SlideShare a Scribd company logo
1 of 78
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THỊ MINH HƯỜNG
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
LUẬN VĂN HẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN
Hà Nội, 2019
2
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS.Phan Thị Thanh Huyền. Các số liệu, những kết luận nghiên
cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Mai Thị Minh Hường
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp và pháp
luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp............................................. 5
1.1. Thất nghiệp ...................................................................................................... 5
1.2. Bảo hiểm thất nghiệp .................................................................................... 13
1.3. Pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp ............................... 21
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh
Bắc Ninh .............................................................................................................. 41
2.1. Thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh ................... 41
2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc
Ninh ...................................................................................................................... 54
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh ..................................... 58
3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp .............................................. 58
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
tại tỉnh Bắc Ninh .................................................................................................. 65
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 71
4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
TCTN Trợ cấp thất nghiệp
HĐLV Hợp đồng làm việc
HĐLĐ Hợp đồng lao động
BHXH Bảo hiểm xã hội
NSDLĐ Người sử dụng lao động
NLĐ Người lao động
UBND Ủy ban nhân dân
5
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng biểu Nội dung Trang
2.1
Số đơn vị, NLĐ tham gia BHTN trong 2 năm 2016, 2017 và 6
tháng đầu năm 2018 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
41
2.2
Số người đăng ký thất nghiệp của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ
năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2018
43
2.3
Số người trong độ tuổi lao động tham gia hoạt động kinh tế
và số lao động thiếu việc làm giai đoạn năm 2014 đến 6
tháng đầu năm 2018
44
2.4
Số liệu về việc tham gia, thu - chi BHTN tỉnh Bắc Ninh qua 3
năm từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2018
45
2.5 Cơ cấu số người hưởng TCTN theo độ tuổi và theo giới tính 46
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thất nghiệp là hiện tượng khách quan và được biểu hiện như một đặc trưng vốn có
của kinh tế thị trường.Thất nghiệp có tác động lớn đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính
trị và xã hội của mỗi quốc gia.Thất nghiệp có thể khiến NLĐ vào tình cảnh túng quẫn, lãng
phí nguồn lực xã hội, gia tăng tỷ lệ tội phạm, là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến
nền kinh tế bị đình trệ. Do đó, BHTN là một trong những chính sách quan trọng hàng đầu
trong việc giải quyết tình trạng thất nghiệp. BHTN được xây dựng và thực hiện với mục
đích bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi bị mất việc làm, đồng thời tạo điều kiện để
NLĐ có cơ hội tìm kiếm được việc làm mới trong thời gian sớm nhất.
Việt Nam là quốc gia thực hiện chính sách về BHTN tương đối muộn so với
nhiều quốc gia khác trên thế giới.Năm 2006, BHTN lần đầu tiên ở Việt Nam được quy
định trong Luật bảo hiểm xã hội và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 và tiếp tục
được hoàn thiện bởi Luật việc làm năm 2013. Về cơ bản, pháp luật BHTN đã góp phần
đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ bị mất việc làm đồng thời cũng giúp NSDLĐ san
sẻ được gánh nặng tài chính, họ không phải bỏ ra một khoản chi lớn để giải quyết chế
độ cho NLĐ. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện pháp luật về BHTN đã bộc lộ một
số hạn chế không chỉ về các quy định pháp luật mà còn trong thực tiễn thực hiện. Đó là
những bất cập về đối tượng tham gia, điều kiện hưởng, thủ tục thực hiện, các hoạt động
hỗ trợ học nghề, tư vấn – giới thiệu việc làm...
Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam, thuộc đồng bằng sông Hồng và
nằm trên Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.Trong quy hoạch xây dựng, tỉnh này thuộc
vùng Thủ đô. Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm trên 2 hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai
- Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh. Việc thực hiện pháp luật BHTN trên địa bàn tỉnh bước đầu đã có những
thành công nhất định. Tuy nhiên, do BHTN là một chính sách tương đối mới, pháp luật
Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp còn tương đối bất cập, hạn chế nên trong
quá trình áp dụng và thực hiện tại Bắc Ninh vẫn còn nhiều vướng mắc. Việc tìm ra các
biện pháp thích hợp nhằm khắc phục tình trạng trên là điều hết sức cần thiết để BHTN
có thể phát huy được vai trò và ý nghĩa vốn có trong thực tiễn.Chính vì vậy, em lựa chọn
2
đề tài “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bắc Ninh”
làm luận văn thạc sĩ.Thông qua luận văn, em mong muốn góp phần làm rõ hơn pháp luật
về BHTN ở nước ta hiện nay và thực tiễn thực hiện pháp luật BHTN trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về BHTN và nâng cao
hiệu quả thực hiện BHTN tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế,
đặc biệt là dưới sự khủng hoảng và suy thoái kinh tế trong hơn một thập niên gần đây,
thất nghiệp trở thành vấn đề xã hội nghiêm trọng ở mọi quốc gia. Theo đó, các vấn đề
về TCTN và BHTN đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà khoa học với các bài
viết, chuyên đề dưới nhiều góc độ nghiên cứu. Có thể kể đến như: “Cơ chế tạo nguồn
và tổ chức thực hiện BHTN” đề tài khoa học của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
năm 2003; đề tài khoa học của Bảo hiểm xã hội Việt Nam “Nghiên cứu những nội
dung cơ bản của BHTN hiện đại, vấn đề lựa chọn hình thức TCTN ở Việt Nam” năm
2004; Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Nghiên cứu những nội dung cơ bản của
BHTN hiện đại, vấn đề lựa chọn hình thức thất nghiệp tại Việt Nam”(2004) của TS.
Nguyễn Huy Ban đã nêu lên vấn đề thất nghiệp và BHTN, cũng như yêu cầu xây dựng
chế độ BHTN ở Việt Nam.Luận án tiến sĩ luật học “Chế độ BHTN trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam” (2005) của tác giả Lê Thị Hoài Thu đã đi sâu nghiên cứu và
trình bày một cách hệ thống những nội dung chủ yếu của chế độ BHTN, những yêu cầu
đặt ra đối với việc xây dựng chế độ BHTN ở Việt Nam, đồng thời có sự so sánh với quy
định của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và một số nước trên thế giới. Ngoài ra, còn có
một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý như: “Đánh giá kết quả 7 năm
thực hiện bảo hiểm thất nghiệp” của tác giả Trương Thị Thu Hiền đăng trên tạp chí
Quản lý Nhà nước số6/2016; “Chính sách bảo hiểm thất nghiệp của Việt Nam –
Những bất cập và khuyến nghị” của tác giả Tạ Thị Hương đăng trên Quản lý Nhà nước
số6/2013 ; “Những hạn chế và kiến nghị hoàn thiện chính sách BHTN” của tác giả
Trương Thị Thu Hiền đăng trênTạp chí Nghiên cứu lập pháp số 21/2017…
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về pháp luật BHTN và thực tiễn thực hiện trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh thì hiện chưa có công trình nghiên cứu những năm gần đây đặc biệt
3
là từ khi Luật việc làm năm 2013 có hiệu lực đề cập. Hơn thế do pháp luật BHTN là vấn
đề khó, là đối tượng nghiên cứu của cả khoa học kinh tế và khoa học pháp lý, nên trong
khóa luận em có sử dụng những tư liệu, bài viết và những công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học đã có nghiên cứu về BHTN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về BHTN.
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về Bảo hiểm thất nghiệp.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật BHTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về BHTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về BHTN và thực tiễn thực
hiện pháp luật về BHTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Trong luận văn này tác giả xin phép không nghiên cứu về giải quyết tranh chấp bảo
hiểm thất nghiệp vì lý do giới hạn nội dung của một luận văn thạc sĩ và vấn đề giải
quyết tranh chấp bảo hiểm thất nghiệp cũng khá rộng.
- Phạm vi không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, em sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phép biện chứng duy vật của triết học Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh được
sử dụng với tư cách là phương pháp luận cho việc nghiên cứu.
- Những phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, xã hội phù hợp với từng vấn
đề của đề tài cũng được vận dụng như: tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, quy
nạp, đối chiếu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về BHTN cũng
như pháp luật Việt Nam hiện hành về BHTN qua thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh, từ đó xây dựng các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực
hiện BHTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4
- Ý nghĩa thực tiễn: Áp dụng kiến thức của pháp luật bảo hiểm xã hội, BHTN vào giải
quyết các vấn đề cụ thể trong thực tế. Đề tài cũng góp một phần để sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong học tập và nghiên cứu của sinh viên các trường Đại học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp và pháp
luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
1.1.Thất nghiệp
1.1.1. Các khái niệm liên quan
- Khái niệm thất nghiệp:
Lao động được hình thành và phát triển cùng với xã hội loài người.Lao động luôn
được coi là nhu cầu cơ bản nhất, chính đáng nhất của con người đồng thời cũng là nghĩa
vụ cao cả của mọi công dân. Như vậy, mỗi người chúng ta muốn sống, tồn tại thì đều
phải lao động hay nói cách khác là phải có việc làm. Tuy nhiên, ở mọi xã hội, không
phải lúc nào nhu cầu làm việc của các cá nhân đều được đáp ứng đầy đủ.Trong xã hội
luôn có một bộ phận người không có việc làm, bị mất việc làm, thiếu việc làm.Tuy
nhiên, tất cả những người đó có được coi là thất nghiệp hay không?Trên thế giới, thất
nghiệp là vấn đề được nhiều quốc gia và chuyên gia thảo luận và đưa ra nhiều định nghĩa
khác nhau.
Từ điển kinh tế học hiện đại cho rằng: “thất nghiệp là những NLĐ không có việc
làm, bao gồm cả những người đang trong giai đoạn tìm việc làm mới hoặc những người
không thể tìm được việc làm với đồng lương thực tế hiện hành”[13, tr.1053].
John Maynard Keynes – một nhà kinh tế học được coi là có nghiên cứu khá thành
công về thất nghiệp cho rằng: “Vấn đề thất nghiệp không phải là hiện tượng độc lập
của nền kinh tế mà đó là kết quả của các quy luật nhất định để đạt được sự cân bằng
của hệ thống kinh tế.” Theo ông nạn thất nghiệp tồn tại dưới đạng bắt buộc mà trong đó
“tổng cung về lao động của những NLĐ muốn làm việc với tiền lương danh nghĩa tại
một thời điểm lớn hơn khối lượng việc làm hiện có.”
Samuelson – một trong số các nhà kinh tế học hiện đại đã đưa ra lý thuyết mới
về thất nghiệp: “Đó là hiện tượng người có năng lực lao động không có cơ hội tham gia
lao động xã hội, bị tác khỏi tư liệu sản xuất. Và trong nền kinh tế thị trường, luôn luôn
tồn tại một bộ phận NLĐ bị thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp cao hay thấp phụ thuộc rất
6
nhiều vào khả năng giải quyết việc làm của Chính phủ và sự đấu tranh của giới thợ đối
với giới chủ.”
Điều 20, Công ước 102 (1952) của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra
khái niệm thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là hiện tượng NLĐ bị ngừng thu nhập do
không có khả năng tìm được việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng
làm việc và sẵn sàng làm việc”.
Ở Việt Nam, từ các góc độ khác nhau, có những quan niệm về thất nghiệp khác
nhau. Văn bản đầu tiên ghi nhận thuật ngữ ‘thất nghiệp” là Điều 76, Sắc lệnh 29/SL
ngày 12/3/1947: “Nếu người cha mất đi, thất nghiệp, hay coi như mất tích, thì người mẹ
sẽ được lĩnh phụ cấp”.Tuy nhiên, ở Sắc lệnh này lại không hề nói đến định nghĩa thất
nghiệp. Theo sau đó, một loạt các văn bản pháp luật ra đời đề cập đến thuật ngữ “thất
nghiệp” nhưng lại không nêu ra được cụ thể thế nào là thất nghiệp bao gồm cả Luật Bảo
hiểm xã hội 2014 và Luật Việc làm 2013”[18]. Một số nhà nghiên cứu khoa học Việt
Nam đã đưa ra những khái niệm về thất nghiệp như: Theo tác giả Phạm Quý Thọ: “Thất
nghiệp là một trạng thái trong đó NLĐ trong tuổi lao động, có khả năng và nhu cầu lao
động mà không có việc làm. Người thất nghiệp là người hiện không có việc làm hoặc
đang tìm việc làm”.“Thất nghiệp là hiện tượng mà người có sức lao động, có nghề,
muốn đi làm việc, không có việc làm và đã đăng ký ở cơ quan có thẩm quyền” (Kỷ yếu
hội thảo khoa học năm 1988 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội).“Thất nghiệp
là tình trạng trong đó người có sức lao động trong độ tuổi lao động không có việc làm
và đang cần tìm một việc làm có trả công” (Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1996 của Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội)… Tuy nhiên, đây chỉ là những quan điểm cá nhân
về khái niệm thất nghiệp có tính tham khảo và nghiên cứu chứ chưa phải là khái niệm
chính thống được ghi nhận trong văn bản pháp luật.
Như vậy, từ các khái niệm trên, có thể hiểu: “Thất nghiệp là tình trạng mà trong
đó NLĐ không có công việc được trả công hoặc không có công việc do mình tự thu
xếp nhưng vẫn có khả năng lao động và hiện đang tìm kiếm việc làm”.
Nhìn chung, khái niệm thất nghiệp được đưa ra đều căn cứ vào ba yếu tố cơ bản:
Thứ nhất, đó là khả năng lao động. Việc xác định một người có khả năng làm
việc hay không phụ thuộc vào pháp luật cũng như hoàn cảnh thực tế của từng quốc gia
7
khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, khi xem xét một người có khả năng lao động hay
không thường căn cứ vào độ tuổi lao động, tình trạng thể chất, trình độ lao động… [29].
Thứ hai, đó là đang trong tình trạng không có việc làm. Không có việc làm ở đây
được hiểu là NLĐ đang không tham gia các quan hệ lao động và không có thu nhập dưới
dạng tiền lương.
Thứ ba, đó là đang tích cực tìm kiếm việc làm. Tích cực tìm kiếm việc làm được
hiểu là NLĐ đã áp dụng nhiều biện pháp để tìm kiếm việc làm, bản thân họ cũng muốn
tìm kiếm được việc làm nhưng vì nhiều lí do mà hiện nay vẫn chưa tìm kiếm được việc
làm. Đây là một tiêu chí để phân biệt đối tượng thất nghiệp với đối tượng không có việc
làm khác trong xã hội.
- Khái niệm người thất nghiệp:
Song song với khái niệm thất nghiệp thì việc tìm hiểu khái niệm hoàn chỉnh về “người
thất nghiệp” là cần thiết. Bởi lẽ khái niệm người thất nghiệp liên quan đến nhiều vấn đề,
trong đó quan trọng nhất là xác định phạm vi, đối tượng điều chỉnh của chế độ BHTN.
Trên cơ sở quan điểm thất nghiệp của tổ chức lao động quốc tế (ILO), Văn phòng
lao động quốc tế đã đưa ra khái niệm về người thất nghiệp như sau: “Người thất nghiệp
là người trong độ tuổi lao động, có khả năng làm việc hoặc đã có việc làm những đã
thôi việc và đang cần tìm việc làm có thu nhập”.Theo đó, ILO đã đưa ra bốn tiêu chí cơ
bản để xác định “người thất nghiệp” đó là: trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động,
đang không có việc làm, đang đi tìm việc làm.
Theo Điều 3, Luật Bảo hiểm xã hội 2006 sửa đổi bổ sung năm 2014: “Người thất
nghiệp là người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt
HĐLĐ, HĐLV nhưng chưa tìm được việc làm”[22, khoản 4 điều3]. So với quan điểm
của ILO được các quốc gia trên thế giới áp dụng thì khái niệm này bộc lộ hạn chếlàphạm
vi xác định người thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay quá hẹp. BHTN chỉ là
một trong những chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước hoạt động theocơ
chế bảo hiểm, do đó không thể coi việc tham gia BHTN là một chuẩn chung để đánh giá
tình trạng việc làm của tất cả lao động trong xã hội. Điều này đã tạo nên một giới hạn,
chỉ những người thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về BHTN mà không có việc
làm mới được coi là người thất nghiệp, xét cho cùng cho dù họ có đóng bảo hiểm thất
8
nghiệp hay không thì về bản chất họ vẫn là người thất nghiệp. Với việc xác định nội
hàm khái niệm người thất nghiệp chắc chắn con số thống kê về số người thất nghiệp sẽ
không bao giờ đúng với thực tế, nếu như không muốn nói là quá nhỏ so với thực tế và
kết quả là sẽ rất khó cho các nhà hoạch định chính sách khi đưa ra những giải pháp để
khắc phục tình trạng thất nghiệp của quốc gia.
Do vậy theo quan điểm của tác giả, có thể hiểu: “Người thất nghiệp là những
người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trongkhoảng thời gian xác định
không có việc làm, đang tìm việc làm, đã đăng ký thất nghiệp theo quy định”.
1.1.2. Phân loại thất nghiệp
Thất nghiệp là một vấn đề hết sức phức tạp, vì vậy, để nghiên cứu sâu hơn về vấn
đề thất nghiệp người ta thường đặt ra vấn đề phân loại thất nghiệp. Căn cứ vào nội dung
nghiên cứu cũng như phạm vi nghiên cứu, sẽ có những tiêu chí khác nhau để phân loại
thất nghiệp. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại thất nghiệp phổ biến.
Thứ nhất, phân loại theo nguồn gốc, thất nghiệp được chia thành 7 loại:
- Thất nghiệp dai dẳng: là mức thất nghiệp tối thiểu không thể giảm được trong
một nền kinh tế năng động. Dạng thất nghiệp này gồm những người tạm thời không có
việc làm trong thời gian chuyển công việc trong một nền kinh tế mà lực lượng lao động
và các công việc tìm người luôn thay đổi.
- Thất nghiệp tạm thời: Đây là loại thất nghiệp phát sinh do NLĐ cần có thời gian
tìm kiếm việc làm. Loại thất nghiệp này phát sinh khi NLĐ kết thúc HĐLĐ, HĐLV với
đơn vị cũ, hiện tại chưa tìm được công việc mới có thể do nhiều yếu tố và đây là loại
thất nghiệp tất yếu trong nền kinh tế thị trường mở như ngày nay[16].
- Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi cầu chung về lao động giảm xuống. Nguyên
nhân chính của hiện tượng này là do nền kinh tế suy thoái, tổng cầu giảm, kéo theo cầu
lao động giảm.
- Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường xảy ra khi tiền công bị ấn định cao hơn
mức tiền lương cân bằng, nhằm đảm bảo quyền lợi cho bộ phận lao động yếu thế trên
thị trường. Mức tiền lương này do Chính phủ ấn định hoặc do sức ép của công đoàn,
nghiệp đoàn.
9
- Thất nghiệp do áp dụng công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào
sản xuất, máy móc thiết bị thay thế con người, chỉ cần một số ít người vận hành, một bộ
phận NLĐ trong các dây chuyền sản xuất bị dôi ra, trở thành thất nghiệp công nghệ.
- Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự mất cân đối giữa nhu cầu
sử dụng lao động và cơ cấu của lực lượng lao động, hay nói cách khác là lượng cung lao
động vượt lượng cầu về lao động. Các nguyên nhân dẫn đến cung lao động vượt cầu lao
động: do thay đổi cơ cấu kinh tế, do lao động được đào tạo không đáp ứng được nhu cầu
thị trường lao động, do luật tiền lương tối thiểu làm mất cân đối giữa cung và cầu cục
bộ trên thị trường lao động[18].
- Thất nghiệp theo chu kì: Đây là loại thất nghiệp phát sinh do nền kinh tế lâm vào
tình trạng suy thoái, tổng cầu thấp dẫn đến tình trạng không có nhu cầu sử dụng lao
động. Trong giai đoạn suy thoái, mức cầu chung về lao động giảm và do vậy làm gia
tăng thất nghiệp. Loại thất nghiệp này diễn ra theo chu kỳ và mang tính quy luật.
Thứ hai, phân loại theo đặc trưng của người thất nghiệp.
- Thất nghiệp là một gánh nặng, nhưng gánh nặng đó rơi vào đâu, bộ phận dân cư
nào, ngành nghề nào…Cần biết được điều đó để hiểu được đặc điểm, tính chất, mức độ
tác hại…của thất nghiệp trong thực tế. Với mục đích đó có thể dùng 5 tiêu thức phân
loại sau: Thất nghiệp chia theo giới tính; Thất nghiệp chia theo lứa tuổi; Thất nghiệp
chia theo vùng, lãnh thổ; Thất nghiệp chia theo ngành nghề; Thất nghiệp chia theo dân
tộc, chủng tộc
Thứ ba, phân loại theo tính chất, thất nghiệp được chia thành những loại sau:
- Thất nghiệp tự nguyện: là loại thất nghiệp phát sinh do NLĐ không chấp nhận
những công việc hiện tại vì nhiều lí do khác nhau. Từ đó, dẫn đến tình trạng NLĐ từ bỏ
công việc mình đang làm và lâm vào tình trạng chưa tìm kiếm được việc làm.
- Thất nghiệp không tự nguyện: là loại thất nghiệp phát sinh dù NLĐ sẵn sàng chấp
nhận những công việc khác nhau nhưng do nhu cầu hoặc do những lí do khách quan
khác mà họ không được nhận làm việc.
- Thất nghiệp tự nhiên: là mức thất nghiệp xảy ra khi thị trường lao động ở trong trạng
thái cân bằng. Ở mức thất nghiệp tự nhiên, nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động.
10
1.1.3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
Thứ nhất, nguyên nhân là do chu kỳ sản xuất kinh doanh thay đổi: theo chu kỳ
phát triển kinh tế, sau hưng thịnh đến suy thoái, khủng hoảng. Ở thời kỳ hưng thịnh, sản
xuất được mở rộng, nguồn nhân lực xã hội được huy động vào sản xuất, nhu cầu về sức
lao động tăng nhanh nên thu hút nhiều lao động. Ngược lại, ở thời kỳ suy thoái, sản xuất
đình trệ, cầu lao động giảm, không những không tuyển thêm lao động mà còn dư thừa
lao động, gây nên tình trạng thất nghiệp.
Thứ hai, do sự gia tăng dân số: đây là nguyên nhân ảnh hưởng đến tình trạng thất
nghiệp trong dài hạn. Dân số gia tăng hàng năm sẽ bổ sung một lực lượng lao động rất
lớn vào nguồn lực lao động của mỗi quốc gia. Dân số càng tăng và tốc độ gia tăng càng
nhanh thì lực lượng lao động dư thừa sẽ càng lớn. Thêm vào đó, quá trình quốc tế hóa
và toàn cầu hóa cũng có tác động tiêu cực đến thị trường lao động làm một bộ phận NLĐ
bị thất nghiệp. Nguyên nhân này thường xuất hiện phổ biến ở các nước đang phát triển
và chậm phát triển, những nước luôn có tỷ lệ gia tăng dân số cao.Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam, cũng như ở
nhiều nước đang phát triển khác.
Thứ ba, thất nghiệp là do những thay đổi trong xu thế cung cầu trong nền kinh
tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế luôn có sự thay đổi liên tục. Có những
ngành nghề trở thành xu hướng, nhu cầu chung của xã hội, có những ngành nghề lại trở
nên lạc hậu, không còn phù hợp. Khi đó, lực lượng lao động theo đó cũng có sự dịch
chuyển ngành nghề dẫn đến thất nghiệp.
Thứ tư, do sự thay đổi cơ cấu ngành nghề: ở từng thời kỳ, sự phát triển kinh tế
có thể dẫn tới thay đổi cơ cấu kinh tế. Theo đó, cơ cấu của một số ngành nghề thay đổi.
Những ngành nghề làm ăn có hiệu quả hoặc cần phải được mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh hoặc xuất hiện ngành nghề mới sẽ tạo cơ hội thu hút thêm nhiều lao động.
Nhưng lại có những ngành nghề phải thu hẹp sản xuất, phải sa thải NLĐ và một bộ phận
NLĐ bị thất nghiệp.
Thứ năm, do sự ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật 4.0: ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, đặc biệt là tự động hóa quá trình sản xuất diễn ra nhanh chóng và ngày
càng phổ biến. Nền kinh tế ngày càng phát triển, khoa học công nghệ phát triển dẫn đến
11
việc tự động hóa thay bằng sản xuất thô sơ. Lực lượng lao động dần được thay thế bằng
những dây chuyền tự động hóa, công nghiệp hóa. Khi đó nhu cầu sử dụng lao đồng dần
giảm đi dẫn đến tình trạng thất nghiệp. Các chủ doanh nghiệp, các nhà sản xuất luôn tìm
cách mở rộng sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, quá trình này làm
cho số công nhân bị thay thế bởi máy móc ngày càng gia tăng, bổ sung một lượng lớn
vào số lao động bị thất nghiệp.
Thứ sáu, do các yếu tố ngoài thị trường: sự thay đổi thể chế chính trị hay việc
điều chỉnh chính sách vĩ mô của các nước, các giải pháp điều hành kinh tế của Chính
phủ cũng có thể làm cho nhu cầu sử dụng lao động có sự thay đổi. Theo đó, làm cho
tình trạng thất nghiệp thay đổi.
Thứ bảy, nguyên nhân từ NLĐ: chính bản thân NLĐ cũng tác động không nhỏ
tới tình trạng thất nghiệp của mình. Trong nền kinh tế phát triển, năng động và không
ngừng biến đổi như ngày nay, việc NLĐ không ngừng thay đổi ngành nghề công việc
để phù hợp với xu thế của xã hội và mong muốn của bản thân. Vì vậy, NLĐ dễ lâm vào
tình trạng thất nghiệp tạm thời.Ví dụ, do NLĐ không ưa thích công việc đang làm, hay
địa điểm làm việc, không bằng lòng với vị trí đang đảm đương hay mức lương hiện có
nên họ đi tìm công việc mới đáp ứng yêu cầu đó.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác có thể dẫn đến NLĐ bị thất nghiệp như
NLĐ có kinh nghiệm nhưng bị mất việc vì kỷ luật lao động kém. Những NLĐ trẻ tuổi
tìm kiếm công việc lần đầu tiên trong đời không thể kiếm ngay được việc làm hoặc NLĐ
lớn tuổi sau một thời gian rời khỏi thị trường lao động nay muốn quay trở lại lực lượng
lao động (như phụ nữ sau khi sinh và chăm sóc con nhỏ). Một nguyên nhân cũng không
kém quan trọng đó là NLĐ không còn đủ sức khỏe để đảm đương công việc đang làm
phải tìm kiếm công việc khác phù hợp hơn.
1.1.4. Tác động của thất nghiệp đối với xã hội
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội, do tác động của nhiều yếu tố kinh
tế – xã hội, trong đó có những yếu tố vừa là nguyên nhân vừa là kết quả.Ngược lại, thất
nghiệp có ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thất nghiệp
12
không những ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân NLĐ và gia đình họ mà còn tác động
mạnh mẽ tới tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Cụ thể:
Thứ nhất, đối với nền kinh tế: Thất nghiệp chính là sự lãng phí nguồn lực xã hội,
là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát
triển. Vì khi đó có một bộ phận NLĐ trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng
vì lý do khách quan không có việc làm thì dĩ nhiên sức sản xuất trong nước và thu nhập
quốc dân thấp hơn so với khi mọi người đều có việc làm. Ngoài ra, khủng hoảng kinh
tế và thất nghiệp có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau, đôi khi tạo thành
vòng luẩn quẩn không thoát ra được.Bên cạnh đó, thất nghiệp có thể làm cho xã hội bất
ổn.Đến lượt nó làm cho kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hơn và có khả năng
phục hồi chậm.
Thứ hai, đối với bản thân NLĐ và gia đình: Thất nghiệp có thể gây ra những hậu
quả rất trầm trọng. Bởi vì khi bị mất việc làm thường đồng nghĩa với việc mất đi nguồn
thu nhập chủ yếu và khi thất nghiệp kéo dài sẽ dẫn đến sự khó khăn, nghèo túng. Hậu
quả là họ từng bước bị rơi sâu vào tình trạng dưới mức sống tiêu chuẩn chung của xã
hội. Sau đó nếu không có sự trợ giúp nào khác thì phải vay nợ và nếu kéo dài sẽ dẫn đến
nợ nần chồng chất. Sự tác động vào thu nhập cho gia đình phụ thuộc vào tiền thất nghiệp
của bản thân họ nhận được cũng như thu nhập của những thành viên khác trong gia đình
còn việc làm. Nạn thất nghiệp không chỉ là hậu quả về tài chính mà còn là hậu quả về
khả năng nghề nghiệp.Khi thất nghiệp kéo dài, hậu quả là họ bị mất đi khả năng nâng
cao trình độ nghề nghiệp. Điều đó sẽ đe dọa không chỉ về phía họ, họ sẵn sàng bị thất
nghiệp, mà còn ngăn cản việc học nghề hay chuyển vào một nghề khác.
Thứ ba, đối với chính trị, xã hội: Khi bị thất nghiệp, NLĐ luôn ở trong tình trạng
hoang mang, lo lắng, căng thẳng và thất vọng. Đặc biệt nếu NLĐ là trụ cột, nuôi sống
cả gia đình thì áp lực tâm lý càng đè nặng lên NLĐ.Từng cá nhân là tế bào của gia đình,
mỗi gia đình là tế bào của xã hội.Như vậy thất nghiệp tác động đến cá nhân NLĐ có
nghĩa là đã tác động đến toàn xã hội.Thất nghiệp ảnh hưởng đến tiếp đến trật tự xã hội.
Thất nghiệp gia tăng làm trật tự xã hội không ổn định; hiện tượng lãn công, bãi công,
biểu tình đòi quyền làm việc, quyền sống… tăng lên. Bên cạnh đó, thất nghiệp sẽ dẫn
đến nhiều hiện tượng tiêu cực của xã hội, đẩy người thất nghiệp đến chỗ bất chấp kỷ
13
cương, vi phạm pháp luật, hủy hoại đạo đức để kiếm kế sinh nhai, kiếm tiền trang trải
cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như trộm cắp, cờ bạc, mại dâm, ma túy, NLĐ thất
nghiệp không có việc làm sẽ dẫn tới nhiều hệ lụy tiêu cực như trộm cắp, cờ bạc, nghiện
hút, mại dâm… Khi thất nghiệp tăng cao, sự hỗ trợ từ phía Nhà nước không còn hiệu
quả, sự ủng hộ của NLĐ đối với nhà cầm quyền cũng bị suy giảm, xuất hiện những bất
mãn, căng thẳng. Từ đó, có thể có những xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đến biến động
về chính trị.
1.2.Bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
BHTN xuất hiện lần đầu ở Châu Âu với sự ra đời của quỹ BHTN tự nguyện tại
Berne (Thụy Sĩ) vào năm 1893.Tham gia đóng góp cho quỹ lúc này không chỉ có giới
chủ mà còn những NLĐ có công việc làm không ổn định.Sau đó, để mở rộng quy mô
của BHTN, nhằm tăng mức TCTN cho nên đã có sự tham gia đóng góp của chính quyền
địa phương và trung ương. Năm 1911, Vương quốc Anh ban hành đạo luật đầu tiên về
BHTN bắt buộc và tiếp đó là một số nước khác ở Châu Âu như: Thụy Điển, Cộng hòa
Liên bang Đức… Sau cuộc tổng khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) một số nước
Châu Âu và Bắc Mỹ ban hành các Đạo luật về bảo hiểm xã hội và BHTN, chẳng hạn
như ở Mỹ năm 1935, Canađa vào năm 1939. Khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc,
đặc biệt là khi có Công ước số 102 (1952) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì nhiều
quốc gia trên thế giới đã triển khai BHTN và TCTN.
Theo công ước 102 (1952) của Tổ chức lao động quốc tế thì BHTN là một trong
09 nhánh của bảo hiểm xã hội. Cùng với các chế độ khác, BHTN nâng cao khả năng bảo
vệ NLĐ của hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội. Với tính chất chia sẻ giữa những đối
tượng tham gia, BHTN hỗ trợ một khoản tài chính giúp NLĐ thất nghiệp đảm bảo ổn
định cuộc sống; sớm đưa lao động thất nghiệp tìm được việc làm ổn định thông qua các
hoạt động đào tạo, tư vấn, hỗ trợ học nghề.
Cùng với sự phát triển nền kinh tế xã hội và sự quan tâm đến các vấn đề về
BHTN, khái niệm “thất nghiệp” và “người thất nghiệp” đã không còn xa lạ đối với
người dân Việt Nam. Đối với một quốc gia được xếp vào loại dân số trẻ với nguồn nhân
lực dồi dào nhưng lại bị mất cân bằng giữa cung và cầu lao động trên thị trường lao
14
động, tình trạng cung lao động lớn hơn cầu lao động cả về quy mô và cơ cấu cũng như
việc phân bổ lao động không đồng đều giữa các ngành, các địa phương như ở nước ta
thì sự gia tăng của tình trạng thất nghiệp là không thể tránh khỏi. Thất nghiệp không chỉ
đe dọa tới đời sống của NLĐ nói riêng mà còn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với
quốc gia và toàn xã hội nói chung.
Ở Việt Nam, theo quy định tại Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 thì BHTN được
hiểu là “sự đảm bảo, thay thế, bù đắp một phần thu nhập của NLĐ trong trường hợp bị
mất việc làm, đang có nhu cầu tìm việc làm, đồng thời có một số biện pháp để họ nhanh
chóng quay lại thị trường lao động”. Theo đó mục đích của BHTN được nhắc nhiều
nhất là mục đích đảm bảo, thay thế bù đắp một phần thu nhập của NLĐ. Sau nhiều năm
thực hiện BHTN, Việt Nam đã có điều chỉnh mang tính đột phá khi chuyển toàn bộ chế
độ BHTN quy định ở Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 sang Luật Việc làm năm 2013.
Khoản 4, Điều 3, Luật Việc làm 2013 đã đưa ra định nghĩa cụ thể về BHTN như sau:
“Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi bị mất
việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ
bảo hiểm thất nghiệp”, khái niệm này đã làm thay đổi quan niệm về BHTN. Theo đó,
BHTN không phải là biện pháp giải quyết hậu quả thất nghiệp một cách bị động, mà
BHTN có vai trò chủ động trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, giảm
thất nghiệp, giúp NLĐ nhanh chóng tìm được việc làm. Mục đích của BHTN không chỉ
nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ nhằm đảm bảo cuộc sống cho
họ trong thời gian bị mất việc làm, mà còn giúp đỡ đưa người thất nghiệp trở lại với thị
trường lao động, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính được đóng góp
từ các bên tham gia BHTN, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của NLĐ và gia
đình họ, bảo đảm an sinh xã hội.
Nguồn tài chính hỗ trợ cho người thất nghiệp được lấy từ quỹ BHTN. Đây là quỹ
tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHTN, theo
nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro, không vì mục đích lợi nhuận. Quỹ này được dùng
để trợ cấp cho NLĐ bị thất nghiệp, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và gia đình.
Ở đây có một số điểm cần nhấn mạnh: một là, mức hỗ trợ thu nhập dựa trên cơ sở đóng
góp của NLĐ trước khi bị thất nghiệp; hai là, NLĐ tham gia BHTN, khi thất nghiệp sẽ
15
được hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm, đào tạo nghề để có thể sớm tìm được việc làm,
gia nhập lại thịtrường lao động. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn
định cuộc sống cho NLĐ trong thời gian mất việc làm thì mục đích chính của BHTN là
thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao
động thất nghiệp tìm được việc làm mới thích hợp và ổn định.
Như vậy, có thể hiểu “bảo hiểm thất nghiệp là quá trình tổ chức và sử dụng
quỹ tiền tệ tập trung (Quỹ bảo hiểm thất nghiệp) được hình thành do sự đóng góp của
các bên tham gia (NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước) nhằm hỗ trợ tài chính
tạm thời dành cho những người bị mất việc làm mà đáp ứng yêu cầu luật định”.
1.2.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp
Xuất phát từviệc phân tích khái niệm BHTN chúng ta có thểthấy BHTN mang
một sốđặc điểm chung của một chếđộnằm trong BHXH đồng thời nó cũng mang một
sốđặc điểm đặc thù khác có tính chất của chếđộviệc làm, góp phần tạo nên một sựthống
nhất trong quan hệcủa chếđộan sinh xã hội với vần đềviệc làm.
Thứ nhất, BHTN xuất phát từ quan hệ lao động nhưng khi thực hiện lại chủ yếu
thuộc về lĩnh vực việc làm. Việc thực hiện chi trả TCTN luôn được gắn liền với vấn đề
giải quyết việc làm cho NLĐ, BHTN do đó vừa có chức năng hỗ trợ khó khăn cho người
thất nghiệp khi tạm thời mất thu nhập vừa có chức năng xúc tiến những hoạt động tìm
kiếm và tạo việc làm cho NLĐ.
Thứ hai, BHTN không chỉ thu và chi trả TCTN mà còn thực hiện các biện pháp
để đưa NLĐ trở lại thị trường lao động. Do đó, cơ quan BHTN vừa có trách nhiệm đăng
ký thất nghiệp vừa phải kịp thời nắm bắt các thông tin về thị trường lao động để giới
thiệu việc làm, đào tạo nghề phù hợp cho người thất nghiệp. Đây là điểm khác biệt giữa
hoạt động quản lý thất nghiệp với các loại hình bảo hiểm xã hội khác[28]. Như vậy khác
với cơ quan quản lý bảo hiểm xã hội thông thường chỉ thực hiện chức năng thu, chi bảo
hiểm xã hội, các cơ quan quản lý BHTN còn phải tiến hành các hoạt động nghiệp vụ
nhằm giải quyết việc làm, bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm xã hội thuần túy.
Thứ ba, đối tượng hưởng BHTN là những người trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động nhưng đang trong tình trạng không có việc làm, không có thu nhập và
đang tìm kiếm việc làm. Đối tượng hưởng BHTN là những người đang không tham gia
16
vào quan hệ lao động mặc dù vẫn có khả năng lao động. Đây là đặc điểm khác biệt giữa
BHTN và những loại bảo hiểm khác. Đối với những loại bảo hiểm khác thì NLĐ đều là
những người đang trong quan hệ lao động như bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp hoặc là những người không còn khả năng lao động như bảo hiểm hưu trí,
tử tuất.
Thứ tư , việc xác định điều kiện hưởng TCTN khó khăn hơn so với các chế độ
bảo hiểm xã hội khác. Sở dĩ như vậy vì ranh giới để phân định giữa có việc làm và không
có việc làm, giữa có thu nhập và không có thu nhập không rõ rằng, khó xác định và kiểm
tra trong thực tế. Vì vậy, việc xác định đúng các đối tượng đủ điều kiện để chi trả TCTN
trong thực tế gặp nhiều khó khăn.
1.2.3. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp trong hệ thống an sinh xã hội.
BHTN là một chế định tiến bộ và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi
quốc gia. Cụ thể:
- Đối với NLĐ:
Với bất kỳ NLĐ nào đều có nhu cầu tìm cho mình một công việc ổn định, phù
hợp với trình độ, khả năng của bản thân, nhất là những công việc nhẹ nhàng nhưng có
mức lương cao nhằm duy trì cuộc sống ở mức cơ bản so với mức sống chung của toàn
xã hội. Khi NLĐ không may gặp rủi ro và mất việc làm thì BHTN sẽ chịu trách nhiệm
trong việc chi trảtrợcấp thông qua một khoản tiền nhất định giúp NLĐ ổn định cuộc
sống và có thể tránh rơi vào tình trạng cùng cực, nghèo khó. Khoản tiền trợ cấp tuy
không quá lớn những cũng là một khoản hỗ trợ về mặt tài chính nhằm làm đảm bảo sự
“cân bằng” trong cuộc sống của NLĐ khi bị thất nghiệp. Bên cạnh đó, BHTN không
chỉ dừng lại ở việc bù đắp thu nhập, mà còn giúp NLĐ sớm quay trởlại thị trường lao
động và nhanh chóng tìm được việc làm phù hợp thông qua hoạt động tư vấn, giới thiệu
việc làm hay đào tạo nghề. Đây chính là điểm đặc thù của BHTN so với các chế độ khác
của BHXH, mang bản chất đặc trưng của chế độviệc làm. Ngoài ra, NLĐ bị thất
nghiệp còn được hưởng nhiều quyền lợi khác từ BHTN như được đóng bảo hiểm y tế
trong thời gian bị thất nghiệp hay được bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để
duy trì việc làm cho NLĐ. Đây là một trong giải pháp hữu hiệu trong việc phòng ngừa
từ xa tình trạng thất nghiệp có thể xảy ra.
17
- Đối với người sử dụng lao động:
Đối với NSDLĐ, gánh nặng tài chính của họ sẽ được san sẻ khi những NLĐ tại
doanh nghiệp bị mất việc làm, họ không phải bỏ ra một khoản chi lớn để giải quyết chế
độ cho NLĐ. Đặc biệt, trong những thời kỳ khó khăn, buộc phải thu hẹp sản xuất, nhiều
NLĐ thất nghiệp. Kể từ khi pháp luật về bảo thất nghiệp ra đời, đối với những trường
hợp chấm dứt HĐLĐ, BHTN đã phần nào san sẻ bớt gánh nặng cho những NSDLĐ.
Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ giải quyết vấn đề trợ cấp cho NLĐ khi nghỉ việc mà
còn hỗ trợ NSDLĐ trong việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề cho NLĐ
nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động[18].
- Về mặt kinh tế:
Khi tham gia quan hệ lao động, NLĐ muốn tìm kiếm công việc tốt, thu nhập ổn
định cao, đúng với chuyên môn kỹ thuật hoặc ít nhất là có việc làm, có thu nhập đủ để
duy trì cuộc sống gia đình bình thường. Nếu không may vì một lý do nào đó mà họ bị
mất việc làm thì điều này sẽ gây khó khăn về tài chính cho gia đình cũng như bản thân
họ. Nếu có chế độ TCTN thì những khó khăn này có thể giải quyết phần nào vì khoản
tiền TCTN là khoản được sử dụng để giúp NLĐ có được cuộc sống tương đối ổn định
sau khi bị mất việc làm và đồng thời tạo điều kiện cho NLĐ có khả năng tìm kiếm việc
làm mới. Mặt khác, thất nghiệp còn gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đối với nền kinh
tế cả nước. Thất nghiệp gây ra sự lãng phí về nguồn nhân lực, từ đó tạo ra thiệt hại về
hàng hóa và dịch vụ mà xã hội có thể sản xuất thêm, gây thiệt hại về thu nhập thực tế và
ngăn cản sự phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, thất nghiệp còn làm cho nhu cầu xã
hội giảm, hàng hóa, dịch vụ sản xuất ra không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít
đi, chất lượng sản phẩm tụt giảm[1, tr.30]. ... Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp gia tăng
còn kéo theo sự gia tăng của lạm phát, khiến cho nền kinh tế bị suy thoái, khả năng phục
hồi chậm. Như vậy, BHTN không chỉ đóng vai trò thiết yếu trong việc cải thiện kinh tế
cho NLĐ nói riêng mà còn có vai trò to lớn đối với nền kinh tế cả nước nói chung.
- Về mặt xã hội:
Bảo hiểm thất nghiệp còn là một chính sách xã hội.Nếu thực hiện tốt chính sách
này sẽ tạo ra sự ổn định về mặt xã hội và ngược lại, làm không tốt sẽ khiến cho xã hội
phát sinh nhiều tiêu cực, mất ổn định. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã
18
hội là do thiếu việc làm và thất nghiệp gây nên, bởi thất nghiệp thường làm cho con
người bị bần cùng hóa, thất nghiệp đi kèm với không có thu nhập, mà con người thì bao
giờ cũng có nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại… đó là những nhu cầu tối thiểu trong cuộc
sống[16]. Khi NLĐ bị mất việc làm, thất nghiệp sẽ tác động rất lớn đến tinh thần và tâm
lý của họ. Để ngăn chặn và hạn chế những hành vi tiêu cực có thể xảy ra cho xã hội thì
có lẽ không có biện pháp nào phát huy tác dụng như chính sách TCTN. Rõ ràng với
chính sách này NLĐ cũng yên tâm phần nào về cuộc sống để dồn sức lo tìm kiếm một
công việc mới, ổn định dần và tiến đến cải thiện đời sống của gia đình mình trong tương
lai, góp phần giữ gìn sự ổn định xã hội. Không những thế, bảo hiểm thất nghiệp còn có
ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị.Bất kỳ một quốc gia nào, vào thời gian nào cũng tồn
tại một đội quân thất nghiệp tuy mức độ và tỷ lệ là khác nhau. Thường trong giai đoạn
hưng thịnh của nền kinh tế thì tỷ lệ thất nghiệp thấp và trong giai đoạn khủng hoảng thì
tỷ lệ này là cao. Khi NLĐ bị mất đi nguồn thu nhập do mất việc làm, đời sống lâm vào
hoàn cảnh khó khăn, sẽ khiến cho họ mất đi lòng tin đối với Nhà nước, gây ra những
hậu quả khó lường trước, thậm chí dẫn tới sự sụp đổ của một chế độ, một quốc gia. Do
đó, bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện sẽ góp phần ổn định chính trị của đất nước.
- Về mặt pháp lý:
Theo Công ước số 102 năm 1952 của ILO thì TCTN là một trong chín nhánh của
bảo hiểm xã hội. Với sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thì quyền được bảo hiểm của
con người đã được nâng lên một bước. Việc hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội là việc
làm hết sức cần thiết vì quyền được bảo hiểm xã hội là một trong những quyền cơ bản
của con người. Trong tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hiệp quốc thông qua ngày
10/12/1948: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền được
hưởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó được đặt trên cơ sở sự thỏa mãn các quyền về kinh
tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”và ngoài
ra Điều 25 có ghi: “Mỗi người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức
khỏe cho bản thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp”.
Việc làm và giải quyết việc làm nhằm hạn chế thất nghiệp cũng là một phạm trù thuộc
quyền con người. Điều 3 tuyên ngôn nhân quyền nhấn mạnh: “Mọi người đều có quyền
làm việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và
19
được bảo vệ chống lại thất nghiệp”. Như vậy, quyền được bảo hiểm thất nghiệp, quyền
được làm việc là một trong những quyền của con người.Nó không những được quy định
trong pháp luật quốc gia mà còn được quy định trong pháp luật quốc tế. Sự ra đời của
bảo hiểm thất nghiệp đã biến quyền con người, quyền công dân trở thành hiện thực.
1.2.4. Nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp
Nguyên tắc cơ bản của BHTN được hiểu là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo
xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
được quy định tại điều 41 luật việc làm 2013.
Thứ nhất, BHTN phải gắn liền TCTN với giải quyết việc làm cho người
thất nghiệp.
TCTN và xúc tiến việc làm cho NLĐ là hai chức năng cơ bản của BHTN, Đây là
nguyên tắc nhằm bảo đảm không chỉ là những nhu cầu cơ bản nhất về đời sống vật chất
cho NLĐ bị mất việc làm, mà còn giúp họ nhanh chóng tìm được việc làm mới, góp
phần đảm bảo an sinh xã hội. Do đó, việc quy định và tổ chức thực hiện BHTN phải
đảm bảo chi trả TCTN không được tách rời khỏi hỗ trợ về việc làm. Các quy định về
các chế độ BHTN phải chỉ rõ bao gồm cả chế độ TCTN và chế độ hỗ trợ về việc làm.
Ngoài ra, BHTN cần phải có các quy định về các biện pháp nhằm tạo điều kiện cho NLĐ
nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động như cung cấp thông tin về thị trường lao
động, đào tạo nghề, hỗ trợ doanh nghiệp nhận NLĐ thất nghiệp...; Việc chi trả TCTN
cần tiến hành đồng thời với thực hiện các chế độ hỗ trợ về việc làm nhằm nhanh chóng
đưa NLĐ quay trở lại thị trường lao động. Việc quy định TCTN gắn liền với chế độ hỗ
trợ về việc làm là cần thiết để có thể bảo đảm được ý nghĩa thực tiễn của BHTN, bởi
TCTN chỉ đơn thuần bù đắp lại phần thu nhập bị mất đi cho NLĐ bị mất việc làm mà
không thể giải quyết được tình trạng thất nghiệp của họ. Khi đó, các hoạt động xúc tiến
và tạo việc làm lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết thất nghiệp và ổn định
thu nhập cho NLĐ.
Thứ hai, trợ cấp BHTN phải đảm bảo khuyến khích người thất nghiệp chủ
động tìm kiếm việc làm.
Giống như các chế độ bảo hiểm xã hội khác, BHTN cũng nhằm mục đích hỗ trợ
cuộc sống cho NLĐ bị mất thu nhập do thất nghiệp thông qua việc chi trả cho người đủ
20
điều kiện hưởng một khoản trợ cấp. Tuy nhiên, nếu như các chế độ trợ cấp xã hội khác
chỉ nhằm bù đắp một phần thu nhập bị mất của NLĐ thì TCTN còn phải tạo được động
lực tích cực cho người thất nghiệp để họ chủ động tìm kiếm việc làm, thoát khỏi tình
trạng thất nghiệp. Nếu quy định mức trợ cấp quá cao, thời hạn hưởng trợ cấp kéo dài sẽ
gây tâm lý “trông chờ” vào BHTN, chấp nhận tình trạng thất nghiệp để hưởng trợ cấp.
Do đó, việc xác định mức TCTN, điều kiện hưởng và thời gian hưởng TCTN cũng cần
phải dựa trên những đặc điểm khác nhau của mỗi quốc gia cũng như khả năng chi trả
của quỹ BHTN để khoản trợ cấp này vừa có thể đảm bảo được những điều kiện sống cơ
bản cho NLĐ và gia đình của họ khi bị mất việc làm, vừa đủ thời gian để NLĐ tìm việc
làm hoặc học tập nâng cao tay nghề để có thể tìm được việc làm mới. Khoản trợ cấp này
thường được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mức lương và được trả hàng tháng cho người
thất nghiệp trong một thời hạn nhất định. Mức TCTN hàng tháng không thấp hơn mức
lương tối thiểu và được cân đối với mức đóng BHTN trước đó của NLĐ.
Thứ ba, mức hưởng BHTN được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và
có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHTN.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý đối với
các hoạt động kinh doanh. BHTN trở thành “lưới đỡ” cho xã hội rất cần có tỉ lệ tương
xứng giữa đóng góp với hưởng thụ của NLĐ, ngăn ngừa việc quỹ bảo hiểm không đủ
khả năng chi trả và nhà nước phải đứng ra bù đắp phần lớn. Tuy nhiên, việc quy định tỉ
lệ này phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho NLĐ, xuất phát từ vai trò quan trọng
của BHTN đó là hỗ trợ cuộc sống cho NLĐ khi bị mất thu nhập do mất việc làm. Việc
xác định mức hưởng trợ cấp BHTN phải đảm bảo được khả năng chi trả của quỹ bảo
hiểm và tính khuyến khích NLĐ chủ động tìm kiếm việc làm nhằm thoát khỏi tình trạng
thất nghiệp. Nếu quy định tỉ lệ hưởng trợ cấp BHTN quá thấp, thời gian được hưởng
quá ít sẽ không bảo đảm được mức sống tối thiểu cho NLĐ, làm mất đi ý nghĩa của
BHTN. Nhưng nếu quy định mức trợ cấp BHTN quá cao, thời gian hưởng trợ cấp kéo
dài lại dẫn đến khó cân đối tài chính giữa thu và chi BHTN. Đây cũng là điểm khác biệt
trong việc xác định mức trợ cấp BHTN so với các loại trợ cấp bảo hiểm xã hội thông
thường. Mặt khác, pháp luật BHTN còn phải thể hiện tính xã hội, có sự chia sẻ rủi ro
giữa những người tham gia bảo hiểm. Điều này xuất phát từ việc BHTN cũng là một
21
chế độ của bảo hiểm xã hội, do đó nó cũng có tính chất tương trợ, lấy “số đông bù số
ít”. Nếu không quán triệt nguyên tắc này thì các khoản trợ cấp sẽ chỉ đơn thuần là một
khoản tiền tiết kiệm trả muộn và ý nghĩa xã hội của BHTN sẽ mất đi.
Đây là 3 nguyên tắc giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và điều chỉnh hệ thống
pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Bên cạnh đó, bảo hiểm thất nghiệp còn cần phải đảm
bảo nguyên tắc: BHTN kết hợp chế độ trợ cấp tạm thời với chế độ giải quyết việc làm
cho người thất nghiệp. Điều này thể hiện tính xã hội vô cùng sâu sắc phù hợp với đường
lối phát triển kinh tế đi liền với hài hòa chính sách về việc làm cho NLĐ. BHTN phải
vừa bù đắp thu nhập, vừa tạo động lực tích cực cho người thất nghiệp chủ động tìm cơ
hội trở lại làm việc. Và nguyên tắc cuối cùng cũng là nguyên tắc khá đặc trưng của
BHTN đó là quỹ BHTN phải được hình thành theo nguyên tắc ba bên cùng có trách
nhiệm[25].
1.3. Pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp
1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Đối tượng tham gia BHTN được quy định tại Điều 43, Điều 44 Luật Việc làm
2013 và Điều 11 Nghị định 28/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó, đối tượng tham gia BHTN là NLĐ,
NSDLĐ và nhà nước.
Người lao động
Theo khoản 1 Điều 3, Điều 43 Luật Việc làm năm 2013 thì NLĐ là công dân Việt
Nam, phải tham gia BHTN khi làm việc theo HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc không xác
định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc HĐLV xác định thời hạn; HĐLĐ theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.
Theo quy định này, chỉ những NLĐ là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên,
có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc; giao kết các loại hợp đồng lao động, hợp
đồng làm việc như trên với NSDLĐ mới là đối tượng của BHTN. Do đó, những NLĐ
là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất
sức lao động hàng tháng, giúp việc gia đình; người giao kết HĐLĐ dưới 03 tháng không
thuộc đối tượng tham gia BHTN. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 11 Nghị định số
28/2016/NĐ-CP thì NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm
22
việc trở lên không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội,
NLĐ tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc HĐLV đã giao kết theo quy định của
pháp luật thì NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHTN trong thời gian này.
So với quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, quy định
của Luật Việc làm năm 2013 đã cho phép mở rộng đối tượng tham gia. Như vậy, Nhà
nước đã rất nỗ lực trong việc giải quyết chính sách đối với người thất nghiệp, song vẫn
còn hạn chế đối với NLĐ có thời hạn làm việc dưới ba tháng, người giúp việc gia
đình.Đây là những đối tượng rất cần có sự quan tâm, giúp đỡ. Vì thế, để đảm bảo quyền
được BHTN của NLĐ, trong thời gian tới, Nhà nước cần cân nhắc, xem xét bổ sung
thêm vào chính sách đối tượng chưa được tham gia để họ được hưởng quyền lợi bảo
hiểm như những NLĐ khác.
Người sử dụng lao động
Tại khoản 2, điều 43 Luật việc làm năm 2013 quy định NSDLĐ tham gia BHTN
bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; Tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam; Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ
hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động.
Trước kia, theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm
2006 và Điều 3 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP, việc tham gia BHTN chỉ áp dụng đối
với NSDLĐ có sử dụng từ 10 lao động trở lên tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ
chức và cá nhân. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít số lượng doanh nghiệp sử dụng
dưới 10 lao động. Nếu Nhà nước vẫn giữ nguyên quy định này, sẽ có nhiều NLĐ không
có cơ hội được tham gia BHTN. Hơn nữa, so với nơi có quy mô lớn, những doanh nghiệp
này thường là đối tượng kinh doanh không ổn định, do đó, NLĐ làm việc tại đây sẽ dễ
bị thất nghiệp hơn. Vì vậy, cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia đóng BHTN, Luật
Việc làm năm 2013 cũng đề ra những thay đổi về việc tham gia BHTN của NSDLĐ.
Như vậy, việc xác định NSDLĐ có phải đối tượng tham gia BHTN không còn
phụ thuộc vào số lượng NLĐ nữa mà căn cứ vào thời hạn làm việc theoHĐLV của NLĐ.
23
Sự thay đổi đang kể này không chỉ hỗ trợ, giải quyết những khó khăn cho NLĐ khi mất
việc mà còn ràng buộc thêm trách nhiệm từ phía NSDLĐ.
Nhà nước
Nhằm đảm bảo an toàn xã hội ở mức tối thiểu, với chức năng quản lý xã hội, để
tránh những bất ổn về chính trị, xã hội, vì mục tiêu phát triển, ổn định, bền vững, đòi
hỏi Nhà nước phải có đóng góp nhất định vào quỹ BHTN. Có sự tham gia đóng góp của
Nhà nước sẽ bảo đảm cho quỹ BHTN tránh khỏi nguy cơ mất khả năng cân đối khi số
lượng người thất nghiệp tăng lên đột biến, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế khủng
hoảng.Bên cạnh đó, để đảm bảo an sinh xã hội, giải quyết hậu quả của việc ban hành
những chính sách gây bất lợi ảnh hưởng tới vấn đề việc làm, Nhà nước cũng phải có
một phần trách nhiệm trong việc hình thành quỹ. Hơn nữa, ngoài mục đích duy trì sự
tồn tại của quỹ BHTN, việc đóng phí còn là cơ sở đảm bảo thanh toán quyền lợi của
người tham gia.
Như vậy, đối tượng và phạm vi áp dụng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của
Luật Việc làm hiện hành đã mở rộng hơn so với quy định của Luật BHXH trước đây ở
đối tượng là người có công việc thời vụ từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Trước đây theo
quy định cũ thì NLĐ làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 6 tháng trở lên mới thuộc
đối tượng tham gia BHTN. Việc mở rộng phạm vi tham gia BHTN đã thể hiện chính
sách xã hội và an sinh của nước ta ngày được chú trọng và phát triển. Việc mở rộng
phạm vi tham gia BHTN cũng nhằm đảm bảo sự ổn định cho đối tượng là người có công
việc từ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Đây là đối tượng thường xuyên có sự thay đổi về
công việc nên việc quy định BHTN cho họ sẽ nhằm đảm bảo tốt hơn đời sống cho họ
khi họ chưa tìm kiếm được việc làm mới.Phạm vi đối tượng tham gia BHTN mặc dù đã
mở rộng hơn so với quy định trướctrước đây nhưng vẫn còn bó hẹp trong phạm vi những
người tham gia HĐLĐ và HĐLV mà không quy định cho đối tượng không tham gia
HĐLĐ. Việc không áp dụng BHTN cho đối tượng là NLĐ không tham gia HĐLĐ xuất
phát từ khó khăn trong việc duy trì và quản lí quỹ bảo hiểm, vấn đề xác định và quản lí
đối tượng thất nghiệp cũng như các vấn đề liên quan đến chính sách an sinh xã hội.
24
1.3.2. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
1.3.2.1. Nguồn hình thành quỹ
Quỹ BHTN là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các
bên tham gia quan hệ BHTN và dùng để chi trả trợ cấp cho NLĐ khi bị thất nghiệp theo
quy định của pháp luật nhằm đưa người thất nghiệp sớm trở lại thị trường lao động.Quỹ
được hình thành chủ yếu từnguồn đóng của 3 chủ thể: NLĐ, NSDLĐ và ngân sách nhà
nước hỗ trợ. Ngoài ra quỹ còn được bổ sung thêm do đầu tư từ quỹ mang lại hoặc từ các
nguồn thu hợp pháp khác[24, khoản 2 Đ57].
Thứ nhất, theo quy định tại điều 7 Luật việc làm 2013 thì mức đóng và trách
nhiệm đóng BHTN từ NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước được quy đinh như sau:
- NLĐ đóng bằng 1% tiền lương tháng;
- NSDLĐ đóng bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những NLĐ đang tham gia bảo hiểm
thất nghiệp;
- Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những
NLĐ đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp và do ngân sách trung ương bảo đảm.
Thứ nhất, NLĐ là đối tượng được hưởng lợi trực tiếp khi có sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Do vậy, để nhận được sự hỗ trợ, bảo đảm đó, NLĐ phải thực hiện nghĩa vụ đóng
phí. Mức phí này chính là căn cứ để cơ quan BHTN giải quyết chế độ cho người tham
gia. NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền
lương tháng đóng BHTN là tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng
không quá 20 tháng lương cơ sở tại thời điểm đóng BHTN. Còn NLĐ đóng BHTN theo
chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định thì tiền lương tháng đóng BHTN là tiền lương
làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Theo quy định mới, mức đóng tối đa là 20
tháng lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng BHTN chứ không căn cứ vào mức lương
tối thiểu chung như trước đây. Quy định này nhằm khắc phục những bất cập của quy
định cũ.
Đối với NSDLĐ, hàng tháng phải đóng mức bằng 1% quỹ tiền lương tháng đóng
BHTN của những NLĐ đang tham gia BHTN và trích 1% tiền lương tháng của từng
NLĐ để đóng cùng một lúc vào quỹ BHTN (Điều 6 Nghị định 28/2016/NĐ-CP). Thực
ra, cùng là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, song so với mức đóng góp của NLĐ
25
tham gia bảo hiêm xã hội tự nguyện, bảo hiểm xã hội bắt buộc, NLĐ tham gia BHTN
có mức đóng 1% là khá thấp. Do đó, để duy trì quỹ BHTN trong những giai đoạn tiếp
theo, nhất là khi Nhà nước chỉ tham gia hỗ trợ vào quỹ thì sự điều chỉnh tăng mức đóng
góp này là điều hết sức cần thiết.
Đối với NSDLĐ, đây cũng là cách tốt hơn cả để tránh khỏi những thất thiệt về
kinh tế khi NLĐ của họ bị mất việc làm. Thay vì họ phải chi cùng lúc một khoản tiền để
trả trợ cấp khi NLĐ không có việc làm (khoản kinh phí này lớn hơn rất nhiều so với
kinh phí đóng BHTN), thì họ tham gia đóng góp định kỳ vào quỹ BHTN một khoản tiền
tương ứng với một tỷ lệ phần trăm nhất định căn cứ trên mức lương, thu nhập của những
NLĐ tham gia chế độ
Thứ hai, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ Quỹ BHTN Quỹ BHTN được hình
thành trên cơ sở sự đóng góp và hỗ trợ của Nhà nước, NSDLĐ và NLĐ. Để bảo toàn và
tăng trưởng quỹ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam có trách nhiệm dùng số tiền nhàn rỗi tạm
thời trong quỹ để đầu tư. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư từ Quỹ BHTN phải bảo đảm an
toàn, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết. Tiền sinh lời từ đầu tư, tăng trưởng Quỹ
phải được bổ sung hằng năm vào Quỹ BHTN.
Thứ ba, nguồn thu hợp pháp khác. Bên cạnh các khoản đóng góp, hỗ trợ, tiền lãi
từ hoạt động đầu tư từ Quỹ BHTN, Quỹ BHTN còn có các nguồn thu hợp pháp khác
như: Tiền lãi chậm đóng BHTN theo quy định; Các khoản thu hợp pháp khác theo quy
định của pháp luật... Nhờ có các khoản này, quỹ BHTN luôn được duy trì, góp phần bảo
đảm quyền lợi cho các đối tượng tham gia BHTN.
1.3.2.2. Quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Quỹ BHTN không chỉ thực hiện chi trả trợ cấp cho người thất nghiệp mà còn tạo
điều kiện thuận lợi cho họ tiếp cận với công việc mới. Do đó, cần có quy định cụ thể
cho việc quản lý và sử dụng quỹ BHTN.
Theo khoản 3 Điều 57 và Điều 59 Luật việc làm, Quỹ BHTN được sử dụng cho
các mục đích: Chi trả TCTN; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề
để duy trì việc làm cho NLĐ; Hỗ trợ học nghề; Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; Đóng
bảo hiểm y tế cho người hưởng TCTN; Chi phí quản lý BHTN thực hiện theo quy định
của Luật bảo hiểm xã hội; và đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng Quỹ. Quỹ BHTN phải
26
được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích
từ trung ương đến địa phương theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và
được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHTN độc lập với ngân sách Nhà nước để chủ động giải
quyết vấn đề thất nghiệp. Hoạt động của quỹ BHTNlà độc lập, tự thu, tự chi và có sự hỗ
trợ một phần của Nhà nước. Không được tùy tiện sử dụng quỹ này để giải quyết các vấn
đề xã hội khác.
Theo quy định tại Điều 59 Luật việc làm năm 2013, Quỹ BHTN chỉ được đầu tư
theo các hình thức: Mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước; trái phiếu của
ngân hàng thương mại do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ; Đầu tư vào các dự án
quan trọng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; và Cho ngân sách Nhà nước,
Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng thương mại
do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ vay. Do Quỹ BHTN dựa trên cơ chế tự chủ
tài chính, các bên hưởng lợi đều phải có nghĩa vụ đóng góp trên cơ sở có sự hỗ trợ của
Nhà nước. Vì thế, để duy trì và phát triển quỹ, việc cho phép thực hiện các hoạt động
đầu tư từ quỹ là hết sức cần thiết nhằm tăng cường khả năng tài chính cho quỹ, đáp ứng
được nhu cầu sử dụng, đặc biệt là trong bối cảnh quỹ còn non trẻ, chưa đủ tiềm lực để
có thể tự chi trả cho các chế độ BHTN mà vẫn cần tới sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy
nhiên, cũng cần phải thấy rằng hoạt động đầu tư có thể sinh lời thì cũng có thể gây ra
tổn thất. Mặc dù đã có quy định hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm phải đảm bảo an
toàn, hiệu quả và có thể thu hồi được khi cần thiết, nhưng lại chưa có chế tài đi kèm với
quy định đó trong trường hợp việc sử dụng quỹ không hiệu quả gây tổn thất tài chính
cho quỹ.
1.3.3. Các chế độ của bảo hiểm thất nghiệp
1.3.3.1. Chế độ trợ cấp thất nghiệp
- Đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp:
Đối tượng hưởng TCTN là những NLĐ làm việc theo HĐLĐ hoặc HĐLV bao gồm:
- HĐLĐ hoặc HĐLV không xác định thời hạn;
- HĐLĐ hoặc HĐLV xác định thời hạn;
- HĐLĐtheo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng
đến dưới 12 tháng;
27
Trường hợp NLĐ giao kết và đang thực hiện nhiều HĐLĐ, HĐLV thuộc đối tượng
tham gia BHTN thì NLĐ và NSDLĐ của HĐLD, hợp đồng việc làm đầu tiên có trách
nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp
- Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp:
Theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm và Điều 11 Nghị định 28/2016/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm về BHTN, NLĐ bị thất nghiệp
được hưởng TCTN khi đáp ứng đủ điều kiện sau:
Thứ nhất, NLĐ đang đóng bảo hiểm bị mất việc làm hoặc chấm dứt HĐLĐ
hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật chấm dứt HĐLĐ hoặc
hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp:
- NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ, HĐLV trái pháp luật;
- Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng.
- NLĐ đang đóng BHTN được hiểu là người có tháng liền kề trước thời điểm chấm
dứt HĐLĐ hoặc HĐLV đã đóng BHTN và được tổ chức bảo hiểm xã hội xác nhận.
Như vậy, những trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ, HĐLV trái pháp
luật, bị xử lý kỉ luật theo hình thức sa thải hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp
luật hoặc bị kết án tù giam theo quyết định của Toà án, chết hoặc mất tích theo tuyên bố
của Toà án sẽ không được hưởng trợ cấp BHTN. Việc đưa ra quy định như trên nhằm
nâng cao ý thức, tinh thần, trách nhiệm của NLĐ trong quá trình làm việc.Đồng thời,
tránh tình trạng NLĐ ỷ lại vào BHTN mà không coi trọng đối với công việc mà mình
đang có.
Thứ hai, người thất nghiệp phải tham gia đóng BHTN đủ thời gian theo quy
định của pháp luật.
Cụ thể, thời gian phải từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất
nghiệp đối với trường hợp ký kết HĐLĐ hoặc HĐLV có xác định thời hạn hoặc không
xác định thời hạn; đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi thất nghiệp đối
với NLĐ ký kết HĐLĐ theo mùa vụ hoặc một công việc nhất định có thời hạn đủ 03
tháng đến dưới 36[24, khoản 2 Đ49].
Theo đó, NLĐ muốn hưởng TCTN phải có trách nhiệm đóng phí BHTN trong
một khoảng thời gian nhất định trước khi bị mất việc làm.Để được hưởng quyền lợi của
28
BHTN, NSDLĐ và NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHTN phải có trách nhiệm đóng phí
để tạo quỹ. Do đó, nếu NSDLĐ không tự giác đóng thì NLĐ sẽ không được tham gia
chế độ và khi thất nghiệp sẽ không được hưởng quyền lợi.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tùy vào từng loại hợp đồng mà thời hạn
đóng BHTN là đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng hoặc 36 tháng trước khi
NLĐ thất nghiệp. Tháng đóng BHTN của NLĐ được tính nếu NSDLĐ và NLĐ đã thực
hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc và đã đóng BHTN. Như vậy, so với
khoản 1 Điều 15 Nghị định 127/2008/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật BHXH về
BHTN, Luật việc làm 2013 quy định cùng là NLĐ nhưng phụ thuộc vào loại hợp đồng
đã ký kết mà điều kiện hưởng trợ cấp khác nhau. Do vậy, để bảo vệ quyền được BHTN
của NLĐ, Nhà nước cần quy định lại khoảng thời gian đóng phí trước khi hưởng TCTN
sao cho dung hòa lợi ích giữa các đối tượng hưởng trợ cấp. Nhà nước nên để khoảng
thời gian đóng phí của các đối tượng NLĐ ký kết các loại HĐLĐ hoặc HĐLV khác nhau
được hưởng trợ cấp trong khoảng gần với nhau hơn khoảng cách nhau là 06 tháng. Thiết
nghĩ vì cùng là NLĐ, việc ký kết loại hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc này
đôi khi cũng phụ thuộc vào nhu cầu của NSDLĐ, vì vậy nhà nước nên quy định để thời
gian đóng phí trước khi hưởng BHTN của NLĐ là như nhau cho dù họ có ký kết các
loại HĐLĐ hoặc HĐLV là khác nhau.
Thứ ba, để hưởng TCTN, NLĐ thất nghiệp phải nộp hồ sơ tại Trung tâm dịch
vụ việc làm ở địa phương nơi NLĐ muốn nhận TCTN.
Trước đây, theo quy định tại khoản 5 Điều 1 Thông tư số 04/2013/TT-BLĐTBXH Sửa
đổi hướng dẫn về BHTN thì trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày NLĐ bị mất việc làm
hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, nếu NLĐ chưa có việc làm
mà có nhu cầu hưởng TCTN thì phải đăng ký thất nghiệp. Còn nay, cũng trong thời hạn
nêu trên, NLĐ thất nghiệp chỉ cần nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN là được hưởng trợ
cấp .Như vậy, việc bỏ quy định về đăng ký thất nghiệp là một hướng mới trong cải cách
thủ tục hành chính.Quy định này sẽ tạo điều kiện cho người mất việc thuận lợi hơn trong
quá trình giải quyết quyền lợi bảo hiểm.
Trên thực tế khi không có việc làm, người thất nghiệp thường có những biểu hiện
tự ti, do đó, nếu đưa ra quy định bắt buộc phải đăng ký thất nghiệp mới được hưởng trợ
29
cấp, thì chưa chắc tất cả số người thất nghiệp đã đến cơ quan tiếp nhận thông tin để đăng
ký. Hơn nữa, việc đăng ký thất nghiệp sẽ tạo ra nhiều rào cản hơn đối với NLĐ có nhu
cầu đăng ký thất nghiệp tại Trung tâm giới thiệu việc làm không phải là nơi đã làm việc
trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.
Bởi theo quy định, để được hưởng trợ cấp họ phải có xác nhận về việc chưa đăng ký
thất nghiệp của Trung tâm giới thiệu việc làm nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm
hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Điều này gây khó khăn, rắc
rối cho người đăng ký, vì thế, rất khó để có được chính xác số lượng người thất nghiệp.
Do vậy, việc giải quyết tình trạng thất nghiệp cũng mang lại hiệu quả không cao. Để
khắc phục điều này, Luật việc làm năm 2013 và Nghị định 28/2016/NĐ-CP đã cho phép
NLĐ thất nghiệp được nộp hồ sơ hưởng TCTN ở Trung tâm dịch vụ việc làm tại địa
phương nơi NLĐ muốn nhận trợ cấp. Quy định này giúp cho NLĐ thoải mái, dễ dàng
và chủ động hơn trong việc tiến hành thủ tục hưởng TCTN.Tuy nhiên, hàng tháng NLĐ
thất nghiệp vẫn phải có trách nhiệm khai báo với trung tâm dịch vụ việc làm nơi họ đang
hưởng TCTN về việc tìm kiếm việc làm. Qua đó, cơ quan quản lý nhà nước về lao động
cũng có được số liệu chính xác về số lượng người thất nghiệp, từ đó đề ra biện pháp phù
hợp để giải quyết tình trạng thất nghiệp, góp phần hoạch định các chính sách kinh tế -
xã hội của đất nước, trong đó có chính sách về vấn đề việc làm và thất nghiệp.
Thứ tư, NLĐ chưa tìm được việc làm sau 15 ngày làm việc kể từ ngày nộp hồ
sơ hưởng BHTN tới Trung tâm dịch vụ việc làm. Ngày thứ nhất trong 15 ngày nêu trên
là ngày ngay sau ngày NLĐ đăng ký thất nghiệp, tính theo ngày làm việc, tức là từ ngày
thứ hai đến hết ngày thứ sáu hàng tuần. Quy định này về thời điểm tính hưởng BHTN
hiện hành còn tạo ra bất cập không phù hợp với thực tiễn, cụ thể: khoản 3 Điều 15 nghị
định số 127/2008/NĐ-CP quy định: “chưa tìm đượcviệc làm sau 15 ngày, kể từ ngày
đăng ký với cơ quan lao động theo quy định”, trong khi đó khoản 3 Điều 3 Thông tư số
32/2010/TT-BLĐTBXH lại quy định: “Thời điểm tính hưởng các chế độ BHTN tính từ
ngày thứ 16 và tính theo ngày làm việc kể từ ngày đăng ký thất nghiệp theo quy định”.
Như vậy, để đảm bảo đúng quy định về thời điểm NLĐ được hưởng TCTN theo quy
định trên thì quyết định TCTN cho NLĐ phải được Sở Lao động -Thương binh và Xã
hội ký từ trước ngày thứ 16, tức là quy định về việc “chưa tìm được việclàm sau 15
30
ngày” như trên là không thể đảm bảo được trên thực tiễn. Để khắc phục điều này, khoản
4 Điều 49 Luật Việc làm năm 2013 quy định: “chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể
từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN” và “thời điểm hưởng TCTN của NLĐ được tính từ
ngày thứ 16 theo ngày làm việc kể từ sau 60 ngày nộp hồ sơ hưởng TCTN”. Theo đó,
kể từ ngày nhận được hồ sơ hưởng TCTN cho đến ngày thứ 15 mà người thất nghiệp
vẫn chưa tìm được việc mới, cơ quan quản lý về lao động sẽ duyệt hồ sơ để họ được
hưởng quyền lợi bảo hiểm từ ngày thứ 16. Như vậy, quy định mới đã giải quyết bất cập,
không thể thực hiện được trong quy định trước đây, giải tỏa được tâm lý hoang mang
của người tất nghiệp khi làm thủ tục hưởng bảo hiểm, góp phần củng cố niềm tin cho
người thất nghiệp.
Bản chất của TCTN là để hỗ trợ cho NLĐ bị thất nghiệp và chưa có thu nhập nên
yếu tố chưa tìm kiếm được việc làm là hết sức quan trọng. Trên thực tế, có nhiều trường
hợp tuy có đi làm, có thu nhập nhưng lại vẫn muốn hưởng thêm tiền từ TCTNdẫn đến
tình trạng không thất nghiệp nhưng vẫn làm hồ sơ để được hưởng TCTN. Chính vì vậy,
BHTN lại không phát huy đúng vai trò của nó nên cần đưa ra điều kiện về không tìm
kiếm được việc làm để làm căn cứ xác định có được hưởng TCTN hay không.
- Mức hưởng và thời gian hưởng TCTN:
Mức hưởng và thời gian hưởng TCTN được quy định tại Điều 50, Luật việc làm 2013
như sau:
- Mức hưởng TCTN hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng
bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp nhưng tối đa không quá
05 lần mức lương cơ sở đối với NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do
Nhà nước quy định hoặc không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của
Bộ luật lao động đối với NLĐ đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do
NSDLĐ quyết định tại thời điểm chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV.
- Thời gian hưởng TCTN được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng
đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng TCTN, sau đó, cứ đóng đủ thêm
12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng TCTN nhưng tối đa không quá 12 tháng
Theo đó, thời gian hưởng TCTN sẽ căn cứ theo số tháng đóng BHTN của NLĐ
nhằm đảm bảo công bằng tối đa cho NLĐ đồng thời đảm bảo hoạt động của quỹ bảo
31
hiểm. Mức hưởng TCTN sẽ là 60% mức trung bình tiền lương đóng BHTN của 6 tháng
liền kề trước khi nghỉ việc nhưng không quá 5 lần mức lương cơ sở hoặc 5 lần mức
lương tối thiểu vùng.
Quy định về mức và thời gian hưởng TCTN ở Việt Nam là tương đối phù hợp
với khuyến nghị của ILO và pháp luật các quốc gia trên thế giới. Trong Công ước số
102, ILO đã đề xuất mức hưởng là 45% tổng thu nhập trước đó của người thụ hưởng và
thời gian hưởng ít nhất là 13 tuần. Các quốc gia thường quy định mức hưởng cao hơn
khuyến nghị của ILO, chẳng hạn, Trung Quốc quy định mức hưởng bằng 70% tiền
lương, Đức quy định 67% và 60% tiền lương phụ thuộc vào số con của người thất
nghiệp… Thời gian hưởng được các quốc gia quy định khá linh hoạt, phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế xã hội và thực trạng việc làm, đảm bảo mục đích của bảo hiểm. Đa
phần các quốc gia đều quy định thời gian hưởng phụ thuộc vào thời gian đóng bảo hiểm,
lũy tiến theo thời gian đóng[27]. Việc pháp luật Việt Nam quy định thời gian hưởng,
mức hưởng TCTN như vậy là hoàn toàn phù hợp và cân đối so với mặt bằng chung quy
định của các quốc gia trên thế giới.
- Các trường hợp tạm dừng, tiếp tục, chấm dứt hưởng TCTN:
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 53, Luật Việc làm 2013: “Người đang hưởng
TCTN bị tạm dừng hưởng TCTN khi không thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng
tháng theo quy định tại Điều 52 của Luật này”.Theo đó, người đang hưởng TCTN phải
thực hiện thông báo về việc tìm kiếm việc làm hàng tháng. Trong thời hạn 02 ngày làm
việc kể từ ngày NLĐ không đến thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo
quy định, trung tâm dịch vụ việc làm nơi NLĐ đang hưởng TCTN trình Giám đốc Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội quyết định về việc tạm dừng hưởng TCTN của NLĐ.
Quyết định về việc tạm dừng hưởng TCTN được trung tâm dịch vụ việc làm gửi: 01 bản
đến Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh để thực hiện tạm dừng chi trả TCTN đối với NLĐ; 01 bản
đến NLĐ.
Việc thông báo về việc tìm kiếm việc làm như là một biện pháp để kiểm soát tình
hình thực tế của người đang hưởng TCTN.Bên cạnh đó, việc người thất nghiệp thông
báo về tình trạng tìm kiếm việc làm cũng giúp các cơ quan chức năng có thể kịp thời hỗ
trợ, giúp họ sớm tìm kiếm được việc làm phù hợp để tiếp tục cuộc sống.
32
Trong trường hợp người đang hưởng TCTN bị tạm dừng hưởng mà vẫn còn thời
hạn được TCTN thì nếu thực hiện việc thông báo về việc tìm kiếm việc làm thì có thể
được tiếp tục cho hưởng TCTN theo quy định [24, khoản 2 Đ53].
Trong quá trình hưởng TCTN, người hưởng TCTN có thể bị chấm dứt hưởng nếu
thuộc một trong các trường hợp sau:
- Hết thời hạn hưởng TCTN theo quyết định hưởng TCTN của NLĐ;
- Có việc làm. (NLĐ được xác định là có việc làm thuộc một trong các trường hợp: Đã
giao kết hợp HĐLĐ, HĐLV từ đủ 03 tháng trở lên;Có quyết định tuyển dụng đối với
những trường hợp không thuộc đối tượng giao kết HĐLĐ hoặc HĐLV; NLĐ thông báo
đã có việc làm cho trung tâm dịch vụ việc làm theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội quy định)
- Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an.
- Hưởng lương hưu hằng tháng.
- Sau 02 lần NLĐ từ chối việc làm do trung tâm dịch vụ việc làm nơi đang hưởng TCTN
giới thiệu mà không có lý do chính đáng. Không có lý do chính đáng được hiểu là: Việc
làm phù hợp với ngành nghề, trình độ của NLĐ đã được đào tạo; Việc làm mà NLĐ đó
đã từng làm.
- Trong thời gian hưởng TCTN, 03 tháng liên tục không thực hiện thông báo hằng tháng
về việc tìm kiếm việc làm với trung tâm dịch vụ việc làm theo quy định;
- Ra nước ngoài để định cư, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng.
- Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên
- Bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật BHTN.
- Chết.
- Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Bị tòa án tuyên bố mất tích.
- Bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù.
1.3.3.2. Chế độ hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm
Khi NLĐ chấm dứt HĐLĐ, HĐLV, họ sẽ lâm vào tình trạng không có việc làm,
không có thu nhập và cần tìm một công việc mới. Giữa một thị trường lao động đa dạng
33
như hiện nay thì việc tìm kiếm việc làm phù hợp với khả năng và sở thích của NLĐ sẽ
khó khăn. Khi đó, việc có một trung gian để tư vấn, giới thiệu việc làm đến NLĐ sẽ là cần
thiết và giúp họ lựa chọn được đúng công việc mình mong muốn hơn, đồng thời hạn chế tình
trạng thất nghiệp kéo dài hoặc nhảy việc liên tục. Hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm được
thực hiện thông qua Trung tâm dịch vụ việc làm. Kinh phí thực hiện tư vấn, giới thiệu việc
làm của trung tâm được giao khoán theo số lượng người nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN của
năm liền trước, và thực hiện thanh quyết toán theo quy định trên cơ sở thực tế số lượng người
nộp hồ sơ hưởng TCTN. Phí tư vấn, giới thiệu việc làm theo quy định của pháp luật về phí.
Trung tâm dịch vụ việc làm có nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu việc làm trên cơ sở nhu cầu, khả
năng của NLĐ và nhu cầu của thị trường lao động[11, điều14].
Về thời gian hỗ trợ tư vấn tìm việc làm, hiện nay chưa có quy định cụ thể. Nhưng
theo quy đinh trước đây tại khoản 2 Điều 5 Thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH, NLĐ
đang hưởng TCTN được Trung tâm giới thiệu việc làm hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm
tính từ ngày NLĐ được hưởng TCTN hằng tháng và không quá tổng thời gian mà NLĐ
đó được hưởng TCTN theo quyết định của Giám đốc Sở Lao động –Thương binh và Xã
hội. Việc đưa ra các quy định về tư vấn, giới thiệu việc làm góp phần không nhỏ vào
quá trình giải quyết tình trạng thất nghiệp ở nước ta.Nhờ có quy định này, người thất
nghiệp đã bớt đi sự lo lắng khi phải tìm kiếm việc mới.
1.3.3.3. Chế độ hỗ trợ học nghề
Đây là chế độ nhằm hỗ trợ, đào tạo cho NLĐ có tay nghề thấp hoặc muốn thay
đổi công việc nhưng lại chưa có kĩ năng. Chế độ hỗ trợ học nghề do cơ quan lao động
thực hiện thông qua các cơ sở dạy nghề. Để được học nghề, NLĐ phải làm đơn đề nghị
hỗ trợ học nghề, trung tâm dịch vụ việc làm có trách nhiệm xem xét, trình Giám đốc Sở
Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định.Mức hỗ trợ học nghề cho đối tượng được
hỗ trợ học nghề là 01 lần để học 01 nghề tại cơ sở dạy nghề. Mức hỗ trợ cụ thể tính theo
tháng, tùy theo từng nghề, mức thu học phí và thời gian học nghề thực tế theo quy định
của cơ sở dạy nghề. Nguồn kinh phí thực hiện hỗ trợ học nghề do Bảo hiểm xã hội Việt
Nam chi trả từ quỹ BHTN. Thời gian hỗ trợ học nghề theo thời gian học nghề thực tế
nhưng không quá 06 tháng[24, khoản Đ56].
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Áp dụng pháp luật Bảo hiểm tự nguyện theo Luật, HAY
Luận văn: Áp dụng pháp luật Bảo hiểm tự nguyện theo Luật, HAYLuận văn: Áp dụng pháp luật Bảo hiểm tự nguyện theo Luật, HAY
Luận văn: Áp dụng pháp luật Bảo hiểm tự nguyện theo Luật, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, HAYĐề tài: Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
 
Đề tài tốt nghiệp: Pháp Luật về Nhận con nuôi tại Việt Nam, HAY!
Đề tài tốt nghiệp: Pháp Luật về Nhận con nuôi tại Việt Nam, HAY!Đề tài tốt nghiệp: Pháp Luật về Nhận con nuôi tại Việt Nam, HAY!
Đề tài tốt nghiệp: Pháp Luật về Nhận con nuôi tại Việt Nam, HAY!
 
Luận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tuyển dụng viên chức trong các đơn vị sự nghiệp, HOT
Luận văn: Tuyển dụng viên chức trong các đơn vị sự nghiệp, HOTLuận văn: Tuyển dụng viên chức trong các đơn vị sự nghiệp, HOT
Luận văn: Tuyển dụng viên chức trong các đơn vị sự nghiệp, HOT
 
Luận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội, HOT
 
Luận văn thạc sĩ Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn thạc sĩ Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật Việt NamLuận văn thạc sĩ Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn thạc sĩ Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam
 
Luận án: Đảm bảo an sinh xã hội tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận án: Đảm bảo an sinh xã hội tại thành phố Hà Nội, HAYLuận án: Đảm bảo an sinh xã hội tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận án: Đảm bảo an sinh xã hội tại thành phố Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Pháp luật đình công và giải quyết đình công, HAY
Luận văn: Pháp luật đình công và giải quyết đình công, HAYLuận văn: Pháp luật đình công và giải quyết đình công, HAY
Luận văn: Pháp luật đình công và giải quyết đình công, HAY
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hotluan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về viên chức trong trường đại học
Luận văn: Thực hiện pháp luật về viên chức trong trường đại họcLuận văn: Thực hiện pháp luật về viên chức trong trường đại học
Luận văn: Thực hiện pháp luật về viên chức trong trường đại học
 
Luận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đLuận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đLuận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao độngLuận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
 
Luận văn: Giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước theo Luật
Luận văn: Giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước theo LuậtLuận văn: Giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước theo Luật
Luận văn: Giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước theo Luật
 
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt NamLuận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY

Bảo hiểm hưu trí theo Pháp luật Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam
Bảo hiểm hưu trí theo Pháp luật Bảo Hiểm Xã Hội Việt NamBảo hiểm hưu trí theo Pháp luật Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam
Bảo hiểm hưu trí theo Pháp luật Bảo Hiểm Xã Hội Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Tại Thành Phố Đà Nẵng...
Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Tại Thành Phố Đà Nẵng...Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Tại Thành Phố Đà Nẵng...
Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Tại Thành Phố Đà Nẵng...DV Viết Luận văn luanvanmaster.com ZALO 0973287149
 
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Pháp Luật bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc tại Nhật Bản
Pháp Luật bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc tại Nhật BảnPháp Luật bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc tại Nhật Bản
Pháp Luật bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc tại Nhật BảnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức.pdf
Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức.pdfPháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức.pdf
Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức.pdfNuioKila
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY (20)

Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng
Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm GiàngPháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng
Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng
 
Bảo hiểm hưu trí theo Pháp luật Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam
Bảo hiểm hưu trí theo Pháp luật Bảo Hiểm Xã Hội Việt NamBảo hiểm hưu trí theo Pháp luật Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam
Bảo hiểm hưu trí theo Pháp luật Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam
 
Luận văn: Bảo hiểm hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội, HOT
Luận văn: Bảo hiểm hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội, HOTLuận văn: Bảo hiểm hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội, HOT
Luận văn: Bảo hiểm hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội, HOT
 
Bảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật Việt Nam.doc
Bảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật Việt Nam.docBảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật Việt Nam.doc
Bảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật Việt Nam.doc
 
Bảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật, HAY
Bảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật, HAYBảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật, HAY
Bảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt NamLuận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam
 
Luan van Bao dam quyen cua lao dong nu theo phap luat viet nam
Luan van Bao dam quyen cua lao dong nu theo phap luat viet namLuan van Bao dam quyen cua lao dong nu theo phap luat viet nam
Luan van Bao dam quyen cua lao dong nu theo phap luat viet nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt NamLuận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam
 
Bảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật Việt Nam
Bảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật Việt NamBảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật Việt Nam
Bảo Đảm Quyền Của Lao Động Nữ Theo Pháp Luật Việt Nam
 
Đề tài: Quản lý về chi trả bảo hiểm xã hội tại Quận 9, HOT
Đề tài: Quản lý về chi trả bảo hiểm xã hội tại Quận 9, HOTĐề tài: Quản lý về chi trả bảo hiểm xã hội tại Quận 9, HOT
Đề tài: Quản lý về chi trả bảo hiểm xã hội tại Quận 9, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội, HOT
 
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOTLuận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
 
Đề tài: Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
Đề tài: Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAYĐề tài: Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
Đề tài: Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
 
Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Tại Thành Phố Đà Nẵng...
Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Tại Thành Phố Đà Nẵng...Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Tại Thành Phố Đà Nẵng...
Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Tại Thành Phố Đà Nẵng...
 
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.doc
Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.docBồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.doc
Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.doc
 
Pháp Luật bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc tại Nhật Bản
Pháp Luật bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc tại Nhật BảnPháp Luật bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc tại Nhật Bản
Pháp Luật bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc tại Nhật Bản
 
Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức.pdf
Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức.pdfPháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức.pdf
Pháp luật lao động Việt Nam với vấn đề lao động cưỡng bức.pdf
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tỉnh Bắc Ninh, HAY

  • 1. 1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MAI THỊ MINH HƯỜNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN HẠC SĨ LUẬT KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN Hà Nội, 2019
  • 2. 2 LỜI CAM ĐOAN Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.Phan Thị Thanh Huyền. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Học viên Mai Thị Minh Hường
  • 3. 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp............................................. 5 1.1. Thất nghiệp ...................................................................................................... 5 1.2. Bảo hiểm thất nghiệp .................................................................................... 13 1.3. Pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp ............................... 21 Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh .............................................................................................................. 41 2.1. Thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh ................... 41 2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh ...................................................................................................................... 54 Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh ..................................... 58 3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp .............................................. 58 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh .................................................................................................. 65 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 71
  • 4. 4 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BHTN Bảo hiểm thất nghiệp TCTN Trợ cấp thất nghiệp HĐLV Hợp đồng làm việc HĐLĐ Hợp đồng lao động BHXH Bảo hiểm xã hội NSDLĐ Người sử dụng lao động NLĐ Người lao động UBND Ủy ban nhân dân
  • 5. 5 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng biểu Nội dung Trang 2.1 Số đơn vị, NLĐ tham gia BHTN trong 2 năm 2016, 2017 và 6 tháng đầu năm 2018 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 41 2.2 Số người đăng ký thất nghiệp của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2018 43 2.3 Số người trong độ tuổi lao động tham gia hoạt động kinh tế và số lao động thiếu việc làm giai đoạn năm 2014 đến 6 tháng đầu năm 2018 44 2.4 Số liệu về việc tham gia, thu - chi BHTN tỉnh Bắc Ninh qua 3 năm từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2018 45 2.5 Cơ cấu số người hưởng TCTN theo độ tuổi và theo giới tính 46
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thất nghiệp là hiện tượng khách quan và được biểu hiện như một đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường.Thất nghiệp có tác động lớn đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia.Thất nghiệp có thể khiến NLĐ vào tình cảnh túng quẫn, lãng phí nguồn lực xã hội, gia tăng tỷ lệ tội phạm, là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến nền kinh tế bị đình trệ. Do đó, BHTN là một trong những chính sách quan trọng hàng đầu trong việc giải quyết tình trạng thất nghiệp. BHTN được xây dựng và thực hiện với mục đích bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi bị mất việc làm, đồng thời tạo điều kiện để NLĐ có cơ hội tìm kiếm được việc làm mới trong thời gian sớm nhất. Việt Nam là quốc gia thực hiện chính sách về BHTN tương đối muộn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới.Năm 2006, BHTN lần đầu tiên ở Việt Nam được quy định trong Luật bảo hiểm xã hội và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 và tiếp tục được hoàn thiện bởi Luật việc làm năm 2013. Về cơ bản, pháp luật BHTN đã góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ bị mất việc làm đồng thời cũng giúp NSDLĐ san sẻ được gánh nặng tài chính, họ không phải bỏ ra một khoản chi lớn để giải quyết chế độ cho NLĐ. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện pháp luật về BHTN đã bộc lộ một số hạn chế không chỉ về các quy định pháp luật mà còn trong thực tiễn thực hiện. Đó là những bất cập về đối tượng tham gia, điều kiện hưởng, thủ tục thực hiện, các hoạt động hỗ trợ học nghề, tư vấn – giới thiệu việc làm... Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam, thuộc đồng bằng sông Hồng và nằm trên Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.Trong quy hoạch xây dựng, tỉnh này thuộc vùng Thủ đô. Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm trên 2 hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Việc thực hiện pháp luật BHTN trên địa bàn tỉnh bước đầu đã có những thành công nhất định. Tuy nhiên, do BHTN là một chính sách tương đối mới, pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp còn tương đối bất cập, hạn chế nên trong quá trình áp dụng và thực hiện tại Bắc Ninh vẫn còn nhiều vướng mắc. Việc tìm ra các biện pháp thích hợp nhằm khắc phục tình trạng trên là điều hết sức cần thiết để BHTN có thể phát huy được vai trò và ý nghĩa vốn có trong thực tiễn.Chính vì vậy, em lựa chọn
  • 7. 2 đề tài “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn thạc sĩ.Thông qua luận văn, em mong muốn góp phần làm rõ hơn pháp luật về BHTN ở nước ta hiện nay và thực tiễn thực hiện pháp luật BHTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về BHTN và nâng cao hiệu quả thực hiện BHTN tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và ở Việt Nam nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Dưới tác động của nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là dưới sự khủng hoảng và suy thoái kinh tế trong hơn một thập niên gần đây, thất nghiệp trở thành vấn đề xã hội nghiêm trọng ở mọi quốc gia. Theo đó, các vấn đề về TCTN và BHTN đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà khoa học với các bài viết, chuyên đề dưới nhiều góc độ nghiên cứu. Có thể kể đến như: “Cơ chế tạo nguồn và tổ chức thực hiện BHTN” đề tài khoa học của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội năm 2003; đề tài khoa học của Bảo hiểm xã hội Việt Nam “Nghiên cứu những nội dung cơ bản của BHTN hiện đại, vấn đề lựa chọn hình thức TCTN ở Việt Nam” năm 2004; Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Nghiên cứu những nội dung cơ bản của BHTN hiện đại, vấn đề lựa chọn hình thức thất nghiệp tại Việt Nam”(2004) của TS. Nguyễn Huy Ban đã nêu lên vấn đề thất nghiệp và BHTN, cũng như yêu cầu xây dựng chế độ BHTN ở Việt Nam.Luận án tiến sĩ luật học “Chế độ BHTN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” (2005) của tác giả Lê Thị Hoài Thu đã đi sâu nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống những nội dung chủ yếu của chế độ BHTN, những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng chế độ BHTN ở Việt Nam, đồng thời có sự so sánh với quy định của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và một số nước trên thế giới. Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý như: “Đánh giá kết quả 7 năm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp” của tác giả Trương Thị Thu Hiền đăng trên tạp chí Quản lý Nhà nước số6/2016; “Chính sách bảo hiểm thất nghiệp của Việt Nam – Những bất cập và khuyến nghị” của tác giả Tạ Thị Hương đăng trên Quản lý Nhà nước số6/2013 ; “Những hạn chế và kiến nghị hoàn thiện chính sách BHTN” của tác giả Trương Thị Thu Hiền đăng trênTạp chí Nghiên cứu lập pháp số 21/2017… Tuy nhiên, việc nghiên cứu về pháp luật BHTN và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh thì hiện chưa có công trình nghiên cứu những năm gần đây đặc biệt
  • 8. 3 là từ khi Luật việc làm năm 2013 có hiệu lực đề cập. Hơn thế do pháp luật BHTN là vấn đề khó, là đối tượng nghiên cứu của cả khoa học kinh tế và khoa học pháp lý, nên trong khóa luận em có sử dụng những tư liệu, bài viết và những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã có nghiên cứu về BHTN. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về BHTN. - Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về Bảo hiểm thất nghiệp. - Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật BHTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. - Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về BHTN và thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. - Trong luận văn này tác giả xin phép không nghiên cứu về giải quyết tranh chấp bảo hiểm thất nghiệp vì lý do giới hạn nội dung của một luận văn thạc sĩ và vấn đề giải quyết tranh chấp bảo hiểm thất nghiệp cũng khá rộng. - Phạm vi không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. - Phạm vi thời gian: Từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, em sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phép biện chứng duy vật của triết học Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh được sử dụng với tư cách là phương pháp luận cho việc nghiên cứu. - Những phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, xã hội phù hợp với từng vấn đề của đề tài cũng được vận dụng như: tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, quy nạp, đối chiếu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa khoa học: Đề tài hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về BHTN cũng như pháp luật Việt Nam hiện hành về BHTN qua thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ đó xây dựng các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện BHTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
  • 9. 4 - Ý nghĩa thực tiễn: Áp dụng kiến thức của pháp luật bảo hiểm xã hội, BHTN vào giải quyết các vấn đề cụ thể trong thực tế. Đề tài cũng góp một phần để sử dụng làm tài liệu tham khảo trong học tập và nghiên cứu của sinh viên các trường Đại học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh
  • 10. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 1.1.Thất nghiệp 1.1.1. Các khái niệm liên quan - Khái niệm thất nghiệp: Lao động được hình thành và phát triển cùng với xã hội loài người.Lao động luôn được coi là nhu cầu cơ bản nhất, chính đáng nhất của con người đồng thời cũng là nghĩa vụ cao cả của mọi công dân. Như vậy, mỗi người chúng ta muốn sống, tồn tại thì đều phải lao động hay nói cách khác là phải có việc làm. Tuy nhiên, ở mọi xã hội, không phải lúc nào nhu cầu làm việc của các cá nhân đều được đáp ứng đầy đủ.Trong xã hội luôn có một bộ phận người không có việc làm, bị mất việc làm, thiếu việc làm.Tuy nhiên, tất cả những người đó có được coi là thất nghiệp hay không?Trên thế giới, thất nghiệp là vấn đề được nhiều quốc gia và chuyên gia thảo luận và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Từ điển kinh tế học hiện đại cho rằng: “thất nghiệp là những NLĐ không có việc làm, bao gồm cả những người đang trong giai đoạn tìm việc làm mới hoặc những người không thể tìm được việc làm với đồng lương thực tế hiện hành”[13, tr.1053]. John Maynard Keynes – một nhà kinh tế học được coi là có nghiên cứu khá thành công về thất nghiệp cho rằng: “Vấn đề thất nghiệp không phải là hiện tượng độc lập của nền kinh tế mà đó là kết quả của các quy luật nhất định để đạt được sự cân bằng của hệ thống kinh tế.” Theo ông nạn thất nghiệp tồn tại dưới đạng bắt buộc mà trong đó “tổng cung về lao động của những NLĐ muốn làm việc với tiền lương danh nghĩa tại một thời điểm lớn hơn khối lượng việc làm hiện có.” Samuelson – một trong số các nhà kinh tế học hiện đại đã đưa ra lý thuyết mới về thất nghiệp: “Đó là hiện tượng người có năng lực lao động không có cơ hội tham gia lao động xã hội, bị tác khỏi tư liệu sản xuất. Và trong nền kinh tế thị trường, luôn luôn tồn tại một bộ phận NLĐ bị thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp cao hay thấp phụ thuộc rất
  • 11. 6 nhiều vào khả năng giải quyết việc làm của Chính phủ và sự đấu tranh của giới thợ đối với giới chủ.” Điều 20, Công ước 102 (1952) của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là hiện tượng NLĐ bị ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc”. Ở Việt Nam, từ các góc độ khác nhau, có những quan niệm về thất nghiệp khác nhau. Văn bản đầu tiên ghi nhận thuật ngữ ‘thất nghiệp” là Điều 76, Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947: “Nếu người cha mất đi, thất nghiệp, hay coi như mất tích, thì người mẹ sẽ được lĩnh phụ cấp”.Tuy nhiên, ở Sắc lệnh này lại không hề nói đến định nghĩa thất nghiệp. Theo sau đó, một loạt các văn bản pháp luật ra đời đề cập đến thuật ngữ “thất nghiệp” nhưng lại không nêu ra được cụ thể thế nào là thất nghiệp bao gồm cả Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và Luật Việc làm 2013”[18]. Một số nhà nghiên cứu khoa học Việt Nam đã đưa ra những khái niệm về thất nghiệp như: Theo tác giả Phạm Quý Thọ: “Thất nghiệp là một trạng thái trong đó NLĐ trong tuổi lao động, có khả năng và nhu cầu lao động mà không có việc làm. Người thất nghiệp là người hiện không có việc làm hoặc đang tìm việc làm”.“Thất nghiệp là hiện tượng mà người có sức lao động, có nghề, muốn đi làm việc, không có việc làm và đã đăng ký ở cơ quan có thẩm quyền” (Kỷ yếu hội thảo khoa học năm 1988 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội).“Thất nghiệp là tình trạng trong đó người có sức lao động trong độ tuổi lao động không có việc làm và đang cần tìm một việc làm có trả công” (Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1996 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội)… Tuy nhiên, đây chỉ là những quan điểm cá nhân về khái niệm thất nghiệp có tính tham khảo và nghiên cứu chứ chưa phải là khái niệm chính thống được ghi nhận trong văn bản pháp luật. Như vậy, từ các khái niệm trên, có thể hiểu: “Thất nghiệp là tình trạng mà trong đó NLĐ không có công việc được trả công hoặc không có công việc do mình tự thu xếp nhưng vẫn có khả năng lao động và hiện đang tìm kiếm việc làm”. Nhìn chung, khái niệm thất nghiệp được đưa ra đều căn cứ vào ba yếu tố cơ bản: Thứ nhất, đó là khả năng lao động. Việc xác định một người có khả năng làm việc hay không phụ thuộc vào pháp luật cũng như hoàn cảnh thực tế của từng quốc gia
  • 12. 7 khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, khi xem xét một người có khả năng lao động hay không thường căn cứ vào độ tuổi lao động, tình trạng thể chất, trình độ lao động… [29]. Thứ hai, đó là đang trong tình trạng không có việc làm. Không có việc làm ở đây được hiểu là NLĐ đang không tham gia các quan hệ lao động và không có thu nhập dưới dạng tiền lương. Thứ ba, đó là đang tích cực tìm kiếm việc làm. Tích cực tìm kiếm việc làm được hiểu là NLĐ đã áp dụng nhiều biện pháp để tìm kiếm việc làm, bản thân họ cũng muốn tìm kiếm được việc làm nhưng vì nhiều lí do mà hiện nay vẫn chưa tìm kiếm được việc làm. Đây là một tiêu chí để phân biệt đối tượng thất nghiệp với đối tượng không có việc làm khác trong xã hội. - Khái niệm người thất nghiệp: Song song với khái niệm thất nghiệp thì việc tìm hiểu khái niệm hoàn chỉnh về “người thất nghiệp” là cần thiết. Bởi lẽ khái niệm người thất nghiệp liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó quan trọng nhất là xác định phạm vi, đối tượng điều chỉnh của chế độ BHTN. Trên cơ sở quan điểm thất nghiệp của tổ chức lao động quốc tế (ILO), Văn phòng lao động quốc tế đã đưa ra khái niệm về người thất nghiệp như sau: “Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng làm việc hoặc đã có việc làm những đã thôi việc và đang cần tìm việc làm có thu nhập”.Theo đó, ILO đã đưa ra bốn tiêu chí cơ bản để xác định “người thất nghiệp” đó là: trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang không có việc làm, đang đi tìm việc làm. Theo Điều 3, Luật Bảo hiểm xã hội 2006 sửa đổi bổ sung năm 2014: “Người thất nghiệp là người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt HĐLĐ, HĐLV nhưng chưa tìm được việc làm”[22, khoản 4 điều3]. So với quan điểm của ILO được các quốc gia trên thế giới áp dụng thì khái niệm này bộc lộ hạn chếlàphạm vi xác định người thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay quá hẹp. BHTN chỉ là một trong những chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước hoạt động theocơ chế bảo hiểm, do đó không thể coi việc tham gia BHTN là một chuẩn chung để đánh giá tình trạng việc làm của tất cả lao động trong xã hội. Điều này đã tạo nên một giới hạn, chỉ những người thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về BHTN mà không có việc làm mới được coi là người thất nghiệp, xét cho cùng cho dù họ có đóng bảo hiểm thất
  • 13. 8 nghiệp hay không thì về bản chất họ vẫn là người thất nghiệp. Với việc xác định nội hàm khái niệm người thất nghiệp chắc chắn con số thống kê về số người thất nghiệp sẽ không bao giờ đúng với thực tế, nếu như không muốn nói là quá nhỏ so với thực tế và kết quả là sẽ rất khó cho các nhà hoạch định chính sách khi đưa ra những giải pháp để khắc phục tình trạng thất nghiệp của quốc gia. Do vậy theo quan điểm của tác giả, có thể hiểu: “Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trongkhoảng thời gian xác định không có việc làm, đang tìm việc làm, đã đăng ký thất nghiệp theo quy định”. 1.1.2. Phân loại thất nghiệp Thất nghiệp là một vấn đề hết sức phức tạp, vì vậy, để nghiên cứu sâu hơn về vấn đề thất nghiệp người ta thường đặt ra vấn đề phân loại thất nghiệp. Căn cứ vào nội dung nghiên cứu cũng như phạm vi nghiên cứu, sẽ có những tiêu chí khác nhau để phân loại thất nghiệp. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại thất nghiệp phổ biến. Thứ nhất, phân loại theo nguồn gốc, thất nghiệp được chia thành 7 loại: - Thất nghiệp dai dẳng: là mức thất nghiệp tối thiểu không thể giảm được trong một nền kinh tế năng động. Dạng thất nghiệp này gồm những người tạm thời không có việc làm trong thời gian chuyển công việc trong một nền kinh tế mà lực lượng lao động và các công việc tìm người luôn thay đổi. - Thất nghiệp tạm thời: Đây là loại thất nghiệp phát sinh do NLĐ cần có thời gian tìm kiếm việc làm. Loại thất nghiệp này phát sinh khi NLĐ kết thúc HĐLĐ, HĐLV với đơn vị cũ, hiện tại chưa tìm được công việc mới có thể do nhiều yếu tố và đây là loại thất nghiệp tất yếu trong nền kinh tế thị trường mở như ngày nay[16]. - Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi cầu chung về lao động giảm xuống. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do nền kinh tế suy thoái, tổng cầu giảm, kéo theo cầu lao động giảm. - Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường xảy ra khi tiền công bị ấn định cao hơn mức tiền lương cân bằng, nhằm đảm bảo quyền lợi cho bộ phận lao động yếu thế trên thị trường. Mức tiền lương này do Chính phủ ấn định hoặc do sức ép của công đoàn, nghiệp đoàn.
  • 14. 9 - Thất nghiệp do áp dụng công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất, máy móc thiết bị thay thế con người, chỉ cần một số ít người vận hành, một bộ phận NLĐ trong các dây chuyền sản xuất bị dôi ra, trở thành thất nghiệp công nghệ. - Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự mất cân đối giữa nhu cầu sử dụng lao động và cơ cấu của lực lượng lao động, hay nói cách khác là lượng cung lao động vượt lượng cầu về lao động. Các nguyên nhân dẫn đến cung lao động vượt cầu lao động: do thay đổi cơ cấu kinh tế, do lao động được đào tạo không đáp ứng được nhu cầu thị trường lao động, do luật tiền lương tối thiểu làm mất cân đối giữa cung và cầu cục bộ trên thị trường lao động[18]. - Thất nghiệp theo chu kì: Đây là loại thất nghiệp phát sinh do nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, tổng cầu thấp dẫn đến tình trạng không có nhu cầu sử dụng lao động. Trong giai đoạn suy thoái, mức cầu chung về lao động giảm và do vậy làm gia tăng thất nghiệp. Loại thất nghiệp này diễn ra theo chu kỳ và mang tính quy luật. Thứ hai, phân loại theo đặc trưng của người thất nghiệp. - Thất nghiệp là một gánh nặng, nhưng gánh nặng đó rơi vào đâu, bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào…Cần biết được điều đó để hiểu được đặc điểm, tính chất, mức độ tác hại…của thất nghiệp trong thực tế. Với mục đích đó có thể dùng 5 tiêu thức phân loại sau: Thất nghiệp chia theo giới tính; Thất nghiệp chia theo lứa tuổi; Thất nghiệp chia theo vùng, lãnh thổ; Thất nghiệp chia theo ngành nghề; Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc Thứ ba, phân loại theo tính chất, thất nghiệp được chia thành những loại sau: - Thất nghiệp tự nguyện: là loại thất nghiệp phát sinh do NLĐ không chấp nhận những công việc hiện tại vì nhiều lí do khác nhau. Từ đó, dẫn đến tình trạng NLĐ từ bỏ công việc mình đang làm và lâm vào tình trạng chưa tìm kiếm được việc làm. - Thất nghiệp không tự nguyện: là loại thất nghiệp phát sinh dù NLĐ sẵn sàng chấp nhận những công việc khác nhau nhưng do nhu cầu hoặc do những lí do khách quan khác mà họ không được nhận làm việc. - Thất nghiệp tự nhiên: là mức thất nghiệp xảy ra khi thị trường lao động ở trong trạng thái cân bằng. Ở mức thất nghiệp tự nhiên, nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động.
  • 15. 10 1.1.3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp. Thứ nhất, nguyên nhân là do chu kỳ sản xuất kinh doanh thay đổi: theo chu kỳ phát triển kinh tế, sau hưng thịnh đến suy thoái, khủng hoảng. Ở thời kỳ hưng thịnh, sản xuất được mở rộng, nguồn nhân lực xã hội được huy động vào sản xuất, nhu cầu về sức lao động tăng nhanh nên thu hút nhiều lao động. Ngược lại, ở thời kỳ suy thoái, sản xuất đình trệ, cầu lao động giảm, không những không tuyển thêm lao động mà còn dư thừa lao động, gây nên tình trạng thất nghiệp. Thứ hai, do sự gia tăng dân số: đây là nguyên nhân ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp trong dài hạn. Dân số gia tăng hàng năm sẽ bổ sung một lực lượng lao động rất lớn vào nguồn lực lao động của mỗi quốc gia. Dân số càng tăng và tốc độ gia tăng càng nhanh thì lực lượng lao động dư thừa sẽ càng lớn. Thêm vào đó, quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa cũng có tác động tiêu cực đến thị trường lao động làm một bộ phận NLĐ bị thất nghiệp. Nguyên nhân này thường xuất hiện phổ biến ở các nước đang phát triển và chậm phát triển, những nước luôn có tỷ lệ gia tăng dân số cao.Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước đang phát triển khác. Thứ ba, thất nghiệp là do những thay đổi trong xu thế cung cầu trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế luôn có sự thay đổi liên tục. Có những ngành nghề trở thành xu hướng, nhu cầu chung của xã hội, có những ngành nghề lại trở nên lạc hậu, không còn phù hợp. Khi đó, lực lượng lao động theo đó cũng có sự dịch chuyển ngành nghề dẫn đến thất nghiệp. Thứ tư, do sự thay đổi cơ cấu ngành nghề: ở từng thời kỳ, sự phát triển kinh tế có thể dẫn tới thay đổi cơ cấu kinh tế. Theo đó, cơ cấu của một số ngành nghề thay đổi. Những ngành nghề làm ăn có hiệu quả hoặc cần phải được mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc xuất hiện ngành nghề mới sẽ tạo cơ hội thu hút thêm nhiều lao động. Nhưng lại có những ngành nghề phải thu hẹp sản xuất, phải sa thải NLĐ và một bộ phận NLĐ bị thất nghiệp. Thứ năm, do sự ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật 4.0: ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là tự động hóa quá trình sản xuất diễn ra nhanh chóng và ngày càng phổ biến. Nền kinh tế ngày càng phát triển, khoa học công nghệ phát triển dẫn đến
  • 16. 11 việc tự động hóa thay bằng sản xuất thô sơ. Lực lượng lao động dần được thay thế bằng những dây chuyền tự động hóa, công nghiệp hóa. Khi đó nhu cầu sử dụng lao đồng dần giảm đi dẫn đến tình trạng thất nghiệp. Các chủ doanh nghiệp, các nhà sản xuất luôn tìm cách mở rộng sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, quá trình này làm cho số công nhân bị thay thế bởi máy móc ngày càng gia tăng, bổ sung một lượng lớn vào số lao động bị thất nghiệp. Thứ sáu, do các yếu tố ngoài thị trường: sự thay đổi thể chế chính trị hay việc điều chỉnh chính sách vĩ mô của các nước, các giải pháp điều hành kinh tế của Chính phủ cũng có thể làm cho nhu cầu sử dụng lao động có sự thay đổi. Theo đó, làm cho tình trạng thất nghiệp thay đổi. Thứ bảy, nguyên nhân từ NLĐ: chính bản thân NLĐ cũng tác động không nhỏ tới tình trạng thất nghiệp của mình. Trong nền kinh tế phát triển, năng động và không ngừng biến đổi như ngày nay, việc NLĐ không ngừng thay đổi ngành nghề công việc để phù hợp với xu thế của xã hội và mong muốn của bản thân. Vì vậy, NLĐ dễ lâm vào tình trạng thất nghiệp tạm thời.Ví dụ, do NLĐ không ưa thích công việc đang làm, hay địa điểm làm việc, không bằng lòng với vị trí đang đảm đương hay mức lương hiện có nên họ đi tìm công việc mới đáp ứng yêu cầu đó. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác có thể dẫn đến NLĐ bị thất nghiệp như NLĐ có kinh nghiệm nhưng bị mất việc vì kỷ luật lao động kém. Những NLĐ trẻ tuổi tìm kiếm công việc lần đầu tiên trong đời không thể kiếm ngay được việc làm hoặc NLĐ lớn tuổi sau một thời gian rời khỏi thị trường lao động nay muốn quay trở lại lực lượng lao động (như phụ nữ sau khi sinh và chăm sóc con nhỏ). Một nguyên nhân cũng không kém quan trọng đó là NLĐ không còn đủ sức khỏe để đảm đương công việc đang làm phải tìm kiếm công việc khác phù hợp hơn. 1.1.4. Tác động của thất nghiệp đối với xã hội Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội, do tác động của nhiều yếu tố kinh tế – xã hội, trong đó có những yếu tố vừa là nguyên nhân vừa là kết quả.Ngược lại, thất nghiệp có ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thất nghiệp
  • 17. 12 không những ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân NLĐ và gia đình họ mà còn tác động mạnh mẽ tới tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Cụ thể: Thứ nhất, đối với nền kinh tế: Thất nghiệp chính là sự lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát triển. Vì khi đó có một bộ phận NLĐ trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng vì lý do khách quan không có việc làm thì dĩ nhiên sức sản xuất trong nước và thu nhập quốc dân thấp hơn so với khi mọi người đều có việc làm. Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau, đôi khi tạo thành vòng luẩn quẩn không thoát ra được.Bên cạnh đó, thất nghiệp có thể làm cho xã hội bất ổn.Đến lượt nó làm cho kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hơn và có khả năng phục hồi chậm. Thứ hai, đối với bản thân NLĐ và gia đình: Thất nghiệp có thể gây ra những hậu quả rất trầm trọng. Bởi vì khi bị mất việc làm thường đồng nghĩa với việc mất đi nguồn thu nhập chủ yếu và khi thất nghiệp kéo dài sẽ dẫn đến sự khó khăn, nghèo túng. Hậu quả là họ từng bước bị rơi sâu vào tình trạng dưới mức sống tiêu chuẩn chung của xã hội. Sau đó nếu không có sự trợ giúp nào khác thì phải vay nợ và nếu kéo dài sẽ dẫn đến nợ nần chồng chất. Sự tác động vào thu nhập cho gia đình phụ thuộc vào tiền thất nghiệp của bản thân họ nhận được cũng như thu nhập của những thành viên khác trong gia đình còn việc làm. Nạn thất nghiệp không chỉ là hậu quả về tài chính mà còn là hậu quả về khả năng nghề nghiệp.Khi thất nghiệp kéo dài, hậu quả là họ bị mất đi khả năng nâng cao trình độ nghề nghiệp. Điều đó sẽ đe dọa không chỉ về phía họ, họ sẵn sàng bị thất nghiệp, mà còn ngăn cản việc học nghề hay chuyển vào một nghề khác. Thứ ba, đối với chính trị, xã hội: Khi bị thất nghiệp, NLĐ luôn ở trong tình trạng hoang mang, lo lắng, căng thẳng và thất vọng. Đặc biệt nếu NLĐ là trụ cột, nuôi sống cả gia đình thì áp lực tâm lý càng đè nặng lên NLĐ.Từng cá nhân là tế bào của gia đình, mỗi gia đình là tế bào của xã hội.Như vậy thất nghiệp tác động đến cá nhân NLĐ có nghĩa là đã tác động đến toàn xã hội.Thất nghiệp ảnh hưởng đến tiếp đến trật tự xã hội. Thất nghiệp gia tăng làm trật tự xã hội không ổn định; hiện tượng lãn công, bãi công, biểu tình đòi quyền làm việc, quyền sống… tăng lên. Bên cạnh đó, thất nghiệp sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực của xã hội, đẩy người thất nghiệp đến chỗ bất chấp kỷ
  • 18. 13 cương, vi phạm pháp luật, hủy hoại đạo đức để kiếm kế sinh nhai, kiếm tiền trang trải cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như trộm cắp, cờ bạc, mại dâm, ma túy, NLĐ thất nghiệp không có việc làm sẽ dẫn tới nhiều hệ lụy tiêu cực như trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm… Khi thất nghiệp tăng cao, sự hỗ trợ từ phía Nhà nước không còn hiệu quả, sự ủng hộ của NLĐ đối với nhà cầm quyền cũng bị suy giảm, xuất hiện những bất mãn, căng thẳng. Từ đó, có thể có những xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đến biến động về chính trị. 1.2.Bảo hiểm thất nghiệp 1.2.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp BHTN xuất hiện lần đầu ở Châu Âu với sự ra đời của quỹ BHTN tự nguyện tại Berne (Thụy Sĩ) vào năm 1893.Tham gia đóng góp cho quỹ lúc này không chỉ có giới chủ mà còn những NLĐ có công việc làm không ổn định.Sau đó, để mở rộng quy mô của BHTN, nhằm tăng mức TCTN cho nên đã có sự tham gia đóng góp của chính quyền địa phương và trung ương. Năm 1911, Vương quốc Anh ban hành đạo luật đầu tiên về BHTN bắt buộc và tiếp đó là một số nước khác ở Châu Âu như: Thụy Điển, Cộng hòa Liên bang Đức… Sau cuộc tổng khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ ban hành các Đạo luật về bảo hiểm xã hội và BHTN, chẳng hạn như ở Mỹ năm 1935, Canađa vào năm 1939. Khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, đặc biệt là khi có Công ước số 102 (1952) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì nhiều quốc gia trên thế giới đã triển khai BHTN và TCTN. Theo công ước 102 (1952) của Tổ chức lao động quốc tế thì BHTN là một trong 09 nhánh của bảo hiểm xã hội. Cùng với các chế độ khác, BHTN nâng cao khả năng bảo vệ NLĐ của hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội. Với tính chất chia sẻ giữa những đối tượng tham gia, BHTN hỗ trợ một khoản tài chính giúp NLĐ thất nghiệp đảm bảo ổn định cuộc sống; sớm đưa lao động thất nghiệp tìm được việc làm ổn định thông qua các hoạt động đào tạo, tư vấn, hỗ trợ học nghề. Cùng với sự phát triển nền kinh tế xã hội và sự quan tâm đến các vấn đề về BHTN, khái niệm “thất nghiệp” và “người thất nghiệp” đã không còn xa lạ đối với người dân Việt Nam. Đối với một quốc gia được xếp vào loại dân số trẻ với nguồn nhân lực dồi dào nhưng lại bị mất cân bằng giữa cung và cầu lao động trên thị trường lao
  • 19. 14 động, tình trạng cung lao động lớn hơn cầu lao động cả về quy mô và cơ cấu cũng như việc phân bổ lao động không đồng đều giữa các ngành, các địa phương như ở nước ta thì sự gia tăng của tình trạng thất nghiệp là không thể tránh khỏi. Thất nghiệp không chỉ đe dọa tới đời sống của NLĐ nói riêng mà còn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với quốc gia và toàn xã hội nói chung. Ở Việt Nam, theo quy định tại Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 thì BHTN được hiểu là “sự đảm bảo, thay thế, bù đắp một phần thu nhập của NLĐ trong trường hợp bị mất việc làm, đang có nhu cầu tìm việc làm, đồng thời có một số biện pháp để họ nhanh chóng quay lại thị trường lao động”. Theo đó mục đích của BHTN được nhắc nhiều nhất là mục đích đảm bảo, thay thế bù đắp một phần thu nhập của NLĐ. Sau nhiều năm thực hiện BHTN, Việt Nam đã có điều chỉnh mang tính đột phá khi chuyển toàn bộ chế độ BHTN quy định ở Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 sang Luật Việc làm năm 2013. Khoản 4, Điều 3, Luật Việc làm 2013 đã đưa ra định nghĩa cụ thể về BHTN như sau: “Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi bị mất việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp”, khái niệm này đã làm thay đổi quan niệm về BHTN. Theo đó, BHTN không phải là biện pháp giải quyết hậu quả thất nghiệp một cách bị động, mà BHTN có vai trò chủ động trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, giảm thất nghiệp, giúp NLĐ nhanh chóng tìm được việc làm. Mục đích của BHTN không chỉ nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ nhằm đảm bảo cuộc sống cho họ trong thời gian bị mất việc làm, mà còn giúp đỡ đưa người thất nghiệp trở lại với thị trường lao động, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính được đóng góp từ các bên tham gia BHTN, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của NLĐ và gia đình họ, bảo đảm an sinh xã hội. Nguồn tài chính hỗ trợ cho người thất nghiệp được lấy từ quỹ BHTN. Đây là quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHTN, theo nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro, không vì mục đích lợi nhuận. Quỹ này được dùng để trợ cấp cho NLĐ bị thất nghiệp, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và gia đình. Ở đây có một số điểm cần nhấn mạnh: một là, mức hỗ trợ thu nhập dựa trên cơ sở đóng góp của NLĐ trước khi bị thất nghiệp; hai là, NLĐ tham gia BHTN, khi thất nghiệp sẽ
  • 20. 15 được hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm, đào tạo nghề để có thể sớm tìm được việc làm, gia nhập lại thịtrường lao động. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ trong thời gian mất việc làm thì mục đích chính của BHTN là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được việc làm mới thích hợp và ổn định. Như vậy, có thể hiểu “bảo hiểm thất nghiệp là quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung (Quỹ bảo hiểm thất nghiệp) được hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia (NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước) nhằm hỗ trợ tài chính tạm thời dành cho những người bị mất việc làm mà đáp ứng yêu cầu luật định”. 1.2.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp Xuất phát từviệc phân tích khái niệm BHTN chúng ta có thểthấy BHTN mang một sốđặc điểm chung của một chếđộnằm trong BHXH đồng thời nó cũng mang một sốđặc điểm đặc thù khác có tính chất của chếđộviệc làm, góp phần tạo nên một sựthống nhất trong quan hệcủa chếđộan sinh xã hội với vần đềviệc làm. Thứ nhất, BHTN xuất phát từ quan hệ lao động nhưng khi thực hiện lại chủ yếu thuộc về lĩnh vực việc làm. Việc thực hiện chi trả TCTN luôn được gắn liền với vấn đề giải quyết việc làm cho NLĐ, BHTN do đó vừa có chức năng hỗ trợ khó khăn cho người thất nghiệp khi tạm thời mất thu nhập vừa có chức năng xúc tiến những hoạt động tìm kiếm và tạo việc làm cho NLĐ. Thứ hai, BHTN không chỉ thu và chi trả TCTN mà còn thực hiện các biện pháp để đưa NLĐ trở lại thị trường lao động. Do đó, cơ quan BHTN vừa có trách nhiệm đăng ký thất nghiệp vừa phải kịp thời nắm bắt các thông tin về thị trường lao động để giới thiệu việc làm, đào tạo nghề phù hợp cho người thất nghiệp. Đây là điểm khác biệt giữa hoạt động quản lý thất nghiệp với các loại hình bảo hiểm xã hội khác[28]. Như vậy khác với cơ quan quản lý bảo hiểm xã hội thông thường chỉ thực hiện chức năng thu, chi bảo hiểm xã hội, các cơ quan quản lý BHTN còn phải tiến hành các hoạt động nghiệp vụ nhằm giải quyết việc làm, bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm xã hội thuần túy. Thứ ba, đối tượng hưởng BHTN là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang trong tình trạng không có việc làm, không có thu nhập và đang tìm kiếm việc làm. Đối tượng hưởng BHTN là những người đang không tham gia
  • 21. 16 vào quan hệ lao động mặc dù vẫn có khả năng lao động. Đây là đặc điểm khác biệt giữa BHTN và những loại bảo hiểm khác. Đối với những loại bảo hiểm khác thì NLĐ đều là những người đang trong quan hệ lao động như bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc là những người không còn khả năng lao động như bảo hiểm hưu trí, tử tuất. Thứ tư , việc xác định điều kiện hưởng TCTN khó khăn hơn so với các chế độ bảo hiểm xã hội khác. Sở dĩ như vậy vì ranh giới để phân định giữa có việc làm và không có việc làm, giữa có thu nhập và không có thu nhập không rõ rằng, khó xác định và kiểm tra trong thực tế. Vì vậy, việc xác định đúng các đối tượng đủ điều kiện để chi trả TCTN trong thực tế gặp nhiều khó khăn. 1.2.3. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp trong hệ thống an sinh xã hội. BHTN là một chế định tiến bộ và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia. Cụ thể: - Đối với NLĐ: Với bất kỳ NLĐ nào đều có nhu cầu tìm cho mình một công việc ổn định, phù hợp với trình độ, khả năng của bản thân, nhất là những công việc nhẹ nhàng nhưng có mức lương cao nhằm duy trì cuộc sống ở mức cơ bản so với mức sống chung của toàn xã hội. Khi NLĐ không may gặp rủi ro và mất việc làm thì BHTN sẽ chịu trách nhiệm trong việc chi trảtrợcấp thông qua một khoản tiền nhất định giúp NLĐ ổn định cuộc sống và có thể tránh rơi vào tình trạng cùng cực, nghèo khó. Khoản tiền trợ cấp tuy không quá lớn những cũng là một khoản hỗ trợ về mặt tài chính nhằm làm đảm bảo sự “cân bằng” trong cuộc sống của NLĐ khi bị thất nghiệp. Bên cạnh đó, BHTN không chỉ dừng lại ở việc bù đắp thu nhập, mà còn giúp NLĐ sớm quay trởlại thị trường lao động và nhanh chóng tìm được việc làm phù hợp thông qua hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm hay đào tạo nghề. Đây chính là điểm đặc thù của BHTN so với các chế độ khác của BHXH, mang bản chất đặc trưng của chế độviệc làm. Ngoài ra, NLĐ bị thất nghiệp còn được hưởng nhiều quyền lợi khác từ BHTN như được đóng bảo hiểm y tế trong thời gian bị thất nghiệp hay được bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ. Đây là một trong giải pháp hữu hiệu trong việc phòng ngừa từ xa tình trạng thất nghiệp có thể xảy ra.
  • 22. 17 - Đối với người sử dụng lao động: Đối với NSDLĐ, gánh nặng tài chính của họ sẽ được san sẻ khi những NLĐ tại doanh nghiệp bị mất việc làm, họ không phải bỏ ra một khoản chi lớn để giải quyết chế độ cho NLĐ. Đặc biệt, trong những thời kỳ khó khăn, buộc phải thu hẹp sản xuất, nhiều NLĐ thất nghiệp. Kể từ khi pháp luật về bảo thất nghiệp ra đời, đối với những trường hợp chấm dứt HĐLĐ, BHTN đã phần nào san sẻ bớt gánh nặng cho những NSDLĐ. Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ giải quyết vấn đề trợ cấp cho NLĐ khi nghỉ việc mà còn hỗ trợ NSDLĐ trong việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề cho NLĐ nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động[18]. - Về mặt kinh tế: Khi tham gia quan hệ lao động, NLĐ muốn tìm kiếm công việc tốt, thu nhập ổn định cao, đúng với chuyên môn kỹ thuật hoặc ít nhất là có việc làm, có thu nhập đủ để duy trì cuộc sống gia đình bình thường. Nếu không may vì một lý do nào đó mà họ bị mất việc làm thì điều này sẽ gây khó khăn về tài chính cho gia đình cũng như bản thân họ. Nếu có chế độ TCTN thì những khó khăn này có thể giải quyết phần nào vì khoản tiền TCTN là khoản được sử dụng để giúp NLĐ có được cuộc sống tương đối ổn định sau khi bị mất việc làm và đồng thời tạo điều kiện cho NLĐ có khả năng tìm kiếm việc làm mới. Mặt khác, thất nghiệp còn gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đối với nền kinh tế cả nước. Thất nghiệp gây ra sự lãng phí về nguồn nhân lực, từ đó tạo ra thiệt hại về hàng hóa và dịch vụ mà xã hội có thể sản xuất thêm, gây thiệt hại về thu nhập thực tế và ngăn cản sự phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, thất nghiệp còn làm cho nhu cầu xã hội giảm, hàng hóa, dịch vụ sản xuất ra không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít đi, chất lượng sản phẩm tụt giảm[1, tr.30]. ... Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp gia tăng còn kéo theo sự gia tăng của lạm phát, khiến cho nền kinh tế bị suy thoái, khả năng phục hồi chậm. Như vậy, BHTN không chỉ đóng vai trò thiết yếu trong việc cải thiện kinh tế cho NLĐ nói riêng mà còn có vai trò to lớn đối với nền kinh tế cả nước nói chung. - Về mặt xã hội: Bảo hiểm thất nghiệp còn là một chính sách xã hội.Nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ tạo ra sự ổn định về mặt xã hội và ngược lại, làm không tốt sẽ khiến cho xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, mất ổn định. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã
  • 23. 18 hội là do thiếu việc làm và thất nghiệp gây nên, bởi thất nghiệp thường làm cho con người bị bần cùng hóa, thất nghiệp đi kèm với không có thu nhập, mà con người thì bao giờ cũng có nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại… đó là những nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống[16]. Khi NLĐ bị mất việc làm, thất nghiệp sẽ tác động rất lớn đến tinh thần và tâm lý của họ. Để ngăn chặn và hạn chế những hành vi tiêu cực có thể xảy ra cho xã hội thì có lẽ không có biện pháp nào phát huy tác dụng như chính sách TCTN. Rõ ràng với chính sách này NLĐ cũng yên tâm phần nào về cuộc sống để dồn sức lo tìm kiếm một công việc mới, ổn định dần và tiến đến cải thiện đời sống của gia đình mình trong tương lai, góp phần giữ gìn sự ổn định xã hội. Không những thế, bảo hiểm thất nghiệp còn có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị.Bất kỳ một quốc gia nào, vào thời gian nào cũng tồn tại một đội quân thất nghiệp tuy mức độ và tỷ lệ là khác nhau. Thường trong giai đoạn hưng thịnh của nền kinh tế thì tỷ lệ thất nghiệp thấp và trong giai đoạn khủng hoảng thì tỷ lệ này là cao. Khi NLĐ bị mất đi nguồn thu nhập do mất việc làm, đời sống lâm vào hoàn cảnh khó khăn, sẽ khiến cho họ mất đi lòng tin đối với Nhà nước, gây ra những hậu quả khó lường trước, thậm chí dẫn tới sự sụp đổ của một chế độ, một quốc gia. Do đó, bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện sẽ góp phần ổn định chính trị của đất nước. - Về mặt pháp lý: Theo Công ước số 102 năm 1952 của ILO thì TCTN là một trong chín nhánh của bảo hiểm xã hội. Với sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thì quyền được bảo hiểm của con người đã được nâng lên một bước. Việc hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội là việc làm hết sức cần thiết vì quyền được bảo hiểm xã hội là một trong những quyền cơ bản của con người. Trong tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền được hưởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó được đặt trên cơ sở sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”và ngoài ra Điều 25 có ghi: “Mỗi người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khỏe cho bản thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp”. Việc làm và giải quyết việc làm nhằm hạn chế thất nghiệp cũng là một phạm trù thuộc quyền con người. Điều 3 tuyên ngôn nhân quyền nhấn mạnh: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và
  • 24. 19 được bảo vệ chống lại thất nghiệp”. Như vậy, quyền được bảo hiểm thất nghiệp, quyền được làm việc là một trong những quyền của con người.Nó không những được quy định trong pháp luật quốc gia mà còn được quy định trong pháp luật quốc tế. Sự ra đời của bảo hiểm thất nghiệp đã biến quyền con người, quyền công dân trở thành hiện thực. 1.2.4. Nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp Nguyên tắc cơ bản của BHTN được hiểu là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật bảo hiểm thất nghiệp được quy định tại điều 41 luật việc làm 2013. Thứ nhất, BHTN phải gắn liền TCTN với giải quyết việc làm cho người thất nghiệp. TCTN và xúc tiến việc làm cho NLĐ là hai chức năng cơ bản của BHTN, Đây là nguyên tắc nhằm bảo đảm không chỉ là những nhu cầu cơ bản nhất về đời sống vật chất cho NLĐ bị mất việc làm, mà còn giúp họ nhanh chóng tìm được việc làm mới, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Do đó, việc quy định và tổ chức thực hiện BHTN phải đảm bảo chi trả TCTN không được tách rời khỏi hỗ trợ về việc làm. Các quy định về các chế độ BHTN phải chỉ rõ bao gồm cả chế độ TCTN và chế độ hỗ trợ về việc làm. Ngoài ra, BHTN cần phải có các quy định về các biện pháp nhằm tạo điều kiện cho NLĐ nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động như cung cấp thông tin về thị trường lao động, đào tạo nghề, hỗ trợ doanh nghiệp nhận NLĐ thất nghiệp...; Việc chi trả TCTN cần tiến hành đồng thời với thực hiện các chế độ hỗ trợ về việc làm nhằm nhanh chóng đưa NLĐ quay trở lại thị trường lao động. Việc quy định TCTN gắn liền với chế độ hỗ trợ về việc làm là cần thiết để có thể bảo đảm được ý nghĩa thực tiễn của BHTN, bởi TCTN chỉ đơn thuần bù đắp lại phần thu nhập bị mất đi cho NLĐ bị mất việc làm mà không thể giải quyết được tình trạng thất nghiệp của họ. Khi đó, các hoạt động xúc tiến và tạo việc làm lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết thất nghiệp và ổn định thu nhập cho NLĐ. Thứ hai, trợ cấp BHTN phải đảm bảo khuyến khích người thất nghiệp chủ động tìm kiếm việc làm. Giống như các chế độ bảo hiểm xã hội khác, BHTN cũng nhằm mục đích hỗ trợ cuộc sống cho NLĐ bị mất thu nhập do thất nghiệp thông qua việc chi trả cho người đủ
  • 25. 20 điều kiện hưởng một khoản trợ cấp. Tuy nhiên, nếu như các chế độ trợ cấp xã hội khác chỉ nhằm bù đắp một phần thu nhập bị mất của NLĐ thì TCTN còn phải tạo được động lực tích cực cho người thất nghiệp để họ chủ động tìm kiếm việc làm, thoát khỏi tình trạng thất nghiệp. Nếu quy định mức trợ cấp quá cao, thời hạn hưởng trợ cấp kéo dài sẽ gây tâm lý “trông chờ” vào BHTN, chấp nhận tình trạng thất nghiệp để hưởng trợ cấp. Do đó, việc xác định mức TCTN, điều kiện hưởng và thời gian hưởng TCTN cũng cần phải dựa trên những đặc điểm khác nhau của mỗi quốc gia cũng như khả năng chi trả của quỹ BHTN để khoản trợ cấp này vừa có thể đảm bảo được những điều kiện sống cơ bản cho NLĐ và gia đình của họ khi bị mất việc làm, vừa đủ thời gian để NLĐ tìm việc làm hoặc học tập nâng cao tay nghề để có thể tìm được việc làm mới. Khoản trợ cấp này thường được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mức lương và được trả hàng tháng cho người thất nghiệp trong một thời hạn nhất định. Mức TCTN hàng tháng không thấp hơn mức lương tối thiểu và được cân đối với mức đóng BHTN trước đó của NLĐ. Thứ ba, mức hưởng BHTN được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHTN. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý đối với các hoạt động kinh doanh. BHTN trở thành “lưới đỡ” cho xã hội rất cần có tỉ lệ tương xứng giữa đóng góp với hưởng thụ của NLĐ, ngăn ngừa việc quỹ bảo hiểm không đủ khả năng chi trả và nhà nước phải đứng ra bù đắp phần lớn. Tuy nhiên, việc quy định tỉ lệ này phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho NLĐ, xuất phát từ vai trò quan trọng của BHTN đó là hỗ trợ cuộc sống cho NLĐ khi bị mất thu nhập do mất việc làm. Việc xác định mức hưởng trợ cấp BHTN phải đảm bảo được khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm và tính khuyến khích NLĐ chủ động tìm kiếm việc làm nhằm thoát khỏi tình trạng thất nghiệp. Nếu quy định tỉ lệ hưởng trợ cấp BHTN quá thấp, thời gian được hưởng quá ít sẽ không bảo đảm được mức sống tối thiểu cho NLĐ, làm mất đi ý nghĩa của BHTN. Nhưng nếu quy định mức trợ cấp BHTN quá cao, thời gian hưởng trợ cấp kéo dài lại dẫn đến khó cân đối tài chính giữa thu và chi BHTN. Đây cũng là điểm khác biệt trong việc xác định mức trợ cấp BHTN so với các loại trợ cấp bảo hiểm xã hội thông thường. Mặt khác, pháp luật BHTN còn phải thể hiện tính xã hội, có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm. Điều này xuất phát từ việc BHTN cũng là một
  • 26. 21 chế độ của bảo hiểm xã hội, do đó nó cũng có tính chất tương trợ, lấy “số đông bù số ít”. Nếu không quán triệt nguyên tắc này thì các khoản trợ cấp sẽ chỉ đơn thuần là một khoản tiền tiết kiệm trả muộn và ý nghĩa xã hội của BHTN sẽ mất đi. Đây là 3 nguyên tắc giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và điều chỉnh hệ thống pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Bên cạnh đó, bảo hiểm thất nghiệp còn cần phải đảm bảo nguyên tắc: BHTN kết hợp chế độ trợ cấp tạm thời với chế độ giải quyết việc làm cho người thất nghiệp. Điều này thể hiện tính xã hội vô cùng sâu sắc phù hợp với đường lối phát triển kinh tế đi liền với hài hòa chính sách về việc làm cho NLĐ. BHTN phải vừa bù đắp thu nhập, vừa tạo động lực tích cực cho người thất nghiệp chủ động tìm cơ hội trở lại làm việc. Và nguyên tắc cuối cùng cũng là nguyên tắc khá đặc trưng của BHTN đó là quỹ BHTN phải được hình thành theo nguyên tắc ba bên cùng có trách nhiệm[25]. 1.3. Pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp 1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp Đối tượng tham gia BHTN được quy định tại Điều 43, Điều 44 Luật Việc làm 2013 và Điều 11 Nghị định 28/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó, đối tượng tham gia BHTN là NLĐ, NSDLĐ và nhà nước. Người lao động Theo khoản 1 Điều 3, Điều 43 Luật Việc làm năm 2013 thì NLĐ là công dân Việt Nam, phải tham gia BHTN khi làm việc theo HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc HĐLV xác định thời hạn; HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng. Theo quy định này, chỉ những NLĐ là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc; giao kết các loại hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc như trên với NSDLĐ mới là đối tượng của BHTN. Do đó, những NLĐ là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, giúp việc gia đình; người giao kết HĐLĐ dưới 03 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHTN. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 28/2016/NĐ-CP thì NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm
  • 27. 22 việc trở lên không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, NLĐ tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc HĐLV đã giao kết theo quy định của pháp luật thì NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHTN trong thời gian này. So với quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, quy định của Luật Việc làm năm 2013 đã cho phép mở rộng đối tượng tham gia. Như vậy, Nhà nước đã rất nỗ lực trong việc giải quyết chính sách đối với người thất nghiệp, song vẫn còn hạn chế đối với NLĐ có thời hạn làm việc dưới ba tháng, người giúp việc gia đình.Đây là những đối tượng rất cần có sự quan tâm, giúp đỡ. Vì thế, để đảm bảo quyền được BHTN của NLĐ, trong thời gian tới, Nhà nước cần cân nhắc, xem xét bổ sung thêm vào chính sách đối tượng chưa được tham gia để họ được hưởng quyền lợi bảo hiểm như những NLĐ khác. Người sử dụng lao động Tại khoản 2, điều 43 Luật việc làm năm 2013 quy định NSDLĐ tham gia BHTN bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động. Trước kia, theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và Điều 3 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP, việc tham gia BHTN chỉ áp dụng đối với NSDLĐ có sử dụng từ 10 lao động trở lên tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít số lượng doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động. Nếu Nhà nước vẫn giữ nguyên quy định này, sẽ có nhiều NLĐ không có cơ hội được tham gia BHTN. Hơn nữa, so với nơi có quy mô lớn, những doanh nghiệp này thường là đối tượng kinh doanh không ổn định, do đó, NLĐ làm việc tại đây sẽ dễ bị thất nghiệp hơn. Vì vậy, cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia đóng BHTN, Luật Việc làm năm 2013 cũng đề ra những thay đổi về việc tham gia BHTN của NSDLĐ. Như vậy, việc xác định NSDLĐ có phải đối tượng tham gia BHTN không còn phụ thuộc vào số lượng NLĐ nữa mà căn cứ vào thời hạn làm việc theoHĐLV của NLĐ.
  • 28. 23 Sự thay đổi đang kể này không chỉ hỗ trợ, giải quyết những khó khăn cho NLĐ khi mất việc mà còn ràng buộc thêm trách nhiệm từ phía NSDLĐ. Nhà nước Nhằm đảm bảo an toàn xã hội ở mức tối thiểu, với chức năng quản lý xã hội, để tránh những bất ổn về chính trị, xã hội, vì mục tiêu phát triển, ổn định, bền vững, đòi hỏi Nhà nước phải có đóng góp nhất định vào quỹ BHTN. Có sự tham gia đóng góp của Nhà nước sẽ bảo đảm cho quỹ BHTN tránh khỏi nguy cơ mất khả năng cân đối khi số lượng người thất nghiệp tăng lên đột biến, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế khủng hoảng.Bên cạnh đó, để đảm bảo an sinh xã hội, giải quyết hậu quả của việc ban hành những chính sách gây bất lợi ảnh hưởng tới vấn đề việc làm, Nhà nước cũng phải có một phần trách nhiệm trong việc hình thành quỹ. Hơn nữa, ngoài mục đích duy trì sự tồn tại của quỹ BHTN, việc đóng phí còn là cơ sở đảm bảo thanh toán quyền lợi của người tham gia. Như vậy, đối tượng và phạm vi áp dụng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật Việc làm hiện hành đã mở rộng hơn so với quy định của Luật BHXH trước đây ở đối tượng là người có công việc thời vụ từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Trước đây theo quy định cũ thì NLĐ làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 6 tháng trở lên mới thuộc đối tượng tham gia BHTN. Việc mở rộng phạm vi tham gia BHTN đã thể hiện chính sách xã hội và an sinh của nước ta ngày được chú trọng và phát triển. Việc mở rộng phạm vi tham gia BHTN cũng nhằm đảm bảo sự ổn định cho đối tượng là người có công việc từ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Đây là đối tượng thường xuyên có sự thay đổi về công việc nên việc quy định BHTN cho họ sẽ nhằm đảm bảo tốt hơn đời sống cho họ khi họ chưa tìm kiếm được việc làm mới.Phạm vi đối tượng tham gia BHTN mặc dù đã mở rộng hơn so với quy định trướctrước đây nhưng vẫn còn bó hẹp trong phạm vi những người tham gia HĐLĐ và HĐLV mà không quy định cho đối tượng không tham gia HĐLĐ. Việc không áp dụng BHTN cho đối tượng là NLĐ không tham gia HĐLĐ xuất phát từ khó khăn trong việc duy trì và quản lí quỹ bảo hiểm, vấn đề xác định và quản lí đối tượng thất nghiệp cũng như các vấn đề liên quan đến chính sách an sinh xã hội.
  • 29. 24 1.3.2. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp 1.3.2.1. Nguồn hình thành quỹ Quỹ BHTN là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia quan hệ BHTN và dùng để chi trả trợ cấp cho NLĐ khi bị thất nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm đưa người thất nghiệp sớm trở lại thị trường lao động.Quỹ được hình thành chủ yếu từnguồn đóng của 3 chủ thể: NLĐ, NSDLĐ và ngân sách nhà nước hỗ trợ. Ngoài ra quỹ còn được bổ sung thêm do đầu tư từ quỹ mang lại hoặc từ các nguồn thu hợp pháp khác[24, khoản 2 Đ57]. Thứ nhất, theo quy định tại điều 7 Luật việc làm 2013 thì mức đóng và trách nhiệm đóng BHTN từ NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước được quy đinh như sau: - NLĐ đóng bằng 1% tiền lương tháng; - NSDLĐ đóng bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những NLĐ đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp; - Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những NLĐ đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp và do ngân sách trung ương bảo đảm. Thứ nhất, NLĐ là đối tượng được hưởng lợi trực tiếp khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do vậy, để nhận được sự hỗ trợ, bảo đảm đó, NLĐ phải thực hiện nghĩa vụ đóng phí. Mức phí này chính là căn cứ để cơ quan BHTN giải quyết chế độ cho người tham gia. NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHTN là tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng không quá 20 tháng lương cơ sở tại thời điểm đóng BHTN. Còn NLĐ đóng BHTN theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định thì tiền lương tháng đóng BHTN là tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Theo quy định mới, mức đóng tối đa là 20 tháng lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng BHTN chứ không căn cứ vào mức lương tối thiểu chung như trước đây. Quy định này nhằm khắc phục những bất cập của quy định cũ. Đối với NSDLĐ, hàng tháng phải đóng mức bằng 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia BHTN và trích 1% tiền lương tháng của từng NLĐ để đóng cùng một lúc vào quỹ BHTN (Điều 6 Nghị định 28/2016/NĐ-CP). Thực ra, cùng là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, song so với mức đóng góp của NLĐ
  • 30. 25 tham gia bảo hiêm xã hội tự nguyện, bảo hiểm xã hội bắt buộc, NLĐ tham gia BHTN có mức đóng 1% là khá thấp. Do đó, để duy trì quỹ BHTN trong những giai đoạn tiếp theo, nhất là khi Nhà nước chỉ tham gia hỗ trợ vào quỹ thì sự điều chỉnh tăng mức đóng góp này là điều hết sức cần thiết. Đối với NSDLĐ, đây cũng là cách tốt hơn cả để tránh khỏi những thất thiệt về kinh tế khi NLĐ của họ bị mất việc làm. Thay vì họ phải chi cùng lúc một khoản tiền để trả trợ cấp khi NLĐ không có việc làm (khoản kinh phí này lớn hơn rất nhiều so với kinh phí đóng BHTN), thì họ tham gia đóng góp định kỳ vào quỹ BHTN một khoản tiền tương ứng với một tỷ lệ phần trăm nhất định căn cứ trên mức lương, thu nhập của những NLĐ tham gia chế độ Thứ hai, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ Quỹ BHTN Quỹ BHTN được hình thành trên cơ sở sự đóng góp và hỗ trợ của Nhà nước, NSDLĐ và NLĐ. Để bảo toàn và tăng trưởng quỹ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam có trách nhiệm dùng số tiền nhàn rỗi tạm thời trong quỹ để đầu tư. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư từ Quỹ BHTN phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết. Tiền sinh lời từ đầu tư, tăng trưởng Quỹ phải được bổ sung hằng năm vào Quỹ BHTN. Thứ ba, nguồn thu hợp pháp khác. Bên cạnh các khoản đóng góp, hỗ trợ, tiền lãi từ hoạt động đầu tư từ Quỹ BHTN, Quỹ BHTN còn có các nguồn thu hợp pháp khác như: Tiền lãi chậm đóng BHTN theo quy định; Các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật... Nhờ có các khoản này, quỹ BHTN luôn được duy trì, góp phần bảo đảm quyền lợi cho các đối tượng tham gia BHTN. 1.3.2.2. Quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp Quỹ BHTN không chỉ thực hiện chi trả trợ cấp cho người thất nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho họ tiếp cận với công việc mới. Do đó, cần có quy định cụ thể cho việc quản lý và sử dụng quỹ BHTN. Theo khoản 3 Điều 57 và Điều 59 Luật việc làm, Quỹ BHTN được sử dụng cho các mục đích: Chi trả TCTN; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ; Hỗ trợ học nghề; Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; Đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng TCTN; Chi phí quản lý BHTN thực hiện theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội; và đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng Quỹ. Quỹ BHTN phải
  • 31. 26 được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích từ trung ương đến địa phương theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHTN độc lập với ngân sách Nhà nước để chủ động giải quyết vấn đề thất nghiệp. Hoạt động của quỹ BHTNlà độc lập, tự thu, tự chi và có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước. Không được tùy tiện sử dụng quỹ này để giải quyết các vấn đề xã hội khác. Theo quy định tại Điều 59 Luật việc làm năm 2013, Quỹ BHTN chỉ được đầu tư theo các hình thức: Mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước; trái phiếu của ngân hàng thương mại do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ; Đầu tư vào các dự án quan trọng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; và Cho ngân sách Nhà nước, Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng thương mại do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ vay. Do Quỹ BHTN dựa trên cơ chế tự chủ tài chính, các bên hưởng lợi đều phải có nghĩa vụ đóng góp trên cơ sở có sự hỗ trợ của Nhà nước. Vì thế, để duy trì và phát triển quỹ, việc cho phép thực hiện các hoạt động đầu tư từ quỹ là hết sức cần thiết nhằm tăng cường khả năng tài chính cho quỹ, đáp ứng được nhu cầu sử dụng, đặc biệt là trong bối cảnh quỹ còn non trẻ, chưa đủ tiềm lực để có thể tự chi trả cho các chế độ BHTN mà vẫn cần tới sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng hoạt động đầu tư có thể sinh lời thì cũng có thể gây ra tổn thất. Mặc dù đã có quy định hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và có thể thu hồi được khi cần thiết, nhưng lại chưa có chế tài đi kèm với quy định đó trong trường hợp việc sử dụng quỹ không hiệu quả gây tổn thất tài chính cho quỹ. 1.3.3. Các chế độ của bảo hiểm thất nghiệp 1.3.3.1. Chế độ trợ cấp thất nghiệp - Đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp: Đối tượng hưởng TCTN là những NLĐ làm việc theo HĐLĐ hoặc HĐLV bao gồm: - HĐLĐ hoặc HĐLV không xác định thời hạn; - HĐLĐ hoặc HĐLV xác định thời hạn; - HĐLĐtheo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng;
  • 32. 27 Trường hợp NLĐ giao kết và đang thực hiện nhiều HĐLĐ, HĐLV thuộc đối tượng tham gia BHTN thì NLĐ và NSDLĐ của HĐLD, hợp đồng việc làm đầu tiên có trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp - Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp: Theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm và Điều 11 Nghị định 28/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm về BHTN, NLĐ bị thất nghiệp được hưởng TCTN khi đáp ứng đủ điều kiện sau: Thứ nhất, NLĐ đang đóng bảo hiểm bị mất việc làm hoặc chấm dứt HĐLĐ hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp: - NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ, HĐLV trái pháp luật; - Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng. - NLĐ đang đóng BHTN được hiểu là người có tháng liền kề trước thời điểm chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV đã đóng BHTN và được tổ chức bảo hiểm xã hội xác nhận. Như vậy, những trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ, HĐLV trái pháp luật, bị xử lý kỉ luật theo hình thức sa thải hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp luật hoặc bị kết án tù giam theo quyết định của Toà án, chết hoặc mất tích theo tuyên bố của Toà án sẽ không được hưởng trợ cấp BHTN. Việc đưa ra quy định như trên nhằm nâng cao ý thức, tinh thần, trách nhiệm của NLĐ trong quá trình làm việc.Đồng thời, tránh tình trạng NLĐ ỷ lại vào BHTN mà không coi trọng đối với công việc mà mình đang có. Thứ hai, người thất nghiệp phải tham gia đóng BHTN đủ thời gian theo quy định của pháp luật. Cụ thể, thời gian phải từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp đối với trường hợp ký kết HĐLĐ hoặc HĐLV có xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn; đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi thất nghiệp đối với NLĐ ký kết HĐLĐ theo mùa vụ hoặc một công việc nhất định có thời hạn đủ 03 tháng đến dưới 36[24, khoản 2 Đ49]. Theo đó, NLĐ muốn hưởng TCTN phải có trách nhiệm đóng phí BHTN trong một khoảng thời gian nhất định trước khi bị mất việc làm.Để được hưởng quyền lợi của
  • 33. 28 BHTN, NSDLĐ và NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHTN phải có trách nhiệm đóng phí để tạo quỹ. Do đó, nếu NSDLĐ không tự giác đóng thì NLĐ sẽ không được tham gia chế độ và khi thất nghiệp sẽ không được hưởng quyền lợi. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tùy vào từng loại hợp đồng mà thời hạn đóng BHTN là đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng hoặc 36 tháng trước khi NLĐ thất nghiệp. Tháng đóng BHTN của NLĐ được tính nếu NSDLĐ và NLĐ đã thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc và đã đóng BHTN. Như vậy, so với khoản 1 Điều 15 Nghị định 127/2008/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật BHXH về BHTN, Luật việc làm 2013 quy định cùng là NLĐ nhưng phụ thuộc vào loại hợp đồng đã ký kết mà điều kiện hưởng trợ cấp khác nhau. Do vậy, để bảo vệ quyền được BHTN của NLĐ, Nhà nước cần quy định lại khoảng thời gian đóng phí trước khi hưởng TCTN sao cho dung hòa lợi ích giữa các đối tượng hưởng trợ cấp. Nhà nước nên để khoảng thời gian đóng phí của các đối tượng NLĐ ký kết các loại HĐLĐ hoặc HĐLV khác nhau được hưởng trợ cấp trong khoảng gần với nhau hơn khoảng cách nhau là 06 tháng. Thiết nghĩ vì cùng là NLĐ, việc ký kết loại hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc này đôi khi cũng phụ thuộc vào nhu cầu của NSDLĐ, vì vậy nhà nước nên quy định để thời gian đóng phí trước khi hưởng BHTN của NLĐ là như nhau cho dù họ có ký kết các loại HĐLĐ hoặc HĐLV là khác nhau. Thứ ba, để hưởng TCTN, NLĐ thất nghiệp phải nộp hồ sơ tại Trung tâm dịch vụ việc làm ở địa phương nơi NLĐ muốn nhận TCTN. Trước đây, theo quy định tại khoản 5 Điều 1 Thông tư số 04/2013/TT-BLĐTBXH Sửa đổi hướng dẫn về BHTN thì trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày NLĐ bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, nếu NLĐ chưa có việc làm mà có nhu cầu hưởng TCTN thì phải đăng ký thất nghiệp. Còn nay, cũng trong thời hạn nêu trên, NLĐ thất nghiệp chỉ cần nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN là được hưởng trợ cấp .Như vậy, việc bỏ quy định về đăng ký thất nghiệp là một hướng mới trong cải cách thủ tục hành chính.Quy định này sẽ tạo điều kiện cho người mất việc thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Trên thực tế khi không có việc làm, người thất nghiệp thường có những biểu hiện tự ti, do đó, nếu đưa ra quy định bắt buộc phải đăng ký thất nghiệp mới được hưởng trợ
  • 34. 29 cấp, thì chưa chắc tất cả số người thất nghiệp đã đến cơ quan tiếp nhận thông tin để đăng ký. Hơn nữa, việc đăng ký thất nghiệp sẽ tạo ra nhiều rào cản hơn đối với NLĐ có nhu cầu đăng ký thất nghiệp tại Trung tâm giới thiệu việc làm không phải là nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Bởi theo quy định, để được hưởng trợ cấp họ phải có xác nhận về việc chưa đăng ký thất nghiệp của Trung tâm giới thiệu việc làm nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Điều này gây khó khăn, rắc rối cho người đăng ký, vì thế, rất khó để có được chính xác số lượng người thất nghiệp. Do vậy, việc giải quyết tình trạng thất nghiệp cũng mang lại hiệu quả không cao. Để khắc phục điều này, Luật việc làm năm 2013 và Nghị định 28/2016/NĐ-CP đã cho phép NLĐ thất nghiệp được nộp hồ sơ hưởng TCTN ở Trung tâm dịch vụ việc làm tại địa phương nơi NLĐ muốn nhận trợ cấp. Quy định này giúp cho NLĐ thoải mái, dễ dàng và chủ động hơn trong việc tiến hành thủ tục hưởng TCTN.Tuy nhiên, hàng tháng NLĐ thất nghiệp vẫn phải có trách nhiệm khai báo với trung tâm dịch vụ việc làm nơi họ đang hưởng TCTN về việc tìm kiếm việc làm. Qua đó, cơ quan quản lý nhà nước về lao động cũng có được số liệu chính xác về số lượng người thất nghiệp, từ đó đề ra biện pháp phù hợp để giải quyết tình trạng thất nghiệp, góp phần hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có chính sách về vấn đề việc làm và thất nghiệp. Thứ tư, NLĐ chưa tìm được việc làm sau 15 ngày làm việc kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN tới Trung tâm dịch vụ việc làm. Ngày thứ nhất trong 15 ngày nêu trên là ngày ngay sau ngày NLĐ đăng ký thất nghiệp, tính theo ngày làm việc, tức là từ ngày thứ hai đến hết ngày thứ sáu hàng tuần. Quy định này về thời điểm tính hưởng BHTN hiện hành còn tạo ra bất cập không phù hợp với thực tiễn, cụ thể: khoản 3 Điều 15 nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định: “chưa tìm đượcviệc làm sau 15 ngày, kể từ ngày đăng ký với cơ quan lao động theo quy định”, trong khi đó khoản 3 Điều 3 Thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH lại quy định: “Thời điểm tính hưởng các chế độ BHTN tính từ ngày thứ 16 và tính theo ngày làm việc kể từ ngày đăng ký thất nghiệp theo quy định”. Như vậy, để đảm bảo đúng quy định về thời điểm NLĐ được hưởng TCTN theo quy định trên thì quyết định TCTN cho NLĐ phải được Sở Lao động -Thương binh và Xã hội ký từ trước ngày thứ 16, tức là quy định về việc “chưa tìm được việclàm sau 15
  • 35. 30 ngày” như trên là không thể đảm bảo được trên thực tiễn. Để khắc phục điều này, khoản 4 Điều 49 Luật Việc làm năm 2013 quy định: “chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN” và “thời điểm hưởng TCTN của NLĐ được tính từ ngày thứ 16 theo ngày làm việc kể từ sau 60 ngày nộp hồ sơ hưởng TCTN”. Theo đó, kể từ ngày nhận được hồ sơ hưởng TCTN cho đến ngày thứ 15 mà người thất nghiệp vẫn chưa tìm được việc mới, cơ quan quản lý về lao động sẽ duyệt hồ sơ để họ được hưởng quyền lợi bảo hiểm từ ngày thứ 16. Như vậy, quy định mới đã giải quyết bất cập, không thể thực hiện được trong quy định trước đây, giải tỏa được tâm lý hoang mang của người tất nghiệp khi làm thủ tục hưởng bảo hiểm, góp phần củng cố niềm tin cho người thất nghiệp. Bản chất của TCTN là để hỗ trợ cho NLĐ bị thất nghiệp và chưa có thu nhập nên yếu tố chưa tìm kiếm được việc làm là hết sức quan trọng. Trên thực tế, có nhiều trường hợp tuy có đi làm, có thu nhập nhưng lại vẫn muốn hưởng thêm tiền từ TCTNdẫn đến tình trạng không thất nghiệp nhưng vẫn làm hồ sơ để được hưởng TCTN. Chính vì vậy, BHTN lại không phát huy đúng vai trò của nó nên cần đưa ra điều kiện về không tìm kiếm được việc làm để làm căn cứ xác định có được hưởng TCTN hay không. - Mức hưởng và thời gian hưởng TCTN: Mức hưởng và thời gian hưởng TCTN được quy định tại Điều 50, Luật việc làm 2013 như sau: - Mức hưởng TCTN hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp nhưng tối đa không quá 05 lần mức lương cơ sở đối với NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định hoặc không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật lao động đối với NLĐ đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định tại thời điểm chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV. - Thời gian hưởng TCTN được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng TCTN, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng TCTN nhưng tối đa không quá 12 tháng Theo đó, thời gian hưởng TCTN sẽ căn cứ theo số tháng đóng BHTN của NLĐ nhằm đảm bảo công bằng tối đa cho NLĐ đồng thời đảm bảo hoạt động của quỹ bảo
  • 36. 31 hiểm. Mức hưởng TCTN sẽ là 60% mức trung bình tiền lương đóng BHTN của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc nhưng không quá 5 lần mức lương cơ sở hoặc 5 lần mức lương tối thiểu vùng. Quy định về mức và thời gian hưởng TCTN ở Việt Nam là tương đối phù hợp với khuyến nghị của ILO và pháp luật các quốc gia trên thế giới. Trong Công ước số 102, ILO đã đề xuất mức hưởng là 45% tổng thu nhập trước đó của người thụ hưởng và thời gian hưởng ít nhất là 13 tuần. Các quốc gia thường quy định mức hưởng cao hơn khuyến nghị của ILO, chẳng hạn, Trung Quốc quy định mức hưởng bằng 70% tiền lương, Đức quy định 67% và 60% tiền lương phụ thuộc vào số con của người thất nghiệp… Thời gian hưởng được các quốc gia quy định khá linh hoạt, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và thực trạng việc làm, đảm bảo mục đích của bảo hiểm. Đa phần các quốc gia đều quy định thời gian hưởng phụ thuộc vào thời gian đóng bảo hiểm, lũy tiến theo thời gian đóng[27]. Việc pháp luật Việt Nam quy định thời gian hưởng, mức hưởng TCTN như vậy là hoàn toàn phù hợp và cân đối so với mặt bằng chung quy định của các quốc gia trên thế giới. - Các trường hợp tạm dừng, tiếp tục, chấm dứt hưởng TCTN: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 53, Luật Việc làm 2013: “Người đang hưởng TCTN bị tạm dừng hưởng TCTN khi không thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định tại Điều 52 của Luật này”.Theo đó, người đang hưởng TCTN phải thực hiện thông báo về việc tìm kiếm việc làm hàng tháng. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày NLĐ không đến thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định, trung tâm dịch vụ việc làm nơi NLĐ đang hưởng TCTN trình Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội quyết định về việc tạm dừng hưởng TCTN của NLĐ. Quyết định về việc tạm dừng hưởng TCTN được trung tâm dịch vụ việc làm gửi: 01 bản đến Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh để thực hiện tạm dừng chi trả TCTN đối với NLĐ; 01 bản đến NLĐ. Việc thông báo về việc tìm kiếm việc làm như là một biện pháp để kiểm soát tình hình thực tế của người đang hưởng TCTN.Bên cạnh đó, việc người thất nghiệp thông báo về tình trạng tìm kiếm việc làm cũng giúp các cơ quan chức năng có thể kịp thời hỗ trợ, giúp họ sớm tìm kiếm được việc làm phù hợp để tiếp tục cuộc sống.
  • 37. 32 Trong trường hợp người đang hưởng TCTN bị tạm dừng hưởng mà vẫn còn thời hạn được TCTN thì nếu thực hiện việc thông báo về việc tìm kiếm việc làm thì có thể được tiếp tục cho hưởng TCTN theo quy định [24, khoản 2 Đ53]. Trong quá trình hưởng TCTN, người hưởng TCTN có thể bị chấm dứt hưởng nếu thuộc một trong các trường hợp sau: - Hết thời hạn hưởng TCTN theo quyết định hưởng TCTN của NLĐ; - Có việc làm. (NLĐ được xác định là có việc làm thuộc một trong các trường hợp: Đã giao kết hợp HĐLĐ, HĐLV từ đủ 03 tháng trở lên;Có quyết định tuyển dụng đối với những trường hợp không thuộc đối tượng giao kết HĐLĐ hoặc HĐLV; NLĐ thông báo đã có việc làm cho trung tâm dịch vụ việc làm theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định) - Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an. - Hưởng lương hưu hằng tháng. - Sau 02 lần NLĐ từ chối việc làm do trung tâm dịch vụ việc làm nơi đang hưởng TCTN giới thiệu mà không có lý do chính đáng. Không có lý do chính đáng được hiểu là: Việc làm phù hợp với ngành nghề, trình độ của NLĐ đã được đào tạo; Việc làm mà NLĐ đó đã từng làm. - Trong thời gian hưởng TCTN, 03 tháng liên tục không thực hiện thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm với trung tâm dịch vụ việc làm theo quy định; - Ra nước ngoài để định cư, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng. - Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên - Bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật BHTN. - Chết. - Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. - Bị tòa án tuyên bố mất tích. - Bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù. 1.3.3.2. Chế độ hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm Khi NLĐ chấm dứt HĐLĐ, HĐLV, họ sẽ lâm vào tình trạng không có việc làm, không có thu nhập và cần tìm một công việc mới. Giữa một thị trường lao động đa dạng
  • 38. 33 như hiện nay thì việc tìm kiếm việc làm phù hợp với khả năng và sở thích của NLĐ sẽ khó khăn. Khi đó, việc có một trung gian để tư vấn, giới thiệu việc làm đến NLĐ sẽ là cần thiết và giúp họ lựa chọn được đúng công việc mình mong muốn hơn, đồng thời hạn chế tình trạng thất nghiệp kéo dài hoặc nhảy việc liên tục. Hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm được thực hiện thông qua Trung tâm dịch vụ việc làm. Kinh phí thực hiện tư vấn, giới thiệu việc làm của trung tâm được giao khoán theo số lượng người nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN của năm liền trước, và thực hiện thanh quyết toán theo quy định trên cơ sở thực tế số lượng người nộp hồ sơ hưởng TCTN. Phí tư vấn, giới thiệu việc làm theo quy định của pháp luật về phí. Trung tâm dịch vụ việc làm có nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu việc làm trên cơ sở nhu cầu, khả năng của NLĐ và nhu cầu của thị trường lao động[11, điều14]. Về thời gian hỗ trợ tư vấn tìm việc làm, hiện nay chưa có quy định cụ thể. Nhưng theo quy đinh trước đây tại khoản 2 Điều 5 Thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH, NLĐ đang hưởng TCTN được Trung tâm giới thiệu việc làm hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm tính từ ngày NLĐ được hưởng TCTN hằng tháng và không quá tổng thời gian mà NLĐ đó được hưởng TCTN theo quyết định của Giám đốc Sở Lao động –Thương binh và Xã hội. Việc đưa ra các quy định về tư vấn, giới thiệu việc làm góp phần không nhỏ vào quá trình giải quyết tình trạng thất nghiệp ở nước ta.Nhờ có quy định này, người thất nghiệp đã bớt đi sự lo lắng khi phải tìm kiếm việc mới. 1.3.3.3. Chế độ hỗ trợ học nghề Đây là chế độ nhằm hỗ trợ, đào tạo cho NLĐ có tay nghề thấp hoặc muốn thay đổi công việc nhưng lại chưa có kĩ năng. Chế độ hỗ trợ học nghề do cơ quan lao động thực hiện thông qua các cơ sở dạy nghề. Để được học nghề, NLĐ phải làm đơn đề nghị hỗ trợ học nghề, trung tâm dịch vụ việc làm có trách nhiệm xem xét, trình Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định.Mức hỗ trợ học nghề cho đối tượng được hỗ trợ học nghề là 01 lần để học 01 nghề tại cơ sở dạy nghề. Mức hỗ trợ cụ thể tính theo tháng, tùy theo từng nghề, mức thu học phí và thời gian học nghề thực tế theo quy định của cơ sở dạy nghề. Nguồn kinh phí thực hiện hỗ trợ học nghề do Bảo hiểm xã hội Việt Nam chi trả từ quỹ BHTN. Thời gian hỗ trợ học nghề theo thời gian học nghề thực tế nhưng không quá 06 tháng[24, khoản Đ56].