Cơ sở lý luận và thực tiễn xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo đạc và bản đồ. Khái niệm “Dịch vụ công - public Service” được sử dụng phổ biến rộng rãi ở châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Theo quan niệm của nhiều nước, DVC luôn gắn với vai trò của Nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ này. Từ góc độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng DVC là những hoạt động của cơ quan Nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý hành chính Nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của Nhà nước đối với những hoạt động cung ứng hàng hóa công cộng. Cách tiếp cận khác xuất phát từ đối tượng được hưởng chủ yếu của DVC là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do Nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm.
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
Cơ sở lý luận và thực tiễn xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo đạc và bản đồ.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG
CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG VỀ ĐO ĐẠC VÀ BẢN ĐỒ
1.1. Các khái niệm chủ yếu trong hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo
đạc và bản đồ.
1.1.1. Dịch vụ công
1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ công
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng của Nguyễn Như Ý (chủ biên) thì “dịch vụ”
được hiểu là công tác hoạt động sinh hoạt thường ngày cho đông đảo dân chúng.
Thuật ngữ DVC hiện nay được hiểu với nhiều khái niệm khác nhau, chưa có
một khái niệm chung duy nhất, cụ thể như:
Theo từ điển Petit Larousse của Pháp xuất bản năm 1992 đã định nghĩa: “DVC
là hoạt động vì lợi ích chung, do cơ quan Nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm”.
Khái niệm “Dịch vụ công - public Service” được sử dụng phổ biến rộng rãi ở
châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Theo quan niệm của nhiều nước, DVC
luôn gắn với vai trò của Nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ này. Từ góc độ
chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng DVC là những
hoạt động của cơ quan Nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý hành chính
Nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết
yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của Nhà nước đối
với những hoạt động cung ứng hàng hóa công cộng. Cách tiếp cận khác xuất phát từ
đối tượng được hưởng chủ yếu của DVC là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
xã hội và cộng đồng, còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do Nhà nước hoặc tư
nhân đảm nhiệm.
DVC là những hoạt động và bảo đảm phục vụ cho lợi ích chung tối cần thiết của
xã hội, do các cơ quan công quyền hay các chủ thể được cơ quan công quyền ủy
nhiệm đứng ra thực hiện[57].
9
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
DVC được hiểu là những hàng hóa và dịch vụ mà Chính phủ có trách nhiệm
cung ứng hoặc quản lý việc cung ứng nhằm đảm bảo lợi ích của công dân. Theo đó,
DVC là loại dịch vụ do Nhà nước trực tiếp thực hiện hoặc ủy quyền cho đơn vị ngoài
Nhà nước thực hiện dưới sự giám sát của tổ chức công quyền. Có thể hiểu DVC là
dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm phục vụ những yêu cầu cơ bản, thiết yếu chung
của người dân không vì mục tiêu lợi nhuận. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, DVC
bao gồm cả Dịch vụ công cộng lẫn dịch vụ hành chính công. Nhóm Dịch vụ công
cộng liên quan đến dịch vụ xã hội như trường học, bệnh viện, hoạt động nghiên cứu...;
dịch vụ công ích bao gồm cả cung ứng nước sạch, vệ sinh môi trường, giao thông
công cộng... Nhóm dịch vụ hành chính công gồm cấp phép, chứng nhận, xác nhận,
thu các khoản đóng góp vào ngân sách, quỹ Nhà nước; giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm hành chính, luật pháp[39].
Vì vậy, trong nghiên cứu khoa học, dù có nhiều khái niệm về DVC, nhưng nhiều
nhà nghiên cứu khoa học đã chung quan điểm: “DVC là những hoạt động của các tổ
chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được nhà nước uỷ
quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp nhu cầu thiết
yếu chung của cộng đồng, công dân, theo nguyên tắc không vụ lợi, đảm bảo sự công
bằng và ổn định xã hội”[50].
1.1.1.2. Đặc điểm dịch vụ công
Các DVC mặc dù rất đa dạng cả về tính chất và hình thức cung ứng nhưng đều
mang những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, DVC có tính xã hội.
Dịch vụ này được thực hiện trong phạm vi rộng, bao gồm các hoạt động vì lợi
ích cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi công dân một cách bình đẳng, không
phân biệt giai cấp, địa vị xã hội.
Thứ hai, nhà nước có trách nhiệm đảm bảo cung ứng DVC.
Là một loại dịch vụ do Nhà nước (cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của
Nhà nước) trực tiếp thực hiện hoặc ủy quyền cho các tổ chức, đơn vị ngoài Nhà nước
thực hiện dưới sự giám sát của Nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, nhân dân
(những nhu cầu tối thiểu, thiết yếu).
10
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thứ ba, nhà nước không phải là chủ thể duy nhất cung ứng DVC.
DVC cung ứng loại “hàng hóa” không phải hàng hóa bình thường mà là hàng
hóa đặc biệt do Nhà nước cung ứng hoặc uỷ quyền cho tổ chức, cá nhân thực hiện,
đáp ứng yêu cầu toàn xã hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có hình thái vật chất
hay tinh thần.
Thứ tư, nguyên tắc không chỉ vì lợi nhuận khi cung ứng DVC.
Việc trao đổi DVC không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông thường,
người sử dụng DVC không trực tiếp trả tiền, hay đúng hơn là đã trả tiền dưới hình
thức đóng thuế vào ngân sách Nhà nước. Cũng có những DVC mà người sử dụng vẫn
phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí, song Nhà nước vẫn có trách nhiệm đảm bảo
cung ứng các dịch vụ này không vì mục tiêu lợi nhuận.
Bên cạnh đó, theo bài viết “XHH DVC: Quan điểm tiếp cận và kinh nghiệm từ
một số nước” của GS.TS. Trần Ngọc Hiên đăng trên tạp chí Cộng sản ngày 18/6/2012
thì DVC có những đặc điểm: có tính chất xã hội cao; có mục tiêu là phục vụ lợi ích
cộng đồng; không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội; công bằng và có tính quần chúng
rộng rãi.
1.1.2. Xã hội hóa dịch vụ công
1.1.2.1. Khái niệm xã hội hóa dịch vụ công
Thuật ngữ XHH được đề cập đến rất nhiều trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên
lại chưa có một khái niệm chung duy nhất mà phụ thuộc vào cách tiếp cận của các tác
giả khác nhau thì khác nhau, cụ thể như:
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nxb. Văn hóa - Thông tin thì thuật ngữ XHH
được giải thích là làm cho thành của chung.
Một nhà xã hội học người Nga tên là G.Andreeva đã nêu khái niệm: “XHH là
quá trình hai mặt, Một mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm
nhập vào môi trường, hệ thống các quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất
một cách chủ động hệ thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham
gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội”[51].
11
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Một nhà xã hội học người Mỹ tên là Pichter đã viết: “XHH là một quá trình
tương tác giữa người này với người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn
mẫu hành động và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó” [53].
Một định nghĩa khác của các nhà xã hội học thuộc trường đại học Tennessee -
Mỹ: “XHH là một quá trình học hỏi để cho một con người động vật trở thành một con
người xã hội” [53].
Dưới góc độ tiếp cận xã hội học thì khái niệm XHH là quá trình mà qua đó cá
nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hóa của xã hội như các khuôn mẫu xã hội. Quá trình
mà nhờ đó cá nhân đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy
nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò xã hội của mình, qua đó nhằm giúp cá nhân có
thể hòa nhập vào xã hội chung hay một nhóm xã hội cụ thể nào đó[53].
Trên bài báo “Những kỳ dị đằng sau cụm từ 'XHH' giáo dục” được đăng trên
báo Vietnamnet ngày 22/7/2007 của GS. Bùi Trọng Liễu thì cụm từ “XHH” (tiếng
Pháp là socialisation) vẫn thường được dùng theo nghĩa “tập thể hóa”, “đặt dưới chế
độ cộng đồng”, “quản lý hay điều khiển của nhà nước nhân danh xã hội”.
Theo TS. Nông Phú Bình (2000), Một số thuật ngữ hành chính, Nxb. Thế giới
thì “XHH là quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản
lý mới của một số lĩnh vực hoạt động KT-XH, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm
khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát
triển KT-XH của đất nước”.
Một cách tiếp cận khác của GS. Ngô Thành Dương[14] khái niệm XHH là nói
lên sự chuyển hóa từ tính chất cá nhân thành tính chất xã hội, dùng chữ "hóa" là muốn
nói đến sự chuyển hóa từ cái này sang cái kia. Ví dụ: "Công nghiệp hóa" là nói sự
chuyển hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. "Hiện đại hóa"
là nói sự chuyển hóa từ một nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại,…
XHH là một hình thức đang được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành, lĩnh vực
hiện nay do Nhà nước trực tiếp cung ứng. XHH tạo cơ hội để có thể tồn tại hoạt động
cung ứng DVC của nhiều tổ chức ở các thành phần kinh tế khác nhau thuộc sở hữu
khác nhau. Các tổ chức này cùng cung ứng DVC trong môi trường pháp lý
12
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
bình đẳng và cùng cạnh tranh với nhau về chất lượng cung ứng. Tuy nhiên, tùy thuộc
vào điều kiện cụ thể mà các thành phần kinh tế sẽ tham gia ở mức độ khác nhau.
Chính phủ không muốn độc quyền, nhưng các thành phần kinh tế khác không muốn
tham gia do hiệu quả kinh tế mà họ nhận được. Các thành phần kinh tế thường lựa
chọn những lĩnh vực nào đem lại lợi nhuận cao, ít rủi ro để tham gia.
XHH hoạt động cung ứng DVC với sự ra đời của nhiều chủ thể kinh tế thuộc
các thành phần khác nhau kéo theo đòi hỏi Nhà nước phải trao quyền tự quản nhiều
hơn cho các đơn vị cung ứng DVC. Họ phải được quyền quyết định tất cả các vấn đề
liên quan đến hoạt động cung ứng DVC trong khuôn khổ pháp luật đã quy định. Vai
trò quản lý vĩ mô của các cơ quan Nhà nước tập trung vào việc xây dựng hành lang
pháp lý cho sự hoạt động của tất cả các tổ chức cung ứng DVC chứ không phải để
can thiệp và hoạt động cụ thể của các chủ thể đó.
Do XHH hoạt động cung ứng DVC là thu hút sự tham gia của các thành phần
kinh tế tự chủ về tài chính đòi hỏi phải trao quyền quyết định điều hành cho họ. Có
như thế mới bảo đảm được hiệu quả hoạt động cung ứng DVC. Sự can thiệp của Nhà
nước sâu vào hoạt động cụ thể của doanh nghiệp có thể làm sai lệch đường chi phí
và làm nản lòng các nhà đầu tư trong lĩnh vực này[49].
Theo Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ thì “XHH theo
hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các
dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh… đẩy mạnh XHH, huy
động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia
đình, thể dục, thể thao”.
Theo Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP, đã xác lập hành lang pháp
lý tương đối cụ thể cho việc XHH cung ứng DVC, lôi cuốn tư nhân tham gia cùng
với Nhà nước trong việc bảo đảm các DVC cho công dân và tổ chức trong xã hội.
XHH DVC đã mang lại nhiều thay đổi trong quá trình cung ứng dịch vụ, nâng cao
chất lượng dịch vụ, tạo thuận lợi hơn cho người dân khi tiếp cận dịch vụ và giảm gánh
nặng chi của ngân sách nhà nước[3].
13
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tuy nhiên, vấn đề là cần có sự phân định rõ ràng, những lĩnh vực do Nhà nước
thực hiện, những lĩnh vực mà Nhà nước có thể giao cho tư nhân thực hiện và những
lĩnh vực mà Nhà nước và tư nhân cùng thực hiện để tránh tình trạng Nhà nước ôm
đồm, độc quyền nhưng thực hiện không hiệu quả, những việc mà đáng ra thuộc về
khu vực tư.
Tóm lại, XHH DVC được hiểu là quá trình mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác
các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội cùng tham gia với Nhà nước
trong việc cung ứng dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Điều đó
cũng có nghĩa là, tăng cường vai trò của khu vực tư nhân, tái cấu trúc lại khu vực
công vốn bao trùm lên gần như toàn bộ hoạt động KT-XH, chuyển giao bớt nhiệm vụ
cho khu vực tư nhân. Nhà nước đang dần chuyển hướng từ Nhà nước "chèo thuyền”
sang Nhà nước “lái thuyền”[3].
1.1.2.2. Vai trò xã hội hóa dịch vụ công
Thứ nhất, XHH DVC nâng cao chất lượng DVC được cung ứng.
Xã hội đều có những vấn đề chung liên quan đến cuộc sống của tất cả mọi người,
đó là các vấn đề như trật tự trị an, giáo dục, y tế, dân số, TN&MT… Trong khi đó,
DVC là những hoạt động phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xã hội, đảm bảo cho xã
hội phát triển bền vững có kỷ cương, trật tự. Do vậy, tính ưu việt của một xã hội được
phản chiếu một cách rõ ràng qua chất lượng cung ứng DVC. Để giải quyết thành công
các vấn đề trên, cần có sự góp sức của cả nhà nước, cộng đồng và các tổ chức xã hội
thông qua việc cung ứng các DVC. Nếu các DVC bị ngừng cung ứng hoặc cung ứng
không đầy đủ, chất lượng thấp thì sẽ dẫn đến những rối loạn trong xã hội, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của mỗi người dân, đồng thời tác động tiêu cực đến sự
phát triển của địa phương, cũng như quốc gia.
Thứ hai, XHH DVC thể hiện các định hướng phát triển quốc gia.
Việc cung ứng DVC cho xã hội một mặt là trách nhiệm của Nhà nước trước xã
hội, là nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước; mặt khác nhu cầu về DVC là một đòi hỏi,
một quyền lợi của người dân mà Nhà nước phải cam kết thực hiện trước nhân dân.
Do đó, nó phải có vị trí độc lập tương đối so với các nhiệm vụ chung khác của quản
lý KT-XH. Người dân phải hiểu hưởng thụ DVC là một quyền lợi, một đòi hỏi
14
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
chính đáng mà Nhà nước phải có trách nhiệm đáp ứng để có trách nhiệm giám sát các
hoạt động quản lý nhà nước đối với cung ứng DVC[17]. Cho nên Đảng và Nhà nước
cần phải có một chiến lược khoa học trong quản lý nhà nước đối với cung ứng DVC.
Chiến lược quản lý cung ứng DVC của Đảng và Nhà nước là một đòi hỏi bắt
buộc mang tính khách quan để giúp Nhà nước hoàn thành sứ mệnh quản lý của mình.
Đây đang là một hạn chế lớn của Đảng và Nhà nước ta bởi DVC vẫn còn là vấn đề
mới mẻ; hiện nay chiến lược quản lý cung ứng DVC của Đảng và Nhà nước đối với
xã hội ở nước ta chưa được định hình một cách rõ nét. Nhà nước cần phải ưu tiên đẩy
mạnh công tác nghiên cứu lý luận của Đảng trong việc hình thành tri thức chỉ đạo xã
hội làm nền tảng cho công cuộc đổi mới đất nước; phải khẳng định rõ cung ứng DVC
cho xã hội là một chức năng quan trọng của Đảng và Nhà nước mà Chính phủ là
người có trách nhiệm tổ chức thực hiện[17].
Thứ ba, XHH DVC giúp phát huy tiềm năng và năng lực của xã hội trong việc
phục vụ cộng đồng
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, yêu cầu đổi mới cung ứng DVC là
xu hướng tất yếu của nền hành chính hiện đại. Để đạt được thành công trong công
cuộc đổi mới này, Nhà nước sẽ phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp liên quan đến
tất cả các lĩnh vực cung ứng DVC, việc chuyển giao ở mức độ nhất định trách nhiệm
cung ứng cho khu vực tư nhân thông qua quá trình XHH DVC. Ở Việt Nam, vấn đề
XHH DVC đã được thể chế bằng chủ trương, chính sách của Nhà nước. Với chủ
trương này, Nhà nước khuyến khích người dân tham gia vào các DVC, đa dạng hóa
các hoạt động cung ứng DVC.
XHH nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, Tuy nhiên,
thực tế công tác XHH chưa đảm bảo định hướng đã đề ra, kết quả đạt được còn ít và
thiếu vững chắc so với tiềm năng. XHH là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các
tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội, nhiều tiềm năng được khơi dậy,
hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh mẽ, số lượng các doanh nghiệp trong
cả nước tăng lên nhanh chóng nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đổi mới cơ chế
quản lý và phương thức cung ứng các DVC. Cùng với việc Nhà nước tiếp
15
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tục tăng nguồn lực, đầu tư tập trung cho các mục tiêu, các chương trình phát triển
quốc gia, cần phát huy tiềm năng trí tuệ và các nguồn lực vật chất trong nhân dân,
của toàn xã hội để cùng Nhà nước chăm lo phát triển đời sống nhân dân.
Thứ tư, XHH DVC giúp nhà nước tập trung nguồn lực để cung ứng tốt hơn các
DVC chỉ do nhà nước cung ứng
Có những loại DVC tối cần thiết cho cuộc sống vật chất và tinh thần của con
người mà tư nhân không thể cung ứng hoặc cung ứng không đầy đủ, không bảo đảm
lợi ích cho xã hội. Nhà nước với tư cách là một tổ chức công quyền có trách nhiệm
cung ứng hoặc điều tiết, kiểm soát việc cung ứng các DVC này nhằm đảm bảo sự ổn
định, công bằng và hiệu quả của nền kinh tế.
Trong đời sống xã hội cũng tồn tại một dạng DVC đặc biệt[17] mà không một
tư nhân nào ngoài Nhà nước đứng ra cung ứng, cho dù tư nhân đó có nguồn lực to
lớn đến đâu. Loại dịch vụ này gắn liền với chức năng quản lý nhà nước. Các cơ quan
trong bộ máy nhà nước có nhiệm vụ ban hành chính sách, văn bản pháp quy, quản lý
các công việc của đời sống xã hội, bảo đảm cho xã hội phát triển có kỷ cương, trật tự.
Tất cả những công việc nói trên thuộc về chức năng vốn có của bộ máy hành chính
nhà nước. Nói cách khác, nhân dân tổ chức ra Nhà nước, trao quyền lực cho Nhà nước
để Nhà nước thực thi những nhiệm vụ của một cơ quan công quyền, dùng quyền lực
công để quản lý toàn bộ xã hội. Những quyền lực này không thể giao cho bất kỳ một
cá nhân hoặc tổ chức tư nhân nào, dù tổ chức đó có tiềm lực lớn đến đâu. Như vậy,
thông qua việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước vốn có của mình, Nhà nước có
trách nhiệm cung ứng cho xã hội những DVC mà không một tư nhân nào có thể đứng
ra cung ứng.
Thứ năm, XHH DVC góp phần thúc đẩy CCHC
Trong giai đoạn hiện nay, việc hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương và là trọng
tâm của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng và Nhà nước ta, thì CCHC
là nhiệm vụ cấp bách trọng tâm, hàng đầu và là nhiệm vụ cần thiết để xây dựng một
nền hành chính dân chủ, minh bạch, chuyên nghiệp lấy dân làm gốc.
Ở những nước phát triển, công cuộc CCHC rộng lớn, đã xem xét lại vai trò của
hầu như tất cả các cơ quan nhà nước. Nhằm giúp Chính phủ nâng cao khả năng
16
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cung ứng DVC có chất lượng tốt; định hướng thị trường, khách hàng và kết quả được
coi là những nguyên lý then chốt dẫn dắt việc tái cấu trúc tổ chức và nâng tầm văn
hóa của các cơ quan hành chính. Cuộc cải cách diễn ra trong tất cả các tổ chức công
từ trung ương đến địa phương; trong các doanh nghiệp nhà nước, đã được nhà nước
và những tổ chức có sự tham gia của nhà nước tài trợ. Phát triển theo xu hướng này,
việc hiện đại hóa hoạt động quản lý khu vực DVC đã ngày càng mở rộng.
DVC có vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi người dân và trong sự
phát triển của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cuộc sống và sự phát triển
con người. Do đó, thực hiện tốt trách nhiệm quản lý nhà nước đối với DVC là yếu tố
tạo niềm tin của công dân đối với Nhà nước. Xây dựng cho đất nước một hệ thống
DVC hiệu quả, hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của các tổ chức và công dân là một trong
những mục tiêu hướng tới của các quốc gia. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, nước ta có thể và cần thiết phải học hỏi kinh nghiệm các nước đi trước trong
quản lý DVC. Những bài học đúc kết từ quá trình cải cách quản lý và cung ứng DVC
của một số nước trên thế giới gợi mở hướng đi tiếp theo cho nước ta trong nỗ lực tiếp
tục cải cách khu vực công nói chung và cải cách quản lý DVC nói riêng[15].
Phân tích quá trình cải cách cung ứng DVC cho thấy, những năm trước Đổi mới,
Nhà nước cung ứng và thể hiện rõ mối quan hệ trực tiếp giữa các tổ chức công quyền
với người dân. Ở giai đoạn này, DVC thường được cung ứng miễn phí hoặc với mức
giá thấp. Từ đòi hỏi năng lực sản xuất xã hội ngày càng cao, giảm bớt kế hoạch hóa
và kiểm soát tập trung; mặt khác, do thiếu nguồn lực nên việc cung ứng DVC có nhiều
hạn chế so với kỳ vọng, buộc Chính phủ phải tìm nguồn lực ngoài Nhà nước. Đây
chính là đòi hỏi để XHH những DVC, chuyển một phần gánh nặng Chính phủ cho xã
hội nhờ vào huy động sự đóng góp của công dân, dựa trên nguyên tắc thu phí từ phía
người sử dụng nhằm vận hành và sử dụng tối ưu nguồn lực kinh tế quốc gia.
Nhà nước CCHC thông qua tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh XHH, đổi mới cơ
chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp DVC; từng bước
17
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công phù hợp; chú trọng đổi
mới cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tự chủ, công khai,
minh bạch (theo kết quả điều tra có đến 72.90% khách hàng cho biết mức độ công
khai, minh bạch về đo đạc và bản đồ là rất thấp và thấp(xem phụ lục 2)). Chuẩn hóa
chất lượng dịch vụ đơn vị sự nghiệp; nâng cao chất lượng DVC, từng bước tiếp cận
với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách
DVC; có lộ trình XHH thực hiện DVC hợp lý[10].
1.1.2.3. Điều kiện để xã hội hóa dịch vụ công
Thứ nhất, đặt mục tiêu nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công
XHH DVC là việc Nhà nước chia sẻ với xã hội cung ứng các dịch vụ vốn dĩ
trước đây chỉ thuộc về Nhà nước mà các dịch vụ đó không nhất thiết phải do Nhà
nước mới thực hiện được (ví dụ: công chứng, giáo dục, y tế, giao thông...). Nói cách
khác, đây là quá trình mở rộng sự tham gia của các chủ thể xã hội và tăng cường vai
trò của Nhà nước đối với DVC[26].
Cần phải xác định rõ mục tiêu mà công cuộc cải cách DVC hướng tới là chất
lượng dịch vụ chứ không phải là mức độ XHH. XHH loại hình dịch vụ này chỉ là
phương thức để đạt được chất lượng DVC mong muốn. Ở nhiều nước phát triển, xu
thế chuyển giao DVC cho các tổ chức khu vực tư ngày càng được áp dụng nhiều dưới
những hình thức khác nhau. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm cung ứng những lĩnh vực
mà khu vực tư không hoặc chưa tham gia. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, hoạt động
cung ứng DVC của khu vực Nhà nước thường kém hiệu quả hơn so với khu vực tư
nhân. Đối với Việt Nam, hiện nay cung ứng DVC vẫn phụ thuộc phần lớn vào Nhà
nước vì khu vực tư chưa đủ năng lực để cung ứng tốt các dịch vụ này. Do vậy, cần
phải xác định được lĩnh vực nào cần XHH và XHH ở cấp độ nào sẽ đem lại hiệu quả
tốt nhất cho người dân, chứ không vì tiêu chí XHH mà thiếu quan tâm tới chất lượng
dịch vụ.
Thứ hai, cần có cơ chế quản lý phù hợp
Xu thế chung của các quốc gia trên thế giới là thu hẹp bộ máy của Chính phủ,
giảm bớt các bộ phận không cần thiết làm cho bộ máy của Chính phủ hoạt động năng
động và hiệu quả hơn. Khi bộ máy thu hẹp lại thì một số chức năng, công việc
18
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
sẽ chuyển cho tư nhân đảm nhiệm, Chính phủ chỉ tập trung vào các nhiệm vụ quản lý
vĩ mô[26].
Nhằm đẩy mạnh XHH trong cung ứng DVC, Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật như: Nghị quyết số 90/NQ-CP ngày 21/8/1997 về phương
hướng và chủ trương XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa; Nghị định số
73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 về chính sách khuyến khích đối với hoạt động trong
lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa và thể thao; Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày
18/4/2005 về đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao. Từ
các cơ sở pháp lý này, hàng loạt cơ sở cung ứng dịch vụ trong các lĩnh vực y tế, giáo
dục, văn hóa và thể thao đã ra đời. Đồng thời, đã nảy sinh nhiều vấn đề về kiểm soát
chất lượng dịch vụ. Thông thường, các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân chú trọng
nhiều đến lợi nhuận, luôn có xu hướng đẩy giá dịch vụ lên cao, các loại phí dịch vụ
bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ yếu, cơ chế tài chính không minh bạch[26].
Bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, chức năng, nhiệm vụ chưa phù hợp, phân
cấp chưa rõ ràng, phương thức, thủ tục cung ứng DVC còn rườm rà, đội ngũ cán bộ,
công chức còn nhiều điểm yếu kém. Xuất hiện nhiều mâu thuẫn trong quản lý: mâu
thuẫn giữa khoản kinh phí bao cấp quá lớn với ngân sách nhà nước còn hạn hẹp; mâu
thuẫn giữa khối lượng cung ứng với năng lực của bộ máy nhà nước; mâu thuẫn giữa
nhu cầu tăng nhanh với khả năng cung ứng có hạn của Nhà nước; mâu thuẫn giữa ưu
thế vốn có với chất lượng và hiệu quả DVC.
Thứ ba, cải thiện dịch vụ công trong khu vực Nhà nước
Gắn liền với xu thế thu hẹp bộ máy Chính phủ, khu vực tư nhân ngày càng phát
triển mạnh đòi hỏi Nhà nước phải chia sẻ một số lĩnh vực trước đây chỉ thuộc về Nhà
nước mà tư nhân có thể thực hiện được.
XHH không có nghĩa là Nhà nước bị loại mất vai trò quản lý của mình, ngược
lại vai trò quản lý nhà nước cần tăng lên khi thiết lập lại vai trò và trách nhiệm của
Nhà nước trong việc cung ứng DVC. Sự thiếu vắng vai trò quản lý nhà nước và bỏ
mặc theo kiểu “khoán trắng” có thể dẫn đến sự mất ổn định trong cung ứng DVC và
làm cho quá trình XHH thiếu tính bền vững, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
19
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Đặc biệt, trong những lĩnh vực trước đây Nhà nước nắm độc quyền hoặc những dịch
vụ do “cầu” vượt quá “cung” (như lĩnh vực giáo dục đại học chẳng hạn) dẫn đến sự
độc quyền tự nhiên trong cung ứng dịch vụ, thì vai trò quản lý nhà nước là vừa đảm
bảo các mục tiêu phát triển xã hội trên cơ sở huy động nguồn lực, vừa phải đảm bảo
quá trình XHH diễn ra theo quy luật của thị trường.
Dân số đông, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao, nhu cầu xã hội ngày
một lớn, chỉ Nhà nước thực hiện cung ứng các dịch vụ cho xã hội thì không thể đáp
ứng được nhu cầu của người dân. Vì vậy, Nhà nước để cho xã hội tự cung ứng và
điều tiết các nhu cầu nhằm giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước, thực hiện “Nhà nước
và Nhân dân cùng làm”.
1.2. Sự cần thiết của xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo
đạc và bản đồ
1.2.1. Yêu cầu khách quan
Thứ nhất, do yêu cầu phát triển đời sống KT-XH
Trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ kỹ thuật, nền kinh tế thị
trường và xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội đã buộc Nhà nước ở các quốc gia
trên thế giới một mặt nâng cao trách nhiệm quản lý xã hội, một mặt phải thu hút sự
tham gia mạnh mẽ của người dân vào công tác quản lý nhà nước. Đây là một động
lực thúc đẩy tiến trình CCHC nhằm tiến tới xây dựng một nền hành chính hiện đại,
hướng tới hiệu quả phục vụ, đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội và công dân. XHH DVC
không chỉ diễn ra ở các nước đang phát triển mà hiện nay đó là một xu hướng tất yếu
của các quốc gia trên thế giới, nhu cầu XHH DVC về đo đạc và bản đồ cũng không
nằm ngoài xu hướng đó, là một nhu cầu tất yếu khách quan như một nội dung trong
đổi mới phương thức hoạt động của Chính phủ.
Cần xác định đúng và đủ các đối tượng chính sách xã hội thụ hưởng DVC để
đảm bảo công bằng cho các đối tượng, hạn chế sự lạm dụng nguồn lực nhà nước đối
với các DVC mang tính xã hội, đảm bảo những chính sách, ưu đãi của Nhà nước kịp
thời đến đúng đối tượng thụ hưởng ở những vùng khó khăn.
Lĩnh vực đất đai nói chung và đo đạc và bản đồ nói riêng là lĩnh vực tương đối
phức tạp và nhạy cảm (theo kết quả điều tra có đến 80,38% khách hàng cho biết
20
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
pháp luật đo đạc và bản đồ phức tạp và rất phức tạp(xem phụ lục 2)), nó đụng chạm
đến quyền lợi của mọi công dân đặc biệt là nông dân. Với mục tiêu xây dựng hoàn
thiện hệ thống pháp luật về đo đạc và bản đồ để phục vụ cho công tác quản lý, sử
dụng tiết kiệm đất, sử dụng đất có hiệu quả, bảo vệ môi trường (BVMT) để phát triển
bền vững, phục vụ các nhiệm vụ phát triển KT-XH, phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm công bằng xã hội và phục vụ ngày càng tốt hơn
cho tổ chức, cá nhân.
Thứ hai, do đặc điểm của nền kinh tế thị trường
Cho đến nay, loài người vẫn chưa tìm được hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh nào có hiệu quả hơn là kinh tế thị trường[41]. Một đặc điểm quan trọng của
nền kinh tế thị trường là hướng sự chú ý tới khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng, trong khi đó khu vực tư là khu vực linh hoạt hơn khu vực công trong
cung ứng dịch vụ về thời gian, giá cả, phương thức thanh toán,... cũng như phương
thức quản lý như tuyển dụng, trả lương, huy động các nguồn tài chính,...Vì vậy, sự
mở rộng tham gia của các chủ thể khác ngoài Nhà nước trong việc cung ứng DVC
nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của dịch vụ, thỏa mãn nhu cầu cao nhất của
khách hàng, điều này phù hợp theo kết quả điều tra có đến 76,64% khách hàng cho
biết rằng cần phải XHH để nâng cao hiệu quả cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ
(xem phụ lục 2).
Thông qua nhiều cơ chế, chính sách khác, Nhà nước có biện pháp hữu hiệu để
giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bình đẳng xã hội trong việc đáp
ứng nhu cầu XHH hoạt động cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ. Tức là, tạo ra những
điều kiện cần thiết để mọi tổ chức, cá nhân đều có cơ hội tham gia, giành thắng lợi và
được lựa chọn ngang nhau trên thị trường XHH hoạt động cung ứng DVC về đo đạc
và bản đồ; pháp luật phải triệt để ngăn chặn bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có
ý đồ hạn chế điều đó. Nhiệm vụ của Nhà nước là phải ban hành pháp luật tạo điều
kiện cho tự do cạnh tranh một cách hoàn hảo trên lĩnh vực XHH hoạt động cung ứng
DVC về đo đạc và bản đồ.
21
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thứ ba, sự thay đổi tương quan giữa khu vực công với khu vực tư
Một là, sự phát triển ngày càng cao của khoa học và công nghệ dẫn đến khu vực
tư có khả năng tiếp nhận một số dịch vụ trước đây chỉ thuộc về Nhà nước như công
nghệ thông tin, đo lường, phương tiện kiểm tra, giám sát,.... Điều này tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ bao gồm nội dung
rất rộng, rất đa dạng như khảo sát, lập đề án, dự án, thiết kế kỹ thuật - dự toán công
trình đo đạc và bản đồ; kiểm tra, nghiệm thu chất lượng công trình, sản phẩm đo đạc
và bản đồ; xây dựng lưới trọng lực, thiên văn, tọa độ, độ cao; chụp ảnh, quét địa hình
từ máy bay; đo vẽ, thành lập bản đồ địa hình; đo vẽ, thành lập bản đồ địa hình đáy
biển; đo vẽ, thành lập bản đồ địa chính; thành lập bản đồ hành chính; đo vẽ, thành lập
bản đồ địa giới hành chính; xây dựng CSDL đo đạc và bản đồ; xây dựng CSDL địa
lý; thành lập bản đồ chuyên đề, Atlas địa lý; khảo sát địa hình; đo đạc công trình;
kiểm định các thiết bị đo đạc....
Hai là, mức sống của người dân ngày càng cao đòi hỏi sự phục vụ ngày càng
cao cả về chất lượng lẫn số lượng. Xã hội càng phát triển lên bao nhiêu, nhu cầu của
con người càng đa dạng bấy nhiêu. Nhà nước dần dần không thể tự mình trực tiếp
cung ứng nhiều DVC về đo đạc và bản đồ đa dạng đó của tổ chức, cá nhân. Một xu
hướng khách quan đang ngày càng tăng lên ở các xã hội phát triển là việc cung ứng
các DVC về đo đạc và bản đồ được chuyển dần cho khu vực tư nhân trong khuôn khổ
pháp luật cho phép và nhận cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ cho mọi đối tượng
theo hợp đồng được thỏa thuận giữa hai bên.
Ba là, sự kém hiệu quả của khu vực công so với với khu vực tư. Khu vực công
chỉ chú ý đến việc cung ứng dịch vụ theo yêu cầu chứ không phải người thụ hưởng
dịch vụ; chỉ chú ý đầu vào chứ không chú ý đến hiệu quả; cung ứng cho khách hàng
cái mà họ có chứ không phải cái mà khách hàng lựa chọn; thiếu sự gắn kết giữa người
cung ứng dịch vụ và người dân.
1.2.2. Yêu cầu chủ quan
Thứ nhất, tiết kiệm ngân sách nhà nước
Trong xã hội, đặc biệt xã hội đô thị ngày càng phát triển dẫn đến việc ngày càng
có nhiều vấn đề phức tạp phát sinh, trong khi ngân sách nhà nước thì có hạn;
22
15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
mặt khác, đời sống người dân đô thị ngày càng cao, ngày càng có nhiều người có đủ
điều kiện cung ứng những dịch vụ thuộc về Nhà nước. Chính vì thế cần phải có sự
huy động sự tham gia của cá nhân và tổ chức ngoài Nhà nước trong việc cung ứng
DVC ở đô thị.
Thứ hai, năng lực bộ máy cung ứng dịch vụ
Người dân ở đô thị với sự phát triển ngày càng cao về nhận thức và nhu cầu;
trong khi khả năng cung ứng dịch vụ của bộ máy nhà nước thì có hạn cả về chất lượng
và khối lượng dịch vụ cung ứng. Nhằm cung ứng cho xã hội các dịch vụ có chất lượng
nhưng giá cả hợp lý, yêu cầu phải có sự tham gia của các chủ thể khác trong xã hội.
Thứ ba, yêu cầu nâng cao tính cạnh tranh, chuyên nghiệp khu vực công
Việc Nhà nước là chủ thể duy nhất cung ứng DVC đã tạo ra tình trạng độc quyền
trong một số ngành và lĩnh vực, theo kết quả điều tra có đến 90,65% khách hàng cho
biết rằng DVC về đo đạc và bản đồ ở tỉnh là do Văn phòng ĐKĐĐ cung ứng; khi
được hỏi ông/bà có biết đơn vị nào có chức năng về đo đạc và bản đồ trên địa bàn
tỉnh thì có đến đến 85,05% trả lời là “duy nhất Văn phòng ĐKĐĐ” (xem phụ lục 2).
Hệ quả là các ngành và lĩnh vực kém phát triển do không có tính cạnh tranh, tính
chuyên nghiệp của đội ngũ thực hiện cung ứng dịch vụ kém. XHH là hình thức để
nâng cao tính cạnh tranh và chuyên nghiệp, chất lượng dịch vụ của khu vực công.
Trong giai đoạn kinh tế hàng hóa tập trung, quan liêu, bao cấp các sản phẩm
DVC do Nhà nước cung ứng tỏ ra khan hiếm và kém chất lượng. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước ta đã dần dần chuyển sang nền kinh tế thị trường khi đó có sự
tham gia của khu vực tư vào việc cung ứng DVC thì hàng hóa không còn khan hiếm
nữa mà chất lượng hàng hóa cũng được cải thiện đáng kể, đó là một bước đi đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta. Chính bước đi đúng đắn này đã mang lại lợi ích rất lớn
trong việc giúp Nhà nước thực hiện có chất lượng và hiệu quả cao những DVC. Đặt
những hoạt động cung ứng DVC trong “môi trường cạnh tranh” tạo nên một động lực
thúc đẩy việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành thực hiện những DVC này. Chẳng
hạn như Văn phòng ĐKĐĐ - Sở TN&MT vừa có chức năng là
23
16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quản lý nhà nước, vừa có chức năng cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ mà chức
năng cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ được đặc trong môi trường cạnh tranh với
các công ty có chức năng đo đạc và bản đồ tư nhân thực hiện thì sẽ tạo nên môi trường
cạnh tranh lành mạnh. Trong điều kiện này thì năng lực quản lý nhà nước của Sở
TN&MT phải được nâng lên tương ứng để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước
trên lĩnh vực DVC về đo đạc và bản đồ.
Khi Nhà nước thực hiện tốt DVC, người dân sẽ có cảm nhận nó là của chính
mình. Đó là một nhân tố quan trọng bảo đảm sự ổn định của Nhà nước. Ở nước ta,
trong quá trình đổi mới Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân, Nhà nước đã quan tâm ngày càng nhiều hơn tới việc đổi mới
nhận thức và nâng cao chất lượng thực hiện DVC nói chung và DVC về đo đạc và
bản đồ nói riêng.
Thứ tư, bảo đảm tính công khai và minh bạch
Ngoài việc nâng cao chất lượng và số lượng DVC, việc mở rộng sự tham gia
của người dân trong việc cung ứng DVC còn tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân
thực hiện việc giám sát, kiểm tra việc thực hiện chức năng này của Nhà nước, đảm
bảo tính công khai minh bạch; hạn chế tình trạng quan liêu, cửa quyền, hách dịch như
hiện nay. Một số vấn đề liên quan tới việc đổi mới quan niệm về vai trò của Nhà nước
trong thực hiện DVC về đo đạc và bản đồ và phương thức thực hiện như là một khía
cạnh trong cải cách nền hành chính công nói chung.
Lĩnh vực đo đạc và bản đồ hiện nay chưa có Luật quy định mà chủ yếu được
điều chỉnh thông qua Luật Đất đai và các Nghị định liên quan quan. Trong khi đó hệ
thống pháp luật về đất đai thay đổi nhiều lần, người dân khó tiếp cận. Có thể nói qua
bốn lần thay đổi Luật đất đai (năm 1987, 1993, 2003 và 2013) người dân nói chung,
nông dân nói riêng nhận thức về pháp luật đất đai còn rất hạn chế, các qui định thủ
tục hành chính về đất đai, trình tự và thời gian giải quyết hồ sơ, trong khi đó các hồ
sơ, giấy tờ có liên quan đến đất đai thường sử dụng từ ngữ chuyên môn của ngành
người dân không sao hiểu hết. Do đó dễ phát sinh tiêu cực, dễ gây khó khăn cho người
dân trong quá trình làm hồ sơ đất đai, trong khi đó từ ngữ chuyên ngành trong lĩnh
vực đo đạc và bản đồ lại càng phức tạp hơn nữa, người dân gần
24
17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
như không thể đọc –hiểu được bản vẽ địa chính là một ví dụ. Để hoàn thành một hồ
sơ đảm bảo yêu cầu đúng qui định của pháp luật về đất đai nói chung, đo đạc và bản
đồ nói riêng và các luật có liên quan đến thủ tục hành chính về đo đạc và bản đồ,
người dân phải nhờ “cò”, nhờ cán bộ TN&MT, nhờ cán bộ địa chính cấp xã làm giúp
nên gây tốn kém cho tổ chức, cá nhân; theo kết quả điều tra có đến 30,84% khách
hàng không hài lòng thái độ của nhân viên tiếp nhận hồ sơ; 30,84% khách hàng không
hài lòng thái độ của cán độ đo đạc tại thực địa; 24,30% khách hàng không hài lòng
thái độ của cán độ đo đạc khi thực hiện hồ sơ dịch vụ (xem phụ lục 2).
Tóm lại, từ những lý do khách quan và chủ quan nêu trên, việc XHH DVC là
một tất yếu khách quan trong quá trình CCHC nhằm hướng đến xây dựng chính quyền
văn minh, hiện đại. Hồ sơ thủ tục về đo đạc và bản đồ khá phức tạp. Có nhiều loại
giấy tờ có liên quan đo đạc và bản đồ thường dùng thuật ngữ chuyên môn trong quản
lý đo đạc và bản đồ cho nên người dân khó tiếp cận, thủ tục hành chính về đo đạc và
bản đồ phải đi nhiều vòng và qua nhiều cơ quan mất nhiều thời gian, gây khó khăn
cho người dân trong quá trình cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ.
1.3. Nội dung xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo đạc và
bản đồ
1.3.1. Khái quát về đo đạc và bản đồ
Công tác đo đạc và bản đồ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác lập ổn định
về mặt pháp lý đối với công tác quản lý nhà nước về đất đai. Bên cạnh đó giúp người
sử dụng đất hiểu và chấp hành đúng các quy định của Nhà nước trong việc sử dụng
đất. Do đó, khi thực hiện hoạt động đo đạc và bản đồ cần phải đáp ứng một số nguyên
tắc như:
- Hoạt động đo đạc và bản đồ phải bảo đảm cung ứng dữ liệu địa lý phục vụ yêu
cầu phát triển KT-XH, QP-AN, nâng cao dân trí và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Công trình xây dựng đo đạc là tài sản của Nhà nước, phải được sử dụng và
bảo vệ theo quy định của pháp luật.
- Các sản phẩm đo đạc và bản đồ cơ bản phải được cập nhật thường xuyên và
kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN.
25
18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Việc thành lập các sản phẩm bản đồ chuyên ngành, CSDL địa lý chuyên ngành
phải sử dụng các lớp thông tin nền của bản đồ địa hình quốc gia, CSDL địa lý quốc
gia.
- Tổ chức, cá nhân được sử dụng các sản phẩm đo đạc và bản đồ và thực hiện
hoạt động đo đạc và bản đồ theo quy định của pháp luật.
Đo đạc và bản đồ là lĩnh vực khoa học kỹ thuật sử dụng các phương pháp thu
nhận và xử lý thông tin nhằm xác định các đặc trưng hình học và thông tin thuộc tính
của các đối tượng địa lý ở mặt đất, lòng đất, mặt nước, lòng nước, đáy nước, khoảng
không và biểu thị bề mặt Trái Đất dưới dạng mô hình thu nhỏ bằng hệ thống ký hiệu
theo các quy tắc toán học nhất định[21].
Sản phẩm đo đạc và bản đồ có tác động rất đáng kể đối với sự phát triển KT-
XH, QP-AN của đất nước. Do đó, việc giám sát sản phẩm đo đạc và bản đồ là một
yều cầu không thể thiếu, nội dung giám sát công trình đo đạc và bản đồ bao gồm:
- Kiểm tra về năng lực của đơn vị thi công bao gồm: nhân lực, thiết bị, sử dụng
để thi công; hệ thống quản lý chất lượng so với nhiệm vụ triển khai;
- Giám sát, kiểm tra các thiết bị được sử dụng trong thi công để đảm bảo đáp
ứng độ chính xác và được kiểm định, kiểm nghiệm đầy đủ, đúng thời gian theo quy
định;
- Giám sát sự phù hợp của quy trình công nghệ đơn vị thi công áp dụng so với
dự án, thiết kế kỹ thuật - dự toán được phê duyệt;
- Giám sát tiến độ thi công công trình theo đúng kế hoạch đề ra;
- Giám sát về khối lượng phát sinh tăng, giảm trong quá trình thi công (nếu
có);
- Giám sát quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm cấp đơn vị thi công;
- Giám sát quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm của đơn vị kiểm tra chất
lượng sản phẩm cấp chủ đầu tư.
Trong mỗi quốc gia, bản đồ là một sản phẩm có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là
những bản đồ thể hiện chủ quyền của quốc gia được cả thế giới công nhận. Ngày
13/5/2014, phát biểu tại buổi lễ tiếp nhận và công bố bộ Atlas thế giới, Bruxelles –
1827 khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
26
19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Sa, là tài liệu khoa học, pháp lý quan trọng góp phần khẳng định chủ quyền không
thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Một trong
những người có công sưu tầm, nghiên cứu và đưa bộ Atlas thế giới của Philippe
Vandermaelen (nhà địa lý học người Pháp) về Việt Nam, theo GS.TS. Nguyễn Quang
Ngọc – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho biết theo tập bản đồ này,
Việt Nam được giới thiệu trong các tấm bản đồ số 97, 105, 106, 110 đều có ghi chú
rõ ràng, quần đảo Hoàng Sa (Paracels) thuộc chủ quyền của Đế chế An Nam (Empire
d’An-nam) (xem phụ lục 3, hình 1.1).
Bên cạnh đó, trải qua hơn một trăm năm tồn tại, với những thay đổi của lịch sử
và tác động của thiên nhiên, con người và của chiến tra nh, đường biên giới trên đất
liền giữa Việt Nam với các nước láng giềng nói chung và Việt Nam – Trung Quốc
nói riêng đã có nhiều biến động phức tạp. Trên thực địa, một số mốc giới của đường
biên giới pháp lý thời kỳ đó đã bị mất, bị hủy hoại, bị dịch chuyển... gây ra nhận thức
khác nhau về đường biên giới ở một số khu vực, dẫn đến tranh chấp. Tình hình đó đặt
ra yêu cầu hai nước Việt Nam – Trung Quốc phải hợp tác để xác định lại một cách rõ
ràng, cụ thể đường biên giới pháp lý này bằng các phương pháp kỹ thuật mới, với một
hệ thống mốc giới hiện đại, bền vững hơn[23].
Tóm lại, đo đạc và bản đồ là lĩnh vực khoa học kỹ thuật sử dụng các phương
pháp thu nhận và xử lý thông tin nhằm xác định các đặc trưng hình học và thông tin
thuộc tính của các đối tượng địa lý ở mặt đất, lòng đất, mặt nước, lòng nước, đáy
nước, khoảng không và biểu thị bề mặt Trái Đất dưới dạng mô hình thu nhỏ bằng hệ
thống ký hiệu theo các quy tắc toán học nhất định.
1.3.2. Các loại sản phẩm hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo đạc và
bản đồ
Đo đạc và bản đồ là ngành nghề có từ lâu đời, sản phẩm của ngành có đóng góp
quan trọng và liên quan mật thiết đến nhiều lĩnh vực của xã hội đặc biệt trong lĩnh
vực: lập bản đồ địa hình quốc gia, quy hoạch, thiết kế, thi công các công trình, quản
lý đất đai, quản lý tài nguyên khoáng sản, quản lý rừng, quản lý biến đổi khí hậu,
quản lý giao thông, điện lực, viễn thông, thủy lợi… Có nhiều cách phân loại sản phẩm
hoạt động đo đạc và bản đồ dựa vào các tiêu chí khác nhau, tuy nhiên
27
20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cách phân loại được nhiều nhà nghiên cứu đồng tình là phân loại ra làm ba nhóm: Sản
phẩm hoạt động đo đạc và bản đồ cơ bản; sản phẩm hoạt động đo đạc và bản đồ
chuyên ngành và sản phẩm hoạt động đo đạc và bản đồ phục vụ mục đích quốc phòng,
cụ thể như sau[21]:
Thứ nhất, sản phẩm hoạt động đo đạc và bản đồ cơ bản
Là việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và thành lập các sản phẩm đo đạc và
bản đồ đáp ứng nhu cầu sử dụng chung cho các ngành và các địa phương, bao gồm:
- Thiết lập hệ quy chiếu quốc gia và hệ thống số liệu gốc đo đạc quốc gia.
- Xây dựng và bảo trì hệ thống điểm đo đạc cơ sở quốc gia.
- Thành lập và hiệu chỉnh hệ thống bản đồ địa hình quốc gia, bản đồ hành
chính toàn quốc và cấp tỉnh, Atlas quốc gia.
- Xây dựng hệ thống không ảnh cơ bản.
- Xây dựng và cập nhật CSDL địa lý quốc gia.
- Xây dựng, cập nhật, quản lý, khai thác hạ tầng dữ liệu không gian địa lý.
- Đo đạc và bản đồ về biên giới quốc gia.
- Đo đạc và bản đồ về địa giới hành chính.
- Xây dựng hệ thống địa danh sử dụng trong đo đạc và bản đồ.
- Nghiên cứu khoa học trái đất bằng phương pháp đo đạc và bản đồ.
Thứ hai, sản phẩm hoạt động đo đạc và bản đồ chuyên ngành
Các hoạt động đo đạc và bản đồ phục vụ riêng cho yêu cầu quản lý của từng
ngành hoặc từng địa phương, nhu cầu sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân, bao
gồm:
- Thiết lập hệ thống điểm đo đạc cơ sở chuyên dụng.
- Xây dựng hệ thống không ảnh chuyên dụng.
- Thành lập hệ thống bản đồ địa chính, xây dựng CSDL bản đồ địa chính,
thành lập bản đồ hành chính cấp huyện.
- Thành lập bản đồ địa hình, bản đồ chuyên đề phục vụ mục đích chuyên dụng.
- Xây dựng CSDL địa lý chuyên dụng.
- Khảo sát địa hình, đo đạc phục vụ thiết kế, thi công các công trình dân dụng,
công nghiệp, giao thông, thủy lợi.
28
21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tỉnh rất chú trọng áp dụng khoa học –kỹ thuật vào ngành đo đạc và bản đồ, atlas
điện tử tỉnh Bình Dương là một sản phẩm của việc áp dụng ấy (xem phụ lục 3, hình
1.2). Atlas điện tử là một tập hợp có hệ thống các trang bản đồ điện tử được thiết kế
và xây dựng theo một tiêu chuẩn nhất định, dựa trên công nghệ GIS với nhiều ưu
điểm nổi bật. Về mặt thể hiện Atlas điện tử có một thể hiện linh động và mang tính
tương tác cao. Trong quá trình sử dụng, khai thác nhờ lưu trữ dữ liệu ở dạng số và
quản lý dữ liệu theo một hệ quản trị CSDL, atlas điện tử có thể thực hiện những tính
năng phân tích đặc biệt mà atlas truyền thống không thể có. Về mặt lưu trữ và quản
lý thì các dữ liệu của atlas điện tử rất dễ dàng được cập nhật, thêm bớt, sửa đổi mà
không làm thay đổi cấu trúc chung và không đòi hỏi thời gian và tiền bạc nhiều như
đối với atlas truyền thống (để thay đổi một chi tiết nhỏ cũng phải vẽ sửa in lại từ đầu).
Đây cũng là một sản phẩm của hoạt động đo đạc và bản đồ chuyên ngành. Atlas điện
tử phổ biến được xây dựng theo đơn vị hành chính cấp tỉnh. Vai trò và lợi ích của
Atlas điện tử cấp tỉnh mang lại hiệu quả vô cùng to lớn cho sự phát triển KT-XH của
tỉnh.
Thứ ba, sản phẩm hoạt động đo đạc và bản đồ phục vụ mục đích quốc phòng
- Xây dựng hệ quy chiếu, hệ tọa độ quân sự.
- Xây dựng hệ thống định vị dẫn đường dùng cho quân sự.
- Xây dựng hệ thống điểm tọa độ, điểm độ cao quân sự.
- Xây dựng hệ thống không ảnh chuyên dụng dùng cho quân sự.
- Xây dựng hệ thống bản đồ địa hình quân sự, hải đồ và các loại bản đồ
chuyên đề dùng cho quân sự.
- Xây dựng CSDL địa lý quân sự và các hệ thống thông tin địa lý chuyên đề
dùng cho quân sự.
Tóm lại, Sản phẩm hoạt động đo đạc và bản đồ cơ bản là việc xây dựng, quản
lý, vận hành công trình hạ tầng đo đạc, thành lập các sản phẩm đo đạc và bản đồ đáp
ứng nhu cầu sử dụng chung cho các ngành, địa phương và cộng đồng. Sản phẩm hoạt
động đo đạc và bản đồ chuyên ngành là hoạt động thành lập các sản phẩm đo đạc và
bản đồ phục vụ cho nhu cầu của từng ngành, từng địa phương và cộng đồng. Sản
phẩm hoạt động đo đạc và bản đồ phục vụ mục đích quốc phòng.
29
22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Trong các loại sản phẩm hoạt động đo đạc và bản đồ trên có nhiều sản phẩm có thể
tiến hành XHH, hoạt động XHH diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào
nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước.
1.3.3. Nội dung xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo đạc và
bản đồ
Văn phòng Đăng ký đất đai là đơn vị trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường.
Văn phòng Đăng ký đất đai thực hiện hai chức năng:
Thứ nhất, chức năng quản lý nhà nước về đất đai, trong đó có một phần nhiệm
vụ mang tính chất thường xuyên là quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ phục vụ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất.
Thứ hai, chức năng hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo đạc và bản đồ.
Trong khi đó, chức năng thứ hai hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo đạc
và bản đồ là hoạt động mang tính chuyên môn kỹ thuật thuần túy. Vì là hoạt động
chuyên môn kỹ thuật thuần túy nên Nhà nước hoàn toàn có thể tiến hành xã hội hóa
hoạt động này, giao cho các thành phần kinh tế trong xã hội thực hiện, Nhà nước
không ôm đồm như hiện hay tại Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Dương.
Xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo đạc và bản đồ sẽ giúp cho
bộ máy Văn phòng Đăng ký đất đai được tinh gọn hơn, góp phần đắc lực và công
cuộc cải cách hành chính ở tỉnh Bình Dương nói riêng và trên toàn quốc chung. Đồng
thời, xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công về đo đạc và bản đồ sẽ giúp giảm
chi cho ngân sách nhà nước đáng kể.
1.4. Bài học kinh nghiệm xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công
1.4.1. Kinh nghiệm một số địa phương
Hà Tĩnh thành công trong XHH công tác bảo vệ môi trường
Đi đôi với phát triển KT-XH, công tác XHH BVMT cũng được tỉnh quan tâm
nhằm hướng tới phát triển bền vững. Một trong những biện pháp tỉnh đang thực hiện
là huy động tất cả các nguồn lực xã hội tham gia BVMT. Kết quả đạt được trong công
tác XHH từ năm 2011 - 2015 trên địa bàn Hà Tĩnh: Đã xây dựng hoàn thành, đưa vào
hoạt động hai nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt công nghệ tiên tiến,
30
23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đang triển khai xây dựng một nhà máy xử lý rác thải nguy hại, đã thành lập được 166
hợp tác xã, tổ - đội vệ sinh môi trường[16].
Vì vậy, các chất thải rắn trên địa bàn cơ bản tỉnh đã được xử lý. Đi cùng với
công tác thu gom xử lý rác thải, nhiều hoạt động thiết thực khác như khơi thông cống
rãnh, xử lý môi trường sau lũ lụt, các phong trào toàn dân tham gia BVMT tại các địa
phương trong xây dựng nông thôn mới đang được triển khai mạnh mẽ. Xác định việc
thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy phát triển KT-XH, tăng cường XHH công tác BVMT là nhằm hướng
tới phát triển bền vững.
Xã hội hóa hoạt động điện ảnh ở thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố năng động, nhiều hoạt động diễn ra
sôi nổi, trong đó có hoạt động điện ảnh. Công tác XHH điện ảnh thành phố Hồ Chí
Minh thời gian qua khá thành công với sự ra đời của nhiều hãng phim và cơ sở sản
xuất phim tư nhân[28].
Trong báo cáo tổng kết công tác của Hội Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh
nhiệm kỳ V, phần nhận định tình hình có ghi là thị trường điện ảnh hình thành rõ nét
một số cụm rạp hiện đại đã mọc lên, như Megastar, Galaxy, Lotte… gắn liền với
những trung tâm thương mại, có những phương tiện giải trí khác. Các rạp của Công
ty Điện ảnh thành phố như Đống Đa, Thăng Long cũng được sửa sang hiện đại, cho
nên lượng khán giả đến xem phim ở rạp cũng nhiều hơn. Đặc biệt, 5 năm trở tại đây,
các nhà sản xuất phim Việt Nam như Phước Sang, Thiên Ngân... đã sản xuất nhiều
phim chiếu tết. Do đó, vào mùa Tết, phim Việt Nam đã chiếm lĩnh thị trường. Hiện
nay, việc kinh doanh của các trung tâm nhập khẩu và phát hành phim tại thành phố
Hồ Chí Minh đang trong quá trình tư nhân hóa, hoạt động làm phim sôi nổi hơn do
sự năng động của các nhà quản lý tư nhân. Khán giả ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
có thể xem được nhiều bộ phim mới, nổi tiếng của điện ảnh thế giới cùng thời điểm
với nhiều nước khác. Phải khẳng định rằng, có nhiều hãng phim, các đơn vị sản xuất
phim cùng hỗ trợ nhau sản xuất ra nhiều bộ phim hay, có giá trị thì thị trường điện
ảnh thành phố mới có sức lôi cuốn. Những nghệ sĩ, những người làm
31
24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
phim sẽ có nhiều phim để tham gia, giúp tăng thêm thu nhập và phát triển tài năng;
khán giả thì có nhiều phim để chọn lựa.
XHH bệnh viện công trên địa bàn tỉnh Đồng Nai [27].
Phần lớn các bệnh viện công đều triển khai XHH từ nguồn vốn vay ngân hàng.
Đặc biệt, tại Bệnh viện đa khoa Đồng Nai là dự án XHH trong lĩnh vực y tế đầu tiên
của cả nước thực hiện theo mô hình mới PPP với lượng vốn XHH lớn, khoảng 1.300
tỷ đồng với 700 giường bệnh XHH.
Theo TS.BS. Phan Huy Anh Vũ, Giám đốc Bệnh viện đa khoa Đồng Nai, cho
rằng việc đầu tư theo mô hình PPP có nhiều điểm ưu việt. Thứ nhất, phù hợp với chủ
trương XHH của Nhà nước, nên dễ thu hút đầu tư cũng như dễ tiếp cận nguồn vốn
vay. Thứ hai, kiểm soát, cũng như tỷ lệ phân chia lợi nhuận của bệnh viện tương đối
phù hợp so với giá trị góp vốn vào của công ty (vốn Nhà nước 40%). Thứ ba, là chủ
động và linh hoạt trong điều hành. Thứ tư, là chủ động trong công tác nhân sự, đầu tư
thiết bị, đặc biệt là tạo cơ chế mở để bệnh viện thu hút được nguồn nhân lực chất
lượng cao về làm việc.
Tương tự, Giám đốc Bệnh viện đa khoa Thống Nhất Phạm Văn Dũng cho biết
từ nhu cầu phát triển các chuyên khoa sâu nên bệnh viện cần một lượng máy móc,
trang thiết bị y tế rất lớn nhưng hiện nay đầu tư công rất khó khăn, XHH là giải pháp
nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề này. Qua đó giúp cho bệnh viện không
ngừng phát triển các kỹ thuật cao.
Giám đốc Bệnh viện nhi đồng Đồng Nai Nguyễn Lê Đa Hà cho biết, bệnh viện
đã có 4 công trình xây dựng từ nguồn vốn vay ngân hàng lên đến gần 20 tỷ đồng. Các
công trình này chủ yếu là khu dịch vụ: căn tin, khám ngoại trú, khu nội trú. Vay vốn
ngân hàng sẽ mang lại lợi ích chung nhiều hơn vay vốn từ cổ đông, vì lãi suất ngân
hàng luôn thấp hơn cổ tức; lợi nhuận sau khi trừ lãi suất ngân hàng thì phần còn lại
dành cho tập thể sẽ cao hơn. Bệnh viện có thể lấy lợi nhuận từ khu dịch vụ để nâng
cao đời sống của cán bộ, nhân viên ở khu thường.
Hiệu quả từ XHH hoạt động bảo vệ môi trường tỉnh Vĩnh Phúc[22]
Xác định XHH BVMT là một trong những biện pháp tích cực, góp phần thực
hiện tốt công tác BVMT. Tỉnh có nhiều chính sách nhằm thu hút và hỗ trợ các thành
32
25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
phần kinh tế tư nhân tham gia vào BVMT như: hỗ trợ về đất đai, giải phóng mặt bằng,
hỗ trợ vốn, ưu đãi tín dụng, miễn giảm thuế, phí cho các doanh nghiệp khi đầu tư xây
dựng các công trình BVMT ; trợ giá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm từ hoạt động BVMT,..
Với các chính sách hỗ trợ và tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thời gian qua có
nhiều doanh nghiệp tư nhân đến đầu tư xây dựng các công trình thu gom, xử lý chất
thải, tái chế rác thải tại tỉnh Vĩnh Phúc như: Trung tâm tái chế và xử lý chất thải công
nghiệp của Công ty TNHH Môi trường Công nghiệp Xanh tại thôn Thanh Cao, xã
Ngọc Thanh, công suất 20.000 tấn/ năm (đang mở rộng công xuất lên 30.000 tấn/
năm); công ty TNHH Song Tinh tại phường Phúc Thắng, thị xã Phúc Yên; Công ty
TNHH thương mại Khánh Dư,… Các công trình do doanh nghiệp tư nhân đầu tư góp
phần không nhỏ trong việc BVMT, tận dụng được nguồn tài nguyên và đặc biệt là
giải quyết một lượng lao động nhàn rỗi cho địa phương.
Để đẩy mạnh XHH công tác BVMT ở khu vực nông thôn, UBND tỉnh đã có đề
án hỗ trợ đầu tư thí điểm làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường khu vực nông thôn giai
đoạn 2009-2010, tạo cơ chế XHH cho công tác thu gom rác thải ở khu vực nông thôn.
Toàn tỉnh có 120/125 xã, thị trấn thành lập Hợp tác xã môi trường hoặc Tổ vệ sinh
môi trường (chiếm 96%). Ngành TN&MT phối hợp chặt chẽ với Mặt trận tổ quốc và
các tổ chức thành viên nhằm phát động mạnh mẽ các tổ chức, đoàn thể được xây dựng
và đem lại hiệu quả thiết thực như: Tuyến đường phụ nữ tự quản, Tổ cựu chiến binh
tự quản BVMT; công trình thanh niên BVMT; các đoạn đường thanh niên tự quản,…
XHH giao thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai[24]
Thực hiện công trình XHH giao thông khu phố, ấp trong năm 2012, các phường,
xã trên địa bàn thành phố Biên Hòa đã nâng cấp, sửa chữa gần 12.000 m đường giao
thông liên tổ và khu phố với tổng nguồn kinh phí gần 30 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là
do nhân dân tự nguyện đóng góp. Phong trào XHH giao thông trên địa bàn Biên Hòa
đã đạt 80%.
Phường Trảng Dài, Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là một trong nhiều địa phương
làm tốt công tác XHH giao thông bằng cách tập trung huy động sức dân. Trên tinh
thần nhân dân bàn bạc và tự đóng góp nguồn kinh phí xây dựng, thời gian
33
26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
qua phong trào XHH giao thông khu phố đã được nhân dân nhiều khu phố hưởng ứng
tham gia tích cực. Nổi bật là 2 công trình giao thông liên khu phố 4 và 5 vừa được
hoàn thành cuối năm 2012 với tổng kinh phí gần 6 tỷ đồng do nhân dân đóng góp
100%.
Với quyết tâm của các khu phố và nhất là sự đồng thuận cao của nhân dân, chỉ
tính riêng năm 2012 trên địa bàn toàn phường Trảng Dài đã có hơn 100.000 m2
đường
hẻm, đường liên khu phố được bê tông, nhựa hóa với tổng kinh phí hơn 10 tỷ đồng.
Tỷ lệ các đường hẻm, đường liên khu phố trên địa bàn phường được bê tông nhựa
hóa gần 70%. Trong đó, khu phố 1, khu phố 2 và khu phố 3 có tỷ lệ đường bê tông
nhựa hóa đạt từ 70 đến 80%. Sự thành công trong XHH giao thông của phường là do
hai nguyên nhân chính sau: thứ nhất, nhờ được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy, các
ban ngành, đoàn thể, các khu phố trong công tác tuyên truyền để người dân nắm bắt
được công tác XHH giao thông trên địa bàn phường. Thứ hai, sự tham gia tích cực
của người dân trên địa bàn phường.
Có thể nói, phong trào này thực tế như phong trào thi đua giữa chính các địa
phương trên địa bàn thành phố. Cùng với phường Trảng Dài, trên địa bàn thành phố
còn có nhiều phường khác làm tốt công tác XHH giao thông, như: Tân Hòa, Tân Mai,
Tam Hòa, An Bình, Tân Tiến, Hố Nai, Long Bình. Trong đó có những phường đã
XHH 100% con đường khu phố, hẻm. Công tác XHH giao thông cho đến nay cơ bản
hoàn thành trên địa bàn các phường. Bình quân dân đóng góp 10-15 tỷ đồng/năm vào
công tác XHH giao thông.
Không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân lưu thông đi lại dễ dàng mà
phong trào XHH giao thông còn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
của địa phương và tạo vẽ mỹ quan đô thị.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Bình Dương
Thông qua hoạt động XHH trên một số lĩnh vực khác nhau ở các địa phương
khác nhau đã để lại bài học kinh nghiệm cho XHH hoạt động cung ứng DVC về đo
đạc và bản đồ trên địa bàn tỉnh Bình Dương như sau:
Phải tạo khung hành lang pháp lý cần thiết XHH hoạt động cung ứng DVC về
đo đạc và bản đồ. XXH phải có chủ trương, chủ trương đó phải tạo được sự đồng
34
27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thuận từ trên xuống dưới và ngược lại. Phải xem XHH hoạt động cung ứng DVC về
đo đạc và bản đồ là của cả hệ thống chính trị, cộng đồng và của toàn thể nhân dân; có
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy, chính quyền; sự phối hợp đồng
bộ của các ban ngành, đoàn thể; công tác quản lý về đo đạc và bản đồ phải chặt chẽ,
đồng bộ, cơ chế và phương thức quản lý về đo đạc và bản đồ phải phù hợp với quy
mô, tính chất, đặc thù của tỉnh.
Phải đưa ra lộ trình cụ thể cho việc XHH DVC về đo đạc và bản đồ, thường
xuyên điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn của tỉnh.
Làm tốt công tác tuyên truyền, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Huy động sức mạnh từ các tổ chức, tập thể, cá nhân, doanh nghiệp tham gia hoạt
động cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ. XXH hoạt động cung ứng DVC về đo đạc
và bản đồ mang lại nhiều lợi ích, nhất là việc huy động các nguồn lực, góp phần tiết
kiệm ngân sách nhà nước; phát huy trí tuệ, sức sáng tạo, khai thác được những kinh
nghiệm, kiến thức và sự tham gia một cách tự nguyện của các thành phần kinh tế.
Không nên thực hiện XHH bằng mọi giá. Nếu không kiểm soát, kiểm tra đôn
đốc mà giao khoán hoạt động cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ, sẽ gây hậu quả
không lường trước. Bởi vì đối với các doanh nghiệp làm DVC về đo đạc và bản đồ tư
nhân, do họ chú trọng lợi nhuận nên thường không quan tâm đến làm nhiệm vụ chính
trị như các đơn vị sự nghiệp nhà nước. Lĩnh vực đo đạc và bản đồ có những việc làm
không thể XHH được mà phải do Nhà nước đảm nhận, chịu trách nhiệm.
Các doanh nghiệp làm DVC về đo đạc và bản đồ tư nhân cần kết hợp với các
đơn vị Nhà nước để phát huy thêm những mặt mạnh của mỗi bên sẽ thúc đẩy hoạt
động của từng đơn vị, tạo ra sự năng động hơn, giúp đẩy mạnh tiến trình XHH hoạt
động cung ứng DVC về đo đạc và bản đồ trên địa bàn tỉnh.
35
28. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tiểu kết chƣơng 1
Qua một số điểm nêu trên, để nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng phục vụ
của Nhà nước thông qua hoạt động cung ứng DVC, Nhà nước cần đổi mới việc thực
hiện nhiệm vụ DVC theo hướng những DVC mà khu vực tư có thể làm tốt thì nên để
cho khu vực tư thực hiện, tránh tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” như hiện nay.