SlideShare a Scribd company logo
1 of 109
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
............./.................
BỘ NỘI VỤ
.........../.........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN DƯƠNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NGOÀI
TRỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP,
TỈNH NINH BÌNH
VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
LUANVANTRITHUC.COM
ZALO: 0936.885.877
TẢI TÀI LIỆU NHANH QUA ZALO
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI - NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
............./.................
BỘ NỘI VỤ
.........../.........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN DƯƠNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Người hướng dẫn khoa học: TS. TẠ NGỌC HẢI
HÀ NỘI - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Em tên Nguyễn Văn Dương, là học viên lớp LH5.B1; Chuyên ngành: Luật
Hiến pháp và Luật Hành chính (Mã ngành: 8 38 01 02). Là tác giả nghiên cứu đề
tài Luận văn thạc sĩ Luật học “Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên
địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình”
Em xin cam đoan đề tài luận văn nêu trên là công trình nghiên cứu của cá
nhân em dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Tạ Ngọc Hải. Trong luận văn có sử
dụng, trích dẫn một số nguồn tài liệu, ý kiến và quan điểm nghiên cứu khoa học
của một số tác giả là nhà nghiên cứu trong lĩnh vực luật học.
Nay em viết Lời cam đoan này đề nghị Phòng Đào tạo Sau đại học, Trường
Học viện Hành chính Quốc gia xem xét để em được bảo vệ luận văn với đề tài
nghiên cứu nêu trên. Em xin trân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2021
Học viên
Nguyễn Văn Dương
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này không thể hoàn thành nếu thiếu sự hướng dẫn và hỗ trợ của
nhiều cá nhân và tổ chức.
Trước tiên, em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến TS. Tạ Ngọc Hải, người đã
hướng dẫn, động viên giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn.
Những nhận xét và đánh giá của thầy Tạ Ngọc Hải, đặc biệt là những gợi ý về
hướng giải quyết vấn đề trong suốt quá trình nghiên cứu, thực sự là những bài
học vô cùng quý giá đối với em trong quá trình viết luận văn.
Em xin cảm ơn đến Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, khoa Nhà
nước - Pháp luật và Lý luận cơ sở - Học viện Hành chính Quốc gia; các Thầy, Cô
giáo đã giúp đỡ, góp ý và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong quá trình
nghiên cứu và viết luận văn của mình.
Em cũng xin cảm ơn đến tất cả cá nhân, tập thể cơ quan, đơn vị; bạn bè và
gia đình đã luôn động viên, chia sẻ, tạo điều kiện giúp đỡ em trong những giai
đoạn khó khăn để hoàn thành luận văn này.
Em xin trân thành cảm ơn!
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATGT
BXD
CLB
CNH, HĐH
ĐH
ĐKKD
HĐND
KHXH
MTTQ
NĐ
Nxb
PBGDPL
QCTM
QCNT
QĐ
QH
PGS.TS
TS
TT
TTLĐ
UBND
VHCS
VH&TT
VHTT&DL
An toàn giao thông
Bộ Xây dựng
Câu lạc bộ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại học
Đăng kí kinh doanh
Hội đồng nhân dân
Khoa học xã hội
Mặt trận tổ quốc
Nghị định
Nhà xuất bản
Phổ biến giáo dục pháp luật
Quảng cáo thương mại
Quảng cáo ngoài trời
Quyết định
Quốc hội
Phó Giáo sư. Tiến sỹ
Tiến sĩ
Thông tư
Tuyên truyền lưu động
Uỷ ban nhân dân
Văn hóa cơ sở
Văn hoá và Thể thao
Văn hóa, Thể thao và Du lịch
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG
CÁO NGOÀI TRỜI........................................................................................................................7
1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời...........................................7
1.2. Chủ thể, nội dung thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời.........................14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về quảng cáo...............................17
1.4. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về thực hiện pháp luật về quảng cáo
ngoài trời và bài học kinh nghiệm............................................................................................30
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1............................................................................................................40
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO
NGOÀI TRỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP ...............................42
2.1. Khái quát về thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.................................................42
2.2. Quy định của pháp luật về quảng cáo ngoài trời ......................................................47
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành
phố Tam Điệp....................................................................................................................................57
2.4. Đánh giá chung....................................................................................................................... 81
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................................................87
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH..........................................................88
3.1. Quan điểm đề xuất giải pháp.............................................................................................88
3.2. Định hướng giải pháp...........................................................................................................88
3.3. Các giải pháp............................................................................................................................89
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3............................................................................................................97
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................100
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận văn
Trong những năm gần đây, quảng cáo có vai trò quan trọng, được coi như
một hình thức giao tiếp góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Các nền kinh tế đã
và đang hội nhập ngày càng mạnh mẽ, vì vậy muốn phát triển kinh tế thì trước hết
sản phẩm, dịch vụ phải có người biết đến. Do đó, các sản phẩm, dịch vụ muốn
tiêu thụ theo nguyên tắc thị trường, người sản xuất cần giới thiệu sản phẩm, dịch
vụ đến với người tiêu dùng thông qua quảng cáo.
Hiện nay, các phương thức và phương tiện quảng cáo rất phong phú và đa
dạng. Vì thế, thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời gặp khá nhiều khó khăn
như: công tác xây dựng các kế hoạch, văn bản hướng dẫn thực hiện quy hoạch
quảng cáo ngoài trời, các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu đồng bộ, ban
hành chậm nên đã ảnh hưởng đến việc quản lý hoạt động quảng cáo ngoài trời.
Hoạt động quảng cáo thường thay đổi linh hoạt hơn những quy định có sẵn trong
Luật, những quy định cụ thể chưa bắt nhịp kịp với những biến đổi và diễn biến
phức tạp của hoạt động quảng cáo mà Luật Quảng cáo chưa có những điều chỉnh
hoặc điều chỉnh chưa cụ thể, chưa có những bổ sung, sửa đổi; Ngoài ra, công tác
tham mưu, phối hợp giữa các sở, ban ngành về cấp giấy phép thực hiện quảng cáo
còn bộc lộ nhiều hạn chế như thủ tục rườm rà, thời gian chờ đợi cấp phép khá lâu
gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh hoạt động quảng cáo của các doanh
nghiệp. Tác giả nghiên cứu đề tài này mục tiêu là muốn đánh giá việc chấp hành
pháp luật về quảng cáo ngoài trời (gọi tắt là QCNT), từ đó thấy được ưu điểm và
hạn chế của việc thực hiện pháp luật về QCNT ở Việt Nam nói chung và trên địa
bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình nói riêng và đưa ra các giải pháp để
nâng cao hiệu thực hiện pháp luật về QCNT tại địa bàn.
Bên cạnh những đóng góp đáng được ghi nhận thì hoạt động QCNT trên địa
bàn thành phố Tam Điệp cũng phát sinh nhiều hiện tượng khá phức tạp cần kịp
thời quản lý, điều chỉnh. Sự bất cập, sơ hở và chồng chéo của các văn bản quy
phạm pháp luật, có không ít đơn vị không tuân thủ các quy định, quy chế
2
của các cơ quan chức năng; thực hiện sai lệch theo nội dung giấy phép được cấp,
gây khó khăn không nhỏ cho công tác quản lý ...
Một số nội dung QCNT không tuân thủ quy định của pháp luật trong lĩnh
vực quảng cáo như: quảng cáo rao vặt tràn lan gây phản cảm đến người xem;
quảng cáo so sánh với sản phẩm, hàng hóa khác; quảng cáo mặt hàng cấm quảng
cáo ...
Xuất phát từ tính cấp thiết trên, tác giả đã lựa chọn luận văn với đề tài:
“Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam
Điệp, tỉnh Ninh Bình” làm đề tài tốt nghiệp cao học chuyên ngành Luật Hiến
pháp và Luật Hành chính. Nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn có một cái
nhìn toàn diện về cơ sở lý luận và thực tiễn trong thực hiện pháp luật về QCNT,
nhằm tạo hướng đi đúng đắn phát triển ngành công nghiệp sáng tạo này, mang lại
lợi ích thiết thực về kinh tế, văn hóa, xã hội cho thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh
Bình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Ở Việt Nam, khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội nghĩa, các hoạt động thương mại dịch vụ
ngày càng trở nên sôi động, đây chính là cơ hội để hoạt động quảng cáo phát triển
mạnh mẽ. Việc nghiên cứu về quảng cáo tuy đã được thực hiện nhưng còn ở mức
độ hạn chế; việc chấp hành pháp luật về quảng cáo nói chung cũng như quảng
cáo ngoài trời nói riêng tiếp cận từ góc độ thực hiện pháp luật là cần thiết để từ đó
có cái nhìn toàn diện với vấn đề này, giúp cho việc hoạch định và thực thi chính
sách pháp luật về quảng cáo ngày càng hoàn thiện hơn.
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực quảng cáo ở nước ta
chưa nhiều, một số công trình tiêu biểu của một số tác giả như: Nghiệp vụ quảng
cáo và tiếp thị, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, xuất bản năm 1999 của Lê
Hoàng Quân đưa ra những quan điểm, phương pháp vận dụng khoa học nhằm
cung cấp cho người đọc những kiến thức về quảng cáo và công ty quảng cáo; sự
lựa chọn các kênh quảng cáo; quá trình sáng tạo, thực hiện một chiến dịch quảng
cáo ... sách còn trình bày một số tình huống tham khảo, từ đó các doanh nghiệp
3
có thể cùng với công ty quảng cáo vạch ra mục tiêu, chiến lược và hình thức
quảng cáo phù hợp, cũng như đo lường đánh giá hiệu quả của quảng cáo; vì vậy
sẽ rất hữu ích cho các sinh viên Marketing và Mỹ thuật công nghiệp, các doanh
nghiệp hoạt động trong ngành quảng cáo và các doanh nghiệp đang có ý đinh
quảng cáo trên phương tiện truyền thông. Công trình tiếp theo là “Những khía
cạnh tâm lý trong quảng cáo thương mại”, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội (2015) của
tác giả Nguyễn Hữu Thụ cung cấp các tri thức, quy luật cơ bản, cốt lõi nhất của
tâm lý con người, cơ chế vận hành các hiện tượng tâm lý trong hoạt động quảng
cáo thương mại, các hình thức và hướng nghiên cứu quảng cáo thương mại phổ
biến hiện nay;
Ngoài ra, có các luận văn, luận án khoa học ở các trường Đại học, Học viện,
Viên nghiên cứu. Luận án Tiến sĩ Văn hóa học “Giá trị văn hóa của Quảng cáo ở
Việt Nam hiện nay” (năm 2012) của tác giả Đỗ Quang Minh cho chúng ta thấy
một cái nhìn tổng quát trên sự phân tích, tìm hiểu giá trị văn hóa của quảng cáo,
một yêu cầu đặt ra là quảng cáo phù hợp với nền văn hóa, văn minh. Luận án
Tiến sĩ Luật kinh tế “Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam hiện nay” (năm 2016) của tác giả Hồ Thị Duyên là công
trình đầu tiên nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống các vấn đề lý luận về
hành vi quảng cáo đặc biệt là khái niệm, đặc điểm và cấu thành của hành vi này,
qua đó xác định pháp luật để nhận diện và xử lý đối với hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh, chỉ ra những hạn chế mà pháp luật về hành vi quảng
cáo cần phải khắc phục và hoàn thiện trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Luận án
Tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại” (2015) của Nguyễn Thị
Tâm đề xuất những phương hướng, kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về quảng cáo thương mại nói riêng và
pháp luật về quảng cáo nói chung.
Ngoài ra, một số luận văn nghiên cứu về hoạt động quảng cáo như: Luận văn
Thạc sỹ Quản lý Văn hóa “Quản lý hoạt động quảng cáo thương mại ngoài trời
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” (2016) của tác giả Nguyễn Mạnh Hà, Trường Đại
học Sư phạm nghệ thuật Trung ương đánh giá về công tác quản lý hoạt động
4
quảng cáo thương mại và những tác động của quảng cáo đối với kinh tế - xã hội
qua đó cung cấp thêm thông tin cơ bản cho doanh nghiệp quảng cáo, giúp người
làm quảng cáo đi đúng hướng trong thời đại công nghệ 4.0
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề thực hiện
pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp. Chính vì vậy,
luận văn này sẽ tập trung đi sâu vào nghiên cứu cụ thể hơn về việc thực hiện pháp
luật về hoạt động quảng cáo ngoài trời để từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về quảng cáo thương mại trên địa bàn thành phố Tam
Điệp, tỉnh Ninh Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đánh giá đúng thực trạng thực hiện
pháp luật về QCNT tại thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Từ đó đề xuất giải
pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật đối với hoạt động QCNT trên địa
bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng khung lý thuyết phục vụ cho việc đánh giá việc thực hiện pháp
luật về quảng cáo ngoài trời;
- Đánh giá đúng thực trạng về thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình;
- Đề xuất được những giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế việc thực hiện
pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
đối với các hoạt động QCNT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian: Luận văn thu thập số liệu về hoạt động quảng cáo
ngoài trời qua 5 năm (2015-2019).
5
Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu về thực hiện pháp luật về
quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp và một số đơn vị hành
chính đô thị tỉnh Ninh Bình.
Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu mảng thực hiện pháp
luật về quảng cáo thương mại ngoài trời. Tập trung nghiên cứu nhiều hơn về hoạt
động thực hiện pháp luật về quảng cáo thương mại ngoài trời của cơ quan quản lý
nhà nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau:
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này dùng để hệ thống hóa các số liệu
về thực trạng hoạt động quảng cáo đề phân tích tình hình biến động theo thời
gian.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Số liệu được tổng hợp và phân tích từ
đó đưa ra những nhận xét đánh giá cũng như đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý hoạt động quảng cáo ngoài trời.
- Phương pháp tiếp cận liên nghành: Nghiên cứu quản lý văn hóa dưới góc
độ văn hóa học.
- Sử dụng chuyên gia.
6. Đóng góp của luận văn
- Trên phương diện lý thuyết: xây dựng khung pháp lý phục vụ cho việc
đánh giá việc thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời.
- Trên phương diện thực tế: góp phần đánh giá đúng thực trạng việc thực
hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh
Ninh Bình.
- Trong đề xuất giải pháp: đề xuất được những giải pháp phù hợp với điều
kiện thực tế việc thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình.
6
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục và Mục lục,
Bảng biểu, hình ảnh, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thực hiện pháp luật đối với hoạt động quảng
cáo ngoài trời.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa
bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hoạt động
quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI
1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
1.1.1. Thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp
luật bằng hành vi của mình thực hiện các qui định pháp luật trong thực tế đời
sống. Thực hiện pháp luật bao gồm: tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử
dụng pháp luật; áp dụng pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện những qui phạm pháp luật mang
tính chất ngăn cấm bằng hành vi thụ động, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm
chế không làm những việc mà pháp luật cấm.
- Thi hành pháp luật: là hình thức thực hiện những qui định trao nghĩa vụ
bắt buộc của pháp luật một cách tích cực trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ
của mình bằng những hành động tích cực.
- Sử dụng pháp luật: là hình thức thực hiện những qui định về quyền chủ thể
của pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật chủ động, tự mình quyết định việc
thực hiện hay không thực hiện điều mà pháp luật cho phép.
- Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước
thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể
pháp luật thực hiện những qui định pháp luật hoặc chính hành vi của mình căn cứ
vào những qui định của pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi,
đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật.
1.1.2. Thực hiện pháp luật về quảng cáo
Tại Điều 2, Luật Quảng cáo năm 2012 (được Quốc hội thông qua ngày
21/6/2012) quy định như sau: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm
giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản
phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông
tin cá nhân” [41, tr.1].
8
Từ khái niệm quảng cáo nêu trên, trở lại với khái niệm thực hiện pháp luật
chúng ta có thể nhận thấy thực hiện pháp luật về quảng cáo có 04 hình thức, cụ
thể là:
- Tuân thủ pháp luật quảng cáo: là hình thức thực hiện những qui phạm pháp
luật mang tính chất ngăn cấm bằng hành vi thụ động, trong đó các chủ thể pháp
luật kiềm chế không làm những việc mà Luật quảng cáo cấm.
VD: một công dân không thực hiện những hành vi vi phạm được qui định
trong Luật quảng cáo, tức là công dân đó tuân thủ những qui định của Luật này.
- Thi hành pháp luật quảng cáo: là hình thức thực hiện những qui định trao
nghĩa vụ bắt buộc của Luật luật quảng cáo một cách tích cực trong đó các chủ thể
thực hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành động tích cực.
VD: một người thực hiện các thủ tục về cấp phép quảng cáo, tức là người đó
đã bằng hành động tích cực thi hành qui định về pháp luật quảng cáo.
- Sử dụng pháp luật quảng cáo: là hình thức thực hiện những qui định về
quyền chủ thể của pháp luật về quảng cáo, trong đó các chủ thể pháp luật chủ
động, tự mình quyết định việc thực hiện hay không thực hiện điều mà pháp luật
quảng cáo cho phép.
- Áp dụng pháp luật quảng cáo: là hình thức thực hiện pháp luật quảng cáo,
trong đó nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những qui định pháp luật hoặc chính hành vi
của mình căn cứ vào những qui định của pháp luật để ra các quyết định làm phát
sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật về quảng cáo.
VD: cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật tuyên phạt doanh
nghiệp quảng cáo không xin phép.
Từ những nhận định trên có thể khái quát lại rằng: Quảng cáo là hình thức
tuyên truyền được trả phí hoặc không để thực hiện việc giới thiệu thông tin về sản
phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là hoạt động truyền thông phi trực
tiếp giữa người với người mà trong đó người muốn truyền thông phải trả tiền cho
các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa thông tin đến thuyết phục hay tác
động đến người nhận thông tin.
9
So với khái niệm thực hiện pháp luật thì thực hiện pháp luật về quảng cáo cụ
thể hơn trong lĩnh vực quảng cáo. Theo đó, tuy rằng về hình thức có thể giống
nhau nhưng nội dung là khác nhau.
Thực hiện pháp luật về quảng cáo là quá trình hoạt động có mục đích mà các
chủ thể pháp luật bằng hành động của mình thực hiện các qui định pháp luật về
quảng cáo trong thực tế đời sống.
1.1.3. Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
* Đối với nhà nước
Thực hiện pháp luật về quảng cáo là hoạt động có mục đích của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền làm cho những quy định của pháp luật về quảng cáo đi
vào thực tiễn đời sống xã hội, nhằm bảo đảm trật tự, an toàn và công bằng xã hội;
nhằm phát huy quyền dân chủ của nhân dân và bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về
hoạt động quảng cáo.
Để thực hiện pháp luật về quảng cáo nói chung trong đó có hoạt động
quảng cáo thương mại ngoài trời, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm trật tự kỷ cương, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của Nhà nước đối với hoạt động này.
Từ nhận định trên có thể thấy việc thực hiện pháp luật về quảng cáo thương
mại ngoài trời đối với các cơ quan nhà nước có những đặc điểm nổi bật là:
- Về chủ thể: Các cơ quan nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông qua việc
ban hành hệ thống văn bản quản lý theo thẩm quyền nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội về hoạt động quảng cáo, đưa ra các quy định nhằm tác động đến đối tượng
thực thi pháp luật nhằm đảm bảo cho hoạt động quảng cáo đi vào nền nếp, tạo sự
cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thực hiện pháp luật.
Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp tổ chức
tiếp nhận, xử lý hồ sơ, giải quyết nhu cầu quảng cáo, cấp phép quảng cáo, tiếp thị
của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh. Thường xuyên theo dõi việc thi
hành pháp luật về quảng cáo; tổ chức thanh kiểm tra, đánh giá, giám sát việc
10
thực hiện các quy định pháp luật về quảng cáo; kịp thời tham mưu cho cho cơ
quan, người có thẩm quyền xử lý nghiêm những hành vi vi phạm về quảng cáo
theo quy định của pháp luật.
- Hoạt động quảng cáo ngoài trời luôn có sự thay đổi và biến động ngày
càng mạnh mẽ, có tính thời sự cao, gắn liền với quá trình công nghệ hóa, toàn cầu
hóa về kinh tế. Do đó các cơ quan nhà nước cần thường xuyên cần tích cực đẩy
mạnh hoạt động theo dõi thi hành pháp luật, tổng kết thực tiễn nhằm kịp thời ban
hành các chủ trương, chính sách, pháp luật sát hợp với tình hình thực tế, có tính
khả thi, tính dự báo cao.
- Sự đa dạng và phức tạp của hoạt động quảng cáo. Có thể thấy quảng cáo
là hoạt động hết sức phức tạp, gắn liền với quá trình xúc tiến thương mại của
thương nhân. Thương nhân thông qua hoạt động quảng cáo nhằm xúc tiến thương
mại; với mong muốn hàng hóa dịch vụ của mình đến ngày càng gần hơn, nhiều
hơn đối với người tiêu dùng và đạt được lợi nhuận cao nhất. Để đảm bảo hài hòa
lợi ích giữa đội ngũ thương nhân và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các cơ
quan quản lý nhà nước cần xây dựng, ban hành chính sách phù hợp, vừa khuyến
khích doanh nghiệp, doanh nhân phát triển sản xuất, vừa đảm bảo lợi ích của
người tiêu dùng; tránh xung đột về lợi ích của người tiêu dùng và doanh nghiệp.
* Đối với thương nhân
Điều 102 Luật Thương mại 2005 quy định: “Quảng cáo thương mại là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt
động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình” [76, tr.2]. Có thể hiểu rằng quảng
cáo thương mại là hoạt động sử dụng các phương tiện quảng cáo nhằm xúc tiến
thương mại của thương nhân để giới thiệu, đưa thông tin hàng hóa, dịch vụ tới
khách hàng.
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời là quá trình hoạt động có mục
đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các qui định pháp
luật về quảng cáo được thực hiện ở ngoài trời để giới thiệu, đưa thông tin
11
hàng hóa, dịch vụ tới khách hàng nhằm quảng bá hình ảnh thương hiệu, sản phẩm
hay dịch vụ của doanh nghiệp vào trong đời sống thực tế.
Từ quan niệm như vậy cho thấy quảng cáo ngoài trời có những đặc điểm sau:
- Về chủ thể: Chủ thể hoạt động quảng cáo nói chung và quảng cáo ngoài
trời nói riêng là thương nhân. Với tư cách là người kinh doanh, thương nhân thực
hiện quảng cáo để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình hoặc thực hiện dịch
vụ quảng cáo cho thương nhân khác theo hợp đồng để tìm kiếm lợi nhuận. Đây là
đặc điểm khác biệt của quảng cáo đối với các hoạt động thông tin, cổ động do cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội… thực hiện nhằm tuyên truyền
về đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Với bản chất là một hoạt động do thương nhân thực hiện, quảng cáo và
quảng cáo ngoài trời khác biệt với quảng cáo nói chung, mặc dù chúng đều có
chung đặc điểm là một quá trình thông tin.
- Về tổ chức thực hiện: Thương nhân có thể tự mình thực hiện các công việc
cần thiết để quảng cáo ngoài trời hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân
khác thông qua hợp đồng dịch vụ. Do quảng cáo có tác động rất lớn đến hoạt
động bán hàng, cung ứng dịch vụ nên thương nhân sử dụng quảng cáo để khuếch
trương hàng hóa dịch vụ của mình tặng cường cơ hội thương mại và tăng cường
lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường, dịch vụ quảng cáo ngoài trời được pháp luật
thừa nhận là một loại dịch vụ thương mại mà thông qua phí dịch vụ, thương nhân
thu được lợi nhuận một cách trực tiếp. Trong trường hợp tự mình quảng cáo
không đạt được hiệu quả mong muốn, thương nhân có quyền thuê thương nhân
khác thực hiện quảng cáo cho mình và phải chịu chi phí dịch vụ vì việc đó.
- Về cách thức xúc tiến thương mại: Trong hoạt động quảng cáo ngoài trời,
thương nhân sử dụng sản phẩm và phương tiện quảng cáo để thông tin về hàng
hóa dịch vụ đến khách hàng. Những thông tin bằng hình ảnh, tiếng nói, chữ viết
về hàng hóa dịch vụ cần giới thiệu… được truyền tải đến công chúng thông qua
các phương tiện truyền thanh, truyền hình, ấn phẩm. Đặc điểm này là đặc điểm
12
riêng biệt của quảng cáo thương mại với hình thức xúc tiến thương mại cũng có
mục đích giới thiệu hàng hóa, dịch vụ như trưng bày, hội trợ triển lãm.
- Về mục đích trực tiếp của quảng cáo ngoài trời: Mục đích trực tiếp của
quảng cáo ngoài trời là giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ để xúc tiến thương mại,
đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận của thương nhân. Thông qua
các hình thức truyền đạt thông tin, thương nhân giới thiệu về một loại hàng hóa,
dịch vụ mới, tính ưu việt về chất lượng, giá cả, khả năng đáp ứng nhu cầu sử
dụng… Như vậy, thương nhân có thể tạo sự nhận biết và kiến thức về hàng hóa,
dịch vụ, có thể thu hút khách hàng đang sử dụng hàng hóa, dịch vụ của công ty
khác thông qua việc nhấn mạnh đặc điểm và lợi ích của một nhãn hiệu cụ thể
hoặc thông qua việc so sánh tính ưu việt của sản phẩm với các sản phẩm cùng
loại. Có thể nói đây là những lợi thế mà thương nhân có thể khai thác vì nó có ý
nghĩa rất lớn trong việc định hướng nhu cầu tiêu dùng xã hội bao gồm nhu cầu
tiêu dùng cá nhân và sản xuất.
Các đặc điểm trên đây là cơ sở để phân biệt quảng cáo ngoài trời nói riêng
và quảng cáo thương mại nói chung với các hoạt động không phải quảng cáo
thương mại như: Hoạt động thông tin truyên truyền, cổ động mang tính chính trị,
xã hội do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội thực hiện, hoạt động
thông tin của các tổ chức cá nhân không nhằm mục đích kinh doanh.
1.1.4. Vai trò của quảng cáo ngoài trời
- Đối với thương nhân: Quảng cáo ngoài trời là một công cụ hữu hiệu để xúc
tiến thương mại. Đối với sản phẩm mới xuất hiện hoặc sắp tung ra thị trường thì
giúp giới thiệu thông tin đến người tiêu dùng gây được chú ý của họ, tìm kiếm cơ
hội thi lợi nhuận. Đối với các sản phẩm đã có mặt và quen thuộc thì duy trì sự tín
nhiệm, lòng trung thành của người tiêu dùng đối với sản phẩm, thúc đẩy việc bán
sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, thu lợi nhuận, tăng doanh số bán hàng.
- Đối với người tiêu dùng: Vai trò đầu tiên mà quảng cáo ngoài trời mang lại
đó là thông tin về hàng hóa, sản phẩm dịch vụ đồng thời mang tới cho họ sự lựa
chọn và quyết định mua hay sử dụng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đó. Tùy từng lứa
tuổi, sở thích, giới tính, nhu cầu khách hàng có thể dễ dàng tìm thấy cho mình
loại mặt hàng phù hợp nhất...
13
- Đối với nền kinh tế: Đặc biệt trong giai đoạn cạnh tranh thương mại mạnh
mẽ như hiện nay, vai trò của quảng cáo ngoài trời là không thể phủ định. Quảng
cáo ngoài trời là một hình thức xúc tiến thương mại, đóng vai trò là cầu nối giữa
người bán hàng và người mua, người sản xuất với người tiêu dùng. Góp phần
thúc đẩy lưu thông, tiêu thụ hàng hóa dịch vụ trên thị trường, gián tiếp thúc đẩy
hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh và tạo động lực phát
triển mạnh mẽ cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền
kinh tế thị trường của quốc gia đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như
Việt Nam.
1.1.5. Lợi ích của quảng cáo ngoài trời
Quảng cáo ngoài trời có thuật ngữ quốc tế là Out Of Home (OOH), được
hiểu đơn giản là những hình thức quảng cáo được đặt ở bên ngoài, tiếp cận với
những đối tượng đang di chuyển hoặc hoạt động ở ngoài trời. Đó có thể là những
tấm billboard khổ lớn được đặt bên các quãng đường cao tốc, có thể là quảng cáo
trên các phương tiện giao thông, tại các trạm chờ xe bus, giữa các ngã tư đường
phố, trên những tòa nhà cao tầng, trên các trục đường giao thông lớn, hoặc chỉ
cần đơn giản là những tấm biển hiệu có mặt ở khắp mọi nơi …
Quảng cáo ngoài trời mang lại lợi ích rất lớn và đang trong xu thế phát triển
mạnh. Từ năm 2011, quảng cáo ngoài trời đã được nghiên cứu và đánh giá là
mang lại hiệu quả truyền thông tốt, có đà tăng trưởng mạnh. Lợi ích của hoạt
động quảng cáo ngoài trời thể hiện trên các phương diện sau:
- Quảng cáo ngoài trời tiếp cận được với một số lượng công chúng rất lớn,
không quan trọng về thời gian xuất hiện vì chúng có mặt mọi lúc, mọi nơi gần
như công chúng sẽ đón nhận các quảng cáo này một cách thụ động nhưng lại khá
tự nhiên. Quảng cáo được đặt cố định (hoặc di chuyển đối với hình thức phương
tiện giao thông) nên tần suất tiếp cận quảng cáo là rất nhiều mà chủ doanh nghiệp
sẽ không phải trả thêm phụ phí.
- Với mỗi nội dung quảng cáo ngoài trời có một vị trí phù hợp khác nhau.
Quảng cáo ngoài trời mang tính chất hỗ trợ hiệu quả của các phương tiện quảng
14
cáo khác mà bạn đang triển khai, giúp nhắc nhớ khách hàng về thương hiệu, kích
thích khiến cho họ ấn tượng và ghi nhớ hơn về sản phẩm, dịch vụ, thương hiệu.
- Quảng cáo ngoài trời có nội dung nổi bật, ngắn gọn nên tốt hơn hết nên thể
hiện bằng thông điệp duy nhất trên nội dung của mình, bởi tính chất của loại hình
này khiến công chúng chỉ có thời gian tiếp xúc với quảng cáo trong thời gian rất
ngắn, thậm chí chỉ vài giây. Thế nên, nội dung cần phải hấp dẫn, ngắn gọn, ấn
tượng và tập trung đúng vào những chi tiết đáng giá nhất.
- Quảng cáo ngoài trời sẽ là phương tiện tốt để một sản phẩm, dịch vụ mới
nhanh chóng được nhiều người biết đến chỉ trong một thời gian ngắn. Không gian
ngoài trời sẽ khiến công chúng khó có thể kiểm soát được thời gian, hình ảnh, và
họ sẽ nhanh chóng bị gây thu hút bởi những nội dung trên các phương tiện quảng
cáo.
1.2. Chủ thể, nội dung thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời.
Chủ thể thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời là các cơ quan, tổ chức
và cá nhân có thẩm quyền theo chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm triển khai
thực thi các quy định của pháp luật về quảng cáo vào trong thực tiễn cuộc sống.
Thông qua hoạt động của mình, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm cho
những quy định của pháp luật về quảng cáo đi vào thực tiễn đời sống xã hội,
nhằm bảo đảm trật tự, an toàn và công bằng xã hội; phát huy quyền dân chủ của
nhân dân và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, doanh
nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động quảng cáo,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Các bộ, ngành có liên quan ở Trung ương, UBND cấp tỉnh, UBND cấp
huyện, UBND cấp xã và hệ thống các cơ quan, đơn vị, bộ phận tham mưu giúp
việc ở từng cấp là các chủ thể trực tiếp tham gia thực hiện pháp luật về quảng cáo
ngoài trời.
1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
* Ban hành các chính sách, quy hoạch, kế hoạch về quảng cáo ngoài trời
15
Để thực hiện pháp luật về quảng cáo nói chung trong đó có hoạt động
quảng cáo ngoài trời, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật nhằm bảo đảm trật tự kỷ cương, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
tổ chức, cá nhân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối
với hoạt động này.
Các cơ quan nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông qua việc ban hành hệ
thống văn bản quản lý theo thẩm quyền nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về
hoạt động quảng cáo, đưa ra các quy định nhằm tác động đến đối tượng thực thi
pháp luật nhằm đảm bảo cho hoạt động quảng cáo đi vào nền nếp, tạo sự cạnh
tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật.
* Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch
về quảng cáo ngoài trời.
Pháp luật về quảng cáo thương mại nói chung và quảng cáo ngoài trời muốn
đi vào thực tiễn, phát huy tốt hiệu quả trong đời sống thì công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò hết sức quan trọng. Các cơ quan quản lý
nhà nước cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quảng
cáo tới đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh … Hiệu quả của thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời được
đánh giá là tích cực khi doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người dân hiểu và chấp
hành tốt các quy định của pháp luật; tuân thủ tốt các quy hoạch của địa phương
đối với công tác quảng cáo; diện mạo môi trường đô thị được duy trì nền nếp,
sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn. Và ngược lại, những nơi còn bộc lộ tình trạng lộn
xộn, vi phạm pháp luật về quảng cáo, mất mỹ quan đô thị, an toàn xã hội là
những nơi việc tổ chức thực hiện pháp luật còn yếu, chưa phát huy tốt hiệu quả.
* Tổ chức đưa nội dung các quy định của pháp luật, chính sách của địa
phương về quảng cáo ngoài trời vào trong thực tiễn đời sống
Công tác tổ chức đưa nội dung các quy định của pháp luật vào thực tế đời
sống có ý nghĩa hết sức quan trọng. Từ quy định của pháp luật thông qua Luật,
Nghị định, Thông tư của các cơ quan trung ương, các ngành, địa phương, đơn vị
16
cần bám sát tình hình thực tiễn của địa phương, thể chế hóa pháp luật cho phù
hợp nhằm đưa ra các chủ trương, chính sách sát hợp, thông qua các đề án, quy
hoạch, kế hoạch nhằm khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh, khắc phục những hạn
chế, yếu kém.
Các cơ quan nhà nước triển khai các chương trình, kế hoạch đào tạo, tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm trang kiến thức pháp luật, kỹ năng thi hành
công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quảng cáo. Cơ quan nhà nước thông qua đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp tổ chức tiếp nhận, xử lý hồ sơ, giải
quyết nhu cầu quảng cáo, cấp phép quảng cáo, tiếp thị của doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất kinh doanh.
* Tổ chức kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc thi hành pháp luật và
xử lý vi phạm pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật được đánh giá thông qua hoạt
động tổ chức, kiểm tra, đánh giá theo dõi thi hành pháp luật. Qua quá trình
triển khai áp dụng vào thực tế, các cơ quan nhà nước định kỳ tổ chức sơ kết,
tổng kết công tác theo dõi thi hành pháp luật về quảng cáo nhằm đánh giá
những ưu điểm, kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế bất cập
cần phải có giải pháp khắc phục nhằm làm cho pháp luật phát huy hiệu quả
tốt hơn trong đời sống xã hội.
Cơ quan nhà nước thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát sẽ kịp thời
phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về quảng cáo
ngoài trời theo thẩm quyền, nhằm tạo tính răn đe, duy trì trật tự kỷ cương
của pháp luật trong thực tế.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về quảng cáo
1.3.1. Chất lượng quy định pháp luật về quảng cáo
Chất lượng của hệ thống pháp luật là một trong những cơ sở để bảo đảm cho
việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn, đồng
thời cho phép dự báo được khả năng hiện thực hoá các quy định pháp luật trong
đời sống xã hội. Nếu chất lượng của pháp luật thấp, tính khả thi kém thì
17
việc thực hiện chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có những quy định
pháp luật nhiều khi không thể thực hiện được trên thực tế.
Để đánh giá chất lượng của hệ thống pháp luật, xác định mức độ hoàn thiện
của nó cần phải dựa vào những tiêu chí được xác định về mặt lý thuyết, từ đó liên
hệ với điều kiện và hoàn cảnh thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét một
cách khách quan và rút ra những kết luận, làm sáng rõ những ưu điểm và nhược
điểm của hệ thống pháp luật. Có nhiều tiêu chí để xác định chất lượng của hệ
thống pháp luật Việt Nam trong đó có các tiêu chí cơ bản là: Tính toàn diện, đồng
bộ, tính thống nhất, tính phù hợp, ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng pháp luật và tính
khả thi của hệ thống pháp luật. Và đối với việc thực hiện pháp luật về quảng cáo,
các tiêu chí trên cũng không là ngoại lệ, chúng ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả tổ
chức thực hiện pháp luật về quảng cáo trên thực tế.
Chất lượng của pháp luật về quảng cáo thể hiện trên các phương diện cụ thể
như sau:
* Tính toàn diện và đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo. Tính
toàn diện, đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo được thể hiện
thống nhất ở hai cấp độ. Ở cấp độ chung là sự đồng bộ giữa các luật có
nội dung liên quan đến hoạt động quảng cáo với nhau. Ở cấp độ cụ thể đó là thể
hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo trong mỗi
luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các QPPL với nhau quy định về hoạt động
quảng cáo.
Hệ thống các văn bản pháp luật vê quảng cáo toàn diện và đồng bộ thể hiện ở
cấu trúc hình thức của nó, nghĩa là hệ thống văn bản pháp luật đó phải có khả năng
đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật về lĩnh vực quảng cáo, các quy
định về quảng cáo phải có khả năng bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội liên
quan đến quảng cáo; để các quan hệ xã hội quan trọng về quảng cáo có tính điển
hình, phổ biến cần có sự điều chỉnh của pháp luật quảng cáo thì đều có pháp luật
quảng cáo điều chỉnh. Về kết cấu mỗi quy phạm pháp luật về quảng cáo phải có cấu
trúc lôgíc, chặt chẽ; mỗi chế định pháp luật về quảng cáo phải có đầy đủ các quy
phạm pháp luật cần thiết để điều chỉnh các quan hệ xã hội về quảng cáo phù
18
hợp ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Điều này đòi hỏi việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về quảng cáo không chỉ chú trọng tới các luật về tổ
chức bộ máy nhà nước, củng cố chính quyền nhân dân mà còn phải chú ý tới các
quy phạm điều chỉnh một cách toàn diện các quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực
đời sống dân sinh như dân sự, thương mại, đầu tư, môi trường ...
Tính toàn diện, đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo còn
thể hiện ở việc ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành
để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng đã có đủ các điều kiện để có thể
được tổ chức thực hiện ngay trên thực tế.
* Tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo
Sự thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo là điều kiện cần
thiết bảo đảm cho tính thống nhất về mục đích của pháp luật và sự triệt để trong
việc thực hiện pháp luật về hoạt động quảng cáo. Tính thống nhất của hệ thống
văn bản pháp luật được thể hiện trong cả hệ thống văn bản cũng như trong từng
bộ phận hợp thành của hệ thống văn bản pháp luật ở các cấp độ khác nhau, nghĩa
là giữa các quy phạm pháp luật trong một chế định pháp luật cũng phải thống
nhất. Không có các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của các
quy phạm pháp luật trong mỗi bộ phận và trong các bộ phận khác nhau của hệ
thống pháp luật liên quan đến quảng cáo. Điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm
pháp luật về quảng cáo được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hoà
về nội dung mà còn phải bảo đảm tính thứ bậc của mỗi văn bản về giá trị pháp lý
của chúng.
* Tính phù hợp của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật về quảng cáo thể hiện ở nội dung của
hệ thống văn bản pháp luật luôn có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Có thể nói pháp luật là những nhu cầu cơ bản, điển hình và
có tính phổ biến nhất của đời sống kinh tế - xã hội được khái quát hoá, mô hình
hoá dưới hình thức pháp lý cụ thể thông qua hoạt động lý trí và ý chí của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, sự phù hợp của các văn bản quy phạm pháp
luật về quảng cáo mà đặc biệt là của các văn bản luật với các quy luật khách quan
của sự phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện vô cùng quan trọng bảo đảm cho
19
tính khả thi và hiệu quả của pháp luật. Phù hợp với các quy luật và điều kiện kinh
tế - xã hội sẽ làm cho pháp luật dễ dàng được thực hiện, đồng thời cũng góp phần
thúc đẩy, tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế - xã hội, trường hợp ngược
lại, pháp luật khó được thực hiện trên thực tế, thậm chí có thể cản trở hoặc gây ra
những thiệt hại nhất định cho sự phát triển đó.
Trước hết các quy định pháp luật về quảng cáo phải vừa phản ánh được
những quy luật kinh tế chung vừa phản ánh được những quy luật kinh tế đặc thù
của phương thức sản xuất tồn tại trong đất nước. Nó phải tạo ra được những điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh, bền vững của kinh tế đất nước, nhất là
trong giai đoạn hiện nay.
Tiếp đến là sự phù hợp của pháp luật về quảng cáo với điều kiện chính trị
của đất nước, mà quan trọng nhất là phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng.
Để bảo đảm cho xã hội phát triển ổn định thì đòi hỏi pháp luật phải quy định một
cách hài hoà về lợi ích cơ bản của tất cả các lực lượng chủ yếu trong xã hội sao
cho có thể chấp nhận được. Vì vậy, nội dung của hệ thống văn bản pháp luật về
quảng cáo phải quy định sao cho tương quan giữa các loại lợi ích của các tầng lớp
xã hội khác nhau có được sự hài hoà. Dưới hình thức pháp lý, trong khuôn khổ
các văn bản pháp luật, nhà làm luật phải làm sao cho lợi ích hợp pháp của tầng
lớp xã hội này không xung đột với lợi ích của các tầng lớp khác. Chỉ trong những
điều kiện như vậy mới bảo đảm được sự phát triển bình thường của các quan hệ
xã hội và việc thực hiện các quyền, tự do, lợi ích của tầng lớp xã hội này sẽ
không làm tổn hại đến tự do, lợi ích của các tầng lớp khác. Nếu không quan tâm
tới sự thống nhất, hài hoà giữa các loại lợi ích của các lực lượng khác nhau trong
quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật có thể dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu
cực trong xã hội, chẳng những không phát huy được vai trò của pháp luật mà còn
làm lu mờ bản chất tốt đẹp của pháp luật dưới chế độ xã hội chúng ta.
Không chỉ phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hệ thống
pháp luật về quảng cáo nước ta còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế. Trong xu
hướng hội nhập và hợp tác hiện nay, vấn đề này luôn đòi hỏi phải được chú
20
trọng và trong những giới hạn có thể hệ thống pháp luật quốc gia cần phải phù
hợp với các công ước, điều ước và thông lệ quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc
tham gia. Hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo nước ta phải được xây dựng
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ quốc tế, tiếp thu
và sử dụng có hiệu quả lý luận, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước
khác trên thế giới.
Phương pháp điều chỉnh pháp luật được sử dụng phù hợp cho mỗi loại quan
hệ xã hội. Chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo còn biểu hiện
ở việc lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp cho mỗi loại quan hệ
xã hội. Việc lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào nội dung,
tính chất của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh và ý muốn chủ quan của
nhà làm luật thông qua sự nhận thức, sự tính toán của họ về những lĩnh vực,
những vấn đề cần điều chỉnh pháp luật trong mỗi giai đoạn lịch sử của sự phát
triển xã hội. Sự lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật không đúng, không
phù hợp sẽ làm mất đi hoặc giảm đi tính hiệu quả của pháp luật, bởi khi đó sẽ
không đạt được mục đích mong muốn hoặc chỉ đạt được ở mức độ thấp. Chẳng
hạn, để giải quyết những tranh chấp, xử lý những vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực quản lý và sử dụng đất đai có thể bằng thủ tục hành chính và cũng có thể
bằng thủ tục tư pháp, vì vậy đòi hỏi phải chọn phương pháp nào và giao cho cơ
quan nào giải quyết thì phù hợp hơn, có hiệu quả cao hơn.
* Trình độ kỹ thuật pháp lý khi xây dựng pháp luật
Đó là tổng thể những phương pháp, phương tiện được sử dụng trong quá
trình soạn thảo và hệ thống hoá pháp luật quảng cáo nhằm đảm bảo cho pháp luật
về quảng cáo có được đầy đủ các khả năng để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ
xã hội. Điều này đòi hỏi: Khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quảng cáo phải
đưa ra được những nguyên tắc, những trình tự thủ tục tối ưu để tiến hành có hiệu
quả quá trình đó nhằm tạo ra được những quy định, những văn bản pháp luật tốt
nhất, đồng thời phù hợp với các quy định đã có; xác định chính xác, khoa học cơ
cấu của hệ thống pháp luật phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước; ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ
21
thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, lôgíc và một
nghĩa. Đối với những thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung đều được
giải thích trong văn bản.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quảng cáo phải thường xuyên
sử dụng các phương tiện, các cách tiếp cận, các kỹ thuật pháp lý, các quy tắc
pháp lý tiên tiến khoa học nhất đã đạt được của nhân loại trong lĩnh vực điều
chỉnh pháp luật. Nội dung các quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp
luật được xây dựng với một trình độ kỹ thuật pháp lý cao có kết cấu chặt chẽ,
lôgíc, các thuật ngữ pháp lý được sử dụng chính xác, một nghĩa, lời văn trong
sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của quảng đại quần
chúng nhân dân. “Một quy phạm pháp luật sẽ phát huy được hiệu quả cao hơn
nếu phù hợp với quan niệm, ý thức hiện có của công dân và ngược lại”. Sự chặt
chẽ, rõ ràng, chính xác của các quy phạm pháp luật về quảng cáo cũng giúp tránh
được những thiếu sót, sơ hở có thể bị lợi dụng trong quá trình thực hiện và áp
dụng pháp luật. Để có chất lượng các văn bản pháp luật phải được xây dựng đúng
thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định, có tên gọi phù hợp với nội dung thể
hiện, hình thức rõ ràng, dễ thực hiện.
* Tính khả thi của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo
Một hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo có chất lượng thì phải bảo
đảm tính khả thi, nghĩa là các quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện được
trong điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội hiện tại. Điều này đòi hỏi các quy định
pháp luật về quảng cáo phải được ban hành phù hợp với trình độ phát triển của
đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Nếu các quy định pháp luật về quảng
cáo được ban hành quá cao hoặc quá thấp so với các điều kiện phát triển của đất
nước thì đều có ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật quảng cáo. Trong những
trường hợp đó hoặc là pháp luật quảng cáo không có khả năng thực hiện được
hoặc là được thực hiện không triệt để, không nghiêm, không phát huy hết vai trò
tác dụng của nó trong đời sống xã hội.
Tính khả thi của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo còn thể hiện ở
việc các quy định pháp luật phải được ban hành đúng lúc, kịp thời đáp ứng
22
những nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thực
hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban hành văn bản pháp luật phải xem
xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện
được quy định hoặc văn bản pháp luật đó hay không, đồng thời phải tính đến các
điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công
chức có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy
định hoặc văn bản pháp luật đó (ủng hộ hay không ủng hộ), trình độ văn hoá và
kiến thức pháp lý của nhân dân... Pháp luật về quảng cáo có chất lượng phải là
pháp luật đưa ra được phương án tốt nhất với phương pháp điều chỉnh pháp luật
phù hợp nhất để thông qua đó có thể đạt được mục đích mong muốn trong những
điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.
1.3.2. Ý thức pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp luật về quảng cáo
Ý thức pháp luật về quảng cáo là những tri thức, quan điểm, quan niệm ...
về pháp luật quảng cáo biểu hiện qua sự nhận thức, tình cảm, thái độ của các chủ
thể trong xã hội con người với pháp luật quảng cáo.
Ý thức pháp luật chính là yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật về quảng
cáo trong thực tế: Các chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh, các cá nhân thực hiện
pháp luật về quảng cáo thông qua sự hiểu biết, nắm vững các quy định, có thái độ
thế nào đối với các quy định về quảng cáo. Nếu họ tôn trọng pháp luật tức là họ
chấp hành đúng và đầy đủ các quy định về quảng cáo, và ngược lại nếu vi phạm
các quy định của pháp luật nghĩa là họ thiếu tôn trọng pháp luật.
Nếu mọi người trong xã hội đều có ý thức pháp luật cao, tức là đều hiểu biết
đúng đắn yêu cầu của các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động quảng
cáo của mình, đều có thái độ tôn trọng, ủng hộ các quy định đó nên luôn luôn có
các hành vi hợp pháp thì pháp luật về quảng cáo sẽ được thực hiện một cách
nghiêm chỉnh và tự giác hơn. Từ đó các chủ thể có thẩm quyền không phải ban
hành quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc liên quan đến quảng cáo.
1.3.3. Mức độ phát triển kinh tế, văn hóa - đời sống
* Sự phát triển kinh tế xã hội
23
Yếu tố kinh tế bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế - xã hội, hệ
thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển khai thực hiện, áp dụng
chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là
điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật, tác động tích cực tới việc nâng
cao hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của các tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh
tế - xã hội chậm phát triển, kém năng động và hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực
tới việc thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của
sự nhận thức, hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới
hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật.
Quá trình thực hiện pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế xã hội ở
mỗi vùng miền là khác nhau, do đó cũng ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện
pháp luật. Kinh tế có phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp dân cư được
cải thiện, lợi ích kinh tế được đảm bảo thì nhân dân sẽ phấn khởi, tin tưởng vào
đường lối kinh tế, chính sách pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động điều
hành, quản lý của Nhà nước. Khi đó, niềm tin của các chủ thể đối với pháp luật
được củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính tích cực, thuận chiều,
phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành.
Khi kinh tế phát triển, đời sống tinh thần, vật chất được cải thiện, các cán bộ,
công chức Nhà nước, các tầng lớp nhân dân có điều kiện mua sắm các phương
tiện nghe, nhìn, có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu thông tin pháp luật đa dạng và
cập nhật. Các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ dễ dàng đến được với
đông đảo cán bộ và nhân dân; nhu cầu tìm hiểu, trang bị thông tin, kiến thức pháp
luật trở thành nhu cầu tự giác, thường trực trong suy nghĩ và hành động của họ.
Điều đó giúp cho hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể mang tính tự
giác, tích cực.
Còn khi kinh tế chậm phát triển, thu nhập thấp, tình trạng thất nghiệp gia
tăng, lợi ích kinh tế không được đảm bảo, đời sống của cán bộ, nhân dân gặp khó
khăn thì tư tưởng sẽ diễn biến phức tạp, cái xấu có cơ hội nảy sinh, tác động tiêu
cực tới việc thực hiện pháp luật. Đây chính là mảnh đất lý tưởng cho sự xuất
24
hiện các loại hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược lại các giá trị, chuẩn mực pháp
luật như tệ quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu, tham nhũng trong cán bộ; buôn
lậu, trốn thuế; trộm cắp, cướp giật, lừa đảo…trong các thành phần xã hội khác.
Cơ chế kinh tế cũng có ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật. Cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp trước đây đã tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại. Do đó nhận
thức pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật thường mang tính phiến diện,
một chiều theo kiểu mệnh lệnh - phục tùng. Cơ chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa hiện nay với những mặt tích cực của nó sẽ tạo ra tư duy năng
động, sáng tạo, coi trọng uy tín, chất lượng, hiệu quả của hoạt động kinh tế. Từ
đó tác động tích cực hơn tới ý thức pháp luật và hành vi thực hiện pháp luật của
các chủ thể trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt và tiêu dùng.
Nhưng mặt trái của tâm lý thị trường sẽ tạo ra tâm lý sùng bái đồng tiền, coi tiền
là tất cả, bất chấp các giá trị đạo đức, pháp luật đồng thời sẽ tạo ra những quan
niệm, hành vi sai lệch trong thực hiện pháp luật, lấy đồng tiền làm thước đo đánh
giá các quan hệ giữa người với người. Đây là nguyên nhân phát sinh các hành vi
trái pháp luật, là môi trường cho các loại tội phạm nảy sinh và phát triển.
Việc thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo các nguyên tắc công bằng xã hội
là điều kiện cần thiết cho sự ổn định chính trị, tăng cường pháp chế và đoàn kết
mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội; củng cố ý thức của con người về cái chung
trong các lợi ích, lý tưởng của họ, khơi dậy thái độ tích cực của quần chúng đối
với việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật; nhờ đó ý thức
tôn trọng, chấp hành pháp luật cũng được nâng lên một bước và việc thực hiện
pháp luật của các chủ thể trở nên tự giác và chủ động hơn.
* Yếu tố văn hóa - đời sống
Các yếu tố văn hóa - đời sống bao giờ cũng thuộc về một môi trường văn
hóa xã hội nhất định gắn liền với một phạm vi không gian xã hội nhất định, nơi
các cá nhân và cộng đồng người tổ chức các hoạt động sống, sinh hoạt, cùng nhau
tạo dựng, thừa nhận và chia sẻ các giá trị văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, lễ
nghi… Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình, các yếu tố
25
văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp luật, thể hiện trên
các điểm sau:
Các phong tục tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới
hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân, thể hiện đặc biệt rõ nét
ở khu vực nông thôn. Bên cạnh những ưu điểm rất căn bản, các phong tục tập
quán ở nông thôn cũng đang bộc lộ những nhược điểm nhất định như việc tổ chức
hội hè, đình đám, ma chay, giỗ chạp nhiều lúc nhiều nơi còn cồng kềnh, tốn kém
và lãng phí; những hủ tục lạc hậu, lỗi thời còn tồn tại; trình độ dân trí còn thấp;
thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội phát sinh; tính tích cực chính trị - xã hội của
người dân còn hạn chế…
Tại một số làng xã, chính quyền và người dân đứng ra tổ chức lễ hội ồn ào,
kéo dài, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt, bán vé và thu phí sai nguyên tắc tài
chính, sự chỉ đạo thiếu sâu sát, để cho một số người lợi dụng lễ hội để hành nghề
mê tín dị đoan. Trong khi một số thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội như nạn cờ bạc,
số đề, tín dụng đen, mê tín dị đoan, mại dâm…đang xâm nhập vào nông thôn, thì
có những người, thay vì tích cực đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa lại tiếp tay
hoặc trực tiếp tham gia vào những thói xấu đó. Những hiện tượng trên đây gây
khó khăn cho việc thực hiện đúng đắn pháp luật, đồng thời là những hành vi vi
phạm pháp luật, coi thường kỷ cương, phép nước, cần phải có biện pháp xử lý
nghiêm minh, thích đáng.
Lối sống đô thị và lối sống nông thôn có ảnh hưởng khác nhau tới hoạt động
thực hiện pháp luật. Đặc trưng nổi bật của lối sống đô thị là tích cực chính trị - xã
hội ở đô thị cao. Cư dân đô thị có nhiều điều kiện tiếp xúc với các thông tin chính
trị - xã hội và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội lớn mà phần nhiều được
tổ chức tại các đô thị. Các phong trào có sức huy động quần chúng ở các đô thị
thường diễn ra nhanh hơn so với ở nông thôn. Đây cũng là điều dễ hiểu vì đô thị
thường là nơi tập trung nhiều thành phần xã hội có trình độ học vấn tương đối
cao.
Tại các thành phố, phạm vi giao tiếp về xã hội cơ bản tương đối rộng, cường
độ giao tiếp cao và mang tính ẩn danh trong giao tiếp. Đây là điều kiện
26
thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật và các hình thức thực
hiện pháp luật. Mặt khác, đô thị là nơi tập trung phần lớn bộ phận không thể thiếu
trong dân cư đô thị thường được gọi dưới cái tên “những phần tử ngoài lề xã hội”.
Về phương diện xã hội, đây là môi trường phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội và tội
phạm nhiều tới mức đáng báo động, gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội và
hoạt động thực thi, bảo vệ pháp luật.
Lối sống nông thôn là lối sống mang tính cộng đồng rất cao và rất chặt chẽ,
liên kết cả thành viên trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những
người khác. Điều đó thể hiện ở mối quan hệ gắn bó, sự quan tâm giúp đỡ lẫn
nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, lối xóm ở nông thôn. Người
dân nông thôn thường sống đoàn kết gắn bó với quê hương làng xóm, rất coi
trọng tình làng nghĩa xóm. Đây là một biểu hiện rất riêng, rất đặc thù của lối sống
nông thôn Việt.
Tính cộng đồng được coi là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động thực hiện
pháp luật. Bằng ý thức cộng đồng, nó giúp cho các cán bộ pháp luật dễ dàng hơn
trong việc phổ biến, tuyên truyền và thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo người dân nông
thôn. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp cho các cơ quan hành chính, tư pháp
hoàn thành tốt các nhiệm vụ thực thi và bảo vệ pháp luật. Khi truyền thống làng
xã được phát huy, người dân cởi mở, thẳng thắn tham gia ý kiến về những cái
được và cái chưa được trong hoạt động thực hiện pháp luật.
Sự đề cao tính cộng đồng và chủ nghĩa tập thể dễ dẫn cán bộ làm công tác
thực thi và bảo vệ pháp luật đến việc đánh mất ý thức về con người cá nhân, cái
tôi bị triệt tiêu, ý thức cá nhân và hành vi cá nhân cũng bị đặt vào lối xử thế hòa
cả làng. Tình trạng này khiến cho cán bộ cả nước khi phải đối mặt với những việc
làm sai trái, khuyết điểm, thậm chí vi phạm pháp luật, thì họ thường tìm cách né
tránh trách nhiệm cá nhân và muốn đó là trách nhiệm tập thể.
Bên cạnh đó tính cộng đồng thường là cái cớ được cán bộ làm công tác thực
thi và bảo vệ pháp luật dùng để biện minh cho thói quen ỷ lại vào tập thể và tâm
lý an phận thủ thường. Chính điều này làm hạn chế năng lực sáng tạo, sự
27
chủ động và quyết đoán của họ trong điều hành, giải quyết các công việc chung
từ đó ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện pháp luật.
Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên đăng tải các thông tin về
các sự kiện pháp luật, hiện tượng xảy ra trong xã hội, hoạt động thực hiện pháp
luật của các tầng lớp xã hội. Và của các cơ quan chức năng, nêu lên những tấm
gương điển hình người tốt việc tốt trong việc thực hiện pháp luật… Những thông
tin đó ở chừng mực khác nhau tác động đến suy nghĩ, nhận thức và hành vi của
mỗi con người, khiến cho họ thực hiện pháp luật tốt hơn.
Dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp luật. Dư
luận xã hội gắn liền với ý chí cộng đồng của nhóm xã hội mà nó tác động mạnh
mẽ đến suy nghĩ và hành động của các cá nhân. Trong một chừng mực nhất định
người ta có thể không sợ sự trừng phạt của pháp luật khi thực hiện những hành
vi sai trái, phạm pháp nhưng chúng lại sợ sự phê phán lên án của dư luận xã hội -
một thứ bất thành văn.
Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ rộng rãi, dư luận xã hội được coi là
phương tiện kiểm tra xã hội đối với ý thức pháp luật và hành vi pháp luật của mỗi
người. Dưới áp lực của dư luận xã hội, mỗi người luôn phải xem xét, suy nghĩ,
kiểm định trước khi thực hiện một hành vi pháp luật nào đó. Những câu hỏi phải
được đặt ra về cái đúng, cái sai, nên hay không nên… Nhờ đó, ý thức tôn trọng,
tuân thủ pháp luật trong mỗi chủ thể cũng được nâng lên một bước.
1.3.4. Năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động
quảng cáo
Năng lực quản lý nhà nước có vai trò hết sức quan trọng đối với việc tổ chức
thực hiện pháp luật trong đời sống thực tế. Sự hoạt động của các cơ quan HCNN
trong việc thực hiện pháp luật có tác động quan trọng đến việc hoạt động thực
hiện pháp luật. Sự can thiệp của các cơ quan HCNN nhằm đảm bảo cho pháp luật
được tôn trọng và thực hiện mỗi khi xảy ra vi phạm pháp luật, tranh chấp là cần
thiết, đúng đắn.
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có thể
phát huy được vai rò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo
28
điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc
sống. Cũng như vậy, muốn các quy định của pháp luật về quảng cáo phát huy
được chức năng quản lý trong thực tế thì cần phải có hoạt động thực hiện pháp
luật dưới các hình thức khác nhau. Vì vậy, cơ quan quản lý HCNN về quảng cáo
là cơ quan có vai trò quan trọng, điều này thể hiện ở:
* Cơ quan HCNN thực hiện pháp luật và tổ chức cho các chủ thể khác thực
hiện pháp luật.
Cơ quan HCNN nhà nước là cơ quan có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp
luật. Muốn các cá nhân, tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và QPPL hành
chính về quảng cáo nói riêng thì cơ quan quản lý phải tạo điều kiện thuận lợi,
không được gây khó rễ để các cá nhân, tổ chức đó có thể thực hiện pháp luật một
cách dễ dàng.
Một số lượng rất lớn văn bản QPPL do các cơ quan HCNN xây dựng và ban
hành, chính vì vậy, việc cơ quan HCNN tạo điều kiện để người dân có thể thực
hiện được các QPPL hành chính là điều tất yếu. Có như vậy, pháp luật mới có thể
đi vào đời sống, gắn liền với thực tiễn, phát huy tác dụng, tránh tình trạng pháp
luật “suông”.
Bên cạnh đó, cơ quan HCNN là chủ thể quan trọng của quan hệ pháp luật
hành chính, cũng phải thực hiện các QPPL hành chính. Hiến pháp và các văn bản
QPPL khác quy định cho cơ quan HCNN có nhiệm vụ, quyền hạn nào thì cơ quan
HCNN phải và chỉ được thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó, quán triệt tư
tưởng người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, quyền lực
công chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Việc cơ quan HCNN thực
hiện nghiêm chỉnh pháp luật vừa tạo được tác động tốt với ý thức pháp luật của
người dân, vừa tạo cơ sở pháp lý để người dân thực hiện đúng đắn những quyền
và nghĩa vụ của mình.
Hiểu luật, thực hiện đúng luật đang là đòi hỏi bức xúc trong giai đoạn hiện
nay. Để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, công tác giáo dục
pháp luật là một phần không thể thiếu. Công dân, cán bộ, công chức nhà nước, tổ
chức xã hội ...., tất cả đều cần phải hiểu mình có những quyền và nghĩa vụ
29
pháp lý nào hiểu được pháp luật yêu cầu phải xử sự như thế nào trong những
trường hợp đã được dự liệu. Có như vậy, các cá nhân, tổ chức mới có thể thực
hiện pháp luật đầy đủ và đúng đắn.
* Cơ quan HCNN còn kiểm tra việc thực hiện pháp luật.
Cơ quan HCNN đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện QPPL
hành chính và giáo dục pháp luật. Nhưng để việc thực hiện pháp luật đem lại hiệu
quả cao, cơ quan HCNN còn có vai trò tích cực trong hoạt động kiểm tra việc
thực hiện QPPL.
Kiểm tra là phương tiện quan trọng để phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và
xử lý những vi phạm pháp luật. Kiểm tra được thực hiện trước hết bởi Chính phủ
và UBND các cấp. Ngoài ra, kiểm tra còn được thực hiện thường xuyên bởi cơ
quan HCNN có thẩm quyền chuyên môn thông qua các cơ quan thanh tra ngành.
Trong phạm vi quyền hạn do luật định, các bộ có quyền kiểm tra UBND các cấp
và cơ quan nhà nước khác ở địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác
thuộc ngành, lĩnh vực và có quyền đề nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ những
quy định của UBND và Chủ tịch UBND nếu những quy định này trái với các văn
bản của bộ về ngành hoặc lĩnh vực mà nó phụ trách.
Thông qua hoạt động kiểm tra, các chủ thể có dịp tìm hiểu việc thực hiện
pháp luật của cấp dưới cũng như việc thực hiện các quy định của cơ quan và các
nhiệm vụ đã được giao, từ đó các chủ thể quản lý có biện pháp xử lý thích hợp
nhằm giáo dục đối tượng quản lý, xử lý người vi phạm đồng thời cải tiến và sửa
đổi, bổ sung các quy định quản lý.
Như vậy, cơ quan nhà nước tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật
hành chính, giáo dục, kiểm tra việc thực hiện pháp luật. Thiếu đi một hoạt động
nào cũng sẽ khiến cho việc thực hiện pháp luật gặp khó khăn, thậm chí ngưng trệ.
Từ đó chúng ta thấy được vai trò của cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện pháp
luật là rất quan trọng.
1.4. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về thực hiện pháp luật về quảng
cáo ngoài trời và bài học kinh nghiệm
1.4.1. Kinh nghiệm trong nước
30
Kinh nghiệm từ thực tiễn thành phố Hà Nội
Hà Nội, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn nhất của cả nước, với quy
mô hoạt động quảng cáo rất lớn, công tác quản lý hoạt động quảng cáo nói chung
và QCNT nói riêng đã được quan tâm triển khai với nhiều hình thức đã tạo nên
diện mạo khá đồng bộ và hiệu quả như ngày nay. Xuất phát từ yêu cầu thực tế,
việc áp dụng pháp luật về quảng cáo đã tạo nên nhiều mô hình quản lý hiệu quả,
đem lại những bài học kinh nghiệm, một trong những mô hình điểm đã được triển
khai và nhân rộng trong hoạt động quảng cáo TMNT đó là xây dựng tuyến phố
điểm về biển hiệu, quảng cáo.
Một trong những tuyến phố điểm đầu tiên thực hiện thí điểm đó là phố Lê
Trọng Tấn - Quận Thanh Xuân. Phố Lê Trọng Tấn với thuận lợi là tuyến phố mới
nên được lựa chọn thí điểm xây dựng tuyến phố kiểu mẫu về quảng cáo, tại đây
đã quy định kích thước, màu sắc biển quảng cáo với 02 màu xanh, đỏ. Nhờ làm
tốt công tác tuyên truyền, vân động nên khi tổ chức triển khai vào thực tế, các hộ
kinh doanh đã tuân thủ đúng kích thước, màu sắc, vị trí đặt biển hiệu ....
do đó đã tạo nên diện mạo một tuyến phố sạch đẹp, gọn gàng, khoa học, thẩm
mỹ. Đây được đánh giá là cách làm hiệu quả mà thành phố Hà Nội cần nhân rộng
trong thực tế. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận, sau 2 năm triển khai, hệ thống
biển hiệu trên phố Lê Trọng Tấn không còn đồng nhất 2 màu xanh, đỏ mà xen
vào đó là các màu trắng, đen, vàng… Các cửa hàng thời trang, quán cà phê… đã
lựa chọn dán đề can thay màu trên các biển hiệu đã lắp sẵn. Nhiều cửa hàng thiếu
ý thức còn lắp thêm các loại bạt để tạo điểm nhấn khác biệt so với biển hiệu bên
cạnh. Ngoài ra, chỉ riêng duy trì các tuyến phố điểm về quảng cáo cũng vô cùng
khó khăn.
Ngoài phố Lê Trọng Tấn với thuận lợi là tuyến phố mới nên được lựa chọn
thí điểm xây dựng tuyến phố kiểu mẫu về quảng cáo, Hà Nội chủ trương xây
dựng tuyến phố điểm quảng cáo, biển hiệu trên địa bàn mỗi quận, huyện; phường.
Quận Cầu Giấy có tuyến phố Trần Đăng Ninh, Lê Văn Lương, Trần Duy Hưng,
Trung Kính… là tuyến phố điểm về biển hiệu, bảng quảng cáo. Quận Thanh
Xuân không chỉ có phố Lê Trọng Tấn mà 7 tuyến phố dọc sông Tô
31
Lịch cũng đã trở thành tuyến phố điểm quảng cáo, biển hiệu gần 2 năm nay. Các
huyện, thị xã như Đan Phượng, Sơn Tây cũng có đến trên 10 tuyến phố điểm biển
hiệu, quảng cáo ở mỗi địa bàn.
Hiện tại, ở các quận, huyện vẫn đang nỗ lực duy trì trật tự của các tuyến phố
điểm biển hiệu, biển quảng cáo. Một số phường như Trung Hòa (Cầu Giấy)
không chỉ xây dựng một tuyến phố điểm mà còn đã mở rộng sang phố Lê Văn
Lương và Trần Duy Hưng. Qua tìm hiểu, ông Bùi Minh Hoàng - Trưởng phòng
Quản lý văn hóa (Sở VH&TT Hà Nội) cho biết: Hà Nội đang chủ trương nhân
rộng các tuyến phố điểm biển hiệu, biển quảng cáo… để không chỉ mỗi địa bàn là
1 tuyến phố mà 2, 3 tuyến phố và thậm chí là nhiều hơn nữa. Bởi việc chuẩn
chỉnh về kích thước biển, bảng đã giúp bộ mặt đô thị khang trang hơn.
Cũng theo ông Bùi Minh Hoàng, theo phản ánh của báo chí về việc treo biển
quảng cáo trên các thành cầu vượt trên địa bàn thành phố; ông cho rằng, hoạt
động quảng cáo đó không phải tự phát mà là thí điểm của Hà Nội. “Sở VH&TT
đã đề xuất với UBND thành phố, với Chính phủ xin thí điểm lắp biển quảng cáo
bên ngoài thành cầu. Chúng tôi vẫn đang lắng nghe ý kiến của Nhân dân và các
nhà quản lý để có đánh giá và biện pháp chung, có thể bổ sung hình thức quảng
cáo này cho cả tuyến phố điểm” ông Hoàng nhấn mạnh.
Ủng hộ những ý tưởng này, song thạc sĩ Nguyễn Phan Anh - Chuyên gia
marketing online, giảng viên trường Đại học Thương mại nhấn mạnh, cần rút kinh
nghiệm để ý tưởng không làm hạn chế sự sáng tạo của các thương hiệu và gây nhầm
lẫn về thương hiệu. “Các thương hiệu có bản sắc riêng sẽ phải xem xét, nếu như thuê
mặt bằng tại đây. Việc đồng nhất về màu sắc biển hiệu vô hình trung đã làm giảm
giá trị mặt bằng cho thuê” - ông Phan Anh nói. Được biết, quận Thanh Xuân đã ký
Quy định quản lý tạm thời tuyến đường Lê Trọng Tấn. Để tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân, quy định đã “nới” một số điều về biển hiệu. Hiện tại chỉ quản lý về
cao độ nền biển hiệu chỉ cao từ 3 - 3,2m, điều này giúp biển hiệu đồng đều, thẳng
hàng, ngăn nắp. Còn màu sắc, cho phép màu sắc theo logo đã đăng ký, yêu cầu
không dùng màu sắc phản cảm và vật liệu có độ phản quang lớn hơn 70%.
Hà Nội sẽ còn có nhiều biện pháp chấn chỉnh hoạt động quảng cáo, mở rộng
các tuyến phố điểm để tạo dựng nét đẹp văn minh đô thị. Tuy nhiên, thành
32
công hay thất bại sẽ của mỗi con đường mỗi tuyến phố là sự cộng hưởng từ ý
thức tuân thủ và chấp hành pháp luật của nhân dân.
Theo PGS.TS Bùi Thị An, đại biểu Quốc hội Khóa XIII cho rằng: “Tôi đồng
tình xây dựng các tuyến phố điểm, các tuyến phố kiểu mẫu về quảng cáo. Nhưng
có lẽ chúng ta chỉ nên dừng ở việc quy định về kích thước biển hiệu, biển quảng
cáo… không nên đưa ra quy định về kiểu dáng, màu sắc vì đây là đặc thù riêng
cho mỗi thương hiệu. Lỗi của việc thực hiện sai chính là tầm nhìn của người tham
mưu còn hạn chế, chưa dài hơi”
Ngoài việc xây dựng các tuyến phố điểm về quảng cáo, thành phố Hà Nội
còn hướng tới thực hiện tốt công tác quy hoạch quảng cáo ngoài trời với quyết
tâm loại bỏ cơ chế “xin - cho”.
Thành phố Hà Nội đã phê duyệt dự thảo triển khai quy hoạch quảng cáo
ngoài trời đến năm 2020, định hướng đến năm 2050 nhằm quản lý hiệu quả bảng
quảng cáo ngoài trời, thu ngân sách nhà nước, đồng thời loại bỏ cơ chế “xin -
cho” trong việc cấp giấy phép quảng cáo. UBND thành phố Hà nội đã ban hành
Quyết định 1997/QĐ-UBND về việc phê duyệt quy hoạch quảng cáo ngoài trời
trên địa bàn thành phố đến năm 2020, định hướng đến năm 2050. Theo Dự thảo
kế hoạch triển khai Quyết định trên, tổng số vị trí theo quy hoạch cũ là 525 vị trí.
Trong đó sẽ có 130 vị trí hủy bỏ, 46 vị trí điều chỉnh, 40 vị trí bổ sung mới. Tổng
số bảng quảng cáo sau điều chỉnh quy hoạch là 435 vị trí. Các bảng quảng cáo sẽ
được thu hồi và tổ chức đấu thầu theo quy hoạch đảm bảo đúng quy định.
Một bước tiến trong quản lý, tổ chức triển khai thực hiện pháp luật được
thành phố đưa ra thực hiện đó là loại bỏ cơ chế “xin - cho” trong hoạt động cấp
giấy phép quảng cáo. Trước đó, Thanh tra thành phố đã có kết luận về hoạt động
này. Theo đó, từ năm 2012 đến năm 2017, Sở VH-TT tiếp nhận 824 lượt hồ sơ đề
nghị cấp giấy phép thực hiện quảng cáo và thông báo sản phẩm quảng cáo. Qua
kiểm tra xác suất 319 hồ sơ, có 221 trường hợp không có văn bản chứng minh
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng bảng quảng cáo. Thanh tra Thành phố kiểm tra
xác suất 12 hồ sơ cấp phép lần đầu, cho thấy: Có 3 trường hợp có hợp
33
đồng thuê đất nhưng hết hạn từ năm 2013, năm 2015, còn 9 trường hợp không có
hợp đồng thuê đất với người có quyền sử dụng đất hợp pháp…
Từ trước đến nay, các doanh nghiệp quảng cáo đều tự thuê, mua đất của
người dân, tự xin cấp phép nên có những vị trí không đảm bảo mỹ quan, quy
hoạch, trật tự đô thị. Bên cạnh đó, doanh nghiệp không thông báo doanh thu, kê
khai nộp thuế cho các bảng quảng cáo trên. “Doanh nghiệp cho thuê quảng cáo
trên cột bao nhiêu năm, không ai thu thuế, sau khi quy hoạch áp dụng sẽ giải
quyết được vấn đề này”
Theo một đại diện Sở Văn hóa Thể thao thành phố Hà Nội cho biết, Sở sẽ có
văn bản trả lời các ý kiến, kiến nghị của doanh nghiệp quảng cáo, trong đó tập
trung 4 vấn đề chính, trong đó nổi bật là vấn đề thu hồi, đấu thầu các bảng quảng
cáo. Theo quy định tại Luật Quảng cáo 2012 và Nghị định 181 của Chính phủ có
quy định mọi vị trí quảng cáo đều phải qua đấu thầu. Bản thân các doanh nghiệp
quảng cáo cũng cơ bản nhất trí với phương án đấu thầu là phương án công khai,
minh bạch nhất. Trong dự thảo kế hoạch cũng đã ghi rõ ưu tiên cho các đơn vị
đang có ở trên vị trí đó. Hiện tại, cơ bản cần xác định sau khi thu hồi thì đấu thầu
ra sao, ưu tiên như thế nào đảm bảo tính công khai, minh bạch.
1.4.2. Kinh nghiệm quốc tế
- Kinh nghiệm của Singapore
Thứ nhất, yêu cầu về giấy phép đối với biển quảng cáo thương mại ngoài
trời ở Singapore: So với Singapore, pháp luật Việt Nam quy định phân biệt việc
cấp phép hay không cấp phép đối với công trình quảng cáo thương mại ngoài trời
dựa trên kích thước của bảng, biển quảng cáo đó, chứ không quy định loại trừ
biển hiệu được trưng bày bởi các tổ chức tôn giáo, từ thiện… như Singapore.
Ngoài ra, một hoặc một chuỗi các biển hiệu quảng cáo với tổng diện tích nếu
nhiều hơn 5 mét vuông thì phải đăng ký giấy phép ở Singapore. Trong khi đó, ở
Việt Nam thì bảng, biển quảng cáo thương mại ngoài trời có thể lớn hơn mà
không cần xin giấy phép xây dựng như đã nêu trên.
Thứ hai, về phân loại biển quảng cáo và biển hiệu thông thường: Pháp luật
Singapore quy định rằng: nếu một tấm biển ngoài trời không bao gồm bất kì
34
biểu trưng, biểu tượng, ký hiệu, thông báo, đại diện hoặc thiết bị trực quan nào về
thương hiệu hoặc nhãn hiệu nhằm quảng bá sản phẩm hoặc dịch vụ, thì không
được xem là biển quảng cáo, mà thuật ngữ pháp lý gọi chung là “biển hiệu”. Do
đó, thủ tục pháp lý liên quan đến biển hiệu thông thường sẽ có một số điểm khác
với biển quảng cáo, nhất là lệ phí phải nộp cho cơ quan chức năng, quy định cấm
những nơi được hiển thị. Điều đó có nghĩa, nếu một tấm biển ngoài trời không
nhằm mục đích thương mại, không nhằm mục đích quảng bá sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ để sinh lợi thì không được xem là quảng cáo; như vậy pháp luật
Singapore chỉ ghi nhận quảng cáo nhằm mục đích thương mại.
Điều này so với pháp luật Việt Nam thì có sự khác biệt:
Một là, pháp luật Việt Nam ghi nhận hai loại hình quảng cáo với hai mục
đích khác nhau bao gồm: quảng cáo thương mại và quảng cáo phi thương mại. Cụ
thể, khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 định nghĩa: Quảng cáo là việc sử dụng
các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có
mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá
nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự;
chính sách xã hội; thông tin cá nhân”.
Hai là, Singapore có Hệ thống cấp phép quảng cáo ALS trực tuyến. Các chủ
thể trước khi dựng một tấm biển ngoài trời thường phải nộp đơn xin tư vấn qua
hệ thống trực tuyến ALS để được đánh giá chính xác loại biển của mình là biển
hiệu thông thường hay biển quảng cáo, tránh những sai phạm trong việc thực hiện
hoạt động quảng cáo thương mại ngoài trời. Đây là một điểm rất tiến bộ của hệ
thống pháp luật Singapore, mà trong lộ trình dài khi hoàn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam, chúng ta có thể xem xét, nghiên cứu để ứng dụng.
Thứ ba, pháp luật Singapore có quy định chi tiết mô tả cụ thể từng loại biển,
bảng quảng cáo và quy định cấm hiển thị đối với biển, bảng quảng cáo thương
mại ngoài trời. So với Singapore, pháp luật Việt Nam không quy định rõ ràng
trong Luật Quảng cáo như Singapore, mà chỉ điều chỉnh thông qua việc triển khai
cụ thể các Đề án, phương án quy hoạch quảng cáo ngoài trời dựa trên
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời

More Related Content

Similar to Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời

Similar to Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời (20)

Khóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động
Khóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao độngKhóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động
Khóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Pháp Luật Đưa Người Lao Động Làm Việc Có Thời Hạn Tại Nư...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Pháp Luật Đưa Người Lao Động Làm Việc Có Thời Hạn Tại Nư...Khóa Luận Tốt Nghiệp Pháp Luật Đưa Người Lao Động Làm Việc Có Thời Hạn Tại Nư...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Pháp Luật Đưa Người Lao Động Làm Việc Có Thời Hạn Tại Nư...
 
Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nayGiá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay
 
Ảnh hưởng của việc sử dụng điện thoại đến quan hệ xã hội của sinh viên
Ảnh hưởng của việc sử dụng điện thoại đến quan hệ xã hội của sinh viênẢnh hưởng của việc sử dụng điện thoại đến quan hệ xã hội của sinh viên
Ảnh hưởng của việc sử dụng điện thoại đến quan hệ xã hội của sinh viên
 
Luận án: Chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nayLuận án: Chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Quản lý quảng cáo ngoài trời tỉnh Phú Thọ, HAY
Luận văn: Quản lý quảng cáo ngoài trời tỉnh Phú Thọ, HAYLuận văn: Quản lý quảng cáo ngoài trời tỉnh Phú Thọ, HAY
Luận văn: Quản lý quảng cáo ngoài trời tỉnh Phú Thọ, HAY
 
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
 
Luận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAYLuận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAY
 
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luậtLuận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
 
Đề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAY
Đề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAYĐề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAY
Đề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAY
 
Thanh tra hành chính – từ thực tiễn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuy...
Thanh tra hành chính – từ thực tiễn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuy...Thanh tra hành chính – từ thực tiễn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuy...
Thanh tra hành chính – từ thực tiễn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuy...
 
Đề tài: Quản lý Quảng cáo ngoài trời tại Phú Thọ, HOT!
Đề tài: Quản lý Quảng cáo ngoài trời tại Phú Thọ, HOT!Đề tài: Quản lý Quảng cáo ngoài trời tại Phú Thọ, HOT!
Đề tài: Quản lý Quảng cáo ngoài trời tại Phú Thọ, HOT!
 
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấpLuận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
 
Luận án: Quản lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Quản lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam, HAYLuận án: Quản lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Quản lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam, HAY
 
Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...
Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...
Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...
 
Thanh tra hành chính – từ thực tiễn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuy...
Thanh tra hành chính – từ thực tiễn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuy...Thanh tra hành chính – từ thực tiễn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuy...
Thanh tra hành chính – từ thực tiễn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuy...
 
Khóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂMKhóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂM
 
KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý hoạt động vận tải đường bộ, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản lý hoạt động vận tải đường bộ, HOTLuận văn: Pháp luật về quản lý hoạt động vận tải đường bộ, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản lý hoạt động vận tải đường bộ, HOT
 

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877 (20)

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thốngLuận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
 
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang TrạiLuận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafeTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
 
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn THTiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
 

Recently uploaded

Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 

Recently uploaded (20)

Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápTóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
 

Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ............./................. BỘ NỘI VỤ .........../......... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN VĂN DƯƠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LUANVANTRITHUC.COM ZALO: 0936.885.877 TẢI TÀI LIỆU NHANH QUA ZALO LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - NĂM 2021
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ............./................. BỘ NỘI VỤ .........../......... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN VĂN DƯƠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Người hướng dẫn khoa học: TS. TẠ NGỌC HẢI HÀ NỘI - NĂM 2021
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Em tên Nguyễn Văn Dương, là học viên lớp LH5.B1; Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính (Mã ngành: 8 38 01 02). Là tác giả nghiên cứu đề tài Luận văn thạc sĩ Luật học “Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình” Em xin cam đoan đề tài luận văn nêu trên là công trình nghiên cứu của cá nhân em dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Tạ Ngọc Hải. Trong luận văn có sử dụng, trích dẫn một số nguồn tài liệu, ý kiến và quan điểm nghiên cứu khoa học của một số tác giả là nhà nghiên cứu trong lĩnh vực luật học. Nay em viết Lời cam đoan này đề nghị Phòng Đào tạo Sau đại học, Trường Học viện Hành chính Quốc gia xem xét để em được bảo vệ luận văn với đề tài nghiên cứu nêu trên. Em xin trân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2021 Học viên Nguyễn Văn Dương
  • 4. LỜI CẢM ƠN Luận văn này không thể hoàn thành nếu thiếu sự hướng dẫn và hỗ trợ của nhiều cá nhân và tổ chức. Trước tiên, em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến TS. Tạ Ngọc Hải, người đã hướng dẫn, động viên giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn. Những nhận xét và đánh giá của thầy Tạ Ngọc Hải, đặc biệt là những gợi ý về hướng giải quyết vấn đề trong suốt quá trình nghiên cứu, thực sự là những bài học vô cùng quý giá đối với em trong quá trình viết luận văn. Em xin cảm ơn đến Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, khoa Nhà nước - Pháp luật và Lý luận cơ sở - Học viện Hành chính Quốc gia; các Thầy, Cô giáo đã giúp đỡ, góp ý và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn của mình. Em cũng xin cảm ơn đến tất cả cá nhân, tập thể cơ quan, đơn vị; bạn bè và gia đình đã luôn động viên, chia sẻ, tạo điều kiện giúp đỡ em trong những giai đoạn khó khăn để hoàn thành luận văn này. Em xin trân thành cảm ơn!
  • 5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ATGT BXD CLB CNH, HĐH ĐH ĐKKD HĐND KHXH MTTQ NĐ Nxb PBGDPL QCTM QCNT QĐ QH PGS.TS TS TT TTLĐ UBND VHCS VH&TT VHTT&DL An toàn giao thông Bộ Xây dựng Câu lạc bộ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đại học Đăng kí kinh doanh Hội đồng nhân dân Khoa học xã hội Mặt trận tổ quốc Nghị định Nhà xuất bản Phổ biến giáo dục pháp luật Quảng cáo thương mại Quảng cáo ngoài trời Quyết định Quốc hội Phó Giáo sư. Tiến sỹ Tiến sĩ Thông tư Tuyên truyền lưu động Uỷ ban nhân dân Văn hóa cơ sở Văn hoá và Thể thao Văn hóa, Thể thao và Du lịch
  • 6. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU...............................................................................................................................................1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI........................................................................................................................7 1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời...........................................7 1.2. Chủ thể, nội dung thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời.........................14 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về quảng cáo...............................17 1.4. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời và bài học kinh nghiệm............................................................................................30 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1............................................................................................................40 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP ...............................42 2.1. Khái quát về thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.................................................42 2.2. Quy định của pháp luật về quảng cáo ngoài trời ......................................................47 2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp....................................................................................................................................57 2.4. Đánh giá chung....................................................................................................................... 81 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................................................87 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH..........................................................88 3.1. Quan điểm đề xuất giải pháp.............................................................................................88 3.2. Định hướng giải pháp...........................................................................................................88 3.3. Các giải pháp............................................................................................................................89 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3............................................................................................................97 KẾT LUẬN.......................................................................................................................................98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................100
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận văn Trong những năm gần đây, quảng cáo có vai trò quan trọng, được coi như một hình thức giao tiếp góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Các nền kinh tế đã và đang hội nhập ngày càng mạnh mẽ, vì vậy muốn phát triển kinh tế thì trước hết sản phẩm, dịch vụ phải có người biết đến. Do đó, các sản phẩm, dịch vụ muốn tiêu thụ theo nguyên tắc thị trường, người sản xuất cần giới thiệu sản phẩm, dịch vụ đến với người tiêu dùng thông qua quảng cáo. Hiện nay, các phương thức và phương tiện quảng cáo rất phong phú và đa dạng. Vì thế, thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời gặp khá nhiều khó khăn như: công tác xây dựng các kế hoạch, văn bản hướng dẫn thực hiện quy hoạch quảng cáo ngoài trời, các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu đồng bộ, ban hành chậm nên đã ảnh hưởng đến việc quản lý hoạt động quảng cáo ngoài trời. Hoạt động quảng cáo thường thay đổi linh hoạt hơn những quy định có sẵn trong Luật, những quy định cụ thể chưa bắt nhịp kịp với những biến đổi và diễn biến phức tạp của hoạt động quảng cáo mà Luật Quảng cáo chưa có những điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa cụ thể, chưa có những bổ sung, sửa đổi; Ngoài ra, công tác tham mưu, phối hợp giữa các sở, ban ngành về cấp giấy phép thực hiện quảng cáo còn bộc lộ nhiều hạn chế như thủ tục rườm rà, thời gian chờ đợi cấp phép khá lâu gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp. Tác giả nghiên cứu đề tài này mục tiêu là muốn đánh giá việc chấp hành pháp luật về quảng cáo ngoài trời (gọi tắt là QCNT), từ đó thấy được ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện pháp luật về QCNT ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình nói riêng và đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu thực hiện pháp luật về QCNT tại địa bàn. Bên cạnh những đóng góp đáng được ghi nhận thì hoạt động QCNT trên địa bàn thành phố Tam Điệp cũng phát sinh nhiều hiện tượng khá phức tạp cần kịp thời quản lý, điều chỉnh. Sự bất cập, sơ hở và chồng chéo của các văn bản quy phạm pháp luật, có không ít đơn vị không tuân thủ các quy định, quy chế
  • 8. 2 của các cơ quan chức năng; thực hiện sai lệch theo nội dung giấy phép được cấp, gây khó khăn không nhỏ cho công tác quản lý ... Một số nội dung QCNT không tuân thủ quy định của pháp luật trong lĩnh vực quảng cáo như: quảng cáo rao vặt tràn lan gây phản cảm đến người xem; quảng cáo so sánh với sản phẩm, hàng hóa khác; quảng cáo mặt hàng cấm quảng cáo ... Xuất phát từ tính cấp thiết trên, tác giả đã lựa chọn luận văn với đề tài: “Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình” làm đề tài tốt nghiệp cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn có một cái nhìn toàn diện về cơ sở lý luận và thực tiễn trong thực hiện pháp luật về QCNT, nhằm tạo hướng đi đúng đắn phát triển ngành công nghiệp sáng tạo này, mang lại lợi ích thiết thực về kinh tế, văn hóa, xã hội cho thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Ở Việt Nam, khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội nghĩa, các hoạt động thương mại dịch vụ ngày càng trở nên sôi động, đây chính là cơ hội để hoạt động quảng cáo phát triển mạnh mẽ. Việc nghiên cứu về quảng cáo tuy đã được thực hiện nhưng còn ở mức độ hạn chế; việc chấp hành pháp luật về quảng cáo nói chung cũng như quảng cáo ngoài trời nói riêng tiếp cận từ góc độ thực hiện pháp luật là cần thiết để từ đó có cái nhìn toàn diện với vấn đề này, giúp cho việc hoạch định và thực thi chính sách pháp luật về quảng cáo ngày càng hoàn thiện hơn. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực quảng cáo ở nước ta chưa nhiều, một số công trình tiêu biểu của một số tác giả như: Nghiệp vụ quảng cáo và tiếp thị, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, xuất bản năm 1999 của Lê Hoàng Quân đưa ra những quan điểm, phương pháp vận dụng khoa học nhằm cung cấp cho người đọc những kiến thức về quảng cáo và công ty quảng cáo; sự lựa chọn các kênh quảng cáo; quá trình sáng tạo, thực hiện một chiến dịch quảng cáo ... sách còn trình bày một số tình huống tham khảo, từ đó các doanh nghiệp
  • 9. 3 có thể cùng với công ty quảng cáo vạch ra mục tiêu, chiến lược và hình thức quảng cáo phù hợp, cũng như đo lường đánh giá hiệu quả của quảng cáo; vì vậy sẽ rất hữu ích cho các sinh viên Marketing và Mỹ thuật công nghiệp, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành quảng cáo và các doanh nghiệp đang có ý đinh quảng cáo trên phương tiện truyền thông. Công trình tiếp theo là “Những khía cạnh tâm lý trong quảng cáo thương mại”, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội (2015) của tác giả Nguyễn Hữu Thụ cung cấp các tri thức, quy luật cơ bản, cốt lõi nhất của tâm lý con người, cơ chế vận hành các hiện tượng tâm lý trong hoạt động quảng cáo thương mại, các hình thức và hướng nghiên cứu quảng cáo thương mại phổ biến hiện nay; Ngoài ra, có các luận văn, luận án khoa học ở các trường Đại học, Học viện, Viên nghiên cứu. Luận án Tiến sĩ Văn hóa học “Giá trị văn hóa của Quảng cáo ở Việt Nam hiện nay” (năm 2012) của tác giả Đỗ Quang Minh cho chúng ta thấy một cái nhìn tổng quát trên sự phân tích, tìm hiểu giá trị văn hóa của quảng cáo, một yêu cầu đặt ra là quảng cáo phù hợp với nền văn hóa, văn minh. Luận án Tiến sĩ Luật kinh tế “Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay” (năm 2016) của tác giả Hồ Thị Duyên là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống các vấn đề lý luận về hành vi quảng cáo đặc biệt là khái niệm, đặc điểm và cấu thành của hành vi này, qua đó xác định pháp luật để nhận diện và xử lý đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, chỉ ra những hạn chế mà pháp luật về hành vi quảng cáo cần phải khắc phục và hoàn thiện trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Luận án Tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại” (2015) của Nguyễn Thị Tâm đề xuất những phương hướng, kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về quảng cáo thương mại nói riêng và pháp luật về quảng cáo nói chung. Ngoài ra, một số luận văn nghiên cứu về hoạt động quảng cáo như: Luận văn Thạc sỹ Quản lý Văn hóa “Quản lý hoạt động quảng cáo thương mại ngoài trời trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” (2016) của tác giả Nguyễn Mạnh Hà, Trường Đại học Sư phạm nghệ thuật Trung ương đánh giá về công tác quản lý hoạt động
  • 10. 4 quảng cáo thương mại và những tác động của quảng cáo đối với kinh tế - xã hội qua đó cung cấp thêm thông tin cơ bản cho doanh nghiệp quảng cáo, giúp người làm quảng cáo đi đúng hướng trong thời đại công nghệ 4.0 Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp. Chính vì vậy, luận văn này sẽ tập trung đi sâu vào nghiên cứu cụ thể hơn về việc thực hiện pháp luật về hoạt động quảng cáo ngoài trời để từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quảng cáo thương mại trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là đánh giá đúng thực trạng thực hiện pháp luật về QCNT tại thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật đối với hoạt động QCNT trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xây dựng khung lý thuyết phục vụ cho việc đánh giá việc thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời; - Đánh giá đúng thực trạng về thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình; - Đề xuất được những giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế việc thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời đối với các hoạt động QCNT. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về thời gian: Luận văn thu thập số liệu về hoạt động quảng cáo ngoài trời qua 5 năm (2015-2019).
  • 11. 5 Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu về thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp và một số đơn vị hành chính đô thị tỉnh Ninh Bình. Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu mảng thực hiện pháp luật về quảng cáo thương mại ngoài trời. Tập trung nghiên cứu nhiều hơn về hoạt động thực hiện pháp luật về quảng cáo thương mại ngoài trời của cơ quan quản lý nhà nước. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau: - Phương pháp thống kê: Phương pháp này dùng để hệ thống hóa các số liệu về thực trạng hoạt động quảng cáo đề phân tích tình hình biến động theo thời gian. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Số liệu được tổng hợp và phân tích từ đó đưa ra những nhận xét đánh giá cũng như đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động quảng cáo ngoài trời. - Phương pháp tiếp cận liên nghành: Nghiên cứu quản lý văn hóa dưới góc độ văn hóa học. - Sử dụng chuyên gia. 6. Đóng góp của luận văn - Trên phương diện lý thuyết: xây dựng khung pháp lý phục vụ cho việc đánh giá việc thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời. - Trên phương diện thực tế: góp phần đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. - Trong đề xuất giải pháp: đề xuất được những giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế việc thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
  • 12. 6 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục và Mục lục, Bảng biểu, hình ảnh, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về thực hiện pháp luật đối với hoạt động quảng cáo ngoài trời. Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hoạt động quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.
  • 13. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NGOÀI TRỜI 1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời 1.1.1. Thực hiện pháp luật Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các qui định pháp luật trong thực tế đời sống. Thực hiện pháp luật bao gồm: tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng pháp luật; áp dụng pháp luật. - Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện những qui phạm pháp luật mang tính chất ngăn cấm bằng hành vi thụ động, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không làm những việc mà pháp luật cấm. - Thi hành pháp luật: là hình thức thực hiện những qui định trao nghĩa vụ bắt buộc của pháp luật một cách tích cực trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành động tích cực. - Sử dụng pháp luật: là hình thức thực hiện những qui định về quyền chủ thể của pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật chủ động, tự mình quyết định việc thực hiện hay không thực hiện điều mà pháp luật cho phép. - Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những qui định pháp luật hoặc chính hành vi của mình căn cứ vào những qui định của pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật. 1.1.2. Thực hiện pháp luật về quảng cáo Tại Điều 2, Luật Quảng cáo năm 2012 (được Quốc hội thông qua ngày 21/6/2012) quy định như sau: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân” [41, tr.1].
  • 14. 8 Từ khái niệm quảng cáo nêu trên, trở lại với khái niệm thực hiện pháp luật chúng ta có thể nhận thấy thực hiện pháp luật về quảng cáo có 04 hình thức, cụ thể là: - Tuân thủ pháp luật quảng cáo: là hình thức thực hiện những qui phạm pháp luật mang tính chất ngăn cấm bằng hành vi thụ động, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không làm những việc mà Luật quảng cáo cấm. VD: một công dân không thực hiện những hành vi vi phạm được qui định trong Luật quảng cáo, tức là công dân đó tuân thủ những qui định của Luật này. - Thi hành pháp luật quảng cáo: là hình thức thực hiện những qui định trao nghĩa vụ bắt buộc của Luật luật quảng cáo một cách tích cực trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành động tích cực. VD: một người thực hiện các thủ tục về cấp phép quảng cáo, tức là người đó đã bằng hành động tích cực thi hành qui định về pháp luật quảng cáo. - Sử dụng pháp luật quảng cáo: là hình thức thực hiện những qui định về quyền chủ thể của pháp luật về quảng cáo, trong đó các chủ thể pháp luật chủ động, tự mình quyết định việc thực hiện hay không thực hiện điều mà pháp luật quảng cáo cho phép. - Áp dụng pháp luật quảng cáo: là hình thức thực hiện pháp luật quảng cáo, trong đó nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những qui định pháp luật hoặc chính hành vi của mình căn cứ vào những qui định của pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật về quảng cáo. VD: cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật tuyên phạt doanh nghiệp quảng cáo không xin phép. Từ những nhận định trên có thể khái quát lại rằng: Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả phí hoặc không để thực hiện việc giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là hoạt động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người muốn truyền thông phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa thông tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin.
  • 15. 9 So với khái niệm thực hiện pháp luật thì thực hiện pháp luật về quảng cáo cụ thể hơn trong lĩnh vực quảng cáo. Theo đó, tuy rằng về hình thức có thể giống nhau nhưng nội dung là khác nhau. Thực hiện pháp luật về quảng cáo là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành động của mình thực hiện các qui định pháp luật về quảng cáo trong thực tế đời sống. 1.1.3. Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời * Đối với nhà nước Thực hiện pháp luật về quảng cáo là hoạt động có mục đích của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm cho những quy định của pháp luật về quảng cáo đi vào thực tiễn đời sống xã hội, nhằm bảo đảm trật tự, an toàn và công bằng xã hội; nhằm phát huy quyền dân chủ của nhân dân và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động quảng cáo. Để thực hiện pháp luật về quảng cáo nói chung trong đó có hoạt động quảng cáo thương mại ngoài trời, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm trật tự kỷ cương, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này. Từ nhận định trên có thể thấy việc thực hiện pháp luật về quảng cáo thương mại ngoài trời đối với các cơ quan nhà nước có những đặc điểm nổi bật là: - Về chủ thể: Các cơ quan nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông qua việc ban hành hệ thống văn bản quản lý theo thẩm quyền nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về hoạt động quảng cáo, đưa ra các quy định nhằm tác động đến đối tượng thực thi pháp luật nhằm đảm bảo cho hoạt động quảng cáo đi vào nền nếp, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thực hiện pháp luật. Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp tổ chức tiếp nhận, xử lý hồ sơ, giải quyết nhu cầu quảng cáo, cấp phép quảng cáo, tiếp thị của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh. Thường xuyên theo dõi việc thi hành pháp luật về quảng cáo; tổ chức thanh kiểm tra, đánh giá, giám sát việc
  • 16. 10 thực hiện các quy định pháp luật về quảng cáo; kịp thời tham mưu cho cho cơ quan, người có thẩm quyền xử lý nghiêm những hành vi vi phạm về quảng cáo theo quy định của pháp luật. - Hoạt động quảng cáo ngoài trời luôn có sự thay đổi và biến động ngày càng mạnh mẽ, có tính thời sự cao, gắn liền với quá trình công nghệ hóa, toàn cầu hóa về kinh tế. Do đó các cơ quan nhà nước cần thường xuyên cần tích cực đẩy mạnh hoạt động theo dõi thi hành pháp luật, tổng kết thực tiễn nhằm kịp thời ban hành các chủ trương, chính sách, pháp luật sát hợp với tình hình thực tế, có tính khả thi, tính dự báo cao. - Sự đa dạng và phức tạp của hoạt động quảng cáo. Có thể thấy quảng cáo là hoạt động hết sức phức tạp, gắn liền với quá trình xúc tiến thương mại của thương nhân. Thương nhân thông qua hoạt động quảng cáo nhằm xúc tiến thương mại; với mong muốn hàng hóa dịch vụ của mình đến ngày càng gần hơn, nhiều hơn đối với người tiêu dùng và đạt được lợi nhuận cao nhất. Để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa đội ngũ thương nhân và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng, ban hành chính sách phù hợp, vừa khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân phát triển sản xuất, vừa đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng; tránh xung đột về lợi ích của người tiêu dùng và doanh nghiệp. * Đối với thương nhân Điều 102 Luật Thương mại 2005 quy định: “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình” [76, tr.2]. Có thể hiểu rằng quảng cáo thương mại là hoạt động sử dụng các phương tiện quảng cáo nhằm xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu, đưa thông tin hàng hóa, dịch vụ tới khách hàng. Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các qui định pháp luật về quảng cáo được thực hiện ở ngoài trời để giới thiệu, đưa thông tin
  • 17. 11 hàng hóa, dịch vụ tới khách hàng nhằm quảng bá hình ảnh thương hiệu, sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp vào trong đời sống thực tế. Từ quan niệm như vậy cho thấy quảng cáo ngoài trời có những đặc điểm sau: - Về chủ thể: Chủ thể hoạt động quảng cáo nói chung và quảng cáo ngoài trời nói riêng là thương nhân. Với tư cách là người kinh doanh, thương nhân thực hiện quảng cáo để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình hoặc thực hiện dịch vụ quảng cáo cho thương nhân khác theo hợp đồng để tìm kiếm lợi nhuận. Đây là đặc điểm khác biệt của quảng cáo đối với các hoạt động thông tin, cổ động do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội… thực hiện nhằm tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Với bản chất là một hoạt động do thương nhân thực hiện, quảng cáo và quảng cáo ngoài trời khác biệt với quảng cáo nói chung, mặc dù chúng đều có chung đặc điểm là một quá trình thông tin. - Về tổ chức thực hiện: Thương nhân có thể tự mình thực hiện các công việc cần thiết để quảng cáo ngoài trời hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân khác thông qua hợp đồng dịch vụ. Do quảng cáo có tác động rất lớn đến hoạt động bán hàng, cung ứng dịch vụ nên thương nhân sử dụng quảng cáo để khuếch trương hàng hóa dịch vụ của mình tặng cường cơ hội thương mại và tăng cường lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, dịch vụ quảng cáo ngoài trời được pháp luật thừa nhận là một loại dịch vụ thương mại mà thông qua phí dịch vụ, thương nhân thu được lợi nhuận một cách trực tiếp. Trong trường hợp tự mình quảng cáo không đạt được hiệu quả mong muốn, thương nhân có quyền thuê thương nhân khác thực hiện quảng cáo cho mình và phải chịu chi phí dịch vụ vì việc đó. - Về cách thức xúc tiến thương mại: Trong hoạt động quảng cáo ngoài trời, thương nhân sử dụng sản phẩm và phương tiện quảng cáo để thông tin về hàng hóa dịch vụ đến khách hàng. Những thông tin bằng hình ảnh, tiếng nói, chữ viết về hàng hóa dịch vụ cần giới thiệu… được truyền tải đến công chúng thông qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, ấn phẩm. Đặc điểm này là đặc điểm
  • 18. 12 riêng biệt của quảng cáo thương mại với hình thức xúc tiến thương mại cũng có mục đích giới thiệu hàng hóa, dịch vụ như trưng bày, hội trợ triển lãm. - Về mục đích trực tiếp của quảng cáo ngoài trời: Mục đích trực tiếp của quảng cáo ngoài trời là giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ để xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận của thương nhân. Thông qua các hình thức truyền đạt thông tin, thương nhân giới thiệu về một loại hàng hóa, dịch vụ mới, tính ưu việt về chất lượng, giá cả, khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng… Như vậy, thương nhân có thể tạo sự nhận biết và kiến thức về hàng hóa, dịch vụ, có thể thu hút khách hàng đang sử dụng hàng hóa, dịch vụ của công ty khác thông qua việc nhấn mạnh đặc điểm và lợi ích của một nhãn hiệu cụ thể hoặc thông qua việc so sánh tính ưu việt của sản phẩm với các sản phẩm cùng loại. Có thể nói đây là những lợi thế mà thương nhân có thể khai thác vì nó có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng nhu cầu tiêu dùng xã hội bao gồm nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất. Các đặc điểm trên đây là cơ sở để phân biệt quảng cáo ngoài trời nói riêng và quảng cáo thương mại nói chung với các hoạt động không phải quảng cáo thương mại như: Hoạt động thông tin truyên truyền, cổ động mang tính chính trị, xã hội do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội thực hiện, hoạt động thông tin của các tổ chức cá nhân không nhằm mục đích kinh doanh. 1.1.4. Vai trò của quảng cáo ngoài trời - Đối với thương nhân: Quảng cáo ngoài trời là một công cụ hữu hiệu để xúc tiến thương mại. Đối với sản phẩm mới xuất hiện hoặc sắp tung ra thị trường thì giúp giới thiệu thông tin đến người tiêu dùng gây được chú ý của họ, tìm kiếm cơ hội thi lợi nhuận. Đối với các sản phẩm đã có mặt và quen thuộc thì duy trì sự tín nhiệm, lòng trung thành của người tiêu dùng đối với sản phẩm, thúc đẩy việc bán sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, thu lợi nhuận, tăng doanh số bán hàng. - Đối với người tiêu dùng: Vai trò đầu tiên mà quảng cáo ngoài trời mang lại đó là thông tin về hàng hóa, sản phẩm dịch vụ đồng thời mang tới cho họ sự lựa chọn và quyết định mua hay sử dụng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đó. Tùy từng lứa tuổi, sở thích, giới tính, nhu cầu khách hàng có thể dễ dàng tìm thấy cho mình loại mặt hàng phù hợp nhất...
  • 19. 13 - Đối với nền kinh tế: Đặc biệt trong giai đoạn cạnh tranh thương mại mạnh mẽ như hiện nay, vai trò của quảng cáo ngoài trời là không thể phủ định. Quảng cáo ngoài trời là một hình thức xúc tiến thương mại, đóng vai trò là cầu nối giữa người bán hàng và người mua, người sản xuất với người tiêu dùng. Góp phần thúc đẩy lưu thông, tiêu thụ hàng hóa dịch vụ trên thị trường, gián tiếp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh và tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường của quốc gia đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. 1.1.5. Lợi ích của quảng cáo ngoài trời Quảng cáo ngoài trời có thuật ngữ quốc tế là Out Of Home (OOH), được hiểu đơn giản là những hình thức quảng cáo được đặt ở bên ngoài, tiếp cận với những đối tượng đang di chuyển hoặc hoạt động ở ngoài trời. Đó có thể là những tấm billboard khổ lớn được đặt bên các quãng đường cao tốc, có thể là quảng cáo trên các phương tiện giao thông, tại các trạm chờ xe bus, giữa các ngã tư đường phố, trên những tòa nhà cao tầng, trên các trục đường giao thông lớn, hoặc chỉ cần đơn giản là những tấm biển hiệu có mặt ở khắp mọi nơi … Quảng cáo ngoài trời mang lại lợi ích rất lớn và đang trong xu thế phát triển mạnh. Từ năm 2011, quảng cáo ngoài trời đã được nghiên cứu và đánh giá là mang lại hiệu quả truyền thông tốt, có đà tăng trưởng mạnh. Lợi ích của hoạt động quảng cáo ngoài trời thể hiện trên các phương diện sau: - Quảng cáo ngoài trời tiếp cận được với một số lượng công chúng rất lớn, không quan trọng về thời gian xuất hiện vì chúng có mặt mọi lúc, mọi nơi gần như công chúng sẽ đón nhận các quảng cáo này một cách thụ động nhưng lại khá tự nhiên. Quảng cáo được đặt cố định (hoặc di chuyển đối với hình thức phương tiện giao thông) nên tần suất tiếp cận quảng cáo là rất nhiều mà chủ doanh nghiệp sẽ không phải trả thêm phụ phí. - Với mỗi nội dung quảng cáo ngoài trời có một vị trí phù hợp khác nhau. Quảng cáo ngoài trời mang tính chất hỗ trợ hiệu quả của các phương tiện quảng
  • 20. 14 cáo khác mà bạn đang triển khai, giúp nhắc nhớ khách hàng về thương hiệu, kích thích khiến cho họ ấn tượng và ghi nhớ hơn về sản phẩm, dịch vụ, thương hiệu. - Quảng cáo ngoài trời có nội dung nổi bật, ngắn gọn nên tốt hơn hết nên thể hiện bằng thông điệp duy nhất trên nội dung của mình, bởi tính chất của loại hình này khiến công chúng chỉ có thời gian tiếp xúc với quảng cáo trong thời gian rất ngắn, thậm chí chỉ vài giây. Thế nên, nội dung cần phải hấp dẫn, ngắn gọn, ấn tượng và tập trung đúng vào những chi tiết đáng giá nhất. - Quảng cáo ngoài trời sẽ là phương tiện tốt để một sản phẩm, dịch vụ mới nhanh chóng được nhiều người biết đến chỉ trong một thời gian ngắn. Không gian ngoài trời sẽ khiến công chúng khó có thể kiểm soát được thời gian, hình ảnh, và họ sẽ nhanh chóng bị gây thu hút bởi những nội dung trên các phương tiện quảng cáo. 1.2. Chủ thể, nội dung thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời 1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời. Chủ thể thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời là các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền theo chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm triển khai thực thi các quy định của pháp luật về quảng cáo vào trong thực tiễn cuộc sống. Thông qua hoạt động của mình, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm cho những quy định của pháp luật về quảng cáo đi vào thực tiễn đời sống xã hội, nhằm bảo đảm trật tự, an toàn và công bằng xã hội; phát huy quyền dân chủ của nhân dân và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động quảng cáo, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các bộ, ngành có liên quan ở Trung ương, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã và hệ thống các cơ quan, đơn vị, bộ phận tham mưu giúp việc ở từng cấp là các chủ thể trực tiếp tham gia thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời. 1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời * Ban hành các chính sách, quy hoạch, kế hoạch về quảng cáo ngoài trời
  • 21. 15 Để thực hiện pháp luật về quảng cáo nói chung trong đó có hoạt động quảng cáo ngoài trời, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm trật tự kỷ cương, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này. Các cơ quan nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông qua việc ban hành hệ thống văn bản quản lý theo thẩm quyền nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về hoạt động quảng cáo, đưa ra các quy định nhằm tác động đến đối tượng thực thi pháp luật nhằm đảm bảo cho hoạt động quảng cáo đi vào nền nếp, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật. * Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch về quảng cáo ngoài trời. Pháp luật về quảng cáo thương mại nói chung và quảng cáo ngoài trời muốn đi vào thực tiễn, phát huy tốt hiệu quả trong đời sống thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò hết sức quan trọng. Các cơ quan quản lý nhà nước cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quảng cáo tới đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh … Hiệu quả của thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời được đánh giá là tích cực khi doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người dân hiểu và chấp hành tốt các quy định của pháp luật; tuân thủ tốt các quy hoạch của địa phương đối với công tác quảng cáo; diện mạo môi trường đô thị được duy trì nền nếp, sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn. Và ngược lại, những nơi còn bộc lộ tình trạng lộn xộn, vi phạm pháp luật về quảng cáo, mất mỹ quan đô thị, an toàn xã hội là những nơi việc tổ chức thực hiện pháp luật còn yếu, chưa phát huy tốt hiệu quả. * Tổ chức đưa nội dung các quy định của pháp luật, chính sách của địa phương về quảng cáo ngoài trời vào trong thực tiễn đời sống Công tác tổ chức đưa nội dung các quy định của pháp luật vào thực tế đời sống có ý nghĩa hết sức quan trọng. Từ quy định của pháp luật thông qua Luật, Nghị định, Thông tư của các cơ quan trung ương, các ngành, địa phương, đơn vị
  • 22. 16 cần bám sát tình hình thực tiễn của địa phương, thể chế hóa pháp luật cho phù hợp nhằm đưa ra các chủ trương, chính sách sát hợp, thông qua các đề án, quy hoạch, kế hoạch nhằm khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh, khắc phục những hạn chế, yếu kém. Các cơ quan nhà nước triển khai các chương trình, kế hoạch đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm trang kiến thức pháp luật, kỹ năng thi hành công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quảng cáo. Cơ quan nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp tổ chức tiếp nhận, xử lý hồ sơ, giải quyết nhu cầu quảng cáo, cấp phép quảng cáo, tiếp thị của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh. * Tổ chức kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật về quảng cáo ngoài trời Hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật được đánh giá thông qua hoạt động tổ chức, kiểm tra, đánh giá theo dõi thi hành pháp luật. Qua quá trình triển khai áp dụng vào thực tế, các cơ quan nhà nước định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết công tác theo dõi thi hành pháp luật về quảng cáo nhằm đánh giá những ưu điểm, kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế bất cập cần phải có giải pháp khắc phục nhằm làm cho pháp luật phát huy hiệu quả tốt hơn trong đời sống xã hội. Cơ quan nhà nước thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát sẽ kịp thời phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về quảng cáo ngoài trời theo thẩm quyền, nhằm tạo tính răn đe, duy trì trật tự kỷ cương của pháp luật trong thực tế. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về quảng cáo 1.3.1. Chất lượng quy định pháp luật về quảng cáo Chất lượng của hệ thống pháp luật là một trong những cơ sở để bảo đảm cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn, đồng thời cho phép dự báo được khả năng hiện thực hoá các quy định pháp luật trong đời sống xã hội. Nếu chất lượng của pháp luật thấp, tính khả thi kém thì
  • 23. 17 việc thực hiện chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có những quy định pháp luật nhiều khi không thể thực hiện được trên thực tế. Để đánh giá chất lượng của hệ thống pháp luật, xác định mức độ hoàn thiện của nó cần phải dựa vào những tiêu chí được xác định về mặt lý thuyết, từ đó liên hệ với điều kiện và hoàn cảnh thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét một cách khách quan và rút ra những kết luận, làm sáng rõ những ưu điểm và nhược điểm của hệ thống pháp luật. Có nhiều tiêu chí để xác định chất lượng của hệ thống pháp luật Việt Nam trong đó có các tiêu chí cơ bản là: Tính toàn diện, đồng bộ, tính thống nhất, tính phù hợp, ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng pháp luật và tính khả thi của hệ thống pháp luật. Và đối với việc thực hiện pháp luật về quảng cáo, các tiêu chí trên cũng không là ngoại lệ, chúng ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về quảng cáo trên thực tế. Chất lượng của pháp luật về quảng cáo thể hiện trên các phương diện cụ thể như sau: * Tính toàn diện và đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo. Tính toàn diện, đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo được thể hiện thống nhất ở hai cấp độ. Ở cấp độ chung là sự đồng bộ giữa các luật có nội dung liên quan đến hoạt động quảng cáo với nhau. Ở cấp độ cụ thể đó là thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo trong mỗi luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các QPPL với nhau quy định về hoạt động quảng cáo. Hệ thống các văn bản pháp luật vê quảng cáo toàn diện và đồng bộ thể hiện ở cấu trúc hình thức của nó, nghĩa là hệ thống văn bản pháp luật đó phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật về lĩnh vực quảng cáo, các quy định về quảng cáo phải có khả năng bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội liên quan đến quảng cáo; để các quan hệ xã hội quan trọng về quảng cáo có tính điển hình, phổ biến cần có sự điều chỉnh của pháp luật quảng cáo thì đều có pháp luật quảng cáo điều chỉnh. Về kết cấu mỗi quy phạm pháp luật về quảng cáo phải có cấu trúc lôgíc, chặt chẽ; mỗi chế định pháp luật về quảng cáo phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết để điều chỉnh các quan hệ xã hội về quảng cáo phù
  • 24. 18 hợp ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Điều này đòi hỏi việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quảng cáo không chỉ chú trọng tới các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, củng cố chính quyền nhân dân mà còn phải chú ý tới các quy phạm điều chỉnh một cách toàn diện các quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực đời sống dân sinh như dân sự, thương mại, đầu tư, môi trường ... Tính toàn diện, đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo còn thể hiện ở việc ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng đã có đủ các điều kiện để có thể được tổ chức thực hiện ngay trên thực tế. * Tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo Sự thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo là điều kiện cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất về mục đích của pháp luật và sự triệt để trong việc thực hiện pháp luật về hoạt động quảng cáo. Tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật được thể hiện trong cả hệ thống văn bản cũng như trong từng bộ phận hợp thành của hệ thống văn bản pháp luật ở các cấp độ khác nhau, nghĩa là giữa các quy phạm pháp luật trong một chế định pháp luật cũng phải thống nhất. Không có các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của các quy phạm pháp luật trong mỗi bộ phận và trong các bộ phận khác nhau của hệ thống pháp luật liên quan đến quảng cáo. Điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật về quảng cáo được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hoà về nội dung mà còn phải bảo đảm tính thứ bậc của mỗi văn bản về giá trị pháp lý của chúng. * Tính phù hợp của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo Tính phù hợp của hệ thống pháp luật về quảng cáo thể hiện ở nội dung của hệ thống văn bản pháp luật luôn có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói pháp luật là những nhu cầu cơ bản, điển hình và có tính phổ biến nhất của đời sống kinh tế - xã hội được khái quát hoá, mô hình hoá dưới hình thức pháp lý cụ thể thông qua hoạt động lý trí và ý chí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, sự phù hợp của các văn bản quy phạm pháp luật về quảng cáo mà đặc biệt là của các văn bản luật với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện vô cùng quan trọng bảo đảm cho
  • 25. 19 tính khả thi và hiệu quả của pháp luật. Phù hợp với các quy luật và điều kiện kinh tế - xã hội sẽ làm cho pháp luật dễ dàng được thực hiện, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế - xã hội, trường hợp ngược lại, pháp luật khó được thực hiện trên thực tế, thậm chí có thể cản trở hoặc gây ra những thiệt hại nhất định cho sự phát triển đó. Trước hết các quy định pháp luật về quảng cáo phải vừa phản ánh được những quy luật kinh tế chung vừa phản ánh được những quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất tồn tại trong đất nước. Nó phải tạo ra được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh, bền vững của kinh tế đất nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tiếp đến là sự phù hợp của pháp luật về quảng cáo với điều kiện chính trị của đất nước, mà quan trọng nhất là phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Để bảo đảm cho xã hội phát triển ổn định thì đòi hỏi pháp luật phải quy định một cách hài hoà về lợi ích cơ bản của tất cả các lực lượng chủ yếu trong xã hội sao cho có thể chấp nhận được. Vì vậy, nội dung của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo phải quy định sao cho tương quan giữa các loại lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau có được sự hài hoà. Dưới hình thức pháp lý, trong khuôn khổ các văn bản pháp luật, nhà làm luật phải làm sao cho lợi ích hợp pháp của tầng lớp xã hội này không xung đột với lợi ích của các tầng lớp khác. Chỉ trong những điều kiện như vậy mới bảo đảm được sự phát triển bình thường của các quan hệ xã hội và việc thực hiện các quyền, tự do, lợi ích của tầng lớp xã hội này sẽ không làm tổn hại đến tự do, lợi ích của các tầng lớp khác. Nếu không quan tâm tới sự thống nhất, hài hoà giữa các loại lợi ích của các lực lượng khác nhau trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật có thể dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội, chẳng những không phát huy được vai trò của pháp luật mà còn làm lu mờ bản chất tốt đẹp của pháp luật dưới chế độ xã hội chúng ta. Không chỉ phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hệ thống pháp luật về quảng cáo nước ta còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế. Trong xu hướng hội nhập và hợp tác hiện nay, vấn đề này luôn đòi hỏi phải được chú
  • 26. 20 trọng và trong những giới hạn có thể hệ thống pháp luật quốc gia cần phải phù hợp với các công ước, điều ước và thông lệ quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia. Hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo nước ta phải được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ quốc tế, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả lý luận, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước khác trên thế giới. Phương pháp điều chỉnh pháp luật được sử dụng phù hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội. Chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo còn biểu hiện ở việc lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội. Việc lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào nội dung, tính chất của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh và ý muốn chủ quan của nhà làm luật thông qua sự nhận thức, sự tính toán của họ về những lĩnh vực, những vấn đề cần điều chỉnh pháp luật trong mỗi giai đoạn lịch sử của sự phát triển xã hội. Sự lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật không đúng, không phù hợp sẽ làm mất đi hoặc giảm đi tính hiệu quả của pháp luật, bởi khi đó sẽ không đạt được mục đích mong muốn hoặc chỉ đạt được ở mức độ thấp. Chẳng hạn, để giải quyết những tranh chấp, xử lý những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai có thể bằng thủ tục hành chính và cũng có thể bằng thủ tục tư pháp, vì vậy đòi hỏi phải chọn phương pháp nào và giao cho cơ quan nào giải quyết thì phù hợp hơn, có hiệu quả cao hơn. * Trình độ kỹ thuật pháp lý khi xây dựng pháp luật Đó là tổng thể những phương pháp, phương tiện được sử dụng trong quá trình soạn thảo và hệ thống hoá pháp luật quảng cáo nhằm đảm bảo cho pháp luật về quảng cáo có được đầy đủ các khả năng để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội. Điều này đòi hỏi: Khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quảng cáo phải đưa ra được những nguyên tắc, những trình tự thủ tục tối ưu để tiến hành có hiệu quả quá trình đó nhằm tạo ra được những quy định, những văn bản pháp luật tốt nhất, đồng thời phù hợp với các quy định đã có; xác định chính xác, khoa học cơ cấu của hệ thống pháp luật phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ
  • 27. 21 thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, lôgíc và một nghĩa. Đối với những thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung đều được giải thích trong văn bản. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quảng cáo phải thường xuyên sử dụng các phương tiện, các cách tiếp cận, các kỹ thuật pháp lý, các quy tắc pháp lý tiên tiến khoa học nhất đã đạt được của nhân loại trong lĩnh vực điều chỉnh pháp luật. Nội dung các quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng với một trình độ kỹ thuật pháp lý cao có kết cấu chặt chẽ, lôgíc, các thuật ngữ pháp lý được sử dụng chính xác, một nghĩa, lời văn trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của quảng đại quần chúng nhân dân. “Một quy phạm pháp luật sẽ phát huy được hiệu quả cao hơn nếu phù hợp với quan niệm, ý thức hiện có của công dân và ngược lại”. Sự chặt chẽ, rõ ràng, chính xác của các quy phạm pháp luật về quảng cáo cũng giúp tránh được những thiếu sót, sơ hở có thể bị lợi dụng trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Để có chất lượng các văn bản pháp luật phải được xây dựng đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định, có tên gọi phù hợp với nội dung thể hiện, hình thức rõ ràng, dễ thực hiện. * Tính khả thi của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo Một hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo có chất lượng thì phải bảo đảm tính khả thi, nghĩa là các quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện được trong điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội hiện tại. Điều này đòi hỏi các quy định pháp luật về quảng cáo phải được ban hành phù hợp với trình độ phát triển của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Nếu các quy định pháp luật về quảng cáo được ban hành quá cao hoặc quá thấp so với các điều kiện phát triển của đất nước thì đều có ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật quảng cáo. Trong những trường hợp đó hoặc là pháp luật quảng cáo không có khả năng thực hiện được hoặc là được thực hiện không triệt để, không nghiêm, không phát huy hết vai trò tác dụng của nó trong đời sống xã hội. Tính khả thi của hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo còn thể hiện ở việc các quy định pháp luật phải được ban hành đúng lúc, kịp thời đáp ứng
  • 28. 22 những nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban hành văn bản pháp luật phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy định hoặc văn bản pháp luật đó hay không, đồng thời phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó (ủng hộ hay không ủng hộ), trình độ văn hoá và kiến thức pháp lý của nhân dân... Pháp luật về quảng cáo có chất lượng phải là pháp luật đưa ra được phương án tốt nhất với phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp nhất để thông qua đó có thể đạt được mục đích mong muốn trong những điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại. 1.3.2. Ý thức pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp luật về quảng cáo Ý thức pháp luật về quảng cáo là những tri thức, quan điểm, quan niệm ... về pháp luật quảng cáo biểu hiện qua sự nhận thức, tình cảm, thái độ của các chủ thể trong xã hội con người với pháp luật quảng cáo. Ý thức pháp luật chính là yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật về quảng cáo trong thực tế: Các chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh, các cá nhân thực hiện pháp luật về quảng cáo thông qua sự hiểu biết, nắm vững các quy định, có thái độ thế nào đối với các quy định về quảng cáo. Nếu họ tôn trọng pháp luật tức là họ chấp hành đúng và đầy đủ các quy định về quảng cáo, và ngược lại nếu vi phạm các quy định của pháp luật nghĩa là họ thiếu tôn trọng pháp luật. Nếu mọi người trong xã hội đều có ý thức pháp luật cao, tức là đều hiểu biết đúng đắn yêu cầu của các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động quảng cáo của mình, đều có thái độ tôn trọng, ủng hộ các quy định đó nên luôn luôn có các hành vi hợp pháp thì pháp luật về quảng cáo sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác hơn. Từ đó các chủ thể có thẩm quyền không phải ban hành quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc liên quan đến quảng cáo. 1.3.3. Mức độ phát triển kinh tế, văn hóa - đời sống * Sự phát triển kinh tế xã hội
  • 29. 23 Yếu tố kinh tế bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế - xã hội, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của các tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh tế - xã hội chậm phát triển, kém năng động và hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Quá trình thực hiện pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế xã hội ở mỗi vùng miền là khác nhau, do đó cũng ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật. Kinh tế có phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp dân cư được cải thiện, lợi ích kinh tế được đảm bảo thì nhân dân sẽ phấn khởi, tin tưởng vào đường lối kinh tế, chính sách pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động điều hành, quản lý của Nhà nước. Khi đó, niềm tin của các chủ thể đối với pháp luật được củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính tích cực, thuận chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành. Khi kinh tế phát triển, đời sống tinh thần, vật chất được cải thiện, các cán bộ, công chức Nhà nước, các tầng lớp nhân dân có điều kiện mua sắm các phương tiện nghe, nhìn, có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu thông tin pháp luật đa dạng và cập nhật. Các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ dễ dàng đến được với đông đảo cán bộ và nhân dân; nhu cầu tìm hiểu, trang bị thông tin, kiến thức pháp luật trở thành nhu cầu tự giác, thường trực trong suy nghĩ và hành động của họ. Điều đó giúp cho hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể mang tính tự giác, tích cực. Còn khi kinh tế chậm phát triển, thu nhập thấp, tình trạng thất nghiệp gia tăng, lợi ích kinh tế không được đảm bảo, đời sống của cán bộ, nhân dân gặp khó khăn thì tư tưởng sẽ diễn biến phức tạp, cái xấu có cơ hội nảy sinh, tác động tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật. Đây chính là mảnh đất lý tưởng cho sự xuất
  • 30. 24 hiện các loại hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược lại các giá trị, chuẩn mực pháp luật như tệ quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu, tham nhũng trong cán bộ; buôn lậu, trốn thuế; trộm cắp, cướp giật, lừa đảo…trong các thành phần xã hội khác. Cơ chế kinh tế cũng có ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trước đây đã tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại. Do đó nhận thức pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật thường mang tính phiến diện, một chiều theo kiểu mệnh lệnh - phục tùng. Cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay với những mặt tích cực của nó sẽ tạo ra tư duy năng động, sáng tạo, coi trọng uy tín, chất lượng, hiệu quả của hoạt động kinh tế. Từ đó tác động tích cực hơn tới ý thức pháp luật và hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt và tiêu dùng. Nhưng mặt trái của tâm lý thị trường sẽ tạo ra tâm lý sùng bái đồng tiền, coi tiền là tất cả, bất chấp các giá trị đạo đức, pháp luật đồng thời sẽ tạo ra những quan niệm, hành vi sai lệch trong thực hiện pháp luật, lấy đồng tiền làm thước đo đánh giá các quan hệ giữa người với người. Đây là nguyên nhân phát sinh các hành vi trái pháp luật, là môi trường cho các loại tội phạm nảy sinh và phát triển. Việc thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo các nguyên tắc công bằng xã hội là điều kiện cần thiết cho sự ổn định chính trị, tăng cường pháp chế và đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội; củng cố ý thức của con người về cái chung trong các lợi ích, lý tưởng của họ, khơi dậy thái độ tích cực của quần chúng đối với việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật; nhờ đó ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cũng được nâng lên một bước và việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trở nên tự giác và chủ động hơn. * Yếu tố văn hóa - đời sống Các yếu tố văn hóa - đời sống bao giờ cũng thuộc về một môi trường văn hóa xã hội nhất định gắn liền với một phạm vi không gian xã hội nhất định, nơi các cá nhân và cộng đồng người tổ chức các hoạt động sống, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và chia sẻ các giá trị văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, lễ nghi… Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình, các yếu tố
  • 31. 25 văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp luật, thể hiện trên các điểm sau: Các phong tục tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân, thể hiện đặc biệt rõ nét ở khu vực nông thôn. Bên cạnh những ưu điểm rất căn bản, các phong tục tập quán ở nông thôn cũng đang bộc lộ những nhược điểm nhất định như việc tổ chức hội hè, đình đám, ma chay, giỗ chạp nhiều lúc nhiều nơi còn cồng kềnh, tốn kém và lãng phí; những hủ tục lạc hậu, lỗi thời còn tồn tại; trình độ dân trí còn thấp; thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội phát sinh; tính tích cực chính trị - xã hội của người dân còn hạn chế… Tại một số làng xã, chính quyền và người dân đứng ra tổ chức lễ hội ồn ào, kéo dài, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt, bán vé và thu phí sai nguyên tắc tài chính, sự chỉ đạo thiếu sâu sát, để cho một số người lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan. Trong khi một số thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội như nạn cờ bạc, số đề, tín dụng đen, mê tín dị đoan, mại dâm…đang xâm nhập vào nông thôn, thì có những người, thay vì tích cực đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa lại tiếp tay hoặc trực tiếp tham gia vào những thói xấu đó. Những hiện tượng trên đây gây khó khăn cho việc thực hiện đúng đắn pháp luật, đồng thời là những hành vi vi phạm pháp luật, coi thường kỷ cương, phép nước, cần phải có biện pháp xử lý nghiêm minh, thích đáng. Lối sống đô thị và lối sống nông thôn có ảnh hưởng khác nhau tới hoạt động thực hiện pháp luật. Đặc trưng nổi bật của lối sống đô thị là tích cực chính trị - xã hội ở đô thị cao. Cư dân đô thị có nhiều điều kiện tiếp xúc với các thông tin chính trị - xã hội và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội lớn mà phần nhiều được tổ chức tại các đô thị. Các phong trào có sức huy động quần chúng ở các đô thị thường diễn ra nhanh hơn so với ở nông thôn. Đây cũng là điều dễ hiểu vì đô thị thường là nơi tập trung nhiều thành phần xã hội có trình độ học vấn tương đối cao. Tại các thành phố, phạm vi giao tiếp về xã hội cơ bản tương đối rộng, cường độ giao tiếp cao và mang tính ẩn danh trong giao tiếp. Đây là điều kiện
  • 32. 26 thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật. Mặt khác, đô thị là nơi tập trung phần lớn bộ phận không thể thiếu trong dân cư đô thị thường được gọi dưới cái tên “những phần tử ngoài lề xã hội”. Về phương diện xã hội, đây là môi trường phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm nhiều tới mức đáng báo động, gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội và hoạt động thực thi, bảo vệ pháp luật. Lối sống nông thôn là lối sống mang tính cộng đồng rất cao và rất chặt chẽ, liên kết cả thành viên trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác. Điều đó thể hiện ở mối quan hệ gắn bó, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, lối xóm ở nông thôn. Người dân nông thôn thường sống đoàn kết gắn bó với quê hương làng xóm, rất coi trọng tình làng nghĩa xóm. Đây là một biểu hiện rất riêng, rất đặc thù của lối sống nông thôn Việt. Tính cộng đồng được coi là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động thực hiện pháp luật. Bằng ý thức cộng đồng, nó giúp cho các cán bộ pháp luật dễ dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo người dân nông thôn. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp cho các cơ quan hành chính, tư pháp hoàn thành tốt các nhiệm vụ thực thi và bảo vệ pháp luật. Khi truyền thống làng xã được phát huy, người dân cởi mở, thẳng thắn tham gia ý kiến về những cái được và cái chưa được trong hoạt động thực hiện pháp luật. Sự đề cao tính cộng đồng và chủ nghĩa tập thể dễ dẫn cán bộ làm công tác thực thi và bảo vệ pháp luật đến việc đánh mất ý thức về con người cá nhân, cái tôi bị triệt tiêu, ý thức cá nhân và hành vi cá nhân cũng bị đặt vào lối xử thế hòa cả làng. Tình trạng này khiến cho cán bộ cả nước khi phải đối mặt với những việc làm sai trái, khuyết điểm, thậm chí vi phạm pháp luật, thì họ thường tìm cách né tránh trách nhiệm cá nhân và muốn đó là trách nhiệm tập thể. Bên cạnh đó tính cộng đồng thường là cái cớ được cán bộ làm công tác thực thi và bảo vệ pháp luật dùng để biện minh cho thói quen ỷ lại vào tập thể và tâm lý an phận thủ thường. Chính điều này làm hạn chế năng lực sáng tạo, sự
  • 33. 27 chủ động và quyết đoán của họ trong điều hành, giải quyết các công việc chung từ đó ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện pháp luật. Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên đăng tải các thông tin về các sự kiện pháp luật, hiện tượng xảy ra trong xã hội, hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp xã hội. Và của các cơ quan chức năng, nêu lên những tấm gương điển hình người tốt việc tốt trong việc thực hiện pháp luật… Những thông tin đó ở chừng mực khác nhau tác động đến suy nghĩ, nhận thức và hành vi của mỗi con người, khiến cho họ thực hiện pháp luật tốt hơn. Dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp luật. Dư luận xã hội gắn liền với ý chí cộng đồng của nhóm xã hội mà nó tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của các cá nhân. Trong một chừng mực nhất định người ta có thể không sợ sự trừng phạt của pháp luật khi thực hiện những hành vi sai trái, phạm pháp nhưng chúng lại sợ sự phê phán lên án của dư luận xã hội - một thứ bất thành văn. Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ rộng rãi, dư luận xã hội được coi là phương tiện kiểm tra xã hội đối với ý thức pháp luật và hành vi pháp luật của mỗi người. Dưới áp lực của dư luận xã hội, mỗi người luôn phải xem xét, suy nghĩ, kiểm định trước khi thực hiện một hành vi pháp luật nào đó. Những câu hỏi phải được đặt ra về cái đúng, cái sai, nên hay không nên… Nhờ đó, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật trong mỗi chủ thể cũng được nâng lên một bước. 1.3.4. Năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo Năng lực quản lý nhà nước có vai trò hết sức quan trọng đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống thực tế. Sự hoạt động của các cơ quan HCNN trong việc thực hiện pháp luật có tác động quan trọng đến việc hoạt động thực hiện pháp luật. Sự can thiệp của các cơ quan HCNN nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện mỗi khi xảy ra vi phạm pháp luật, tranh chấp là cần thiết, đúng đắn. Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có thể phát huy được vai rò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo
  • 34. 28 điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống. Cũng như vậy, muốn các quy định của pháp luật về quảng cáo phát huy được chức năng quản lý trong thực tế thì cần phải có hoạt động thực hiện pháp luật dưới các hình thức khác nhau. Vì vậy, cơ quan quản lý HCNN về quảng cáo là cơ quan có vai trò quan trọng, điều này thể hiện ở: * Cơ quan HCNN thực hiện pháp luật và tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật. Cơ quan HCNN nhà nước là cơ quan có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật. Muốn các cá nhân, tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và QPPL hành chính về quảng cáo nói riêng thì cơ quan quản lý phải tạo điều kiện thuận lợi, không được gây khó rễ để các cá nhân, tổ chức đó có thể thực hiện pháp luật một cách dễ dàng. Một số lượng rất lớn văn bản QPPL do các cơ quan HCNN xây dựng và ban hành, chính vì vậy, việc cơ quan HCNN tạo điều kiện để người dân có thể thực hiện được các QPPL hành chính là điều tất yếu. Có như vậy, pháp luật mới có thể đi vào đời sống, gắn liền với thực tiễn, phát huy tác dụng, tránh tình trạng pháp luật “suông”. Bên cạnh đó, cơ quan HCNN là chủ thể quan trọng của quan hệ pháp luật hành chính, cũng phải thực hiện các QPPL hành chính. Hiến pháp và các văn bản QPPL khác quy định cho cơ quan HCNN có nhiệm vụ, quyền hạn nào thì cơ quan HCNN phải và chỉ được thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó, quán triệt tư tưởng người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, quyền lực công chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Việc cơ quan HCNN thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật vừa tạo được tác động tốt với ý thức pháp luật của người dân, vừa tạo cơ sở pháp lý để người dân thực hiện đúng đắn những quyền và nghĩa vụ của mình. Hiểu luật, thực hiện đúng luật đang là đòi hỏi bức xúc trong giai đoạn hiện nay. Để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, công tác giáo dục pháp luật là một phần không thể thiếu. Công dân, cán bộ, công chức nhà nước, tổ chức xã hội ...., tất cả đều cần phải hiểu mình có những quyền và nghĩa vụ
  • 35. 29 pháp lý nào hiểu được pháp luật yêu cầu phải xử sự như thế nào trong những trường hợp đã được dự liệu. Có như vậy, các cá nhân, tổ chức mới có thể thực hiện pháp luật đầy đủ và đúng đắn. * Cơ quan HCNN còn kiểm tra việc thực hiện pháp luật. Cơ quan HCNN đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện QPPL hành chính và giáo dục pháp luật. Nhưng để việc thực hiện pháp luật đem lại hiệu quả cao, cơ quan HCNN còn có vai trò tích cực trong hoạt động kiểm tra việc thực hiện QPPL. Kiểm tra là phương tiện quan trọng để phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lý những vi phạm pháp luật. Kiểm tra được thực hiện trước hết bởi Chính phủ và UBND các cấp. Ngoài ra, kiểm tra còn được thực hiện thường xuyên bởi cơ quan HCNN có thẩm quyền chuyên môn thông qua các cơ quan thanh tra ngành. Trong phạm vi quyền hạn do luật định, các bộ có quyền kiểm tra UBND các cấp và cơ quan nhà nước khác ở địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực và có quyền đề nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ những quy định của UBND và Chủ tịch UBND nếu những quy định này trái với các văn bản của bộ về ngành hoặc lĩnh vực mà nó phụ trách. Thông qua hoạt động kiểm tra, các chủ thể có dịp tìm hiểu việc thực hiện pháp luật của cấp dưới cũng như việc thực hiện các quy định của cơ quan và các nhiệm vụ đã được giao, từ đó các chủ thể quản lý có biện pháp xử lý thích hợp nhằm giáo dục đối tượng quản lý, xử lý người vi phạm đồng thời cải tiến và sửa đổi, bổ sung các quy định quản lý. Như vậy, cơ quan nhà nước tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật hành chính, giáo dục, kiểm tra việc thực hiện pháp luật. Thiếu đi một hoạt động nào cũng sẽ khiến cho việc thực hiện pháp luật gặp khó khăn, thậm chí ngưng trệ. Từ đó chúng ta thấy được vai trò của cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện pháp luật là rất quan trọng. 1.4. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời và bài học kinh nghiệm 1.4.1. Kinh nghiệm trong nước
  • 36. 30 Kinh nghiệm từ thực tiễn thành phố Hà Nội Hà Nội, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn nhất của cả nước, với quy mô hoạt động quảng cáo rất lớn, công tác quản lý hoạt động quảng cáo nói chung và QCNT nói riêng đã được quan tâm triển khai với nhiều hình thức đã tạo nên diện mạo khá đồng bộ và hiệu quả như ngày nay. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, việc áp dụng pháp luật về quảng cáo đã tạo nên nhiều mô hình quản lý hiệu quả, đem lại những bài học kinh nghiệm, một trong những mô hình điểm đã được triển khai và nhân rộng trong hoạt động quảng cáo TMNT đó là xây dựng tuyến phố điểm về biển hiệu, quảng cáo. Một trong những tuyến phố điểm đầu tiên thực hiện thí điểm đó là phố Lê Trọng Tấn - Quận Thanh Xuân. Phố Lê Trọng Tấn với thuận lợi là tuyến phố mới nên được lựa chọn thí điểm xây dựng tuyến phố kiểu mẫu về quảng cáo, tại đây đã quy định kích thước, màu sắc biển quảng cáo với 02 màu xanh, đỏ. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, vân động nên khi tổ chức triển khai vào thực tế, các hộ kinh doanh đã tuân thủ đúng kích thước, màu sắc, vị trí đặt biển hiệu .... do đó đã tạo nên diện mạo một tuyến phố sạch đẹp, gọn gàng, khoa học, thẩm mỹ. Đây được đánh giá là cách làm hiệu quả mà thành phố Hà Nội cần nhân rộng trong thực tế. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận, sau 2 năm triển khai, hệ thống biển hiệu trên phố Lê Trọng Tấn không còn đồng nhất 2 màu xanh, đỏ mà xen vào đó là các màu trắng, đen, vàng… Các cửa hàng thời trang, quán cà phê… đã lựa chọn dán đề can thay màu trên các biển hiệu đã lắp sẵn. Nhiều cửa hàng thiếu ý thức còn lắp thêm các loại bạt để tạo điểm nhấn khác biệt so với biển hiệu bên cạnh. Ngoài ra, chỉ riêng duy trì các tuyến phố điểm về quảng cáo cũng vô cùng khó khăn. Ngoài phố Lê Trọng Tấn với thuận lợi là tuyến phố mới nên được lựa chọn thí điểm xây dựng tuyến phố kiểu mẫu về quảng cáo, Hà Nội chủ trương xây dựng tuyến phố điểm quảng cáo, biển hiệu trên địa bàn mỗi quận, huyện; phường. Quận Cầu Giấy có tuyến phố Trần Đăng Ninh, Lê Văn Lương, Trần Duy Hưng, Trung Kính… là tuyến phố điểm về biển hiệu, bảng quảng cáo. Quận Thanh Xuân không chỉ có phố Lê Trọng Tấn mà 7 tuyến phố dọc sông Tô
  • 37. 31 Lịch cũng đã trở thành tuyến phố điểm quảng cáo, biển hiệu gần 2 năm nay. Các huyện, thị xã như Đan Phượng, Sơn Tây cũng có đến trên 10 tuyến phố điểm biển hiệu, quảng cáo ở mỗi địa bàn. Hiện tại, ở các quận, huyện vẫn đang nỗ lực duy trì trật tự của các tuyến phố điểm biển hiệu, biển quảng cáo. Một số phường như Trung Hòa (Cầu Giấy) không chỉ xây dựng một tuyến phố điểm mà còn đã mở rộng sang phố Lê Văn Lương và Trần Duy Hưng. Qua tìm hiểu, ông Bùi Minh Hoàng - Trưởng phòng Quản lý văn hóa (Sở VH&TT Hà Nội) cho biết: Hà Nội đang chủ trương nhân rộng các tuyến phố điểm biển hiệu, biển quảng cáo… để không chỉ mỗi địa bàn là 1 tuyến phố mà 2, 3 tuyến phố và thậm chí là nhiều hơn nữa. Bởi việc chuẩn chỉnh về kích thước biển, bảng đã giúp bộ mặt đô thị khang trang hơn. Cũng theo ông Bùi Minh Hoàng, theo phản ánh của báo chí về việc treo biển quảng cáo trên các thành cầu vượt trên địa bàn thành phố; ông cho rằng, hoạt động quảng cáo đó không phải tự phát mà là thí điểm của Hà Nội. “Sở VH&TT đã đề xuất với UBND thành phố, với Chính phủ xin thí điểm lắp biển quảng cáo bên ngoài thành cầu. Chúng tôi vẫn đang lắng nghe ý kiến của Nhân dân và các nhà quản lý để có đánh giá và biện pháp chung, có thể bổ sung hình thức quảng cáo này cho cả tuyến phố điểm” ông Hoàng nhấn mạnh. Ủng hộ những ý tưởng này, song thạc sĩ Nguyễn Phan Anh - Chuyên gia marketing online, giảng viên trường Đại học Thương mại nhấn mạnh, cần rút kinh nghiệm để ý tưởng không làm hạn chế sự sáng tạo của các thương hiệu và gây nhầm lẫn về thương hiệu. “Các thương hiệu có bản sắc riêng sẽ phải xem xét, nếu như thuê mặt bằng tại đây. Việc đồng nhất về màu sắc biển hiệu vô hình trung đã làm giảm giá trị mặt bằng cho thuê” - ông Phan Anh nói. Được biết, quận Thanh Xuân đã ký Quy định quản lý tạm thời tuyến đường Lê Trọng Tấn. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, quy định đã “nới” một số điều về biển hiệu. Hiện tại chỉ quản lý về cao độ nền biển hiệu chỉ cao từ 3 - 3,2m, điều này giúp biển hiệu đồng đều, thẳng hàng, ngăn nắp. Còn màu sắc, cho phép màu sắc theo logo đã đăng ký, yêu cầu không dùng màu sắc phản cảm và vật liệu có độ phản quang lớn hơn 70%. Hà Nội sẽ còn có nhiều biện pháp chấn chỉnh hoạt động quảng cáo, mở rộng các tuyến phố điểm để tạo dựng nét đẹp văn minh đô thị. Tuy nhiên, thành
  • 38. 32 công hay thất bại sẽ của mỗi con đường mỗi tuyến phố là sự cộng hưởng từ ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật của nhân dân. Theo PGS.TS Bùi Thị An, đại biểu Quốc hội Khóa XIII cho rằng: “Tôi đồng tình xây dựng các tuyến phố điểm, các tuyến phố kiểu mẫu về quảng cáo. Nhưng có lẽ chúng ta chỉ nên dừng ở việc quy định về kích thước biển hiệu, biển quảng cáo… không nên đưa ra quy định về kiểu dáng, màu sắc vì đây là đặc thù riêng cho mỗi thương hiệu. Lỗi của việc thực hiện sai chính là tầm nhìn của người tham mưu còn hạn chế, chưa dài hơi” Ngoài việc xây dựng các tuyến phố điểm về quảng cáo, thành phố Hà Nội còn hướng tới thực hiện tốt công tác quy hoạch quảng cáo ngoài trời với quyết tâm loại bỏ cơ chế “xin - cho”. Thành phố Hà Nội đã phê duyệt dự thảo triển khai quy hoạch quảng cáo ngoài trời đến năm 2020, định hướng đến năm 2050 nhằm quản lý hiệu quả bảng quảng cáo ngoài trời, thu ngân sách nhà nước, đồng thời loại bỏ cơ chế “xin - cho” trong việc cấp giấy phép quảng cáo. UBND thành phố Hà nội đã ban hành Quyết định 1997/QĐ-UBND về việc phê duyệt quy hoạch quảng cáo ngoài trời trên địa bàn thành phố đến năm 2020, định hướng đến năm 2050. Theo Dự thảo kế hoạch triển khai Quyết định trên, tổng số vị trí theo quy hoạch cũ là 525 vị trí. Trong đó sẽ có 130 vị trí hủy bỏ, 46 vị trí điều chỉnh, 40 vị trí bổ sung mới. Tổng số bảng quảng cáo sau điều chỉnh quy hoạch là 435 vị trí. Các bảng quảng cáo sẽ được thu hồi và tổ chức đấu thầu theo quy hoạch đảm bảo đúng quy định. Một bước tiến trong quản lý, tổ chức triển khai thực hiện pháp luật được thành phố đưa ra thực hiện đó là loại bỏ cơ chế “xin - cho” trong hoạt động cấp giấy phép quảng cáo. Trước đó, Thanh tra thành phố đã có kết luận về hoạt động này. Theo đó, từ năm 2012 đến năm 2017, Sở VH-TT tiếp nhận 824 lượt hồ sơ đề nghị cấp giấy phép thực hiện quảng cáo và thông báo sản phẩm quảng cáo. Qua kiểm tra xác suất 319 hồ sơ, có 221 trường hợp không có văn bản chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng bảng quảng cáo. Thanh tra Thành phố kiểm tra xác suất 12 hồ sơ cấp phép lần đầu, cho thấy: Có 3 trường hợp có hợp
  • 39. 33 đồng thuê đất nhưng hết hạn từ năm 2013, năm 2015, còn 9 trường hợp không có hợp đồng thuê đất với người có quyền sử dụng đất hợp pháp… Từ trước đến nay, các doanh nghiệp quảng cáo đều tự thuê, mua đất của người dân, tự xin cấp phép nên có những vị trí không đảm bảo mỹ quan, quy hoạch, trật tự đô thị. Bên cạnh đó, doanh nghiệp không thông báo doanh thu, kê khai nộp thuế cho các bảng quảng cáo trên. “Doanh nghiệp cho thuê quảng cáo trên cột bao nhiêu năm, không ai thu thuế, sau khi quy hoạch áp dụng sẽ giải quyết được vấn đề này” Theo một đại diện Sở Văn hóa Thể thao thành phố Hà Nội cho biết, Sở sẽ có văn bản trả lời các ý kiến, kiến nghị của doanh nghiệp quảng cáo, trong đó tập trung 4 vấn đề chính, trong đó nổi bật là vấn đề thu hồi, đấu thầu các bảng quảng cáo. Theo quy định tại Luật Quảng cáo 2012 và Nghị định 181 của Chính phủ có quy định mọi vị trí quảng cáo đều phải qua đấu thầu. Bản thân các doanh nghiệp quảng cáo cũng cơ bản nhất trí với phương án đấu thầu là phương án công khai, minh bạch nhất. Trong dự thảo kế hoạch cũng đã ghi rõ ưu tiên cho các đơn vị đang có ở trên vị trí đó. Hiện tại, cơ bản cần xác định sau khi thu hồi thì đấu thầu ra sao, ưu tiên như thế nào đảm bảo tính công khai, minh bạch. 1.4.2. Kinh nghiệm quốc tế - Kinh nghiệm của Singapore Thứ nhất, yêu cầu về giấy phép đối với biển quảng cáo thương mại ngoài trời ở Singapore: So với Singapore, pháp luật Việt Nam quy định phân biệt việc cấp phép hay không cấp phép đối với công trình quảng cáo thương mại ngoài trời dựa trên kích thước của bảng, biển quảng cáo đó, chứ không quy định loại trừ biển hiệu được trưng bày bởi các tổ chức tôn giáo, từ thiện… như Singapore. Ngoài ra, một hoặc một chuỗi các biển hiệu quảng cáo với tổng diện tích nếu nhiều hơn 5 mét vuông thì phải đăng ký giấy phép ở Singapore. Trong khi đó, ở Việt Nam thì bảng, biển quảng cáo thương mại ngoài trời có thể lớn hơn mà không cần xin giấy phép xây dựng như đã nêu trên. Thứ hai, về phân loại biển quảng cáo và biển hiệu thông thường: Pháp luật Singapore quy định rằng: nếu một tấm biển ngoài trời không bao gồm bất kì
  • 40. 34 biểu trưng, biểu tượng, ký hiệu, thông báo, đại diện hoặc thiết bị trực quan nào về thương hiệu hoặc nhãn hiệu nhằm quảng bá sản phẩm hoặc dịch vụ, thì không được xem là biển quảng cáo, mà thuật ngữ pháp lý gọi chung là “biển hiệu”. Do đó, thủ tục pháp lý liên quan đến biển hiệu thông thường sẽ có một số điểm khác với biển quảng cáo, nhất là lệ phí phải nộp cho cơ quan chức năng, quy định cấm những nơi được hiển thị. Điều đó có nghĩa, nếu một tấm biển ngoài trời không nhằm mục đích thương mại, không nhằm mục đích quảng bá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ để sinh lợi thì không được xem là quảng cáo; như vậy pháp luật Singapore chỉ ghi nhận quảng cáo nhằm mục đích thương mại. Điều này so với pháp luật Việt Nam thì có sự khác biệt: Một là, pháp luật Việt Nam ghi nhận hai loại hình quảng cáo với hai mục đích khác nhau bao gồm: quảng cáo thương mại và quảng cáo phi thương mại. Cụ thể, khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 định nghĩa: Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”. Hai là, Singapore có Hệ thống cấp phép quảng cáo ALS trực tuyến. Các chủ thể trước khi dựng một tấm biển ngoài trời thường phải nộp đơn xin tư vấn qua hệ thống trực tuyến ALS để được đánh giá chính xác loại biển của mình là biển hiệu thông thường hay biển quảng cáo, tránh những sai phạm trong việc thực hiện hoạt động quảng cáo thương mại ngoài trời. Đây là một điểm rất tiến bộ của hệ thống pháp luật Singapore, mà trong lộ trình dài khi hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam, chúng ta có thể xem xét, nghiên cứu để ứng dụng. Thứ ba, pháp luật Singapore có quy định chi tiết mô tả cụ thể từng loại biển, bảng quảng cáo và quy định cấm hiển thị đối với biển, bảng quảng cáo thương mại ngoài trời. So với Singapore, pháp luật Việt Nam không quy định rõ ràng trong Luật Quảng cáo như Singapore, mà chỉ điều chỉnh thông qua việc triển khai cụ thể các Đề án, phương án quy hoạch quảng cáo ngoài trời dựa trên