trách
nhiệm trong quan hệ lao động khi NLĐ xảy ra tai nạn trong quá trình làm việc
cho NSDLĐ”.
“Quá trình hoàn thiện pháp luật về bồi thường tai nạn lao động phải dựa
trên cơ sở thực tiễn phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Luôn sẵn có
những mô hình bồi thường tai nạn đang được áp dụng ở các nước khác nhau. Sự
thành công trong việc thực hiện chế độ bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp của các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực trong quá trình phòng
ngừa tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, nâng cao quản lý nhà nước về an toàn
vệ sinh lao động luôn luôn được xem xét và nghiên cứu kỹ bối cảnh và điều kiện
để vận hành của nó trước khi đưa ra các giải pháp để Việt Nam có thể tham khảo
6. 2
học tập và áp dụng theo lộ trình để phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam. Việc
tham khảo mô hình hoạt động của các nước không chỉ đơn thuần là quá trình
nghiên cứu văn bản luật pháp mà phải là một quá trình tham vấn chuyên gia,
nghiên cứu thực tế, chia sẻ kinh nghiệm và xây dựng mối quan hệ đối tác”1. Mỗi
một mô hình mới cần có sự thử nghiệm để thực hiện. “Việc hoàn thiện pháp luật
về bồi thường phải gắn với việc xây dựng chiến lược về phòng ngừa và nâng cao
nhận thức lợi ích của phòng ngừa trong pháp luật về bồi thường tai nạn lao động.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì các quan hệ lao động nói
chung và BTTH do TNLĐ nói riêng luông được nhà nước quan tâm và hoàn
thiện. Đối với người NLĐ, với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ đối tượng
này, Nhà nước đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền của
người lao động, bên cạnh đó Pháp luật Việt Nam cũng xác định rõ trách nhiệm
của người NLĐ khi tham gia vào các quan hê ̣pháp luật cụ thể, trong đó đã dành
sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng là những trường hợp người NLĐ xảy ra
TNLĐ trong quá trình làm việc”2. Điều này càng thể hiện mối quan tâm sâu sắc
của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Chính vì thế, trong các quy định
của pháp luật về bồi thường thiệt hại theo quy định của BLLĐ cho người NLĐ là
nhằm giúp đỡ để đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ và NSDLĐ. Đồng thời,
cũng nhằm tăng cường hoạt động QLNN đối với quan hệ lao động ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, đốivới vấn đề BTTH do TNLĐ đã đạt
được nhiều kết quả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, chúng ta
cần nhận định rằng việc áp dụng quy định này còn gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc vì quy định còn có nhiều cách hiểu khác nhau nên việc áp dụng chưa thống
nhất, gây bức xúc trong quá trình giải quyết. Trên thực tế, đây là vấn đề khó
1 Trần Thanh Hải (2014) Pháp luật về bồi thường tai nạn lao động qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế - Luận
văn Thạc sỹ - Khoa luật, Đại học Huế.
7. 3
khăn do chưa có hướng dẫn cụ thể nên các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan
bảo vệ pháp luật gặp nhiều vướng mắc khi giải quyết các trường hợp liên quan
tới vấn đề này. Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài " Bồi thường thiệt hại
do tai nạn laođộng. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam" làm khóa luận tốt nghiệp
của mình. Việc tôi chọn thực tiễn tại Việt Nam là nơi mà địa phương trong các
năm từ năm gần đây xảy ra nhiều vụ tai nạn lao động thương tâm. Và trên thực tế
vẫn chưa có tác giả nào viết về thực tiễn trong quá trình áp dụng. Đồng thời,
thông qua quá trình nghiên cứu tác giả viết khóa luận này với mong muốn
nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa học, có hệ thống giúp các nhà nghiên cứu,
áp dụng pháp luật có một cách nhìn toàn diện về vấn đề này khi giải quyết các vụ
án cụ thể góp phần mang đến sự công bằng cho các đương sự trong các vụ án.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá thực trạng từ những
vụ án cụ thể, tìm ra những nguyên nhân, hạn chế của vấn đề xác định trách
nhiệm BTTH do TNLĐ khi áp dụng pháp luật hiện hành, để từ đó đưa ra những
kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả đánh giá thực tiễn áp dụng
pháp luật của một số vụ việc đã được giải quyết tại Tòa án, sau đó tác giả mạnh
dạn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật.
8. 4
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Giới hạn đề tài: Vì đề tài theo định hướng ứng dụng nên chỉ tập trung
nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về những vấn đề bất cập từ thực tiễn
pháp lý; từ đó đề xuất giải pháp áp dụng pháp luật.
Về nội dung nghiên cứu lý thuyết: Trách nhiệm BTTH do TNLĐ; các chủ
thể liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại, những căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường. Từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật
để từ đó áp dụng pháp luật một cách thống nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu trong đó gồm các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích: Áp dụng trong việc phân tích, làm rõ các khái
niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ, biện pháp đảm bảo bồi
thường. Phân tích những thuận lợi, khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Phương pháp bình luận: Đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về các quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ theo pháp luật
hiện hành được quy định tại BLLĐ 2012 và nay là BLLĐ 2019
Ngoài ra khóa luận còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp chứng
minh, bình luận bản án trong thực tiễn xét xử … để từ đó đưa ra định hướng
nhằm hoàn thiện và áp dụng thống nhất pháp luật.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về bồi thường thiệt hại do tai nạn lao đọng
9. 5
Chương 2: Mức bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động
Chương 3: Quy trình bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động
10. 6
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm về tai nạn lao động
Hiện nay có nhiều khái niệm về tai nạn lao động nói chung.Việc xác định
như thế nào là tai nạn lao động là vấn đề đã tồn tại từ nhiều năm, đã có những
xung đột về quan niệm và cách giải quyết các vụ việc về tai nạn lao động. Khái
niệm tai nạn lao động theo quy định tại Bộ luật lao động năm 2012. Theo quy
định tại Điều 142 Bộ luật lao động năm 2012
“ Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng
nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao
động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động”3
Điều này đã được khẳng định một lần nữa trong Luật an toàn, vệ sinh lao
động năm 2015 như sau: “Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ
bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra
trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao
động.”4. Trên thực tế thì người bị tai nạn lao động phải được cấp cứu kịp thời và
điều trị chu đáo. Việc xác định như thế nào là tai nạn lao động là vấn đề đã tồn
tại từ nhiều năm, đã có những xung đột về quan niệm và cách giải quyết các vụ
việc về tai nạn lao động. Do đó, quy định về tai nạn lao động tại khoản 1 Điều
142 Bộ luật hiện hành kế thừa định nghĩa về tai nạn lao động trong Bộ luật Lao
động năm 1994 và có đôi chút sửa đổi làm rõ hơn. Theo tinh thần của quy định
về tai nạn lao động trong Bộ luật, có một số điểm cần lưu ý như sau:
“Một là, về hình thức, tai nạn lao động được xác định tất cả các loại tai nạn
gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong
3 Xem Điều 142 BLLĐ 2012
4 Xem khoản 8 Điều 3 Luật an toàn vệ sinh lao động năm 2015
11. 7
cho người lao động, cần phải phân biệt rõ giữa cấp độ do tai nạn lao động gây ra
(từ tổn thương đến tử vong) với việc bảo đảm chế độ cho người bị tai nạn lao
động. Một người bị tai nạn lao động, có thể bị tổn thương cơ thể nhưng chưa
chắc đã được hưởng chế độ này bởi vì cấp độ mức độ tổn thương không lớn. Mặt
khác, cũng cần lưu ý trường hợp nhìn bề ngoài không thấy tổn thương nhưng
thực chất đó là tai nạn lao động (trường hợp bị ngạt khói hoặc bị ngộ độc cấp
dẫn đến tử vong).”
“Hai là, về phạm vi, tai nạn lao động có phạm vi rộng, không chỉ giới hạn ở
trong “biên giới” của doanh nghiệp, cần phải xác định rõ tai nạn đó xảy ra ở đâu
(địa điểm nào), người lao động bị tai nạn khi thực hiện nghĩa vụ lao động hoặc
nhiệm vụ mà người sử dụng lao động yêu cầu hoặc giao cho hay không. Nếu đáp
ứng được yếu tố “trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc,
nhiệm vụ lao động” thì đó được xác định là tai nạn lao động. Ví dụ, bị tai nạn
trong khi di chuyển từ nhà đến đơn vị sử dụng lao động và ngược lại (trên đoạn
đường cần thiết); trên đường di chuyển từ doanh nghiệp đến địa điểm công tác;
thực hiện nhiệm vụ hoàn toàn mới do người sử dụng lao động giao (ví dụ, trong
khi đi thực hiện việc làm từ thiện của doanh nghiệp bị tai nạn).”5
“Ba là, về đối tượng, quy định về tai nạn lao động được áp dụng đối với cả
người học nghề, tập nghề và thử việc. Như vậy, việc xác định tai nạn lao động
không phải chỉ hạn chế đối với người lao động có quan hệ lao động chính thức
mà còn áp dụng đối với cả những người chưa có quan hệ lao động có họp đồng
lao động chính thức, có thể mới bắt đầu thực hiện công việc.”6
Trên thực tế thì NLĐ khi gặp tai nạn lao động sẽ được áp dụng các quy định
nhằm bồi thường về thể chất và tinh thần. Hay nói cách khác là sẽ được đền bù
một khoản vật chất. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, trách
5 https://luathoangphi.vn/the-nao-duoc-goi-la-tai-nan-lao-dong/
6 https://luathoangphi.vn/the-nao-duoc-goi-la-tai-nan-lao-dong/
12. 8
nhiệm bồi thường thiệt hại trong lao động nói riêng là một quan hệ pháp luật lao
động, theo đó người gây ra thiệt hại trong những điều kiện mà pháp luật quy
định phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi trái pháp luật của họ gây ra.
Trong quan hệ nghĩa vụ này bên bị thiệt hại được coi là người có quyền và có
quyền yêu cầu bên gây thiệt hại là người có nghĩa vụ phải bồi thường những thiệt
hại đã xảy ra.Trách nhiệm BTTH do TNLĐ được hiểu là khoản tiền mà người sử
dụng lao động trả cho người lao động được pháp luật quy định nhằm tạo điều
kiện cho người lao động hồi phục sức khỏe hoặc cải thiện cuộc sống nếu không
thể tiếp tục lao động trở lạiVì vậy, Bồi thường thiệt hại do TNLĐ gây ra được
xem là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ do hoạt động gây ra, là hình thức
trách nhiệm do vi phạm vừa mang tính bù đắp những tổn thất đã phát sinh trong
thực tế. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do
hành vi vi phạm gây ra cho bên bị vi phạm .
1.2. Đặc điểm của tai nạn lao đông
Tai nạn lao động xảy ra đối với người lao động là do hậu quả của điều kiện
lao động và môi trường lao động. Bởi vì trong quá trình lao động sản xuất, người
lao động luôn luôn tiếp xúc với các công cụ tư liệu và làm việc trong môi trường
nhất định. Vì vậy các yếu tố này có thể gây nên tai nạn lao động cho người lao
động.
Tai nạn lao động có thể do những rủi ro bất ngờ gây nên như động đất, bão
lụt, do chưa có thiết bị an toàn hay do người lao động vi phạm các quy chế an
toàn lao động. Có nhiều trường hợp người lao động bị tai nạn, nhưng chỉ có
những tai nạn xảy ra đối với người lao động trong quá trình lao động (gắn với
công việc, nhiệm vụ lao động) do các yếu tố môi trường, điều kiện lao động tác
động với họ thì mới được coi là tai nạn lao động.7
7 https://luatminhkhue.vn/bi-tai-nan-lao-dong-thi-duoc-huong-bao-hiem-xa-hoi-the-nao-.aspx
13. 9
Hậu quả của tai nạn lao động làm giảm khả năng lao động của người lao
động khi họ bị tai nạn lao động. Để phản ánh tác động của tai nạn lao động đối
với khả năng lao động của người lao động khi họ bị tai nạn lao động người ta
dùng khái niệm mức độ suy giảm khả năng lao động (hay tỷ lệ suy giảm khả
năng lao động). Coi một người lao động bình thường có khả năng lao động là
100%. Việc xác định mức độ suy giảm khả năng lao động do hội đồng giám định
y khoa xác định dự trên hệ thống bảng chuẩn về mức độ tổn thương, mức độ ảnh
hưởng đến công việc, ảnh hưởng đến khả năng sinh hoạt hàng ngày, đến tuổi đời,
tuổi nghề.
Trên cơ sở đó thì vai trò của BTTH do TNLĐ trở nên cần thiết hơn bao giờ
hết. Theo quy định của BLLĐ 2012 và Luật an toàn vệ sinh lao động 2015 thì
trách nhiệm nhiệm BTTH do TNLĐ chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện. Đặc
điểm nổi bật của BTTH do TNLĐ được thể hiện rõ ràng trên một số phương diện
sau:
Thứ nhất, có hành vi trái cam kết, thỏa thuận trong quan hệ lao động. Hành
vi này thể hiện ở việc NSDLĐ không thực hiện, thực hiện không đúng, không
đầy đủ nghĩa vụ về an toàn lao động. Quá trình này là tiền đề quan trọng xảy ra
những hậu quả là hành vi TNLĐ cho NLĐ trong thực tế và đã xảy ra trên thực tế.
Thứ hai, có thiệt hại về sức khỏe cho NLĐ. Thiệt hại về sức khỏe, tinh thần
cho NLĐ là điều kiện bắt buộc cho việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt
hại.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái an toàn nội quy lao động
lao động hoặc hợp đồng trách nhiệm và thiệt hại xảy ra. Xác định mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi là chứng minh rằng thiệt hại đó là do hành vi trái kỷ luật
hoặc hợp đồng trách nhiệm gây ra. Nói cách khác, nguyên nhân của thiệt hại
chính là hành trái kỷ luật hoặc trái cam kết của NSDLĐ gây ra cho NLĐ. Đây
14. 10
cũng là một trong những điều kiện bắt buộc cho việc áp dụng trách nhiệm vật
chất.
Thứ tư, có lỗi của người vi phạm. Lỗi là trạng thái tâm lý của một người đối
với hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra. NSDLĐ bị coi là có lỗi
khi họ có thể lựa chọn hành vi xử sự khác phù hợp nhưng vẫn thực hiện hành vi
trái với kỷ luật lao động hoặc hợp đồng trách nhiệm, gây thiệt hại cho NLĐ.8
Ngoài bốn căn cứ trên, để giúp cho việc bồi thường thiệt hại này được chính
xác, hiệu quả, cũng như tính đến điều kiện thực tế của NSDLĐ, NLĐ còn phải
xem xét các yếu tố khác như: khả năng, kinh nghiệm làm việc, hoàn cảnh gia
đình, tài sản cũng như ý thức kỷ luật, thái độ của NSDLĐ trước, trong và sau khi
vi phạm để quyết định áp dụng trách nhiệm vật chất và xác định mức bồi thường
hợp lý để vừa đảm bảo quyền lợi người sử dụng lao động vừa đảm bảo cho
người lao động ổn định cuộc sống sau khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại. Đó cũng là cách để răn đe, giáo dục người lao động, tăng cường kỷ luật lao
động trong doanh nghiệp. Vấn đề bồi thường được pháp luật ghi nhận bằng
những ngành luật khác nhau như Bộ Luật lao động, Luật an toàn vệ sinh lao
động …Những quy định này nhằm buộc những chủ thể có hành vi gây thiệt hại
khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra cho một hoặc nhiều chủ thể khác
nhau.”
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây
ra, đền bù đối với những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà người gây ra thiệt
hại phải gánh chịu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho bên bị thiệt hại.
Điều 32 Hiến pháp 2013 ghi nhận những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể được pháp luật bảo vệ có thể là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, bảo hộ
về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hay quyền sở hữu về thu nhập hợp
8 Tiêu chí của pháp luật về bồi thường tai nạn lao động của Thạc sĩ Lê Kim Dung, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp
luật, số 5 năm 2011;
15. 11
pháp, của cải để dành, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác.
Khi thực hiện chúng, nếu một trong các chủ thể gây thiệt hại về sức khỏe, tính
mạng, tài sản, lợi ích…cho bên kia thì giữa họ phát sinh quan hệ bồi thường thiệt
hại.Thiệt hại được hiểu là sự biến đổi theo chiều hướng xấu đi trong tài sản thể
hiện ở những tổn thất thực tế được tính bằng tiền. Thiệt hại gồm có thiệt hại trực
tiếp và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp được hiểu là thiệt hại do chính hành
vi vi phạm kỷ luật lao động của NLĐ gây ra sự giảm sút về giá trị hoặc mất mát
tài sản của NSDLĐ. Còn thiệt hại gián tiếp là thiệt hại phát sinh như phần lợi
nhuận bị bỏ lỡ, phần thu nhập bị mất, bị giảm. Xét về mục đích, trách nhiệm
BTTH do TNLĐ có sự khác biệt so với trách nhiệm BTTH của pháp luật dân sự.
Nếu trong luật Dân sự, trách nhiệm BTTH chỉ nhằm khôi phục những thiệt hại
mà các bên đã gây ra cho nhau (trách nhiệm đó xuất phát từ lẽ công bằng), thì
trong BLLĐ, trách nhiệm BTTH còn nhằm góp phần tăng cường kỷ luật lao
động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên và đồng thời bảo vệ NLĐ.
Điều này thể hiện rõ nét trong việc quy định mức và cách thức bồi thường của
NSLLĐ cho NLĐ theo pháp luật của BLLĐ trong thực tế.
1.3. Các trường hợp bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động
Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động, giữa doanh nghiệp và người
lao động có thể sẽ phát sinh một số trách nhiệm bồi thường như bồi thường khi
chấm dứt HĐLĐ trái luật, bồi thường do làm hư hỏng tài sản của công ty, bồi
thường khi NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… Doanh nghiệp phải có
trách nhiệm khi NLĐ của mình bị tai nạn lao động hoặc bị bệnh nghề nghiệp.
Hiện nay, theo quy định của Luật an toàn, vệ sinh lao động 2015, BLLĐ 2012,
BLLĐ 2019 thì BTTH do TNLĐ: Là trách nhiệm của người sử dụng lao động
đối với Người lao động khi xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp với Người
lao động trong quá trình lao động. Đây được xem là quy định đặc thù của luật lao
16. 12
động, khác hẳn so với trách nhiệm Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng
sức khỏe của người khác trong quan hệ dân sự. Đặc biệt, trong trường hợp NLĐ
có kết luận mức suy giảm từ 5% trở lên, doanh nghiệp phải thực hiện bồi thường
hoặc trợ cấp cho NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo mức suy giảm
khả năng lao động tương ứng quy định tại Điều 38 Luật an toàn, vệ sinh lao động
2015. Như vậy các trường hợp được BTTH do tai nạn lao động có các trường
hợp sau:
Một là, NLĐ bị chết trong khi làm nhiệm vụ hoặc công việc cho NSDLĐ.
Hiện nay, theo Điều 145 về quyền của người lao động bị tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp có quy định: “Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
mà không do lỗi của người lao động và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở
lên thì được người sử dụng lao động bồi thường với mức như sau: Ít nhất 30
tháng tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị suy giảm khả
năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai
nạn lao động”. Căn cứ theo quy định trên thì thân nhân NLĐ và công ty có thể
thỏa thuận mức bồi thường thiệt hại nhưng không được ít hơn mức 30 tháng tiền
lương theo hợp đồng lao động. Nếu NLĐ đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt
buộc, thì ngoài các khoản bồi thường mà công ty có trách nhiệm chi trả, thì thân
nhân của anh trai bạn còn được hưởng một số chế độ do cơ quan bảo hiểm xã hội
chi trả. Ngoài ra, tại Điều 67 cũng quy định chết do tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng theo các trường hợp sau:
a) Con chưa đủ 18 tuổi; con từ đủ 18 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng
lao động từ 81% trở lên; con được sinh khi người bố chết mà người mẹ đang
mang thai;
b) Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55
tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
17. 13
c) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc
mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã
hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình nếu từ đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ;
d) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc
mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã
hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả
năng lao động từ 81% trở lên…”.
Còn tại Điều 68 quy định mức trợ cấp tuất hằng tháng: Mức trợ cấp tuất
hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương cơ sở; trường hợp thân
nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng tháng bằng
70% mức lương cơ sở…”. Trong trường hợp này, NLĐ nên nhanh chóng yêu
cầu phía công ty giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại. Nếu công ty cố tình trốn
tránh trách nhiệm thì có quyền khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi
công ty này có trụ sở.
Hai là, NLĐ bị suy giảm khả năng lao động khi làm nhiệm vụ hoặc công
việc cho NSDLĐ. Theo quy định tại Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động
2015 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao đông đối với người bị tai
nạn lao động. Ngoài các khoản trợ cấp, bồi thường từ người sử dụng lao động,
bạn còn được bảo hiểm thanh toán khoản trợ cấp một lần do tai nạn lao độngtheo
Điều 48 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015. Trường hợp NLĐ bị tai nạn lao
động với mức suy giảm đã được quy định thì NLĐ sẽ được NSDLĐ làm việc tri
trả toàn bộ chi phí phát sinh từ sơ cứu đến khi hồi phục sức khỏe, những chi phí
mà Bảo hiểm không chi trả. Đồng thời, NLĐ sẽ được bồi thường với mức quy
định tại điểm a, khoản 3 Điều 145 Bộ luật lao động 2012.
18. 14
CHƯƠNG 2
MỨC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG
2.1. Quy định pháp luật
Hiện nay, các quy định về mức BTTH do tai nạn lao động được quy định
làm căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Cụ thể như sau:
“Hiện nay, từ 01/01/2018, người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng và người lao động nước ngoài vào
làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc giấy phép hành nghề do cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp sẽ phải tham gia bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trường hợp người lao động giao kết
hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động thì người sử dụng lao động
phải đóng bảo hiểm bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo từng
hợp đồng lao động đã giao kết nếu người lao động thuộc đối tượng phải tham gia
bảo hiểm xã hội bắt buộc. Đối với mức bồi thường thì xuất phát từ mức trích
đóng: Người sử dụng lao động đóng: 0,5% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng
bảo hiểm xã hội của người lao động. Trong đó, trách nhiệm của người sử dụng
lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:”9
“1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao động và
phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho người lao động bị tai nạn
lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;
2. Thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định
cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp như sau:
9 https://kiemsat.vn/tu-01-01-2018-hdld-tu-du-1-thang-tro-len-phai-dong-bhxh-bat-buoc-46612.html
19. 15
a) Thanh toán phần chiphí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong
danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y
tế;
b) Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với người lao động không tham gia
bảo hiểm y tế;
3. Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động;
4. Bồi thường tai nạn lao động, trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp
5. Giới thiệu để người lao động được giám định y khoa xác định mức độ suy
giảm khả năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng lao
động theo quy định pháp luật;
6. Lập hồ sơ hưởng chế độ về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ
bảo hiểm bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
7. Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe người lao động sau khi điều trị,
phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc…”10
“Trách nhiệm trợ cấp, bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường tai nạn lao động cho người
lao động khi bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp làm suy giảm khả năng lao
động từ 5% trở lên khi thuộc trường hợp sau:
- Bị tai nạn lao động không do lỗi của người lao động;
- Bị tai nạn lao động khi thực hiện nhiệm vụ hoặc tuân theo sự điều hành
của người sử dụng lao động ở ngoài phạm vi cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức,
10 http://www.congdoan.vn/cong-nhan-hoi-cong-doan-tra-loi/boi-thuong-tai-nan-lao-dong-3329.tld (khoản 2 Điều
38 Luật an toàn vệ sinh lao động 2015
20. 16
hợp tác xã, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người
gây ra tai nạn;”11
* Mức bồi thường:
“Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng
lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy
giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;
Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao
động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp;”12
2.2. Thực tiễn áp dụng về mức bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động
“Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là những sự kiện khách quan, nằm
ngoài mong muốn của NLĐ và NSDLĐ. Ngay cả trong trường hợp các bên (nhà
nước, NSDLĐ, NLĐ) đã thực hiện đúng, đầy đủ các yêu cầu về an toàn lao
động, vệ sinh lao động thì cũng có thể giảm thiểu đến mức thấp nhất các yếu tố
độc hại, nguy hiểm chứ không thể loại bỏ hoàn toàn tai nạn lao động hay bệnh
nghề nghiệp. Do đó, NSDLĐ phải thực hiện đầy đủ các biện pháp nhằm giảm
thiểu hậu quả của tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và bù đắp thiệt hại cho
NLĐ. Trên thực tế, những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp ở nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực khai
thác khoáng sản, xây dựng có chiều hướng gia tăng. Theo báo cáo của 63/63
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, năm 2019 trên toàn quốc đã xảy ra 8.150
vụ tai nạn lao động làm 8.327 người bị nạn.”13
11 http://www.congdoan.vn/cong-nhan-hoi-cong-doan-tra-loi/boi-thuong-tai-nan-lao-dong-3329.tld (khoản 2 Điều
38 Luật an toàn vệ sinh lao động 2015
12 http://www.congdoan.vn/cong-nhan-hoi-cong-doan-tra-loi/boi-thuong-tai-nan-lao-dong-3329.tld (khoản 2 Điều
38 Luật an toàn vệ sinh lao động 2015
13 http://laodongxahoi.net/tai-nan-lao-dong-chet-nguoi-giam-trong-nam-2019-1315031.html
21. 17
Một số vụ tai nạn lao động nghiêm trọng như: vụ tai nạn lao động ở Đồng
Nai khi bức tường cao hơn 10 m, dài 100 m đang xây dựng trong KCN Giang
Điền bất ngờ sập đè chết 10 công nhân, 15 người bị thương vào tháng 5/2020.
Vụ TNLĐ ở Việt Nam vào ngày 22/2 tại công trường đang thi công của Công ty
trách nhiệm hữu hạn Polytex, tổ thi công xây dựng đang làm việc trên cẩu tháp
thì bất ngờ chân trụ cầu tháp bị gãy, cầu tháp đổ xuống đất làm 3 công nhân tử
vong. Thực tiễn thực hiện việc bồi thường thiệt hại cho NLĐ đang gặp một số
khó khăn: Hiện nay Bộ luật lao động hiện hành cũng như một số văn bản hướng
dẫn chưa quy định rõ các tai nạn nào được coi là tai nạn lao động, tai nạn lao
động có bao gồm tất cả những tai nạn giao thông hay không. Ngoài ra, các mức
bồi thường về TNLĐ còn thấp so với thực tế. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1
Điều 39 Luật BHXH, một tai nạn được xem là tai nạn lao động khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây: tại nơi làm việc và trong giờ làm việc; ngoài nơi
làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của
NSDLĐ; và trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng
thời gian và tuyến đường hợp lý. Trên thực tế thì TNLĐ có mức bồi thường thấp
theo quy định của BLLĐ 2012 về mức BTTH về TNLĐ tại Điều 145, Điều 38
Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 đã quy định rõ chi tiết. Điều này trong
thực tế đã có các vụ án áp dụng các quy định về mức BTTH do TNLĐ gây ra, có
thể kể đến một số vụ việc điển hình sau:
2.2.1. Bản án thứ nhất
* Nội dung bản án
Bản án số 644/2018/LĐ-PT của TAND thành phố Hồ Chí Minh xét xử về
tranh chấp BTTH về TNLĐ giữa nguyên đơn: Ông Trần Xuân T – sinh năm
1987 (có mặt). Địa chỉ: D18/52 ấp 4 xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh và
Bị đơn: Công ty Cổ phần Sản xuất N. Địa chỉ trụ sở: 95 đường P, phường P,
22. 18
quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung: Từ ngày 15/09/2013 ông T bắt đầu
vào làm việc tại Công ty Cổ phần Sản xuất N (sau đây gọi tắt là Công ty N) với
mức lương 6.000.000 đồng/tháng, hai bên không có ký hợp đồng lao động và
Công ty N không đóng bảo hiểm xã hội hay bất cứ khoản nào khác cho ông T.
Khoảng 15 giờ ngày 06/02/2016 tại xưởng sản xuất thuộc Chi nhánh của Công ty
N (Địa chỉ: F9/68D ấp 6, xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh) khi ông T
đang thử máy chuyền nhựa thì vật liệu bị kẹt trong máy, ông T vào sửa chữa thì
bị máy cuốn găng tay mà T đang đeo (găng tay là vật dụng bảo hộ lao động bắt
buộc phải đeo) và máy cuốn luôn cánh tay phải của T. Do sức hút và sức ép của
máy quá lớn nên cánh tay phải của ông T đã bị dập nát, phải nhập viện điều trị
cắt cánh tay để giữ tính mạng (tỉ lệ thương tật 65%). Sau khi bị tai nạn, Công ty
N có hỗ trợ cho ông T 16.400.000 đồng (bao gồm tiền viện phí, tiền thuốc…).
Ông T nhiều lần yêu cầu Công ty N bồi thường nhưng Công ty N đã từ chối.
Ngày 04/08/2016 Công ty cho ông T nghỉ việc không lý do. Ông T yêu cầu Công
ty N bồi thường thiệt hại khi xảy ra tai nạn lao động theo quy định của Bộ luật
Lao động hiện hành và hỗ trợ do bị suy giảm 65% khả năng lao động là
141.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi mốt triệu đồng). Yêu cầu Công ty N trả
khoản tiền tương ứng (tiền trợ cấp) với chế độ tai nạn lao động theo quy định của
Luật Bảo hiểm xã hội (do Công ty N chưa đóng bảo hiểm xã hội cho cơ quan bảo
hiểm xã hội) khi bị suy giảm khả năng lao động 65% là 56.400.000 đồng (Năm
mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng). Yêu cầu Công ty N thanh toán tiền lương
từ khi Công ty N cho ông T nghỉ việc tính đến ngày xét xử sơ thẩm là
84.000.000 đồng (Tám mươi bốn triệu đồng). Kết quả giải quyết vụ án: chấp
nhận kháng cáo một phần của ông T yêu cầu công ty hỗ trợ tiền suy giảm khả
năng lao động cho ông và giao cho TAND cấp huyện xử lý lại”.14
14 congbobanan.toaan.gov.vn
23. 19
* Bình luận bản án
Theo quy định của BLLĐ 2012, nay là BLLĐ 2019 (có hiệu lực từ
01/01/2021) thì theo bản án trên có thể nhận thấy một số vấn đề liên quan đến
mức bồi thường thì vai trò quan trọng của mức suy giảm khả năng lao động là vô
cùng quan trọng. Trong vụ việc trên theo trên thì ông N được tính toán mức bồi
thường được thực hiện theo quy định tại Điều 3 Thông tư 04/2015/TT-
BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện chế độ bồi thường, trợ cấp và chi phí y tế của
người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành về hướng
dẫn việc thực hiện chế độ bồi thường và trợ cấp đối với người lao động bị tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp thì mức bồi thường tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp theo quy định nêu trên được tính như sau:
- Việc bồi thường đối với người lao động bị tai nạn lao động được thực hiện
từng lần. Tai nạn lao động xảy ra lần nào thực hiện bồi thường lần đó, không
cộng dồn các vụ tai nạn đã xảy ra từ các lần trước đó; Việc bồi thường đối với
người lao động bị bệnh nghề nghiệp được thực hiện từng lần theo quy định sau:
+ Lần thứ nhất căn cứ vào mức (%) suy giảm khả năng lao động (tỷ lệ tổn
thương cơ thể) trong lần khám đầu;
+ Từ lần thứ hai trở đi căn cứ vào mức (%) suy giảm khả năng lao động
tăng lên để bồi thường phần chênh lệch mức (%) suy giảm khả năng lao động so
với kết quả giám định lần trước liền kề.
- Mức bồi thường đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp quy
định tại Điểm a, b Khoản 1 Điều này được tính như sau:
+ Ít nhất bằng 30 tháng tiền lương đối với người lao động bị suy giảm khả
năng lao động từ 81% trở lên hoặc bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
24. 20
+ Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương đối với người bị suy giảm khả năng lao
động từ 5% đến 10%; nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80% thì cứ
tăng 1% sẽ được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương theo công thức dưới đây hoặc
tra theo bảng tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Thông tư này:
Tbt = 1,5 + {(a - 10) x 0,4}
Trong đó:
- Tbt: Mức bồi thường cho người bị suy giảm khả năng lao động từ 11% trở
lên (đơn vị tính: tháng tiền lương);
- 1,5: Mức bồi thường khi suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%;
- a: Mức (%) suy giảm khả năng lao động của người bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp;
- 0,4: Hệ số bồi thường khi suy giảm khả năng lao động tăng 1%.
Trên thực tế thì tác giả cho rằng trong bản án trên đã tính toán đầy đủ khả
năng lao động của ông N. Tuy nhiên, trong thực tế thì việc tính toán các khoản
mà công ty phải thanh toán cho người lao động khi xảy ra tai nạn lao động được
quy định tại Điều 145, Bộ luật Lao động 2012 và Điều 38, Luật An toàn Vệ sinh
Lao động 2015. Theo đó, ngoài những khoản tiền lương, chi phí y tế,… công ty
sẽ phải bồi thường hoặc trả trợ cấp cho người lao động tùy theo việc xác định lỗi
của người lao động khi xảy ra tai nạn lao động, cụ thể: Nếu tai nạn xảy ra không
do lỗi của người lao động, hoặc có một phần lỗi của người lao động, người lao
động được công ty bồi thường. Mức bồi thường căn cứ vào mức suy giảm khả
năng lao động được tính toán như sau:
25. 21
Mức suy giảm Mức bồi thường
1 Dưới 5% Không phải bồi thường
2 Từ 5% đến 10% 1,5 tháng lương
3 Từ 11 đến 80% 1,5 tháng lương cho 10%
đầu tiên
+ 0,4 tháng tiền lương
cho 1% tăng thêm thính
từ tỷ lệ 11
4 Từ 81% trở lên hoặc NLĐ chết 30 tháng tiền lương
B. Nếu tai nạn xảy ra hoàn toàn do lỗi của người lao động, người lao động
được công ty trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức bồi thường nêu trên
(tương ứng với tỷ lệ suy giảm khả năng lao động). Song có thể nhận thấy một
điều việc xác định 1,5 tháng lương hiện nay còn thấp. Trong khi đó, việc đối với
khả năng suy giảm khả năng lao động của NLĐ phải ảnh hưởng đến cuộc sống
của NLĐ. Do đó, cần thiết xem xét tăng 1.5 tháng lương cơ bản đám bảo cho
quyền và lợi ích của NLĐ trong thực tế.
* Kiến nghị hoàn thiện
Để đảm bảo cho quá trình thực hiện các quy định về mức bồi thường cần
phải hoàn thiện các cơ sở pháp lý bồi thường tai nạn lao động đó là từ Bộ luật
lao động 2012, Luật an toàn vệ sinh lao động 2015, Luật bảo hiểm xã hội 2014
và các Thông tư, Nghị định hướng dẫn việc bồi thường tai nạn lao động. Trên cơ
sở đó cần hoàn thiện về mức bồi thường được tính toán thông qua các giải pháp
như sau:
26. 22
Thứ nhất, cần hoàn thiện về đối tượng được hưởng tai nạn lao động mặc dù
đối tượng được hưởng tai nạn lao động được pháp luật quy định hiện giờ rất
rộng, nhưng cần hạn chế một số đối tượng và mở rộng thêm một số đối tượng để
việc hưởng bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động được chính xác hơn, tránh những
trường hợp cố tình bị tai nạn lao động để được hưởng các chế độ bảo hiểm mà
trên thực tế đã xãy ra.
Thứ hai, Mức hưởng tai nạn lao động cần phải cập nhật và thay đổi hàng
năm vì như chúng ta đã biết có những quy định quá cũ không còn phù hợp với
tình hình kinh tế xã hội tại thời điểm hiện tại nữa. Trên cơ sở đó phải có sự linh
động về mức lương được hưởng và căn cứ hưởng qua các năm mà không có sự
phụ thuộc vào một hệ số cụ thể. Đồng thời, có thể nhận thấy rằng cùng với sự
phát triển của nền kinh tế - xã hội thì vai trò quan trọng của tiền lương giữ vai trò
chủ yếu. Các chính sách về lương của NLĐ luôn được Đảng và Nhà nước chỉnh
sửa phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, có một số vấn đề có liên quan đến
tiền lương như mức khởi điểm để tính toán trong hoạt động trong TNLĐ luôn
được chú trọng. Tuy nhiên, đối với hệ số lương tính toán cho giải quyết cho vấn
đề suy giảm khả năng lao động cho NLĐ trong thực tế đã và đang cần thiết được
đổi mới để đáp ứng với yêu cầu của NLĐ khi bị TNLĐ.
2.2.2. Vụ thứ hai
* Nội dung bản án: Bản án số 22/2017/LĐ-PT của TAND tỉnh ĐỒng Nai
giữa Nguyên đơn: Ông Vũ Văn M, sinh năm 1970; cư trú tại: khu phố A, phường
L, thành phố N, tỉnh Đồng Nai. Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn D; địa chỉ
tại: khu công nghiệp E, huyện B, tỉnh Đồng Nai. Nội dung: Trước khi làm việc
cho Công ty trách nhiệm hữu hạn D (sau đây gọi tắt là Công ty D), ông Vũ Văn
M (sau đây gọi tắt là ông M) đã bị tai nạn lao động với tỷ lệ suy giảm khả năng
lao động là 31% và đang được hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động hàng tháng
27. 23
là 460.000đ. Năm 2012, ông M vào làm việc tại Công ty D và bị tai nạn lao động
lần 2. Ngày 28/11/2012, Hội đồng giám định y khoa tỉnh Đồng Nai ban hành
biên bản giám định tổng hợp lao động số 08/BB-GĐYK về việc giám định mức
độ suy giảm khả năng lao động tổng hợp của ông M là 52% vĩnh viễn (sau đây
gọi tắt là biên bản giám định tổng hợp tai nạn lao động số 08/BB-GĐYK ngày
28/11/2012). Tuy nhiên, từ thời điểm đó đến nay Công ty D không làm văn bản
đề nghị giải quyết chế độ tai nạn lao động cho ông M nên đã gây thiệt hại cho
ông M hàng tháng không được nhận số tiền hưởng trợ cấp mới là 392.717đ, tính
từ tháng 12/2012 đến tháng 4/2017 là 52 tháng. Căn cứ vào khoản 2 Điều 43
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, ông M khởi kiện yêu cầu Công ty D phải bồi
thường trợ cấp tai nạn lao động là 20.421.000đ, ngoài ra ông M không yêu cầu gì
khác. Mức hưởng trong vụ án này được tính toán như sau:
Ông M bị suy giảm 31% thì được hưởng 30% mức lương tối thiểu chung,
21% còn lại thì hưởng 42% mức lương tối thiểu chung, tổng cộng là 72%. Ngoài
ra, ông M có hơn 3 năm tham gia bảo hiểm xã hội, nên còn được hưởng thêm số
tiền trợ cấp theo số năm đóng bảo hiểm xã hội là 1,1% x (0.5% + 0.6%) x
2.223.000đ = 24.453đ/tháng (mức lương của ông M trước khi nghỉ việc là
2.223.000đ/tháng). Từ tháng 12/2012 đến tháng 4/2017 là 52 tháng, cụ thể số
tiền ông M được trợ cấp bồi thường tai nạn lao động như sau: Từ tháng 12/2012
đến tháng 6/2013 là 7 tháng: 72% x 1.050.000đ x 7 – 7 x 460.000đ = 2.072.000đ
(mức lương tối thiểu chung là 1.050.000đ/tháng theo Nghị định số 31/2012/NĐ-
CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ); Từ tháng 7/2013 đến tháng 4/2016 là 33
tháng: 72% x 1.150.000đ x 33 - 33 x 460.000đ = 12.144.000đ (mức lương tối
thiểu chung là 1.150.000đ/tháng theo Nghị định số 66/2013/NĐ-CP ngày
27/6/2013); Từ tháng 5/2016 đến tháng 4/2017 là 12 tháng: 72% x 1.210.000đ x
12 - 12 x 460.000đ = 4.934.000đ (mức lương tối thiểu chung là 1.210.000đ/tháng
theo Nghị Quyết số 99/2015/NQ-QH ngày 11/11/2015 của Quốc hội). Đối với
28. 24
khoản trợ cấp theo số năm đóng bảo hiểm xã hội của ông M được tính như sau:
24.453đ x 52 tháng = 1.271.556đ. Như vậy, tổng số tiền Công ty D phải bồi
thường trợ cấp tai nạn lao động cho ông M đến hết tháng 4/2017 là 20.421.550đ.
Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn M đối với
Công ty trách nhiệm hữu hạn D về việc “tranh chấp về bồi thường trợ cấp tai nạn
lao động”. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn D phải bồi thường trợ cấp tai nạn
lao động tính đến hết tháng 4/2017 cho ông Vũ Văn M với số tiền là
20.421.550đ (hai mươi triệu bốn trăm hai mươi mốt nghìn năm trăm năm mươi
đồng).”15
* Bình luận bản án
Trong bản án trên quyền và lợi ích của NLĐ đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng
khi Công ty TNHH D không thực hiện tiền bồi thường tiền trợ cấp tai nạn lao
động cho NLĐ nói chung. Như vậy trong trường hợp này thì có chế tài nào buộc
NSDLĐ phải thực hiện chi trả cho NLĐ khi bị TNLĐ trên thực tế. Vì vậy, trong
vụ việc trên đã xảy ra tình trạng là NLĐ bị ảnh hưởng quyền lợi khi không được
thanh toán theo mức mới. Do đó, cần thiết phải có chế tài và biện pháp nhằm
hoàn thiện vấn đề thực hiện các mức bồi thường theo đúng quy định của pháp
luật.
* Kiến nghị hoàn thiện
Trên cơ sở nghiên cứu bản án trên tác giả cho rằng cần hoàn thiện quy định
cụ thể và rõ ràng về việc tiếp tục thực hiện các quy định có liên quan, cụ thể như
sau:
Một là, phải hoàn thiện các quy định về thực hiện các hoạt động BTTH do
TNLĐ cho NLĐ nói chung. Trong đó tập trungn vào việc thực hiện chế tài nhằm
15 congbobanan.toaan.gov.vn
29. 25
đảm bảo cho NSDLĐ phải thực hiện các nghĩa vụ cụ thể trong việc BTTH do
TNLĐ nói chung. Tuy nhiên, cần thiết phai nâng mức chế tài thực hiện khi
NSDLĐ không thực hiện hoặc cố tình không thực hiện về hoạt động này trong
thực tế. Chế tài này phải đảm bảo cho NSDLĐ phải tuân thủ và thực hiện
nghiêm túc trong thực tế.
Hai là, tăng cường hoạt động tuyên truyền cho NLĐ và có sự hướng dẫn cụ
thể thông qua tổ chức công đoàn về mức bồi thường khi bị TNLĐ. Trên cơ sở đó
thì NLĐ phải thực hiện các hoạt động nhằm đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu
bồi thường khả năng lao động nói chung. Tuy nhiên, việc tuyên truyền phải thực
hiện một cách bài bản và cụ thể, thông qua hoạt động tuyên truyền sẽ hình thành
thông tin đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ và NSDLĐ nói chung.
2.2.3. Vụ việc thứ ba
* Nội dung: Bản án của TAND huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai về BTTH do
TNLĐ giữa Nguyên đơn: anh Dương Tiến M, SN 1992 và bị đơn Công ty
TNHH thương mại và xuất nhập khẩu Trường Phát. Nội dung: Ngày 02/6/2014
anh Dương Tiến M có ký hợp đồng lao động với công ty TNHH thương mại và
xuất nhập khẩu Trường Phát thời hạn hợp đồng là 01 năm. Tháng 02/2015, anh
M tiếp tục ký hợp đồng với công ty thời hạn là 01 năm, mức lương thử việc
3.500.000đ, sau đó mức lương chính 4.500.000đ/tháng, các tháng đều làm thêm
ca do vậy thu nhập bình quân khoảng 6.000.000đ/tháng. Công việc là làm ở các
khâu trà, nhám, ghép ván.
Đến ngày 18/10/2015 trong lúc dọn dẹp vệ sinh quanh khu vực làm việc
anh M dọn mùn cưa đổ vào lò đốt nhưng thấy lửa ở trong lò phụt ra nên đã khiến
anh M bị bỏng nặng, đã được đưa cấp cứu tại bệnh viện Bảo Yên và bệnh viện
đa khoa tỉnh Lào Cai điều trị 14 ngày. Sau khi ra viện bố mẹ anh M đã đến gặp
lãnh đạo công ty để yêu cầu bồi thường nhưng công ty chỉ hỗ trợ 10.000.000đ,
30. 26
anh M không đồng ý với mức bồi thường do vậy đã khởi kiện ra tòa án nhân dân
huyện Bảo Yên để giải quyết yêu cầu công ty phải bồi thường số tiền
230.598.224đ ( gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức
khỏe 42.098.224đ; thu nhập thực tế bị mất từ tháng 10/2015 đến tháng 2/2017 là
16 tháng x 6.000.000đ = 96.000.000đ; chi phí người chăm sóc 32.000.000đ; bù
đắp tổn thất tinh thần 60.500.000đ). Ngày 15/12/2017 anh M đã làm đơn bổ sung
thêm yêu cầu bồi thường mức suy giảm khả năng lao động 22.950.000đ. Kết
quả: TAND chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh M, buộc công ty Công ty
TNHH thương mại xuất nhập khẩu Trường Phát. Người đại diện theo pháp luật
ông Nguyễn Ngọc T - Giám đốc công ty phải bồi thường cho anh Dương Tiến M
và bà Nguyễn Thị H số tiền 88.183.224đ (Bằng chữ: Tám mươi tám triệu một
trăm tám mươi ba nghìn hai trăm hai mươi bốn đồng), nhưng được trừ vào số
tiền công ty đã bồi thường 10.000.000đ”.16
* Bình luận
Trong vụ việc này thì NLĐ đã ký kết hợp đồng lao động đối với NSDLĐ
nhưng khi xảy ra TNLĐ thì NSDLĐ không tiến hành BTTH do TNLĐ. ĐIều này
ảnh hưởng đến NLĐ trong thực tế. Đồng thời, cần nhận thức rằng việc BTTH do
TNLĐ của NSDLĐ theo quy định của pháp luật là điều kiện bắt buộc nhằm đảm
bảo nghĩa vụ của NSDLĐ khi sử dụng lao động trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh nói chung.
* Kiến nghị hoàn thiện
Thứ nhất, đối với Bộ luật lao động 2012 thì muốn hoàn thiện chế định bồi
thường tai nạn lao động thì cần phải hoàn thiện các quy định về thủ tục được
hưởng trợ cấp của người lao động khi bị tai nạn lao động.
16 congbobanan.toaan.gov.vn
31. 27
Thứ hai, Luật an toàn vệ sinh lao động 2015 cần phải có những quy định về
an toàn, vệ sinh lao động chặt chẽ hơn, cụ thể hơn. Thứ năm, Hoàn thiện các cơ
sở của Luật bảo hiểm xã hội với mục đích đem lại cho người lao động bị tai nạn
lao động có những mức bồi thường hợp lý và đảm bảo cuộc sống sau khi gặp tai
nạn lao động.
Thứ ba, các quy định về bồi thường tai nạn cần được quy định theo hướng
linh hoạt về mức đóng, có thể dao động từ 1% đến 2% tổng quỹ lương và sẽ
được định kỳ xem xét lại tuỳ theo nguy cơ về an toàn của mỗi ngành nghề để
đảm bảo tính công bằng. Cần bổ sung các quy định về xử phạt do không thực
hiện tốt công tác an toàn vệ sinh lao động dẫn đến nhiều tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp. Về tỷ lệ đóng nên điều chỉnh theo hướng xây dựng tỷ lệ đóng bảo
hiểm dựa trên căn cứ ngành nghề. Không tổ chức huấn luyện an toàn, vệ sinh lao
động; không trang bị phương tiện bảo hộ cho người lao động. Tổ chức huấn
luyện an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động (NLĐ), kiểm tra định kỳ về
kỹ thuật an toàn đối với máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt, xây dựng kế
hoạch AT-VSLĐ, thực hiện khám sức khỏe định kỳ cho NLĐ, trang bị phương
tiện bảo hộ lao động; khai báo khi xảy ra TNLĐ… Cần có chế tài xử phạt tương
xứng với mức độ vi phạm, đồng thời công tác thanh tra, kiểm tra cần tăng cường
hơn nữa
Kết luận chung
Từ thực tiễn thi hành nhận thức được việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế
- xã hội và khả năng điều chỉnh pháp luật trong từng thời kỳ. Trong thời gian tới,
một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về mức bồi thường TNLĐ ở
Việt Nam được đặt ra là:
32. 28
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy phạm pháp luật về bảo vệ
quyền lợi của NLĐ nói chung và mức bồi thường TNLĐ nói riêng. Cụ thể, trong
việc hoàn thiện quy định pháp luật cũng như công tác thực hiện thì NLĐ phải ký
kết các HĐLĐ có các điều khoản quy định rõ ràng về BTTH khi bị TNLĐ nói
chung. Đây là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp nói chung.
Thứ hai, hoàn thiện quy định pháp luật về vai trò của cơ quan quản lý nhà
nước chuyên ngành đối với mức bồi thường TNLĐ trong thực tế. Trong lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh thì vai trò quản lý của các cơ quan trong thực hiện quyền
của NLĐ là điều vô cùng quan trọng. Các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi NLĐ trong
phạm vi cả nước, trong đó có hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp
luật về lao động nói chung. Vì vậy, để bảo vệ tốt hơn mức bồi thường TNLĐ,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này cần phải được không ngừng
tăng cường, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, bảo
đảm hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước về quản lý lao động, phát hiện
các hành vi sai phạm trong hoạt động QLTT nói chung và thực hiện quyền lợi
của NLĐ nói riêng. Từ đó cũng kịp thời tham mưu, đề xuất với cơ quan có thẩm
quyền hoàn thiện những “khoảng trống” của pháp luật mức bồi thường TNLĐ
trong thực tế. Mặt khác, pháp luật hiện hành không quy định việc Nhà nước về
mức bồi thường TNLĐ cần mang tính thống nhất, cần hoàn thiện các quy định
về quy trình và cơ chế “hậu kiểm” của cơ quan quản lý nhà nước để kịp thời phát
hiện và xử lý hành vi vi phạm, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ
chức, cá nhân nói chung nhằm đề cao vai trò, trách nhiệm của các doanh nghiệp
trong bảo đảm an toàn cho NLĐ.
Thứ ba, nhằm thực hiện tốt, có hiệu quả bảo vệ quyền lợi LNĐ trong quá
trình sản xuất, kinh doanh thì Luật an toàn, vệ sinh lao động 2015 nên quy định
33. 29
trách nhiệm của doanh nghiệp là nghĩa vụ bắt buộc và nếu trường hợp doanh
nghiệp nếu có hành vi vi phạm pháp luật về nghĩa vụ bảo hành cần thiết phải bị
xử phạt về hành vi này, nhằm ràng buộc trách nhiệm đối với an toàn lao động
nhằm thống nhất quản lý lao động và bảo vệ tốt hơn cho NLĐ.
Từ đó, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của mọi chủ thể trong việc bảo vệ
quyền lợi của NLĐ trong hoạt động sản xuất kinhd oanh. Vấn đề nâng cao nhận
thức và ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền lợi của NLĐ nói chung
là vấn đề trọng tâm và cần thường xuyên quan tâm. Trong quá trình thực thi
pháp luật, các công việc liên quan đến tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải
được tăng cường với nhiều hình thức phong phú, đa dạng để nâng cao nhận thức,
hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp nói chung, những
người có quyền và nghĩa vụ liên quan nói riêng.
34. 30
CHƯƠNG 3
QUY TRÌNH BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO
ĐỘNG
3.1. Quy định pháp luật
“Căn cứ theo quy định tại Điều 12 Nghị định 45/2013/NĐ-CP hướng dẫn
Bộ luật lao động thời giờ làm việc nghỉ ngơi và Thông tư 14/2016/TT-BYT
hướng dẫn Luật bảo hiểm xã hội thuộc lĩnh vực y tế có quy định cụ thể như sau:
Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào
của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động,
gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động, kể cả trong thời gian
nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt, tấm rửa,
cho con bú, đi vệ sinh, chuẩn bị và kết thúc công việc tại nơi làm việc.Tai nạn
được coi là tai nạn lao động là tai nạn xảy ra tại địa điểm và thời gian hợp lý khi
người lao động đi từ nơi ở đến nơi làm việc, từ nơi làm việc về nơi ở. Sự cố
nghiêm trọng là tai nạn xảy ra trong quá trình lao động (không bao gồm tai nạn
lao động) gây thiệt hại lớn về tài sản của người lao động, người sử dụng lao
động.”17
Hai là, hồ sơ hưởng chế độ tai nạn lao động gồm những văn bản: Tại điều
57 Luật an toàn vệ sinh lao động 2015 có quy định cụ thể như sau:
“Điều 57. Hồ sơ hưởng chế độ tai nạn lao động
1. Sổ bảo hiểm xã hội.
2. Giấy ra viện hoặc trích sao hồ sơ bệnh án sau khi đã điều trị tai nạn lao
động đối với trường hợpnội trú.
17 https://luatminhkhue.vn/thu-tuc-giai-quyet-tai-nan-lao-dong-va-cac-quyen-loi-ma-nguoi-lao-dong-duoc-huong-
-.aspx
35. 31
3. Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng giám
định y khoa.
4. Văn bản đề nghị giải quyết chế độ tai nạn lao động theo mẫu do Bảo
hiểm xã hội Việt Nam ban hành sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội.”18
Như vậy, bạn cần chuẩn bị hồ sơ như đã nêu ở Điều 57 đã nêu ở trên để làm
thủ tục hưởng chế độ tai nạn lao động theo đúng quy định của Pháp Luật hiện
hành.
Ba là, thủ tục, hồ sơ, chứng từ liên quan tới tai nạn lao động: Căn cứ theo
Điều 144 Bộ luật lao động số 10/2012/QH13 quy định trách nhiệm các doanh
nghiệp như sau:
“Điều 144. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
1. Thanhtoán phần chiphí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong
danh mụcdo bảo hiểm y tế chi trả đối với ngườilao động tham gia bảo hiểm y tế
và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định
đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế.
2. Trả đủ tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị.
3. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
theo quy định tại Điều 145 của Bộ luật này."19
Như vậy, nếu công ty không đồng ý chi trả cũng như hỗ trợ thì nhà bạn cần
làm đơn yêu cầu công ty giải quyết, trong trường hợp công ty không giải quyết
thì NLĐ có quyền khởi kiện ra Tòa án cấp huyện nơi công ty có trụ sở để yêu
18 điều 57 Luật an toàn vệ sinh lao động 2015
19 Điều 144 BLLĐ 2019
36. 32
cầu được giải quyết. Vì trường hợp của NLĐ không cần phải qua thủ tục hòa giải
viên.Tiền bảo hiểm chi trả cho tai nạn lao động.
Căn cứ Điều 104 Luật bảo hiểm xã hội 2014 quy định về hồ sơ hưởng chế
độ tai nạn lao động:
“1. Sổ bảo hiểm xã hội.
2. Biên bản điều tra tai nạn lao động, trường hợp bị tai nạn giao thông
được xác định là tai nạn lao động thì phải có thêm biên bản tai nạn giao thông
hoặc biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao
thông.
3. Giấy ra viện sau khi đã điều trị tai nạn lao động.
4. Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng giám
định y khoa.
5. Văn bản đề nghị giải quyết chế độ tai nạn lao động“.20
“Căn cứ Điều 14 Quyết định số 01/2014/QĐ-BHXH ngày 03/01/2014 về hồ
sơ giải quyết hưởng chế độ tai nạn lao động được hướng dẫn cụ thể như sau:
“1. Sổ bảo hiểm xã hội.
2.Văn bản đề nghị giải quyết chế độ tai nạn lao động của người sử dụng lao
động (mẫu số 05A-HSB).
3. Biên bản điều tra tai nạn lao động theo quy định.
4. Giấy ra viện (bản chính hoặc bản sao) sau khi đã điều trị thương tật tai
nạn lao động ổn định đối với trường hợp điều trị nội trú hoặc giấy tờ khám, điều
trị thương tật ban đầu đối với trường hợp điều trị ngoại trú.
20 Xem điều 104 Luật Bảo hiểm xã hội 2015
37. 33
5. Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám
định y khoa.
6. Trường hợp bị tai nạn giao thông được xác định là tai nạn lao động thì có
thêm một trong các giấy tờ sau:
6.1. Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao
thông (bản sao).
6.2. Biên bản tai nạn giao thông của cơ quan công an hoặc cơ quan điều tra
hình sự quân đội (bản sao)”.21
Hồ sơ hưởng chế độ tai nạn lao độn thì bạn cần chuẩn bị những giấy tờ theo
quy định tại Điều 104 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và Điều 14 Quyết định số
01/2014/QĐ-BHXH ngày 3 tháng 01 năm 2014.
Ngoài ra, thời hạn giải quyết chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì
căn cứ Điều 106 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định:
“1. Người sử dụng lao động nộp hồ sơ cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo
quy định tại Điều 104 và Điều 105 của Luật này.
2. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan bảo hiểm xã
hội có trách nhiệm giải quyết hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
trường hợp không giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do”.22
Sau khi điều trị ổn định, NLĐ có thể yêu cầu công ty cấp giấy giới thiệu đi
giám định suy giảm khả năng lao động. Sau khi có kết quả giám định bạn vui
lòng nộp đầy đủ hồ sơ lên cho người sử dụng lao động. Trong thời hạn 15 ngày
nhận đủ hồ sơ, cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm giải quyết hưởng chế độ
tai nạn lao động.
21 Điều 14 Quyết định số 01/2014/QĐ-BHXH ngày 03/01/2014 về hồ sơ giải quyết hưởng chế độ tai nạn lao động
22 Điều 106 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014
38. 34
NLĐ sẽ được giám định mức suy giảm khả năng lao động theo quy định tại
khoản 1 Điều 45 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014:
“Điều 45. Giám định mức suy giảm khả năng lao động
1. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định
hoặc giám định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Sau khi thương tật, bệnh tật đã được điều trị ổn định;
b) Sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định.
....”23
Vậy, sau khi điều trị ổn định, NLĐ có thể làm thủ tục giám định mức suy
giảm khả năng lao động để xem xét xin hưởng chế độ tai nạn lao động nếu đủ
điều kiện theo quy định trên.
Hồ sơ, thủ tục giám định lần đầu được hướng dẫn quy định tại khoản 1 Điều
5 Thông tư số 07/2010/TT-BYT hướng dẫn việc giám định mức suy giảm khả
năng lao động của người lao động tham gia bảo hiểm bắt buộc như sau:
“– Hồ sơ giám định thương tật lần đầu do tai nạn lao động:
Giấy giới thiệu của người sử dụng lao động theo mẫu quy định tại Phụ lục
số 1 ban hành kèm theo Thông tư này;
Biên bản Điều tra tai nạn lao động theo mẫu quy định hiện hành. Trường
hợp bị tai nạn giao thông được xác định là tai nạn lao động thì có thêm bản sao
Biên bản tai nạn giao thông;
Giấy chứng nhận thương tích do cơ sở y tế (nơi đã cấp cứu, điều trị cho
người lao động) cấp theo quy định của Bộ Y tế (bản sao) .
23 khoản 1 Điều 45 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014
39. 35
Giấy ra viện theo quy định của Bộ Y tế (bản sao). Trường hợp người lao
động không nằm điều trị nội trú thì phải có giấy tờ về khám, điều trị thương tật
do tai nạn lao động.
Khi đến giám định, người lao động phải xuất trình bản gốc những giấy tờ
trên để Hội đồng GĐYK đối chiếu.“
– Thủ tục giám định thương tật lần đầu do tai nạn lao động:
Người lao động và người sử dụng lao động cùng có trách nhiệm lập, hoàn
chỉnh hồ sơ, chuyển hồ sơ đến Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp
trung ương. Sau khi tiếp nhận hồ sơ giám định y khoa:
– Nếu hồ sơ giám định không hợp lệ, trong thời gian 15 ngày làm việc, Hội
đồng Giám định Y khoa cấp tỉnh hoặc cấp trung ương có trách nhiệm trả lời
bằng văn bản cho cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu giám định biết.
– Nếu hồ sơ giám định hợp lệ, trong thời gian 30 ngày, Hội đồng Giám định
Y khoa cấp tỉnh hoặc cấp trung ương có trách nhiệm tiến hành khám giám định
cho người lao động.”24
Như vậy, thủ tục hồ sơ giám định y khoa chỉ yêu cầu Giấy chứng nhận
thương tích do cơ sở y tế (nơi đã cấp cứu, điều trị cho người lao động) cấp, Giấy
ra viện do cơ sở y tế cấp. Trường hợp không điều trị nội trú, không có giấy ra
viện thì mới phải sử dụng sổ khám chữa bệnh. Do đó, yêu cầu của công ty là
không phù hợp. Và để đảm bảo quyền lợi của mình, NLĐ có thể khiếu nại lên
Giám đốc công ty, Công đoàn hoặc Phòng lao động – thương binh và xã hội.
3.2. Thực tiễn áp dụng quy trình bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động
trong thực tiễn
3.2.1. Bản án thứ nhất
24 Hồ sơ, thủ tục giám định lần đầu được hướng dẫn quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư số 07/2010/TT-BYT
40. 36
Trên thực tế thì các vụ án tranh chấp về bồi thường thiệt hại do TNLĐ
chiếm số lượng khá thấp so với các vụ việc xảy ra tại doanh nghiệp. Đồng thời,
các vụ việc này cũng xảy ra ít trên thực tế tại địa phương. Trên cơ sở đó thì các
cơ quan xét xử như TAND, VKSND đã vận dụng các quy định của Bộ luật lao
động để giải quyết các yêu cầu về bồi thường thiệt hại do TNLĐ, góp phần khắc
phục những tổn thất mà người bị hại phải gánh chịu, giúp họ ổn định cuộc sống,
duy trì hoạt động bình thường của sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, Bộ luật lao
động 2012 cũng mới quy định những vấn đề chung nhất, còn việc giải quyết vụ
thể từng vụ án như thế nào thì cách vận dụng khác nhau, thiếu nhất quán, chưa
có sự thống nhất, mỗi Thẩm phán giải quyết theo một cách, do đó quyền và lợi
íchhợp pháp của mỗi chủ thể chưa được đảm bảo. Đối với thực tiễn áp dụng các
quy định về BTTH trong thực tế do TNLĐ như 03 bản án tác giả đã đề cập thì
trong đó có bản án số 644/2018/LĐ-PT của TAND thành phố Hồ Chí Minh xét
xử về tranh chấp BTTH về TNLĐ giữa nguyên đơn: Ông Trần Xuân T – sinh
năm 1987 (có mặt). Địa chỉ: D18/52 ấp 4 xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí
Minh và Bị đơn: Công ty Cổ phần Sản xuất N. Địa chỉ trụ sở: 95 đường P,
phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình xét xử của vụ án đã nêu
rõ: Vào chiều ngày 05/02/2016 (27 Tết âm lịch) sau khi dự tất niên ông Nguyễn
Quang V là con ruột của bà Phạm Thị Đ - Giám đốc Công ty Cổ phần Sản xuất
N thường trú ngay tại khu nhà xưởng của công ty số F9/68D ấp 6, xã H, huyện B
có yêu cầu các ông Trần Xuân T, Lý D, Trịnh Văn Q sang ngày hôm sau
06/02/2016 (28 Tết âm lịch) vào khu xưởng sản xuất vận hành thử máy ép nhựa
để bảo đảm máy chạy tốt ra tết cho công nhân làm việc. Xuất phát từ đề nghị
trên, các ông đến thử máy thì xảy ra tai nạn lao động. Theo ông T cùng ông D và
Q thì do cả nể ông V là con trai của giám đốc, có mối quan hệ thân tình thường
ngày nên các ông thực hiện công việc theo yêu cầu; đồng thời sau khi xảy ra tai
nạn ông V cũng phối hợp đưa ông T đi bệnh viện cấp cứu. Trường hợp này, cho
41. 37
dù ông Nguyễn Quang V không nắm giữ nhiệm vụ gì trong Công ty nhưng khi
giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm chỉ triệu tập ông V đến tòa để cung cấp lời
khai mà không đưa ông V tham gia tố tụng với tư cách Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án để làm rõ động cơ và chịu trách nhiệm về dân sự
(nếu có) là không đầy đủ. Nếu xác định đúng ông Nguyễn Quang V là người đã
có yêu cầu hoặc điều động các công nhân T, D, Q vào xưởng máy vận hành
chiều ngày 06/2/2016 để tai nạn lao động xảy ra thì ông V phải liên đới trách
nhiệm cùng Công ty N bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Mặt khác, khi
giải quyết vụ việc tranh chấp này Tòa án cấp sơ thẩm không vận dụng đầy đủ các
văn bản hướng dẫn pháp luật về lao động có liên quan đến tai nạn lao động và
trách nhiệm bồi thường của người sử dụng lao động đã được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền ban hành; gồm:
+ Quy định tại Điều 12, Điều 13 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày
10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Bộ Luật lao động về thời gian làm việc, nghỉ ngơi và an toàn lao động.
+ Văn bản hướng dẫn về việc bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động được qui định tại Điều 3, 4, 6 Thông tư số
04/2015/TTBLĐ-TB-XH ngày 12/02/2015 của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội; dẫn đến quyền lợi của người lao động chưa được bảo đảm. Từ phân tích và
nhận định trên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Khi giải quyết vụ án Tòa án
cấp sơ thẩm đã có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng dân sự mà cấp
phúc thẩm không thể khắc phục được; tại phiên tòa phúc thẩm người sử dụng lao
động - Công ty Cổ phần Sản xuất N bị đơn trong vụ án không có thiện chí hòa
giải theo yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, để bảo đảm việc giải quyết vụ án theo
đúng quy định của pháp luật Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần phải xử
hủy toàn bộ bản án lao động sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B như đề nghị
42. 38
Đại diện Viện kiểm sát Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa. Giao hồ sơ
về Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành xét xử lại vụ án theo thủ tục chung . Do đó
đã ảnh hưởng đến trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc.
* Bình luận bản án
Hiện nay, đối với bản án trên thì nhận thấy trong bản án nổi bật lên tranh
chấp có liên quan đến hoạt động về bồi thường hoặc không bồi thường thiệt hại
về TNLĐ mà không đề cập đến thủ tục về giải quyết bồi thường. Tác giả cho
rằng cần thiết phải nghiên cứu và yêu cầu đối với vấn đề trình tự thủ tục thanh
toán tiền TNLĐ cho NLĐ. Đây là căn cứ pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích của
NLĐ khi bị TNLĐ trên thực tế.
* Kiến nghị hoàn thiện
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật lao động về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do TNLĐ được BLLĐ 2019 nhằm tạo ra môi trường và điều kiện bảo vệ tốt nhất
về vấn đề này. Có nghĩa là bên cạnh các quy định về nghĩa vụ trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do TNLĐ thì cần có văn bản của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành hoàn thiện về điều kiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ được
hướng dẫn thi hành một cách cụ thể. Đồng thời, cần có sự hướng dẫn cụ thể các
bước về trình tự, thủ tục về nhận BTTH do TNLĐ với sự ghi nhận và bảo đảm
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ nói chung từ đó tạo ra cơ chế pháp
lý hữu hiệu cho các chủ thể trong quá trình giải quyết các tranh chấp về vấn đề
này. Đồng thời, BLLĐ cần ban hành các quy định riêng biệt về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do TNLĐ trong thực tế để từ đó làm nền tảng cho hoạt động
thực hiện các quy định về đảm bảo quyền và lợi ích NLĐ nói chung. Do đó,
ngay từ thời điểm này, việc triển khai thi hành, xây dựng văn bản pháp luật quy
định chi tiết, hướng dẫn những điểm mới, điểm còn chưa rõ của BLLĐ 2019 là
43. 39
nhiệm vụ cấp bách, bảo đảm Bộ luật được thi hành đồng bộ, hiệu lực và hiệu
quả.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
TNLĐ nói chung. Từ các quy định của BLLĐ 2019 và các văn bản hướng dẫn
thi hành cũng trên cơ sở đó phải sửa đổi bổ sung theo hướng ghi nhận trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người NSDLĐ nói chung. Do đó, cần thiết phải
đặt ra vấn đề hoàn thiện pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ để
bảo vệ tốt nhất nhóm quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ pháp luật lao động
trong thực tế.
3.2.2. Bản án thứ hai:
* Nội dung: Ông Lê PH khai: Vào ngày 22/8/2015 ông Lê P H được anh
Trần V Đ là quản lý xà lan và anh Thế V là thủ kho của Cty CPXDCT HL ( gọi
tắt là Cty HL ) nhận vào làm việc với nhiệm vụ là thuyền trưởng tàu kéo số hiệu
0557 SG, mức lương thỏa thuận 15.000.000 đồng/tháng và phụ cấp từ 300.000đ
đến 500.000đ/chuyến, dầu cấp theo tuyến công trình, làm vượt 05 chuyến/tháng
thì được hưởng thêm 200.000đ/ chuyến. Tuy nhiên, do vào làm liền nên anh
chưa được ký hợp đồng lao động, mua bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Quá
trình làm việc anh có lên Công ty gặp bà H là TPTC của Công ty, bà H nói anh
làm hồ sơ để nộp và tiến hành ký hợp đồng, nhưng do nội dung hợp đồng và
công việc giao không rõ ràng nên ông không đồng ý. Đến ngày 15/09/2015, ông
đến Công ty gặp Phó giám đốc là bà B yêu cầu làm rõ chế độ và ký hợp đồng lao
động thì bà B bảo ông xuống gặp ông Đ làm văn bản ghi rõ chế độ và công việc
rồi chuyển lên Công ty mới ký hợp đồng. Ông có gặp anh Đ yêu cầu làm hồ sơ
nhưng anh Đ nói từ từ làm nhưng vẫn không giải quyết. Đến khoảng tháng 04/
2016, ông Nguyễn S T về làm Giám đốc xí nghiệp tại ấp 7, xã KA, huyện UM,
tỉnh Cà Mau, ông có gặp ông T yêu cầu làm rõ chế độ và ký hợp đồng lao động
44. 40
thì ông T hứa kêu ông Đ làm và ông có nói nếu không ký hợp đồng thì ông nghỉ
việc. Đến ngày 03/7/2016 ông được lệnh điều đi công tác của anh Trần V Đ chạy
xà lan xuống HG kéo chiếc cẩu hiệu KH 125 về BT - ĐD, trưa ngày 05/7/2016
từ HG ông bắt đầu đi đến chiều cùng ngày thì đến cầu ấp BS thuộc huyện ĐD,
tỉnh Cà Mau thì xà lan dừng lại để đợi nước ròng qua cầu. Đến sáng 7h ngày
06/7/2016 ông lái xà lan đến Cống đá thuộc xã NC, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau thì
tiếp tục bị kẹt cầu, trong thời gian đợi cần cẩu nâng cầu lên để cho xà lan qua cầu
thì ông bị cần cẩu đụng bị thương, sau đó pH nằm viện điều trị. Quá trình ông
làm việc Cty HL không mua bảo hiểm y tế, không chịu trả tiền viện phí, tiền
lương, đồng thời cho ông nghỉ việc. Vì vậy, nay ông yêu cầu Tòa án buộc Cty
CPXDCT HL thanh toán các khoản sau
- Chi trả phí điều trị tai nạn lao động: Tiền viện phí là 20.322.035 đồng.
- Chi trả 02 tháng lương nằm điều trị bệnh theo chỉ định của bác sĩ là
30.000.000 đồng.
- Chi trả lương từ tháng 10/2016 đến khi xét xử sơ thẩm vụ án là 08 tháng
bằng120.000.000 đồng.
- Chi trả trợ cấp sức khỏe suy giảm khả năng lao động do tai nạn lao động
ảnh hưởng bằng số tiền 58.500.000 đồng.
Tổng cộng các khoản làm tròn là 228.800.000 đồng.
Kết quả giải quyết: không chấp nhận đơn của ông Lê P H.
* Bình luận: Trong nội dung vụ án trên cho rằng: Xem xét tất cả các
chứng cứ tài liệu các đương sự cung cấp cũng như Tòa án đã thu thập được trong
quá trình giải quyết vụ án và trình bày của nguyên đơn, bị đơn tại phiên tòa phúc
thẩm hôm nay đối chiếu với quy định pháp luật lao động thấy rằng: Trên thực tế
ông Đ và ông H đều thừa nhận ông Đ có tuyển đụng người làm việc là ông H,
45. 41
tuy nhiên ông Đ không phải là người có thẩm quyền của Cty HL để có toàn
quyền quyết định việc giao kết hợp đồng lao động và tuyển dụng ông H vào làm
nhân viên cho Cty HL nên trên thực tế đây chỉ là quan hệ cá nhân giữa ông Đ và
ông H. Vấn đề này quá trình giải quyết tại đơn kháng cáo cũng như tại phiên tòa
phúc thẩm hôm nay ông H cũng thừa nhận giữa ông và người có thẩm quyền của
Cty HL chưa ký kết Hợp đồng lao động do các chính sách ghi trong hợp đồng
chưa thỏa đáng với trao đổi trước đó giữa ông và Công ty nên ông H chưa thống
nhất ký. Như vậy thực tế hai bên chưa ký kết hợp đồng lao động nên không phát
sinh quan hệ lao động giữa ông H và Cty HL cũng như không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa các bên từ quan hệ lao động. Phía nguyên đơn cũng
không có một văn bản nào tài liệu nào thể hiện việc đôi bên có giao kết hợp đồng
lao động, do đó ông H cho rằng ông là nhân viên của Cty HL là không có cơ sở.
Theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Lao động quy định: “ Trước khi nhận
người lao động vào làm việc, người sử dụng lao động và người lao động phải
trực tiếp giao kết hợp đồng lao động ”; Đồng thời tại Điều 16 Bộ luật Lao động
quy định : “ Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm
thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản.. ”.
Như vậy, từ điều luật quy định trên cho thấy ông H không có một chứng
cứ nào chứng minh cho việc ông và Cty HL có giao kết hợp đồng lao động với
nhau, cũng như việc Cty HL ra quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động đối với ông H, do đó yêu cầu của ông H và đề nghị của luật sư đối với Cty
HL thanh toán tiền lương và bồi thường thiệt hại về tai nạn lao động là không có
căn cứ nên án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H là đúng
quy định pháp luật. Xét đối với yêu cầu hủy bản án sơ thẩm do có vi phạm
nghiêm T thủ tục tố tụng thấy rằng: Xem xét hồ sơ Tòa án sơ thẩm có thu thập
một số chứng cứ nhưn không thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để Viện
46. 42
kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm, đây là thiếu sót của Tòa
án sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên sau khi xét xử Tòa án đã
gửi bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp nhưng phía Viện kiểm sát thống nhất
không kháng nghị và đồng thời quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm đã có Viện
kiểm sát tham gia, hơn nữa như đã nhận định trên, về nội dung đánh giá chứng
cứ và phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ, thiếu sót trên không làm
ảnh hưởng và thay đổi nội dung giải quyết vụ án nên chỉ cần rút kinh nghiệm mà
không cần thiết hủy án.
* Kiến nghị
Một là, không nên quy định việc yêu cầu cung cấp chứng cứ hành vi vi
phạm của người bi phạm. Tác giả cho rằng nghĩa vụ chứng minh cần được thực
hiện theo quy định của tại điểm a khoản 1 Điều 91 BLTTDS 2015 quy định. Có
nghĩa là người khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của người bi phạm.
Người vi phạm, người bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra
thiệt hại theo quy định của pháp luật. Bởi lẽ, việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ gặp phải một số khó khăn
sau: khó chứng minh được có trách nhiệm nhất là đối với các loại trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do TNLĐ nếu người khởi kiện đã chết.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy phạm pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do TNLĐ nói chung. Cụ thể, trong việc hoàn thiện quy định
pháp luật cũng như công tác thực hiện thì chủ thể bị xâm phạm cần phải xác
nhận và đảm bảo các điều kiện về an toàn cũng như cung cấp đầy đủ các quy
định về trách nhiệm giám hộ tại các trường học, bệnh viện....
Ba là, hoàn thiện quy định pháp luật về vai trò của cơ quan quản lý nhà
nước chuyên ngành đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ trong
thực tế. Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thì vai trò quản lý của các cơ quan
47. 43
trong thực hiện quyền của người dân là điều vô cùng quan trọng. Các cơ quan
nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ trong phạm vi cả nước, trong đó có
hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh nói chung.
Vì vậy, để bảo vệ tốt hơn điều kiện thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan này cần phải được không ngừng tăng cường, nâng cao năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả trong
quản lý nhà nước về quản lý trong hoạt động lao động, phát hiện các hành vi sai
phạm trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và thực hiện quyền lợi của
các chủ thể nói riêng. Từ đó cũng kịp thời tham mưu, đề xuất với cơ quan có
thẩm quyền hoàn thiện những “khoảng trống” của pháp luật trong công tác quản
lý trong thực tế. Mặt khác, pháp luật hiện hành không quy định việc Nhà nước về
điều kiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ cần mang tính thống nhất,
cần hoàn thiện các quy định về quy trình và cơ chế “hậu kiểm” của cơ quan quản
lý nhà nước để kịp thời phát hiện và xử lý hành vi vi phạm, bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân nói chung nhằm đề cao vai trò, trách
nhiệm của cơ quan, người đại diện, người giám hộ trong hoạt động quản lý
NCTTN đảm bảo quyền và lợi ích của chủ thể trong thực tế.
Bốn là, cơ chế phối hợp giải quyết yêu cầu đòi BTTH do TNLĐ. Theo quy
định của pháp luật, người bị thiệt hại có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền
hoặc Tòa án giải quyết yêu cầu đòi BTTH. Do vậy, cần có văn bản quy định cụ
thể về cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong các vụ việc khác nhau cũng như
cơ chế phối hợp giải quyết giữa các cơ quan cùng liên đới chịu TNBTTH.
Kết luận chung
Nhằm thực hiện tốt, có hiệu quả bảo vệ quyền lợi và nâng cao trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do TNLĐ nên quy định trách nhiệm của người giám hộ,