SlideShare a Scribd company logo
1 of 49
Download to read offline
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 1
BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN
Giảng viên & Biên soạn: ThS. Lê Thị Mai Liên
Mục lục
I. Giới thiệu chung về môn học
1. Tâm lý học phát triển là gì ?
2. Đối tượng của Tâm lý học phát triển
3. Nhiệm vụ của Tâm lý học phát triển
4. Mục tiêu của môn học
5. Phương pháp nghiên cứu Tâm lý học phát triển
II. Những vấn đề chung/ khái niệm chung của môn học
1. Khái niệm sự phát triển
2. Sự phát triển tâm lý
3. Tuổi
III. Các học thuyết về tâm lý học phát triển
1. Học thuyết nguồn gốc sinh vật; nguồn gốc xã hội; Thuyết hội tụ hai yếu tố
2. Tư tưởng của Khổng Tử về các giai đoạn hoàn thiện Nhân tính
3. Học thuyết Tâm lý học hành vi
4. Học thuyết về sự phát triển tâm lý tính dục của Sigmund Freud
5. Học thuyết mối quan hệ gắn bó của Bowbly
6. Học thuyết mối quan hệ đối tượng của Donald Winnicott và Mélanie Klein
7. Học thuyết về sự phát triển những khả năng mang tính xã hội của Erik Erikson
8. Học thuyết về sự phát triển nhận thức của Jean Piaget
9. Học thuyết về sự phát triển nhận thức trong môi trường văn hóa xã hội của Lev.
Vugotsky
10. Học thuyết về các giai đoạn phát triển đạo đức của Lawrence Kohlberg
IV. Tài liệu tham khảo
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 2
I. Giới thiệu chung về môn học
1. Tâm lý học phát triển là gì ?
Tâm lý học phát triển (development psychology- Psychologie du développement) là một
chuyên ngành khoa học nghiên cứu những thay đổi mang tính phổ cập ở người qua từng
giai đoạn vốn mang nội dung phát triển cột mốc. [8,8]
Đó là một ngành khoa học quan sát những hiện tượng mang tính phổ cập nơi con người
được kiểm chứng qua những thông số dữ kiện, quan sát và được ghi nhận của nghiên cứu
khoa học một cách có hệ thống, nhằm tìm hiểu về những hiện tượng thay đổi ở các khu
vực :
- Thay đổi về sinh thể lý (physiological changes)
- Thay đổi về tâm lý (psychological changes)
- Thay đổi về cảm xúc (emotional changes)
- Thay đổi về nhận thức (perception changes)
2. Đối tượng của Tâm lý học phát triển
Tâm lý học phát triển nghiên cứu những động lực, điều kiện, những quy luật phát triển,
những sự biến đổi của các quá trình, các thuộc tính, các phẩm chất tâm lý trong sự hình
thành nhân cách con người với tư cách là thành viên của xã hội, theo sự trưởng thành của
lứa tuổi.
3. Nhiệm vụ của môn học
Nghiên cứu những đặc điểm phát triển của các quá trình tâm lý, những thuộc tính, những
phẩm chất nhân cách, những khả năng, điều kiện phát triển theo lứa tuổi cũng như quy
luật, những con đường hình thành và phát triển của chúng.
4. Mục tiêu của môn học
- Trang bị cho học viên những học thuyết nền tảng trên thế giới về sự phát triển tâm lý
con người qua các giai đọan lứa tuổi. Từ đó, mỗi một học viên môn học tâm lý học phát
triển sẽ có thể trở thành một nhà nghiên cứu tâm lý phát triển cho chính mình.
- Giúp học viên biết cách ứng dụng những kiến thức Tâm lý học phát triển vào việc
nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực tham vấn và trị liệu tâm lý và chăm sóc sức khỏe
con người.
5. Phương pháp nghiên cứu Tâm lý học phát triển
 Phương pháp nghiên cứu Tâm lý học phát triển
 Phương pháp quan sát (Observation)
 Phương pháp thực nghiệm (Experimentation)
 Phương pháp hỏi chuyện lâm sàng (Clinical Interview)
 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi (Anket)
 Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study)
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 3
 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động (…)
 Phương pháp nghiên cứu trẻ em sinh đôi cùng trứng hoặc khác trứng
 Phương pháp ghi chép dân tộc học
 Một số thiết kế nghiên cứu hay sử dụng trong Tâm lý học phát triển
 Thiết kế nghiên cứu xuyên nhóm tuổi
Là nghiên cứu chọn những khách thể ở những nhóm tuổi khác nhau để nghiên cứu cùng
một hiện tượng tâm lý trên khách thể ấy tại cùng một thời điểm.
Ưu điểm: ít tốn kém, ít tốn thời gian, thu thập được nhiều dữ liệu trong một thời gian
ngắn
Nhược điểm: Tính chính xác không cao
Ngoài ra còn có các thiết kế nghiên cứu:
 Thiết kế nghiên cứu xuyên thời gian
Nghiên cứu trên cùng một nhóm khách thể, sau một thời gian khác lại nghiên cứu trên
nhóm khách thể ấy.
 Thiết kế nghiên cứu theo chuỗi
Nghiên cứu trên các nhóm khách thể khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau
 Thiết kế nghiên cứu xuyên văn hóa
Nghiên cứu trên các nhóm khách thể ở các nền văn hóa khác nhau
Những điều cần lưu ý trong nghiên cứu:
 Độ hiệu lực của nghiên cứu
 Độ tin cậy của nghiên cứu
 Tính trung thực của nghiên cứu
 Đạo đức nghiên cứu
II. Các khái niệm cơ bản
1. Khái niệm sự phát triển
Sự phát triển là quá trình vận động, bao hàm hàng loạt thay đổi có mối liên hệ bên trong
với nhau, có lúc từ từ, tiệm tiến, có lúc nhảy vọt nhưng cũng có lúc dậm chân tại chỗ,
thậm chí là thụt lùi tạm thời. Đó là một quá trình phức tạp.
 Phân biệt với khái niệm tăng trưởng, chín muồi
Tăng trưởng là sự gia tăng về số lượng (chiều dài, dung tích) của sự vật, hiện tượng.
Chín muồi là sự tăng trưởng đạt đến độ
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 4
2. Sự phát triển tâm lý
Sự phát triển tâm lý là một quá trình bao gồm từ sự phát sinh, hình thành, phát triển của
những yếu tố, những quá trình, những thuộc tính, những trạng thái tâm lý của mỗi cá thể,
từ đơn giản đến phức tạp, từ chỗ chưa bị phân hóa đến chỗ bị phân hóa theo những quy
luật có liên quan, tác động phụ thuộc lẫn nhau tạo thành những đặc điểm tâm lý khác
nhau theo giai đoạn. Đó là một hoạt động có tính hệ thống được sắp xếp có tính thứ bậc
và ngày càng tinh tế, tạo ra những đặc điểm đặc trưng cho mỗi thời kí, mỗi lứa tuổi khác
nhau, đảm bảo cho con người sống, hoạt động và phát triển với tư cách là một chủ thể có
ý thức của xã hội.
3. Tuổi
Tuổi của cá nhân được các nhà nghiên cứu xem xét từ 3 góc độ: Tuổi sinh học, tuổi xã
hội, và tuổi tâm lý. Hay nói cách khác, quá trình phát triển cá nhân được các nhà nghiên
cứu xem xét từ 3 góc độ: sự phát triển sinh học, sự phát triển xã hội và sự phát triển tâm
lý.
1. Tuổi sinh học
Là quá trình phát triển thể chất diễn ra theo chương trình sinh học quy định sự phát triển
cơ thể (bao gồm các mốc chín muồi và ngoại hình có một không hai của mỗi cá nhân).
Tuy nhiên, môi trường và hoạt động sống của mỗi cá nhân lại có thể tác động trở lại
đến các yếu tố di truyền, có thể làm chúng biến đổi trong một biên độ nhất định.
- Chương trình di truyền- quá trình chín muồi cơ thể tác động đến những đặc điểm
tâm lý con người
VD: Một số công trình nghiên cứu chỉ ra: Trẻ trai dậy thì sớm sẽ có ưu thế hơn các bạn
cùng tuổi về thể lực, ngoài ra sẽ được người lớn ưu tiên phân công những nhiệm vụ quan
trọng. Trẻ gái dậy thì muộn hơn thường dễ cân bằng hơn, dễ kết bạn hơn và có khả năng
với những hoạt động xã hội hơn, chiếm vị thế cao hơn trong lớp học. [1, 265]
- Ngoại hình, sự hấp dẫn, vẻ đẹp cơ thể và nét mặt tác động đến vị thế và các mối
quan hệ xã hội của con người (Ngoại hình đẹp là một thuận lợi xã hội)
VD: Nhiều nghiên cứu tâm lý học và xã hội học cho thấy: Người ta có cảm tình và bị
quyến rũ hơn bởi các chàng trai có thân hình cân đối, cơ bắp chắc khỏe, vai rộng và vòng
hông đẹp. Những đứa trẻ đẹp đẽ thường dễ nổi tiếng hơn giữa đám bạn và thường được
cho là có nhiều phẩm chất tâm lý tốt đẹp, ít có xu hướng gây hấn hơn những đứa trẻ xấu
xí. Những người có cơ thể cân đối, ngoại hình đẹp và hấp dẫn thì thường dễ xin việc hơn
và trung bình có thu nhập cao hơn những người không có may mắn đó. [1, 266]
Trong lối nói dân gian về sức ảnh hưởng của ngoại hình của người con gái tới ấn
tượng và tình yêu của người con trai, yếu tố nhìn- ngoại hình của người con gái là yếu tố
rất quan trọng: “Con trai thì yêu bằng mắt”
- Yếu tố tốc độ lão hóa của tuổi sinh học ảnh hưởng đến đời sống tâm lý cá nhân
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 5
Sau 30 tuổi, nhiều chức năng của cơ thể có xu hướng giảm sút (ở những mức độ khác
nhau). Trong một nghiên cứu, người ta so sánh một nhóm nam giới 70 tuổi với nhóm
nam giới khác 60 tuổi. Kết quả cho thấy hầu như không có sự khác biệt về chức năng tâm
lý giữa nhóm “những người 70 tuổi rất khỏe” và nhóm “những người 60 tuổi có sức khỏe
bình thường”. Điều này chứng tỏ người 70 tuổi rất khỏe và người 60 tuổi có sức khỏe
bình thường gần như có cùng độ tuổi sinh học và có những đặc điểm rất chung. Bên cạnh
đó có những khác biệt khá lớn giữa những người trong cùng nhóm 60 tuổi hoặc cùng
nhóm 70 tuổi. [1, 266]
- Trí tuệ (tuổi tâm trí) có mối quan hệ gắn bó với tuổi sinh học (tuổi thực).
Theo chiều tịnh tiến, tuổi sinh học tăng lên, khả năng nhận thức, trí tuệ của con người
cũng được gia tăng so với mốc tuổi sinh học trước. VD: khác biệt trí tuệ của trẻ 5 tuổi với
một học sinh bình thường học lớp 4.
Tuy nhiên, trong sự phát triển của tuổi tâm trí cũng có những quy luật khác với quy luật
của các chương trình di truyền: Trí tuệ phát triển chậm -> IQ thấp; trí tuệ phát triển nhanh
-> IQ cao; Trí tuệ phát triển nhanh hơn bình thường -> Tài năng, thiên tài hay thần đồng.
VD: Tài năng Piano trẻ Nguyễn Việt Trung (12 tuổi) có khả năng ngang với sinh viên
năm cuối tốt nghiệp xuất sắc của một nhạc viện lớn, mặc dù chỉ học 4 năm âm nhạc;
Thần đồng Đỗ Nhật Nam (11 tuổi)….vv
Tuổi trí tuệ đôi khi không cùng một nhịp phát triển với tuổi thực.
VD: trẻ 8 tuổi nhưng tuổi trí tuệ (tâm trí) chỉ tương ứng với trẻ 6 tuổi.
Nghiên cứu của Goougnought cũng cho ra đời công thức tính mức độ trí tuệ của trẻ:
IQ= MA/ CA x 100 ( MA: tuổi khôn; CA: tuổi thực)
- Sự phát triển trí tuệ có ảnh hưởng sâu rộng đến quá trình vận động và phát triển
của con người trong suốt cuộc đời.
Tác động đến vận động tinh
Tác động đến phẩm chất của khí chất và năng lực chung của trẻ em trong những giai
đoạn đầu của sự phát triển.
- Tốc độ phản ứng vận động khác nhau theo độ tuổi
Cùng với tuổi tác, vận động cuả con người ngày càng trở nên chậm chạp và thiếu chính
xác hơn.
2. Tuổi xã hội
Tuổi xã hội là khái niệm chỉ mức tương xứng hay vai trò xã hội (trong một số
trường hợp cả về vị thế xã hội nữa) mà cá nhân đó thực hiện được so với tuổi thực
của mình.
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 6
- Tuổi xã hội có liên quan trực tiếp đến vị thế xã hội của cá nhân so với các chuẩn
mực văn hóa. VD: Một doanh nhân trẻ 35 tuổi sẽ có vị thế xã hội khác biệt so với
người 35 tuổi thất nghiệp
- Có điểm chung trong các nền văn hóa về những mong đợi về vai trò xã hội theo
lứa tuổi: Trẻ em đi học, tốt nghiệp tú tài, học lên Đại học, đến tuổi trưởng thành
thì lấy vợ, lấy chồng, sinh con vào những thời điểm nhất định. Vì vậy, có nhiều tác
giả đưa ra tiếp cận nghiên cứu trường đời với những phân mốc các giai đoạn tuổi
nhất định và các mong đợi về vai trò xã hội tương ứng.
VD: Nghiên cứu của Neugarten, Moore và Lowe, 1965: Tuổi thích hợp để kết hôn
đối với đàn ông là 20-25; đối với phụ nữ là 19-24. Tuổi thích hợp nhất để bắt đầu
xây dựng sự nghiệp đối với đàn ông là 24-26 tuổi; đối với người phụ nữ thì không
có số liệu cụ thể. Đa số đàn ông đạt đến đỉnh cao sự nghiệp vào khoảng 45- 50
tuổi còn phụ nữ vào khoảng 30- 45 tuổi. [1, 268]
- Những người thực hiện được các vai trò xã hội mong đợi ở độ tuổi mong đợi được
coi là có tuổi xã hội phù hợp và ngược lại
- Những người có cùng độ tuổi xã hội sẽ có những đặc điểm khá tương đồng và họ
không nhất thiết phải có cùng độ tuổi theo năm tháng.
- Mối quan hệ giữa trí tuệ và biểu tượng bản thân (biểu tượng cái Tôi
(Representation du soi) của cá nhân mang tính xã hội)
VD: Nghiên cứu của Livesley và Brombley (1973) cho thấy: Trẻ có trí tuệ thấp mô
tả bản thân thường mô tả cụ thể và hời hợt hơn sự mô tả bản thân của học sinh có
chỉ số trí tuệ cao. Biểu tượng về bản thân của những học sinh lớn tuổi nhưng có
chỉ số trí tuệ thấp lại khá giống với biểu tượng về bản thân của những học sinh nhỏ
hơn nhưng lại có chỉ số trí tuệ cao hơn các bạn cùng tuổi. [1, 269]
3. Tuổi tâm lý
Mối quan hệ giữa tuổi đời và cảm nhận chủ quan của con người về lứa tuổi đó được gọi
là tuổi tâm lý. [1, 269]
Đây được coi là chỉ số quan trọng nhất xác định trình độ phát triển của cá nhân, nó dường
như là tích hợp của các tuổi sinh học và tuổi xã hội.
Tuổi tâm lý được coi là một chỉ số tích hợp về thái độ của con người đối với thời gian đã
qua của cuộc đồi mình và được xác định như là tự đánh giá của con người về bản thân
mình trên nấc thang cuộc đời.
Nếu tuổi tâm lý phù hợp với tuổi đời theo năm tháng thì con người thường có biểu tượng
về thế giới và bản thân tương đối hài hòa và sẵn sàng tiếp nhận những cái mới, kể cả
những mâu thuẫn bên trong của nó.
Ngoài ra, có 2 xu hướng:
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 7
1. Nếu tuổi tâm lý cao hơn tuổi thực (Ví dụ một người 25 tuổi có xu hướng coi mình
như người 40 tuổi), con người thường có cái nhìn bi quan và đơn điệu đối với
tương lai.
2. Nếu tuổi tâm lý thấp hơn tuổi thực, chúng ta có thể thấy biểu hiện của các hành vi,
lời nói, thái độ, cách cư xử không phù hợp với tuổi thực. Cá nhân đó có thể có một
sự thoái lùi về tâm lý.
VD: trẻ 6 tuổi nhưng tuổi tâm lý chỉ tương xứng với trẻ 4 tuổi với vẻ ngoài ngô
nghê và cả các hành vi ngô nghê không phù hợp với tuổi thực 6 tuổi của mình.
- Tuổi tâm lý: vectơ kinh nghiệm sống của cá nhân, vectơ tự nhận thức, tự ý thức, tự
xác định, cùng với vectơ sinh học và xã hội.
VD: Quan sát và thực nghiệm đo mức độ tự nhận biết bản thân của Lewis Brook (1978):
Vào 10-12 tháng tuổi, trẻ chơi với hình ảnh của mình trong gương và chưa hiểu hình ảnh
đó là ai cả. Các nhà tâm lý bôi vào mũi trẻ một vết son tròn đỏ, không ai trong chúng
nhìn vào gương hay thử đưa tay lên sờ vào mũi mình. Tuy nhiên khi tiến hành với nhóm
trẻ từ 21-22 tháng, 2/4 trẻ có những biểu hiện sơ đẳng đầu tiên thể hiện khả năng tự nhận
ra bản thân mình trong gương. [1,270]
Thực nghiệm trên chứng minh cho sự xuất hiện của vectơ kinh nghiệm sống của cá nhân.
Tất cả những thay đổi của tuổi tác sẽ đụng chạm đến tự ý thức của cá nhân.
- Môi trường sống có thể ảnh hưởng tới tuổi tâm lý:
VD: Nhóm những người trải qua những thảm họa như động đất, sóng thần cảm thấy tuổi
tâm lý của mình cao hơn tuổi thực có chỉ số lo âu, đau khổ, thất vọng cao hơn những
người ở các nhóm khác. Những trẻ vị thành niên sống trong các trại tập trưng, trại trẻ mồ
côi hay các trường giáo dưỡng cũng thường cảm thấy mình già hơn tuổi. Những em này
thường có tự đánh giá thấp. [1,271]
- Tuổi tâm lý có tính ổn định
Khác với tuổi xã hội, tuổi tâm lý không thể quay ngược lại. Nó tiến đến dần cuối con
đường mà ở phía trước lại là sự kết thúc của cuộc đời. Con người nghĩ về cái chết vào tất
cả các giai đoạn cuộc đời, nhưng ở những thời điểm khác nhau cái chết có những ý nghĩa
khác nhau.
VD: Nghiên cứu của Templer, Ruff & Franks (1971), Trẻ 3-5 tuổi chưa hình dung được
cái chết là sự kết thúc cuộc đời mà chỉ là đảo ngược (chết đi sống lại); trẻ từ 5-8 tuổi cho
rằng cái chết là điểm cuối cùng của cuộc sống nhưng không phải là giai đoạn tất yếu,
bằng cách nào đó có thể tránh được nó; Chỉ nhóm trẻ 9-10 tuổi mới bắt đầu hiểu rằng con
người đến một lúc nào đó sẽ phải chết, đó là điều không thể tránh khỏi; Ngưởi trưởng
thành, đặc biệt người ngoài 60 tuổi cũng phản ứng khác nhau đối với ý nghĩ về cái chết:
chỉ có 10-30% tỏ ra sợ hãi cái chết. [1,272]
Tiểu kết: Mọi người có những điểm giống nhau và có những điểm rất khác nhau theo
lứa tuổi, đặc biệt là khi xét đến các loại tuổi khác nhau (tuổi sinh học, tuổi tâm trí, tuổi
xã hội và tuổi tâm lý) thì những khác biệt cá nhân càng trở nên tinh tế và đa dạng.
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 8
Khái niệm trẻ em & cách nhìn về thế giới trẻ em
- Mỗi một đứa trẻ là một thực thể độc lập, đặc biệt
Một đứa trẻ đó là một đứa trẻ độc lập, và trẻ này là một em nhỏ có một hệ thống
những đặc điểm (rất đặc trưng) khác biệt so với những trẻ em khác. Giống như những
đường vân trên ngón tay không em nào giống em nào.
Không bao giờ có chuyện sẽ có hai đứa trẻ giống nhau. Chỉ có trong trường hợp các
cặp trẻ em song sinh cùng trứng (identical twins) gọi theo thuật ngữ khoa học là
monozygotic- có nghĩa hai đứa trẻ sinh đôi phát triển từ một trứng ban đầu rồi trở
thành hai cơ thể độc lập
Trẻ là anh em sinh đôi khác trứng (fraternal twins) do hai trẻ sinh đôi phát triển từ hai
quả trừng độc lập (rụng cùng thời điểm người mẹ thụ thai) được thuật ngữ khoa học
gọi là dizygotic mặc dù có bề ngoài giống nhau nhưng nếu quan sát thật ký, chúng sẽ
có những điểm khác biệt.
- Thế giới trẻ em
Đó là một thế giới bao gồm những đặc tính phổ cập, những đặc tính rất chung, rất
dễ nhận thấy nơi các em. Ví dụ như trẻ em thích đùa, thích múa hát, thích chơi,
thích khen, thích quà…..
- Con mắt quan sát và tìm hiểu trẻ em không được tách với khung cảnh (bối cảnh)
môi trường sống của trẻ em (contexte de vie- situation de vie)
Có ba khung cảnh sống (context de vie) mà chúng ta cần chú ý đến:
+ Bối cảnh xã hội (social context- contexte sociale) : Nơi em sinh sống là thành
thị hay nông thông, công nghiệp hóa hay khu vực vùng sâu vùng xa, các em có
được tiếp cận với những nền văn minh hay không? Như thế, một đứa trẻ ở thành
thị sẽ có những biểu hiện rất khác một đứa trẻ ở thôn quê.
+ Bối cảnh văn hóa (cultural context- context culturelle): Những đặc điểm về văn
hóa cộng đồng, đất nước, vùng miền, văn hóa gia đình, dòng họ, quan hệ trong nhà
giữa các thành viên trong gia đình, họ hàng, những đặc điểm tôn giáo, tín ngưỡng,
gia phong…. mà trong môi trường đó các em sống và chịu ảnh hưởng.
VD: văn hóa gắn bó trong mối quan hệ gia đình của người Châu Á khác với văn
hóa độc lập, đề cao tính cá nhân của Châu Âu và các nước phát triển
Văn hóa trong gia đình hạt nhân và gia đình nhiều thế hệ
Văn hóa giáo dục trẻ ở cùng một đất nước nhưng khác vùng miền: Nam/ Bắc
Văn hóa tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau
+ Bối cảnh kinh tế xã hội (Socioeconomic context- Contexte socio-économique)
Hai nền kinh tế phát triển như nhau không có nghĩa là trẻ sống tại những bối cảnh
kinh tế xã hội giống nhau. Kết quả là trẻ sống tại những bối cảnh kinh tế xã hội có
những phúc lợi tốt, sự quan tâm chung của mọi người, các chương trình phục vụ
trẻ em sẽ phát triển tốt hơn tại những nơi các chương trình này không được cung
cấp.
 Các lĩnh vực phát triển
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 9
A. Phát triển thể chất: Bao gồm sự thay đổi hình thức và kích thước cơ thể và cả
sự thay đổi của các cấu trúc não bộ, năng lực cảm giác và kỹ năng vận động
B. Phát triển nhận thức và ngôn ngữ: bao gồm sự tiếp thu các kỹ năng tri giác,
tư duy, tưởng tượng, các quá trình phức tạp khác sử dụng ngôn ngữ…..
C. Phát triển tâm lý, cảm xúc, nhân cách: những trạng thái, thuộc tính, quá
trình tâm lý trong sự hình thành và phát triển nhân cách
D. Phát triển văn hóa xã hội: sự thu nhập, lĩnh hội và thể hiện những kỹ năng
văn hóa xã hội tương ứng với tuổi phát triển
III. Các học thuyết về tâm lý học phát triển
1. Các học thuyết cơ bản về nhân tố và động lực của sự phát triển tâm lý
 Học thuyết nguồn gốc sinh vật
- Coi đặc điểm bẩm sinh, di truyền có sẵn của trẻ em là nguồn gốc, động lực của sự
phát triển tâm lý cá thể, môi trường là yếu tố điều chỉnh, biểu hiện của tính di
truyền
- Các tác giả mô tả sự phát triển bào thai người là một quá trình lặp lại tất cả những
giai đoạn phát triển từ một thực thể đơn bài tới con người.
- Đóng góp:
+ Mô tả được quy luật phát triển của cá thể, cố gắng tìm mối quan hệ giữa sự phát
triển cá thể với sự phát triển loài.
+ Kích thích các nhà khoa học nghiên cứu tìm hiểu
- Hạn chế:
+ Học thuyết thiếu khoa học
+ Không phản ánh được khả năng tiếp thu nền văn hóa để đạt được trình độ phát triển
cao
 Học thuyết nguồn gốc xã hội
- Môi trường xã hội là nhân tố quyết định đến sự phát triển tâm lý của những đứa
trẻ. Một số thuyết tiêu biểu như thuyết hành vi nhấn mạnh đến sự tác động của
môi trường quá lớn đến sự phát triển của những đứa trẻ
- Đóng góp: Kích thích các nhà khoa học nghiên cứu tìm hiểu
- Hạn chế:
+ Không giải thích được thực tiễn sống động trong việc hình thành nhân cách con
người
+ Phủ nhận tính tích cực của con người
+ Phủ nhận giáo dục và thể hiện sự vô trách nhiệm
 Thuyết hội tụ hai yếu tố
- Sự phát triển tâm lý trẻ em có sự tác động đồng thời giữa môi trường và di truyền
trong đó di truyền chủ yếu, còn môi trường là điều kiện hiện thực của di truyền
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 10
- Với mỗi chức năng tâm lý, tỷ lệ của mỗi yếu tố tác động lại khác nhau
VD: Trí tuệ: 50% não bộ; cảm xúc: 30% xã hội
- Coi môi trường như là môi trường của động vật. Con người phải thích nghi với
môi trường đó.
- Đóng góp:
+ Loại bỏ sự phiến diện của thuyết nguồn gốc sinh vật và thuyết nguồn gốc xã hội
+ Kích thích sự nghiên cứu của các nhà khoa học
- Hạn chế:
+ Nếu coi môi trường động vật mà con người phải tự thích nghi là chưa đủ. Con
người còn có khả năng cải tạo môi trường để phù hợp với nhu cầu con người.
+ Các yếu tố sinh vật và môi trường xã hội khó có thể phân định rạch ròi trong sự
phát triển tâm lý của con người.
+ Thiếu yếu tố tích cực của bản thân của mỗi cá nhân. Học thuyết không nhấn mạnh
được tính tích cực của cá nhân với tư cách là một thành viên của xã hội.
2. Tư tưởng của Khổng Tử về các giai đoạn hoàn thiện Nhân tính
Khái niệm “Nhân” trong học thuyết của Khổng Tử được đề cập ở rất nhiều tác phẩm.
Ông cho rằng các giai đoạn hoàn thiện Nhân tính đi theo con đường: “Ta 15 năm tuổi để
chí vào việc học (đạo), 30 tuổi biết tự lập (tức khắc kỷ phục lễ, cứ theo điều lễ mà làm),
40 tuổi không nghi hoặc nữa (tức có trí đức nên hiểu rõ ba đức nhân, nghĩa, lễ), 50 tuổi
biết mệnh trời (biết được việc nào sức người làm được, việc nào không làm được), 60
tuổi đã biết theo mệnh trời, 70 tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài
khuôn khổ đạo lý”.
“Nhân” (người) gắn với các khái niệm “thiện nhân”, “đại nhân”, “thành nhân”, “nhân
nhân”, “thánh nhân”, “tiểu nhân”… Các khái niệm này nhằm chỉ những con người có
tính cách khác nhau, trình độ đạo đức khác nhau. “Thánh nhân” là người có đạo đức cao
siêu, “tiểu nhân” là người có tính cách thấp hèn… “Nhân” ở đây là chỉ con người nói
chung và “ái nhân” là yêu người, yêu bất cứ người nào, không phân biệt giai cấp, địa vị
xã hội của họ.
Người nhân trong quan niệm của Khổng Tử còn là người phải làm cho năm điều đức
hạnh được phổ cập trong thiên hạ. Năm điều đức hạnh đó là: cung, khoan, tín, mẫn, huệ.
Ông nói: “Nếu mình nghiêm trang cung kính thì chẳng ai dám khinh mình. Nếu mình có
lòng rộng lượng thì thu phục được lòng người. Nếu mình có đức tín thật thì người ta tin
cậy mình. Nếu mình cần mẫn, siêng năng thì làm được công việc hữu ích. Nếu mình thi
ân, bố đức, gia huệ thì mình sai khiến được người” (Luận ngữ, Dương Hoá, 6).
3. Học thuyết tâm lý học hành vi
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 11
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hình thành hai xu hướng duy tâm chủ quan và
duy tâm khách quan đã tạo nên sự khủng hoảng trong tâm lý học thời kỳ ấy.
Các nhà nghiên cứu tìm tòi con đường mới về nguyên tắc để xây dựng khoa học tâm lý.
Dựa trên quan điểm triết học thực chứng của Comte (1798 - 1857),chủ trương mọi lập
luận phải được xây dựng trên cơ sở những chứng cứ khách quan, quan sát được, những
thành tựu của các nhà sinh lý học thần kinh và tâm lý học động vật. J. Watson (1878 –
1958) - một nhà tâm lý học người Mỹ đã hình thành trường phái tâm lý học hành vi- một
khoa học về hành vi. Các nhà nghiên cứu có xu hướng duy vật trong tâm lý học đã đi
theo con đường này. Và nhờ có cuộc đấu tranh tích cực của Watson và những nhà hành vi
mà hành vi đã trở thành đối tượng chủ yếu và duy nhất của tâm lý học, góp phần xứng
đáng xây dựng tâm lý học khách quan.
Tâm lí học hành vi, với những đại biểu xuất sắc là các nhà tâm lí học kiệt xuất: J Watson
(1878 – 1958), E.Tolmen (1886 – 1959), E.L.Toocdai (1874 – 1949), B.Ph.Skinnơ (1904
– 1990)… Các nhà tâm lí học theo hướng tiếp cận hành vi phủ nhận việc nghiên cứu ý
thức con người.
John B.Watson (1878-1958)
Phát biểu nổi tiếng trong cuốn Chủ nghĩa Hành vi (Behaviorism) xuất bản năm 1930: “
Hãy trao cho tôi một chục đứa trẻ sơ sinh khỏe mạnh, bằng cách giáo dục riêng của tôi
nuôi chúng lớn, tôi sẽ bảo đả với các bạn rằng, tôi sẽ chọn lấy một em thật ngẫu nhiên và
nuôi em nhỏ đó- bất luận khả năng của em nhỏ đó như thế nào về mặt tài năng, khả năng,
xu hướng, sở thích, lý lịch chủng tộc- tôi có thể biến các em trở thành bác sĩ, luật sư,
nghệ sĩ, chủ doanh nghiệp hoặc ngay cả chuyện biến em trở thành một tên cướp. Cứ cho
là tôi ngông cuồng đi, nhưng những ai có ý trái ngược với tôi đã làm điều đó trong nhiều
ngàn năm về trước.’’
 Đề cao vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của trẻ em
B.F. Skinner (1904- 1990) là một nhà Tâm lý học người Mỹ. Tương tự Watson, ông chủ
xướng hành vi nơi người là đối tượng nghiên cứu quan trọng. Ông đề xướng quá trình
giảng dạy của người lớn một cách rất chi tiết và có ảnh hướng đối với quá trình giáo dục
của con em thông qua Củng cố hành vi (Behavioral Reinforcement)
- Người lớn cần hướng dẫn những hành vi mẫu mực mà chúng ta muốn con em thể hiện
thật rõ ràng, không nói giáo điều, chung chung, đại khái.
- Các bước hướng dẫn cần dễ làm, dễ thực hiện, tránh những yêu cầu phức tạp, ôm đồm,
quá sức, quá khả năng của trẻ. Nên tiến hành từ các thao tác đơn giản tiến đến gần hơn
với những thao tác phức tạp. Cần cho trẻ cơ hội thực hiện những gì các em đã học. Nếu
không, các em sẽ không có kinh nghiệm làm những việc này.
- Luôn tạo điều kiện để trẻ luôn luôn thành công, luôn thể hiện được em đã hoàn thành
được nững thao tác cần được thực hiện. Đừng bao giờ đề ra những kế hoạch giáo dục quá
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 12
cao, quá khó, để các em không đạt được, dễ rơi vào mặc cảm buồn, thất vọng, tiêu cực và
thiếu tự tin.
- Luôn tạo ra những cơ hội củng cố liên tục (intermittent reinforcement) nhằm tạo ra một
thói quen, một hình thức tư duy định hướng để trẻ có thể tạo được một thói quen tốt, một
thói quen tích cực cho bản thân.
4. Học thuyết học tập xã hội của Albert Bandura
Albert Bandura sinh ngày 4 tháng 12 năm 1925 tại thành phố Nundare phía bắc Alberta,
nước Canada. Ông là nhà nghiên cứu nổi tiếng về tâm lý học phát triển. Học thuyết học
tập xã hội của ông được coi là có nhiều ảnh hướng nhất với tâm lý học thế giới
Thí nghiệm Búp bê Bodo (Bodo doll Experiment) được coi là nổi tiếng nhất của ông
Kết quả: Phần lớn trẻ em khi quan sát người lớn tấn công một cách dã man con búp bê
Bodo, các em sẽ lặp lại những gì các em nhìn thấy.
 Kết luận: Hành vi học tập được thông qua Quan sát và Bắt chước
 Ứng dụng vào giáo dục: Để giáo dục trẻ, người lớn cần là những người làm
mẫu các hành vi, hành động một cách thật cẩn thận, có mục đích và cảnh giác
 Người lớn (Bố mẹ, ông bà, thầy cô) là những gương mẫu cho trẻ.
5. Học thuyết về sự phát triển tâm lý tính dục của Sigmund Freud
5.1. Về tác giả
Sigmund Freud là cha đẻ của phân tâm cổ điển, ông sinh ngày 6 tháng 5 năm 1856, ở
Freiburg, một thị xã nhỏ ở Moravia, hiện nay là phần thuộc cộng hoà Czech. Khi Freud
lên 4 tuổi, cha ông là một thợ máy người Do Thái, đưa gia đình đến Vienna, Freud đã
sống hầu hết thời gian ở đây. Theo học trường y khoa, ông chuyên về thần kinh học và đã
học một năm tại Paris với Jean-Martin Charcot, ông chịu ảnh hưởng bởi Ambroise-
August Liebault và Hippolyte-Marie Bernheim, cả hai đều dạy ông thôi miên khi ông ở
Pháp. Sau khi học tập ở Pháp, ông quay trở về Vienna và bắt đầu công việc lâm sàng với
những bệnh nhân Hysteria. Vào khoảng từ năm 1887 đến 1897, công việc của ông với
những bệnh nhân này dẫn đến việc phát triển phân tâm học. Ông chết năm 1939 tại Luân
Đôn.
5.2. Nội dung học thuyết
Các giai đoạn phát triển tâm tính dục được diễn ra theo 5 giai đoạn sau:
 Giai đoạn môi miệng (0-1 tuổi)
Trong năm đầu, môi miệng là bộ phận tạo ra những khoái cảm sâu sắc nhất; đây không
chỉ có vì được thỏa mãn nhu cầu đói no, mà còn là khoái cảm đặc biệt do môi miệng bị
kích thích. Một hiện tượng thường gặp là trẻ em bú no rồi nhiều khi vẫn mút tay hay mút
một cái gì khác chính là để tìm khoái cảm ấy: đó là một hành vi mà phân tâm học gọi là
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 13
kích dục, tức là tự kích thích bản thân để gây khoái cảm, lúc nào ấm ức hẫng hụt
(autoérotisme). Ở thời kỳ này về tâm lý, trẻ em còn hòa mình với đối tượng, tức là đồ vật
nào hay người nào tiếp xúc với mình. Đặc biệt trẻ em hòa mình với mẹ, cái cặp mẹ con
tuy hay nhưng chỉ là một.
 Giai đoạn hậu môn (2-3 tuổi)
Đến cuối năm đầu, bộ phận gây khoái cảm mạnh mẽ nhất là hậu môn, khi đẩy phân ra
ngoài. Đây là một cảm giác mới lạ đối với em bé: nếu lúc bú là thụ động tiếp nhận sữa
hay thức ăn nào khác, thì đại tiện lại mang tính chủ động, và cục phân chính là sản phẩm
đầu tiên của bé. Tất cả những cảm giác này xuất hiện vào lúc hệ thần kinh thành thục đến
mức bắt đầu chỉ đạo được các cơ ở hậu môn. Lúc này cũng xuất hiện một yếu tố mới
trong quan hệ mẹ-con: khác với trước đó, bố mẹ bắt đầu ép buộc con đi vào kỷ luật, ngồi
bô, chứ không thể đại tiện bất kỳ lúc nào nơi nào, không được sờ mó đến phân (trẻ em rất
thích chơi với phân), nói tóm lại bắt buộc phải ở sạch. Nếu trước kia mẹ cho bú, con thụ
động tiếp nhận, thì nay xuất hiện mâu thuẫn giữa mẹ và con. Bắt đầu đứa trẻ không còn
hòa mình với mẹ nữa, mà cảm nhận thấy mình là một cá thể riêng biệt, đó là quá trình cá
biệt hóa. Cũng bắt đầu tình cảm giữa bố mẹ và con mang tính hai chiều (ambivalence),
thương yêu quyện với chống đối, bực tức.
 Giai đoạn dương vật (3-6 tuổi)
Bước vào năm thứ ba đối với đại đa số trẻ em thì đại tiện xem như đã đi vào nề nếp. Lúc
này bộ máy thần kinh chỉ đạo những cơ khuyên được vận dụng trong tiểu tiện bắt đầu
thành thục: một bên là em bé có những khoái cảm đặc biệt xuất phát từ bộ phận đi tiểu,
một bên là bà mẹ cũng bắt đầu ép con vào kỷ luật, cả hai bên đều tập trung chú ý vào bộ
phận tiểu tiện. Nhưng bộ phận này cũng là cơ quan sinh dục, ở con trai là dương vật (tức
con chim), ở con gái là âm vật, nhỏ bé hơn nhiều nhưng không thấy rõ như chim của con
trai. Một bên là em bé hay sờ mó vào để tìm khoái cảm. Một bên là xã hội cấm kỵ
nghiêm khắc, bất kỳ hành vi nào liên quan đến bộ phận sinh dục, thêm vào là xã hội
thường trọng nam khinh nữ, hay đề cao con chim của đứa con trai, và bố mẹ cũng bắt đầu
đối xử khác biệt với con trai hay con gái, cho nên cảm nhận của đứa bé về giới tính của
mình bắt đầu rõ nét. Theo phân tâm học tâm lý vào lứa tuổi này nhuốm màu sắc tính dục
rõ rệt. Trong sự yêu và ghét của đứa bé, định hướng giới tính rõ nét: con trai thì yêu mẹ
và ghen tị với bố. Dĩ nhiên tình cảm yêu ghét ghen tị này thường là vô thức, nhưng vẫn
chi phối mọi hành vi của em bé.
Mặc cảm Oedipe đi đôi với mặc cảm bị thiến (complexe de castration): cậu con trai tự
hào bao nhiêu về cái chim của mình, càng lo sợ bị cắt mất, và người lớn cũng thường đe
dọa như vậy, còn con gái thì ngờ rằng chim của mình đã bị cắt cụt. Từ những tình cảm
trái ngược, từ những thắc mắc, thường là tất cả là vô thức, trong tâm tư cũng vô thức của
em bé hình thành những hình ảnh ý nghĩa phức tạp, phân tâm học gọi đó là những huyễn
tưởng (fantasme, huyễn có nghĩa gần giống với ảo). Cũng vào lứa tuổi ấy, trẻ em bắt đầu
thắc mắc về những vấn đề như làm sao mẹ đã sinh ra mình và em mình, về cái sống cái
chết, các em sống trong một cái biển ngôn ngữ, hình ảnh, nghe thấy rất nhiều nhưng hiểu
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 14
biết lại rất ít cho nên trong mọi quan hệ xã hội gặp rất nhiều tình huống không biết thực
hư thế nào, dễ sinh ra lo sợ.
Phân tâm học nêu lên một điểm thắc mắc rất lớn của trẻ em vào tuổi này: có những lúc bố
mẹ tưởng con đã ngủ say, nhưng thực ra con chứng kiến bố mẹ ăn nằm với nhau, không
hiểu được việc này, thường tưởng đây là một hành động hung bạo của bố đối với mẹ,
nhưng không dám nói ra, phân tâm học gọi đó là “kịch cảnh nguyên thủy” (Scène
primitive). Không lạ gì trong các trò chơi của trẻ em thường thấy chơi làm vợ chồng, làm
bố làm mẹ làm con, có sống có chết, có thiện có ác, có thần tiên ma quỷ v.v… chứ không
phải những sự việc hằng ngày kiểu “người thật việc thật”
 Giai đoạn ẩn tàng (6-12 tuổi)
Đến sáu bảy tuổi những mặc cảm các giai đoạn trước – môi miệng, hậu môn, dương vật –
dần dần được giải tỏa, tính tình trẻ em ổn định hơn. Bắt đầu đi học phổ thông, cuộc sống
vươn ra khỏi phạm vi gia đình, các em bước vào một môi trường mới với những hứng thú
và đòi hỏi mới. Bắt đầu có hứng thú tiếp nhận những hiểu biết mới, hứng thú kết bè kết
bạn ngoài anh chị em, và có quan hệ đặc biệt với một người lớn không phải là bố mẹ mà
là thầy cô giáo. Tình cảm của em bé với bố mẹ không còn mang tính tập trung gay gắt
như trong các giai đoạn trước. Đặc biệt mặc cảm Oedipe được giải tỏa dần: con trai
không còn bám lấy mẹ, không còn ghen tuông với bố, và con gái thì ngược lại, mà một
bên thì tự đồng nhất với bố, một bên với mẹ, cố gắng học tập tuân theo qui tắc của gia
đình và nhà trường
 Giai đoạn sinh dục (sau 12 tuổi)
Đến tuổi dậy thì, với những biến động sinh lý, tâm tư xao xuyến, tình dục lại khơi dậy lên
ở mức cao, những mặc cảm thời trước, đặc biệt là Oedipe, trỗi dậy một lần nữa; nhưng
lần này, tình dục định hướng về một con người khác giới, ở ngoài gia đình, và quan hệ
với đối tượng này đầy đủ cả hai mặt xác thịt và tâm lý xã hội. Lúc ấy con người đã thật
trưởng thành, những mặc cảm của những thời trước được giải tỏa. Quan hệ với bố mẹ
không còn nhuốm màu tình dục nữa, vì tình dục này đã đầu tư vào người yêu.
 Những khó khăn về phát triển: Thoái lùi, cắm chốt
Thoái lùi là quá trình chủ thể quay trở lại một giai đọan phát triển trước đó thay vì phải
chuyển sang giai đọan tiếp theo. Vấn đề này thường xuất hiện khi một người phải đương
đầu với những đe doạ. Trẻ em có thể trở lại với những hành vi của thời ẵm bồng khi
chúng cảm thấy bị đe doạ về sự mất mác tình thương yêu. Người lớn có thể rút lui khỏi
những hoạt động tình dục với người khác giới bởi vì họ cảm thấy họ không trưởng thành
về mặt tâm lý và rút lui khỏi những hoạt động đó để tránh tình huống gây ra sự lo âu.
Thông thường thì điều này dẫn đến quyết định thoái lùi về một giai đoạn phát triển mà
trước đây họ đã trải qua. Việc thoái lùi cũng có mức độ nhất định và việc thoái lùi về một
giai đoạn phát triển không có nghĩ là thoái lùi hoàn toàn.
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 15
Cắm chốt là gắn bó quá mức về tình cảm vào một con người hay một đồ vật, tập trung
vào đấy, không còn liên hệ với người khác hay có một hứng thú nào khác.
Theo phân tâm học, trong quá trình phát triển, ở mỗi lứa tuổi, cảm xúc tình cảm được tập
trung gắn bó với những bộ phận cơ thể nhất định (môi miệng, hậu môn, dương vật), và
những con người nhất định. Trưởng thành là dần dần thoát khỏi những bước quá độ ấy để
tiến tới có những tình cảm đa dạng linh hoạt. Khi vấp phải một chấn thương tâm lý, có
thể thoái lùi về một giai đoạn trước, tình cảm cắm chốt vào một đối tượng nhất định. Như
vậy cắm chốt và thoái lùi là hai hiện tượng đi đôi với nhau.
Cắm chốt là một trong những cơ chế phòng vệ (trong số 29 cơ chế phòng vệ).Theo quan
điểm của Freud về sự phát triển nhân cách một cách bình thường xuất hiện thông qua một
chuỗi các giai đoạn phát triển về tâm sinh dục. Việc chuyển từ giai đoạn này sang một
giai đoạn kế tiếp có mối quan hệ mật thiết với những thất bại và những lo âu. Nếu việc lo
âu này ngày càng trở nên nghiêm trọng thì sự phát triển về mặt tâm lý tạm thời dừng lại.
Bởi vì cá nhân đó cảm thấy sợ và lo lắng khi chuyển sang giai đoạn kế tiếp.
6. Học thuyết mối quan hệ gắn bó
6.1. Nghiên cứu về mối quan hệ gắn bó
Là một trong những đặc trưng quan trọng bậc nhất ở trẻ trước 2 tuổi. Đó là sự
tương tác mẹ con diễn ra theo hai chiều:
- Mẹ chủ động tác động vào con và được con đáp ứng.
- Con chủ động tác động vào mẹ, và được mẹ đáp ứng.
=> Sự gắn bó mẹ con là sự xuất hiện một mối quan hệ xúc cảm- tình cảm giữa mẹ
và con
John Bowlby là người đầu tiên nghiên cứu về hiện tượng gắn bó mẹ con theo quan
điểm của “Tập tính học”( Khoa học nghiên cứu hành vi trong sự tiến hoá của các loài).
Sau quá trình nghiên cứu, ông đưa ra các kết luận sau:
+) Sự gắn bó xã hội mẹ con có ý nghĩa quyết định sự phát triển bình thưòng của
trẻ. Thiếu quan hệ gắn bó này sẽ phát sinh ở trẻ những rối nhiễu trầm trọng như: Trẻ
không thể hình thành những mối quan hệ gắn bó, khả năng đồng cảm với người khác, do
đó trẻ không thể tuân thủ những tiêu chuẩn xã hội một cách bình thường (hành vi lệch
chuẩn), dễ phạm pháp, hư hỏng sau này.
+) Ông cũng nhấn mạnh rằng: trẻ hình thành mối quan hệ với người mẹ, khác về
“chất” so với việc hình thành mối quan hệ với những người khác. Ông gọi đó là “tính đơn
hướng”. Nếu bị tước đoạt người mẹ trong thời gian này thì đó là một đòn chí tử với người
con.
=>Nhận xét: Bowbly đã tuyệt đối hoá vai trò của sự gắn bó mẹ con, mà xem nhẹ
những mối quan hệ khác. Bởi không phải người “mẹ” là quyết định sự gắn bó mà chính
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 16
nội dung và cách thức tương tác mới quyết định mối quan hệ ấy, cũng như quyết định
sự phát triển tâm lý ở trẻ. gắn bó ấy là gắn bó có ý thức chứ không phải gắn bó vô thức,
bẩm sinh.
* Schaffer và Erikson: 2 ông đã đưa ra nhận xét sau:
- Trẻ có thể gắn bó với những người khác nếu nội dung và phương pháp phù hợp.
tức là người mẹ cũng phải thực hành cách thức tương tác thì mới có thể tạo mối quan hệ
gắn bó mẹ con tốt đẹp. Như vậy sự gắn bó mẹ con không phải mang tính “đơn hướng”
như John Borly đã khẳng định.
- Trẻ thường tỏ ra gắn bó nhanh với những tỏ ra người nhạy cảm với những yêu
cầu của trẻ. Trẻ nhanh gắn bó với những người “đọc” được những nhu cầu và đáp ứng
kịp thời nhu cầu đó.
- Nếu Bowlby cho rằng sự gắn bó mẹ con chỉ diễn ra ở những năm đầu đời thì
Schaffer và Erikson lại đưa ra ý kiến khác. Ông làm nghiên cứu thực nghiệm với 91 đứa
trẻ dưới 5tuổi đi làm con nuôi. Sau 1 thời gian, 89 đứa gắn bó với mẹ nuôi, chỉ có 2 đứa
là không xảy ra sự gắn bó. Như vậy, 2 ông khẳng định, ngoài 5 tuổi vẫn diễn ra sự gắn bó
miễn là nội dung và hình thức tương tác phù hợp.
- Sự hư hỏng của trẻ khi trưởng thành không phải chỉ do thiếu sự gắn bó mẹ con
mà còn do nhiều nguyên nhân khác.
Quá trình hình thành sự gắn bó mẹ con
Trong thế kỉ XX, Rudolph Schaffer và Peggy Emerson đã nghiên cứu sự phát triển
của một nhóm trẻ Scotland. Mỗi tháng một lần, họ phỏng vấn các bà mẹ và rút ra kết luận
là: Ở trẻ, quá trình hình thành sự gắn bó mẹ con thường diễn ra qua 4 giai đoạn:
Giai đoạn tiền xã hội (0 - 6 tuần tuổi): Còn gọi là pha phi xã hội. Trẻ mới đẻ phi
xã hội theo nghĩa là các kích thích xã hội hoặc phi xã hội thường tạo ra phản xạ thích thú,
chỉ một số ít tạo phản xạ phản đối. Cuối pha này, trẻ thể hiện sự ưa thích đối với những
kích thích xã hộ như khuôn mặt đang cười.
Giai đoạn xã hội chưa phân tách ( 6 tuần tuổi- 6, 7 tháng tuổi): Trong giai
đoạn này trẻ thích bầu bạn cùng mọi người nhưng không phân tách. Trẻ cười nhiều với
mọi người và những vật thể giống người như búp bê và có vẻ rối rít khi người lớn không
đồng tình. Mặc dù trẻ từ 3 đến 6 tháng tuổi dành nụ cười tươi nhất cho người mẹ, người
chăm sóc; nín ngay khi được người ấy dỗ nhưng chúng cũng thích thú khi được người
khác chú ý, bất kể đó là người quen hay lạ.
Giai đoạn gắn bó đặc biệt ( 7-9 tháng tuổi): Trong giai đoạn này trẻ thường gắn
bó với một người duy nhất (mẹ, người chăm nuôi). Trẻ bắt đầu phản đối khi tách khỏi
mẹ, thường bò theo mẹ, lại gần mẹ và vui mừng khi thấy mẹ, đồng thời hay sợ người lạ.
Sự gắn bó mạnh mẽ với mẹ giúp trẻ khảo sát môi trường xung quanh nó.
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 17
Giai đoạn đa gắn bó (sau 10 tháng tuổi): Trẻ có thể gắn bó với mọi người.
Trước hết là những người thân trong gia đình như bố, mẹ, anh, chị, ông, bà… Sau 18
tháng sẽ còn rất ít trẻ chỉ gắn bó với một người.
Nhìn chung sự gắn bó chặt chẽ giữa mẹ và con diễn ra mạnh mẽ ở trẻ trong suốt 6
tháng đầu, đặc biệt là giai đoạn từ 6-9 tháng tuổi.
Những biểu hiện của sự gắn bó mẹ - con:
* Biểu hiện của sự gắn bó mẹ - con là các hành vi làm tăng sự gần gũi hoặc sự
tiếp xúc của đứa trẻ với người mẹ hoặc với hình bóng của người mẹ.
- Lọt lòng, trẻ đã có những phản xạ như mút, bám níu, khóc, mỉm cười, muốn được
ôm ấp vỗ về  Đó chính là sự thể hiện nhu cầu gắn bó với người lớn.
- Phản xạ rúc đầu vào bụng, vào ngực mẹ, một mặt là để tìm vú, mặt khác là muốn
áp vào da thịt mẹ… Tất cả các phản ứng đó tạo ra quan hệ xúc cảm mẹ - con.
- Quan hệ với người mẹ qua xúc giác là mối quan hệ được xuất hiện sớm nhất và
có vai trò quan trọng bậc nhất đối với sự phát triển của trẻ trong năm đầu. Đó chính là
biểu hiện của sự gắn bó của trẻ với người mẹ
 Đây là quan hệ gốc, làm cơ sở cho sự phát triển các mối quan hệ xã hội sau
này.
- Trong mối quan hệ gắn bó mẹ - con, ở cả 2 phía mẹ và con đều phát tín hiệu:
+ Tín hiệu của mẹ được biểu hiện ở những động tác, cử chỉ, nét mặt, giọng nói…
hướng về đứa con, gợi cho nó phản ứng đáp lại.
+ Còn đứa con tuy chưa có lời nói, cử chỉ hướng về mẹ một cách chủ định nhưng
nó vẫn phát ra những tín hiệu như mút, dụi đầu, nhìn, cười, la khóc, cọ quậy chân tay…
khiến người lớn mà trước hết là người mẹ nhận ra và đáp ứng nhu cầu của bé.
Vai trò của sự tiếp xúc trực tiếp (gắn bó mẹ - con) tới sự phát triển tâm lý của
trẻ nhỏ:
Sự gắn bó với người mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển tâm lý
của trẻ. Nếu thiếu sự gắn bó mẹ - con, quá trình phát triển của trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn.
- Sự gắn bó mẹ - con tạo ra cảm giác an toàn (thỏa mãn nhu cầu an toàn) ở trẻ
nhỏ, giúp trẻ yên tâm trong việc khám phá và giao tiếp với môi trường xung quanh. An
toàn là trạng thái tâm lý ở trẻ, được sinh ra khi người mẹ và những người thân xung
quanh thoả mãn được các nhu cầu như dinh dưỡng, gắn bó cho trẻ, ôm ấp yêu thương trẻ,
trò chuyện thân thiện với trẻ… mang lại cho trẻ cảm giác bình yên, thoải mái. Đây là chỗ
dựa vững chắc, giúp trẻ đi vào thế giới đồ vật một cách tự tin, phát triển hài hoà các chức
năng tâm lý như: chú ý, tri giác, tưởng tượng, tư duy, trí nhớ… giúp trẻ thích nghi nhanh,
hợp lý với những thay đổi của môi trường tự nhiên và xã hội. Nếu không có sự an toàn thì
sự phát triển về tâm lý, nhân cách của trẻ sẽ gặp phải rất nhiều bất ổn. Đứa trẻ sẽ bị cảm
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 18
giác lo lắng, bất an chi phối, nó dễ cáu gắt và khóc lóc rất nhiều. Nhiều trẻ em do không
được thoả mãn nhu cầu an toàn này mà giai đoạn sau rất dễ có những rối nhiễu tâm lý
như trầm cảm, lo âu….
- Sự gắn bó mẹ - con là tiền đề quan trọng cho nhu cầu giao tiếp với những
người xung quanh. Lúc đầu, người mẹ đóng vai trò chủ động, nhưng dần dần em bé tiến
lên năng động hơn. Ngay từ cuối tháng thứ nhất, trẻ đã biết “hóng chuyện”, phản ứng khi
được người lớn “hỏi chuyện” như cười, khua chân khua tay… Sang tháng thứ hai, xuất
hiện sự mỉm cười ở bé khi thấy một ai đó đến bên. Bé tỏ ra vui mừng khi ai đến với nó và
tỏ ra buồn bã khi họ bỏ đi, rồi lại đưa mắt tìm chơi với người khác. Cứ như vậy quan hệ
giao tiếp của trẻ dần hình thành và phát triển. Đây cũng là tiền đề thuận lợi để hình thành
và phát triển ngôn ngữ cho trẻ sau này.
- Giao tiếp trực tiếp với người mẹ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển
xúc cảm, tình cảm của trẻ. Từ nhu cầu tiếp xúc da thịt với người mẹ đến giao tiếp thực
sự với những người xung quanh, khi mà trẻ đã có những phương thức giao tiếp là một
bước phát triển rõ rệt từ tuổi sơ sinh đến tuổi hài nhi. Trong giao tiếp với mẹ, trẻ tiếp
nhận được những sắc thái xúc cảm khác nhau của người mẹ, rồi dần dần trẻ cũng thể hiện
được những xúc cảm khác nhau của mình.
- Giao tiếp trực tiếp với người mẹ là một bước đệm quan trọng cho giai đoạn
sau đó. Cùng với giao tiếp trực tiếp với người mẹ, dần dần ở trẻ xuất hiện nhu cầu sờ mó,
cầm nắm các đồ vật. Từ đó nhu cầu giao tiếp trực tiếp sẽ nhường chỗ cho giao tiếp với đồ
vật, tức là giao tiếp với người mẹ để tiếp xúc với đồ vật. Lúc này người mẹ trở thành
khâu trung gian giữa trẻ và đồ vật. Sự giao tiếp này dần dần trở thành hoạt động phối hợp
giữa người mẹ và trẻ nhỏ. Người mẹ lúc này có vai trò dẫn dắt đứa trẻ đến với thế giới đồ
vật và hướng dẫn nó biết hành động với các đồ vật đơn giản. Nhờ hoạt động phối hợp với
người lớn nói chung và người mẹ nói riêng, ở trẻ nảy sinh khả năng bắt chước hành động
của người lớn. Khả năng này là điều kiện quan trọng để tiếp thu những điều dạy dỗ của
người lớn, mở rộng vốn kinh nghiệm của trẻ. Khả năng bắt chước những hành động của
người lớn được phát triển mạnh trong suốt thời kỳ hài nhi. Đến cuối tuổi này thì sự bắt
chước tăng lên rõ rệt (chải tóc giống mẹ, đọc sách giống bố…).
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự gắn bó mẹ - con:
* Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự gắn bó mẹ - con, theo cuốn “Tâm lý học phát
triển” (Dương Thiệu Hoa chủ biên, NXB ĐH Sư phạm) thì có 3 yếu tố nổi bật là: chất
lượng chăm sóc trẻ của người mẹ, đặc điểm bầu không khí tâm lý gia đình và sức khỏe
của trẻ.
- Chất lượng chăm sóc trẻ của người mẹ:
+ Trong đa số trường hợp, người mẹ nhạy cảm, đáp ứng ngay những nhu cầu của
trẻ thì thường tạo ra ở trẻ sự thích thú khi tương tác với mẹ và tạo cảm giác an toàn (gắn
bó an toàn).
+ Ngược lại, trẻ sẽ có cảm giác lo lắng và lẩn tránh đối với người mẹ không
đáp ứng đối với các tín hiệu của trẻ, thể hiện sự không thích thú khi bên con.
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 19
- Điều kiện gia đình và bầu không khí tâm lý gia đình cũng là tác nhân quan
trọng đối với sự gắn bó. Nếu mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không tốt,
đặc biệt giữa người bố và người mẹ thường xuyên xảy ra tranh cãi, mâu thuẫn, xung
đột… đều ngăn cản việc hình thành gắn bó mẹ - con.
- Một tác nhân khác ảnh hưởng tới sự gắn bó mẹ - con là sức khỏe và khí chất của
trẻ. Những trẻ nhẹ cân khi mới đẻ, ốm yếu bẩm sinh… thường cáu bẳn và uể oải, từ đó
làm giảm sự nhạy cảm của bố, mẹ đối với trẻ và ngược lại.
* Hai nỗi sợ hãi có liên quan đến sự gắn bó của trẻ nhỏ với người khác nói chung
(theo Schafel và Emerson), đó là nỗi lo người lạ và nỗi lo chia cắt.
- Nỗi lo người lạ là phản xạ cẩn trọng biểu hiện ở sự trái ngược so với những động
tác mà trẻ chào đón người quen.
- Nỗi lo chia cắt được trẻ thể hiện bằng sự không thoải mái khi phải xa mẹ hoặc
đối tượng mà trẻ gắn bó.
Mặc dù về phía trẻ có sự ảnh hưởng nhất định tới sự gắn bó mẹ - con, nhưng vai
trò quyết định tới sự hình thành và phát triển mối quan hệ này thuộc về người mẹ, người
chăm nuôi và gia đình.
6.2. Học thuyết mối quan hệ gắn bó của Bowlby
Bowlby sử dụng thuật ngữ “Attachment” (gắn bó) để chỉ mối quan hệ tình cảm
giữa trẻ và người chăm sóc chính (thường là mẹ).
Gắn bó được hình thành trong quá trình tương tác của trẻ với mẹ. Sự phát triển và
hài hòa về nhân cách của trẻ tuỳ thuộc vào việc thiết lập các mối quan hệ tương tác giữa
mẹ và con đầu đời. Kinh nghiệm đầu thời thơ ấu ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển
của trẻ và những hành vi trong cuộc sống sau này. Những kiểu gắn kết đầu tiên của trẻ ta
được hình thành trong thời thơ ấu thông qua mối quan hệ giữa trẻ và người chăm sóc
chúng.
Theo khái niệm này thì qua sự tiếp xúc thường xuyên từ lúc lọt lòng, tuỳ mức độ
đòi hỏi của em bé và sự đáp ứng của người mẹ, sẽ tạo ra một mối quan hệ gắn bó tốt xấu,
đậm nhạt khác nhau. Đây là một sự tác động qua lại giữa mẹ và con, mà người mẹ ở đây
không nhất thiết là bà mẹ sinh ra trẻ, đó có thể chỉ là bà mẹ nuôi trẻ.
Theo Bowlby, sự gắn bó này được hình thành qua 3 thời kỳ:
- Giai đoạn sơ sinh: Trẻ sẽ chủ động tìm sự quan hệ với bất kỳ ai chăm sóc, quan
tâm đến trẻ.
- Giai đoạn phân biệt lạ-quen: Trên 2 tháng là trẻ đã có khả năng phân biệt lạ –
quen với những người xung quanh.
- Giai đoạn bám mẹ: Từ 6 tháng trẻ sẽ tìm cách bám lấy mẹ, sự quan tâm của trẻ
sẽ tập trung vào một người, khi mẹ bỏ đi trẻ sẽ tìm kiếm, khi mẹ trở lại trẻ tỏ ra vui
mừng, và trẻ sẽ phân biệt được mẹ với những người chăm sóc khác.
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 20
Chính vì vậy, ở những trẻ mồ côi từ lúc sơ sinh, nếu không thiết lập được sự gắn bó với
một bà mẹ nào đó, là người chăm sóc trẻ thường xuyên trong một thời gian trên 6
tháng, sẽ xuất hiện một rối nhiễu tâm lý gọi là hội chứng vắng mẹ (hospitalism), trẻ sẽ
chậm nói, chậm phát triển về tâm lý vận động mặc dù vẫn được nuôi ăn đầy đủ.
Tuy nhiên, theo sự phát triển của tâm –sinh lý, sau một thời gian thiết lập được sự gắn
bó với mẹ, thì khi được 2-3 tuổi trẻ lại bước vào một giai đoạn muốn tách biệt
(détachement) với mẹ, cũng với những bước chân chập chững là một tâm lý tự chủ, tự
khẳng định mình. Đó là một trạng thái phát triển tâm lý cần thiết, mà nếu một người mẹ
không am hiểu vì lòng thương con cứ tiếp tục quyến luyến, ôm ấp và làm thay cho con
quá nhiều khiến cho trẻ không phát triển được về tâm lý và đôi khi tình trạng này kéo
dài cho đến tận tuổi…trưởng thành.
Có 4 kiểu gắn bó:
a. GẮN BÓ AN TOÀN (SECURE ATTACHMENT)
Những đứa trẻ có kiểu gắn bó an toàn không trải qua tình trạng lo lắng quá mức khi tách
chúng ra khỏi người nuôi dưỡng. Khi sợ hãi, những đứa trẻ này sẽ tìm kiếm sự thoải mái
từ cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng chúng. Những đứa trẻ có kiểu gắn kết an toàn chấp
nhận sự tiếp xúc đầu tiên của cha mẹ một cách dễ dàng. Chúng biểu lộ sự vui mừng bằng
những hành vi rất tích cực khi cha mẹ quay trở lại. Những đứa trẻ này hiếm khi có những
lo lắng quá mức khi cha mẹ vắng mặt, những lúc đó chúng chuyển sang tiếp xúc với
những người lạ.
Những đứa trẻ có kiểu gắn kết an toàn sau này dễ dàng thấu cảm hơn, tự do và mạnh dạn
khám phá thế giới hơn. Những đứa trẻ này sẽ ít phá hoại, ít gây hấn và chín chắn hơn
những đứa trẻ có kiểu gắn kết tính hai chiều hay tránh né.
Khi trưởng thành, những đứa trẻ có kiểu gắn kết an toàn thường có sự tin tưởng, có
những mối quan hệ lâu dài
b. GẮN BÓ CHỐNG ĐỐI KHÔNG AN TOÀN- GẮN BÓ TÍNH HAI CHIỀU( ANXIOUS
AMBIVALENT ATTACHMENT)
Trẻ có gắn bó chống đối không an toàn có khuynh hướng bám dính vào người chăm sóc
và cảnh giác quá mức trong tương tác với người lạ ngay cả khi có mặt của người chăm
sóc. Trẻ dễ bị khó chịu khi chia cách, nhưng khi gặp mặt lại, trẻ cố gắng chống đối một
cách giận dữ khi gần gũi và không dễ dỗ dành. Trẻ đáp ứng với mẹ bằng kiểu tìm kiếm
gần gũi hai chiều và từ chối.
Khi trưởng thành, những trẻ có kiểu gắn kết tính hai chiều thường cảm thấy miễn cưỡng
khi gần gũi người khác và lo lắng rằng người bạn đời không đáp lại những cảm xúc của
họ. Điều này thường dẫn đến rạn nứt, vì những mối quan hệ đó lạnh nhạt và có khoảng
cách. Những người có kiểu gắn kết này đặc biệt cảm thấy quẫn trí sau khi một mối quan
hệ kết thúc.
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 21
c. GẮN BÓ TRÁNH NÉ (AVOIDANT ATTACHMENT)
Những đứa trẻ có kiểu gắn kết tránh né có khuynh hướng tránh né cha mẹ và những
người nuôi dưỡng chúng. Sự tránh né này thường trở nên đặc biệt rõ rệt sau giai đoạn cha
mẹ chúng vắng mặt. Những đứa trẻ này có thể không chấp nhận sự chú ý từ cha mẹ.
Nhưng chúng cũng không tìm kiếm cảm giác thoải mái hay tiếp xúc với cha mẹ. Những
đứa trẻ với kiểu gắn kết tránh né biểu lộ sự không thiên vị giữa cha mẹ và những người
hoàn toàn lạ lẫm. Trẻ có kiểu gắn bó này dường như độc lập một cách sớm hơn bình
thường.
Khi trưởng thành, những người có kiểu gắn kết tránh né thường khó khăn trong các mối
quan hệ thân thiết và gần gũi. Họ không dành nhiều cảm xúc trong những mối quan hệ và
chỉ trải qua một chút lo lắng khi có một mối quan hệ chấm dứt. Họ thường né tránh sự
chân thành bằng cách viện cớ để thoái thác (như làm việc nhiều....vv)
d. GẮN BÓ MẤT ĐỊNH HƯỚNG (DISORGANIZED ATTACHMENT)
Những đứa trẻ với kiểu gắn kết mất định hướng có những hành vi gắn kết thể hiện ít rõ
ràng. Những hành động và phản ứng của chúng với người chăm sóc thường là những
hành vi pha lẫn với sự tránh né hay chống đối. Những đứa trẻ này được mô tả rằng chúng
biểu lộ những hành vi thể hiện sự bàng hoàng. Đôi khi chúng có thể biểu hiện sự bối rối
hay sợ hãi khi có người nuôi dưỡng.
7. Học thuyết mối quan hệ đối tượng của Winnicott
7.1. Về tác giả
Donalt Winnicott (1896-1971) sinh ra trong một gia đình khá giả thuộc tầng lớp trung lưu
ở Plimuth, nước Anh. Mong muốn trở thành bác sĩ, ông theo học Y ở Đại học Cambridge
nhưng việc học bị gián đoạn khi ông phải tham gia phục vụ trên tàu chiến của Anh trong
Chiến tranh thế giới thứ nhất với tư cách là bác sĩ tập sự. Ông hoàn tất việc học vào năm
1923, kết hôn lần thứ nhất và trở thành bác sĩ của bệnh viện nhi Paddington Green ở
London. Năm 1927, ông tham gia đợt tập huấn của Hội Phân tâm Anh, được công nhận là
nhà phân tâm người lớn năm 1934 và nhà phân tích trẻ em năm 1935. Ông vẫn tiếp tục
làm việc tại bệnh viện dành cho trẻ em và sau này có nói lại rằng: “Ở thời điểm đó, không
có ai làm đồng thời 2 vị trí: nhà phân tích tâm lí và bác sĩ nhi khoa. Tôi là một hiện tượng
cá biệt trong hai thập kỉ trở lại đây”. Việc điều trị trẻ em bị rối loạn tâm thần đã đem lại
cho ông nhiều kinh nghiệm để xây dựng lí thuyết cơ bản cho riêng mình. Việc này cũng
giúp ích cho ông trong phát triển “tư vấn trị liệu”.
Trong những năm tháng chiến tranh, ông làm việc nhiều với bệnh nhân tâm thần là những
trẻ nhỏ di cư từ London hay các thành phố lớn khác và bị li tán gia đình. Kinh nghiệm
của một nhà tư vấn tâm thần cho Dự án Di cư của chính phủ đã thúc đẩy ông suy nghĩ về
vai trò của người mẹ. Ông kết hôn lần thứ 2 với Clare Britton, nhân viên tâm thần xã hội
mà ông đã làm việc cùng trong suốt những năm tháng chiến tranh. Sau chiến tranh,
Winnicott trở thành bác sĩ của khoa nhi, Viện Phân tâm học trong suốt 25 năm. Ông là
chủ tịch Hội Phân tâm Anh trong 2 nhiệm kì, thành viên của UNESCO và thuộc nhóm
nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới WHO. Ông cũng xuất bản nhiều cuốn sách và có
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 22
nhiều nghiên cứu thực tiễn. Năm 1971, ông mất sau một cơn đau tim kéo dài và được hỏa
táng tại London.
7.2. Nội dung học thuyết
Winnicott có đóng góp rất lớn cho hệ thống lí thuyết của Phân tâm học, đặc biệt là lí
thuyết về “Mối quan hệ đối tượng”.
Winnicott cho rằng để trẻ em có thể phát triển tốt, khỏe mạnh, thì người mẹ phải “đủ tốt”
để gắn kết với trẻ bằng “tình mẫu tử nguyên phát” (Primary maternal preoccupation).
Người mẹ đủ tốt cho phép đứa trẻ có thể phát triển cảm giác, tri giác tuyệt đối, cái này sẽ
mất đi khi trẻ trưởng thành.
Theo Winnicott, khoảng cách tâm lí giữa mẹ và trẻ thông qua “môi trường bế bồng”
(Holding environment) cho phép trẻ chuyển tiếp để trở nên tự chủ hơn. Môi trường bế
bồng có lợi về mặt tâm lí và thể chất, trong đó trẻ được bảo vệ khỏi những đe dọa. Khi
một đứa trẻ được sinh ra, người mẹ dành mọi thời gian và tình cảm để chăm sóc nó. Dưới
con mắt của bà mẹ luôn có cái gọi là Sự lo lắng của mẹ, cung cấp cho trẻ một môi trường
mà nó có thể thoải mái khám phá, học hỏi thông qua các trải nghiệm. Với một đứa trẻ,
điều này có nghĩa là nó bắt đầu nhận ra thế giới bên ngoài (đối tượng thực tế), ở đó không
phải bất cứ lúc nào trẻ muốn là cũng đều được đáp ứng. Trước đó có thể nó chưa bao giờ
cảm thấy bị phụ thuộc vì mẹ nó luôn luôn có mặt bên nó, luôn luôn đáp ứng tất cả những
gì nó đòi hỏi, thì giờ đây, nó nhận thấy rằng xung quanh nó còn có những người khác với
những vấn đề của riêng họ. Những điều này lạ lẫm với nó và có nhiều nguy cơ không an
toàn với nó, chính lúc này, nó cảm thấy bị phụ thuộc. Để đồng cảm với nhu cầu của đứa
trẻ, người mẹ phải bảo vệ nó khỏi những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Nếu người mẹ
cung cấp một cách thái quá hoặc cung cấp thiếu đều ảnh hưởng không tốt đến sự phát
triển lành mạnh của trẻ. Trẻ có thể cảm thấy bị bỏ rơi, các trải nghiệm sẽ bị ngừng, thậm
chí nó có thể bị chấn thương tâm lí.
Các phát hiện chính trong lý thuyết mối quan hệ đối tượng của Winnicott:
a. . Quyền lực vô hạn của chủ thể
Trong suốt quá trình phát triển, đứa trẻ sẽ trải qua những kinh nghiệm mà
Winnicott gọi là quyền lực vô hạn của chủ thể. Chủ thể ở đây là đứa trẻ, quyền lực vô hạn
là quyền của nó. Theo cách đó đứa bé sẽ cảm thấy như thể là nó hợp nhất với mẹ nó. Trẻ
cho rằng nó hoặc mẹ nó là tất cả, là trung tâm của sự tồn tại. Bởi vì đối với trẻ, bất cứ lúc
nào nó muốn, mẹ nó đều đáp ứng. Chẳng hạn, khi nó đói, nó khóc, mẹ nó đáp ứng. Dưới
con mắt của đứa bé, cái vú mẹ xuất hiện; điều này xảy ra như thể là chính những mong
muốn của nó làm cho cái vú mẹ xuất hiện, cứ như thể là nó đã sáng tạo nên cái vú mẹ để
dành riêng cho nó. Sự đáp ứng của người mẹ là chìa khóa trong suốt thời kì quyền lực vô
hạn của chủ thể, bởi vì nó ở một tình trạng mà, như Winnicott đã gọi, là sự chăm sóc cơ
bản/ nguyên thủy của người mẹ (tình mẫu tử nguyên phát). Winnicott gọi đây là trải
nghiệm về “khoảnh khắc của sự ảo tưởng”, là niềm tin của trẻ trong mong ước của nó về
đối tượng mà nó muốn tạo ra.
b. Đối tượng thực tế
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 23
Dần dần, người mẹ bắt đầu lùi lại, không đáp ứng tuyệt đối các yêu cầu của trẻ
nữa. Trẻ nhận ra rằng nó không có quyền lực vô hạn như trẻ vẫn nghĩ trong suốt thời kì
trước đó. Đồng thời trẻ cũng đã cảm nhận được nó bị tách ra với mẹ và điều này nằm
ngoài tầm kiểm soát của nó, buộc nó phải học hỏi người khác, học cách chung sống với
người khác. Winnicott gọi đây là giai đoạn “đối tượng thực tế”.
c. Các trải nghiệm chuyển tiếp (mối quan hệ đối tượng/đồ vật)
Đây là vấn đề cốt lõi nhất, quan trọng nhất trong lí thuyết của Winnicott. Vấn đề
trung tâm giữa đối tượng thực tế và quyền lực vô hạn của chủ thể là cái mà Winnicott gọi
là trải nghiệm chuyển tiếp. Trải nghiệm này là vùng chuyển tiếp giữa Cái Tôi và thế giới
hiện thực. Cốt lõi của nó là đối tượng/ đồ vật chuyển tiếp, ở đó trẻ nhận thấy người mẹ
xuất hiện hoặc là cái vú của bà xuất hiện khi mẹ đi vắng. Đồ vật này có thể là: một con
gấu bông, một góc chăn, một con búp bê… trẻ không coi đối tượng này như là sự sáng
tạo của riêng chúng và cũng không hoàn toàn gắn bó nhưng thay vào đó là một tưởng
tượng. Đó là cách để trẻ duy trì sự liên kết với mẹ trong khi quá trình phát triển sẽ đẩy mẹ
nó ra xa. Theo Winnicott, trải nghiệm này được đánh dấu bằng sự lo lắng và rất quan
trọng để đứa trẻ có một đồ vật như là sự phòng vệ chống lại sự lo lắng.
Đối tượng chuyển tiếp này giúp đỡ cho đứa trẻ trong khi mẹ nó đi vắng. Đối tượng
chuyển tiếp được Winnicott miêu tả là không rõ ràng giữa 2 nghĩa: đối tượng và chủ thể.
Cả 2 nghĩa này do trẻ tự huyễn tưởng ra để thông qua đó liên kết với mẹ nó. Trong đó có
sự pha trộn giữa người mẹ chủ thể và người mẹ đối tượng/ đồ vật. Đứa trẻ bám vào đồ
vật chuyển tiếp như thể đó là cái chuyển tiếp giữa 2 pha trong đó trẻ tìm kiếm sự cân
bằng giữa bản thân nó với sự thỏa thuận của người khác. Trải nghiệm chuyển tiếp này
được Winnicott miêu tả là một pha trong thời thơ ấu mà trẻ có thể phát triển khả năng
sáng tạo của chính nó trong khi vẫn có cảm giác được bảo vệ.
d. Người mẹ tốt vừa đủ
Winnicott biện luận rằng “không có thứ gì như đứa trẻ cả”, tức là nếu không có
mẹ, đứa trẻ không thể tồn tại. Ông tuyên bố rằng những tiềm năng có sẵn của đứa trẻ
không thể giúp nó trở thành một đứa trẻ, trừ khi có mẹ nó chăm sóc. Trong tác phẩm Sự
chăm sóc cơ bản của người mẹ (1956), ông cho rằng sự sẵn sàng về mặt tâm sinh lí cho
việc làm mẹ và trong suốt quá trình làm mẹ, như là một pha đặc biệt trong đó người mẹ
có sự thân thiện và trực giác với đứa con, cốt để đáp ứng những nhu cầu thể chất đầu tiên
của nó, sau đó là các nhu cầu cảm xúc, và điều này cho phép trẻ bắt đầu hòa nhập với môi
trường và phát triển Cái Tôi.
Winnicott cũng đề ra và phát triển ý tưởng về người mẹ tốt vừa đủ. Người mẹ tốt
vừa đủ là người mẹ có sự hòa hợp về mặt cơ thể và cảm xúc với đứa con để giúp nó thích
nghi với những giai đoạn khó khăn trong thời thơ ấu, từ đó cho phép nó tạo lập được sự
chuẩn bị tốt cho sự chia tách với môi trường xung quanh, thậm chí là chuẩn bị kĩ càng
cho pha mối quan hệ đồ vật. Winnicott cho rằng vai trò quan trọng của người mẹ tốt vừa
đủ là giúp cho trẻ thích nghi, do đó dẫn tới nó làm chủ cảm xúc, quyền lực tuyệt đối của
chủ thể và nguồn an ủi được giao tiếp với mẹ. Sự kiểm soát môi trường này cho phép trẻ
có thể chuyển tiếp bản thân nó đến sự làm chủ mình nhiều hơn.
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 24
Người mẹ đủ tốt nhìn chung sẽ làm hài lòng đứa trẻ. Người mẹ đủ tốt được miêu
tả là sự đáp ứng lại các đòi hỏi của đứa trẻ, cho phép trẻ có được tưởng tượng về quyền
lực vô hạn, nhận ra ảo tưởng, được bảo vệ khỏi những ý nghĩ lo lắng, những cái đe dọa
Cái Tôi chưa chín muồi trong giai đoạn phát triển còn hoàn toàn phụ thuộc. Sự thất bại có
thể xảy ra, đó là sự rối loạn tâm thần.
Người mẹ tốt vừa đủ cố gắng đáp ứng nhu cầu của đứa trẻ, nhưng đôi khi bà cũng
phải rời đi theo các yêu cầu khác nhau và nhu cầu của riêng bà. Như Winnicott viết:
“Người mẹ tốt vừa đủ… bắt đầu dừng việc đáp ứng hoàn toàn nhu cầu của đứa trẻ, bà
dần dần đáp ứng ít đi, đứa trẻ lớn lên không phải với sự thực hiện của mẹ nó” (1953).
Người mẹ tốt vừa đủ trái ngược với người mẹ hoàn hảo, là người luôn đáp ứng mọi nhu
cầu của đứa trẻ từng tí một, tức là ngăn cản trẻ phát triển.
Hành động của người mẹ tốt vừa đủ có thể được miêu tả như trong một khái niệm
khác của Winnicott, được gọi là đánh dấu thất bại của sự thích ứng. Sự thất bại của người
mẹ trong việc làm hài lòng ngay lập tức các nhu cầu của đứa trẻ có thể gây ra sau đó sự
bù đắp bằng sự thiếu hụt trong hoạt động tâm thần và sự hiểu biết. Trẻ sẽ học dần cách
tha thứ, điều chỉnh Cái Tôi của bản thân. Những tương tác nhỏ giữa người mẹ và đứa trẻ
làm hình thành sự phát triển của thế giới bên trong. Sau giai đoạn ảo tưởng về quyền lực
tuyệt đối là giai đoạn mối quan hệ phụ thuộc (đối tượng thực tế), ở đó trẻ nhận ra sự phụ
thuộc của nó và học hỏi về sự mất mát. Sự thất bại của người mẹ trong việc đáp ứng tất
cả nhu cầu của đứa trẻ giúp nó thích nghi với thế giới bên ngoài. Đứa trẻ bắt đầu phát
triển Cái Tôi, hoặc là ở nó gia tăng sự lo lắng về việc bị chia tách. Sự thất bại giai đoạn
này có thể dẫn đến hình thành “Cái Tôi thất bại/ giả tạo” (Fail self).
Pha cuối cùng của sự phát triển, đó là sự độc lập, không bao giờ là tuyệt đối cũng
như là một đứa trẻ không bao giờ là hoàn toàn biệt lập. Vai trò của người mẹ là sáng tạo
nên ảo tưởng đầu tiên cho trẻ có thể thích nghi sớm và sau đó lại tạo ra sự vỡ mộng từ đó
dẫn đến trẻ dần dần bước vào xã hội. Winnicott thừa nhận rằng trẻ cần nhận ra là mẹ nó
không tốt, không xấu mà cũng không ảo tưởng, nhưng là một thực thể tách biệt và độc
lập, so với nó.
e. Cái Tôi thật và Cái Tôi giả
Winnicott sử dụng thuật ngữ “Cái Tôi” để miêu tả “Ego” và Cái Tôi như là đối
tượng.
Cái Tôi thật:
“Chỉ có Cái Tôi thật mới có thể được sáng tạo và chỉ có Cái Tôi thật mới có những
cảm nhận thật”. Theo Winnicott, Cái Tôi thật là bản năng trung tâm của nhân cách, đứa
trẻ nhận ra và giữ các nhu cầu bẩm sinh của nó bằng cách tự bộc lộ. Một Cái Tôi thật sẽ
có cảm giác về sự trọn vẹn, liên kết một cách trọn vẹn. Khi trẻ thể hiện những hành động
tự nhiên thì đó là dấu hiệu của sự tồn tại một Cái Tôi thật mang tính bản năng. Hơn nữa,
Cái Tôi thật bắt đầu có cuộc sống, trong đó những đáp ứng của người mẹ sẽ đem lại sức
khoẻ cho Cái Tôi yếu ớt của trẻ. Quá trình phát triển này phụ thuộc vào hành vi và thái độ
của người mẹ. Người mẹ tốt vừa đủ lặp lại các đáp ứng với ảo tưởng về quyền lực tuyệt
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 25
đối của trẻ và một vài phạm vi làm cho trẻ cảm thấy như thế. Cái Tôi thật sự khoẻ mạnh
chỉ khi các áp ứng tối ưu của người mẹ được lặp lại một cách thành công tới sự biểu hiện
rất tự nhiên của đứa trẻ.
Cái Tôi giả tạo:
Khi một người phải tuân theo các quy tắc bên ngoài, như là phải lịch sự và tuân
theo các quy tắc xã hội, thì lúc đó Cái Tôi giả tạo được sử dụng. Cái Tôi giả tạo là cái mặt
nạ của con người, nó luôn đi tìm sự chống đối của người khác để duy trì trật tự của các
mối quan hệ. Nếu người mẹ không phải là người mẹ tốt vừa đủ, bà có thể không nhạy
cảm và không đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của trẻ, những hành động thay thế bà mà đứa
trẻ phải tuân theo được lặp lại bắt đầu phát triển thành hình thức sớm nhất của Cái Tôi giả
tạo. Cái Tôi giả tạo này chống đối lại các yêu cầu của môi trường và trẻ dường như chấp
nhận điều đó. Thông qua Cái Tôi giả tạo, đứa trẻ xây dựng lên sự giả tạo trong các mối
quan hệ, cốt để đứa trẻ có thể phát triển giống như người mẹ, người y tá, người cô họ,
người anh trai hoặc bất kì ai có ảnh hưởng lớn lúc đó. Chức năng cơ bản của Cái Tôi giả
tạo là phòng vệ, bảo vệ Cái Tôi thật khỏi mối đe dọa, sự tổn thương, hoặc thậm chí là sự
phá hủy. Đây là một quá trình vô thức: Cái Tôi giả tạo trở nên có lỗi với Cái Tôi thật và
những người khác, thậm chí là với chính bản thân nó. Mặc dù có sự xuất hiện của thành
công, lợi ích xã hội, cảm giác đó vẫn không thực tế, không sống động, không hạnh phúc,
hoặc là không thực sự tồn tại.
Sự phân chia thành ra Cái Tôi Thật và Giả là từ Freud trong khái niệm về Cái Tôi,
nó được phân chia trong 1 phần là trung tâm và được thuyết phục bởi bản năng và một
phần bị quay vòng và gắn bó với thế giới. Theo Winnicott, trong bản thân mọi người đều
có Cái Tôi thật và giả, và cấu trúc này bị thay thế liên tục giữa sự mạnh khoẻ và Cái Tôi
giả tâm bệnh lí. Cái Tôi thật biểu hiện bằng sức khoẻ tự nhiên và sức sống của một người,
sẽ luôn bị giấu diếm một phần hoặc toàn bộ; Cái Tôi giả thì lại dễ thích nghi với môi
trường. Trong khi Cái Tôi thật cảm nhận thực, thì Cái Tôi giả tồn tại là kết quả của cảm
giác không thực hoặc cảm giác vô ích. Khi Cái Tôi giả vừa mang chức năng cá nhân vừa
mang chức năng xã hội thì nó được xem là khoẻ mạnh/ ổn định. Sự khoẻ mạnh của Cái
Tôi giả được nhận thấy khi nó phục vụ Cái Tôi thật. Nó có thể phục tùng vô điều kiện cái
chống lại nó: Cái Tôi thật. Ngược lại, khi nó có những cảm nhận về sự tuân thủ mạnh mẽ,
hơn là mong muốn thích nghi thì lại là có bệnh. Trong trường hợp bị chia tách giữa Cái
Tôi thật và Cái Tôi giả, mà Cái Tôi thật hoàn toàn bị che giấu, thì khả năng sử dụng các
biểu tượng, văn hóa rất nghèo nàn. Chúng ta có thể quan sát thấy những người cực kì
hiếu động (restlessness), không có khả năng tập trung và nhu cầu phản ứng lại các yêu
cầu thực tế, trong khi bản thân họ lại duy trì sự không thoải mái, không hài lòng.
Áp dụng Người mẹ tốt vừa đủ trong trị liệu
Ý tưởng về người mẹ tốt vừa đủ cũng rất quan trọng trong bối cảnh TLH Trị liệu.
Nó tạo nên một đòi hỏi cơ bản trong thái độ của nhà trị liệu đối với người bệnh.
Winnicott tin rằng một nhà phân tích phải thể hiện tất cả sự kiên nhẫn, khoan dung và sự
đáng tin cậy của một người mẹ hi sinh vô điều kiện vì con, phải nhận thấy mong muốn
của người bệnh cũng như là những nhu cầu, phải đặt các mối quan tâm khác sang một
bên, phải sẵn sàng, chính xác, khách quan, và dường như chỉ đưa lại những gì thật cần
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 26
thiết cho nhu cầu của người bệnh. Một nhà trị liệu tâm lí có thể cung cấp sự kiểm soát
môi trường, vì vậy bệnh nhân có cơ hội gặp gỡ các nhu cầu của Cái Tôi bị bỏ mặc và
hình thành nên Cái Tôi thật (True self). Thêm vào đó, khi nhà trị liệu cố gắng hiểu bệnh
nhân, anh ta cũng cố gắng xây dựng lên bức tranh tâm thần về người mẹ của bệnh nhân.
Nhà trị liệu cố gắng tìm hiểu xem mẹ của bệnh nhân đã đi xa bao nhiêu và đi chệch
hướng bao nhiêu so với người mẹ tốt vừa đủ.
8. Học thuyết về sự phát triển những khả năng mang tính xã hội của Erik
Erikson
8.1. Về tác giả
Erik Erikson (1905-1994) sinh tại Franfurt (Đức). Ông đã từng học nghệ thuật và vẽ chân
dung trẻ em. Sau đó ông vào học tại viện phân tâm học của thành phố Viên (Áo) và được
đào tạo trực tiếp bởi S.Freud, Anna Freud và nhiều nhà phân tâm tài năng khác.
Năm 1933, ông trở thành nhà phân tâm trẻ em đầu tiên của Boston (Mỹ), giảng dạy tại
trường y Harvard và nhiều viện danh tiếng khác, cuối cùng ông làm việc tại bệnh viện ở
San Fracisco.
Các tác phẩm chính của ông là: Trẻ em và xã hội (1950), Bản sắc, Tuổi trẻ và khủng
hoảng (1968).
Ông đã chỉnh sửa một số hạn chế của học thuyết phân tâm của S.Freud và được xếp vào
dòng Phân tâm mới. Trong học thuyết phát triển của mình, ông đã rời khỏi cách tiếp cận
sinh học của Freud mà xem xét nhiều hơn ảnh hưởng to lớn của yếu tố văn hoá xã hội tới
sự phát triển của nhân cách. Vì vậy, học thuyết Erikson đối khi được gọi là thuyết tâm lý
xã hội (psychosocial theory).
8.2. Nội dung học thuyết
Ông chia quá trình phát triển con người thành 8 giai đoạn trong đó có 5 giai đoạn phát
triển tâm lý xã hội mô tả đặc điểm quá trình phát triển nhân cách trẻ. Trong mỗi giai đoạn
có một mâu thuẫn trọng tâm cần được giải quyết dứt điểm để có thể ứng phó thắng lợi
với các mâu thuẫn ở các giai đoạn sau. Theo Erik Erikson, hoàn cảnh chung quanh ảnh
hưởng rất mãnh liệt trong việc phát triển tính tình con người. Ông nhấn mạnh rằng người
ta chỉ có thể phát triển đầy đủ ở một giai đoạn nào đó về phương diện tình cảm, tâm lý,
xã hội, nếu giai đoạn trước đó không bị gián đoạn bởi các mâu thuẫn. Có thể hiểu rằng
khi mâu thuẫn ở một giai đoạn được giải quyết, con người phát triển sang giai đoạn kế
tiếp. Nếu nó không được giải quyết, con người có thể thoái lui về thời kỳ trước đó
(nguyên lý biểu sinh)
8 giai đoạn khủng hoảng và đặc trưng của nó như sau:
Giai
đoạn
Khủng hoảng Đặc trưng
0-18 Niềm tin và Nghi ngờ Lòng tin hay mất lòng tin dựa trên chất lượng
của mối quan hệ mẹ con (mối quan hệ đầu
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 27
tháng Basic trust versus mistrust đời) an toàn và yêu thương hoặc là không an
toàn và nguy hiểm.
18 tháng-
3 tuổi
Tự chủ; Hoài nghi & Xấu hổ
Autonomy versus shame
Phụ thuộc vào số lượng và kiểu kiểm soát của
người lớn trên trẻ (Cho và nhận; giữ lại).
Người lớn cho trẻ cơ hội khám phá thử trẻ
làm được gì sẽ phát triển tính độc lập của trẻ.
Những hành vi luôn ngăn cấm và phê phán
quá mức hoặc hạn chế sự thể hiện tính độc lập
của trẻ sẽ làm cho trẻ dễ này sinh cảm giác
nghi ngờ, xấu hổ dẫn đến nhút nhát và lệ
thuộc vào người khác
3-6 tuổi Tự khởi xướng, sáng tạo &
Mặc cảm thiếu khả năng
(Mặc cảm tội lỗi)
Initiative versus guilt
Trẻ bắt đầu quan sát người khác để học hỏi và
bắt chước, em cũng tìm cách hành động theo
cách riêng của mình. Nếu như trẻ được thoải
mái hoạt động tìm hiểu thế giới thì chúng sử
dụng các cách thức tác động một cách sáng
tạo. Nhưng nếu luôn bị phê bình hoặc bị trừng
phạt thì chúng cảm thấy luôn có lỗi về hành vi
của mình.
Mặc cảm tội lỗi này còn được phát triển dựa
trên mặc cảm oedipe (Freud)
6-12 tuổi Chăm chỉ và kém cỏi
Industry versus inferiority
Trẻ phát triển rất nhiều kỹ năng, giao tiếp và
ganh đua với bạn bè tại trường học.
Nếu giai đoạn này thành công, trẻ sẽ có nhiều
nghị lực và kinh nghiệm để đương đầu với
những khó khăn và khủng hoảng sau này
trong cuộc đời. Nếu không phát triển trong
giai đoạn này, trong tương lai, em sẽ dễ cảm
thấy mình thua kém bạn bè, co mình khi gặp
những thử thách khó khăn.
12-18
tuổi
(Vị thành
niên)
Đồng nhất bản sắc & Trộn
lẫn vai trò
Ego identity versus role
confusion
Nhiệm vụ của giai đoạn này là tạo ra một cảm
nhận rõ ràng về nhân dạng (nhận dạng bản
sắc) và một mục tiêu trong cuộc đời. Cơ thể
trẻ đã phát triển nhanh, cân đối dần và đây là
thời kỳ quá độ từ trẻ em sang người lớn. Một
mặt, trẻ đang muốn thể hiện sự “người lớn” ở
mình nhưng đôi khi cũng có những biểu hiện
thoái bộ về thời nhỏ.Trẻ vị thành niên phải
đối mặt với những nhiệm vụ để trở thành
người trưởng thành. Đó là xác định lại các vai
trò xã hội, kể cả việc dành quyền tự chủ đối
với cha mẹ, và đưa ra các quyết định trên các
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 28
mục tiêu nghề nghiệp. Việc tạo ra một bản sắc
giới tính cũng là một vấn đề rất lớn với các
em. Nếu học hỏi và có thêm những cảm
nghiệm tích cực về bản thân, trẻ bắt đầu có
lòng tự hào và tự trọng, đồng thời biết tôn
trọng người khác. Nếu không được như vậy,
trẻ sẽ mất ý thức về giá trị và địa vị chính
mình trong mối tương quan với xã hội.
18-40
tuổi
(Mới
trưởng
thành)
Gẫn gũi và cách biệt
Intimacy versus Isolation
Đây là tuổi của yêu thương và lao động (tình
yêu nam nữ, tình cảm gia đình, bố mẹ, con
cái..), của học hành và nghề nghiệp. Trong
giai đoạn này, khả năng độc lập, tự chủ, ý chí
nghị lực, tinh thần trách nhiệm của cá nhân là
khá cao. Ở lứa tuổi thanh niên này, con người
có khuynh hướng tạo mối tương quan với
người khác một cách riêng tư và thân mật
hơn.
Nếu thất bại, người thanh niên sẽ vụng về
trong giao tiếp xã hội và khó kết thân với
người khác, nhất là những người khác phái.
Nếu không có được sự yêu thương, con người
có xu hướng cô lập, vị kỷ, tự say mê với chính
mình.
40-65
tuổi
(Trung
niên)
Sáng tạo và Trì trệ
Generativity versus
Stagnation
Lứa tuổi trung niên là lứa tuổi mà phần lớn cá
nhân đã có sự hoàn thiện về gia đình, nghề
nghiệp, quan hệ xã hội ; tích lũy được nhiều
kinh nghiệm sống cũng như kinh nghiệm
trong công việc. Đây là giai đoạn của tư duy
sáng tạo, của sự hoàn thiện với tính độc lập
cao, khả năng tự chủ và cống hiến cho khoa
học cũng như cho gia đình và xã hội. Người ta
muốn làm hoặc để lại một cái gì cho thế hệ
mai sau.Nếu không được phát triển tốt, người
ta sẽ có khuynh hướng ích kỉ và qui về cuộc
sống cá nhân cho riêng mình hơn là cho người
khác. Nếu như cá nhân trong giai đoạn này
chưa đạt được các yêu cầu về gia đình, xã hội
và nghề nghiệp, thì họ thường rơi vào tình
trạng trì trệ, thường có cảm giác như không
làm được việc gì đó quan trọng cho bản thân,
gia đình và xã hội.
Sau 65
tuổi
Hoàn thành và Thất vọng
Integrity versus Despair:
Nhiệm vụ của giai đoạn này đảm bảo được
tính nguyên vẹn, được định nghĩa là tuổi già
thành công (successful aging): một quá trình
Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 29
(Cao
niên)
thất vọng phản ánh sự đáp ứng có hiệu quả đối với
những thay đổi, bệnh tật, và sự mất cân
bằng của môi trường. Ở giai đoạn cuối của
cuộc đời, con người phải đối mặt với sự suy
tàn (cái chết…) và khuyết tật (bị bệnh, già
yếu, không làm việc như trước đây, gia đình
con cái thay đổi, cô đơn …).
Nếu người già mãn nguyện với những gì họ
đã đạt được ở các giai đoạn trước như sự
nghiệp, gia đình, con cái,…thì họ hài lòng về
những nhiệm vụ hoàn thành, thành công với
việc làm chủ sự suy tàn, tận hưởng cuộc đời
còn lại, họ cũng không day dứt khi cận kề cái
chết. Ngược lại, những người thấy mình chưa
làm được nhiều điều, chưa hoàn thành “nghĩa
vụ” đối với gia đình và xã hội, khi về già họ
thường kém thích nghi với những thay đổi,
quá trình lão hóa ở họ diễn ra nhanh hơn và
họ thường hối tiếc về quá khứ.
9. Học thuyết về sự phát triển nhận thức của Jean Piaget
9.1. Về tác giả
Jean Piaget (9 tháng 8 1896 - 16 tháng 9 1980) là một nhà tâm lý học và triết học người
Thụy Sĩ. Ông nổi tiếng về những nghiên cứu sự phát triển nhận thức của trẻ em.
9.2. Nội dung học thuyết
Sự phát triển nhận thức của trẻ đi theo 4 thời kỳ: Thời kỳ giác động (khoảng từ sơ sinh
đến 2 tuổi); Thời kỳ tiền thao tác (2-7 tuổi); Thời kỳ thao tác cụ thể (7-11 tuổi); Thời kỳ
thao tác chính thức (11-15 tuổi). Mỗi một thời kỳ lại bao gồm nhiều giai đoạn biến đổi
sinh động.
1. Thời kỳ giác động (Khoảng từ khi sinh đến 2 tuổi)
Theo Piaget, con người bắt đầu cuộc sống với một loạt các phản xạ, và thừa kế những
cách tương tác với môi trường. Những cách kế thừa tương tác đó dựa vào xu hướng suy
nghĩ được tổ chức và thích nghi của môi trường đó.
Bây giờ, chúng ta vạch ra việc xây dựng mô hình thế giới ở trẻ bé tí, bằng các hệ cảm
giác(tri giác) và vận động( vận động cơ thể) - Em bé tiến lên, qua 6 giai đoạn để xây
dựng hệ thống giác động của tư duy.
- Giai đoạn 1: Biến đổi của những phản xạ
Các phản xạ có tính chất bẩm sinh như mút, bấu, víu ... được phát động do sự kích thích
của môi trường và chúng càng được lặp lại nhiều lần thì càng có hiệu lực hơn. Chúng ta
có thể quan sát thấy, trẻ em lọt lòng có những hoạt động mang tính phản xạ bẩm sinh.
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien

More Related Content

What's hot

GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI nataliej4
 
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lýThuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lýLenam711.tk@gmail.com
 
Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự trọng của học s...
Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự trọng của học s...Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự trọng của học s...
Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự trọng của học s...nataliej4
 
Dàn bài nghiên cứu khoa học
Dàn bài nghiên cứu khoa họcDàn bài nghiên cứu khoa học
Dàn bài nghiên cứu khoa học希夢 坂井
 
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi) Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi) nataliej4
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtnataliej4
 
Daicuongtamlyyhoc
DaicuongtamlyyhocDaicuongtamlyyhoc
DaicuongtamlyyhocNgoc Quang
 
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thanh Đỗ
 
Tìm hiểu đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông
Tìm hiểu đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Trung học phổ thôngTìm hiểu đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông
Tìm hiểu đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Trung học phổ thôngDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Bài thu hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcs
Bài thu hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcsBài thu hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcs
Bài thu hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcsnataliej4
 
ĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI LỚN TÂM LÝ TRỊ LIỆU
ĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI LỚN TÂM LÝ TRỊ LIỆUĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI LỚN TÂM LÝ TRỊ LIỆU
ĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI LỚN TÂM LÝ TRỊ LIỆUSoM
 
Mô hình trí tuệ theo quan điểm mới
Mô hình trí tuệ theo quan điểm mớiMô hình trí tuệ theo quan điểm mới
Mô hình trí tuệ theo quan điểm mớiLenam711.tk@gmail.com
 
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNhững Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfTieuNgocLy
 
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay nataliej4
 
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.Nguyễn Bá Quý
 

What's hot (20)

GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
 
1. Sự phát triển giới tính
1. Sự phát triển giới tính1. Sự phát triển giới tính
1. Sự phát triển giới tính
 
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lýThuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
 
Erikson
EriksonErikson
Erikson
 
Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự trọng của học s...
Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự trọng của học s...Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự trọng của học s...
Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự trọng của học s...
 
Dàn bài nghiên cứu khoa học
Dàn bài nghiên cứu khoa họcDàn bài nghiên cứu khoa học
Dàn bài nghiên cứu khoa học
 
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi) Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
 
Daicuongtamlyyhoc
DaicuongtamlyyhocDaicuongtamlyyhoc
Daicuongtamlyyhoc
 
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
 
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
 
Tìm hiểu đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông
Tìm hiểu đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Trung học phổ thôngTìm hiểu đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông
Tìm hiểu đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
 
Chuong 3
Chuong 3Chuong 3
Chuong 3
 
Bài thu hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcs
Bài thu hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcsBài thu hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcs
Bài thu hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcs
 
ĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI LỚN TÂM LÝ TRỊ LIỆU
ĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI LỚN TÂM LÝ TRỊ LIỆUĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI LỚN TÂM LÝ TRỊ LIỆU
ĐẠI CƯƠNG TÂM LÝ TRỊ LIỆU VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI LỚN TÂM LÝ TRỊ LIỆU
 
Mô hình trí tuệ theo quan điểm mới
Mô hình trí tuệ theo quan điểm mớiMô hình trí tuệ theo quan điểm mới
Mô hình trí tuệ theo quan điểm mới
 
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNhững Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
 
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
 
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
 

Viewers also liked

Tlh nhan thuc. bai 1
Tlh nhan thuc. bai 1Tlh nhan thuc. bai 1
Tlh nhan thuc. bai 1tamlyvb2k02
 
Cbt 1 dan nhap - sinh vien
Cbt 1 dan nhap - sinh vienCbt 1 dan nhap - sinh vien
Cbt 1 dan nhap - sinh vienNhat Nguyen
 
Cô hằng p 2 b
Cô hằng p 2 bCô hằng p 2 b
Cô hằng p 2 btamlyvb2k02
 
Tlh nhan thuc.bai 2
Tlh nhan thuc.bai 2Tlh nhan thuc.bai 2
Tlh nhan thuc.bai 2tamlyvb2k02
 
P3.1 lstlh cô hằng
P3.1    lstlh cô hằngP3.1    lstlh cô hằng
P3.1 lstlh cô hằngtamlyvb2k02
 
Nhan van sinh vien
Nhan van   sinh vienNhan van   sinh vien
Nhan van sinh vienNhat Nguyen
 
Cô hằng p 1 lstlh
Cô hằng  p 1  lstlhCô hằng  p 1  lstlh
Cô hằng p 1 lstlhtamlyvb2k02
 
Cô hằng p 1 a
Cô hằng p 1 aCô hằng p 1 a
Cô hằng p 1 atamlyvb2k02
 
P3.3 lstlh cô hằng
P3.3    lstlh cô hằngP3.3    lstlh cô hằng
P3.3 lstlh cô hằngtamlyvb2k02
 
P2 lstlh cô hằng
P2  lstlh cô hằngP2  lstlh cô hằng
P2 lstlh cô hằngtamlyvb2k02
 
Bandura sinh vien
Bandura sinh vienBandura sinh vien
Bandura sinh vienNhat Nguyen
 
Ky nang ghi nhan cong nhan- affirmation
Ky nang ghi nhan  cong nhan- affirmationKy nang ghi nhan  cong nhan- affirmation
Ky nang ghi nhan cong nhan- affirmationtamlyvb2k02
 

Viewers also liked (20)

Tlh nhan thuc. bai 1
Tlh nhan thuc. bai 1Tlh nhan thuc. bai 1
Tlh nhan thuc. bai 1
 
Cbt 1 dan nhap - sinh vien
Cbt 1 dan nhap - sinh vienCbt 1 dan nhap - sinh vien
Cbt 1 dan nhap - sinh vien
 
Cô hằng p 2 b
Cô hằng p 2 bCô hằng p 2 b
Cô hằng p 2 b
 
Tlh nhan thuc.bai 2
Tlh nhan thuc.bai 2Tlh nhan thuc.bai 2
Tlh nhan thuc.bai 2
 
P3.1 lstlh cô hằng
P3.1    lstlh cô hằngP3.1    lstlh cô hằng
P3.1 lstlh cô hằng
 
Nhan van sinh vien
Nhan van   sinh vienNhan van   sinh vien
Nhan van sinh vien
 
Bai 3. tri giac
Bai 3. tri giacBai 3. tri giac
Bai 3. tri giac
 
Cô hằng p 1 lstlh
Cô hằng  p 1  lstlhCô hằng  p 1  lstlh
Cô hằng p 1 lstlh
 
Chuong 8
Chuong 8Chuong 8
Chuong 8
 
Cô hằng p 1 a
Cô hằng p 1 aCô hằng p 1 a
Cô hằng p 1 a
 
P3.3 lstlh cô hằng
P3.3    lstlh cô hằngP3.3    lstlh cô hằng
P3.3 lstlh cô hằng
 
P2 lstlh cô hằng
P2  lstlh cô hằngP2  lstlh cô hằng
P2 lstlh cô hằng
 
Cô hằng p 3
Cô hằng p 3Cô hằng p 3
Cô hằng p 3
 
Bai 4. chu y
Bai 4. chu yBai 4. chu y
Bai 4. chu y
 
Bandura sinh vien
Bandura sinh vienBandura sinh vien
Bandura sinh vien
 
Chuong 10
Chuong 10Chuong 10
Chuong 10
 
Ky nang ghi nhan cong nhan- affirmation
Ky nang ghi nhan  cong nhan- affirmationKy nang ghi nhan  cong nhan- affirmation
Ky nang ghi nhan cong nhan- affirmation
 
Chuong 5
Chuong 5Chuong 5
Chuong 5
 
Chuong 9
Chuong 9Chuong 9
Chuong 9
 
Chuong 7
Chuong 7Chuong 7
Chuong 7
 

Similar to 2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien

Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ nataliej4
 
Những Vấn Đề Chung Của Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Chung Của Tâm Lý Học Những Vấn Đề Chung Của Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Chung Của Tâm Lý Học nataliej4
 
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM nataliej4
 
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docxThyMai360365
 
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNhững Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNuioKila
 
Giáo Trình Sinh Lý Trẻ Mầm Non
Giáo Trình Sinh Lý Trẻ Mầm Non Giáo Trình Sinh Lý Trẻ Mầm Non
Giáo Trình Sinh Lý Trẻ Mầm Non nataliej4
 
Mâu thuẫn nội tại của sinh viên tâm lý học 4151175
Mâu thuẫn nội tại của sinh viên tâm lý học 4151175Mâu thuẫn nội tại của sinh viên tâm lý học 4151175
Mâu thuẫn nội tại của sinh viên tâm lý học 4151175jackjohn45
 
Giáo Trình Tuyên Truyền Vận Động Và Chuyển Đổi Hành Vi Về Dân Số Sức Khỏe Sin...
Giáo Trình Tuyên Truyền Vận Động Và Chuyển Đổi Hành Vi Về Dân Số Sức Khỏe Sin...Giáo Trình Tuyên Truyền Vận Động Và Chuyển Đổi Hành Vi Về Dân Số Sức Khỏe Sin...
Giáo Trình Tuyên Truyền Vận Động Và Chuyển Đổi Hành Vi Về Dân Số Sức Khỏe Sin...HanaTiti
 
TLH DC. Chuong 1.2020. Gioi thieu.pdf
TLH DC. Chuong 1.2020. Gioi thieu.pdfTLH DC. Chuong 1.2020. Gioi thieu.pdf
TLH DC. Chuong 1.2020. Gioi thieu.pdfHuynhAn30
 
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Từ 3-6 Tuổi
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Từ 3-6 Tuổi Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Từ 3-6 Tuổi
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Từ 3-6 Tuổi nataliej4
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi nataliej4
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi nataliej4
 
Bản tin Tâm Lý Học Đông Tây số 2 - Tâm Lý Học xuyên văn hóa
Bản tin Tâm Lý Học Đông Tây số 2 - Tâm Lý Học xuyên văn hóaBản tin Tâm Lý Học Đông Tây số 2 - Tâm Lý Học xuyên văn hóa
Bản tin Tâm Lý Học Đông Tây số 2 - Tâm Lý Học xuyên văn hóaWE Link
 
T L G D H D H 2011 Learner Thoa
T L G D H D H 2011  Learner  ThoaT L G D H D H 2011  Learner  Thoa
T L G D H D H 2011 Learner ThoaNguyen Chien
 
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Tuổi Thiếu Niên (12 – 17 Tuổi ).pdf
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Tuổi Thiếu Niên (12 – 17 Tuổi ).pdfSự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Tuổi Thiếu Niên (12 – 17 Tuổi ).pdf
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Tuổi Thiếu Niên (12 – 17 Tuổi ).pdfNuioKila
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội nataliej4
 
7.2. Giáo dục học đại cương 2020.pdf
7.2. Giáo dục học đại cương 2020.pdf7.2. Giáo dục học đại cương 2020.pdf
7.2. Giáo dục học đại cương 2020.pdfbichbich123
 

Similar to 2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien (20)

Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
 
Những Vấn Đề Chung Của Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Chung Của Tâm Lý Học Những Vấn Đề Chung Của Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Chung Của Tâm Lý Học
 
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
 
C2, C3, C4, C5.pdf
C2, C3, C4, C5.pdfC2, C3, C4, C5.pdf
C2, C3, C4, C5.pdf
 
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
 
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNhững Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
 
Giáo Trình Sinh Lý Trẻ Mầm Non
Giáo Trình Sinh Lý Trẻ Mầm Non Giáo Trình Sinh Lý Trẻ Mầm Non
Giáo Trình Sinh Lý Trẻ Mầm Non
 
Chuong 1
Chuong 1Chuong 1
Chuong 1
 
Mâu thuẫn nội tại của sinh viên tâm lý học 4151175
Mâu thuẫn nội tại của sinh viên tâm lý học 4151175Mâu thuẫn nội tại của sinh viên tâm lý học 4151175
Mâu thuẫn nội tại của sinh viên tâm lý học 4151175
 
Giáo Trình Tuyên Truyền Vận Động Và Chuyển Đổi Hành Vi Về Dân Số Sức Khỏe Sin...
Giáo Trình Tuyên Truyền Vận Động Và Chuyển Đổi Hành Vi Về Dân Số Sức Khỏe Sin...Giáo Trình Tuyên Truyền Vận Động Và Chuyển Đổi Hành Vi Về Dân Số Sức Khỏe Sin...
Giáo Trình Tuyên Truyền Vận Động Và Chuyển Đổi Hành Vi Về Dân Số Sức Khỏe Sin...
 
TLH DC. Chuong 1.2020. Gioi thieu.pdf
TLH DC. Chuong 1.2020. Gioi thieu.pdfTLH DC. Chuong 1.2020. Gioi thieu.pdf
TLH DC. Chuong 1.2020. Gioi thieu.pdf
 
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Từ 3-6 Tuổi
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Từ 3-6 Tuổi Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Từ 3-6 Tuổi
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Từ 3-6 Tuổi
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
 
Tâm lí
Tâm líTâm lí
Tâm lí
 
Bản tin Tâm Lý Học Đông Tây số 2 - Tâm Lý Học xuyên văn hóa
Bản tin Tâm Lý Học Đông Tây số 2 - Tâm Lý Học xuyên văn hóaBản tin Tâm Lý Học Đông Tây số 2 - Tâm Lý Học xuyên văn hóa
Bản tin Tâm Lý Học Đông Tây số 2 - Tâm Lý Học xuyên văn hóa
 
T L G D H D H 2011 Learner Thoa
T L G D H D H 2011  Learner  ThoaT L G D H D H 2011  Learner  Thoa
T L G D H D H 2011 Learner Thoa
 
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Tuổi Thiếu Niên (12 – 17 Tuổi ).pdf
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Tuổi Thiếu Niên (12 – 17 Tuổi ).pdfSự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Tuổi Thiếu Niên (12 – 17 Tuổi ).pdf
Sự Phát Triển Tâm Lý Trẻ Em Tuổi Thiếu Niên (12 – 17 Tuổi ).pdf
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
 
7.2. Giáo dục học đại cương 2020.pdf
7.2. Giáo dục học đại cương 2020.pdf7.2. Giáo dục học đại cương 2020.pdf
7.2. Giáo dục học đại cương 2020.pdf
 

More from Nhat Nguyen

More from Nhat Nguyen (12)

Traits and factors sinhvien
Traits and factors   sinhvienTraits and factors   sinhvien
Traits and factors sinhvien
 
Adler
AdlerAdler
Adler
 
Hien sinh sinh vien
Hien sinh sinh vienHien sinh sinh vien
Hien sinh sinh vien
 
Hanh vi handout
Hanh vi   handoutHanh vi   handout
Hanh vi handout
 
Chuong 2
Chuong 2Chuong 2
Chuong 2
 
Chuong 6
Chuong 6Chuong 6
Chuong 6
 
Chuong 4
Chuong 4Chuong 4
Chuong 4
 
Giai doan phat trien
Giai doan phat trienGiai doan phat trien
Giai doan phat trien
 
Bai giang spss
Bai giang spssBai giang spss
Bai giang spss
 
Truong phai phan tam hoc sinhvien
Truong phai phan tam hoc sinhvienTruong phai phan tam hoc sinhvien
Truong phai phan tam hoc sinhvien
 
The world cafe
The world cafeThe world cafe
The world cafe
 
Tap chi f world
Tap chi f worldTap chi f world
Tap chi f world
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien

  • 1. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 1 BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN Giảng viên & Biên soạn: ThS. Lê Thị Mai Liên Mục lục I. Giới thiệu chung về môn học 1. Tâm lý học phát triển là gì ? 2. Đối tượng của Tâm lý học phát triển 3. Nhiệm vụ của Tâm lý học phát triển 4. Mục tiêu của môn học 5. Phương pháp nghiên cứu Tâm lý học phát triển II. Những vấn đề chung/ khái niệm chung của môn học 1. Khái niệm sự phát triển 2. Sự phát triển tâm lý 3. Tuổi III. Các học thuyết về tâm lý học phát triển 1. Học thuyết nguồn gốc sinh vật; nguồn gốc xã hội; Thuyết hội tụ hai yếu tố 2. Tư tưởng của Khổng Tử về các giai đoạn hoàn thiện Nhân tính 3. Học thuyết Tâm lý học hành vi 4. Học thuyết về sự phát triển tâm lý tính dục của Sigmund Freud 5. Học thuyết mối quan hệ gắn bó của Bowbly 6. Học thuyết mối quan hệ đối tượng của Donald Winnicott và Mélanie Klein 7. Học thuyết về sự phát triển những khả năng mang tính xã hội của Erik Erikson 8. Học thuyết về sự phát triển nhận thức của Jean Piaget 9. Học thuyết về sự phát triển nhận thức trong môi trường văn hóa xã hội của Lev. Vugotsky 10. Học thuyết về các giai đoạn phát triển đạo đức của Lawrence Kohlberg IV. Tài liệu tham khảo
  • 2. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 2 I. Giới thiệu chung về môn học 1. Tâm lý học phát triển là gì ? Tâm lý học phát triển (development psychology- Psychologie du développement) là một chuyên ngành khoa học nghiên cứu những thay đổi mang tính phổ cập ở người qua từng giai đoạn vốn mang nội dung phát triển cột mốc. [8,8] Đó là một ngành khoa học quan sát những hiện tượng mang tính phổ cập nơi con người được kiểm chứng qua những thông số dữ kiện, quan sát và được ghi nhận của nghiên cứu khoa học một cách có hệ thống, nhằm tìm hiểu về những hiện tượng thay đổi ở các khu vực : - Thay đổi về sinh thể lý (physiological changes) - Thay đổi về tâm lý (psychological changes) - Thay đổi về cảm xúc (emotional changes) - Thay đổi về nhận thức (perception changes) 2. Đối tượng của Tâm lý học phát triển Tâm lý học phát triển nghiên cứu những động lực, điều kiện, những quy luật phát triển, những sự biến đổi của các quá trình, các thuộc tính, các phẩm chất tâm lý trong sự hình thành nhân cách con người với tư cách là thành viên của xã hội, theo sự trưởng thành của lứa tuổi. 3. Nhiệm vụ của môn học Nghiên cứu những đặc điểm phát triển của các quá trình tâm lý, những thuộc tính, những phẩm chất nhân cách, những khả năng, điều kiện phát triển theo lứa tuổi cũng như quy luật, những con đường hình thành và phát triển của chúng. 4. Mục tiêu của môn học - Trang bị cho học viên những học thuyết nền tảng trên thế giới về sự phát triển tâm lý con người qua các giai đọan lứa tuổi. Từ đó, mỗi một học viên môn học tâm lý học phát triển sẽ có thể trở thành một nhà nghiên cứu tâm lý phát triển cho chính mình. - Giúp học viên biết cách ứng dụng những kiến thức Tâm lý học phát triển vào việc nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực tham vấn và trị liệu tâm lý và chăm sóc sức khỏe con người. 5. Phương pháp nghiên cứu Tâm lý học phát triển  Phương pháp nghiên cứu Tâm lý học phát triển  Phương pháp quan sát (Observation)  Phương pháp thực nghiệm (Experimentation)  Phương pháp hỏi chuyện lâm sàng (Clinical Interview)  Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi (Anket)  Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study)
  • 3. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 3  Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động (…)  Phương pháp nghiên cứu trẻ em sinh đôi cùng trứng hoặc khác trứng  Phương pháp ghi chép dân tộc học  Một số thiết kế nghiên cứu hay sử dụng trong Tâm lý học phát triển  Thiết kế nghiên cứu xuyên nhóm tuổi Là nghiên cứu chọn những khách thể ở những nhóm tuổi khác nhau để nghiên cứu cùng một hiện tượng tâm lý trên khách thể ấy tại cùng một thời điểm. Ưu điểm: ít tốn kém, ít tốn thời gian, thu thập được nhiều dữ liệu trong một thời gian ngắn Nhược điểm: Tính chính xác không cao Ngoài ra còn có các thiết kế nghiên cứu:  Thiết kế nghiên cứu xuyên thời gian Nghiên cứu trên cùng một nhóm khách thể, sau một thời gian khác lại nghiên cứu trên nhóm khách thể ấy.  Thiết kế nghiên cứu theo chuỗi Nghiên cứu trên các nhóm khách thể khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau  Thiết kế nghiên cứu xuyên văn hóa Nghiên cứu trên các nhóm khách thể ở các nền văn hóa khác nhau Những điều cần lưu ý trong nghiên cứu:  Độ hiệu lực của nghiên cứu  Độ tin cậy của nghiên cứu  Tính trung thực của nghiên cứu  Đạo đức nghiên cứu II. Các khái niệm cơ bản 1. Khái niệm sự phát triển Sự phát triển là quá trình vận động, bao hàm hàng loạt thay đổi có mối liên hệ bên trong với nhau, có lúc từ từ, tiệm tiến, có lúc nhảy vọt nhưng cũng có lúc dậm chân tại chỗ, thậm chí là thụt lùi tạm thời. Đó là một quá trình phức tạp.  Phân biệt với khái niệm tăng trưởng, chín muồi Tăng trưởng là sự gia tăng về số lượng (chiều dài, dung tích) của sự vật, hiện tượng. Chín muồi là sự tăng trưởng đạt đến độ
  • 4. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 4 2. Sự phát triển tâm lý Sự phát triển tâm lý là một quá trình bao gồm từ sự phát sinh, hình thành, phát triển của những yếu tố, những quá trình, những thuộc tính, những trạng thái tâm lý của mỗi cá thể, từ đơn giản đến phức tạp, từ chỗ chưa bị phân hóa đến chỗ bị phân hóa theo những quy luật có liên quan, tác động phụ thuộc lẫn nhau tạo thành những đặc điểm tâm lý khác nhau theo giai đoạn. Đó là một hoạt động có tính hệ thống được sắp xếp có tính thứ bậc và ngày càng tinh tế, tạo ra những đặc điểm đặc trưng cho mỗi thời kí, mỗi lứa tuổi khác nhau, đảm bảo cho con người sống, hoạt động và phát triển với tư cách là một chủ thể có ý thức của xã hội. 3. Tuổi Tuổi của cá nhân được các nhà nghiên cứu xem xét từ 3 góc độ: Tuổi sinh học, tuổi xã hội, và tuổi tâm lý. Hay nói cách khác, quá trình phát triển cá nhân được các nhà nghiên cứu xem xét từ 3 góc độ: sự phát triển sinh học, sự phát triển xã hội và sự phát triển tâm lý. 1. Tuổi sinh học Là quá trình phát triển thể chất diễn ra theo chương trình sinh học quy định sự phát triển cơ thể (bao gồm các mốc chín muồi và ngoại hình có một không hai của mỗi cá nhân). Tuy nhiên, môi trường và hoạt động sống của mỗi cá nhân lại có thể tác động trở lại đến các yếu tố di truyền, có thể làm chúng biến đổi trong một biên độ nhất định. - Chương trình di truyền- quá trình chín muồi cơ thể tác động đến những đặc điểm tâm lý con người VD: Một số công trình nghiên cứu chỉ ra: Trẻ trai dậy thì sớm sẽ có ưu thế hơn các bạn cùng tuổi về thể lực, ngoài ra sẽ được người lớn ưu tiên phân công những nhiệm vụ quan trọng. Trẻ gái dậy thì muộn hơn thường dễ cân bằng hơn, dễ kết bạn hơn và có khả năng với những hoạt động xã hội hơn, chiếm vị thế cao hơn trong lớp học. [1, 265] - Ngoại hình, sự hấp dẫn, vẻ đẹp cơ thể và nét mặt tác động đến vị thế và các mối quan hệ xã hội của con người (Ngoại hình đẹp là một thuận lợi xã hội) VD: Nhiều nghiên cứu tâm lý học và xã hội học cho thấy: Người ta có cảm tình và bị quyến rũ hơn bởi các chàng trai có thân hình cân đối, cơ bắp chắc khỏe, vai rộng và vòng hông đẹp. Những đứa trẻ đẹp đẽ thường dễ nổi tiếng hơn giữa đám bạn và thường được cho là có nhiều phẩm chất tâm lý tốt đẹp, ít có xu hướng gây hấn hơn những đứa trẻ xấu xí. Những người có cơ thể cân đối, ngoại hình đẹp và hấp dẫn thì thường dễ xin việc hơn và trung bình có thu nhập cao hơn những người không có may mắn đó. [1, 266] Trong lối nói dân gian về sức ảnh hưởng của ngoại hình của người con gái tới ấn tượng và tình yêu của người con trai, yếu tố nhìn- ngoại hình của người con gái là yếu tố rất quan trọng: “Con trai thì yêu bằng mắt” - Yếu tố tốc độ lão hóa của tuổi sinh học ảnh hưởng đến đời sống tâm lý cá nhân
  • 5. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 5 Sau 30 tuổi, nhiều chức năng của cơ thể có xu hướng giảm sút (ở những mức độ khác nhau). Trong một nghiên cứu, người ta so sánh một nhóm nam giới 70 tuổi với nhóm nam giới khác 60 tuổi. Kết quả cho thấy hầu như không có sự khác biệt về chức năng tâm lý giữa nhóm “những người 70 tuổi rất khỏe” và nhóm “những người 60 tuổi có sức khỏe bình thường”. Điều này chứng tỏ người 70 tuổi rất khỏe và người 60 tuổi có sức khỏe bình thường gần như có cùng độ tuổi sinh học và có những đặc điểm rất chung. Bên cạnh đó có những khác biệt khá lớn giữa những người trong cùng nhóm 60 tuổi hoặc cùng nhóm 70 tuổi. [1, 266] - Trí tuệ (tuổi tâm trí) có mối quan hệ gắn bó với tuổi sinh học (tuổi thực). Theo chiều tịnh tiến, tuổi sinh học tăng lên, khả năng nhận thức, trí tuệ của con người cũng được gia tăng so với mốc tuổi sinh học trước. VD: khác biệt trí tuệ của trẻ 5 tuổi với một học sinh bình thường học lớp 4. Tuy nhiên, trong sự phát triển của tuổi tâm trí cũng có những quy luật khác với quy luật của các chương trình di truyền: Trí tuệ phát triển chậm -> IQ thấp; trí tuệ phát triển nhanh -> IQ cao; Trí tuệ phát triển nhanh hơn bình thường -> Tài năng, thiên tài hay thần đồng. VD: Tài năng Piano trẻ Nguyễn Việt Trung (12 tuổi) có khả năng ngang với sinh viên năm cuối tốt nghiệp xuất sắc của một nhạc viện lớn, mặc dù chỉ học 4 năm âm nhạc; Thần đồng Đỗ Nhật Nam (11 tuổi)….vv Tuổi trí tuệ đôi khi không cùng một nhịp phát triển với tuổi thực. VD: trẻ 8 tuổi nhưng tuổi trí tuệ (tâm trí) chỉ tương ứng với trẻ 6 tuổi. Nghiên cứu của Goougnought cũng cho ra đời công thức tính mức độ trí tuệ của trẻ: IQ= MA/ CA x 100 ( MA: tuổi khôn; CA: tuổi thực) - Sự phát triển trí tuệ có ảnh hưởng sâu rộng đến quá trình vận động và phát triển của con người trong suốt cuộc đời. Tác động đến vận động tinh Tác động đến phẩm chất của khí chất và năng lực chung của trẻ em trong những giai đoạn đầu của sự phát triển. - Tốc độ phản ứng vận động khác nhau theo độ tuổi Cùng với tuổi tác, vận động cuả con người ngày càng trở nên chậm chạp và thiếu chính xác hơn. 2. Tuổi xã hội Tuổi xã hội là khái niệm chỉ mức tương xứng hay vai trò xã hội (trong một số trường hợp cả về vị thế xã hội nữa) mà cá nhân đó thực hiện được so với tuổi thực của mình.
  • 6. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 6 - Tuổi xã hội có liên quan trực tiếp đến vị thế xã hội của cá nhân so với các chuẩn mực văn hóa. VD: Một doanh nhân trẻ 35 tuổi sẽ có vị thế xã hội khác biệt so với người 35 tuổi thất nghiệp - Có điểm chung trong các nền văn hóa về những mong đợi về vai trò xã hội theo lứa tuổi: Trẻ em đi học, tốt nghiệp tú tài, học lên Đại học, đến tuổi trưởng thành thì lấy vợ, lấy chồng, sinh con vào những thời điểm nhất định. Vì vậy, có nhiều tác giả đưa ra tiếp cận nghiên cứu trường đời với những phân mốc các giai đoạn tuổi nhất định và các mong đợi về vai trò xã hội tương ứng. VD: Nghiên cứu của Neugarten, Moore và Lowe, 1965: Tuổi thích hợp để kết hôn đối với đàn ông là 20-25; đối với phụ nữ là 19-24. Tuổi thích hợp nhất để bắt đầu xây dựng sự nghiệp đối với đàn ông là 24-26 tuổi; đối với người phụ nữ thì không có số liệu cụ thể. Đa số đàn ông đạt đến đỉnh cao sự nghiệp vào khoảng 45- 50 tuổi còn phụ nữ vào khoảng 30- 45 tuổi. [1, 268] - Những người thực hiện được các vai trò xã hội mong đợi ở độ tuổi mong đợi được coi là có tuổi xã hội phù hợp và ngược lại - Những người có cùng độ tuổi xã hội sẽ có những đặc điểm khá tương đồng và họ không nhất thiết phải có cùng độ tuổi theo năm tháng. - Mối quan hệ giữa trí tuệ và biểu tượng bản thân (biểu tượng cái Tôi (Representation du soi) của cá nhân mang tính xã hội) VD: Nghiên cứu của Livesley và Brombley (1973) cho thấy: Trẻ có trí tuệ thấp mô tả bản thân thường mô tả cụ thể và hời hợt hơn sự mô tả bản thân của học sinh có chỉ số trí tuệ cao. Biểu tượng về bản thân của những học sinh lớn tuổi nhưng có chỉ số trí tuệ thấp lại khá giống với biểu tượng về bản thân của những học sinh nhỏ hơn nhưng lại có chỉ số trí tuệ cao hơn các bạn cùng tuổi. [1, 269] 3. Tuổi tâm lý Mối quan hệ giữa tuổi đời và cảm nhận chủ quan của con người về lứa tuổi đó được gọi là tuổi tâm lý. [1, 269] Đây được coi là chỉ số quan trọng nhất xác định trình độ phát triển của cá nhân, nó dường như là tích hợp của các tuổi sinh học và tuổi xã hội. Tuổi tâm lý được coi là một chỉ số tích hợp về thái độ của con người đối với thời gian đã qua của cuộc đồi mình và được xác định như là tự đánh giá của con người về bản thân mình trên nấc thang cuộc đời. Nếu tuổi tâm lý phù hợp với tuổi đời theo năm tháng thì con người thường có biểu tượng về thế giới và bản thân tương đối hài hòa và sẵn sàng tiếp nhận những cái mới, kể cả những mâu thuẫn bên trong của nó. Ngoài ra, có 2 xu hướng:
  • 7. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 7 1. Nếu tuổi tâm lý cao hơn tuổi thực (Ví dụ một người 25 tuổi có xu hướng coi mình như người 40 tuổi), con người thường có cái nhìn bi quan và đơn điệu đối với tương lai. 2. Nếu tuổi tâm lý thấp hơn tuổi thực, chúng ta có thể thấy biểu hiện của các hành vi, lời nói, thái độ, cách cư xử không phù hợp với tuổi thực. Cá nhân đó có thể có một sự thoái lùi về tâm lý. VD: trẻ 6 tuổi nhưng tuổi tâm lý chỉ tương xứng với trẻ 4 tuổi với vẻ ngoài ngô nghê và cả các hành vi ngô nghê không phù hợp với tuổi thực 6 tuổi của mình. - Tuổi tâm lý: vectơ kinh nghiệm sống của cá nhân, vectơ tự nhận thức, tự ý thức, tự xác định, cùng với vectơ sinh học và xã hội. VD: Quan sát và thực nghiệm đo mức độ tự nhận biết bản thân của Lewis Brook (1978): Vào 10-12 tháng tuổi, trẻ chơi với hình ảnh của mình trong gương và chưa hiểu hình ảnh đó là ai cả. Các nhà tâm lý bôi vào mũi trẻ một vết son tròn đỏ, không ai trong chúng nhìn vào gương hay thử đưa tay lên sờ vào mũi mình. Tuy nhiên khi tiến hành với nhóm trẻ từ 21-22 tháng, 2/4 trẻ có những biểu hiện sơ đẳng đầu tiên thể hiện khả năng tự nhận ra bản thân mình trong gương. [1,270] Thực nghiệm trên chứng minh cho sự xuất hiện của vectơ kinh nghiệm sống của cá nhân. Tất cả những thay đổi của tuổi tác sẽ đụng chạm đến tự ý thức của cá nhân. - Môi trường sống có thể ảnh hưởng tới tuổi tâm lý: VD: Nhóm những người trải qua những thảm họa như động đất, sóng thần cảm thấy tuổi tâm lý của mình cao hơn tuổi thực có chỉ số lo âu, đau khổ, thất vọng cao hơn những người ở các nhóm khác. Những trẻ vị thành niên sống trong các trại tập trưng, trại trẻ mồ côi hay các trường giáo dưỡng cũng thường cảm thấy mình già hơn tuổi. Những em này thường có tự đánh giá thấp. [1,271] - Tuổi tâm lý có tính ổn định Khác với tuổi xã hội, tuổi tâm lý không thể quay ngược lại. Nó tiến đến dần cuối con đường mà ở phía trước lại là sự kết thúc của cuộc đời. Con người nghĩ về cái chết vào tất cả các giai đoạn cuộc đời, nhưng ở những thời điểm khác nhau cái chết có những ý nghĩa khác nhau. VD: Nghiên cứu của Templer, Ruff & Franks (1971), Trẻ 3-5 tuổi chưa hình dung được cái chết là sự kết thúc cuộc đời mà chỉ là đảo ngược (chết đi sống lại); trẻ từ 5-8 tuổi cho rằng cái chết là điểm cuối cùng của cuộc sống nhưng không phải là giai đoạn tất yếu, bằng cách nào đó có thể tránh được nó; Chỉ nhóm trẻ 9-10 tuổi mới bắt đầu hiểu rằng con người đến một lúc nào đó sẽ phải chết, đó là điều không thể tránh khỏi; Ngưởi trưởng thành, đặc biệt người ngoài 60 tuổi cũng phản ứng khác nhau đối với ý nghĩ về cái chết: chỉ có 10-30% tỏ ra sợ hãi cái chết. [1,272] Tiểu kết: Mọi người có những điểm giống nhau và có những điểm rất khác nhau theo lứa tuổi, đặc biệt là khi xét đến các loại tuổi khác nhau (tuổi sinh học, tuổi tâm trí, tuổi xã hội và tuổi tâm lý) thì những khác biệt cá nhân càng trở nên tinh tế và đa dạng.
  • 8. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 8 Khái niệm trẻ em & cách nhìn về thế giới trẻ em - Mỗi một đứa trẻ là một thực thể độc lập, đặc biệt Một đứa trẻ đó là một đứa trẻ độc lập, và trẻ này là một em nhỏ có một hệ thống những đặc điểm (rất đặc trưng) khác biệt so với những trẻ em khác. Giống như những đường vân trên ngón tay không em nào giống em nào. Không bao giờ có chuyện sẽ có hai đứa trẻ giống nhau. Chỉ có trong trường hợp các cặp trẻ em song sinh cùng trứng (identical twins) gọi theo thuật ngữ khoa học là monozygotic- có nghĩa hai đứa trẻ sinh đôi phát triển từ một trứng ban đầu rồi trở thành hai cơ thể độc lập Trẻ là anh em sinh đôi khác trứng (fraternal twins) do hai trẻ sinh đôi phát triển từ hai quả trừng độc lập (rụng cùng thời điểm người mẹ thụ thai) được thuật ngữ khoa học gọi là dizygotic mặc dù có bề ngoài giống nhau nhưng nếu quan sát thật ký, chúng sẽ có những điểm khác biệt. - Thế giới trẻ em Đó là một thế giới bao gồm những đặc tính phổ cập, những đặc tính rất chung, rất dễ nhận thấy nơi các em. Ví dụ như trẻ em thích đùa, thích múa hát, thích chơi, thích khen, thích quà….. - Con mắt quan sát và tìm hiểu trẻ em không được tách với khung cảnh (bối cảnh) môi trường sống của trẻ em (contexte de vie- situation de vie) Có ba khung cảnh sống (context de vie) mà chúng ta cần chú ý đến: + Bối cảnh xã hội (social context- contexte sociale) : Nơi em sinh sống là thành thị hay nông thông, công nghiệp hóa hay khu vực vùng sâu vùng xa, các em có được tiếp cận với những nền văn minh hay không? Như thế, một đứa trẻ ở thành thị sẽ có những biểu hiện rất khác một đứa trẻ ở thôn quê. + Bối cảnh văn hóa (cultural context- context culturelle): Những đặc điểm về văn hóa cộng đồng, đất nước, vùng miền, văn hóa gia đình, dòng họ, quan hệ trong nhà giữa các thành viên trong gia đình, họ hàng, những đặc điểm tôn giáo, tín ngưỡng, gia phong…. mà trong môi trường đó các em sống và chịu ảnh hưởng. VD: văn hóa gắn bó trong mối quan hệ gia đình của người Châu Á khác với văn hóa độc lập, đề cao tính cá nhân của Châu Âu và các nước phát triển Văn hóa trong gia đình hạt nhân và gia đình nhiều thế hệ Văn hóa giáo dục trẻ ở cùng một đất nước nhưng khác vùng miền: Nam/ Bắc Văn hóa tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau + Bối cảnh kinh tế xã hội (Socioeconomic context- Contexte socio-économique) Hai nền kinh tế phát triển như nhau không có nghĩa là trẻ sống tại những bối cảnh kinh tế xã hội giống nhau. Kết quả là trẻ sống tại những bối cảnh kinh tế xã hội có những phúc lợi tốt, sự quan tâm chung của mọi người, các chương trình phục vụ trẻ em sẽ phát triển tốt hơn tại những nơi các chương trình này không được cung cấp.  Các lĩnh vực phát triển
  • 9. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 9 A. Phát triển thể chất: Bao gồm sự thay đổi hình thức và kích thước cơ thể và cả sự thay đổi của các cấu trúc não bộ, năng lực cảm giác và kỹ năng vận động B. Phát triển nhận thức và ngôn ngữ: bao gồm sự tiếp thu các kỹ năng tri giác, tư duy, tưởng tượng, các quá trình phức tạp khác sử dụng ngôn ngữ….. C. Phát triển tâm lý, cảm xúc, nhân cách: những trạng thái, thuộc tính, quá trình tâm lý trong sự hình thành và phát triển nhân cách D. Phát triển văn hóa xã hội: sự thu nhập, lĩnh hội và thể hiện những kỹ năng văn hóa xã hội tương ứng với tuổi phát triển III. Các học thuyết về tâm lý học phát triển 1. Các học thuyết cơ bản về nhân tố và động lực của sự phát triển tâm lý  Học thuyết nguồn gốc sinh vật - Coi đặc điểm bẩm sinh, di truyền có sẵn của trẻ em là nguồn gốc, động lực của sự phát triển tâm lý cá thể, môi trường là yếu tố điều chỉnh, biểu hiện của tính di truyền - Các tác giả mô tả sự phát triển bào thai người là một quá trình lặp lại tất cả những giai đoạn phát triển từ một thực thể đơn bài tới con người. - Đóng góp: + Mô tả được quy luật phát triển của cá thể, cố gắng tìm mối quan hệ giữa sự phát triển cá thể với sự phát triển loài. + Kích thích các nhà khoa học nghiên cứu tìm hiểu - Hạn chế: + Học thuyết thiếu khoa học + Không phản ánh được khả năng tiếp thu nền văn hóa để đạt được trình độ phát triển cao  Học thuyết nguồn gốc xã hội - Môi trường xã hội là nhân tố quyết định đến sự phát triển tâm lý của những đứa trẻ. Một số thuyết tiêu biểu như thuyết hành vi nhấn mạnh đến sự tác động của môi trường quá lớn đến sự phát triển của những đứa trẻ - Đóng góp: Kích thích các nhà khoa học nghiên cứu tìm hiểu - Hạn chế: + Không giải thích được thực tiễn sống động trong việc hình thành nhân cách con người + Phủ nhận tính tích cực của con người + Phủ nhận giáo dục và thể hiện sự vô trách nhiệm  Thuyết hội tụ hai yếu tố - Sự phát triển tâm lý trẻ em có sự tác động đồng thời giữa môi trường và di truyền trong đó di truyền chủ yếu, còn môi trường là điều kiện hiện thực của di truyền
  • 10. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 10 - Với mỗi chức năng tâm lý, tỷ lệ của mỗi yếu tố tác động lại khác nhau VD: Trí tuệ: 50% não bộ; cảm xúc: 30% xã hội - Coi môi trường như là môi trường của động vật. Con người phải thích nghi với môi trường đó. - Đóng góp: + Loại bỏ sự phiến diện của thuyết nguồn gốc sinh vật và thuyết nguồn gốc xã hội + Kích thích sự nghiên cứu của các nhà khoa học - Hạn chế: + Nếu coi môi trường động vật mà con người phải tự thích nghi là chưa đủ. Con người còn có khả năng cải tạo môi trường để phù hợp với nhu cầu con người. + Các yếu tố sinh vật và môi trường xã hội khó có thể phân định rạch ròi trong sự phát triển tâm lý của con người. + Thiếu yếu tố tích cực của bản thân của mỗi cá nhân. Học thuyết không nhấn mạnh được tính tích cực của cá nhân với tư cách là một thành viên của xã hội. 2. Tư tưởng của Khổng Tử về các giai đoạn hoàn thiện Nhân tính Khái niệm “Nhân” trong học thuyết của Khổng Tử được đề cập ở rất nhiều tác phẩm. Ông cho rằng các giai đoạn hoàn thiện Nhân tính đi theo con đường: “Ta 15 năm tuổi để chí vào việc học (đạo), 30 tuổi biết tự lập (tức khắc kỷ phục lễ, cứ theo điều lễ mà làm), 40 tuổi không nghi hoặc nữa (tức có trí đức nên hiểu rõ ba đức nhân, nghĩa, lễ), 50 tuổi biết mệnh trời (biết được việc nào sức người làm được, việc nào không làm được), 60 tuổi đã biết theo mệnh trời, 70 tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý”. “Nhân” (người) gắn với các khái niệm “thiện nhân”, “đại nhân”, “thành nhân”, “nhân nhân”, “thánh nhân”, “tiểu nhân”… Các khái niệm này nhằm chỉ những con người có tính cách khác nhau, trình độ đạo đức khác nhau. “Thánh nhân” là người có đạo đức cao siêu, “tiểu nhân” là người có tính cách thấp hèn… “Nhân” ở đây là chỉ con người nói chung và “ái nhân” là yêu người, yêu bất cứ người nào, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội của họ. Người nhân trong quan niệm của Khổng Tử còn là người phải làm cho năm điều đức hạnh được phổ cập trong thiên hạ. Năm điều đức hạnh đó là: cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Ông nói: “Nếu mình nghiêm trang cung kính thì chẳng ai dám khinh mình. Nếu mình có lòng rộng lượng thì thu phục được lòng người. Nếu mình có đức tín thật thì người ta tin cậy mình. Nếu mình cần mẫn, siêng năng thì làm được công việc hữu ích. Nếu mình thi ân, bố đức, gia huệ thì mình sai khiến được người” (Luận ngữ, Dương Hoá, 6). 3. Học thuyết tâm lý học hành vi
  • 11. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 11 Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hình thành hai xu hướng duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan đã tạo nên sự khủng hoảng trong tâm lý học thời kỳ ấy. Các nhà nghiên cứu tìm tòi con đường mới về nguyên tắc để xây dựng khoa học tâm lý. Dựa trên quan điểm triết học thực chứng của Comte (1798 - 1857),chủ trương mọi lập luận phải được xây dựng trên cơ sở những chứng cứ khách quan, quan sát được, những thành tựu của các nhà sinh lý học thần kinh và tâm lý học động vật. J. Watson (1878 – 1958) - một nhà tâm lý học người Mỹ đã hình thành trường phái tâm lý học hành vi- một khoa học về hành vi. Các nhà nghiên cứu có xu hướng duy vật trong tâm lý học đã đi theo con đường này. Và nhờ có cuộc đấu tranh tích cực của Watson và những nhà hành vi mà hành vi đã trở thành đối tượng chủ yếu và duy nhất của tâm lý học, góp phần xứng đáng xây dựng tâm lý học khách quan. Tâm lí học hành vi, với những đại biểu xuất sắc là các nhà tâm lí học kiệt xuất: J Watson (1878 – 1958), E.Tolmen (1886 – 1959), E.L.Toocdai (1874 – 1949), B.Ph.Skinnơ (1904 – 1990)… Các nhà tâm lí học theo hướng tiếp cận hành vi phủ nhận việc nghiên cứu ý thức con người. John B.Watson (1878-1958) Phát biểu nổi tiếng trong cuốn Chủ nghĩa Hành vi (Behaviorism) xuất bản năm 1930: “ Hãy trao cho tôi một chục đứa trẻ sơ sinh khỏe mạnh, bằng cách giáo dục riêng của tôi nuôi chúng lớn, tôi sẽ bảo đả với các bạn rằng, tôi sẽ chọn lấy một em thật ngẫu nhiên và nuôi em nhỏ đó- bất luận khả năng của em nhỏ đó như thế nào về mặt tài năng, khả năng, xu hướng, sở thích, lý lịch chủng tộc- tôi có thể biến các em trở thành bác sĩ, luật sư, nghệ sĩ, chủ doanh nghiệp hoặc ngay cả chuyện biến em trở thành một tên cướp. Cứ cho là tôi ngông cuồng đi, nhưng những ai có ý trái ngược với tôi đã làm điều đó trong nhiều ngàn năm về trước.’’  Đề cao vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của trẻ em B.F. Skinner (1904- 1990) là một nhà Tâm lý học người Mỹ. Tương tự Watson, ông chủ xướng hành vi nơi người là đối tượng nghiên cứu quan trọng. Ông đề xướng quá trình giảng dạy của người lớn một cách rất chi tiết và có ảnh hướng đối với quá trình giáo dục của con em thông qua Củng cố hành vi (Behavioral Reinforcement) - Người lớn cần hướng dẫn những hành vi mẫu mực mà chúng ta muốn con em thể hiện thật rõ ràng, không nói giáo điều, chung chung, đại khái. - Các bước hướng dẫn cần dễ làm, dễ thực hiện, tránh những yêu cầu phức tạp, ôm đồm, quá sức, quá khả năng của trẻ. Nên tiến hành từ các thao tác đơn giản tiến đến gần hơn với những thao tác phức tạp. Cần cho trẻ cơ hội thực hiện những gì các em đã học. Nếu không, các em sẽ không có kinh nghiệm làm những việc này. - Luôn tạo điều kiện để trẻ luôn luôn thành công, luôn thể hiện được em đã hoàn thành được nững thao tác cần được thực hiện. Đừng bao giờ đề ra những kế hoạch giáo dục quá
  • 12. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 12 cao, quá khó, để các em không đạt được, dễ rơi vào mặc cảm buồn, thất vọng, tiêu cực và thiếu tự tin. - Luôn tạo ra những cơ hội củng cố liên tục (intermittent reinforcement) nhằm tạo ra một thói quen, một hình thức tư duy định hướng để trẻ có thể tạo được một thói quen tốt, một thói quen tích cực cho bản thân. 4. Học thuyết học tập xã hội của Albert Bandura Albert Bandura sinh ngày 4 tháng 12 năm 1925 tại thành phố Nundare phía bắc Alberta, nước Canada. Ông là nhà nghiên cứu nổi tiếng về tâm lý học phát triển. Học thuyết học tập xã hội của ông được coi là có nhiều ảnh hướng nhất với tâm lý học thế giới Thí nghiệm Búp bê Bodo (Bodo doll Experiment) được coi là nổi tiếng nhất của ông Kết quả: Phần lớn trẻ em khi quan sát người lớn tấn công một cách dã man con búp bê Bodo, các em sẽ lặp lại những gì các em nhìn thấy.  Kết luận: Hành vi học tập được thông qua Quan sát và Bắt chước  Ứng dụng vào giáo dục: Để giáo dục trẻ, người lớn cần là những người làm mẫu các hành vi, hành động một cách thật cẩn thận, có mục đích và cảnh giác  Người lớn (Bố mẹ, ông bà, thầy cô) là những gương mẫu cho trẻ. 5. Học thuyết về sự phát triển tâm lý tính dục của Sigmund Freud 5.1. Về tác giả Sigmund Freud là cha đẻ của phân tâm cổ điển, ông sinh ngày 6 tháng 5 năm 1856, ở Freiburg, một thị xã nhỏ ở Moravia, hiện nay là phần thuộc cộng hoà Czech. Khi Freud lên 4 tuổi, cha ông là một thợ máy người Do Thái, đưa gia đình đến Vienna, Freud đã sống hầu hết thời gian ở đây. Theo học trường y khoa, ông chuyên về thần kinh học và đã học một năm tại Paris với Jean-Martin Charcot, ông chịu ảnh hưởng bởi Ambroise- August Liebault và Hippolyte-Marie Bernheim, cả hai đều dạy ông thôi miên khi ông ở Pháp. Sau khi học tập ở Pháp, ông quay trở về Vienna và bắt đầu công việc lâm sàng với những bệnh nhân Hysteria. Vào khoảng từ năm 1887 đến 1897, công việc của ông với những bệnh nhân này dẫn đến việc phát triển phân tâm học. Ông chết năm 1939 tại Luân Đôn. 5.2. Nội dung học thuyết Các giai đoạn phát triển tâm tính dục được diễn ra theo 5 giai đoạn sau:  Giai đoạn môi miệng (0-1 tuổi) Trong năm đầu, môi miệng là bộ phận tạo ra những khoái cảm sâu sắc nhất; đây không chỉ có vì được thỏa mãn nhu cầu đói no, mà còn là khoái cảm đặc biệt do môi miệng bị kích thích. Một hiện tượng thường gặp là trẻ em bú no rồi nhiều khi vẫn mút tay hay mút một cái gì khác chính là để tìm khoái cảm ấy: đó là một hành vi mà phân tâm học gọi là
  • 13. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 13 kích dục, tức là tự kích thích bản thân để gây khoái cảm, lúc nào ấm ức hẫng hụt (autoérotisme). Ở thời kỳ này về tâm lý, trẻ em còn hòa mình với đối tượng, tức là đồ vật nào hay người nào tiếp xúc với mình. Đặc biệt trẻ em hòa mình với mẹ, cái cặp mẹ con tuy hay nhưng chỉ là một.  Giai đoạn hậu môn (2-3 tuổi) Đến cuối năm đầu, bộ phận gây khoái cảm mạnh mẽ nhất là hậu môn, khi đẩy phân ra ngoài. Đây là một cảm giác mới lạ đối với em bé: nếu lúc bú là thụ động tiếp nhận sữa hay thức ăn nào khác, thì đại tiện lại mang tính chủ động, và cục phân chính là sản phẩm đầu tiên của bé. Tất cả những cảm giác này xuất hiện vào lúc hệ thần kinh thành thục đến mức bắt đầu chỉ đạo được các cơ ở hậu môn. Lúc này cũng xuất hiện một yếu tố mới trong quan hệ mẹ-con: khác với trước đó, bố mẹ bắt đầu ép buộc con đi vào kỷ luật, ngồi bô, chứ không thể đại tiện bất kỳ lúc nào nơi nào, không được sờ mó đến phân (trẻ em rất thích chơi với phân), nói tóm lại bắt buộc phải ở sạch. Nếu trước kia mẹ cho bú, con thụ động tiếp nhận, thì nay xuất hiện mâu thuẫn giữa mẹ và con. Bắt đầu đứa trẻ không còn hòa mình với mẹ nữa, mà cảm nhận thấy mình là một cá thể riêng biệt, đó là quá trình cá biệt hóa. Cũng bắt đầu tình cảm giữa bố mẹ và con mang tính hai chiều (ambivalence), thương yêu quyện với chống đối, bực tức.  Giai đoạn dương vật (3-6 tuổi) Bước vào năm thứ ba đối với đại đa số trẻ em thì đại tiện xem như đã đi vào nề nếp. Lúc này bộ máy thần kinh chỉ đạo những cơ khuyên được vận dụng trong tiểu tiện bắt đầu thành thục: một bên là em bé có những khoái cảm đặc biệt xuất phát từ bộ phận đi tiểu, một bên là bà mẹ cũng bắt đầu ép con vào kỷ luật, cả hai bên đều tập trung chú ý vào bộ phận tiểu tiện. Nhưng bộ phận này cũng là cơ quan sinh dục, ở con trai là dương vật (tức con chim), ở con gái là âm vật, nhỏ bé hơn nhiều nhưng không thấy rõ như chim của con trai. Một bên là em bé hay sờ mó vào để tìm khoái cảm. Một bên là xã hội cấm kỵ nghiêm khắc, bất kỳ hành vi nào liên quan đến bộ phận sinh dục, thêm vào là xã hội thường trọng nam khinh nữ, hay đề cao con chim của đứa con trai, và bố mẹ cũng bắt đầu đối xử khác biệt với con trai hay con gái, cho nên cảm nhận của đứa bé về giới tính của mình bắt đầu rõ nét. Theo phân tâm học tâm lý vào lứa tuổi này nhuốm màu sắc tính dục rõ rệt. Trong sự yêu và ghét của đứa bé, định hướng giới tính rõ nét: con trai thì yêu mẹ và ghen tị với bố. Dĩ nhiên tình cảm yêu ghét ghen tị này thường là vô thức, nhưng vẫn chi phối mọi hành vi của em bé. Mặc cảm Oedipe đi đôi với mặc cảm bị thiến (complexe de castration): cậu con trai tự hào bao nhiêu về cái chim của mình, càng lo sợ bị cắt mất, và người lớn cũng thường đe dọa như vậy, còn con gái thì ngờ rằng chim của mình đã bị cắt cụt. Từ những tình cảm trái ngược, từ những thắc mắc, thường là tất cả là vô thức, trong tâm tư cũng vô thức của em bé hình thành những hình ảnh ý nghĩa phức tạp, phân tâm học gọi đó là những huyễn tưởng (fantasme, huyễn có nghĩa gần giống với ảo). Cũng vào lứa tuổi ấy, trẻ em bắt đầu thắc mắc về những vấn đề như làm sao mẹ đã sinh ra mình và em mình, về cái sống cái chết, các em sống trong một cái biển ngôn ngữ, hình ảnh, nghe thấy rất nhiều nhưng hiểu
  • 14. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 14 biết lại rất ít cho nên trong mọi quan hệ xã hội gặp rất nhiều tình huống không biết thực hư thế nào, dễ sinh ra lo sợ. Phân tâm học nêu lên một điểm thắc mắc rất lớn của trẻ em vào tuổi này: có những lúc bố mẹ tưởng con đã ngủ say, nhưng thực ra con chứng kiến bố mẹ ăn nằm với nhau, không hiểu được việc này, thường tưởng đây là một hành động hung bạo của bố đối với mẹ, nhưng không dám nói ra, phân tâm học gọi đó là “kịch cảnh nguyên thủy” (Scène primitive). Không lạ gì trong các trò chơi của trẻ em thường thấy chơi làm vợ chồng, làm bố làm mẹ làm con, có sống có chết, có thiện có ác, có thần tiên ma quỷ v.v… chứ không phải những sự việc hằng ngày kiểu “người thật việc thật”  Giai đoạn ẩn tàng (6-12 tuổi) Đến sáu bảy tuổi những mặc cảm các giai đoạn trước – môi miệng, hậu môn, dương vật – dần dần được giải tỏa, tính tình trẻ em ổn định hơn. Bắt đầu đi học phổ thông, cuộc sống vươn ra khỏi phạm vi gia đình, các em bước vào một môi trường mới với những hứng thú và đòi hỏi mới. Bắt đầu có hứng thú tiếp nhận những hiểu biết mới, hứng thú kết bè kết bạn ngoài anh chị em, và có quan hệ đặc biệt với một người lớn không phải là bố mẹ mà là thầy cô giáo. Tình cảm của em bé với bố mẹ không còn mang tính tập trung gay gắt như trong các giai đoạn trước. Đặc biệt mặc cảm Oedipe được giải tỏa dần: con trai không còn bám lấy mẹ, không còn ghen tuông với bố, và con gái thì ngược lại, mà một bên thì tự đồng nhất với bố, một bên với mẹ, cố gắng học tập tuân theo qui tắc của gia đình và nhà trường  Giai đoạn sinh dục (sau 12 tuổi) Đến tuổi dậy thì, với những biến động sinh lý, tâm tư xao xuyến, tình dục lại khơi dậy lên ở mức cao, những mặc cảm thời trước, đặc biệt là Oedipe, trỗi dậy một lần nữa; nhưng lần này, tình dục định hướng về một con người khác giới, ở ngoài gia đình, và quan hệ với đối tượng này đầy đủ cả hai mặt xác thịt và tâm lý xã hội. Lúc ấy con người đã thật trưởng thành, những mặc cảm của những thời trước được giải tỏa. Quan hệ với bố mẹ không còn nhuốm màu tình dục nữa, vì tình dục này đã đầu tư vào người yêu.  Những khó khăn về phát triển: Thoái lùi, cắm chốt Thoái lùi là quá trình chủ thể quay trở lại một giai đọan phát triển trước đó thay vì phải chuyển sang giai đọan tiếp theo. Vấn đề này thường xuất hiện khi một người phải đương đầu với những đe doạ. Trẻ em có thể trở lại với những hành vi của thời ẵm bồng khi chúng cảm thấy bị đe doạ về sự mất mác tình thương yêu. Người lớn có thể rút lui khỏi những hoạt động tình dục với người khác giới bởi vì họ cảm thấy họ không trưởng thành về mặt tâm lý và rút lui khỏi những hoạt động đó để tránh tình huống gây ra sự lo âu. Thông thường thì điều này dẫn đến quyết định thoái lùi về một giai đoạn phát triển mà trước đây họ đã trải qua. Việc thoái lùi cũng có mức độ nhất định và việc thoái lùi về một giai đoạn phát triển không có nghĩ là thoái lùi hoàn toàn.
  • 15. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 15 Cắm chốt là gắn bó quá mức về tình cảm vào một con người hay một đồ vật, tập trung vào đấy, không còn liên hệ với người khác hay có một hứng thú nào khác. Theo phân tâm học, trong quá trình phát triển, ở mỗi lứa tuổi, cảm xúc tình cảm được tập trung gắn bó với những bộ phận cơ thể nhất định (môi miệng, hậu môn, dương vật), và những con người nhất định. Trưởng thành là dần dần thoát khỏi những bước quá độ ấy để tiến tới có những tình cảm đa dạng linh hoạt. Khi vấp phải một chấn thương tâm lý, có thể thoái lùi về một giai đoạn trước, tình cảm cắm chốt vào một đối tượng nhất định. Như vậy cắm chốt và thoái lùi là hai hiện tượng đi đôi với nhau. Cắm chốt là một trong những cơ chế phòng vệ (trong số 29 cơ chế phòng vệ).Theo quan điểm của Freud về sự phát triển nhân cách một cách bình thường xuất hiện thông qua một chuỗi các giai đoạn phát triển về tâm sinh dục. Việc chuyển từ giai đoạn này sang một giai đoạn kế tiếp có mối quan hệ mật thiết với những thất bại và những lo âu. Nếu việc lo âu này ngày càng trở nên nghiêm trọng thì sự phát triển về mặt tâm lý tạm thời dừng lại. Bởi vì cá nhân đó cảm thấy sợ và lo lắng khi chuyển sang giai đoạn kế tiếp. 6. Học thuyết mối quan hệ gắn bó 6.1. Nghiên cứu về mối quan hệ gắn bó Là một trong những đặc trưng quan trọng bậc nhất ở trẻ trước 2 tuổi. Đó là sự tương tác mẹ con diễn ra theo hai chiều: - Mẹ chủ động tác động vào con và được con đáp ứng. - Con chủ động tác động vào mẹ, và được mẹ đáp ứng. => Sự gắn bó mẹ con là sự xuất hiện một mối quan hệ xúc cảm- tình cảm giữa mẹ và con John Bowlby là người đầu tiên nghiên cứu về hiện tượng gắn bó mẹ con theo quan điểm của “Tập tính học”( Khoa học nghiên cứu hành vi trong sự tiến hoá của các loài). Sau quá trình nghiên cứu, ông đưa ra các kết luận sau: +) Sự gắn bó xã hội mẹ con có ý nghĩa quyết định sự phát triển bình thưòng của trẻ. Thiếu quan hệ gắn bó này sẽ phát sinh ở trẻ những rối nhiễu trầm trọng như: Trẻ không thể hình thành những mối quan hệ gắn bó, khả năng đồng cảm với người khác, do đó trẻ không thể tuân thủ những tiêu chuẩn xã hội một cách bình thường (hành vi lệch chuẩn), dễ phạm pháp, hư hỏng sau này. +) Ông cũng nhấn mạnh rằng: trẻ hình thành mối quan hệ với người mẹ, khác về “chất” so với việc hình thành mối quan hệ với những người khác. Ông gọi đó là “tính đơn hướng”. Nếu bị tước đoạt người mẹ trong thời gian này thì đó là một đòn chí tử với người con. =>Nhận xét: Bowbly đã tuyệt đối hoá vai trò của sự gắn bó mẹ con, mà xem nhẹ những mối quan hệ khác. Bởi không phải người “mẹ” là quyết định sự gắn bó mà chính
  • 16. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 16 nội dung và cách thức tương tác mới quyết định mối quan hệ ấy, cũng như quyết định sự phát triển tâm lý ở trẻ. gắn bó ấy là gắn bó có ý thức chứ không phải gắn bó vô thức, bẩm sinh. * Schaffer và Erikson: 2 ông đã đưa ra nhận xét sau: - Trẻ có thể gắn bó với những người khác nếu nội dung và phương pháp phù hợp. tức là người mẹ cũng phải thực hành cách thức tương tác thì mới có thể tạo mối quan hệ gắn bó mẹ con tốt đẹp. Như vậy sự gắn bó mẹ con không phải mang tính “đơn hướng” như John Borly đã khẳng định. - Trẻ thường tỏ ra gắn bó nhanh với những tỏ ra người nhạy cảm với những yêu cầu của trẻ. Trẻ nhanh gắn bó với những người “đọc” được những nhu cầu và đáp ứng kịp thời nhu cầu đó. - Nếu Bowlby cho rằng sự gắn bó mẹ con chỉ diễn ra ở những năm đầu đời thì Schaffer và Erikson lại đưa ra ý kiến khác. Ông làm nghiên cứu thực nghiệm với 91 đứa trẻ dưới 5tuổi đi làm con nuôi. Sau 1 thời gian, 89 đứa gắn bó với mẹ nuôi, chỉ có 2 đứa là không xảy ra sự gắn bó. Như vậy, 2 ông khẳng định, ngoài 5 tuổi vẫn diễn ra sự gắn bó miễn là nội dung và hình thức tương tác phù hợp. - Sự hư hỏng của trẻ khi trưởng thành không phải chỉ do thiếu sự gắn bó mẹ con mà còn do nhiều nguyên nhân khác. Quá trình hình thành sự gắn bó mẹ con Trong thế kỉ XX, Rudolph Schaffer và Peggy Emerson đã nghiên cứu sự phát triển của một nhóm trẻ Scotland. Mỗi tháng một lần, họ phỏng vấn các bà mẹ và rút ra kết luận là: Ở trẻ, quá trình hình thành sự gắn bó mẹ con thường diễn ra qua 4 giai đoạn: Giai đoạn tiền xã hội (0 - 6 tuần tuổi): Còn gọi là pha phi xã hội. Trẻ mới đẻ phi xã hội theo nghĩa là các kích thích xã hội hoặc phi xã hội thường tạo ra phản xạ thích thú, chỉ một số ít tạo phản xạ phản đối. Cuối pha này, trẻ thể hiện sự ưa thích đối với những kích thích xã hộ như khuôn mặt đang cười. Giai đoạn xã hội chưa phân tách ( 6 tuần tuổi- 6, 7 tháng tuổi): Trong giai đoạn này trẻ thích bầu bạn cùng mọi người nhưng không phân tách. Trẻ cười nhiều với mọi người và những vật thể giống người như búp bê và có vẻ rối rít khi người lớn không đồng tình. Mặc dù trẻ từ 3 đến 6 tháng tuổi dành nụ cười tươi nhất cho người mẹ, người chăm sóc; nín ngay khi được người ấy dỗ nhưng chúng cũng thích thú khi được người khác chú ý, bất kể đó là người quen hay lạ. Giai đoạn gắn bó đặc biệt ( 7-9 tháng tuổi): Trong giai đoạn này trẻ thường gắn bó với một người duy nhất (mẹ, người chăm nuôi). Trẻ bắt đầu phản đối khi tách khỏi mẹ, thường bò theo mẹ, lại gần mẹ và vui mừng khi thấy mẹ, đồng thời hay sợ người lạ. Sự gắn bó mạnh mẽ với mẹ giúp trẻ khảo sát môi trường xung quanh nó.
  • 17. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 17 Giai đoạn đa gắn bó (sau 10 tháng tuổi): Trẻ có thể gắn bó với mọi người. Trước hết là những người thân trong gia đình như bố, mẹ, anh, chị, ông, bà… Sau 18 tháng sẽ còn rất ít trẻ chỉ gắn bó với một người. Nhìn chung sự gắn bó chặt chẽ giữa mẹ và con diễn ra mạnh mẽ ở trẻ trong suốt 6 tháng đầu, đặc biệt là giai đoạn từ 6-9 tháng tuổi. Những biểu hiện của sự gắn bó mẹ - con: * Biểu hiện của sự gắn bó mẹ - con là các hành vi làm tăng sự gần gũi hoặc sự tiếp xúc của đứa trẻ với người mẹ hoặc với hình bóng của người mẹ. - Lọt lòng, trẻ đã có những phản xạ như mút, bám níu, khóc, mỉm cười, muốn được ôm ấp vỗ về  Đó chính là sự thể hiện nhu cầu gắn bó với người lớn. - Phản xạ rúc đầu vào bụng, vào ngực mẹ, một mặt là để tìm vú, mặt khác là muốn áp vào da thịt mẹ… Tất cả các phản ứng đó tạo ra quan hệ xúc cảm mẹ - con. - Quan hệ với người mẹ qua xúc giác là mối quan hệ được xuất hiện sớm nhất và có vai trò quan trọng bậc nhất đối với sự phát triển của trẻ trong năm đầu. Đó chính là biểu hiện của sự gắn bó của trẻ với người mẹ  Đây là quan hệ gốc, làm cơ sở cho sự phát triển các mối quan hệ xã hội sau này. - Trong mối quan hệ gắn bó mẹ - con, ở cả 2 phía mẹ và con đều phát tín hiệu: + Tín hiệu của mẹ được biểu hiện ở những động tác, cử chỉ, nét mặt, giọng nói… hướng về đứa con, gợi cho nó phản ứng đáp lại. + Còn đứa con tuy chưa có lời nói, cử chỉ hướng về mẹ một cách chủ định nhưng nó vẫn phát ra những tín hiệu như mút, dụi đầu, nhìn, cười, la khóc, cọ quậy chân tay… khiến người lớn mà trước hết là người mẹ nhận ra và đáp ứng nhu cầu của bé. Vai trò của sự tiếp xúc trực tiếp (gắn bó mẹ - con) tới sự phát triển tâm lý của trẻ nhỏ: Sự gắn bó với người mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển tâm lý của trẻ. Nếu thiếu sự gắn bó mẹ - con, quá trình phát triển của trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn. - Sự gắn bó mẹ - con tạo ra cảm giác an toàn (thỏa mãn nhu cầu an toàn) ở trẻ nhỏ, giúp trẻ yên tâm trong việc khám phá và giao tiếp với môi trường xung quanh. An toàn là trạng thái tâm lý ở trẻ, được sinh ra khi người mẹ và những người thân xung quanh thoả mãn được các nhu cầu như dinh dưỡng, gắn bó cho trẻ, ôm ấp yêu thương trẻ, trò chuyện thân thiện với trẻ… mang lại cho trẻ cảm giác bình yên, thoải mái. Đây là chỗ dựa vững chắc, giúp trẻ đi vào thế giới đồ vật một cách tự tin, phát triển hài hoà các chức năng tâm lý như: chú ý, tri giác, tưởng tượng, tư duy, trí nhớ… giúp trẻ thích nghi nhanh, hợp lý với những thay đổi của môi trường tự nhiên và xã hội. Nếu không có sự an toàn thì sự phát triển về tâm lý, nhân cách của trẻ sẽ gặp phải rất nhiều bất ổn. Đứa trẻ sẽ bị cảm
  • 18. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 18 giác lo lắng, bất an chi phối, nó dễ cáu gắt và khóc lóc rất nhiều. Nhiều trẻ em do không được thoả mãn nhu cầu an toàn này mà giai đoạn sau rất dễ có những rối nhiễu tâm lý như trầm cảm, lo âu…. - Sự gắn bó mẹ - con là tiền đề quan trọng cho nhu cầu giao tiếp với những người xung quanh. Lúc đầu, người mẹ đóng vai trò chủ động, nhưng dần dần em bé tiến lên năng động hơn. Ngay từ cuối tháng thứ nhất, trẻ đã biết “hóng chuyện”, phản ứng khi được người lớn “hỏi chuyện” như cười, khua chân khua tay… Sang tháng thứ hai, xuất hiện sự mỉm cười ở bé khi thấy một ai đó đến bên. Bé tỏ ra vui mừng khi ai đến với nó và tỏ ra buồn bã khi họ bỏ đi, rồi lại đưa mắt tìm chơi với người khác. Cứ như vậy quan hệ giao tiếp của trẻ dần hình thành và phát triển. Đây cũng là tiền đề thuận lợi để hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ sau này. - Giao tiếp trực tiếp với người mẹ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển xúc cảm, tình cảm của trẻ. Từ nhu cầu tiếp xúc da thịt với người mẹ đến giao tiếp thực sự với những người xung quanh, khi mà trẻ đã có những phương thức giao tiếp là một bước phát triển rõ rệt từ tuổi sơ sinh đến tuổi hài nhi. Trong giao tiếp với mẹ, trẻ tiếp nhận được những sắc thái xúc cảm khác nhau của người mẹ, rồi dần dần trẻ cũng thể hiện được những xúc cảm khác nhau của mình. - Giao tiếp trực tiếp với người mẹ là một bước đệm quan trọng cho giai đoạn sau đó. Cùng với giao tiếp trực tiếp với người mẹ, dần dần ở trẻ xuất hiện nhu cầu sờ mó, cầm nắm các đồ vật. Từ đó nhu cầu giao tiếp trực tiếp sẽ nhường chỗ cho giao tiếp với đồ vật, tức là giao tiếp với người mẹ để tiếp xúc với đồ vật. Lúc này người mẹ trở thành khâu trung gian giữa trẻ và đồ vật. Sự giao tiếp này dần dần trở thành hoạt động phối hợp giữa người mẹ và trẻ nhỏ. Người mẹ lúc này có vai trò dẫn dắt đứa trẻ đến với thế giới đồ vật và hướng dẫn nó biết hành động với các đồ vật đơn giản. Nhờ hoạt động phối hợp với người lớn nói chung và người mẹ nói riêng, ở trẻ nảy sinh khả năng bắt chước hành động của người lớn. Khả năng này là điều kiện quan trọng để tiếp thu những điều dạy dỗ của người lớn, mở rộng vốn kinh nghiệm của trẻ. Khả năng bắt chước những hành động của người lớn được phát triển mạnh trong suốt thời kỳ hài nhi. Đến cuối tuổi này thì sự bắt chước tăng lên rõ rệt (chải tóc giống mẹ, đọc sách giống bố…). Các yếu tố ảnh hưởng tới sự gắn bó mẹ - con: * Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự gắn bó mẹ - con, theo cuốn “Tâm lý học phát triển” (Dương Thiệu Hoa chủ biên, NXB ĐH Sư phạm) thì có 3 yếu tố nổi bật là: chất lượng chăm sóc trẻ của người mẹ, đặc điểm bầu không khí tâm lý gia đình và sức khỏe của trẻ. - Chất lượng chăm sóc trẻ của người mẹ: + Trong đa số trường hợp, người mẹ nhạy cảm, đáp ứng ngay những nhu cầu của trẻ thì thường tạo ra ở trẻ sự thích thú khi tương tác với mẹ và tạo cảm giác an toàn (gắn bó an toàn). + Ngược lại, trẻ sẽ có cảm giác lo lắng và lẩn tránh đối với người mẹ không đáp ứng đối với các tín hiệu của trẻ, thể hiện sự không thích thú khi bên con.
  • 19. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 19 - Điều kiện gia đình và bầu không khí tâm lý gia đình cũng là tác nhân quan trọng đối với sự gắn bó. Nếu mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không tốt, đặc biệt giữa người bố và người mẹ thường xuyên xảy ra tranh cãi, mâu thuẫn, xung đột… đều ngăn cản việc hình thành gắn bó mẹ - con. - Một tác nhân khác ảnh hưởng tới sự gắn bó mẹ - con là sức khỏe và khí chất của trẻ. Những trẻ nhẹ cân khi mới đẻ, ốm yếu bẩm sinh… thường cáu bẳn và uể oải, từ đó làm giảm sự nhạy cảm của bố, mẹ đối với trẻ và ngược lại. * Hai nỗi sợ hãi có liên quan đến sự gắn bó của trẻ nhỏ với người khác nói chung (theo Schafel và Emerson), đó là nỗi lo người lạ và nỗi lo chia cắt. - Nỗi lo người lạ là phản xạ cẩn trọng biểu hiện ở sự trái ngược so với những động tác mà trẻ chào đón người quen. - Nỗi lo chia cắt được trẻ thể hiện bằng sự không thoải mái khi phải xa mẹ hoặc đối tượng mà trẻ gắn bó. Mặc dù về phía trẻ có sự ảnh hưởng nhất định tới sự gắn bó mẹ - con, nhưng vai trò quyết định tới sự hình thành và phát triển mối quan hệ này thuộc về người mẹ, người chăm nuôi và gia đình. 6.2. Học thuyết mối quan hệ gắn bó của Bowlby Bowlby sử dụng thuật ngữ “Attachment” (gắn bó) để chỉ mối quan hệ tình cảm giữa trẻ và người chăm sóc chính (thường là mẹ). Gắn bó được hình thành trong quá trình tương tác của trẻ với mẹ. Sự phát triển và hài hòa về nhân cách của trẻ tuỳ thuộc vào việc thiết lập các mối quan hệ tương tác giữa mẹ và con đầu đời. Kinh nghiệm đầu thời thơ ấu ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của trẻ và những hành vi trong cuộc sống sau này. Những kiểu gắn kết đầu tiên của trẻ ta được hình thành trong thời thơ ấu thông qua mối quan hệ giữa trẻ và người chăm sóc chúng. Theo khái niệm này thì qua sự tiếp xúc thường xuyên từ lúc lọt lòng, tuỳ mức độ đòi hỏi của em bé và sự đáp ứng của người mẹ, sẽ tạo ra một mối quan hệ gắn bó tốt xấu, đậm nhạt khác nhau. Đây là một sự tác động qua lại giữa mẹ và con, mà người mẹ ở đây không nhất thiết là bà mẹ sinh ra trẻ, đó có thể chỉ là bà mẹ nuôi trẻ. Theo Bowlby, sự gắn bó này được hình thành qua 3 thời kỳ: - Giai đoạn sơ sinh: Trẻ sẽ chủ động tìm sự quan hệ với bất kỳ ai chăm sóc, quan tâm đến trẻ. - Giai đoạn phân biệt lạ-quen: Trên 2 tháng là trẻ đã có khả năng phân biệt lạ – quen với những người xung quanh. - Giai đoạn bám mẹ: Từ 6 tháng trẻ sẽ tìm cách bám lấy mẹ, sự quan tâm của trẻ sẽ tập trung vào một người, khi mẹ bỏ đi trẻ sẽ tìm kiếm, khi mẹ trở lại trẻ tỏ ra vui mừng, và trẻ sẽ phân biệt được mẹ với những người chăm sóc khác.
  • 20. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 20 Chính vì vậy, ở những trẻ mồ côi từ lúc sơ sinh, nếu không thiết lập được sự gắn bó với một bà mẹ nào đó, là người chăm sóc trẻ thường xuyên trong một thời gian trên 6 tháng, sẽ xuất hiện một rối nhiễu tâm lý gọi là hội chứng vắng mẹ (hospitalism), trẻ sẽ chậm nói, chậm phát triển về tâm lý vận động mặc dù vẫn được nuôi ăn đầy đủ. Tuy nhiên, theo sự phát triển của tâm –sinh lý, sau một thời gian thiết lập được sự gắn bó với mẹ, thì khi được 2-3 tuổi trẻ lại bước vào một giai đoạn muốn tách biệt (détachement) với mẹ, cũng với những bước chân chập chững là một tâm lý tự chủ, tự khẳng định mình. Đó là một trạng thái phát triển tâm lý cần thiết, mà nếu một người mẹ không am hiểu vì lòng thương con cứ tiếp tục quyến luyến, ôm ấp và làm thay cho con quá nhiều khiến cho trẻ không phát triển được về tâm lý và đôi khi tình trạng này kéo dài cho đến tận tuổi…trưởng thành. Có 4 kiểu gắn bó: a. GẮN BÓ AN TOÀN (SECURE ATTACHMENT) Những đứa trẻ có kiểu gắn bó an toàn không trải qua tình trạng lo lắng quá mức khi tách chúng ra khỏi người nuôi dưỡng. Khi sợ hãi, những đứa trẻ này sẽ tìm kiếm sự thoải mái từ cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng chúng. Những đứa trẻ có kiểu gắn kết an toàn chấp nhận sự tiếp xúc đầu tiên của cha mẹ một cách dễ dàng. Chúng biểu lộ sự vui mừng bằng những hành vi rất tích cực khi cha mẹ quay trở lại. Những đứa trẻ này hiếm khi có những lo lắng quá mức khi cha mẹ vắng mặt, những lúc đó chúng chuyển sang tiếp xúc với những người lạ. Những đứa trẻ có kiểu gắn kết an toàn sau này dễ dàng thấu cảm hơn, tự do và mạnh dạn khám phá thế giới hơn. Những đứa trẻ này sẽ ít phá hoại, ít gây hấn và chín chắn hơn những đứa trẻ có kiểu gắn kết tính hai chiều hay tránh né. Khi trưởng thành, những đứa trẻ có kiểu gắn kết an toàn thường có sự tin tưởng, có những mối quan hệ lâu dài b. GẮN BÓ CHỐNG ĐỐI KHÔNG AN TOÀN- GẮN BÓ TÍNH HAI CHIỀU( ANXIOUS AMBIVALENT ATTACHMENT) Trẻ có gắn bó chống đối không an toàn có khuynh hướng bám dính vào người chăm sóc và cảnh giác quá mức trong tương tác với người lạ ngay cả khi có mặt của người chăm sóc. Trẻ dễ bị khó chịu khi chia cách, nhưng khi gặp mặt lại, trẻ cố gắng chống đối một cách giận dữ khi gần gũi và không dễ dỗ dành. Trẻ đáp ứng với mẹ bằng kiểu tìm kiếm gần gũi hai chiều và từ chối. Khi trưởng thành, những trẻ có kiểu gắn kết tính hai chiều thường cảm thấy miễn cưỡng khi gần gũi người khác và lo lắng rằng người bạn đời không đáp lại những cảm xúc của họ. Điều này thường dẫn đến rạn nứt, vì những mối quan hệ đó lạnh nhạt và có khoảng cách. Những người có kiểu gắn kết này đặc biệt cảm thấy quẫn trí sau khi một mối quan hệ kết thúc.
  • 21. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 21 c. GẮN BÓ TRÁNH NÉ (AVOIDANT ATTACHMENT) Những đứa trẻ có kiểu gắn kết tránh né có khuynh hướng tránh né cha mẹ và những người nuôi dưỡng chúng. Sự tránh né này thường trở nên đặc biệt rõ rệt sau giai đoạn cha mẹ chúng vắng mặt. Những đứa trẻ này có thể không chấp nhận sự chú ý từ cha mẹ. Nhưng chúng cũng không tìm kiếm cảm giác thoải mái hay tiếp xúc với cha mẹ. Những đứa trẻ với kiểu gắn kết tránh né biểu lộ sự không thiên vị giữa cha mẹ và những người hoàn toàn lạ lẫm. Trẻ có kiểu gắn bó này dường như độc lập một cách sớm hơn bình thường. Khi trưởng thành, những người có kiểu gắn kết tránh né thường khó khăn trong các mối quan hệ thân thiết và gần gũi. Họ không dành nhiều cảm xúc trong những mối quan hệ và chỉ trải qua một chút lo lắng khi có một mối quan hệ chấm dứt. Họ thường né tránh sự chân thành bằng cách viện cớ để thoái thác (như làm việc nhiều....vv) d. GẮN BÓ MẤT ĐỊNH HƯỚNG (DISORGANIZED ATTACHMENT) Những đứa trẻ với kiểu gắn kết mất định hướng có những hành vi gắn kết thể hiện ít rõ ràng. Những hành động và phản ứng của chúng với người chăm sóc thường là những hành vi pha lẫn với sự tránh né hay chống đối. Những đứa trẻ này được mô tả rằng chúng biểu lộ những hành vi thể hiện sự bàng hoàng. Đôi khi chúng có thể biểu hiện sự bối rối hay sợ hãi khi có người nuôi dưỡng. 7. Học thuyết mối quan hệ đối tượng của Winnicott 7.1. Về tác giả Donalt Winnicott (1896-1971) sinh ra trong một gia đình khá giả thuộc tầng lớp trung lưu ở Plimuth, nước Anh. Mong muốn trở thành bác sĩ, ông theo học Y ở Đại học Cambridge nhưng việc học bị gián đoạn khi ông phải tham gia phục vụ trên tàu chiến của Anh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất với tư cách là bác sĩ tập sự. Ông hoàn tất việc học vào năm 1923, kết hôn lần thứ nhất và trở thành bác sĩ của bệnh viện nhi Paddington Green ở London. Năm 1927, ông tham gia đợt tập huấn của Hội Phân tâm Anh, được công nhận là nhà phân tâm người lớn năm 1934 và nhà phân tích trẻ em năm 1935. Ông vẫn tiếp tục làm việc tại bệnh viện dành cho trẻ em và sau này có nói lại rằng: “Ở thời điểm đó, không có ai làm đồng thời 2 vị trí: nhà phân tích tâm lí và bác sĩ nhi khoa. Tôi là một hiện tượng cá biệt trong hai thập kỉ trở lại đây”. Việc điều trị trẻ em bị rối loạn tâm thần đã đem lại cho ông nhiều kinh nghiệm để xây dựng lí thuyết cơ bản cho riêng mình. Việc này cũng giúp ích cho ông trong phát triển “tư vấn trị liệu”. Trong những năm tháng chiến tranh, ông làm việc nhiều với bệnh nhân tâm thần là những trẻ nhỏ di cư từ London hay các thành phố lớn khác và bị li tán gia đình. Kinh nghiệm của một nhà tư vấn tâm thần cho Dự án Di cư của chính phủ đã thúc đẩy ông suy nghĩ về vai trò của người mẹ. Ông kết hôn lần thứ 2 với Clare Britton, nhân viên tâm thần xã hội mà ông đã làm việc cùng trong suốt những năm tháng chiến tranh. Sau chiến tranh, Winnicott trở thành bác sĩ của khoa nhi, Viện Phân tâm học trong suốt 25 năm. Ông là chủ tịch Hội Phân tâm Anh trong 2 nhiệm kì, thành viên của UNESCO và thuộc nhóm nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới WHO. Ông cũng xuất bản nhiều cuốn sách và có
  • 22. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 22 nhiều nghiên cứu thực tiễn. Năm 1971, ông mất sau một cơn đau tim kéo dài và được hỏa táng tại London. 7.2. Nội dung học thuyết Winnicott có đóng góp rất lớn cho hệ thống lí thuyết của Phân tâm học, đặc biệt là lí thuyết về “Mối quan hệ đối tượng”. Winnicott cho rằng để trẻ em có thể phát triển tốt, khỏe mạnh, thì người mẹ phải “đủ tốt” để gắn kết với trẻ bằng “tình mẫu tử nguyên phát” (Primary maternal preoccupation). Người mẹ đủ tốt cho phép đứa trẻ có thể phát triển cảm giác, tri giác tuyệt đối, cái này sẽ mất đi khi trẻ trưởng thành. Theo Winnicott, khoảng cách tâm lí giữa mẹ và trẻ thông qua “môi trường bế bồng” (Holding environment) cho phép trẻ chuyển tiếp để trở nên tự chủ hơn. Môi trường bế bồng có lợi về mặt tâm lí và thể chất, trong đó trẻ được bảo vệ khỏi những đe dọa. Khi một đứa trẻ được sinh ra, người mẹ dành mọi thời gian và tình cảm để chăm sóc nó. Dưới con mắt của bà mẹ luôn có cái gọi là Sự lo lắng của mẹ, cung cấp cho trẻ một môi trường mà nó có thể thoải mái khám phá, học hỏi thông qua các trải nghiệm. Với một đứa trẻ, điều này có nghĩa là nó bắt đầu nhận ra thế giới bên ngoài (đối tượng thực tế), ở đó không phải bất cứ lúc nào trẻ muốn là cũng đều được đáp ứng. Trước đó có thể nó chưa bao giờ cảm thấy bị phụ thuộc vì mẹ nó luôn luôn có mặt bên nó, luôn luôn đáp ứng tất cả những gì nó đòi hỏi, thì giờ đây, nó nhận thấy rằng xung quanh nó còn có những người khác với những vấn đề của riêng họ. Những điều này lạ lẫm với nó và có nhiều nguy cơ không an toàn với nó, chính lúc này, nó cảm thấy bị phụ thuộc. Để đồng cảm với nhu cầu của đứa trẻ, người mẹ phải bảo vệ nó khỏi những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Nếu người mẹ cung cấp một cách thái quá hoặc cung cấp thiếu đều ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lành mạnh của trẻ. Trẻ có thể cảm thấy bị bỏ rơi, các trải nghiệm sẽ bị ngừng, thậm chí nó có thể bị chấn thương tâm lí. Các phát hiện chính trong lý thuyết mối quan hệ đối tượng của Winnicott: a. . Quyền lực vô hạn của chủ thể Trong suốt quá trình phát triển, đứa trẻ sẽ trải qua những kinh nghiệm mà Winnicott gọi là quyền lực vô hạn của chủ thể. Chủ thể ở đây là đứa trẻ, quyền lực vô hạn là quyền của nó. Theo cách đó đứa bé sẽ cảm thấy như thể là nó hợp nhất với mẹ nó. Trẻ cho rằng nó hoặc mẹ nó là tất cả, là trung tâm của sự tồn tại. Bởi vì đối với trẻ, bất cứ lúc nào nó muốn, mẹ nó đều đáp ứng. Chẳng hạn, khi nó đói, nó khóc, mẹ nó đáp ứng. Dưới con mắt của đứa bé, cái vú mẹ xuất hiện; điều này xảy ra như thể là chính những mong muốn của nó làm cho cái vú mẹ xuất hiện, cứ như thể là nó đã sáng tạo nên cái vú mẹ để dành riêng cho nó. Sự đáp ứng của người mẹ là chìa khóa trong suốt thời kì quyền lực vô hạn của chủ thể, bởi vì nó ở một tình trạng mà, như Winnicott đã gọi, là sự chăm sóc cơ bản/ nguyên thủy của người mẹ (tình mẫu tử nguyên phát). Winnicott gọi đây là trải nghiệm về “khoảnh khắc của sự ảo tưởng”, là niềm tin của trẻ trong mong ước của nó về đối tượng mà nó muốn tạo ra. b. Đối tượng thực tế
  • 23. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 23 Dần dần, người mẹ bắt đầu lùi lại, không đáp ứng tuyệt đối các yêu cầu của trẻ nữa. Trẻ nhận ra rằng nó không có quyền lực vô hạn như trẻ vẫn nghĩ trong suốt thời kì trước đó. Đồng thời trẻ cũng đã cảm nhận được nó bị tách ra với mẹ và điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của nó, buộc nó phải học hỏi người khác, học cách chung sống với người khác. Winnicott gọi đây là giai đoạn “đối tượng thực tế”. c. Các trải nghiệm chuyển tiếp (mối quan hệ đối tượng/đồ vật) Đây là vấn đề cốt lõi nhất, quan trọng nhất trong lí thuyết của Winnicott. Vấn đề trung tâm giữa đối tượng thực tế và quyền lực vô hạn của chủ thể là cái mà Winnicott gọi là trải nghiệm chuyển tiếp. Trải nghiệm này là vùng chuyển tiếp giữa Cái Tôi và thế giới hiện thực. Cốt lõi của nó là đối tượng/ đồ vật chuyển tiếp, ở đó trẻ nhận thấy người mẹ xuất hiện hoặc là cái vú của bà xuất hiện khi mẹ đi vắng. Đồ vật này có thể là: một con gấu bông, một góc chăn, một con búp bê… trẻ không coi đối tượng này như là sự sáng tạo của riêng chúng và cũng không hoàn toàn gắn bó nhưng thay vào đó là một tưởng tượng. Đó là cách để trẻ duy trì sự liên kết với mẹ trong khi quá trình phát triển sẽ đẩy mẹ nó ra xa. Theo Winnicott, trải nghiệm này được đánh dấu bằng sự lo lắng và rất quan trọng để đứa trẻ có một đồ vật như là sự phòng vệ chống lại sự lo lắng. Đối tượng chuyển tiếp này giúp đỡ cho đứa trẻ trong khi mẹ nó đi vắng. Đối tượng chuyển tiếp được Winnicott miêu tả là không rõ ràng giữa 2 nghĩa: đối tượng và chủ thể. Cả 2 nghĩa này do trẻ tự huyễn tưởng ra để thông qua đó liên kết với mẹ nó. Trong đó có sự pha trộn giữa người mẹ chủ thể và người mẹ đối tượng/ đồ vật. Đứa trẻ bám vào đồ vật chuyển tiếp như thể đó là cái chuyển tiếp giữa 2 pha trong đó trẻ tìm kiếm sự cân bằng giữa bản thân nó với sự thỏa thuận của người khác. Trải nghiệm chuyển tiếp này được Winnicott miêu tả là một pha trong thời thơ ấu mà trẻ có thể phát triển khả năng sáng tạo của chính nó trong khi vẫn có cảm giác được bảo vệ. d. Người mẹ tốt vừa đủ Winnicott biện luận rằng “không có thứ gì như đứa trẻ cả”, tức là nếu không có mẹ, đứa trẻ không thể tồn tại. Ông tuyên bố rằng những tiềm năng có sẵn của đứa trẻ không thể giúp nó trở thành một đứa trẻ, trừ khi có mẹ nó chăm sóc. Trong tác phẩm Sự chăm sóc cơ bản của người mẹ (1956), ông cho rằng sự sẵn sàng về mặt tâm sinh lí cho việc làm mẹ và trong suốt quá trình làm mẹ, như là một pha đặc biệt trong đó người mẹ có sự thân thiện và trực giác với đứa con, cốt để đáp ứng những nhu cầu thể chất đầu tiên của nó, sau đó là các nhu cầu cảm xúc, và điều này cho phép trẻ bắt đầu hòa nhập với môi trường và phát triển Cái Tôi. Winnicott cũng đề ra và phát triển ý tưởng về người mẹ tốt vừa đủ. Người mẹ tốt vừa đủ là người mẹ có sự hòa hợp về mặt cơ thể và cảm xúc với đứa con để giúp nó thích nghi với những giai đoạn khó khăn trong thời thơ ấu, từ đó cho phép nó tạo lập được sự chuẩn bị tốt cho sự chia tách với môi trường xung quanh, thậm chí là chuẩn bị kĩ càng cho pha mối quan hệ đồ vật. Winnicott cho rằng vai trò quan trọng của người mẹ tốt vừa đủ là giúp cho trẻ thích nghi, do đó dẫn tới nó làm chủ cảm xúc, quyền lực tuyệt đối của chủ thể và nguồn an ủi được giao tiếp với mẹ. Sự kiểm soát môi trường này cho phép trẻ có thể chuyển tiếp bản thân nó đến sự làm chủ mình nhiều hơn.
  • 24. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 24 Người mẹ đủ tốt nhìn chung sẽ làm hài lòng đứa trẻ. Người mẹ đủ tốt được miêu tả là sự đáp ứng lại các đòi hỏi của đứa trẻ, cho phép trẻ có được tưởng tượng về quyền lực vô hạn, nhận ra ảo tưởng, được bảo vệ khỏi những ý nghĩ lo lắng, những cái đe dọa Cái Tôi chưa chín muồi trong giai đoạn phát triển còn hoàn toàn phụ thuộc. Sự thất bại có thể xảy ra, đó là sự rối loạn tâm thần. Người mẹ tốt vừa đủ cố gắng đáp ứng nhu cầu của đứa trẻ, nhưng đôi khi bà cũng phải rời đi theo các yêu cầu khác nhau và nhu cầu của riêng bà. Như Winnicott viết: “Người mẹ tốt vừa đủ… bắt đầu dừng việc đáp ứng hoàn toàn nhu cầu của đứa trẻ, bà dần dần đáp ứng ít đi, đứa trẻ lớn lên không phải với sự thực hiện của mẹ nó” (1953). Người mẹ tốt vừa đủ trái ngược với người mẹ hoàn hảo, là người luôn đáp ứng mọi nhu cầu của đứa trẻ từng tí một, tức là ngăn cản trẻ phát triển. Hành động của người mẹ tốt vừa đủ có thể được miêu tả như trong một khái niệm khác của Winnicott, được gọi là đánh dấu thất bại của sự thích ứng. Sự thất bại của người mẹ trong việc làm hài lòng ngay lập tức các nhu cầu của đứa trẻ có thể gây ra sau đó sự bù đắp bằng sự thiếu hụt trong hoạt động tâm thần và sự hiểu biết. Trẻ sẽ học dần cách tha thứ, điều chỉnh Cái Tôi của bản thân. Những tương tác nhỏ giữa người mẹ và đứa trẻ làm hình thành sự phát triển của thế giới bên trong. Sau giai đoạn ảo tưởng về quyền lực tuyệt đối là giai đoạn mối quan hệ phụ thuộc (đối tượng thực tế), ở đó trẻ nhận ra sự phụ thuộc của nó và học hỏi về sự mất mát. Sự thất bại của người mẹ trong việc đáp ứng tất cả nhu cầu của đứa trẻ giúp nó thích nghi với thế giới bên ngoài. Đứa trẻ bắt đầu phát triển Cái Tôi, hoặc là ở nó gia tăng sự lo lắng về việc bị chia tách. Sự thất bại giai đoạn này có thể dẫn đến hình thành “Cái Tôi thất bại/ giả tạo” (Fail self). Pha cuối cùng của sự phát triển, đó là sự độc lập, không bao giờ là tuyệt đối cũng như là một đứa trẻ không bao giờ là hoàn toàn biệt lập. Vai trò của người mẹ là sáng tạo nên ảo tưởng đầu tiên cho trẻ có thể thích nghi sớm và sau đó lại tạo ra sự vỡ mộng từ đó dẫn đến trẻ dần dần bước vào xã hội. Winnicott thừa nhận rằng trẻ cần nhận ra là mẹ nó không tốt, không xấu mà cũng không ảo tưởng, nhưng là một thực thể tách biệt và độc lập, so với nó. e. Cái Tôi thật và Cái Tôi giả Winnicott sử dụng thuật ngữ “Cái Tôi” để miêu tả “Ego” và Cái Tôi như là đối tượng. Cái Tôi thật: “Chỉ có Cái Tôi thật mới có thể được sáng tạo và chỉ có Cái Tôi thật mới có những cảm nhận thật”. Theo Winnicott, Cái Tôi thật là bản năng trung tâm của nhân cách, đứa trẻ nhận ra và giữ các nhu cầu bẩm sinh của nó bằng cách tự bộc lộ. Một Cái Tôi thật sẽ có cảm giác về sự trọn vẹn, liên kết một cách trọn vẹn. Khi trẻ thể hiện những hành động tự nhiên thì đó là dấu hiệu của sự tồn tại một Cái Tôi thật mang tính bản năng. Hơn nữa, Cái Tôi thật bắt đầu có cuộc sống, trong đó những đáp ứng của người mẹ sẽ đem lại sức khoẻ cho Cái Tôi yếu ớt của trẻ. Quá trình phát triển này phụ thuộc vào hành vi và thái độ của người mẹ. Người mẹ tốt vừa đủ lặp lại các đáp ứng với ảo tưởng về quyền lực tuyệt
  • 25. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 25 đối của trẻ và một vài phạm vi làm cho trẻ cảm thấy như thế. Cái Tôi thật sự khoẻ mạnh chỉ khi các áp ứng tối ưu của người mẹ được lặp lại một cách thành công tới sự biểu hiện rất tự nhiên của đứa trẻ. Cái Tôi giả tạo: Khi một người phải tuân theo các quy tắc bên ngoài, như là phải lịch sự và tuân theo các quy tắc xã hội, thì lúc đó Cái Tôi giả tạo được sử dụng. Cái Tôi giả tạo là cái mặt nạ của con người, nó luôn đi tìm sự chống đối của người khác để duy trì trật tự của các mối quan hệ. Nếu người mẹ không phải là người mẹ tốt vừa đủ, bà có thể không nhạy cảm và không đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của trẻ, những hành động thay thế bà mà đứa trẻ phải tuân theo được lặp lại bắt đầu phát triển thành hình thức sớm nhất của Cái Tôi giả tạo. Cái Tôi giả tạo này chống đối lại các yêu cầu của môi trường và trẻ dường như chấp nhận điều đó. Thông qua Cái Tôi giả tạo, đứa trẻ xây dựng lên sự giả tạo trong các mối quan hệ, cốt để đứa trẻ có thể phát triển giống như người mẹ, người y tá, người cô họ, người anh trai hoặc bất kì ai có ảnh hưởng lớn lúc đó. Chức năng cơ bản của Cái Tôi giả tạo là phòng vệ, bảo vệ Cái Tôi thật khỏi mối đe dọa, sự tổn thương, hoặc thậm chí là sự phá hủy. Đây là một quá trình vô thức: Cái Tôi giả tạo trở nên có lỗi với Cái Tôi thật và những người khác, thậm chí là với chính bản thân nó. Mặc dù có sự xuất hiện của thành công, lợi ích xã hội, cảm giác đó vẫn không thực tế, không sống động, không hạnh phúc, hoặc là không thực sự tồn tại. Sự phân chia thành ra Cái Tôi Thật và Giả là từ Freud trong khái niệm về Cái Tôi, nó được phân chia trong 1 phần là trung tâm và được thuyết phục bởi bản năng và một phần bị quay vòng và gắn bó với thế giới. Theo Winnicott, trong bản thân mọi người đều có Cái Tôi thật và giả, và cấu trúc này bị thay thế liên tục giữa sự mạnh khoẻ và Cái Tôi giả tâm bệnh lí. Cái Tôi thật biểu hiện bằng sức khoẻ tự nhiên và sức sống của một người, sẽ luôn bị giấu diếm một phần hoặc toàn bộ; Cái Tôi giả thì lại dễ thích nghi với môi trường. Trong khi Cái Tôi thật cảm nhận thực, thì Cái Tôi giả tồn tại là kết quả của cảm giác không thực hoặc cảm giác vô ích. Khi Cái Tôi giả vừa mang chức năng cá nhân vừa mang chức năng xã hội thì nó được xem là khoẻ mạnh/ ổn định. Sự khoẻ mạnh của Cái Tôi giả được nhận thấy khi nó phục vụ Cái Tôi thật. Nó có thể phục tùng vô điều kiện cái chống lại nó: Cái Tôi thật. Ngược lại, khi nó có những cảm nhận về sự tuân thủ mạnh mẽ, hơn là mong muốn thích nghi thì lại là có bệnh. Trong trường hợp bị chia tách giữa Cái Tôi thật và Cái Tôi giả, mà Cái Tôi thật hoàn toàn bị che giấu, thì khả năng sử dụng các biểu tượng, văn hóa rất nghèo nàn. Chúng ta có thể quan sát thấy những người cực kì hiếu động (restlessness), không có khả năng tập trung và nhu cầu phản ứng lại các yêu cầu thực tế, trong khi bản thân họ lại duy trì sự không thoải mái, không hài lòng. Áp dụng Người mẹ tốt vừa đủ trong trị liệu Ý tưởng về người mẹ tốt vừa đủ cũng rất quan trọng trong bối cảnh TLH Trị liệu. Nó tạo nên một đòi hỏi cơ bản trong thái độ của nhà trị liệu đối với người bệnh. Winnicott tin rằng một nhà phân tích phải thể hiện tất cả sự kiên nhẫn, khoan dung và sự đáng tin cậy của một người mẹ hi sinh vô điều kiện vì con, phải nhận thấy mong muốn của người bệnh cũng như là những nhu cầu, phải đặt các mối quan tâm khác sang một bên, phải sẵn sàng, chính xác, khách quan, và dường như chỉ đưa lại những gì thật cần
  • 26. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 26 thiết cho nhu cầu của người bệnh. Một nhà trị liệu tâm lí có thể cung cấp sự kiểm soát môi trường, vì vậy bệnh nhân có cơ hội gặp gỡ các nhu cầu của Cái Tôi bị bỏ mặc và hình thành nên Cái Tôi thật (True self). Thêm vào đó, khi nhà trị liệu cố gắng hiểu bệnh nhân, anh ta cũng cố gắng xây dựng lên bức tranh tâm thần về người mẹ của bệnh nhân. Nhà trị liệu cố gắng tìm hiểu xem mẹ của bệnh nhân đã đi xa bao nhiêu và đi chệch hướng bao nhiêu so với người mẹ tốt vừa đủ. 8. Học thuyết về sự phát triển những khả năng mang tính xã hội của Erik Erikson 8.1. Về tác giả Erik Erikson (1905-1994) sinh tại Franfurt (Đức). Ông đã từng học nghệ thuật và vẽ chân dung trẻ em. Sau đó ông vào học tại viện phân tâm học của thành phố Viên (Áo) và được đào tạo trực tiếp bởi S.Freud, Anna Freud và nhiều nhà phân tâm tài năng khác. Năm 1933, ông trở thành nhà phân tâm trẻ em đầu tiên của Boston (Mỹ), giảng dạy tại trường y Harvard và nhiều viện danh tiếng khác, cuối cùng ông làm việc tại bệnh viện ở San Fracisco. Các tác phẩm chính của ông là: Trẻ em và xã hội (1950), Bản sắc, Tuổi trẻ và khủng hoảng (1968). Ông đã chỉnh sửa một số hạn chế của học thuyết phân tâm của S.Freud và được xếp vào dòng Phân tâm mới. Trong học thuyết phát triển của mình, ông đã rời khỏi cách tiếp cận sinh học của Freud mà xem xét nhiều hơn ảnh hưởng to lớn của yếu tố văn hoá xã hội tới sự phát triển của nhân cách. Vì vậy, học thuyết Erikson đối khi được gọi là thuyết tâm lý xã hội (psychosocial theory). 8.2. Nội dung học thuyết Ông chia quá trình phát triển con người thành 8 giai đoạn trong đó có 5 giai đoạn phát triển tâm lý xã hội mô tả đặc điểm quá trình phát triển nhân cách trẻ. Trong mỗi giai đoạn có một mâu thuẫn trọng tâm cần được giải quyết dứt điểm để có thể ứng phó thắng lợi với các mâu thuẫn ở các giai đoạn sau. Theo Erik Erikson, hoàn cảnh chung quanh ảnh hưởng rất mãnh liệt trong việc phát triển tính tình con người. Ông nhấn mạnh rằng người ta chỉ có thể phát triển đầy đủ ở một giai đoạn nào đó về phương diện tình cảm, tâm lý, xã hội, nếu giai đoạn trước đó không bị gián đoạn bởi các mâu thuẫn. Có thể hiểu rằng khi mâu thuẫn ở một giai đoạn được giải quyết, con người phát triển sang giai đoạn kế tiếp. Nếu nó không được giải quyết, con người có thể thoái lui về thời kỳ trước đó (nguyên lý biểu sinh) 8 giai đoạn khủng hoảng và đặc trưng của nó như sau: Giai đoạn Khủng hoảng Đặc trưng 0-18 Niềm tin và Nghi ngờ Lòng tin hay mất lòng tin dựa trên chất lượng của mối quan hệ mẹ con (mối quan hệ đầu
  • 27. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 27 tháng Basic trust versus mistrust đời) an toàn và yêu thương hoặc là không an toàn và nguy hiểm. 18 tháng- 3 tuổi Tự chủ; Hoài nghi & Xấu hổ Autonomy versus shame Phụ thuộc vào số lượng và kiểu kiểm soát của người lớn trên trẻ (Cho và nhận; giữ lại). Người lớn cho trẻ cơ hội khám phá thử trẻ làm được gì sẽ phát triển tính độc lập của trẻ. Những hành vi luôn ngăn cấm và phê phán quá mức hoặc hạn chế sự thể hiện tính độc lập của trẻ sẽ làm cho trẻ dễ này sinh cảm giác nghi ngờ, xấu hổ dẫn đến nhút nhát và lệ thuộc vào người khác 3-6 tuổi Tự khởi xướng, sáng tạo & Mặc cảm thiếu khả năng (Mặc cảm tội lỗi) Initiative versus guilt Trẻ bắt đầu quan sát người khác để học hỏi và bắt chước, em cũng tìm cách hành động theo cách riêng của mình. Nếu như trẻ được thoải mái hoạt động tìm hiểu thế giới thì chúng sử dụng các cách thức tác động một cách sáng tạo. Nhưng nếu luôn bị phê bình hoặc bị trừng phạt thì chúng cảm thấy luôn có lỗi về hành vi của mình. Mặc cảm tội lỗi này còn được phát triển dựa trên mặc cảm oedipe (Freud) 6-12 tuổi Chăm chỉ và kém cỏi Industry versus inferiority Trẻ phát triển rất nhiều kỹ năng, giao tiếp và ganh đua với bạn bè tại trường học. Nếu giai đoạn này thành công, trẻ sẽ có nhiều nghị lực và kinh nghiệm để đương đầu với những khó khăn và khủng hoảng sau này trong cuộc đời. Nếu không phát triển trong giai đoạn này, trong tương lai, em sẽ dễ cảm thấy mình thua kém bạn bè, co mình khi gặp những thử thách khó khăn. 12-18 tuổi (Vị thành niên) Đồng nhất bản sắc & Trộn lẫn vai trò Ego identity versus role confusion Nhiệm vụ của giai đoạn này là tạo ra một cảm nhận rõ ràng về nhân dạng (nhận dạng bản sắc) và một mục tiêu trong cuộc đời. Cơ thể trẻ đã phát triển nhanh, cân đối dần và đây là thời kỳ quá độ từ trẻ em sang người lớn. Một mặt, trẻ đang muốn thể hiện sự “người lớn” ở mình nhưng đôi khi cũng có những biểu hiện thoái bộ về thời nhỏ.Trẻ vị thành niên phải đối mặt với những nhiệm vụ để trở thành người trưởng thành. Đó là xác định lại các vai trò xã hội, kể cả việc dành quyền tự chủ đối với cha mẹ, và đưa ra các quyết định trên các
  • 28. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 28 mục tiêu nghề nghiệp. Việc tạo ra một bản sắc giới tính cũng là một vấn đề rất lớn với các em. Nếu học hỏi và có thêm những cảm nghiệm tích cực về bản thân, trẻ bắt đầu có lòng tự hào và tự trọng, đồng thời biết tôn trọng người khác. Nếu không được như vậy, trẻ sẽ mất ý thức về giá trị và địa vị chính mình trong mối tương quan với xã hội. 18-40 tuổi (Mới trưởng thành) Gẫn gũi và cách biệt Intimacy versus Isolation Đây là tuổi của yêu thương và lao động (tình yêu nam nữ, tình cảm gia đình, bố mẹ, con cái..), của học hành và nghề nghiệp. Trong giai đoạn này, khả năng độc lập, tự chủ, ý chí nghị lực, tinh thần trách nhiệm của cá nhân là khá cao. Ở lứa tuổi thanh niên này, con người có khuynh hướng tạo mối tương quan với người khác một cách riêng tư và thân mật hơn. Nếu thất bại, người thanh niên sẽ vụng về trong giao tiếp xã hội và khó kết thân với người khác, nhất là những người khác phái. Nếu không có được sự yêu thương, con người có xu hướng cô lập, vị kỷ, tự say mê với chính mình. 40-65 tuổi (Trung niên) Sáng tạo và Trì trệ Generativity versus Stagnation Lứa tuổi trung niên là lứa tuổi mà phần lớn cá nhân đã có sự hoàn thiện về gia đình, nghề nghiệp, quan hệ xã hội ; tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống cũng như kinh nghiệm trong công việc. Đây là giai đoạn của tư duy sáng tạo, của sự hoàn thiện với tính độc lập cao, khả năng tự chủ và cống hiến cho khoa học cũng như cho gia đình và xã hội. Người ta muốn làm hoặc để lại một cái gì cho thế hệ mai sau.Nếu không được phát triển tốt, người ta sẽ có khuynh hướng ích kỉ và qui về cuộc sống cá nhân cho riêng mình hơn là cho người khác. Nếu như cá nhân trong giai đoạn này chưa đạt được các yêu cầu về gia đình, xã hội và nghề nghiệp, thì họ thường rơi vào tình trạng trì trệ, thường có cảm giác như không làm được việc gì đó quan trọng cho bản thân, gia đình và xã hội. Sau 65 tuổi Hoàn thành và Thất vọng Integrity versus Despair: Nhiệm vụ của giai đoạn này đảm bảo được tính nguyên vẹn, được định nghĩa là tuổi già thành công (successful aging): một quá trình
  • 29. Bài giảng Tâm lý học phát triển- ThS. Lê Thị Mai Liên Page 29 (Cao niên) thất vọng phản ánh sự đáp ứng có hiệu quả đối với những thay đổi, bệnh tật, và sự mất cân bằng của môi trường. Ở giai đoạn cuối của cuộc đời, con người phải đối mặt với sự suy tàn (cái chết…) và khuyết tật (bị bệnh, già yếu, không làm việc như trước đây, gia đình con cái thay đổi, cô đơn …). Nếu người già mãn nguyện với những gì họ đã đạt được ở các giai đoạn trước như sự nghiệp, gia đình, con cái,…thì họ hài lòng về những nhiệm vụ hoàn thành, thành công với việc làm chủ sự suy tàn, tận hưởng cuộc đời còn lại, họ cũng không day dứt khi cận kề cái chết. Ngược lại, những người thấy mình chưa làm được nhiều điều, chưa hoàn thành “nghĩa vụ” đối với gia đình và xã hội, khi về già họ thường kém thích nghi với những thay đổi, quá trình lão hóa ở họ diễn ra nhanh hơn và họ thường hối tiếc về quá khứ. 9. Học thuyết về sự phát triển nhận thức của Jean Piaget 9.1. Về tác giả Jean Piaget (9 tháng 8 1896 - 16 tháng 9 1980) là một nhà tâm lý học và triết học người Thụy Sĩ. Ông nổi tiếng về những nghiên cứu sự phát triển nhận thức của trẻ em. 9.2. Nội dung học thuyết Sự phát triển nhận thức của trẻ đi theo 4 thời kỳ: Thời kỳ giác động (khoảng từ sơ sinh đến 2 tuổi); Thời kỳ tiền thao tác (2-7 tuổi); Thời kỳ thao tác cụ thể (7-11 tuổi); Thời kỳ thao tác chính thức (11-15 tuổi). Mỗi một thời kỳ lại bao gồm nhiều giai đoạn biến đổi sinh động. 1. Thời kỳ giác động (Khoảng từ khi sinh đến 2 tuổi) Theo Piaget, con người bắt đầu cuộc sống với một loạt các phản xạ, và thừa kế những cách tương tác với môi trường. Những cách kế thừa tương tác đó dựa vào xu hướng suy nghĩ được tổ chức và thích nghi của môi trường đó. Bây giờ, chúng ta vạch ra việc xây dựng mô hình thế giới ở trẻ bé tí, bằng các hệ cảm giác(tri giác) và vận động( vận động cơ thể) - Em bé tiến lên, qua 6 giai đoạn để xây dựng hệ thống giác động của tư duy. - Giai đoạn 1: Biến đổi của những phản xạ Các phản xạ có tính chất bẩm sinh như mút, bấu, víu ... được phát động do sự kích thích của môi trường và chúng càng được lặp lại nhiều lần thì càng có hiệu lực hơn. Chúng ta có thể quan sát thấy, trẻ em lọt lòng có những hoạt động mang tính phản xạ bẩm sinh.