SlideShare a Scribd company logo
1 of 68
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvanpanda.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo
Khoá Luận, Luận Văn
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0932.091.562
NGÔ TUẤN DŨNG
HÀ NỘI - 2022
NGÔ
TUẤN
DŨNG
LUẬT
KINH
TẾ
2016
-
2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
NGÔ TUẤN DŨNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ
HÀ NỘI - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, công trình nghiên cứu này là của tôi, có sự hỗ trợ từ giảng viên
hướng dẫn TS. Nguyễn Trí Tuệ. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này
là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính
tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét,
đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình trước Nhà trường và
những quy định của pháp luật.
XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
TS. Nguyễn Trí Tuệ
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn
Ngô Tuấn Dũng
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của
bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy
cô giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Trí Tuệ với lòng
nhiệt tình và sự quan tâm đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua
để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, đặc biệt là thầy cô giáo và các
cán bộ của Khoa đào tạo sau Đại học của trường Đại học Mở Hà Nội đã giảng dạy và
giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và rèn luyện kiến thức tại trường.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn
Ngô Tuấn Dũng
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................................ii
MỤC LỤC ...........................................................................................................................iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.....................................................................v
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................6
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH....................................................................................................10
1.1. Khái quát về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh................10
1.2. Định nghĩa khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ..............................122
1.3. Đặc điểm của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh..........................133
1.4. Các dạng hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh......................17
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH.......................................................................24
2.1. Nguồn của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh...........................................24
2.2. Cơ chế điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh.......................................25
2.3. Nội dung các quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh ......................26
2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
.................................................................................................................................. 26
2.3.2. Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh..............27
2.3.3. Các chế tài để xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.28
2.3.4. Nguồn của pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh 30
2.3.5 Các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể có quy định chế tài đối với các
hành vi CTKLM (Luật sở hữu trí tuệ, Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng, Pháp lệnh giá,
Pháp lệnh quảng cáo…)................................................................................................... 31
2.4. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp
luật khác..............................................................................................................................31
iv
2.5. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của một số quốc gia trên thế giới ... 36
2.5.1. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Âu.....................................36
2.5.2. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ.......................................38
2.5.3. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Á.......................................41
2.5.4. Các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi..............................................................42
2.5.5. Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hành vi khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh..................................................................................43
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐỐI VỚI HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH....................................................................................................49
3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh............................................................................................................................49
3.2. Nguyên nhân của những bất cập của pháp luật Việt Nam về xử lý hành vi khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ..........................................................................53
3.3. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật về chống cạnh tranh không
lành mạnh............................................................................................................................57
KẾT LUẬN.........................................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................65
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 CTKLM Cạnh tranh không lành mạnh
2 NĐ-CP Nghị định Chính phủ
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đềtài
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển
khởi sắc và mạnh mẽ. Tuy nhiên, để có được sự phát triển như ngày nay thì đã có sự cạnh
tranh rất khốc liệt trên thị trường, đặc biệt là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Hiện
nay, cả nước ta có hàng trăm nghìn doanh nghiệp hoạt động trên khắp các lĩnh vực của
đời sống kinh tế xã hội. Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, là cơ sở khẳng định vị trí của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có thể mang lại những hậu quả xấu đối với
nền kinh tế, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng. Cạnh tranh làm thay đổi cấu trúc xã
hội trên phương diện sở hữu của cải, gây ra hiện tượng độc quyền, làm phân hóa mạnh
mẽ giàu nghèo; cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay
bất chấp pháp luật… Do vậy, hoạt động cạnh tranh từ đối đầu sang hợp tác cùng có lợi là
xu hướng tất yếu đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Khuyến mại là một trong
những hoạt động thương mại được nhiều doanh nghiệp áp dụng nhằm mục đích thu hút
khách hàng sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình. Mặc dù các hình thức khuyến mại đã
được quy định cụ thể trong Luật Thương mại và Luật Cạnh tranh nhưng vẫn gây không ít
khó khăn cho doanh nghiệp cũng như các nhà thực thi pháp luật. Khuyến mại như thế nào
là “lành mạnh” và khuyến mại như thế nào bị coi là “không lành mạnh” lại chưa có cách
hiểu thống nhất chung giữa các văn bản luật... Vì lý do ở trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài
“hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam
hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật tại khoa Luật kinh tế, Trường Đại
học mở Hà Nội.
2. Tìnhhìnhnghiêncứu đề tài
Pháp luật về cạnh tranh nói chung và CTKLM nói riêng là lĩnh vực pháp luật đang
còn mới mẻ ở nước ta cả về mặt pháp luật thực định và trong khoa học pháp lý. Trong khi
đó pháp luật về cạnh tranh trong quan hệ kinh doanh, thương mại quốc tế đã có lịch sử
hình thành từ lâu đời, do đó việc chúng ta trở thành thành viên của tổ chức Thương mại
7
thế giới - WTO đã đặt ra nhiệm vụ mới là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật về cạnh tranh nói riêng.
Việc nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh nói chung và hành vi khuyến mại nhằm
CTKLM là yêu cầu cấp thiết của chúng ta khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.Tuy
nhiên, trong thời gian vừa qua các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn có rất ít các
công trình nghiên cứu về pháp luật về vấn đề này, đặc biệt là chưa nêu ra được các bất
cập trong những quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về hành vi khuyến mại nhằm
CTKLM.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh và hành vi
khuyến mại nhằm CTKLM; nghiên cứu đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp
luật trên về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về pháp luật về khuyến mại nhằm CTKLM là vấn đề
cần được quan tâm và hoàn thiện, để tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh
nhưng không mất tính linh hoạt, lợi ích thu được từ hoạt động xúc tiến thương mại phổ
biến là khuyến mại này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích và làm rõ một số khái niệm như: Khái niệm về cạnh tranh, khái niệm
về khuyến mại nhằm CTKLM, định nghĩa khuyến mại nhằm CTKLM và các quy định
của pháp luật Việt Nam về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM.
- Phân tích cơ sở lý luận về cạnh tranh, đồng thời phân tích các đặc điểm của hành
vi khuyến mại nhằm CTKLM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về
khuyến mại nhằm CTKLM nêu lên những bất cập, tồn tại, hạn chế trong quy định của
pháp luật cạnh tranh và một số các văn bản pháp luật liên quan cũng như thực tế áp dụng
pháp luật cạnh tranh về khuyến mại ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, nêu lên những kiến
8
nghị, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về khuyến mại nhằm
CTKLM.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về
khuyến mại, để từ đó nghiên cứu, để từ đó nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp
luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại. Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu các vụ việc
điển hình trong thực trạng pháp luật cạnh tranh về khuyến mại để từ đó tìm ra những
điểm còn hạn chế trong quy định của pháp luật về khuyến mại nhằm CTKLM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: trong phạm vi là một luận văn Thạc sĩ Luật đề tài tập trung nghiên
cứu những vấn đề chung mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến hành vi khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Về thời gian: từ năm 2004 - 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính
sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh và tổng
kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thựctiễncủaluậnvăn.
- Góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về pháp luật cạnh tranh và
pháp luật cạnh tranh về khuyến mại thông qua việc đánh giá những bất cập, hạn chế được
rút từ thực tiễn phân tích, đánh giá hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành, thực
9
trạng khuyến mại nhằm CTKLM của doanh nghiệp. Từ đó đề ra những giải pháp kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan.
- Sau khi hoàn thành, luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các cơ quan,
cấp, ngành trong việc nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
về cạnh tranh không lành mạnh và đánh giá chính xác được thực trạng, khó khăn, bất cập
trong các chế tài xử lý hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong pháp luật Việt Nam.
Luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên quan tâm
đến vấn đề pháp luật cạnh tranh về khuyến mãi nhằm CTKLM. Luận văn sẽ góp phần
đánh giá thực trạng khuyến mại nhằm CTKLM của các chủ thể kinh doanh, của các
doanh nghiệp ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn chỉnh pháp luật về khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, giải quyết tranh chấp và xử lý các hành vi vi
phạm về vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤNĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1. Khái quát về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM
Mặc dù còn nhiều quan niệm, cách diễn đạt khác nhau về cạnh tranh, song điểm
chung của các quan niệm về cạnh tranh là:
Có ít nhất từ hai chủ thể trở lên;
Các chủ thể này có chung mục đích;
Các chủ thể đó cùng cố gắng giành và vượt lên các đối thủ cạnh tranh.
Được diễn ra trong môi trường pháp lý bình đẳng cho mọi chủ thể kinh doanh, nếu
không có môi trường pháp lý đó, cạnh tranh có thể đưa đến những hậu quả tiêu cực về xã
hội.
Kết quả của quá trình cạnh tranh là nếu doanh nghiệp nào đáp ứng được yêu cầu
trên thị trường sẽ tồn tại và phát triển, nếu doanh nghiệp nào không đáp ứng được yêu
cầu đó sẽ bị loại ra khỏi thị trường và để không bị loại “ra khỏi cuộc chơi”, các đối thủ
cạnh tranh buộc phải tìm mọi cách, kể cả những biện pháp không lành mạnh, không phù
hợp với đạo đức kinh doanh, đạo đức của thị trường để dành phần thắng về phía mình.
Hành vi CTKLM có thể hiểu là những hành vi cạnh tranh của các chủ thể tham gia
thị trường vi phạm những chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường, có thể gây thiệt
hại về vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng.
Quan điểm khác lại cho rằng, CTKLM là những hành vi cạnh tranh đi ngược lại
các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm đến lợi ích của
chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
CTKLM là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục đích cạnh tranh của các chủ
thể kinh doanh luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ không chỉ là bất hợp pháp) mà
mục đích của nó là gây cho một hay một số đối thủ cạnh tranh cụ thể sự bất lợi hay gây
thiệt hại trong hoạt động kinh doanh.
11
Dưới góc độ pháp lý, hành vi CTKLM là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh,
gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Nhìn chung, cách tiếp cận hành vi
CTKLM theo quy định của pháp luật Việt Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Pari
năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như pháp luật một số nước. Bản
chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là mọi hành vi trái với các
chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Theo lý thuyết được thừa
nhận rộng rãi ở các nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi CTKLM là hành vi vi
phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của CTKLM giống như các yếu tố cấu thành
trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi CTKLM, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi CTKLM và thiệt hại.
Như vậy, khi đề cập đến hành vi CTKLM người ta thường nhấn mạnh đến tính
“không lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là những hành vi cạnh tranh không đẹp,
không phù hợp với đạo đức kinh doanh mà hệ quả của những hành vi này có thể sẽ dẫn
đến gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng làm thay đổi tương quan cạnh tranh
trên thị trường. Nhiệm vụ của Nhà nước là phải kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý
kịp thời hành vi CTKLM trên thị trường.
Từ những phân tích trên, bản chất của hành vi CTKLM được thể hiện qua những
dấu hiệu sau:
Đây là hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trong cùng một lĩnh vực
nhất định như ngân hàng, bảo hiểm, may mặc, da giầy...
Hành vi này phải nhằm tới những đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định được trên
cùng một phân khúc thị trường;
Trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh hoặc trái với pháp luật;
12
Có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, Nhà nước hoặc các
lợi ích xã hội khác.
1.2. Định nghĩa khuyến mại nhằm CTKLM
Theo từ điển Cornu của Pháp thì cạnh tranh được hiểu là: "Chạy đua kinh tế; hành
vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau, cung ứng hàng hóa,
dịch vụ, nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện
qua việc lôi kéo được hoặc để mất đi một lượng khách hàng thường xuyên”. Như vậy
chúng ta thấy được cạnh tranh bao gồm các yếu tố như khách hàng, các bên tham gia
cạnh tranh, thị trường liên quan, môi trường kinh doanh.
Trong Luật Cạnh tranh 2004 cũng không quy định về thế nào là CTKLM mà chỉ
quy định về hành vi CTKLM tại khoản 3 Điều 4 như sau:"Hành vi CTKLM là hành vi
cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
Hành vi CTKLM được biểu hiện trong nhiều hoạt động khác nhau của doanh
nghiệp trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các hành vi CTKLM
được quy định rõ tại Điều 39 Luật cạnh tranh năm 2004, bao gồm : "Chỉ dẫn gây nhầm
lẫn; Xâm phạm bí mật kinh doanh; Ép buộc trong kinh doanh; Gièm pha doanh nghiệp
khác; Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; Quảng cáo nhằm cạnh
tranh khônglànhmạnh; Khuyến mại nhằm CTKLM; Phân biệt đối xử của hiệp hội; Bán
hành đa cấp bất chính; Cáchành vi CTKLM kháctheo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều
3 của Luật này do Chính phủ quy định”. Như vậy, theo quy định trên thì có quy định rõ
về việc khuyến mại nhằm CTKLM.
Khuyến mại, dưới góc độ pháp lý được hiểu là hành vi thương mại của thương
nhân nhằm xúc tiến bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương
nhân bằng cách dành những lợi ích nhất định cho khách hàng. Luật Thương mại năm
2005 quy định tại khoản 1 Điều 88: "Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của
13
thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành
cho khách hàng những lợi ích nhất định”.
Từ những nhận thức chung về cạnh tranh, hành vi CTKLM và hoạt động khuyến
mại, ta thấy rõ được các hành vi CTKLM trong hoạt động khuyến mại là những hành vi
thông qua hoạt động khuyến mại của thương nhân nhưng nhằm gây ra những bất lợi cho
đối thủ cạnh tranh của mình nhằm thu về cho mình những lợi ích nhất định.
1.3. Đặc điểm của khuyến mại nhằm CTKLM
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh quy định “hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
hành vi của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với với các chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Theo quy
định nói trên trên, các hành vi CTKLM có những đặc điểm cơ bản như sau:
Hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh
Đặc điểm này thể hiện quy định về đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh. Theo
đó, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh chỉ bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam, các hiệp hội ngành nghề. Những đối tượng còn lại như các đơn vị sự nghiệp,
các tổ chức của người tiêu dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế…
không là đối tượng áp dụng các quy định của pháp luật về CTKLM. Đôi khi, thực tế phát
sinh những tình huống một số tổ chức phi kinh tế, các đơn vị truyền thông… thực hiện
những hành vi xâm phạm đến quyền CTKLM của doanh nghiệp, ví dụ tung tin không
trung thực về doanh nghiệp, về hàng hóa, dịch vụ…. Với việc giới hạn chủ thể thực hiện
hành vi, pháp luật cạnh tranh không áp dụng để xử lý những tình huống trên. Mặt khác,
đặc điểm này cũng khẳng định hành vi CTKLM xảy ra trong kinh doanh ở mọi ngành,
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh. Pháp luật về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh được áp dụng cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực
kinh tế. Nói cách khác, pháp luật không giới hạn áp dụng cho bất kỳ ngành nghề, lĩnh vực
hoặc hoạt động kinh doanh nào của kinh tế quốc dân.
14
Hành vi cạnh tranh trái với với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh
Đặc điểm này là căn cứ lý luận để xác định bản chất không lành mạnh của hành vi.
Tuy nhiên, “trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh” là thuật ngữ trừu
tượng cả về pháp lý lẫn lý thuyết. Không có những căn cứ pháp lý hoặc cấu thành pháp lý
cụ thể để xác định đặc điểm này. Thế nên, Cơ quan có thẩm quyền không thể sử dụng
khái niệm hành vi không lành mạnh để quy kết một hành vi cụ thể của doanh nghiệp là
không lành mạnh. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật cạnh tranh đã tập trung giải
quyết hai nội dung sau:
Một là, vì các phương pháp cạnh tranh rất đa dạng, bao gồm thủ đoạn gây nhầm lẫn,
gian dối, gièm pha, bóc lột, gây rối nên Luật Cạnh tranh đã liệt kê các hành vi cạnh tranh
bị coi là không lành mạnh và quy định cấu thành pháp lý của chúng. Pháp luật cạnh tranh
của hầu hết các nước như Cộng hoà liên bang Đức, Nhật bản… đều có cách tiếp cận
tương tự, tức là ngoài việc đưa ra khái niệm về hành vi CTKLM (Điều 1 Luật chống cạnh
tranh không lành mạnh Cộng hòa Liên bang Đức quy định: “người nào trong quan hệ
thương mại mà có những hành vi nhằm mục đích cạnh tranh, song những hành vi này
chống lại truyền thống kinh doanh lành mạnh thì buộc phải chấm dứt hành vi đó và bồi
thường thiệt hại”) còn liệt kê và mô tả từng hành vi bị coi là không lành mạnh trong cạnh
tranh. Khái niệm hành vi CTKLM được quy định trong Luật cạnh tranh Việt nam và của
các nước chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế, việc áp dụng sẽ căn cứ vào các
quy định về từng hành vi vi phạm cụ thể như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật
kinh doanh, dèm pha doanh nghiệp khác….
Hai là, các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh được xác định dựa vào
hai căn cứ sau đây:
Căn cứ luật định là những tiêu chuẩn đã được định lượng hoá bằng pháp luật, một
khi hành vi đi trái với các quy định pháp luật sẽ được xem là không lành mạnh. Trong
trường hợp này, hành vi CTKLM đồng nghĩa với hành vi cạnh tranh bất hợp pháp. Theo
đó, hành vi CTKLM có thể là hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm điều cấm
của pháp luật (bao gồm các quy định cấm của Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật
khác như pháp luật thương mại, pháp luật về quản lý giá, pháp luật về sở hữu trí tuệ…)
15
hoặc là hành vi vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh được pháp luật quy định như pháp luật
khuyến mại quy định giới hạn của giá trị khuyến mại như sau: “mức giảm giá tối đa đối
với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ
đó ngay trước thời gian khuyến mại” (Điều 6 Nghị định số: 37/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.).
Các tập quán kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng rãi được áp dụng
đối với những hành vi chưa được pháp luật dự liệu là CTKLM. Nói cách khác, căn cứ
này là biện pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về
một hành vi cụ thể nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh
tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng
và trái với tập quán kinh doanh. Căn cứ này đã mở rộng khả năng điều chỉnh và khắc
phục được tình trạng chóng lạc hậu của pháp luật cạnh tranh. Cho đến nay, Luật cạnh
tranh chưa quy định những tập quán kinh doanh nào được coi là các chuẩn mực đạo đức
thông thường.
Tính trái chuẩn mực đạo đức thông thường trong kinh doanh của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải luôn được chỉnh lý, bổ sung cho phù
hợp với thực tiễn. Nhận thức về các dấu hiệu, biểu hiện không lành mạnh cụ thể luôn
thay đổi và có sự khác biệt theo từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể như sau:
Quan niệm về tính không lành mạnh là kết quả của những ý niệm liên quan đến xã
hội học, kinh tế học, đạo đức học của một xã hội nhất định nên có thể dẫn đến hiện tượng
là hành vi cạnh tranh bị coi là CTKLM ở nước này, nhưng được coi là lành mạnh ở nước
khác.
Trong đời sống thị trường, những hành vi cạnh tranh luôn được sáng tạo không
ngừng về hình thức thể hiện và phương thức cạnh tranh, làm xuất hiện những thủ đoạn
cạnh tranh không lành mạnh mới muôn mầu, muôn vẻ và phát triển không ngừng. Vì vậy,
phạm vi của khái niệm CTKLM cũng phải luôn được bổ sung bởi sự nhận thức của con
người về bản chất không lành mạnh của những hành vi mới phát sinh.
Hiện nay, pháp luật cạnh tranh của các nước, các học thuyết liên quan đến cạnh
tranh chưa đưa ra được những tiêu chuẩn chung về tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh
16
mà chỉ mới dựa vào việc phân tích các hậu quả của hành vi cạnh tranh đối với đời sống
kinh tế, xã hội để xác định sự lành mạnh và mức độ biểu hiện của các hành vi đó. Theo
sự thay đổi và phát triển của thị trường, nhận thức về mức độ ảnh hưởng của từng hành vi
trên thị trường cũng thay đổi. Có những thời điểm nhất định, hành vi nào đó có thể sẽ là
nguy hiểm cho xã hội, nhưng ở thời điểm khác lại không có điều kiện để gây hại cho đối
thủ hoặc cho người tiêu dùng. Sự thay đổi đó đã làm cho phạm vi của khái niệm CTKLM
luôn biến đổi.
Hành vi gây thiệthại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp
khác và người tiêu dùng
Hành vi CTKLM có đối tượng xâm hại cụ thể là lợi ích của Nhà nước, của các
doanh nghiệp khác và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là
hiện thực (đã xảy ra) nhưng cũng có thể chỉ là tiềm năng (có căn cứ để xác định rằng hậu
quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi). Do đó, một số hành vi CTKLM
có cấu thành vật chất (thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc) như dèm pha doanh nghiệp khác;
một số hành vi có cấu thành hình thức (thiệt hại không là dấu hiệu bắt buộc mà có thể chỉ
là sự suy đoán nếu hành vi tiếp tục được thực hiện), ví dụ hành vi quảng cáo không trung
thực….
Đặc điểm về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dưới góc độ lý thuyết
hành vi CTKLM và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi hạn chế cạnh tranh là những xử
sự của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp làm thay đổi một cách tiêu cực tình trạng
cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh đối với thị trường. Hành vi hạn chế
cạnh tranh có thể gây thiệt hại cho một, một số đối tượng cụ thể, song nghiêm trọng hơn
là làm cản trở, làm suy giảm hoặc sai lệch cạnh tranh. Trong khi đó, hành vi CTKLM chỉ
gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm
hại đến trật tự quản lý cạnh tranh của nhà nước mà không cản trở, sai lệch hay làm giảm
tình trạng cạnh tranh của thị trường. Vì vậy, cách thức và mức độ xử lý đối với hai loại
hành vi này khác nhau. Dưới góc độ lịch sử phát triển, những đặc điểm về hậu quả của
hành vi CTKLM thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức của con người về tính
nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Ở
17
thời kỳ đầu tiên, pháp luật cạnh tranh chỉ nhằm chống lại các biểu hiện không lành mạnh
xâm phạm lợi ích của đối thủ cạnh tranh theo quan niệm cạnh tranh phải là sự đối đầu
giữa các đối thủ trên thị trường, vì vậy những hành vi xâm hại lợi ích người tiêu dùng
không nằm trong khái niệm CTKLM. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
những hành vi không lành mạnh được thực hiện với khách hàng (người tiêu dùng), tưởng
chừng như không liên quan đến các đối thủ cạnh tranh nhưng thực tế cũng làm tổn hại và
thậm chí phá vỡ trật tự và hệ thống cạnh tranh hiện hành (Viện nghiên cứu Nhà nước và
Pháp luật, sđd, tr258.). Do đó, quan niệm về hành vi CTKLM đã làm cho pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh mở rộng phạm vi sang cả những hành vi xâm hại lợi ích của
khách hàng, của người tiêu dùng.
Hơn 20 năm phát triển thị trường của Việt Nam cho thấy CTKLM đang diễn ra
trong tất cả các ngành kinh tế. Ngoài khu vực độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước,
ở các khu vực khác của thị trường Việt nam đã có sự tồn tại của cạnh tranh ở những mức
độ nhất định. Trong bối cảnh thực hiện nền kinh tế thị trường, ở đâu có cạnh tranh, ở đó
có CTKLM. Các biểu hiện CTKLM cũng diễn ra trên các thị trường hoá mỹ phẩm, nước
giải khát và trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mại, mua bán…. Các hành vi CTKLM rất
đa dạng và luôn thay đổi về hình thức thực hiện. Ví dụ trong lĩnh vực quảng cáo, có thể
nghi ngờ tính trung thực của thông tin được cung cấp (về khả năng tăng cường trí thông
minh của các loại thuốc dinh dưỡng, về tác động của các sản phẩm sữa cho trẻ em…), về
sự so sánh của các doanh nghiệp kinh doanh hóa mỹ phẩm.
1.4. Các dạng hành vi khuyến mại nhằm CTKLM
Luật cạnh tranh quy định cấm bốn dạng hành vi khuyến mại nhằm CTKLM khác
nhau:
Thứ nhất, tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng.
Các doanh nghiệp tổ chức hoạt động khuyến mại nhằm thu hút khách hàng, thông
qua việc giành cho khách hàng những giải thưởng, từ đó nhằm thu hút khách hàng chú ý
đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Cách thức khuyến mại thông qua việc dành cho
khách hàng những giải thưởng được đưa ra dựa trên việc khách hàng có trên tâm lý mong
muốn có được giải thưởng. Doanh nghiệp dựa trên tâm lý ham muốn giải thưởng của
18
khách hàng khi tham gia mua hàng hay sử dụng dịch vụ mà đưa ra những chương trình
khuyến mại với giải thưởng rất lớn, rất hấp dẫn. Tuy nhiên, thực tế khách hàng không có
cơ hội nhận được những phần thưởng dùng để khuyến mại hoặc những phần thưởng đó
không đúng như chương trình khuyến mại đã đề ra. Như vậy, trong các chương trình
khuyến mại này đã có sự gian dối về giải thưởng.
Có nhiều hành vi gian dối khác nhau về phần thưởng đã được các doanh nghiệp
thực hiện trong hoạt động khuyến mại. Trong vụ gian dối về giải thưởng của Công ty
điện tử LG Việt Nam diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006 thì việc gian dối
về giải thưởng thực hiện kín đáo, rất khó phát hiện. Giải thưởng được đưa ra bao gồm
chiếc xe Toyota trị giá gần 30.000 đô la Mỹ (giải nhất), xe tải Huyndai 1,5 tấn (giải nhì),
xe máy Honda Dylan (giải ba). Chương trình bốc thăm giải thưởng đang được diễn ra thì
có một khách hàng tuyên bố lá phiếu 233 mà anh ta đang giữ cuống vé không có trong
thùng phiếu. Ban tổ chức để khách hàng đó kiểm tra thùng. Quả nhiên trong thùng không
có lá phiếu số 233. Và tất cả các tờ phiếu từ số 200 trở lên do một số người khác nắm giữ
đều không có trong thùng.
Khuyến mại gian dối về giải thưởng còn thể hiện thông qua trường hợp đưa ra giá
trị giải thưởng khuyến mại rất lớn nhưng thực hiện việc trao giải thưởng thì rất nhỏ. Điển
hình như chương trình khuyến mại của một công ty bia "bật nắp chai trúng thưởng” diễn
ra cách đây không lâu. Trong chương trình này, cơ cấu giải thưởng gồm 200.000 giải
thưởng, trong đó có 6 xe ôtô hiệu BMW, không ai có thể chắc chắn rằng có đủ 200.000
giải thưởng với 6 nắp chai in hình xe BMW trong số sản phẩm được bán trong đợt
khuyến mại. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ
Thương mại), trong tổng số 215 tỉ đồng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà
các thương nhân đăng ký thì tổng số giá trị giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng,
tương đương 3% tổng số tiền đã đăng ký cho chương trình khuyến mại. Như vậy, giá trị
thật mà các doanh nghiệp trao cho khách hàng nhỏ hơn rất nhiều những con số được nêu
ra trong chương trình khuyến mại. Khách hàng cũng không nhận được nhiều những phần
thưởng có giá trị từ các chương trình khuyến mại gian dối trên.
19
Khuyến mại gian dối về phần thưởng còn thể hiện thông qua việc cho khách hàng
được nhận phần thưởng nhưng phải kèm điều kiện mua kèm theo các hàng hóa khác của
doanh nghiệp. Trong bài báo "Đánh lừa người tiêu dùng bằng các chiêu khuyến mại”
đăng trên trang web báo Lao động ngày 23/12/2010 đã đưa ra một trường hợp khuyến
mại gian dối của siêu thị Vinaconex (Quang Trung – Hà Đông – Hà Nội). Một khách
hàng mua sản phẩm tại siêu thị Vinaconex thì nhận được phiếu cào trong chương trình
khuyến mại "Mừng giáng sinh – Chào năm mới”. Sau khi cào, khách hàng này trúng giải
nhất với trị giá 500.000 đồng. Tuy nhiên, khi đến lĩnh thưởng thì điều kiện lĩnh thưởng
là: "Phiếu chỉ có giá trị lĩnh thưởng khi khách hàng mang theo phiếu này và mua 01 chiếc
áo Complet hoặc 01 bộ quần áo Complet tại cửa hàng”. Khách hàng này vui mừng đi
xem quần áo Comple để mua thì thất vọng khi nhận ra rằng các sản phẩm này có giá từ
880.000 đồng đến 3.200.000 đồng/bộ nhưng chất lượng tồi đến mức "có cho không cũng
không nhận”.
Như vậy, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thường xuyên tổ
chức hoạt động khuyến mại. Hình thức khuyến mại thông qua việc trao tặng các giải
thưởng cho khách hàng là hình thức thu hút được nhiều khách hàng đến với doanh
nghiệp. Vấn đề đặt ra là, các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện chương trình khuyến
mại, có thể gian dối trong việc trao giải thưởng cho khách hàng. Một trong các nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng khuyến mại gian dối xuất phát từ sự quản lý chưa chặt chẽ của
các cơ quan chức năng hoặc do các doanh nghiệp thiếu đạo đức trong kinh doanh, vì hám
lợi trước mắt mà quên nguồn lợi lâu dài từ khách hàng.
Thứ hai, khuyếnmại không trung thực gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa
dối khách hàng
Khuyến mại không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại không đúng về
hàng hóa, dịch vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin khuyến mại sai lệch mà
mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ đó. Việc khuyến mại không trung thực này tác động
đến tâm lý "hám lợi” của người tiêu dùng, hay khách hàng mà khiến họ tiêu thụ nhiều
hơn hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Đồng thời, việc khuyến mại sai lệch này cũng
làm tác động xấu đến đối thủ cạnh tranh, làm giảm mức tiêu thụ hàng hóa của đối thủ
20
cạnh tranh. Điều này là do việc xuất hiện tâm lý so sánh các sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại với sản phẩm, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
Bên cạnh đó, thông tin khuyến mại sai lệch còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
của khách hàng nếu như họ không nắm bắt được thực chất của thông tin đưa ra khuyến
mại.
Với phương thức khuyến mại không trung thực về giá của hàng hóa sản phẩm, dịch
vụ còn có một dạng hành vi phổ biến khác nữa là nâng giá hàng hóa, dịch vụ lên thật cao
rồi đưa ra chiêu thức khuyến mại giảm giá với các biển hiệu quảng cáo rất ăn khách như
"giảm giá 50 – 70%” hay "Đại hạ giá”… Khách hàng những tưởng mua được hàng hóa
với giá rẻ, nhưng thực tế lại bị "móc túi” một cách trắng trợn mà không hề hay biết. Với
chiêu thức rất đơn giản và phổ biến, các doanh nghiệp tham gia chương trình khuyến mãi
tự động tăng giá bán lên 10 – 15% trước thời điểm diễn ra tháng khuyến mại, để đến khi
vào chương trình khuyến mại thì lại "giảm giá”. Như vậy, doanh nghiệp vẫn đảm bảo
được giá bán sản phẩm của mình, người tiêu dùng thì lầm tưởng nhận được khuyến mại
từ người bán. Một điểm đáng lưu ý, các doanh nghiệp sử dụng thủ đoạn gian dối này vừa
"hợp pháp”, tức là không vi phạm các quy định về tổ chức khuyến mại, lại vừa "qua mặt”
được khách hàng. Vậy nên, cần có những biện pháp quản lý giá hàng hóa một cách hữu
hiệu để đảm bảo quyền lợi của khách hàng và vạch trần được thủ đoạn gian dối của các
doanh nghiệp trong các chương trình khuyến mại.
Một thủ đoạn gian dối khác trong hoạt động khuyến mại cũng thường xuyên được
sử dụng là các doanh nghiệp liên tục đưa ra những chương trình "siêu khuyến mại”,
"giảm giá từ 50 – 70%” nhưng đi kèm với việc giảm giá này là chất lượng hàng hóa, dịch
vụ rất thấp. Ngoài ra, khuyến mại không trung thực còn thể hiện thông qua việc gian dối
trong việc thực thi cam kết khuyến mại từ phía doanh nghiệp đối với khách hàng.
Tình trạng khuyến mại không trung thực, gây nhầm lẫn đối với khách hàng về hàng
hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng đang xảy ra rất đa dạng và rất khó phát hiện. Các
doanh nghiệp luôn nghĩ ra nhiều cách thức khác nhau để khách hàng "mắc bẫy”, và đạt
được mục đích bán hàng, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Trong quy định của Luật
Vạnh tranh thì cấm những hành vi này, vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng và
21
đối thủ cạnh tranh. Trên thực tế, những hành vi khuyến mại gian dối gây ảnh hưởng đến
lợi ích của cả người tiêu dùng và các doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng vẫn diễn ra
phổ biến. Hành vi này đã thể hiện rõ bản chất lừa dối khách hàng thông qua hoạt động
khuyến mại và cũng tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thông qua con đường
"không lành mạnh”.
Thứ ba, phân biệt đối xử với khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến
mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại.
Nhà làm luật đã quy định hành vi này thuộc hành vi cấm trong Luật Cạnh tranh.
Hành vi này được hiểu là trong một chương trình khuyến mại chung, các thương nhân
đưa ra chương trình khuyến mại nhưng lại không khách quan, công bằng, phân biệt đối
xử đối với các khách hàng như nhau trong các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau.
Luật quy định rất chung chung như trên gây ra cách hiểu không chính xác về điều luật. Ở
đây, cần phải làm rõ khái niệm "phân biệt đối xử”, "các khách hàng như nhau”. Hành vi
phân biệt đối xử tức là hành vi của thương nhân ưu ái khách hàng này hơn khách hàng
kia, dành cho họ lợi ích nhiều hơn khách hàng kia mà thực tế thì phải dành cho họ những
lợi ích như nhau. Các khách hàng như nhau thì cần được hiểu tiêu chí nào là như nhau.
Cần một cách hiểu rõ ràng hơn đối với quy định này của Luật Cạnh tranh. Trên thực tế đã
xảy ra nhiều trường hợp, các doanh nghiệp đã cố tình "phân loại khách hàng” để cho
hưởng khuyến mại. Điển hình như: Chương trình khuyến mại của mạng di động
Vinaphone thực hiện từ ngày 15/5 đến 17/5/2010, khuyến mại thêm 100% số tiền nạp thẻ
cho các thuê bao của mạng. Tuy chương trình khuyến mại thực hiện trong 03 ngày như
trên nhưng không phải khách hàng nào cũng nhận được tiền khuyến mại. Chỉ những
khách hàng nhận được tin nhắn thông báo về việc khuyến mại thì mới được hưởng
khuyến mại. Tuy nhiên, một điều băn khoăn được đưa ra đó là Vinaphone dựa vào tiêu
chí nào để phân loại cho các thuê bao mạng di động được hưởng khuyến mại và tổng số
thuê bao được hưởng khuyến mại là bao nhiêu. Câu trả lời không rõ ràng từ phía lãnh đạo
của Vinaphone, đó là tiêu chí phân loại có thể thay đổi, có khi là ưu đãi cho khách hàng
trung thành, các thuê bao trả trước đã sử dụng nhiều năm, có khi là những người vừa hòa
22
mạng, cước phí phát sinh chưa nhiều. Rõ ràng là đã có sự phân biệt đối xử đối với khách
hàng trong chương trình khuyến mại của Vinaphone.
Tuy đây là một hình thức được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng trên thực
tiễn thì trường hợp phân biệt đối xử này thường ít diễn ra bởi điều kiện khách quan của
nền kinh tế đất nước và mong muốn chủ quan của các doanh nghiệp là cần có thêm nhiều
khách hàng và mở rộng thị trường của mình. Những trường hợp phân biệt đối xử trong
khuyến mại chủ yếu là hành vi xuất phát từ phía chủ quan của thương nhân muốn dành
những ưu đãi của mình cho những khách hàng lâu dài và tin cậy của họ.
Thứ tư, tặng hànghóacho khách hàngdùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi
hàng hóa cùngloạido doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để
dùng hàng hóa của mình
Một trong những phương pháp để khách hàng nhanh chóng biết đến hàng hóa, dịch
vụ của doanh nghiệp là việc cho khách hàng dùng thử hàng hóa, dịch vụ. Tặng hàng hóa
cho khách hàng dùng thử sẽ tạo cơ hội cho khách hàng biết về sản phẩm, cảm nhận được
giá trị của sản phẩm, từ đó có thể sẽ tích cực tham gia sử dụng sản phẩm của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp
khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình là một hành vi
CTKLM. Hành vi này của doanh nghiệp xét ở góc độ sâu xa, đó là hành vi nhằm làm
thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng, từ đó để khách hàng sử dụng sản phẩm của
mình nhiều hơn. Kết quả là làm giảm thị phần của đối thủ cạnh tranh, tạo lợi thế cạnh
tranh cho doanh nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại. Bên cạnh đó, hành vi này
phần nào tác động đến quyền tự do lựa chọn sử dụng sản phẩm của khách hàng. Việc
pháp luật cấm các doanh nghiệp thực hiện hành vi này là hoàn toàn xác đáng, bởi lẽ khi
thực hiện khuyến mại như trên đã tạo ra những hành động xấu tác động trực tiếp đối thủ
của mình.
Ví dụ điển hình cho hoạt động CTKLM này, đó là việc mạng di động Viettel đã tố
giác mạng di động MobiFone về hành vi CTKLM. Trong đơn tố giác ngày 17/6/2009,
mạng di động Viettel đã nêu rõ hành vi khuyến mại nhằm CTKLM của mạng MobiFone
tại địa bàn tỉnh Hải Dương. Tại đây, MobiFone đã bán hàng lưu động với chương trình
23
"Đổi sim mạng khác lấy sim MobiFone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Theo đó,
khách hàng có sim của mạng khác (trong đó có Viettel), còn tài khoản dưới 15.000 đồng
và còn hạn sử dụng, có thể đổi miễn phí lấy 1sim MobiZone của MobiFone có sẵn trong
tài khoản 50.000 đồng, mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng, tặng trong 12 tháng. Như vậy,
có thể thấy đây là hành vi khuyến mại trực tiếp gây ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh của
MobiFone. Hãng này thu hút khách hàng của mạng di động khác chuyển sang sử dụng
dịch vụ của mình bằng việc khuyến mại không lành mạnh. Việc làm này đã vi phạm
nghiêm trọng về pháp Luật Chống CTKLM.
Loại hình khuyến mại này cũng đã không ít lần được các doanh nghiệp sử dụng
trong quá trình xúc tiến thương mại của mình. Đây là loại hình khi thương nhân sử dụng
sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của đối thủ, thay đổi thói quen người tiêu dùng,
gây ra việc CTKLM. Tuy vậy, loại hình này được thương nhân sử dụng cũng xuất phát từ
nguyên nhân thiếu hiểu biết về pháp luật cạnh tranh mà thương nhân vô tình vi phạm
pháp luật. Nhiều thương nhân chỉ cho rằng đây là hành vi khuyến mại thông thường, cạnh
tranh một cách lành mạnh, do vậy đã dẫn đến việc vi phạm pháp luật. Cần có sự tuyên
truyền sâu rộng pháp luật cạnh tranh và hành vi CTKLM này để thương nhân và người
tiêu dùng hiểu rõ, tránh những vi phạm pháp luật không đáng có xảy ra.
Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008, quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại và Nghị định số 112/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 về
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/01/2008 của
Chính phủ, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại đã có
những quy định rất cụ thể về việc xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động thương mại.
Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật quy định cấm, được thể hiện chi tiết tại
Điều 29 Nghị định 06/2008/NĐ-CP.
24
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
2.1. Nguồn của pháp luật về CTKLM
Pháp luật về CTKLM ra đời sớm hơn pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Các quy
định chống hành vi hạn chế cạnh tranh chỉ ra đời khi thị trường đã phát triển và đạt được
mức độ tập trung hoá nhất định dẫn đến sự hình thành các doanh nghiệp hoặc nhóm
doanh nghiệp mang quyền lực thị trường cần phải bị kiểm soát. Pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh gắn liền với sự ra đời của thương mại tự do tại Châu Âu thế kỷ 19, mà
theo một số nhà nghiên cứu, khởi đầu từ Cách mạng Pháp 1791. Hệ thống các phường
hội thương mại đã duy trì và phát triển luật chơi trong ngành một cách mạnh mẽ, trong
khi người ta nhận thấy rõ rằng không thể trông đợi các thương nhân đơn lẻ thực hiện
cạnh tranh lành mạnh một cách tự giác. Xuất phát từ Điều 1382 Bộ luật Dân sự Pháp về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự nói chung, một loạt các án lệ về cạnh tranh không
lành mạnh (concurrence deloyal) đã xuất hiện đem lại sự bảo vệ cho thương nhân trước
các hành vi gây nhầm lẫn, gièm pha, xâm phạm bí mật kinh doanh, cạnh tranh “ăn bám”
... Trong khi đó, nước Đức từ chối mô hình của Pháp và sau gần một thế kỷ đã ban hành
một đạo luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh (1909) trong đó đưa ra các quy định
giới hạn nghiêm ngặt hoạt động kinh doanh của thương nhân, trong đó có những hành vi
ngày nay được coi là rất thông thường trong thực tiễn thương mại, như là khuyến mại,
giảm giá. Còn ở trung tâm công nghiệp và pháp lý thứ ba của Châu Âu thời kỳ đó là nước
Anh, người ta không theo mô hình luật chung kết hợp với án lệ của Pháp, cũng không
theo mô hình luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh của Đức. CTKLM trong hệ thống
Thông luật của Anh quốc chỉ gói gọn trong việc mô tả các hành vi gây nhầm lẫn về nhãn
hiệu (passing off), gắn liền với pháp luật về sở hữu trí tuệ, và sau đó hệ thống pháp luật
Hoa Kỳ cũng tiếp tục cách tiếp cận này trong việc điều chỉnh CTKLM.
Như vậy, có thể thấy nguồn của pháp luật về CTKLM tương đối đa dạng, bao
gồm cả án lệ, luật tục, luật thành văn, trong đó luật thành văn có thể là quy định chung
của pháp luật về dân sự, thương mại, cũng có thể là một đạo luật riêng về cạnh tranh
25
không lành mạnh, hay là rải rác các quy định nằm trong các lĩnh vực pháp luật khác có
liên quan.
2.2. Cơ chế điều chỉnh hành vi CTKLM
Mặc dù pháp luật về CTKLM xuất phát từ nhiều nguồn và thể hiện quan điểm lập
pháp khác nhau ở mỗi quốc gia, cơ chế điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này vẫn có
những đặc trưng cơ bản thống nhất và cũng là những đặc trưng của cơ chế điều chỉnh
pháp luật cạnh tranh nói chung, đó là tính tiếp cận từ mặt trái và tính không triệt để trong
nội dung điều chỉnh đối với các hoạt động cạnh tranh .
- Tính chất tiếp cận từ mặt trái: Trong khi các văn bản pháp luật về kinh tế khác
tập trung quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ - những việc được làm và phải làm - của
chủ thể tham gia kinh doanh, thì pháp luật cạnh tranh chỉ khoanh vùng các hành vi bị
ngăn cấm trong hoạt động cạnh tranh, chứ không hướng dẫn các đối tượng điều chỉnh cần
làm những gì hoặc phải làm những gì.
- Tính chất không triệt để trong nội dung điều chỉnh: các quy định của pháp luật
cạnh tranh, đặc biệt là về CTKLM, không bao giờ quy định đầy đủ và triệt để toàn bộ các
hành vi phản cạnh tranh tồn tại trong nền kinh tế xã hội. Quy định của luật thường đặt ra
điều khoản mở cho phép cơ quan công quyền có thể bổ sung các hành vi mới xuất hiện
có ảnh hưởng xấu đến cạnh tranh và xét thấy cần điều chỉnh, ngăn chặn. Mặt khác, đối
với các hành vi đã được quy định trong luật, bên cạnh một số hành vi bị cấm đoán tuyệt
đối (per se rule), nhiều hành vi khác được xem xét theo nguyên tắc hợp lý (rule of
reason), cho phép cơ quan xử lý chiếu theo hoàn cảnh thực tế của vụ việc để cân nhắc
xem xét hành vi có xâm hại đến cạnh tranh và ảnh hưởng xấu cho xã hội hay không. Bên
cạnh đó, các điều khoản miễn trừ dành cho các hành vi dạng này cũng là một đặc điểm
nhận diện của pháp luật cạnh tranh tại mọi quốc gia.
Những đặc trưng trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh có nguyên
nhân cả về lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, cho đến nay cho dù đã có nhiều học
thuyết tiếp cận nghiên cứu, nhưng các nhà làm luật không thể đưa ra kết luận cụ thể về
nội hàm khái niệm cạnh tranh lành mạnh, vốn bao trùm lên nhiều lĩnh vực khác nhau. Về
26
mặt thực tiễn, hoạt động cạnh tranh cũng chính là hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, thương nhân trên thương trường, hết sức đa dạng và phong phú. Do đó, không thể
đưa vào luật một danh sách những hành vi được coi là cạnh tranh lành mạnh để hướng
dẫn cho những doanh nghiệp, thương nhân tham gia thị trường. Quy định đóng khung các
hành vi cạnh tranh “được phép” sẽ kìm hãm, ngăn cản sự sáng tạo trong kinh doanh, ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Cách tiếp cận từ mặt trái của cạnh tranh
phù hợp với nguyên tắc chung của tự do trong kinh doanh, theo đó cá nhân, tổ chức kinh
doanh có thể tự do “làm những việc mà pháp luật không cấm”.
Cũng chính vì hoạt động kinh doanh đa dạng, phong phú, có thể ở từng thời
điểm, từng hoàn cảnh khác nhau mà một hành vi sẽ bị xác định là phản cạnh tranh khi đi
ngược lại lợi ích của nhà nước và xã hội, nhưng ở một thời điểm, hoàn cảnh khác thì
hành vi đó lại không xâm hại đến lợi ích công và không đáng bị ngăn cấm. Vì vậy, pháp
luật cạnh tranh đặt ra những điều khoản mở và những quy định miễn trừ cho phép áp
dụng pháp luật một cách linh hoạt. Cần thấy rằng, các lĩnh vực pháp luật khác cũng có sự
mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi các hành vi, quan hệ xã hội được điều chỉnh, ngay cả lĩnh
vực có chế tài nghiêm khắc nhất là hình sự cũng có quá trình tội phạm hoá và phi tội
phạm hoá các hành vi bị coi là nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, do tính linh hoạt trong
hoạt động cạnh tranh, trong quan hệ kinh doanh mạnh hơn trong các quan hệ xã hội khác
rất nhiều, cơ chế điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh cũng trở nên tuỳ nghi và khả biến
hơn rất nhiều so với cơ chế điều chỉnh của những ngành luật khác. Chính vì vậy, do dù
nằm trong hệ thống Thông luật hay Dân luật, hầu hết các quốc gia có xây dựng pháp luật
cạnh tranh đều cho phép cơ quan cạnh tranh có một thẩm quyền rộng rãi trong việc vận
dụng và áp dụng pháp luật, cũng như thừa nhận sự tồn tại của hệ thống án lệ trong quá
trình xử lý các vụ việc cạnh tranh.
2.3. Nội dung các quy định pháp luật về CTKLM
2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài đối với hành vi CTKLM
Chế tài đối với hành vi CTKLM là những hình thức trách nhiệm pháp lý được Nhà
nước áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh, buộc các chủ thể đó phải gánh chịu những
27
hậu quả bất lợi do đã có hành vi CTKLM gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh và các
chủ thể khác.
Vai trò của các chế tài đối với hành vi CTKLM:
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, chống lại hành vi
CTKLM của các doanh nghiệp đối thủ.
- Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (khách hàng).
- Là công cụ góp phần tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng, công bằng.
2.3.2. Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi CTKLM
Thứ nhất, hành vi CTKLM
Hành vi cạnh tranh có bản chất là hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh, hủy hoại ưu
thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi tạo ra ưu
thế cạnh tranh giả tạo.
Thứ hai, thiệt hại trong CTKLM
Thiệt hại là một đặc điểm cơ bản của hành vi CTKLM và là điểm phân biệt giữa
CTKLM với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Việc xác định thiệt hại (vật chất hoặc tinh
thần) là một yêu cầu bắt buộc và cần thiết để bên bị hại có căn cứ đòi bồi thường và cơ
quan có thẩm quyền áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi CTKLM và thiệt hại
Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại là mối quan hệ trực tiếp, nội tại,
không phải là sự suy diễn chủ quan. Hành vi CTKLM là hành vi diễn ra trước, thiệt hại
trực tiếp do hành vi đó gây ra xảy ra sau. Bên thực hiện hành vi CTKLM chỉ phải chịu
trách nhiệm pháp lý và các chế tài tương ứng khi gây ra thiệt hại nhất định cho đối thủ
cạnh tranh, mà nguyên nhân trực tiếp là hành vi CTKLM của mình.
Thứ tư, lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh
Lỗi được xác định là trạng thái tâm lý của người có hành vi vi phạm, phản ánh nhận
thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Việc xác định
lỗi trong cạnh tranh thường phải dựa vào các tập quán nghề nghiệp. Hành vi cạnh tranh bị
28
coi là có lỗi và không lành mạnh là hành vi vi phạm các tập quán nghề nghiệp, phá vỡ
quan hệ bình đẳng, công bằng trongquan hệ cạnh tranh trênthị trường.
2.3.3. Các chế tài để xử lí hành vi khuyến mại nhằm CTKLM
Một là, chế tài hành chính
Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, các hình thức chế tài xử lý vi phạm
về CTKLM chủ yếu là các chế tài hành chính, được quy định trong các quy phạm pháp
luật mang tính xử phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra (Điều 117). Các
hình thức xử lý đó đã được Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ
quy định chi tiết, bao gồm:
Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền đến 100 triệu đồng.
Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng
để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ
việc thực hiện hành vi vi phạm.
Ngoài các hình thức xử phạt đó, đối tượng vi phạm còn có thể bị áp dụng biện
pháp khắc phục hậu quả: Buộc cải chính công khai.
Hai là, chế tài hình sự
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi CTKLM được quy định tại
Chương XVI "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" của Bộ luật Hình sự năm 1999,
sửa đổi năm 2009, biểu hiện dưới các tội danh như: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
(Điều 156); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh,
thuốc phòng bệnh (Điều 157); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn
nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158);
tội lừa dối khách hàng (Điều 162); tội quảng cáo gian dối (Điều 168); tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171); tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu
sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua
bán chứng khoán (Điều 181b); tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c).
29
Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền, cải tạo không
giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt rất nặng như tù
chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định.
Ba là, chế tài dân sự
Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng trong hệ thống chế tài áp dụng đối
với hành vi CTKLM.
Chức năng chủ yếu của bồi thường thiệt hại là khôi phục, đền bù, nhằm bù đắp
những tổn thất về vật chất và tinh thần mà bên mang quyền phải gánh chịu do hành vi vi
phạm các quy tắc trong kinh doanh của bên kia gây ra. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh của
nướcnào cũng quy định chế tài này. Theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, khi áp dụng chế
tài bồi thường thiệt hại thì phải dẫn chiếu đến pháp luật dân sự. Vấn đề khởi kiện đòi bồi
thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theocác
quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tại Chương XXI của Bộ
luật Dân sự năm 2005 và pháp luật có liên quan.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định được pháp luật thừa nhận,
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, chế tài bồi thường
thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác.
Bốn là, mối quan hệ giữa các hình thức chế tài
Các chế tài có bản chất, nội dung, hậu quả trái ngược nhau thì không thể áp dụng
đồng thời. Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh có tính độc lập nhất
định, trừ một số biện pháp bổ sung, khắc phục hậu quả trong các chế tài hành chính. Đối
với hành vi CTKLM, không có sự chuyển hóa giữa vi phạm hành chính với tội phạm theo
lý thuyết thông thường. Hậu quả không phải là căn cứ tiên quyết để xác định áp dụng chế
tài hành chính hay chế tài hình sự, vì thiệt hại luôn là dấu hiệu bắt buộc trong việc xác
định hành vi CTKLM. Tính chất nguy hiểm của hành vi không căn cứ vào sự phân tích
tầm quan trọng của quan hệ xã hội mà hành vi xâm hại, mà căn cứ vào những viện dẫn
30
của Điều luật. Những chế tài mang tính trách nhiệm vật chất thường có thể áp dụng đồng
thời với các chế tài khác. Vì vậy, khi doanh nghiệp thực hiện hành vi CTKLM gây ra
thiệt hại cho chủ thể khác thì tất yếu phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự. Nghĩa là
chế tài bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với chế tài hành chính hoặc chế tài
hình sự.
2.3.4. Nguồn của pháp luật về chế tài đối với hành vi CTKLM
- Luật Cạnh tranh
Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004 và có hiệu lực ngày
01/7/2005, là nguồn mang tính nguyên tắc chung, điều chỉnh quan hệ cạnh tranh và quy
định thủ tục xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việc điều tra, xử lý vụ việc
liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh và áp dụng chế tài đối với hành vi vi phạm
phải tuân theo trình tự, thủ tục và thẩm quyền mà Luật Cạnh tranh quy định. Trong
trường hợp có xung đột giữa Luật Cạnh tranh và các lĩnh vực pháp luật khác thì ưu tiên
áp dụng Luật Cạnh tranh.
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
Chế tài đối với hành vi CTKLM được quy định cơ bản tại Luật Cạnh tranh, ngoài
ra Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng có những quy định liên quan. Đó là các quy
định cụ thể về hình thức xử phạt, mức phạt tiền đối với các vi phạm thuộc các lĩnh vực
khác nhau, các biện pháp khắc phục hậu quả cũng như thủ tục áp dụng các chế tài cho đối
tượng vi phạm. Pháp lệnh còn quy định trong những trường hợp cụ thể, nếu hành vi cạnh
tranh không lành mạnh có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan chức năng phải chuyển hồ sơ vụ
việc để truy cứu trách nhiệm hình sự. Các hình thức xử lý vi phạm về cạnh tranh không
lành mạnh đã được quy định chi tiết tại Nghị định của Chính phủ, bao gồm các chế tài
phạt tiền, các hình thức xử phạt bổ sung, các biện pháp khắc phục hậu quả.
- Bộ luật Dân sự
Với tư cách là một trong những nguồn của pháp luật về CTKLM, chế định bồi
thường thiệt hại được quy định trong Bộ luật Dân sự đã góp phần điều chỉnh các hành vi
vi phạm về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ thể bị xâm hại.
31
-Bộ luật Hình sự
Nếu hành vi CTKLM có dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định tại Bộ luật
Hình sự thì sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà định tội danh và áp dụng chế tài hình sự thích
hợp. Hiện tại, Bộ luật Hình sự năm 2015 của Việt Nam đã có quy định về việc áp dụng
chế tài hình sự đối với một số hành vi CTKLM, cụ thể tại các điều: 156, 157, 158, 162,
168, 171, 181a, 181b, 181c.
2.3.5. Các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể có quy định chế tài
đối với các hành vi CTKLM (Luật Sở hữu trí tuệ, Pháp lệnh bảo vệ người
tiêu dùng, Pháp lệnh giá, Pháp lệnh quảng cáo…)
Do phạm vi điều chỉnh rộng, các quy định về CTKLM trong nhiều trường hợp
được sử dụng với tính chất bổ trợ cho các lĩnh vực pháp luật khác điều chỉnh hoạt động
của nền kinh tế thị trường. Do đó, pháp luật về CTKLM có quan hệ chặt chẽ với nhiều
lĩnh vực pháp luật khác, như pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng; pháp luật về quản lý giá và các lĩnh cực pháp luật chuyên ngành khác
như: bảo hiểm,viễn thông, ngân hàng, hàng không…
2.4. Pháp luật về CTKLM trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật
khác
Do phạm vi điều chỉnh rộng và các tiêu chí đánh giá mở đối với CTKLM, các quy
định về CTKLM trong nhiều trường hợp được sử dụng với tính chất “quét”, bổ trợ cho
các lĩnh vực khác trong hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế thị
trường. Do đó, pháp luật về CTKLM có quan hệ chặt chẽ với nhiều lĩnh vực pháp luật
khác, và các quan hệ này làm tăng thêm tính chất chồng lấn trong các quy định về hành
vi CTKLM. Xuất phát từ đặc điểm này, đã hình thành cái gọi là Nguyên tắc ưu tiên (Pre-
emption principle) trong thực tiễn áp dụng pháp luật về CTKLM của nhiều quốc gia, đặc
biệt là tại Châu Âu. Theo nguyên tắc tại, pháp luật CTKLM chỉ được áp dụng trong
trường hợp hành vi vi phạm chưa chịu sự điều chỉnh theo quy định của các văn bản pháp
32
luật khác i. Mức độ áp dụng nguyên tắc này tại mỗi quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào
cách tiếp cận của mỗi hệ thống pháp luật trong việc điều chỉnh CTKLM.
- Quan hệ với pháp luật dân sự: Pháp luật về dân sự là luật chung điều chỉnh về
các quan hệ giao dịch cũng như giải quyết các tranh chấp trên thị trường. Như đã phân
tích ở trên, một trong những nguồn của pháp luật về CTKLM là chế định về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng (tort), theo đó các doanh nghiệp bị thiệt hại từ hành vi CTKLM
có thể sử dụng các quy định của tố tụng dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Mặt khác
các nguyên tắc chung của pháp luật dân sự về tự do, tự nguyện, trung thực trong giao
dịch… cũng được sử dụng để làm tiêu chí đánh giá tính chất không lành mạnh của một
hành vi vi phạm. Pháp luật dân sự là luật gốc để phát triển các quy định về CTKLM, cho
dù các quy định này trong khuôn khổ một đạo luật riêng, hay nằm trong các bộ phận khác
nhau của pháp luật dân sự như pháp luật thương mại, pháp luật về sở hữu trí tuệ hay pháp
luật về bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh đó, một số nước vẫn sử dụng các quy định của
pháp luật dân sự để điều chỉnh trực tiếp về CTKLM và toà án đóng vai trò xử lý các hành
vi vi phạm.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, pháp luật về CTKLM dần tách khỏi khuôn
khổ của pháp luật dân sự và mang nhiều yếu tố hành chính. CTKLM không còn là vấn đề
của luật tư liên quan đến tranh chấp giữa hai chủ thể kinh doanh trên thị trường và trong
nhiều trường hợp, nhân danh lợi ích công, nhà nước cần phải can thiệp để duy trì trật tự
trong kinh doanh, qua đó tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh. Trật tự trong kinh
doanh đem lại lợi ích cả cho nhà nước lẫn các chủ thể tham gia hoạt động thị trường. Vì
vậy, các biện pháp quản lý và chế tài hành chính dần xuất hiện trong cơ chế điều chỉnh
của pháp luật về CTKLM và cơ quan cạnh tranh được trao thẩm quyền nhiều hơn trong
việc xử lý các hành vi cạnh tranh.
- Quan hệ với pháp luật về sở hữu trí tuệ: mối quan hệ giữa pháp luật chống
CTKLM và pháp luật về sở hữu trí tuệ có từ rất lâu. Như đã giới thiệu, các quy định
mang tính quốc tế đầu tiên về cạnh tranh không lành mạnh xuất phát từ một công ước về
sở hữu trí tuệ (Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp), và cho tới nay nhiều nhà
nghiên cứu về pháp luật sở hữu trí tuệ vẫn khẳng định quyền chống CTKLM là một trong
33
những quyền cơ bản của chủ sở hữu tài sản trí tuệ. Bảo vệ quyền sở hũu trí tuệ chính là
một trong những xuất phát điểm cơ bản của các quy định CTKLM, vì về bản chất, các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đều được tiến hành với động cơ CTKLM. Một
hành vi chỉ bị coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khi chủ thể thực hiện nó có ý định
hoặc đã đưa tài sản trí tuệ của người khác vào khai thác thương mại, đồng nghĩa với việc
trở thành một đối thủ cạnh tranh của chính chủ sở hữu tài sản trí tuệ đó.
Hiện nay, sự phân biệt giữa pháp luật về CTKLM và pháp luật về sở hữu trí tuệ
tập trung ở đối tượng được bảo vệ. Pháp luật về sở hữu trí tuệ hướng tới việc bảo hộ các
đối tượng tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập một cách rõ ràng, đầy đủ thông
qua các thủ tục đăng ký, cấp văn bằng bảo hộ hoặc các tiến trình pháp lý khác do nhà
nước quy định. Sự bảo vệ pháp luật dành cho các đối tượng này do đó cũng là đầy đủ và
vững chắc nhất. Trong khi đó, pháp luật về CTKLM bảo vệ các lợi thế cạnh tranh không
được bảo hộ thông qua văn bằng, chẳng hạn như nhãn hiệu chưa đăng ký hoặc bí mật
kinh doanh. Do việc xác lập quyền đối với các đối tượng này không trải qua thủ tục chặt
chẽ như đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, nên sự bảo hộ mà pháp luật về CTKLM dành cho
chủ sở hữu không thể mạnh mẽ bằng các biện pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ. Trong các vụ
việc CTKLM liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, bên khiếu nại thường phải chứng minh
quyền hợp pháp đối với đối tượng bị vi phạm, bao gồm việc tạo lập, duy trì, sử dụng phổ
biến, lâu dài và không có tranh chấp... Hay xét trên một khía cạnh khác, nếu như pháp
luật về sở hữu trí tuệ bảo vệ vị thế chung của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, thì pháp luật về
CTKLM bảo vệ chủ sở hữu chống lại một số dạng hành vi nhất định xâm phạm đến tài
sản trí tuệ. Do đó, sự bảo hộ của pháp luật về CTKLM không mang tính liên tục, mà chỉ
phát sinh khi xuất hiện tranh chấp. Vì vậy, pháp luật về CTKLM trong nhiều trường hợp
được coi là là công cụ bổ trợ cho việc thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ.
- Quan hệ với pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng: Pháp luật về CTKLM ngày
càng có xu hướng tiếp cận gần hơn với pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng khi đặt trọng
tâm bảo vệ người tiêu dùng bên cạnh trọng tâm bảo vệ các đối thủ cạnh tranh và môi
trường cạnh tranh nói chung. Các hành vi CTKLM thuộc nhóm thứ 3 trên đây, đặc biệt là
các dạng hành vi mang tính chất lừa dối, cưỡng ép… có mặt trong nhiều đạo luật về bảo
34
vệ người tiêu dùng. Đặc biệt, Cộng đồng Châu Âu đã có một văn bản riêng quy định về
các hành vi thương mại không lành mạnh (unfair trade practice) là Chỉ thị số 2005/29/EC
ngày 11/5/2005 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các Chỉ thị số 84/450/EEC, 97/7/EC,
98/27/EC và 2002/65/EC quy định riêng về quảng cáo gây nhầm lẫn.
Trước đây, có một số quan điểm cho rằng sự phân biệt giữa pháp luật về CTKLM
và pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nằm đối tượng được bảo vệ, pháp luật về CTKLM
chỉ bảo vệ các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường cũng như môi trường cạnh tranh
chung, trong khi vai trò bảo vệ người tiêu dùng đương nhiên thuộc về pháp luật về bảo vệ
người tiêu dùng. Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ về
cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng ngày càng gắn bó và không thể tách rời. Nếu như
cạnh tranh trên thị trường được định nghĩa một cách đơn giản là việc giành giật khách
hàng trongkinh doanh, thì giữa ba bên doanh nghiệp – khách hàng/người tiêu dùng – các
đối thủ cạnh tranh có quan hệ gắn bó khó có thể tách rời. Việc lôi kéo, thu hút khách
hàng bằng các thủ đoạn bất chính chắc chắn sẽ làm thiệt hại cho các doanh nghiệp cạnh
tranh kinh doanh trung thực, lành mạnh, mặt khác, những thủ đoạn lợi dụng hoặc làm mất
uy tín của đối thủ cạnh tranh cũng ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng, khiến họ
nhầm lẫn và trả tiền cho các hàng hoá, dịch vụ không đúng như mong muốn của mình.
Môi trường cạnh tranh lành mạnh chính là môi trường ở đó quyền lợi của người tiêu dùng
được đảm bảo ở mức cao nhất.
Một yếu tố khác có thể sử dụng để phân biệt phạm vi áp dụng của pháp luật về
CTKLM là thời điểm tác động. Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt thể hiện tại
các quy định về giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại, có khuynh hướng quan tâm
tới việc bảo vệ người tiêu dùng trong và sau khi xảy ra giao dịch, trong đó xác định được
cụ thể một hay một nhóm người tiêu dùng chịu tác động từ hành vi vi phạm. Trong khi
đó, pháp luật về CTKLM bảo vệ hướng tới việc bảo vệ đối tượng người tiêu dùng nói
chung, hay có thể gọi một cách khác là một số đông những người tiêu dùng tiềm năng,
trước khi họ tham gia giao dịch. Thông qua việc ngăn chặn những hành vi lừa dối, gây
nhầm lẫn, lôi kéo bất chính… pháp luật về CTKLM góp phần loại bỏ khả năng phát sinh
các vi phạm gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mặt khác, trong trường hợp xác định một
35
hoặc một số người tiêu dùng cụ thể do chịu tác động của hành vi CTKLM đã tham gia
giao dịch và chịu thiệt hại, vụ việc nên được điều chỉnh theo các quy định về bảo vệ
người tiêu dùng, và hành vi lừa dối hay gây nhầm lẫn của thương nhân sẽ được coi là căn
cứ để xác định sự vô hiệu của giao dịch.
- Quan hệ với pháp luật về hạn chế cạnh tranh:
Cuối cùng, pháp luật về CTKLM cũng có sự gắn bó với bộ phận thức hai của
pháp luật cạnh tranh nói chung, đó là pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Có thể hình dung
nếu như hành vi hạn chế cạnh tranh là những hành vi đẩy lùi cạnh tranh, làm cạnh tranh
vận hành dưới mức bình thường, dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh, thì CTKLM là những hành
vi đẩy cạnh tranh lên quá mức, khiến nó vận hành quá nóng, vượt khỏi các giới hạn có
thể chấp nhận được của thị trường và xã hội.
Dù có sự phân chia thành hai lĩnh vực, song cả pháp luật chống CTKLM và pháp
luật chống hạn chế cạnh tranh đều hướng tói mục đích bảo vệ cơ chế cạnh tranh, bảo vệ
môi trường cạnh tranh lành mạnh và thông qua đó bảo vệ lợi ích của toàn thể người tiêu
dùng xã hội. Pháp luật chống CTKLM ra đời trước, từ khi cơ chế thị trường mới hình
thành với các hoạt động cạnh tranh sơ khai đã có những hành vi vượt ra ngoài khuôn khổ,
cần phải điều chỉnh. Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ra đời sau, khi thị trường đã phát
triển và tập trung hoá đến một mức độ nhất định để có thể phát sinh những trung tâm
quyền lực thị trường. Tuy nhiên, điều chỉnh hạn chế cạnh tranh lại được xem là nền tảng
của pháp luật cạnh tranh, vì đó là bảo vệ toàn bộ cơ chế cạnh tranh. Nếu cạnh tranh bị thủ
tiêu, toàn bộ các hoạt động cạnh tranh trên thị trường, dù là lành mạnh hay không lành
mạnh, sẽ không còn nữa. Do đó, thái độ của Nhà nước đối với các hành vi hạn chế cạnh
tranh thường quyết liệt và nghiêm khắc hơn rất nhiều. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại
chống CTKLM cũng chính là chống các động thái có thể đưa đến tình trạng hạn chế cạnh
tranh, và các hành vi hạn chế cạnh tranh có thể nhìn nhận một cách khái quát cũng mang
bản chất không lành mạnh. Như đã trình bày ở phần trên, pháp luật một số quốc gia quy
định các hành vi hạn chế cạnh tranh dạng “nhẹ” vào khuôn khổ điều chỉnh của pháp luật
về CTKLM.
36
Hai bộ phận pháp luật trên đây bổ sung cho nhau, tạo thành khuôn khổ pháp luật
chung điều chỉnh cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Thiếu một trong hai bộ phận,
cơ cấu thị trường cũng như tương quan lợi ích của các chủ thể hoạt động trên đó sẽ không
thể được bảo vệ một cách đầy đủ và toàn diện.
2.5. Pháp luật về CTKLM của một số quốc gia trên thế giới
2.5.1. Pháp luật về CTKLM tại Châu Âu
Châu Âu là nơi khởi đầu của pháp luật về CTKLM, và cũng là nơi phát sinh các
cách tiếp cận khác biệt trong quá trình xây dựng pháp luật về cạnh tranh không. Như đã
trình bày tại phần trên, ba trung tâm kinh tế lớn của Châu Âu là Pháp, Đức và Anh có
những cách điều chỉnh CTKLM riêng, trong đó đáng ngạc nhiên là hệ thống của Pháp lại
có nhiều điểm gần với Anh hơn là Đức.
- Pháp và Anh đều điều chỉnh hành vi CTKLM trên cơ sở các nguyên tắc chung về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort law) và cụ thể hoá thông qua các án
lệ. Một số nước khác cũng xây dựng pháp luật về CTKLM theo hướng này là Hà Lan và
Italia. Tại các quốc gia này, toà án có vai trò rất lớn trong việc đánh giá hành vi CTKLM
và quyết định biện pháp xử lý, với chế tài chủ yếu là bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai hệ thống Dân luật và Thông luật trong
cách thức áp dụng pháp luật đối với lĩnh vực này. Trong hệ thống của Pháp, phạm vi áp
dụng tort law đối với hành vi CTKLM tương đối rộng, Toà án có thẩm quyền xem xét và
phán quyết nhiều hành vi cạnh tranh khác nhau, từ đó hình thành các án lệ đa dạng về các
hành vi gây cản trở hoạt động cạnh tranh (concurrence déloyal) và các hành vi lợi dụng
thành quả của đối thủ cạnh tranh (concurrence parasitaire). Trong các vụ việc tại toà án,
bên nguyên đơn cần chứng minh sự tồn tại của hành vi CTKLM, thiệt hại xảy ra và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại; và bên bị đơn có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại mà không cần xét đến yếu tố lỗi (cố ý) đối với hành vi vi phạm. Hà Lan
cũng áp dụng mô hình này, tuy nhiên với nguyên tắc “doanh nghiệp được thực hiện mọi
hoạt động cạnh tranh không bị cấm bởi quy định pháp luật” kết hợp với nguyên tắc ưu
37
tiên, việc sử dụng các điều khoản chung của pháp luật dân sự để xử lý vụ việc cạnh tranh
bị hạn chế hơn.
Trong khi đó, hệ thống Thông luật của Anh chỉ thừa nhận việc áp dụng tort law về
CTKLM đối với một số dạng hành vi cụ thể như gây nhầm lẫn, mạo nhận về nhãn hiệu
(passing off) và xâm phạm bí mật kinh doanh. Do đó, để được toà án giải quyết, các vụ
việc về CTKLM phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định, và các thẩm phán có thể từ chối
thụ lý nếu vụ việc liên quan đến các hành vi thị trường nằm ngoài phạm vi các hành vi
CTKLM nêu trên..
- Bên cạnh đó, một số nước đã lựa chọn cách tiếp cận sử dụng luật chuyên ngành
(lex specialis) để điều chỉnh hành vi CTKLM. Một số nước như Đức, Áo, Bỉ, Đan Mạch,
Phần Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ, Luxemburg đã có một đạo luật riêng về CTKLM, một
số nước khác như Hungary, Bulgary hay Rumani xây dựng các quy định về CTKLM
trong một đạo luật về thương mại hay cạnh tranh. Các quốc gia này đã luật hoá một số
dạng hành vi CTKLM điển hình, dựa trên cơ sở các khuyến nghị tại Điều 10 bis Công
ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp, và lấy đó làm cơ sở cho việc thực thi pháp luật
về CTKLM. Tuỳ thuộc vào quan điểm điều tiết nền kinh tế thị trường của từng quốc gia
tại từng thời kỳ nhất định, danh sách các hành vi CTKLM bị cấm có thể nhiều hay ít.
Cách tiếp cận này một mặt khiến cho các quy định về CTKLM rõ ràng và dễ áp dụng,
nhưng mặt khác khiến cho quá trình thực thi trở nên cứng nhắc và gây khó khăn cho cơ
quan thực thi trong việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh mới xuất hiện, hay có sự thay
đổi về điều kiện kinh tế xã hội. Ví dụ, nhiều nước tại Châu Âu trong một thời gian dài đã
coi việc một doanh nghiệp tìm kiếm và thu hút các khách hàng đã có quan hệ hợp đồng
ổn định với doanh nghiệp cạnh tranh khác là một dạng thức CTKLM. Tuy nhiên rõ ràng
trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do, quy định như vậy là không hợp lý, một mặt
không đảm bảo quyền tự do lựa chọn cho khách hàng, mặt khác không tạo động lực
khuyến khích các doanh nghiệp có động lực phát triển. Việc sửa đổi, bổ sung danh sách
các hành vi CTKLM đã được luật hoá đòi hỏi phải có những nỗ lực lập pháp với thủ tục
không dễ dàng, nhiều khi không đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh chóng và linh hoạt của
cơ chế thị trường.
38
- Trong nhiều năm gần đây, đã có những nố lực để thống nhất các quy định về
cạnh tranh không lành mạnh giữa các nước thành viên EU trong khuôn khổ chương trình
hài hoà hoá pháp luật chung (legal harmonisation) của Cộng đồng Châu Âu. Dựa trên
Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu Công nghiệp, các quốc gia Châu Âu đã phát triển các
quy định chung theo nhiều hình thức, cấp độ, từ các nguyên tắc cơ bản về cạnh tranh tại
Hiệp ước Rome 1957 đến những thoả thuận nhóm như Luật Nhãn hiệu chung của khối
Benelux 1971 và những hướng dẫn chung từ EC đến các nước thành viên như Chỉ thị số
2005/29/EC. Mặc dù vậy, tính đến sự khác biệt còn tồn tại giữa hệ thống pháp luật của
các quốc gia thành viên, EU vẫn phải bổ sung một số nguyên tắc giải quyết xung đột
pháp luật, trong đó đặc biệt quan trọng là nguyên tắc nước xuất xứ tại Điều 28 của Hiệp
ước Châu Âu, theo đó pháp luật của quốc gia nhập khẩu được ưu tiên áp dụng để đánh
giá tính hợp pháp trong việc kinh doanh một loại hàng hoá nhất định. EC cũng đã ban
hành Quy định số 2006/2004 ngày 27/10/2004 về việc hợp tác giữa các cơ quan chịu
trách nhiệm thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia thành viên.
2.5.2. Pháp luật về CTKLM tại Hoa Kỳ
Mặc dù đã phát triển hệ thống các quy định về hạn chế cạnh tranh từ rất lâu (Luật
Sherman – 1890), các quy định về CTKLM của Hoa Kỳ lại tương đối phân tán. Các nhà
lập pháp của Hoa Kỳ kết hợp cả hai cách tiếp cận của Châu Âu trong việc điều chỉnh
hành vi CTKLM, sử dụng các các quy định chung về bồi thường thiệt hại dân sự cũng
như một số quy định chuyên ngành, và thậm chí có sự khác biệt giữa pháp luật liên bang
và pháp luật các tiểu bang. Các quy định cạnh tranh quan trọng nhất có thể kể đến là Luật
về Uỷ ban Thương mại liên bang (1914) và Luật Nhãn hiệu liên bang, hay còn gọi là Luật
Lanham (1946).
Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang đặt cơ sở cho việc thành lập Uỷ ban
Thương mại liên bang Hoa Kỳ (US FTC), một trong hai cơ quan chịu trách nhiệm thực
thi pháp luật cạnh tranh ở Mỹ. Khác với cơ quan cạnh tranh còn lại là Cục Chống độc
quyền thuộc Bộ Tư pháp chuyên trách về hạn chế cạnh tranh theo Luật Chống độc quyền,
chức năng của Uỷ ban Thương mại Liên bang rộng hơn, bên cạnh chức năng điều tra và
giám sát các vụ việc chống độc quyền, còn bao gồm việc xử lý “các cách thức CTKLM
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

More Related Content

What's hot

Luận văn: Pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh.pdf
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh.pdfPháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh.pdf
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...https://www.facebook.com/garmentspace
 

What's hot (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
 
Đề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAY
Đề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAYĐề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAY
Đề tài: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấpLuận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
 
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại, HAY
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại, HAYLuận án: Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại, HAY
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại, HAY
 
thoả ước lao động tập thể
 thoả ước lao động tập thể thoả ước lao động tập thể
thoả ước lao động tập thể
 
Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAY
Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAYĐăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAY
Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAYLuận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAY
 
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công tyĐề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
 
Luận văn: Hợp đồng nhượng quyền thương mại tại doanh nghiệp
Luận văn: Hợp đồng nhượng quyền thương mại tại doanh nghiệpLuận văn: Hợp đồng nhượng quyền thương mại tại doanh nghiệp
Luận văn: Hợp đồng nhượng quyền thương mại tại doanh nghiệp
 
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh.pdf
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh.pdfPháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh.pdf
Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh.pdf
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhânLuận văn: Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệuLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
 
Tiểu luận Pháp luật về khuyến mại thực tiễn và giải pháp.doc
Tiểu luận Pháp luật về khuyến mại  thực tiễn và giải pháp.docTiểu luận Pháp luật về khuyến mại  thực tiễn và giải pháp.doc
Tiểu luận Pháp luật về khuyến mại thực tiễn và giải pháp.doc
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luậtLuận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
 
Luận văn: Pháp luật về quảng cáo thương mại trên báo in, 9 ĐIỂM
Luận văn: Pháp luật về quảng cáo thương mại trên báo in, 9 ĐIỂMLuận văn: Pháp luật về quảng cáo thương mại trên báo in, 9 ĐIỂM
Luận văn: Pháp luật về quảng cáo thương mại trên báo in, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAYĐề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
 
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đLuận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
 

Similar to Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...Viết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...
Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...
Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...Thư viện Tài liệu mẫu
 
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Thỏa Thuận Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh Thương...
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Thỏa Thuận Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh Thương...Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Thỏa Thuận Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh Thương...
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Thỏa Thuận Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh Thương...Viết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nayGiá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nayhieu anh
 

Similar to Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh (20)

Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnhPháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
 
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnhPháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
 
Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Trong Lĩnh Vực Quảng Cáo Thương Mại Theo Pháp Luật...
Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Trong Lĩnh Vực Quảng Cáo Thương Mại Theo Pháp Luật...Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Trong Lĩnh Vực Quảng Cáo Thương Mại Theo Pháp Luật...
Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Trong Lĩnh Vực Quảng Cáo Thương Mại Theo Pháp Luật...
 
Đề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOTĐề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOT
 
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
 
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trờiThực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
 
Tìm Hiểu Các Hoạt Động Quảng Cáo Thương Mại Bị Cấm Theo Luật Thương Mại 2005.
Tìm Hiểu Các Hoạt Động Quảng Cáo Thương Mại Bị Cấm Theo Luật Thương Mại 2005.Tìm Hiểu Các Hoạt Động Quảng Cáo Thương Mại Bị Cấm Theo Luật Thương Mại 2005.
Tìm Hiểu Các Hoạt Động Quảng Cáo Thương Mại Bị Cấm Theo Luật Thương Mại 2005.
 
Các Hoạt Động Quảng Cáo Thương Mại Bị Cấm Theo Luật Thương Mại 2005
Các Hoạt Động Quảng Cáo Thương Mại Bị Cấm Theo Luật Thương Mại 2005Các Hoạt Động Quảng Cáo Thương Mại Bị Cấm Theo Luật Thương Mại 2005
Các Hoạt Động Quảng Cáo Thương Mại Bị Cấm Theo Luật Thương Mại 2005
 
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
 
Luận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAYLuận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAY
 
Luận Văn Pháp Luật Việt Nam Về Khuyến Mại Mới Nhất
Luận Văn Pháp Luật Việt Nam Về Khuyến Mại Mới NhấtLuận Văn Pháp Luật Việt Nam Về Khuyến Mại Mới Nhất
Luận Văn Pháp Luật Việt Nam Về Khuyến Mại Mới Nhất
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Luận văn: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh, HOT
Luận văn: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh, HOTLuận văn: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh, HOT
Luận văn: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng nhập khẩu ủy thác trong lĩnh vực dược phẩm
Luận văn: Hợp đồng nhập khẩu ủy thác trong lĩnh vực dược phẩmLuận văn: Hợp đồng nhập khẩu ủy thác trong lĩnh vực dược phẩm
Luận văn: Hợp đồng nhập khẩu ủy thác trong lĩnh vực dược phẩm
 
Luận án: Quản lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Quản lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam, HAYLuận án: Quản lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Quản lý về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam, HAY
 
Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...
Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...
Đề tài Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở việt nam hiện nay...
 
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Thỏa Thuận Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh Thương...
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Thỏa Thuận Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh Thương...Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Thỏa Thuận Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh Thương...
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Thỏa Thuận Thỏa Thuận Hạn Chế Cạnh Tranh Thương...
 
Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nayGiá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay
 

More from Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Zalo : 0932.091.562

Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Zalo : 0932.091.562
 
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Zalo : 0932.091.562
 

More from Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Zalo : 0932.091.562 (20)

Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
 
Luận Văn Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Bền Vững Cho Tỉnh Bình Thuận.
Luận Văn Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Bền Vững Cho Tỉnh Bình Thuận.Luận Văn Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Bền Vững Cho Tỉnh Bình Thuận.
Luận Văn Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Bền Vững Cho Tỉnh Bình Thuận.
 
Luận Văn Quản Lý Nhân Lực Hành Chính Xã Phường Tại Thành Phố Thái ...
Luận Văn Quản Lý Nhân Lực Hành Chính Xã Phường Tại Thành Phố Thái ...Luận Văn Quản Lý Nhân Lực Hành Chính Xã Phường Tại Thành Phố Thái ...
Luận Văn Quản Lý Nhân Lực Hành Chính Xã Phường Tại Thành Phố Thái ...
 
Tổng Kết 200+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Học – Điểm Cao Nhất!.
Tổng Kết 200+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Học – Điểm Cao Nhất!.Tổng Kết 200+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Học – Điểm Cao Nhất!.
Tổng Kết 200+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Học – Điểm Cao Nhất!.
 
Tổng Hợp 320+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Đô Thị Và Công Trình – Xuấ...
Tổng Hợp 320+  Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Đô Thị Và Công Trình – Xuấ...Tổng Hợp 320+  Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Đô Thị Và Công Trình – Xuấ...
Tổng Hợp 320+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Đô Thị Và Công Trình – Xuấ...
 
Luận Văn Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Thương Mại
Luận Văn Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Thương MạiLuận Văn Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Thương Mại
Luận Văn Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Thương Mại
 
Luận Văn Phân Tích Hoạt Động Giao Nhận Hàng Hóa Xuất Nhập Khẩu Miễn Thuế.
Luận Văn Phân Tích Hoạt Động Giao Nhận Hàng Hóa Xuất Nhập Khẩu Miễn Thuế.Luận Văn Phân Tích Hoạt Động Giao Nhận Hàng Hóa Xuất Nhập Khẩu Miễn Thuế.
Luận Văn Phân Tích Hoạt Động Giao Nhận Hàng Hóa Xuất Nhập Khẩu Miễn Thuế.
 
Luận Văn Phân Tích Tình Hình Thanh Khoản Tại Ngân Hàng Đông Á Bank.
Luận Văn Phân Tích Tình Hình Thanh Khoản Tại Ngân Hàng Đông Á Bank.Luận Văn Phân Tích Tình Hình Thanh Khoản Tại Ngân Hàng Đông Á Bank.
Luận Văn Phân Tích Tình Hình Thanh Khoản Tại Ngân Hàng Đông Á Bank.
 
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
 
Luận Văn Phân Tích Thực Trạng Nhập Khẩu Hàng Hoá Tại Công Ty
Luận Văn Phân Tích Thực Trạng Nhập Khẩu Hàng Hoá Tại Công TyLuận Văn Phân Tích Thực Trạng Nhập Khẩu Hàng Hoá Tại Công Ty
Luận Văn Phân Tích Thực Trạng Nhập Khẩu Hàng Hoá Tại Công Ty
 
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa
Luận Văn Thạc Sĩ  Quản Lý Nhà Nước Về Văn HóaLuận Văn Thạc Sĩ  Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa
 
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
 
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Thu...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Thu...Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Thu...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Thu...
 
Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững.
Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững.Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững.
Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững.
 
Luận Văn Tác Động Của Chính Sách Vốn Lưu Động Đến Hiệu Quả Tài Chính Của Các ...
Luận Văn Tác Động Của Chính Sách Vốn Lưu Động Đến Hiệu Quả Tài Chính Của Các ...Luận Văn Tác Động Của Chính Sách Vốn Lưu Động Đến Hiệu Quả Tài Chính Của Các ...
Luận Văn Tác Động Của Chính Sách Vốn Lưu Động Đến Hiệu Quả Tài Chính Của Các ...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh ViênLuận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh Viên
 
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Của Ủy Ban Nhân Dân Về Di Sản Văn Hóa Vật Thể.
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Của Ủy Ban Nhân Dân Về Di Sản Văn Hóa Vật Thể.Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Của Ủy Ban Nhân Dân Về Di Sản Văn Hóa Vật Thể.
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Của Ủy Ban Nhân Dân Về Di Sản Văn Hóa Vật Thể.
 
Luận Văn Quyền Tự Do Tôn Giáo Của Cá Nhân Tại Việt Nam.
Luận Văn Quyền Tự Do Tôn Giáo Của Cá Nhân Tại Việt Nam.Luận Văn Quyền Tự Do Tôn Giáo Của Cá Nhân Tại Việt Nam.
Luận Văn Quyền Tự Do Tôn Giáo Của Cá Nhân Tại Việt Nam.
 
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Của Trung Tâm Văn Hóa - Thể Thao.
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Của Trung Tâm Văn Hóa - Thể Thao.Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Của Trung Tâm Văn Hóa - Thể Thao.
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Của Trung Tâm Văn Hóa - Thể Thao.
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 

Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvanpanda.com Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo Khoá Luận, Luận Văn ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0932.091.562 NGÔ TUẤN DŨNG HÀ NỘI - 2022 NGÔ TUẤN DŨNG LUẬT KINH TẾ 2016 - 2018
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY NGÔ TUẤN DŨNG CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ HÀ NỘI - 2022
  • 3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, công trình nghiên cứu này là của tôi, có sự hỗ trợ từ giảng viên hướng dẫn TS. Nguyễn Trí Tuệ. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình trước Nhà trường và những quy định của pháp luật. XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN TS. Nguyễn Trí Tuệ Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Tác giả luận văn Ngô Tuấn Dũng
  • 4. ii LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Trí Tuệ với lòng nhiệt tình và sự quan tâm đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, đặc biệt là thầy cô giáo và các cán bộ của Khoa đào tạo sau Đại học của trường Đại học Mở Hà Nội đã giảng dạy và giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và rèn luyện kiến thức tại trường. Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Tác giả luận văn Ngô Tuấn Dũng
  • 5. iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................................i LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................................ii MỤC LỤC ...........................................................................................................................iii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.....................................................................v MỞ ĐẦU...............................................................................................................................6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH....................................................................................................10 1.1. Khái quát về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh................10 1.2. Định nghĩa khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ..............................122 1.3. Đặc điểm của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh..........................133 1.4. Các dạng hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh......................17 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH.......................................................................24 2.1. Nguồn của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh...........................................24 2.2. Cơ chế điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh.......................................25 2.3. Nội dung các quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh ......................26 2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................................................................................................................. 26 2.3.2. Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh..............27 2.3.3. Các chế tài để xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.28 2.3.4. Nguồn của pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh 30 2.3.5 Các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể có quy định chế tài đối với các hành vi CTKLM (Luật sở hữu trí tuệ, Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng, Pháp lệnh giá, Pháp lệnh quảng cáo…)................................................................................................... 31 2.4. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác..............................................................................................................................31
  • 6. iv 2.5. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của một số quốc gia trên thế giới ... 36 2.5.1. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Âu.....................................36 2.5.2. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ.......................................38 2.5.3. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Á.......................................41 2.5.4. Các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi..............................................................42 2.5.5. Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh..................................................................................43 Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐỐI VỚI HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH....................................................................................................49 3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh............................................................................................................................49 3.2. Nguyên nhân của những bất cập của pháp luật Việt Nam về xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ..........................................................................53 3.3. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh............................................................................................................................57 KẾT LUẬN.........................................................................................................................64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................65
  • 7. v DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Ký hiệu Nguyên nghĩa 1 CTKLM Cạnh tranh không lành mạnh 2 NĐ-CP Nghị định Chính phủ
  • 8. 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đềtài Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển khởi sắc và mạnh mẽ. Tuy nhiên, để có được sự phát triển như ngày nay thì đã có sự cạnh tranh rất khốc liệt trên thị trường, đặc biệt là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Hiện nay, cả nước ta có hàng trăm nghìn doanh nghiệp hoạt động trên khắp các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ, là cơ sở khẳng định vị trí của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có thể mang lại những hậu quả xấu đối với nền kinh tế, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng. Cạnh tranh làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, gây ra hiện tượng độc quyền, làm phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo; cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật… Do vậy, hoạt động cạnh tranh từ đối đầu sang hợp tác cùng có lợi là xu hướng tất yếu đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Khuyến mại là một trong những hoạt động thương mại được nhiều doanh nghiệp áp dụng nhằm mục đích thu hút khách hàng sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình. Mặc dù các hình thức khuyến mại đã được quy định cụ thể trong Luật Thương mại và Luật Cạnh tranh nhưng vẫn gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp cũng như các nhà thực thi pháp luật. Khuyến mại như thế nào là “lành mạnh” và khuyến mại như thế nào bị coi là “không lành mạnh” lại chưa có cách hiểu thống nhất chung giữa các văn bản luật... Vì lý do ở trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật tại khoa Luật kinh tế, Trường Đại học mở Hà Nội. 2. Tìnhhìnhnghiêncứu đề tài Pháp luật về cạnh tranh nói chung và CTKLM nói riêng là lĩnh vực pháp luật đang còn mới mẻ ở nước ta cả về mặt pháp luật thực định và trong khoa học pháp lý. Trong khi đó pháp luật về cạnh tranh trong quan hệ kinh doanh, thương mại quốc tế đã có lịch sử hình thành từ lâu đời, do đó việc chúng ta trở thành thành viên của tổ chức Thương mại
  • 9. 7 thế giới - WTO đã đặt ra nhiệm vụ mới là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về cạnh tranh nói riêng. Việc nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh nói chung và hành vi khuyến mại nhằm CTKLM là yêu cầu cấp thiết của chúng ta khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn có rất ít các công trình nghiên cứu về pháp luật về vấn đề này, đặc biệt là chưa nêu ra được các bất cập trong những quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh và hành vi khuyến mại nhằm CTKLM; nghiên cứu đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật trên về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về pháp luật về khuyến mại nhằm CTKLM là vấn đề cần được quan tâm và hoàn thiện, để tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhưng không mất tính linh hoạt, lợi ích thu được từ hoạt động xúc tiến thương mại phổ biến là khuyến mại này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích và làm rõ một số khái niệm như: Khái niệm về cạnh tranh, khái niệm về khuyến mại nhằm CTKLM, định nghĩa khuyến mại nhằm CTKLM và các quy định của pháp luật Việt Nam về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM. - Phân tích cơ sở lý luận về cạnh tranh, đồng thời phân tích các đặc điểm của hành vi khuyến mại nhằm CTKLM. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại nhằm CTKLM nêu lên những bất cập, tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật cạnh tranh và một số các văn bản pháp luật liên quan cũng như thực tế áp dụng pháp luật cạnh tranh về khuyến mại ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, nêu lên những kiến
  • 10. 8 nghị, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về khuyến mại nhằm CTKLM. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại, để từ đó nghiên cứu, để từ đó nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại. Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu các vụ việc điển hình trong thực trạng pháp luật cạnh tranh về khuyến mại để từ đó tìm ra những điểm còn hạn chế trong quy định của pháp luật về khuyến mại nhằm CTKLM. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: trong phạm vi là một luận văn Thạc sĩ Luật đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề chung mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Về thời gian: từ năm 2004 - 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thựctiễncủaluậnvăn. - Góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về pháp luật cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh về khuyến mại thông qua việc đánh giá những bất cập, hạn chế được rút từ thực tiễn phân tích, đánh giá hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành, thực
  • 11. 9 trạng khuyến mại nhằm CTKLM của doanh nghiệp. Từ đó đề ra những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan. - Sau khi hoàn thành, luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các cơ quan, cấp, ngành trong việc nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và đánh giá chính xác được thực trạng, khó khăn, bất cập trong các chế tài xử lý hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong pháp luật Việt Nam. Luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên quan tâm đến vấn đề pháp luật cạnh tranh về khuyến mãi nhằm CTKLM. Luận văn sẽ góp phần đánh giá thực trạng khuyến mại nhằm CTKLM của các chủ thể kinh doanh, của các doanh nghiệp ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn chỉnh pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, giải quyết tranh chấp và xử lý các hành vi vi phạm về vấn đề này. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương.
  • 12. 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤNĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 1.1. Khái quát về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM Mặc dù còn nhiều quan niệm, cách diễn đạt khác nhau về cạnh tranh, song điểm chung của các quan niệm về cạnh tranh là: Có ít nhất từ hai chủ thể trở lên; Các chủ thể này có chung mục đích; Các chủ thể đó cùng cố gắng giành và vượt lên các đối thủ cạnh tranh. Được diễn ra trong môi trường pháp lý bình đẳng cho mọi chủ thể kinh doanh, nếu không có môi trường pháp lý đó, cạnh tranh có thể đưa đến những hậu quả tiêu cực về xã hội. Kết quả của quá trình cạnh tranh là nếu doanh nghiệp nào đáp ứng được yêu cầu trên thị trường sẽ tồn tại và phát triển, nếu doanh nghiệp nào không đáp ứng được yêu cầu đó sẽ bị loại ra khỏi thị trường và để không bị loại “ra khỏi cuộc chơi”, các đối thủ cạnh tranh buộc phải tìm mọi cách, kể cả những biện pháp không lành mạnh, không phù hợp với đạo đức kinh doanh, đạo đức của thị trường để dành phần thắng về phía mình. Hành vi CTKLM có thể hiểu là những hành vi cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường vi phạm những chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường, có thể gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng. Quan điểm khác lại cho rằng, CTKLM là những hành vi cạnh tranh đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm đến lợi ích của chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội. CTKLM là những hành vi cụ thể, đơn phương, vì mục đích cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh luôn thể hiện tính không lành mạnh (chứ không chỉ là bất hợp pháp) mà mục đích của nó là gây cho một hay một số đối thủ cạnh tranh cụ thể sự bất lợi hay gây thiệt hại trong hoạt động kinh doanh.
  • 13. 11 Dưới góc độ pháp lý, hành vi CTKLM là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Nhìn chung, cách tiếp cận hành vi CTKLM theo quy định của pháp luật Việt Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Pari năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như pháp luật một số nước. Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là mọi hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Theo lý thuyết được thừa nhận rộng rãi ở các nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi CTKLM là hành vi vi phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của CTKLM giống như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi CTKLM, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi CTKLM và thiệt hại. Như vậy, khi đề cập đến hành vi CTKLM người ta thường nhấn mạnh đến tính “không lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là những hành vi cạnh tranh không đẹp, không phù hợp với đạo đức kinh doanh mà hệ quả của những hành vi này có thể sẽ dẫn đến gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng làm thay đổi tương quan cạnh tranh trên thị trường. Nhiệm vụ của Nhà nước là phải kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời hành vi CTKLM trên thị trường. Từ những phân tích trên, bản chất của hành vi CTKLM được thể hiện qua những dấu hiệu sau: Đây là hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trong cùng một lĩnh vực nhất định như ngân hàng, bảo hiểm, may mặc, da giầy... Hành vi này phải nhằm tới những đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định được trên cùng một phân khúc thị trường; Trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh hoặc trái với pháp luật;
  • 14. 12 Có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, Nhà nước hoặc các lợi ích xã hội khác. 1.2. Định nghĩa khuyến mại nhằm CTKLM Theo từ điển Cornu của Pháp thì cạnh tranh được hiểu là: "Chạy đua kinh tế; hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau, cung ứng hàng hóa, dịch vụ, nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để mất đi một lượng khách hàng thường xuyên”. Như vậy chúng ta thấy được cạnh tranh bao gồm các yếu tố như khách hàng, các bên tham gia cạnh tranh, thị trường liên quan, môi trường kinh doanh. Trong Luật Cạnh tranh 2004 cũng không quy định về thế nào là CTKLM mà chỉ quy định về hành vi CTKLM tại khoản 3 Điều 4 như sau:"Hành vi CTKLM là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Hành vi CTKLM được biểu hiện trong nhiều hoạt động khác nhau của doanh nghiệp trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các hành vi CTKLM được quy định rõ tại Điều 39 Luật cạnh tranh năm 2004, bao gồm : "Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; Xâm phạm bí mật kinh doanh; Ép buộc trong kinh doanh; Gièm pha doanh nghiệp khác; Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; Quảng cáo nhằm cạnh tranh khônglànhmạnh; Khuyến mại nhằm CTKLM; Phân biệt đối xử của hiệp hội; Bán hành đa cấp bất chính; Cáchành vi CTKLM kháctheo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định”. Như vậy, theo quy định trên thì có quy định rõ về việc khuyến mại nhằm CTKLM. Khuyến mại, dưới góc độ pháp lý được hiểu là hành vi thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng cách dành những lợi ích nhất định cho khách hàng. Luật Thương mại năm 2005 quy định tại khoản 1 Điều 88: "Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của
  • 15. 13 thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”. Từ những nhận thức chung về cạnh tranh, hành vi CTKLM và hoạt động khuyến mại, ta thấy rõ được các hành vi CTKLM trong hoạt động khuyến mại là những hành vi thông qua hoạt động khuyến mại của thương nhân nhưng nhằm gây ra những bất lợi cho đối thủ cạnh tranh của mình nhằm thu về cho mình những lợi ích nhất định. 1.3. Đặc điểm của khuyến mại nhằm CTKLM Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh quy định “hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Theo quy định nói trên trên, các hành vi CTKLM có những đặc điểm cơ bản như sau: Hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh Đặc điểm này thể hiện quy định về đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh. Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh chỉ bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, các hiệp hội ngành nghề. Những đối tượng còn lại như các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức của người tiêu dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế… không là đối tượng áp dụng các quy định của pháp luật về CTKLM. Đôi khi, thực tế phát sinh những tình huống một số tổ chức phi kinh tế, các đơn vị truyền thông… thực hiện những hành vi xâm phạm đến quyền CTKLM của doanh nghiệp, ví dụ tung tin không trung thực về doanh nghiệp, về hàng hóa, dịch vụ…. Với việc giới hạn chủ thể thực hiện hành vi, pháp luật cạnh tranh không áp dụng để xử lý những tình huống trên. Mặt khác, đặc điểm này cũng khẳng định hành vi CTKLM xảy ra trong kinh doanh ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh được áp dụng cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực kinh tế. Nói cách khác, pháp luật không giới hạn áp dụng cho bất kỳ ngành nghề, lĩnh vực hoặc hoạt động kinh doanh nào của kinh tế quốc dân.
  • 16. 14 Hành vi cạnh tranh trái với với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh Đặc điểm này là căn cứ lý luận để xác định bản chất không lành mạnh của hành vi. Tuy nhiên, “trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh” là thuật ngữ trừu tượng cả về pháp lý lẫn lý thuyết. Không có những căn cứ pháp lý hoặc cấu thành pháp lý cụ thể để xác định đặc điểm này. Thế nên, Cơ quan có thẩm quyền không thể sử dụng khái niệm hành vi không lành mạnh để quy kết một hành vi cụ thể của doanh nghiệp là không lành mạnh. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật cạnh tranh đã tập trung giải quyết hai nội dung sau: Một là, vì các phương pháp cạnh tranh rất đa dạng, bao gồm thủ đoạn gây nhầm lẫn, gian dối, gièm pha, bóc lột, gây rối nên Luật Cạnh tranh đã liệt kê các hành vi cạnh tranh bị coi là không lành mạnh và quy định cấu thành pháp lý của chúng. Pháp luật cạnh tranh của hầu hết các nước như Cộng hoà liên bang Đức, Nhật bản… đều có cách tiếp cận tương tự, tức là ngoài việc đưa ra khái niệm về hành vi CTKLM (Điều 1 Luật chống cạnh tranh không lành mạnh Cộng hòa Liên bang Đức quy định: “người nào trong quan hệ thương mại mà có những hành vi nhằm mục đích cạnh tranh, song những hành vi này chống lại truyền thống kinh doanh lành mạnh thì buộc phải chấm dứt hành vi đó và bồi thường thiệt hại”) còn liệt kê và mô tả từng hành vi bị coi là không lành mạnh trong cạnh tranh. Khái niệm hành vi CTKLM được quy định trong Luật cạnh tranh Việt nam và của các nước chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế, việc áp dụng sẽ căn cứ vào các quy định về từng hành vi vi phạm cụ thể như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, dèm pha doanh nghiệp khác…. Hai là, các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh được xác định dựa vào hai căn cứ sau đây: Căn cứ luật định là những tiêu chuẩn đã được định lượng hoá bằng pháp luật, một khi hành vi đi trái với các quy định pháp luật sẽ được xem là không lành mạnh. Trong trường hợp này, hành vi CTKLM đồng nghĩa với hành vi cạnh tranh bất hợp pháp. Theo đó, hành vi CTKLM có thể là hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm điều cấm của pháp luật (bao gồm các quy định cấm của Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật khác như pháp luật thương mại, pháp luật về quản lý giá, pháp luật về sở hữu trí tuệ…)
  • 17. 15 hoặc là hành vi vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh được pháp luật quy định như pháp luật khuyến mại quy định giới hạn của giá trị khuyến mại như sau: “mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại” (Điều 6 Nghị định số: 37/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.). Các tập quán kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng rãi được áp dụng đối với những hành vi chưa được pháp luật dự liệu là CTKLM. Nói cách khác, căn cứ này là biện pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về một hành vi cụ thể nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng và trái với tập quán kinh doanh. Căn cứ này đã mở rộng khả năng điều chỉnh và khắc phục được tình trạng chóng lạc hậu của pháp luật cạnh tranh. Cho đến nay, Luật cạnh tranh chưa quy định những tập quán kinh doanh nào được coi là các chuẩn mực đạo đức thông thường. Tính trái chuẩn mực đạo đức thông thường trong kinh doanh của hành vi cạnh tranh không lành mạnh đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải luôn được chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Nhận thức về các dấu hiệu, biểu hiện không lành mạnh cụ thể luôn thay đổi và có sự khác biệt theo từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể như sau: Quan niệm về tính không lành mạnh là kết quả của những ý niệm liên quan đến xã hội học, kinh tế học, đạo đức học của một xã hội nhất định nên có thể dẫn đến hiện tượng là hành vi cạnh tranh bị coi là CTKLM ở nước này, nhưng được coi là lành mạnh ở nước khác. Trong đời sống thị trường, những hành vi cạnh tranh luôn được sáng tạo không ngừng về hình thức thể hiện và phương thức cạnh tranh, làm xuất hiện những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh mới muôn mầu, muôn vẻ và phát triển không ngừng. Vì vậy, phạm vi của khái niệm CTKLM cũng phải luôn được bổ sung bởi sự nhận thức của con người về bản chất không lành mạnh của những hành vi mới phát sinh. Hiện nay, pháp luật cạnh tranh của các nước, các học thuyết liên quan đến cạnh tranh chưa đưa ra được những tiêu chuẩn chung về tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh
  • 18. 16 mà chỉ mới dựa vào việc phân tích các hậu quả của hành vi cạnh tranh đối với đời sống kinh tế, xã hội để xác định sự lành mạnh và mức độ biểu hiện của các hành vi đó. Theo sự thay đổi và phát triển của thị trường, nhận thức về mức độ ảnh hưởng của từng hành vi trên thị trường cũng thay đổi. Có những thời điểm nhất định, hành vi nào đó có thể sẽ là nguy hiểm cho xã hội, nhưng ở thời điểm khác lại không có điều kiện để gây hại cho đối thủ hoặc cho người tiêu dùng. Sự thay đổi đó đã làm cho phạm vi của khái niệm CTKLM luôn biến đổi. Hành vi gây thiệthại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp khác và người tiêu dùng Hành vi CTKLM có đối tượng xâm hại cụ thể là lợi ích của Nhà nước, của các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là hiện thực (đã xảy ra) nhưng cũng có thể chỉ là tiềm năng (có căn cứ để xác định rằng hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi). Do đó, một số hành vi CTKLM có cấu thành vật chất (thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc) như dèm pha doanh nghiệp khác; một số hành vi có cấu thành hình thức (thiệt hại không là dấu hiệu bắt buộc mà có thể chỉ là sự suy đoán nếu hành vi tiếp tục được thực hiện), ví dụ hành vi quảng cáo không trung thực…. Đặc điểm về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dưới góc độ lý thuyết hành vi CTKLM và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi hạn chế cạnh tranh là những xử sự của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp làm thay đổi một cách tiêu cực tình trạng cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh đối với thị trường. Hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại cho một, một số đối tượng cụ thể, song nghiêm trọng hơn là làm cản trở, làm suy giảm hoặc sai lệch cạnh tranh. Trong khi đó, hành vi CTKLM chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lý cạnh tranh của nhà nước mà không cản trở, sai lệch hay làm giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường. Vì vậy, cách thức và mức độ xử lý đối với hai loại hành vi này khác nhau. Dưới góc độ lịch sử phát triển, những đặc điểm về hậu quả của hành vi CTKLM thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức của con người về tính nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Ở
  • 19. 17 thời kỳ đầu tiên, pháp luật cạnh tranh chỉ nhằm chống lại các biểu hiện không lành mạnh xâm phạm lợi ích của đối thủ cạnh tranh theo quan niệm cạnh tranh phải là sự đối đầu giữa các đối thủ trên thị trường, vì vậy những hành vi xâm hại lợi ích người tiêu dùng không nằm trong khái niệm CTKLM. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, những hành vi không lành mạnh được thực hiện với khách hàng (người tiêu dùng), tưởng chừng như không liên quan đến các đối thủ cạnh tranh nhưng thực tế cũng làm tổn hại và thậm chí phá vỡ trật tự và hệ thống cạnh tranh hiện hành (Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, sđd, tr258.). Do đó, quan niệm về hành vi CTKLM đã làm cho pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh mở rộng phạm vi sang cả những hành vi xâm hại lợi ích của khách hàng, của người tiêu dùng. Hơn 20 năm phát triển thị trường của Việt Nam cho thấy CTKLM đang diễn ra trong tất cả các ngành kinh tế. Ngoài khu vực độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước, ở các khu vực khác của thị trường Việt nam đã có sự tồn tại của cạnh tranh ở những mức độ nhất định. Trong bối cảnh thực hiện nền kinh tế thị trường, ở đâu có cạnh tranh, ở đó có CTKLM. Các biểu hiện CTKLM cũng diễn ra trên các thị trường hoá mỹ phẩm, nước giải khát và trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mại, mua bán…. Các hành vi CTKLM rất đa dạng và luôn thay đổi về hình thức thực hiện. Ví dụ trong lĩnh vực quảng cáo, có thể nghi ngờ tính trung thực của thông tin được cung cấp (về khả năng tăng cường trí thông minh của các loại thuốc dinh dưỡng, về tác động của các sản phẩm sữa cho trẻ em…), về sự so sánh của các doanh nghiệp kinh doanh hóa mỹ phẩm. 1.4. Các dạng hành vi khuyến mại nhằm CTKLM Luật cạnh tranh quy định cấm bốn dạng hành vi khuyến mại nhằm CTKLM khác nhau: Thứ nhất, tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng. Các doanh nghiệp tổ chức hoạt động khuyến mại nhằm thu hút khách hàng, thông qua việc giành cho khách hàng những giải thưởng, từ đó nhằm thu hút khách hàng chú ý đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Cách thức khuyến mại thông qua việc dành cho khách hàng những giải thưởng được đưa ra dựa trên việc khách hàng có trên tâm lý mong muốn có được giải thưởng. Doanh nghiệp dựa trên tâm lý ham muốn giải thưởng của
  • 20. 18 khách hàng khi tham gia mua hàng hay sử dụng dịch vụ mà đưa ra những chương trình khuyến mại với giải thưởng rất lớn, rất hấp dẫn. Tuy nhiên, thực tế khách hàng không có cơ hội nhận được những phần thưởng dùng để khuyến mại hoặc những phần thưởng đó không đúng như chương trình khuyến mại đã đề ra. Như vậy, trong các chương trình khuyến mại này đã có sự gian dối về giải thưởng. Có nhiều hành vi gian dối khác nhau về phần thưởng đã được các doanh nghiệp thực hiện trong hoạt động khuyến mại. Trong vụ gian dối về giải thưởng của Công ty điện tử LG Việt Nam diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006 thì việc gian dối về giải thưởng thực hiện kín đáo, rất khó phát hiện. Giải thưởng được đưa ra bao gồm chiếc xe Toyota trị giá gần 30.000 đô la Mỹ (giải nhất), xe tải Huyndai 1,5 tấn (giải nhì), xe máy Honda Dylan (giải ba). Chương trình bốc thăm giải thưởng đang được diễn ra thì có một khách hàng tuyên bố lá phiếu 233 mà anh ta đang giữ cuống vé không có trong thùng phiếu. Ban tổ chức để khách hàng đó kiểm tra thùng. Quả nhiên trong thùng không có lá phiếu số 233. Và tất cả các tờ phiếu từ số 200 trở lên do một số người khác nắm giữ đều không có trong thùng. Khuyến mại gian dối về giải thưởng còn thể hiện thông qua trường hợp đưa ra giá trị giải thưởng khuyến mại rất lớn nhưng thực hiện việc trao giải thưởng thì rất nhỏ. Điển hình như chương trình khuyến mại của một công ty bia "bật nắp chai trúng thưởng” diễn ra cách đây không lâu. Trong chương trình này, cơ cấu giải thưởng gồm 200.000 giải thưởng, trong đó có 6 xe ôtô hiệu BMW, không ai có thể chắc chắn rằng có đủ 200.000 giải thưởng với 6 nắp chai in hình xe BMW trong số sản phẩm được bán trong đợt khuyến mại. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại), trong tổng số 215 tỉ đồng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà các thương nhân đăng ký thì tổng số giá trị giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng, tương đương 3% tổng số tiền đã đăng ký cho chương trình khuyến mại. Như vậy, giá trị thật mà các doanh nghiệp trao cho khách hàng nhỏ hơn rất nhiều những con số được nêu ra trong chương trình khuyến mại. Khách hàng cũng không nhận được nhiều những phần thưởng có giá trị từ các chương trình khuyến mại gian dối trên.
  • 21. 19 Khuyến mại gian dối về phần thưởng còn thể hiện thông qua việc cho khách hàng được nhận phần thưởng nhưng phải kèm điều kiện mua kèm theo các hàng hóa khác của doanh nghiệp. Trong bài báo "Đánh lừa người tiêu dùng bằng các chiêu khuyến mại” đăng trên trang web báo Lao động ngày 23/12/2010 đã đưa ra một trường hợp khuyến mại gian dối của siêu thị Vinaconex (Quang Trung – Hà Đông – Hà Nội). Một khách hàng mua sản phẩm tại siêu thị Vinaconex thì nhận được phiếu cào trong chương trình khuyến mại "Mừng giáng sinh – Chào năm mới”. Sau khi cào, khách hàng này trúng giải nhất với trị giá 500.000 đồng. Tuy nhiên, khi đến lĩnh thưởng thì điều kiện lĩnh thưởng là: "Phiếu chỉ có giá trị lĩnh thưởng khi khách hàng mang theo phiếu này và mua 01 chiếc áo Complet hoặc 01 bộ quần áo Complet tại cửa hàng”. Khách hàng này vui mừng đi xem quần áo Comple để mua thì thất vọng khi nhận ra rằng các sản phẩm này có giá từ 880.000 đồng đến 3.200.000 đồng/bộ nhưng chất lượng tồi đến mức "có cho không cũng không nhận”. Như vậy, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thường xuyên tổ chức hoạt động khuyến mại. Hình thức khuyến mại thông qua việc trao tặng các giải thưởng cho khách hàng là hình thức thu hút được nhiều khách hàng đến với doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là, các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện chương trình khuyến mại, có thể gian dối trong việc trao giải thưởng cho khách hàng. Một trong các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng khuyến mại gian dối xuất phát từ sự quản lý chưa chặt chẽ của các cơ quan chức năng hoặc do các doanh nghiệp thiếu đạo đức trong kinh doanh, vì hám lợi trước mắt mà quên nguồn lợi lâu dài từ khách hàng. Thứ hai, khuyếnmại không trung thực gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng Khuyến mại không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại không đúng về hàng hóa, dịch vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin khuyến mại sai lệch mà mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ đó. Việc khuyến mại không trung thực này tác động đến tâm lý "hám lợi” của người tiêu dùng, hay khách hàng mà khiến họ tiêu thụ nhiều hơn hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Đồng thời, việc khuyến mại sai lệch này cũng làm tác động xấu đến đối thủ cạnh tranh, làm giảm mức tiêu thụ hàng hóa của đối thủ
  • 22. 20 cạnh tranh. Điều này là do việc xuất hiện tâm lý so sánh các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại với sản phẩm, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, thông tin khuyến mại sai lệch còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của khách hàng nếu như họ không nắm bắt được thực chất của thông tin đưa ra khuyến mại. Với phương thức khuyến mại không trung thực về giá của hàng hóa sản phẩm, dịch vụ còn có một dạng hành vi phổ biến khác nữa là nâng giá hàng hóa, dịch vụ lên thật cao rồi đưa ra chiêu thức khuyến mại giảm giá với các biển hiệu quảng cáo rất ăn khách như "giảm giá 50 – 70%” hay "Đại hạ giá”… Khách hàng những tưởng mua được hàng hóa với giá rẻ, nhưng thực tế lại bị "móc túi” một cách trắng trợn mà không hề hay biết. Với chiêu thức rất đơn giản và phổ biến, các doanh nghiệp tham gia chương trình khuyến mãi tự động tăng giá bán lên 10 – 15% trước thời điểm diễn ra tháng khuyến mại, để đến khi vào chương trình khuyến mại thì lại "giảm giá”. Như vậy, doanh nghiệp vẫn đảm bảo được giá bán sản phẩm của mình, người tiêu dùng thì lầm tưởng nhận được khuyến mại từ người bán. Một điểm đáng lưu ý, các doanh nghiệp sử dụng thủ đoạn gian dối này vừa "hợp pháp”, tức là không vi phạm các quy định về tổ chức khuyến mại, lại vừa "qua mặt” được khách hàng. Vậy nên, cần có những biện pháp quản lý giá hàng hóa một cách hữu hiệu để đảm bảo quyền lợi của khách hàng và vạch trần được thủ đoạn gian dối của các doanh nghiệp trong các chương trình khuyến mại. Một thủ đoạn gian dối khác trong hoạt động khuyến mại cũng thường xuyên được sử dụng là các doanh nghiệp liên tục đưa ra những chương trình "siêu khuyến mại”, "giảm giá từ 50 – 70%” nhưng đi kèm với việc giảm giá này là chất lượng hàng hóa, dịch vụ rất thấp. Ngoài ra, khuyến mại không trung thực còn thể hiện thông qua việc gian dối trong việc thực thi cam kết khuyến mại từ phía doanh nghiệp đối với khách hàng. Tình trạng khuyến mại không trung thực, gây nhầm lẫn đối với khách hàng về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng đang xảy ra rất đa dạng và rất khó phát hiện. Các doanh nghiệp luôn nghĩ ra nhiều cách thức khác nhau để khách hàng "mắc bẫy”, và đạt được mục đích bán hàng, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Trong quy định của Luật Vạnh tranh thì cấm những hành vi này, vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng và
  • 23. 21 đối thủ cạnh tranh. Trên thực tế, những hành vi khuyến mại gian dối gây ảnh hưởng đến lợi ích của cả người tiêu dùng và các doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng vẫn diễn ra phổ biến. Hành vi này đã thể hiện rõ bản chất lừa dối khách hàng thông qua hoạt động khuyến mại và cũng tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thông qua con đường "không lành mạnh”. Thứ ba, phân biệt đối xử với khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại. Nhà làm luật đã quy định hành vi này thuộc hành vi cấm trong Luật Cạnh tranh. Hành vi này được hiểu là trong một chương trình khuyến mại chung, các thương nhân đưa ra chương trình khuyến mại nhưng lại không khách quan, công bằng, phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau trong các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau. Luật quy định rất chung chung như trên gây ra cách hiểu không chính xác về điều luật. Ở đây, cần phải làm rõ khái niệm "phân biệt đối xử”, "các khách hàng như nhau”. Hành vi phân biệt đối xử tức là hành vi của thương nhân ưu ái khách hàng này hơn khách hàng kia, dành cho họ lợi ích nhiều hơn khách hàng kia mà thực tế thì phải dành cho họ những lợi ích như nhau. Các khách hàng như nhau thì cần được hiểu tiêu chí nào là như nhau. Cần một cách hiểu rõ ràng hơn đối với quy định này của Luật Cạnh tranh. Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp, các doanh nghiệp đã cố tình "phân loại khách hàng” để cho hưởng khuyến mại. Điển hình như: Chương trình khuyến mại của mạng di động Vinaphone thực hiện từ ngày 15/5 đến 17/5/2010, khuyến mại thêm 100% số tiền nạp thẻ cho các thuê bao của mạng. Tuy chương trình khuyến mại thực hiện trong 03 ngày như trên nhưng không phải khách hàng nào cũng nhận được tiền khuyến mại. Chỉ những khách hàng nhận được tin nhắn thông báo về việc khuyến mại thì mới được hưởng khuyến mại. Tuy nhiên, một điều băn khoăn được đưa ra đó là Vinaphone dựa vào tiêu chí nào để phân loại cho các thuê bao mạng di động được hưởng khuyến mại và tổng số thuê bao được hưởng khuyến mại là bao nhiêu. Câu trả lời không rõ ràng từ phía lãnh đạo của Vinaphone, đó là tiêu chí phân loại có thể thay đổi, có khi là ưu đãi cho khách hàng trung thành, các thuê bao trả trước đã sử dụng nhiều năm, có khi là những người vừa hòa
  • 24. 22 mạng, cước phí phát sinh chưa nhiều. Rõ ràng là đã có sự phân biệt đối xử đối với khách hàng trong chương trình khuyến mại của Vinaphone. Tuy đây là một hình thức được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng trên thực tiễn thì trường hợp phân biệt đối xử này thường ít diễn ra bởi điều kiện khách quan của nền kinh tế đất nước và mong muốn chủ quan của các doanh nghiệp là cần có thêm nhiều khách hàng và mở rộng thị trường của mình. Những trường hợp phân biệt đối xử trong khuyến mại chủ yếu là hành vi xuất phát từ phía chủ quan của thương nhân muốn dành những ưu đãi của mình cho những khách hàng lâu dài và tin cậy của họ. Thứ tư, tặng hànghóacho khách hàngdùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùngloạido doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình Một trong những phương pháp để khách hàng nhanh chóng biết đến hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp là việc cho khách hàng dùng thử hàng hóa, dịch vụ. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử sẽ tạo cơ hội cho khách hàng biết về sản phẩm, cảm nhận được giá trị của sản phẩm, từ đó có thể sẽ tích cực tham gia sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình là một hành vi CTKLM. Hành vi này của doanh nghiệp xét ở góc độ sâu xa, đó là hành vi nhằm làm thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng, từ đó để khách hàng sử dụng sản phẩm của mình nhiều hơn. Kết quả là làm giảm thị phần của đối thủ cạnh tranh, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại. Bên cạnh đó, hành vi này phần nào tác động đến quyền tự do lựa chọn sử dụng sản phẩm của khách hàng. Việc pháp luật cấm các doanh nghiệp thực hiện hành vi này là hoàn toàn xác đáng, bởi lẽ khi thực hiện khuyến mại như trên đã tạo ra những hành động xấu tác động trực tiếp đối thủ của mình. Ví dụ điển hình cho hoạt động CTKLM này, đó là việc mạng di động Viettel đã tố giác mạng di động MobiFone về hành vi CTKLM. Trong đơn tố giác ngày 17/6/2009, mạng di động Viettel đã nêu rõ hành vi khuyến mại nhằm CTKLM của mạng MobiFone tại địa bàn tỉnh Hải Dương. Tại đây, MobiFone đã bán hàng lưu động với chương trình
  • 25. 23 "Đổi sim mạng khác lấy sim MobiFone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Theo đó, khách hàng có sim của mạng khác (trong đó có Viettel), còn tài khoản dưới 15.000 đồng và còn hạn sử dụng, có thể đổi miễn phí lấy 1sim MobiZone của MobiFone có sẵn trong tài khoản 50.000 đồng, mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng, tặng trong 12 tháng. Như vậy, có thể thấy đây là hành vi khuyến mại trực tiếp gây ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh của MobiFone. Hãng này thu hút khách hàng của mạng di động khác chuyển sang sử dụng dịch vụ của mình bằng việc khuyến mại không lành mạnh. Việc làm này đã vi phạm nghiêm trọng về pháp Luật Chống CTKLM. Loại hình khuyến mại này cũng đã không ít lần được các doanh nghiệp sử dụng trong quá trình xúc tiến thương mại của mình. Đây là loại hình khi thương nhân sử dụng sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của đối thủ, thay đổi thói quen người tiêu dùng, gây ra việc CTKLM. Tuy vậy, loại hình này được thương nhân sử dụng cũng xuất phát từ nguyên nhân thiếu hiểu biết về pháp luật cạnh tranh mà thương nhân vô tình vi phạm pháp luật. Nhiều thương nhân chỉ cho rằng đây là hành vi khuyến mại thông thường, cạnh tranh một cách lành mạnh, do vậy đã dẫn đến việc vi phạm pháp luật. Cần có sự tuyên truyền sâu rộng pháp luật cạnh tranh và hành vi CTKLM này để thương nhân và người tiêu dùng hiểu rõ, tránh những vi phạm pháp luật không đáng có xảy ra. Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại và Nghị định số 112/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/01/2008 của Chính phủ, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại đã có những quy định rất cụ thể về việc xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động thương mại. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật quy định cấm, được thể hiện chi tiết tại Điều 29 Nghị định 06/2008/NĐ-CP.
  • 26. 24 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 2.1. Nguồn của pháp luật về CTKLM Pháp luật về CTKLM ra đời sớm hơn pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Các quy định chống hành vi hạn chế cạnh tranh chỉ ra đời khi thị trường đã phát triển và đạt được mức độ tập trung hoá nhất định dẫn đến sự hình thành các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp mang quyền lực thị trường cần phải bị kiểm soát. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh gắn liền với sự ra đời của thương mại tự do tại Châu Âu thế kỷ 19, mà theo một số nhà nghiên cứu, khởi đầu từ Cách mạng Pháp 1791. Hệ thống các phường hội thương mại đã duy trì và phát triển luật chơi trong ngành một cách mạnh mẽ, trong khi người ta nhận thấy rõ rằng không thể trông đợi các thương nhân đơn lẻ thực hiện cạnh tranh lành mạnh một cách tự giác. Xuất phát từ Điều 1382 Bộ luật Dân sự Pháp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự nói chung, một loạt các án lệ về cạnh tranh không lành mạnh (concurrence deloyal) đã xuất hiện đem lại sự bảo vệ cho thương nhân trước các hành vi gây nhầm lẫn, gièm pha, xâm phạm bí mật kinh doanh, cạnh tranh “ăn bám” ... Trong khi đó, nước Đức từ chối mô hình của Pháp và sau gần một thế kỷ đã ban hành một đạo luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh (1909) trong đó đưa ra các quy định giới hạn nghiêm ngặt hoạt động kinh doanh của thương nhân, trong đó có những hành vi ngày nay được coi là rất thông thường trong thực tiễn thương mại, như là khuyến mại, giảm giá. Còn ở trung tâm công nghiệp và pháp lý thứ ba của Châu Âu thời kỳ đó là nước Anh, người ta không theo mô hình luật chung kết hợp với án lệ của Pháp, cũng không theo mô hình luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh của Đức. CTKLM trong hệ thống Thông luật của Anh quốc chỉ gói gọn trong việc mô tả các hành vi gây nhầm lẫn về nhãn hiệu (passing off), gắn liền với pháp luật về sở hữu trí tuệ, và sau đó hệ thống pháp luật Hoa Kỳ cũng tiếp tục cách tiếp cận này trong việc điều chỉnh CTKLM. Như vậy, có thể thấy nguồn của pháp luật về CTKLM tương đối đa dạng, bao gồm cả án lệ, luật tục, luật thành văn, trong đó luật thành văn có thể là quy định chung của pháp luật về dân sự, thương mại, cũng có thể là một đạo luật riêng về cạnh tranh
  • 27. 25 không lành mạnh, hay là rải rác các quy định nằm trong các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan. 2.2. Cơ chế điều chỉnh hành vi CTKLM Mặc dù pháp luật về CTKLM xuất phát từ nhiều nguồn và thể hiện quan điểm lập pháp khác nhau ở mỗi quốc gia, cơ chế điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này vẫn có những đặc trưng cơ bản thống nhất và cũng là những đặc trưng của cơ chế điều chỉnh pháp luật cạnh tranh nói chung, đó là tính tiếp cận từ mặt trái và tính không triệt để trong nội dung điều chỉnh đối với các hoạt động cạnh tranh . - Tính chất tiếp cận từ mặt trái: Trong khi các văn bản pháp luật về kinh tế khác tập trung quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ - những việc được làm và phải làm - của chủ thể tham gia kinh doanh, thì pháp luật cạnh tranh chỉ khoanh vùng các hành vi bị ngăn cấm trong hoạt động cạnh tranh, chứ không hướng dẫn các đối tượng điều chỉnh cần làm những gì hoặc phải làm những gì. - Tính chất không triệt để trong nội dung điều chỉnh: các quy định của pháp luật cạnh tranh, đặc biệt là về CTKLM, không bao giờ quy định đầy đủ và triệt để toàn bộ các hành vi phản cạnh tranh tồn tại trong nền kinh tế xã hội. Quy định của luật thường đặt ra điều khoản mở cho phép cơ quan công quyền có thể bổ sung các hành vi mới xuất hiện có ảnh hưởng xấu đến cạnh tranh và xét thấy cần điều chỉnh, ngăn chặn. Mặt khác, đối với các hành vi đã được quy định trong luật, bên cạnh một số hành vi bị cấm đoán tuyệt đối (per se rule), nhiều hành vi khác được xem xét theo nguyên tắc hợp lý (rule of reason), cho phép cơ quan xử lý chiếu theo hoàn cảnh thực tế của vụ việc để cân nhắc xem xét hành vi có xâm hại đến cạnh tranh và ảnh hưởng xấu cho xã hội hay không. Bên cạnh đó, các điều khoản miễn trừ dành cho các hành vi dạng này cũng là một đặc điểm nhận diện của pháp luật cạnh tranh tại mọi quốc gia. Những đặc trưng trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh có nguyên nhân cả về lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, cho đến nay cho dù đã có nhiều học thuyết tiếp cận nghiên cứu, nhưng các nhà làm luật không thể đưa ra kết luận cụ thể về nội hàm khái niệm cạnh tranh lành mạnh, vốn bao trùm lên nhiều lĩnh vực khác nhau. Về
  • 28. 26 mặt thực tiễn, hoạt động cạnh tranh cũng chính là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thương nhân trên thương trường, hết sức đa dạng và phong phú. Do đó, không thể đưa vào luật một danh sách những hành vi được coi là cạnh tranh lành mạnh để hướng dẫn cho những doanh nghiệp, thương nhân tham gia thị trường. Quy định đóng khung các hành vi cạnh tranh “được phép” sẽ kìm hãm, ngăn cản sự sáng tạo trong kinh doanh, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Cách tiếp cận từ mặt trái của cạnh tranh phù hợp với nguyên tắc chung của tự do trong kinh doanh, theo đó cá nhân, tổ chức kinh doanh có thể tự do “làm những việc mà pháp luật không cấm”. Cũng chính vì hoạt động kinh doanh đa dạng, phong phú, có thể ở từng thời điểm, từng hoàn cảnh khác nhau mà một hành vi sẽ bị xác định là phản cạnh tranh khi đi ngược lại lợi ích của nhà nước và xã hội, nhưng ở một thời điểm, hoàn cảnh khác thì hành vi đó lại không xâm hại đến lợi ích công và không đáng bị ngăn cấm. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh đặt ra những điều khoản mở và những quy định miễn trừ cho phép áp dụng pháp luật một cách linh hoạt. Cần thấy rằng, các lĩnh vực pháp luật khác cũng có sự mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi các hành vi, quan hệ xã hội được điều chỉnh, ngay cả lĩnh vực có chế tài nghiêm khắc nhất là hình sự cũng có quá trình tội phạm hoá và phi tội phạm hoá các hành vi bị coi là nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, do tính linh hoạt trong hoạt động cạnh tranh, trong quan hệ kinh doanh mạnh hơn trong các quan hệ xã hội khác rất nhiều, cơ chế điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh cũng trở nên tuỳ nghi và khả biến hơn rất nhiều so với cơ chế điều chỉnh của những ngành luật khác. Chính vì vậy, do dù nằm trong hệ thống Thông luật hay Dân luật, hầu hết các quốc gia có xây dựng pháp luật cạnh tranh đều cho phép cơ quan cạnh tranh có một thẩm quyền rộng rãi trong việc vận dụng và áp dụng pháp luật, cũng như thừa nhận sự tồn tại của hệ thống án lệ trong quá trình xử lý các vụ việc cạnh tranh. 2.3. Nội dung các quy định pháp luật về CTKLM 2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài đối với hành vi CTKLM Chế tài đối với hành vi CTKLM là những hình thức trách nhiệm pháp lý được Nhà nước áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh, buộc các chủ thể đó phải gánh chịu những
  • 29. 27 hậu quả bất lợi do đã có hành vi CTKLM gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác. Vai trò của các chế tài đối với hành vi CTKLM: - Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, chống lại hành vi CTKLM của các doanh nghiệp đối thủ. - Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (khách hàng). - Là công cụ góp phần tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, công bằng. 2.3.2. Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi CTKLM Thứ nhất, hành vi CTKLM Hành vi cạnh tranh có bản chất là hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh, hủy hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo. Thứ hai, thiệt hại trong CTKLM Thiệt hại là một đặc điểm cơ bản của hành vi CTKLM và là điểm phân biệt giữa CTKLM với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Việc xác định thiệt hại (vật chất hoặc tinh thần) là một yêu cầu bắt buộc và cần thiết để bên bị hại có căn cứ đòi bồi thường và cơ quan có thẩm quyền áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi CTKLM và thiệt hại Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại là mối quan hệ trực tiếp, nội tại, không phải là sự suy diễn chủ quan. Hành vi CTKLM là hành vi diễn ra trước, thiệt hại trực tiếp do hành vi đó gây ra xảy ra sau. Bên thực hiện hành vi CTKLM chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý và các chế tài tương ứng khi gây ra thiệt hại nhất định cho đối thủ cạnh tranh, mà nguyên nhân trực tiếp là hành vi CTKLM của mình. Thứ tư, lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh Lỗi được xác định là trạng thái tâm lý của người có hành vi vi phạm, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Việc xác định lỗi trong cạnh tranh thường phải dựa vào các tập quán nghề nghiệp. Hành vi cạnh tranh bị
  • 30. 28 coi là có lỗi và không lành mạnh là hành vi vi phạm các tập quán nghề nghiệp, phá vỡ quan hệ bình đẳng, công bằng trongquan hệ cạnh tranh trênthị trường. 2.3.3. Các chế tài để xử lí hành vi khuyến mại nhằm CTKLM Một là, chế tài hành chính Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, các hình thức chế tài xử lý vi phạm về CTKLM chủ yếu là các chế tài hành chính, được quy định trong các quy phạm pháp luật mang tính xử phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra (Điều 117). Các hình thức xử lý đó đã được Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết, bao gồm: Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền đến 100 triệu đồng. Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài các hình thức xử phạt đó, đối tượng vi phạm còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc cải chính công khai. Hai là, chế tài hình sự Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi CTKLM được quy định tại Chương XVI "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009, biểu hiện dưới các tội danh như: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158); tội lừa dối khách hàng (Điều 162); tội quảng cáo gian dối (Điều 168); tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171); tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b); tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c).
  • 31. 29 Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt rất nặng như tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Ba là, chế tài dân sự Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng trong hệ thống chế tài áp dụng đối với hành vi CTKLM. Chức năng chủ yếu của bồi thường thiệt hại là khôi phục, đền bù, nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần mà bên mang quyền phải gánh chịu do hành vi vi phạm các quy tắc trong kinh doanh của bên kia gây ra. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh của nướcnào cũng quy định chế tài này. Theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại thì phải dẫn chiếu đến pháp luật dân sự. Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theocác quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tại Chương XXI của Bộ luật Dân sự năm 2005 và pháp luật có liên quan. Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định được pháp luật thừa nhận, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, chế tài bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác. Bốn là, mối quan hệ giữa các hình thức chế tài Các chế tài có bản chất, nội dung, hậu quả trái ngược nhau thì không thể áp dụng đồng thời. Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh có tính độc lập nhất định, trừ một số biện pháp bổ sung, khắc phục hậu quả trong các chế tài hành chính. Đối với hành vi CTKLM, không có sự chuyển hóa giữa vi phạm hành chính với tội phạm theo lý thuyết thông thường. Hậu quả không phải là căn cứ tiên quyết để xác định áp dụng chế tài hành chính hay chế tài hình sự, vì thiệt hại luôn là dấu hiệu bắt buộc trong việc xác định hành vi CTKLM. Tính chất nguy hiểm của hành vi không căn cứ vào sự phân tích tầm quan trọng của quan hệ xã hội mà hành vi xâm hại, mà căn cứ vào những viện dẫn
  • 32. 30 của Điều luật. Những chế tài mang tính trách nhiệm vật chất thường có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác. Vì vậy, khi doanh nghiệp thực hiện hành vi CTKLM gây ra thiệt hại cho chủ thể khác thì tất yếu phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự. Nghĩa là chế tài bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự. 2.3.4. Nguồn của pháp luật về chế tài đối với hành vi CTKLM - Luật Cạnh tranh Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004 và có hiệu lực ngày 01/7/2005, là nguồn mang tính nguyên tắc chung, điều chỉnh quan hệ cạnh tranh và quy định thủ tục xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việc điều tra, xử lý vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh và áp dụng chế tài đối với hành vi vi phạm phải tuân theo trình tự, thủ tục và thẩm quyền mà Luật Cạnh tranh quy định. Trong trường hợp có xung đột giữa Luật Cạnh tranh và các lĩnh vực pháp luật khác thì ưu tiên áp dụng Luật Cạnh tranh. - Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính Chế tài đối với hành vi CTKLM được quy định cơ bản tại Luật Cạnh tranh, ngoài ra Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng có những quy định liên quan. Đó là các quy định cụ thể về hình thức xử phạt, mức phạt tiền đối với các vi phạm thuộc các lĩnh vực khác nhau, các biện pháp khắc phục hậu quả cũng như thủ tục áp dụng các chế tài cho đối tượng vi phạm. Pháp lệnh còn quy định trong những trường hợp cụ thể, nếu hành vi cạnh tranh không lành mạnh có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan chức năng phải chuyển hồ sơ vụ việc để truy cứu trách nhiệm hình sự. Các hình thức xử lý vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh đã được quy định chi tiết tại Nghị định của Chính phủ, bao gồm các chế tài phạt tiền, các hình thức xử phạt bổ sung, các biện pháp khắc phục hậu quả. - Bộ luật Dân sự Với tư cách là một trong những nguồn của pháp luật về CTKLM, chế định bồi thường thiệt hại được quy định trong Bộ luật Dân sự đã góp phần điều chỉnh các hành vi vi phạm về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ thể bị xâm hại.
  • 33. 31 -Bộ luật Hình sự Nếu hành vi CTKLM có dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự thì sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà định tội danh và áp dụng chế tài hình sự thích hợp. Hiện tại, Bộ luật Hình sự năm 2015 của Việt Nam đã có quy định về việc áp dụng chế tài hình sự đối với một số hành vi CTKLM, cụ thể tại các điều: 156, 157, 158, 162, 168, 171, 181a, 181b, 181c. 2.3.5. Các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể có quy định chế tài đối với các hành vi CTKLM (Luật Sở hữu trí tuệ, Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng, Pháp lệnh giá, Pháp lệnh quảng cáo…) Do phạm vi điều chỉnh rộng, các quy định về CTKLM trong nhiều trường hợp được sử dụng với tính chất bổ trợ cho các lĩnh vực pháp luật khác điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do đó, pháp luật về CTKLM có quan hệ chặt chẽ với nhiều lĩnh vực pháp luật khác, như pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; pháp luật bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật về quản lý giá và các lĩnh cực pháp luật chuyên ngành khác như: bảo hiểm,viễn thông, ngân hàng, hàng không… 2.4. Pháp luật về CTKLM trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác Do phạm vi điều chỉnh rộng và các tiêu chí đánh giá mở đối với CTKLM, các quy định về CTKLM trong nhiều trường hợp được sử dụng với tính chất “quét”, bổ trợ cho các lĩnh vực khác trong hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do đó, pháp luật về CTKLM có quan hệ chặt chẽ với nhiều lĩnh vực pháp luật khác, và các quan hệ này làm tăng thêm tính chất chồng lấn trong các quy định về hành vi CTKLM. Xuất phát từ đặc điểm này, đã hình thành cái gọi là Nguyên tắc ưu tiên (Pre- emption principle) trong thực tiễn áp dụng pháp luật về CTKLM của nhiều quốc gia, đặc biệt là tại Châu Âu. Theo nguyên tắc tại, pháp luật CTKLM chỉ được áp dụng trong trường hợp hành vi vi phạm chưa chịu sự điều chỉnh theo quy định của các văn bản pháp
  • 34. 32 luật khác i. Mức độ áp dụng nguyên tắc này tại mỗi quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào cách tiếp cận của mỗi hệ thống pháp luật trong việc điều chỉnh CTKLM. - Quan hệ với pháp luật dân sự: Pháp luật về dân sự là luật chung điều chỉnh về các quan hệ giao dịch cũng như giải quyết các tranh chấp trên thị trường. Như đã phân tích ở trên, một trong những nguồn của pháp luật về CTKLM là chế định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort), theo đó các doanh nghiệp bị thiệt hại từ hành vi CTKLM có thể sử dụng các quy định của tố tụng dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Mặt khác các nguyên tắc chung của pháp luật dân sự về tự do, tự nguyện, trung thực trong giao dịch… cũng được sử dụng để làm tiêu chí đánh giá tính chất không lành mạnh của một hành vi vi phạm. Pháp luật dân sự là luật gốc để phát triển các quy định về CTKLM, cho dù các quy định này trong khuôn khổ một đạo luật riêng, hay nằm trong các bộ phận khác nhau của pháp luật dân sự như pháp luật thương mại, pháp luật về sở hữu trí tuệ hay pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh đó, một số nước vẫn sử dụng các quy định của pháp luật dân sự để điều chỉnh trực tiếp về CTKLM và toà án đóng vai trò xử lý các hành vi vi phạm. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, pháp luật về CTKLM dần tách khỏi khuôn khổ của pháp luật dân sự và mang nhiều yếu tố hành chính. CTKLM không còn là vấn đề của luật tư liên quan đến tranh chấp giữa hai chủ thể kinh doanh trên thị trường và trong nhiều trường hợp, nhân danh lợi ích công, nhà nước cần phải can thiệp để duy trì trật tự trong kinh doanh, qua đó tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh. Trật tự trong kinh doanh đem lại lợi ích cả cho nhà nước lẫn các chủ thể tham gia hoạt động thị trường. Vì vậy, các biện pháp quản lý và chế tài hành chính dần xuất hiện trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật về CTKLM và cơ quan cạnh tranh được trao thẩm quyền nhiều hơn trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh. - Quan hệ với pháp luật về sở hữu trí tuệ: mối quan hệ giữa pháp luật chống CTKLM và pháp luật về sở hữu trí tuệ có từ rất lâu. Như đã giới thiệu, các quy định mang tính quốc tế đầu tiên về cạnh tranh không lành mạnh xuất phát từ một công ước về sở hữu trí tuệ (Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp), và cho tới nay nhiều nhà nghiên cứu về pháp luật sở hữu trí tuệ vẫn khẳng định quyền chống CTKLM là một trong
  • 35. 33 những quyền cơ bản của chủ sở hữu tài sản trí tuệ. Bảo vệ quyền sở hũu trí tuệ chính là một trong những xuất phát điểm cơ bản của các quy định CTKLM, vì về bản chất, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đều được tiến hành với động cơ CTKLM. Một hành vi chỉ bị coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khi chủ thể thực hiện nó có ý định hoặc đã đưa tài sản trí tuệ của người khác vào khai thác thương mại, đồng nghĩa với việc trở thành một đối thủ cạnh tranh của chính chủ sở hữu tài sản trí tuệ đó. Hiện nay, sự phân biệt giữa pháp luật về CTKLM và pháp luật về sở hữu trí tuệ tập trung ở đối tượng được bảo vệ. Pháp luật về sở hữu trí tuệ hướng tới việc bảo hộ các đối tượng tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập một cách rõ ràng, đầy đủ thông qua các thủ tục đăng ký, cấp văn bằng bảo hộ hoặc các tiến trình pháp lý khác do nhà nước quy định. Sự bảo vệ pháp luật dành cho các đối tượng này do đó cũng là đầy đủ và vững chắc nhất. Trong khi đó, pháp luật về CTKLM bảo vệ các lợi thế cạnh tranh không được bảo hộ thông qua văn bằng, chẳng hạn như nhãn hiệu chưa đăng ký hoặc bí mật kinh doanh. Do việc xác lập quyền đối với các đối tượng này không trải qua thủ tục chặt chẽ như đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, nên sự bảo hộ mà pháp luật về CTKLM dành cho chủ sở hữu không thể mạnh mẽ bằng các biện pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ. Trong các vụ việc CTKLM liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, bên khiếu nại thường phải chứng minh quyền hợp pháp đối với đối tượng bị vi phạm, bao gồm việc tạo lập, duy trì, sử dụng phổ biến, lâu dài và không có tranh chấp... Hay xét trên một khía cạnh khác, nếu như pháp luật về sở hữu trí tuệ bảo vệ vị thế chung của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, thì pháp luật về CTKLM bảo vệ chủ sở hữu chống lại một số dạng hành vi nhất định xâm phạm đến tài sản trí tuệ. Do đó, sự bảo hộ của pháp luật về CTKLM không mang tính liên tục, mà chỉ phát sinh khi xuất hiện tranh chấp. Vì vậy, pháp luật về CTKLM trong nhiều trường hợp được coi là là công cụ bổ trợ cho việc thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ. - Quan hệ với pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng: Pháp luật về CTKLM ngày càng có xu hướng tiếp cận gần hơn với pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng khi đặt trọng tâm bảo vệ người tiêu dùng bên cạnh trọng tâm bảo vệ các đối thủ cạnh tranh và môi trường cạnh tranh nói chung. Các hành vi CTKLM thuộc nhóm thứ 3 trên đây, đặc biệt là các dạng hành vi mang tính chất lừa dối, cưỡng ép… có mặt trong nhiều đạo luật về bảo
  • 36. 34 vệ người tiêu dùng. Đặc biệt, Cộng đồng Châu Âu đã có một văn bản riêng quy định về các hành vi thương mại không lành mạnh (unfair trade practice) là Chỉ thị số 2005/29/EC ngày 11/5/2005 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các Chỉ thị số 84/450/EEC, 97/7/EC, 98/27/EC và 2002/65/EC quy định riêng về quảng cáo gây nhầm lẫn. Trước đây, có một số quan điểm cho rằng sự phân biệt giữa pháp luật về CTKLM và pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nằm đối tượng được bảo vệ, pháp luật về CTKLM chỉ bảo vệ các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường cũng như môi trường cạnh tranh chung, trong khi vai trò bảo vệ người tiêu dùng đương nhiên thuộc về pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng ngày càng gắn bó và không thể tách rời. Nếu như cạnh tranh trên thị trường được định nghĩa một cách đơn giản là việc giành giật khách hàng trongkinh doanh, thì giữa ba bên doanh nghiệp – khách hàng/người tiêu dùng – các đối thủ cạnh tranh có quan hệ gắn bó khó có thể tách rời. Việc lôi kéo, thu hút khách hàng bằng các thủ đoạn bất chính chắc chắn sẽ làm thiệt hại cho các doanh nghiệp cạnh tranh kinh doanh trung thực, lành mạnh, mặt khác, những thủ đoạn lợi dụng hoặc làm mất uy tín của đối thủ cạnh tranh cũng ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng, khiến họ nhầm lẫn và trả tiền cho các hàng hoá, dịch vụ không đúng như mong muốn của mình. Môi trường cạnh tranh lành mạnh chính là môi trường ở đó quyền lợi của người tiêu dùng được đảm bảo ở mức cao nhất. Một yếu tố khác có thể sử dụng để phân biệt phạm vi áp dụng của pháp luật về CTKLM là thời điểm tác động. Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt thể hiện tại các quy định về giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại, có khuynh hướng quan tâm tới việc bảo vệ người tiêu dùng trong và sau khi xảy ra giao dịch, trong đó xác định được cụ thể một hay một nhóm người tiêu dùng chịu tác động từ hành vi vi phạm. Trong khi đó, pháp luật về CTKLM bảo vệ hướng tới việc bảo vệ đối tượng người tiêu dùng nói chung, hay có thể gọi một cách khác là một số đông những người tiêu dùng tiềm năng, trước khi họ tham gia giao dịch. Thông qua việc ngăn chặn những hành vi lừa dối, gây nhầm lẫn, lôi kéo bất chính… pháp luật về CTKLM góp phần loại bỏ khả năng phát sinh các vi phạm gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mặt khác, trong trường hợp xác định một
  • 37. 35 hoặc một số người tiêu dùng cụ thể do chịu tác động của hành vi CTKLM đã tham gia giao dịch và chịu thiệt hại, vụ việc nên được điều chỉnh theo các quy định về bảo vệ người tiêu dùng, và hành vi lừa dối hay gây nhầm lẫn của thương nhân sẽ được coi là căn cứ để xác định sự vô hiệu của giao dịch. - Quan hệ với pháp luật về hạn chế cạnh tranh: Cuối cùng, pháp luật về CTKLM cũng có sự gắn bó với bộ phận thức hai của pháp luật cạnh tranh nói chung, đó là pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Có thể hình dung nếu như hành vi hạn chế cạnh tranh là những hành vi đẩy lùi cạnh tranh, làm cạnh tranh vận hành dưới mức bình thường, dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh, thì CTKLM là những hành vi đẩy cạnh tranh lên quá mức, khiến nó vận hành quá nóng, vượt khỏi các giới hạn có thể chấp nhận được của thị trường và xã hội. Dù có sự phân chia thành hai lĩnh vực, song cả pháp luật chống CTKLM và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh đều hướng tói mục đích bảo vệ cơ chế cạnh tranh, bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh và thông qua đó bảo vệ lợi ích của toàn thể người tiêu dùng xã hội. Pháp luật chống CTKLM ra đời trước, từ khi cơ chế thị trường mới hình thành với các hoạt động cạnh tranh sơ khai đã có những hành vi vượt ra ngoài khuôn khổ, cần phải điều chỉnh. Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ra đời sau, khi thị trường đã phát triển và tập trung hoá đến một mức độ nhất định để có thể phát sinh những trung tâm quyền lực thị trường. Tuy nhiên, điều chỉnh hạn chế cạnh tranh lại được xem là nền tảng của pháp luật cạnh tranh, vì đó là bảo vệ toàn bộ cơ chế cạnh tranh. Nếu cạnh tranh bị thủ tiêu, toàn bộ các hoạt động cạnh tranh trên thị trường, dù là lành mạnh hay không lành mạnh, sẽ không còn nữa. Do đó, thái độ của Nhà nước đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh thường quyết liệt và nghiêm khắc hơn rất nhiều. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại chống CTKLM cũng chính là chống các động thái có thể đưa đến tình trạng hạn chế cạnh tranh, và các hành vi hạn chế cạnh tranh có thể nhìn nhận một cách khái quát cũng mang bản chất không lành mạnh. Như đã trình bày ở phần trên, pháp luật một số quốc gia quy định các hành vi hạn chế cạnh tranh dạng “nhẹ” vào khuôn khổ điều chỉnh của pháp luật về CTKLM.
  • 38. 36 Hai bộ phận pháp luật trên đây bổ sung cho nhau, tạo thành khuôn khổ pháp luật chung điều chỉnh cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Thiếu một trong hai bộ phận, cơ cấu thị trường cũng như tương quan lợi ích của các chủ thể hoạt động trên đó sẽ không thể được bảo vệ một cách đầy đủ và toàn diện. 2.5. Pháp luật về CTKLM của một số quốc gia trên thế giới 2.5.1. Pháp luật về CTKLM tại Châu Âu Châu Âu là nơi khởi đầu của pháp luật về CTKLM, và cũng là nơi phát sinh các cách tiếp cận khác biệt trong quá trình xây dựng pháp luật về cạnh tranh không. Như đã trình bày tại phần trên, ba trung tâm kinh tế lớn của Châu Âu là Pháp, Đức và Anh có những cách điều chỉnh CTKLM riêng, trong đó đáng ngạc nhiên là hệ thống của Pháp lại có nhiều điểm gần với Anh hơn là Đức. - Pháp và Anh đều điều chỉnh hành vi CTKLM trên cơ sở các nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort law) và cụ thể hoá thông qua các án lệ. Một số nước khác cũng xây dựng pháp luật về CTKLM theo hướng này là Hà Lan và Italia. Tại các quốc gia này, toà án có vai trò rất lớn trong việc đánh giá hành vi CTKLM và quyết định biện pháp xử lý, với chế tài chủ yếu là bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai hệ thống Dân luật và Thông luật trong cách thức áp dụng pháp luật đối với lĩnh vực này. Trong hệ thống của Pháp, phạm vi áp dụng tort law đối với hành vi CTKLM tương đối rộng, Toà án có thẩm quyền xem xét và phán quyết nhiều hành vi cạnh tranh khác nhau, từ đó hình thành các án lệ đa dạng về các hành vi gây cản trở hoạt động cạnh tranh (concurrence déloyal) và các hành vi lợi dụng thành quả của đối thủ cạnh tranh (concurrence parasitaire). Trong các vụ việc tại toà án, bên nguyên đơn cần chứng minh sự tồn tại của hành vi CTKLM, thiệt hại xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại; và bên bị đơn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không cần xét đến yếu tố lỗi (cố ý) đối với hành vi vi phạm. Hà Lan cũng áp dụng mô hình này, tuy nhiên với nguyên tắc “doanh nghiệp được thực hiện mọi hoạt động cạnh tranh không bị cấm bởi quy định pháp luật” kết hợp với nguyên tắc ưu
  • 39. 37 tiên, việc sử dụng các điều khoản chung của pháp luật dân sự để xử lý vụ việc cạnh tranh bị hạn chế hơn. Trong khi đó, hệ thống Thông luật của Anh chỉ thừa nhận việc áp dụng tort law về CTKLM đối với một số dạng hành vi cụ thể như gây nhầm lẫn, mạo nhận về nhãn hiệu (passing off) và xâm phạm bí mật kinh doanh. Do đó, để được toà án giải quyết, các vụ việc về CTKLM phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định, và các thẩm phán có thể từ chối thụ lý nếu vụ việc liên quan đến các hành vi thị trường nằm ngoài phạm vi các hành vi CTKLM nêu trên.. - Bên cạnh đó, một số nước đã lựa chọn cách tiếp cận sử dụng luật chuyên ngành (lex specialis) để điều chỉnh hành vi CTKLM. Một số nước như Đức, Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ, Luxemburg đã có một đạo luật riêng về CTKLM, một số nước khác như Hungary, Bulgary hay Rumani xây dựng các quy định về CTKLM trong một đạo luật về thương mại hay cạnh tranh. Các quốc gia này đã luật hoá một số dạng hành vi CTKLM điển hình, dựa trên cơ sở các khuyến nghị tại Điều 10 bis Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp, và lấy đó làm cơ sở cho việc thực thi pháp luật về CTKLM. Tuỳ thuộc vào quan điểm điều tiết nền kinh tế thị trường của từng quốc gia tại từng thời kỳ nhất định, danh sách các hành vi CTKLM bị cấm có thể nhiều hay ít. Cách tiếp cận này một mặt khiến cho các quy định về CTKLM rõ ràng và dễ áp dụng, nhưng mặt khác khiến cho quá trình thực thi trở nên cứng nhắc và gây khó khăn cho cơ quan thực thi trong việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh mới xuất hiện, hay có sự thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội. Ví dụ, nhiều nước tại Châu Âu trong một thời gian dài đã coi việc một doanh nghiệp tìm kiếm và thu hút các khách hàng đã có quan hệ hợp đồng ổn định với doanh nghiệp cạnh tranh khác là một dạng thức CTKLM. Tuy nhiên rõ ràng trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do, quy định như vậy là không hợp lý, một mặt không đảm bảo quyền tự do lựa chọn cho khách hàng, mặt khác không tạo động lực khuyến khích các doanh nghiệp có động lực phát triển. Việc sửa đổi, bổ sung danh sách các hành vi CTKLM đã được luật hoá đòi hỏi phải có những nỗ lực lập pháp với thủ tục không dễ dàng, nhiều khi không đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh chóng và linh hoạt của cơ chế thị trường.
  • 40. 38 - Trong nhiều năm gần đây, đã có những nố lực để thống nhất các quy định về cạnh tranh không lành mạnh giữa các nước thành viên EU trong khuôn khổ chương trình hài hoà hoá pháp luật chung (legal harmonisation) của Cộng đồng Châu Âu. Dựa trên Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu Công nghiệp, các quốc gia Châu Âu đã phát triển các quy định chung theo nhiều hình thức, cấp độ, từ các nguyên tắc cơ bản về cạnh tranh tại Hiệp ước Rome 1957 đến những thoả thuận nhóm như Luật Nhãn hiệu chung của khối Benelux 1971 và những hướng dẫn chung từ EC đến các nước thành viên như Chỉ thị số 2005/29/EC. Mặc dù vậy, tính đến sự khác biệt còn tồn tại giữa hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên, EU vẫn phải bổ sung một số nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật, trong đó đặc biệt quan trọng là nguyên tắc nước xuất xứ tại Điều 28 của Hiệp ước Châu Âu, theo đó pháp luật của quốc gia nhập khẩu được ưu tiên áp dụng để đánh giá tính hợp pháp trong việc kinh doanh một loại hàng hoá nhất định. EC cũng đã ban hành Quy định số 2006/2004 ngày 27/10/2004 về việc hợp tác giữa các cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia thành viên. 2.5.2. Pháp luật về CTKLM tại Hoa Kỳ Mặc dù đã phát triển hệ thống các quy định về hạn chế cạnh tranh từ rất lâu (Luật Sherman – 1890), các quy định về CTKLM của Hoa Kỳ lại tương đối phân tán. Các nhà lập pháp của Hoa Kỳ kết hợp cả hai cách tiếp cận của Châu Âu trong việc điều chỉnh hành vi CTKLM, sử dụng các các quy định chung về bồi thường thiệt hại dân sự cũng như một số quy định chuyên ngành, và thậm chí có sự khác biệt giữa pháp luật liên bang và pháp luật các tiểu bang. Các quy định cạnh tranh quan trọng nhất có thể kể đến là Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang (1914) và Luật Nhãn hiệu liên bang, hay còn gọi là Luật Lanham (1946). Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang đặt cơ sở cho việc thành lập Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ (US FTC), một trong hai cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật cạnh tranh ở Mỹ. Khác với cơ quan cạnh tranh còn lại là Cục Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp chuyên trách về hạn chế cạnh tranh theo Luật Chống độc quyền, chức năng của Uỷ ban Thương mại Liên bang rộng hơn, bên cạnh chức năng điều tra và giám sát các vụ việc chống độc quyền, còn bao gồm việc xử lý “các cách thức CTKLM