Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Quyền lập quy của Chính phủ, cho các bạn có thể tham khảo làm đề tài nghiên cứu
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Quyền lập quy của Chính phủ, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
_____________
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐÌNH HÀO
QUYỀN LẬP QUY
CỦA CHÍNH PHỦ
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
_____________
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐÌNH HÀO
QUYỀN LẬP QUY
CỦA CHÍNH PHỦ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 62 38 01 01.
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Những người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Thái Vĩnh Thắng;
2. TS. Trần Nho Thìn.
HÀ NỘI - 2011
3. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ........ 7
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về quyền lập pháp của
Quốc hội, quyền lập quy của Chính phủ và về vấn đề lập pháp ủy
quyền ………………………………………………………………………….7
1.1.1. Các công trình khoa học ở trong nƣớc ...........................................7
1.1.2. Các công trình ở nƣớc ngoài và bài viết về quyền lập quy và ủy
quyền lập pháp ở một số nƣớc ........................................................................ 12
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu quy định của pháp luật về quyền
lập quy của Chính phủ ...................................................................................18
1.2.1. Các giáo trình, tài liệu ..................................................................18
1.2.2. Chƣơng trình của Chính phủ nghiên cứu về đổi mới công tác xây
dựng, ban hành và nâng cao chất lƣợng văn bản quy phạm pháp luật .............18
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng quyền lập quy của
Chính phủ .......................................................................................................20
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ...........................................................................22
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN LẬP QUY CỦA CHÍNH
PHỦ................................................................................................................. 23
2.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm quyền lập quy của Chính phủ..... 23
2.1.1. Khái niệm lập quy, quyền lập quy, quyền lập quy của Chính
phủ.....................................................................................................................23
2.1.2. Bản chất quyền lập quy của Chính phủ....................................... 40
2.1.3. Đặc điểm quyền lập quy của Chính phủ.......................................42
2.2. Hình thức, nội dung quyền lập quy của Chính phủ........................45
2.2.1. Hình thức văn bản thể hiện quyền lập quy của Chính phủ ..........45
2.2.2. Nội dung, đặc điểm của các văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ .........................................................................................................54
2.3. Phân định nội dung quyền lập pháp của Quốc hội và quyền lập
quy của Chính phủ .........................................................................................66
2.4. Mối quan hệ quyền lập quy của Chính phủ với quyền lập pháp của
Quốc hội, quyền ban hành văn bản, ra quyết định của các cơ quan tư
pháp................................................................................................................. 73
2.4.1. Mối quan hệ quyền lập quy của Chính phủ với quyền lập pháp của
Quốc hội .......................................................................................................... 73
2.4.2. Mối quan hệ quyền lập quy của Chính phủ với quyền ban hành
văn bản, ra quyết định của các cơ quan tƣ pháp.............................................. 75
2.5. Quyền lập quy của Chính phủ một số nước trên thế giới ............. 77
2.5.1. Quyền lập quy của Chính phủ Hoa Kỳ........................................ 77
4. 2.5.2. Quyền lập quy của Quốc vụ viện (Chính phủ) Trung Quốc........ 82
2.5.3. Quyền lập quy của Chính phủ Liên bang Nga............................. 84
2.5.4. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam....................................... 88
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .......................................................................... 89
Chương 3. THỰC TRẠNG QUYỀN LẬP QUY CỦA CHÍNH PHỦ....... 90
3.1. Khái lược lịch sử quyền lập quy của Chính phủ ........................... 90
3.1.1. Quyền lập quy của Chính phủ từ năm 1945 đến năm 1959 ....... 90
3.1.2. Quyền lập quy của Chính phủ từ năm 1960 đến năm 1980 ....... 99
3.1.3. Quyền lập quy của Chính phủ từ năm 1980 đến năm 1992 ...... 107
3.2. Quyền lập quy của Chính phủ từ năm 1992 đến nay .................. 115
3.2.1. Thực trạng ................................................................................. 115
3.2.2. Những ƣu điểm và nguyên nhân của những ƣu điểm của quyền lập
quy của Chính phủ giai đoạn từ năm 1992 đến nay ...................................... 121
3.2.3. Những nhƣợc điểm và nguyên nhân của những nhƣợc điểm của
quyền lập quy của Chính phủ ........................................................................ 127
3.3. Giám sát, kiểm sát, kiểm tra quyền lập quy của Chính phủ giai
đoạn từ khi ban hành Hiến pháp 1992 đến nay ....................................... 145
3.3.1. Quy định của pháp luật về giám sát, kiểm sát, kiểm tra quyền lập
quy của Chính phủ ........................................................................................ 145
3.3.2. Thực trạng công tác giám sát, kiểm sát, kiểm tra quyền lập quy
của Chính phủ ............................................................................................... 150
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ......................................................................... 157
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN LẬP
QUY CỦA CHÍNH PHỦ ............................................................................ 158
4.1. Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện quyền lập quy của Chính
phủ ................................................................................................................ 158
4.1.1. Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân ................................................................................ 158
4.1.2. Xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa............................................................................................................... 163
4.1.3. Hội nhập khu vực và quốc tế .................................................... 164
4.2. Quan điểm hoàn thiện quyền lập quy của Chính phủ ................ 164
4.3. Các giải pháp hoàn thiện quyền lập quy của Chính phủ ............ 167
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ........................................................................ 176
KẾT LUẬN .................................................................................................. 177
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ..................................................................................................... 179
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 180
CÁC PHỤ LỤC I, II
5. NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Viết tắt Viết đầy đủ
HĐBT: Hội đồng Bộ trưởng
HĐCP: Hội đồng Chính phủ
HĐND: Hội đồng nhân dân
NXB: Nhà xuất bản
QPPL: quy phạm pháp luật
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
XHCN: xã hội chủ nghĩa
VBQPPL: văn bản quy phạm pháp luật
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
UBND: Ủy ban nhân dân
UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội
6. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Chính
phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nƣớc; bảo đảm hiệu lực của
bộ máy nhà nƣớc từ trung ƣơng đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp
hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật
quy định, Chính phủ thực hiện rất nhiều biện pháp, phƣơng pháp, hành động và
thẩm quyền khác nhau; trong đó có việc thực hiện quyền lập quy để ban hành
văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) dƣới luật nhằm quy định chi tiết thi
hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thƣờng vụ
Quốc hội (UBTVQH), lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc, điều ƣớc quốc tế mà
nƣớc ta ký kết hoặc gia nhập; góp phần quan trọng vào việc thể chế hoá đƣờng
lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công
dân. Các VBQPPL của Chính phủ trong những năm gần đây đƣợc ban hành
ngày càng nhiều về số lƣợng, có chất lƣợng về hình thức, nội dung ngày càng
đƣợc nâng cao và điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội trong tất cả lĩnh vực
quản lý nhà nƣớc. Trên thực tế, cùng với các văn bản pháp luật của Quốc hội,
UBTVQH, Chủ tịch nƣớc, các VBQPPL của Chính phủ đã và đang tạo nên một
hệ thống pháp luật mới của nƣớc ta, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập khu vực và quốc tế,
đảm bảo an ninh, quốc phòng, giữ vững trật tự, an toàn xã hội và xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam.
7. 2
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền lập quy của Chính phủ trong thời gian
qua còn có những nhƣợc điểm và đã đƣợc Nghị quyết số 55/2005/QH11 ngày
29/11/2005 của Quốc hội về kết quả giám sát việc ban hành VBQPPL của
Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối
cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) đánh giá: ''lãnh
đạo một số cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ soạn thảo dự thảo văn bản pháp luật
chƣa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ xây dựng
VBQPPL nhƣ là một trong những hoạt động chủ yếu của công tác quản lý nhà
nƣớc, là chức năng cơ bản của cơ quan nhà nƣớc, nên chƣa đầu tƣ thích đáng
thời gian, công sức cho việc thực hiện nhiệm vụ này. Do đó, việc ban hành
thƣờng không kịp thời, một số dự thảo văn bản không đạt yêu cầu''. Ngoài ra,
có một số trƣờng hợp các VBQPPL của Chính phủ trái với luật, pháp lệnh và
văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên, mâu thuẫn, chồng chéo, không phù
hợp với thực tế cuộc sống, gây khó khăn cho hoạt động của công dân và tổ
chức. Pháp luật hiện hành chƣa phân định rõ nội dung quyền lập pháp và
quyền lập quy; Hiến pháp, pháp luật chƣa quy định về lập pháp ủy quyền, dẫn
đến tình trạng cơ quan hành pháp lấn sân cơ quan lập pháp hoặc ngƣợc lại.
Vì vậy, ''Quyền lập quy của Chính phủ'' đƣợc chọn làm đề tài của
Luận án này nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đánh giá một cách
có hệ thống và tƣơng đối toàn diện về quyền lập quy của Chính phủ trong thời
gian qua, đồng thời, đƣa ra các quan điểm và kiến nghị các giải pháp nhằm
hoàn thiện quyền lập quy của Chính phủ.
2. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quyền lập quy của Chính phủ, thực trạng
quyền lập quy của Chính phủ và đƣa ra các quan điểm, kiến nghị các giải pháp
hoàn thiện quyền lập quy của Chính phủ.
b) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8. 3
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền lập
quy (theo nghĩa hẹp), quyền lập quy của Chính phủ (theo nghĩa rộng) và lập
pháp ủy quyền.
Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian của đề tài Luận án là thực
trạng quyền lập quy của Chính phủ từ khi thành lập nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hoà ngày 02/9/1945 đến hết ngày 31/12/2009 thông qua các VBQPPL do
tập thể Chính phủ, ngƣời đứng đầu Chính phủ và ngƣời đứng đầu các cơ quan
của Chính phủ ban hành. Trong đó, Luận án tập trung phân tích những thành tựu,
những nhƣợc điểm và nguyên nhân của những thành tựu, những nhƣợc điểm
trong việc thực hiện quyền lập quy của Chính phủ trong thời gian 07 năm từ
ngày 01/01/2003 đến hết ngày 31/12/2009. Luận án cũng nghiên cứu các quy
định hiện hành của Hiến pháp, luật, pháp luật một số nƣớc trên thế giới về lập
pháp uỷ quyền, quyền lập quy của Chính phủ và hoạt động lập quy của Chính
phủ Liên bang Nga.
c) Nhiệm vụ
- Phân tích các quan điểm, khái niệm khác nhau về lập quy, quyền lập
quy, lập pháp ủy quyền.
- Làm rõ khái niệm, bản chất, đặc điểm quyền lập quy của Chính phủ.
- Nghiên cứu hình thức, nội dung quyền lập quy của Chính phủ.
- Nghiên cứu các quan điểm về việc phân định nội dung quyền lập pháp
của Quốc hội và quyền lập quy của Chính phủ.
- Nghiên cứu quan hệ quyền lập quy của Chính phủ với quyền lập pháp
của Quốc hội, quyền ban hành văn bản, ra quyết định của cơ quan tƣ pháp.
- Nghiên cứu quyền lập quy của Chính phủ một số nƣớc trên thế giới để
từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
- Khái lƣợc lịch sử quyền lập quy của Chính phủ từ khi thành lập nƣớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 02/9/1945 đến trƣớc khi ban hành Hiến pháp
1992; thực trạng quyền lập quy của Chính phủ từ năm 1992 đế nay.
- Đƣa ra những quan điểm và kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện
quyền lập quy của Chính phủ.
9. 4
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
a) Phƣơng pháp luận. Việc nghiên cứu đề tài luận án sử dụng phƣơng
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phƣơng pháp duy vật biện chứng đƣợc áp dụng trong nghiên cứu mối
quan hệ biện chứng giữa quyền lập pháp của Quốc hội với quyền lập quy của
Chính phủ và trong mối quan hệ với quyền tƣ pháp. Quyền lập pháp của Quốc
hội quy định hình thức các VBQPPL của Chính phủ, thủ tục, phƣơng pháp
thực hiện quyền lập quy của Chính phủ. Các VBQPPL của Chính phủ quy định
chi tiết, hƣớng dẫn thi hành và đƣa các văn bản thuộc quyền lập pháp vào cuộc
sống. Chính phủ đƣợc ban hành các quy định thuộc lĩnh vực lập pháp khi đƣợc
UBTVQH ủy quyền. Các cơ quan của Chính phủ không chỉ quy định chi tiết,
hƣớng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên, mà
còn giải thích việc áp dụng các quy định của luật, pháp lệnh trong lĩnh vực tƣ
pháp hoặc liên tịch với các cơ quan tƣ pháp ở trung ƣơng ban hành VBQPPL
liên tịch để áp dụng trong hoạt động của các cơ quan tƣ pháp.
Phƣơng pháp duy vật lịch sử đƣợc áp dụng trong việc nghiên cứu quyền
lập quy của Chính phủ trong từng giai đoạn cụ thể của nƣớc ta kể từ khi thành
lập nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 02/9/1945 cho đến nay. Các
VBQPPL của Chính phủ đƣợc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện trong
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Vì vậy, việc xem xét, đánh giá các văn bản đó
cũng phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của việc xây dựng, ban hành
từng văn bản.
b) Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể. Trên cơ sở phƣơng pháp luận, việc
nghiên cứu đề tài luận án có sử dụng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ: phƣơng
pháp tổng hợp, so sánh, đối chiếu, phân tích pháp luật thực định….
Luận án đã tổng hợp, trình bày các quy định của pháp luật về thẩm
quyền, hình thức, nội dung, thủ tục xây dựng, ban hành VBQPPL của Chính
phủ ở nƣớc ta từ ngày 02/9/1945 cho đến nay.
Luận án đã so sánh, đối chiếu, phân tích hình thức, nội dung, quy trình
xây dựng, ban hành VBQPPL của Chính phủ qua các thời kỳ để thấy sự thay
đổi về hình thức, thẩm quyền, nội dung, quy trình ban hành của các văn bản đó.
10. 5
Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích quy định của pháp luật về xây
dựng, ban hành, giám sát, kiểm sát, kiểm tra, xử lý các VBQPPL của Chính
phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ; đã đánh
giá, phân tích ƣu điểm, nhƣợc điểm trong công tác lập quy của Chính phủ, chỉ
ra nguyên nhân, đề ra các quan điểm và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao
chất lƣợng thực hiện quyền lập quy của Chính phủ.
4. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
- Luận án đã đƣa ra đƣợc khái niệm quyền lập quy ở nghĩa rộng và nghĩa
hẹp và quyền lập quy của Chính phủ ở nghĩa rộng và nghĩa hẹp; đã chỉ ra đƣợc
sự giống nhau và khác nhau giữa quyền lập quy và lập pháp ủy quyền.
- Luận án đã chỉ ra đƣợc bản chất, đặc điểm của quyền lập quy của
Chính phủ; đã phân tích hình thức, nội dung của quyền lập quy của Chính phủ;
đã nêu lên sự cần thiết phải phân định rõ nội dung quyền lập pháp và quyền lập
quy; đã trình bày mối quan hệ giữa quyền lập quy với quyền lập pháp và quyền
ra quyết định, bản án của các cơ quan tƣ pháp.
- Luận án đã nghiên cứu quyền lập quy của Chính phủ một số nƣớc trên
thế giới để từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
- Luận án đã phân tích và đánh giá một cách có hệ thống, khá đầy đủ và
tƣơng đối toàn diện về thực trạng quyền lập quy của Chính phủ, đã chỉ ra đƣợc
những ƣu điểm, nhƣợc điểm, nguyên nhân của những ƣu điểm, nhƣợc điểm
của quyền lập quy của Chính phủ kể từ khi có Hiến pháp 1992, đặc biệt là
trong thời gian 07 năm từ khi Luật ban hành VBQPPL năm 1996 đƣợc sửa đổi,
bổ sung năm 2002 có hiệu lực từ ngày 01/01/2003 và Luật ban hành VBQPPL
năm 2008 có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2009.
- Luận án đề xuất một số quan điểm, kiến nghị các giải pháp nhằm từng
bƣớc hoàn thiện quyền lập quy của Chính phủ, trong đó, có kiến nghị sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp năm 1992, các VBQPPL hiện hành, ban hành các VBQPPL
mới và các giải pháp khác.
11. 6
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Với những kết quả đạt đƣợc, Luận án có đóng góp đáng kể trong việc bổ
sung, phát triển và làm phong phú thêm lý luận về quyền lập quy của Chính
phủ thuộc chuyên ngành Lý luận và Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật. Các kết
quả nghiên cứu của Luận án có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo có giá
trị đối với các cán bộ, công chức, viên chức đang trực tiếp tham gia vào quá
trình soạn thảo, trình cấp có thẩm quyền ban hành các VBQPPL của Chính phủ;
đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể làm tài liệu tham
khảo cho công tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy về pháp luật và thực hiện
pháp luật; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nƣớc ta hiện nay.
6. Bố cục của Luận án
Luận án gồm:
- Mở đầu;
- Nội dung gồm bốn chƣơng: Chƣơng 1. Tổng quan về tình hình nghiên
cứu đề tài; Chƣơng 2. Cơ sở lý luận về quyền lập quy của Chính phủ; Chƣơng
3. Thực trạng quyền lập quy của Chính phủ; Chƣơng 4. Quan điểm và giải
pháp hoàn thiện quyền lập quy của Chính phủ.
- Kết luận;
- Danh mục tài liệu tham khảo và các Phụ lục.
12. 7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Các vấn đề nhƣ khái niệm, nội dung của quyền lập pháp, quyền lập quy,
lập pháp ủy quyền, mối quan hệ giữa quyền lập pháp và quyền lập quy, thực
trạng quyền lập quy và giám sát, kiểm soát quyền lập quy đã đƣợc các nhà
khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn ở trong và ngoài nƣớc nghiên cứu ở các
khía cạnh khác nhau. Qua tổng hợp tài liệu, có thể chia các công trình nghiên
cứu về các vấn đề nêu trên theo các nhóm dƣới đây.
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về quyền lập pháp của
Quốc hội, quyền lập quy của Chính phủ và về lập pháp ủy quyền
1.1.1. Các công trình khoa học ở trong nước
1. Trong sách chuyên khảo ''Tăng cƣờng pháp chế XHCN trong hoạt
động lập pháp, lập quy ở Việt Nam hiện nay'' [32] do Nhà xuất bản (NXB)
Chính trị quốc gia xuất bản năm 2006, TS. Đỗ Ngọc Hải đã đƣa ra khái niệm
quyền lập pháp, quyền lập quy và trình bày những cơ sở, đặc điểm của hoạt
động lập pháp, lập quy ở Việt Nam. Theo TS. Đỗ Ngọc Hải, hoạt động lập
pháp, lập quy ở Việt Nam có những đặc điểm sau đây [32, tr. 31 - 43]:
Một là, hoạt động lập pháp, lập quy mang tính tất yếu khách quan.
Hai là, hoạt động lập pháp, lập quy là hoạt động thể hiện quyền lực nhà
nƣớc.
Ba là, hoạt động lập pháp, lập quy là hoạt động xây dựng pháp luật
mang tính nhân dân, tính dân chủ sâu sắc.
Bốn là, hoạt động lập pháp, lập quy tạo ra những VBQPPL hàm chứa
những quy phạm mang tính phổ biến, tính bắt buộc chung, chặt chẽ về mặt
hình thức, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
13. 8
Năm là, hoạt động lập pháp, lập quy phải phù hợp với các điều ƣớc quốc
tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
Sáu là, hoạt động lập pháp, lập quy là hoạt động trí tuệ, sáng tạo pháp
luật.
Bảy là, hoạt động lập pháp, lập quy đóng vai trò quan trọng trong cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nƣớc quản lý, nhân dân làm chủ.
2. Trong sách chuyên khảo ''Quốc hội Việt Nam trong nhà nƣớc pháp
quyền'' [44] do PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội xuất bản năm 2007, các tác giả đã nghiên cứu các vấn đề nhƣ: nhà
nƣớc pháp quyền và những đòi hỏi của nhà nƣớc pháp quyền; địa vị pháp lý,
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội Việt Nam. Theo các tác giả, những đòi hỏi
đối với Quốc hội Việt Nam trong việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền nhƣ:
quyền lập pháp không chỉ bao gồm việc thảo luận và ban hành các văn bản
chứa đựng quy phạm pháp luật (QPPL), mà còn cả những hoạt động khác tạo
nên nền tảng sinh hoạt hợp pháp của các cơ quan cấu thành của một nhà nƣớc
dân chủ; Quốc hội không những chỉ biết cách lập pháp - làm luật, phải còn biết
cách thực hiện chức năng giám sát, với mục tiêu đảm bảo sự trong sạch và tính
chịu trách nhiệm của bộ máy nhà nƣớc (nhất là của bộ máy hành pháp); thực
hiện sự phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa lập pháp, hành pháp và tƣ pháp,
các đại biểu Quốc hội không thể kiêm nhiệm các nhiệm vụ hành pháp hoặc tƣ
pháp, hoặc các nhiệm vụ chuyên môn khác và dần dần trở thành các đại biểu
chuyên nghiệp có kỹ năng; trong một nhà nƣớc pháp quyền, rất khác với trƣớc
đây Quốc hội phải bị giới hạn quyền lực bằng hoạt động tƣ pháp.
3. Trong sách chuyên khảo ''Chính phủ trong nhà nƣớc pháp quyền''[45],
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2008, PGS. TS. Nguyễn Đăng
Dung đã nghiên cứu các đặc điểm và mô hình của Chính phủ - hành pháp trong
nhà nƣớc pháp quyền; trong đó, Chính phủ không chỉ tổ chức thực hiện các
văn bản lập pháp, mà còn là trung tâm của bộ máy nhà nƣớc có trách nhiệm tạo
điều kiện cho việc hoàn thành các quyền lập pháp và tƣ pháp; Chính phủ -
hành pháp chỉ làm những gì mà thị trƣờng không có khả năng đảm nhiệm,
trọng tâm là tạo ra nền móng các thể chế pháp luật cho thị trƣờng và xã hội
14. 9
hoạt động. Về yêu cầu đối với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, Chính phủ
Việt Nam không những có trách nhiệm điều hành theo Hiến pháp và luật, mà
còn phải hoạch định chính sách quốc gia tạo cơ sở cho sự phát triển nền kinh tế
thị trƣờng thông qua hoạt động trình các dự án luật trƣớc Quốc hội; Chính phủ
là một tập thể thống nhất dƣới sự lãnh đạo của Thủ tƣớng cùng chịu trách
nhiệm, từng thành viên Chính phủ phải chịu trách nhiệm về từng lĩnh vực quản
lý của mình, Thủ tƣớng là ngƣời cuối cùng chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của Chính phủ và mọi hành vi của Chính phủ không thể đặt ngoài vòng xét xử
của toà án.
4. Trong sách tham khảo ''Mô hình tổ chức và phƣơng thức hoạt động
của Quốc hội và Chính phủ trong nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam'' [30]
do NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 2008, GS. TS. Trần Ngọc Đƣờng và
TS. Ngô Đức Mạnh đã nghiên cứu: cơ sở lý luận của việc đổi mới mô hình tổ
chức và phƣơng thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong nhà nƣớc
pháp quyền XHCN Việt Nam; thực trạng mô hình tổ chức và phƣơng thức hoạt
động của Quốc hội và Chính phủ ở nƣớc ta; việc hoàn thiện mô hình tổ chức
và phƣơng thức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ theo yêu cầu xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền XHCN.
Trong điều kiện phát triển nền kinh thế thị trƣờng và xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền, Chính phủ có các chức năng quản lý nhà nƣớc gồm các nội dung
chủ yếu nhƣ sau:
- Hoạch định chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch định hƣớng phát triển các
ngành, lĩnh vực, các khu vực, vùng lãnh thổ, các địa phƣơng trong cả nƣớc.
- Xây dựng, ban hành VBQPPL, chính sách, chế độ, thể lệ tạo khuôn
khổ pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Chỉ đạo tổ chức thực hiện chiến lƣợc, quy hoạch, chính sách, pháp luật.
- Điều tiết, can thiệp bằng các biện pháp hành chính (là chủ yếu) vào các
hoạt động của các ngành, các lĩnh vực khi cần thiết, nhằm bảo vệ đƣợc các
mục tiêu, các định hƣớng chính trị - kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
15. 10
- Kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ, thể lệ
và việc thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc quy hoạch của các ngành, lĩnh vực
kinh tế - xã hội [30, tr. 122 - 123].
Về quyền lập quy của Chính phủ, các tác giả cho rằng, ''với vai trò là cơ
quan hành chính (hành pháp) nhà nƣớc cao nhất mà Chính phủ có quyền ban
hành các văn bản pháp quy trong trƣờng hợp không có quy phạm cụ thể của
lập pháp, hoặc lập pháp còn ở dạng quy tắc chung, muốn thực hiện đƣợc phải
có văn bản hƣớng dẫn thi hành của Chính phủ. Thông qua việc ban hành văn
bản pháp quy mà làm cho Chính phủ khác với cơ quan hành chính nhà nƣớc
cấp dƣới và khác với các cơ quan tƣ pháp'' [30, tr. 336] và ''với năng lực quản
lý, điều tiết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, cần tăng cƣờng thẩm
quyền và nâng cao chất lƣợng lập quy của Chính phủ đáp ứng tính năng động
của thị trƣờng và tạo môi trƣờng cho các yếu tố thị trƣờng hình thành và phát
triển đúng hƣớng'' [30, tr. 483].
5. Trong sách tham khảo ''Những góc nhìn lập pháp'', NXB chính trị
quốc gia xuất bản năm 2006, tác giả Bùi Ngọc Sơn đã nghiên cứu lập pháp ở
các khía cạnh nhƣ: lập pháp nhìn từ lập pháp, lập pháp nhìn từ triết học, lập
pháp nhìn từ lịch sử và lập pháp nhìn từ văn hóa. Theo tác giả, lập pháp từ góc
nhìn lập pháp thì ''quyền lập pháp là quyền giám sát hành pháp. Từ đó, có thể
dẫn đến kết luận: chức năng chính của Quốc hội trong một nền pháp quyền là
giám sát hành pháp. Tuy nhiên, giám sát ở đây đƣợc hiểu là chính hành vi lập
pháp của Quốc hội chứ không phải đƣợc hiểu nhƣ lâu nay là một trong những
chức năng của Quốc hội.
Chỉ khi nào Quốc hội giám sát chính sách của Chính phủ có hiệu quả thì
luật ban hành ra mới đƣợc cuộc sống chấp nhận và khi đó cũng không phải làm
khó cho Chính phủ phải ban hành các văn bản hƣớng dẫn các đạo luật'' [67, tr.
18 - 19].
Về phạm vi của quyền lập pháp, tác giả cho rằng phạm vi quyền lập
pháp của Quốc hội rất rộng, gần nhƣ không có giới hạn. Việc mở rộng phạm vi
quyền lập pháp ở nƣớc ta có cơ sở từ nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà
nƣớc. Vì Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất, là nơi thống nhất
16. 11
quyền lực nên quyền lập pháp của Quốc hội không bị giới hạn. Xét về mặt lý
thuyết, việc quyền lập pháp không có giới hạn cụ thể chƣa thể hiện đƣợc yêu
cầu của Điều 2 Hiến pháp Việt Nam hiện hành về xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền và phân công quyền lực. Về bản chất, nhà nƣớc pháp quyền là một nhà
nƣớc mà quyền lực của nó bị giới hạn vì lợi ích của nhân dân. Do đó, không
thể một ngành nào của chính quyền mà quyền lực lại không có phạm vi xác
định. Hơn nữa, tƣ duy phân công, phân nhiệm quyền lực giữa ngành lập pháp,
hành pháp và tƣ pháp cũng đặt ra cho chúng ta vấn đề phải phân định phạm vi
của quyền lập pháp của Quốc hội và phạm vi của quyền lập quy của Chính phủ
[67, tr. 28 - 29].
Về những thẩm quyền mang tính hành pháp của Quốc hội Việt Nam, tác
giả cho rằng Điều 109 Hiến pháp 1992 không ghi nhận Chính phủ là cơ quan
hành pháp đƣợc lý giải là quyền hành pháp không chỉ do Chính phủ thực hiện
mà cả Quốc hội cũng thực hiện quyền này. Quốc hội thực hiện quyền hành
pháp khi thực hiện các nhiệm vụ quy định tại Điều 84 Hiến pháp 1992 đã đƣợc
sửa đổi, bổ sung năm 2001 nhƣ: quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của đất nƣớc; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định
chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nƣớc; quyết định chính sách
cơ bản về đối ngoại; quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình.
6. Tại Chƣơng V Giáo trình Lý luận nhà nƣớc và pháp luật, NXB Giao
thông vận tải xuất bản năm 2009, GS. TS. Phạm Hồng Thái và PGS. TS. Đinh
Văn Mậu nhận định: ''Lý luận pháp luật XHCN trƣớc đây cho rằng pháp luật là
hệ thống các QPPL đƣợc ban hành trên cơ sở luật và để thực hiện luật, gồm
các quy phạm luật và quy phạm dƣới luật'' [69, tr. 325]. Theo lý luận trên đây
thì các quy phạm luật do cơ quan lập pháp ban hành, các quy phạm dƣới luật
do cơ quan hành pháp ban hành; nhƣng lý luận và pháp luật thực định của các
nƣớc XHCN trƣớc đây chƣa phân định rõ nội dung của việc ban hành quy
phạm luật và nội dung của việc ban hành quy phạm dƣới luật, dẫn đến sự lẫn
lộn giữa lập pháp và hành pháp trong xây dựng, ban hành VBQPPL.
Về việc phân định lập pháp, lập quy, GS. TS. Phạm Hồng Thái và PGS.
TS. Đinh Văn Mậu cho rằng ''nguyên tắc phân định quyền lập pháp và quyền
17. 12
lập quy bằng phƣơng pháp loại trừ; nghĩa là quy định những lĩnh vực bắt buộc
lập pháp... ngoài những lĩnh vực đƣợc quy định cụ thể nêu trên là thuộc quyền
lập quy''[69, tr. 325] và các lĩnh vực cần đƣợc quy định bằng luật nhƣ sau: (1)
tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc cấp cao và cơ quan nhà nƣớc ở
địa phƣơng; (2) bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các
cấp; (3) những vấn đề chủ yếu, quan trọng của hoạt động công vụ, công chức;
(4) những vấn đề quản lý ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Chính phủ; (5)
những vấn đề quan trọng nhất liên quan cụ thể hoặc hạn chế quyền tự do, lợi
ích, nghĩa vụ của công dân đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp; (6) định ra các loại
thuế, ngân sách; (7) quy định về tội phạm, hình phạt và tố tụng hình sự; (8) quy
định những vấn đề chủ yếu về quyền sở hữu, về dân sự, lao động, đất đai; (9)
quy định về các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân; (10) quy định
về chủ quyền quốc gia, bảo vệ lãnh thổ và quan hệ quốc tế... [69, tr. 330 - 331].
7. Về nội dung quyền lập quy, trong giáo trình Luật hiến pháp (quyển II)
xuất bản năm 1973 tại Sài Gòn, GS. Nguyễn Độ, nguyên Khoa trƣởng Luật
khoa Đại học Sài Gòn, Luật sƣ Toà thƣợng thẩm Sài Gòn cho rằng:
- Thủ tƣớng có quyền lập quy rất quan trọng và rộng rãi. Rộng rãi vì tất
cả các hoạt động trong Quốc gia cũng nhƣ các cơ cấu quốc gia trên toàn lãnh
thổ đều thuộc quyền hạn tổng quát của Thủ tƣớng.
- Về quyền lập quy của Thủ tƣớng có một vấn đề tế nhị là cần phải ấn
định một ranh giới rõ rệt về ba khía cạnh, đối với phạm vi các đạo luật, đối với
các quyền lập quy của Tổng thống và đối với quyền lập quy của các Tổng
trƣởng [28, tr. 170 - 172].
1.1.2. Các công trình ở nước ngoài và bài viết về quyền lập quy và ủy
quyền lập pháp ở một số nước
1. Trong công trình ''Mối tƣơng quan giữa luật và VBQPPL dƣới luật
của Liên bang Nga'' trên Internet [147] (Соотношение закона и
подзаконного нормативного правового акта РФ), tác giả X. A. Ivanov đã
nghiên cứu:
- Khái niệm và các hình thức VBQPPL dƣới luật ở Liên bang Nga.
18. 13
- Những cơ sở lý luận - pháp lý của mối tƣơng quan giữa luật và
VBQPPL dƣới luật nhƣ: những khía cạnh cơ bản của mối tƣơng quan giữa luật
và VBQPPL dƣới luật; những khía cạnh quy phạm của mối tƣơng quan giữa
luật và VBQPPL dƣới luật; các hình thức phát triển và cụ thể hoá các quy định
của luật trong VBQPPL dƣới luật.
a) Về khái niệm, theo X. A. Ivanov, VBQPPL dƣới luật là một loại
VBQPPL do cơ quan có thẩm quyền ban hành trên cơ sở và để thi hành luật,
phù hợp với luật, để cụ thể hoá hơn nữa và phát triển luật.
VBQPPL dƣới luật có những đặc trƣng nhƣ:
Thứ nhất, Hiến pháp, luật, VBQPPL khác quy định cơ quan nhất định có
thẩm quyền ban hành VBQPPL trên cơ sở luật, theo phạm vi thẩm quyền và
các hình thức VBQPPL phù hợp với thẩm quyền này.
Thứ hai, khi xác định hiệu lực pháp lý và cơ sở ban hành VBQPPL dƣới
luật thƣờng sử dụng các công thức pháp lý đặc biệt nhƣ: ''trên cơ sở và để thi
hành luật'', ''không đƣợc trái luật'', ''phù hợp với luật'' v. v… Các công thức này
có các nghĩa khác nhau, quy định các mức độ phụ thuộc khác nhau của
VBQPPL dƣới luật vào luật.
Thứ ba, các quy phạm của luật đƣợc thực hiện gián tiếp thông qua việc
tái tạo, bổ sung, cụ thể hoá, phát triển, chi tiết hoá và các hình thức khác trong
các VBQPPL dƣới luật.
Thứ tư, VBQPPL dƣới có thủ tục ban hành, công bố và có hiệu lực đơn
giản hơn so với luật; vì vậy, các văn bản này phản ứng nhanh, nhạy và hiệu
quả hơn đối với những thay đổi của hiện thực cuộc sống.
Thứ năm, cơ quan ban hành VBQPPL dƣới luật ban hành quy phạm phái
sinh khi có quy phạm cơ bản của luật để phát triển hơn nữa các quy phạm của
luật bằng quy phạm của VBQPPL dƣới luật.
Thứ sáu, VBQPPL dƣới luật có nhiều loại khác nhau đƣợc quy thành
một nhóm theo ƣớc lệ, có hiệu lực pháp lý khác nhau, có tên gọi và hình thức
ban hành khác nhau.
Thứ bảy, hệ thống các VBQPPL dƣới luật có cấu trúc thứ bậc đƣợc hình
thành không chỉ trên cơ sở thứ bậc của các cơ quan mà còn trên cơ sở quy định
19. 14
của các VBQPPL do cơ quan này hoặc cơ quan khác ban hành trong hệ thống
tất cả các VBQPPL của Liên bang Nga.
Vì vậy, các hình thức khác nhau của VBQPPL dƣới luật có hiệu lực
pháp lý khác nhau, hình thức khác nhau, nhƣng tất cả các văn bản này đều nằm
trong sự phụ thuộc về thứ bậc đối với luật. Tuy nhiên, tính dƣới luật của nhóm
VBQPPL này không có nghĩa là chúng không có tính bắt buộc chung về mặt
pháp lý. Cũng nhƣ luật, tất cả các văn bản này đều có hiệu lực pháp lý, có tính
bắt buộc thi hành. Sự khác nhau ở đây là hiệu lực pháp lý của VBQPPL dƣới
luật không tối thƣợng nhƣ luật. Sự phụ thuộc về thứ bậc và về nội dung của
VBQPPL dƣới luật vào luật thể hiện ở chỗ luật điều chỉnh những quan hệ xã
hội quan trọng nhất (sự điều chỉnh thứ nhất); những quan hệ xã hội còn lại
đƣợc các VBQPPL khác có hiệu lực pháp lý thấp hơn điều chỉnh (sự điều
chỉnh thứ hai).
b) Những khía cạnh cơ bản của mối tƣơng quan giữa luật và VBQPPL
dƣới luật là:
Khía cạnh thứ nhất, đó là việc xác định mức độ phụ thuộc của các
VBQPPL dƣới luật vào luật; trong đó, phải định rõ vị trí của mỗi loại VBQPPL
dƣới luật trong thứ bậc hiệu lực pháp lý của các VBQPPL; phải định rõ
VBQPPL dƣới luật gần hay xa so với luật; văn bản nào ở vị trí trung gian và
mối tƣơng quan của văn bản trung gian này với luật. Việc xem xét khía cạnh
này chỉ ra mối tƣơng quan giữa các văn bản về hiệu lực pháp lý và mức độ phụ
thuộc của VBQPPL dƣới luật vào luật.
Khía cạnh thứ hai của mối tƣơng quan giữa luật và VBQPPL dƣới luật là
việc xác định cơ sở và phạm vi của việc thông qua các VBQPPL dƣới luật.
Xuất phát từ vị trí phụ thuộc về hiệu lực pháp lý của VBQPPL dƣới luật và
tính phụ thuộc của chúng vào luật, tất cả các VBQPPL dƣới luật chỉ đƣợc ban
hành khi có luật đã có hiệu lực pháp luật. Trong khi đó, khác với VBQPPL
dƣới luật, luật đƣợc ban hành khi không có bất cứ văn bản nào, mà ''từ chỗ
trống''.
Khía cạnh thứ ba của mối tƣơng quan giữa luật và VBQPPL dƣới luật là
việc xác định đối tƣợng điều chỉnh của luật và VBQPPL dƣới luật. Đối tƣợng
20. 15
điều chỉnh của luật và VBQPPL dƣới luật đƣợc xác định bởi: thứ nhất, do Hiến
pháp và luật đặc biệt quy định bằng cách chỉ rõ những vấn đề thuộc đối tƣợng
điều chỉnh của từng loại VBQPPL; thứ hai, trong luật có thể có ủy quyền cho
cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản về những vấn đề cụ thể trong một
thời hạn nhất định; thứ ba, xuất phát từ thẩm quyền đã đƣợc quy định, sau khi
luật đƣợc thông qua, cơ quan nhà nƣớc có thể ban hành VBQPPL dƣới luật để
thực hiện các quy định của luật trong khi luật không quy định về vấn đề này.
Mỗi khía cạnh trong ba khía cạnh nêu trên không thể tồn tại độc lập,
không thể tách rời nhau, mà chúng có quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau.
c) Những khía cạnh quy phạm của mối tƣơng quan giữa luật và
VBQPPL dƣới luật là:
- VBQPPL dƣới luật đƣợc ban hành theo công thức ''trên cơ sở và để thi
hành luật''. Công thức này không chỉ nêu lên sự phụ thuộc của VBQPPL dƣới
luật vào luật mà còn xác định cơ sở ban hành VBQPPL dƣới luật là luật.
- Đặc điểm của mối tƣơng quan giữa luật và VBQPPL dƣới luật đƣợc
thể hiện bằng công thức là: VBQPPL dƣới luật ''không đƣợc trái luật''. Nếu
phát hiện sự mâu thuẫn giữa VBQPPL nào đó, ví dụ: sắc lệnh của Tổng thống
với luật liên bang thì vấn đề đƣợc giải quyết theo luật liên bang. Công thức
VBQPPL dƣới luật ''phải phù hợp với luật'' quy định cơ sở và phạm vi ban
hành các VBQPPL cụ thể có hiệu lực pháp lý thấp hơn.
- Mối quan hệ thứ bậc giữa các VBQPPL thể hiện ở chỗ: các VBQPPL
có vị trí nhất định trong hệ thống các VBQPPL và không đƣợc chứa các QPPL
mâu thuẫn với các QPPL của các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn.
- Các VBQPPL dƣới luật ''phải phù hợp với luật'' có sự phụ thuộc ít hơn
so với văn bản đƣợc ban hành ''trên cơ sở và để thi hành luật''. Đối tƣợng điều
chỉnh của VBQPPL dƣới luật đƣợc ban hành theo công thức ''phải phù hợp với
luật'' không đƣợc xác định rõ.
d) Các hình thức phát triển và cụ thể hoá các quy định của luật trong
VBQPPL dƣới luật
Khoa học pháp lý phân chia nhiều hình thức khác nhau của mối tƣơng
quan giữa các quy phạm của văn bản có giá trị pháp lý cao hơn với quy phạm
21. 16
của văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn. Tuy nhiên, có hai hình thức cơ bản
của mối tƣơng quan này là phát triển và cụ thể hóa; các hình thức tái tạo, chi
tiết hóa và các hình thức khác chỉ là biến thể của hai hình thức này. Việc sử
dụng các hình thức phát triển và cụ thể hóa các quy định của luật là để thực
hiện một số quy định nhất định của luật. Nhờ các hình thức này mà trong các
quy phạm của VBQPPL dƣới luật có vô số các chi tiết khác nhau, các đặc
trƣng, các đặc điểm của các quan hệ xã hội vì nguyên nhân khách quan không
đƣợc tính đến ngay từ đầu trong khuôn khổ các quy định của luật.
Tóm lại, X. A. Ivanov đã nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về
VBQPPL dƣới luật ở Liên bang Nga nhƣ: khái niệm, đặc trƣng của VBQPPL
dƣới luật; những khía cạnh cơ bản và những khía cạnh quy phạm của mối
tƣơng quan giữa luật và VBQPPL dƣới luật và các hình thức phát triển và cụ
thể hoá các quy định của luật trong VBQPPL dƣới luật.
2. Luận án Phó tiến sỹ luật học của Xvetlana Ivanova Arefina với đề tài
"Những cơ sở hiến định của lập pháp ủy quyền'' [143] (Конституционные
основы делегированного законодательства) bảo vệ tại Khoa Quản lý nhà
nƣớc Trƣờng Đại học tổng hợp quốc gia Maxcva mang tên M. V. Lomonoxop
năm 2003. Mục đích nghiên cứu của Luận án này là:
- Làm rõ khái niệm và nội dung của chế định lập pháp ủy quyền;
- Xác định nguyên nhân xuất hiện chế định lập pháp ủy quyền có tính
đến kinh nghiệm lịch sử;
- Làm rõ các hình thức và phƣơng pháp thực hiện lập pháp ủy quyền,
giới hạn của lập pháp ủy quyền;
- Kiến nghị việc áp dụng chế định lập pháp ủy quyền trong giai đoạn
hiện nay.
Luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu nhƣ:
- Phân tích các cách tiếp cận khái niệm lập pháp ủy quyền, điều kiện
thực hiện chế định này ở các nƣớc khác nhau.
- So sánh pháp luật của Liên bang Nga và pháp luật nƣớc ngoài và các
phƣơng án áp dụng chế định này ở nƣớc ngoài và Liên bang Nga.
22. 17
- Nghiên cứu các hình thức khác nhau của lập pháp ủy quyền, đƣa ra
kiến nghị về việc hoàn thiện và xây dựng các mô hình lập pháp ủy quyền có
thể áp dụng đƣợc.
Luận án đã bảo vệ các quan điểm sau đây:
- Lập pháp ủy quyền là hoạt động của cơ quan quyền lực công trên cơ sở
ủy quyền của Nghị viện về việc ban hành VBQPPL điều chỉnh các quan hệ xã
hội thuộc thẩm quyền của Nghị viện theo những điều kiện nhất định.
- Điều chủ yếu trong lập pháp ủy quyền là ý chí của Nghị viện trao thẩm
quyền của mình.
- Lập pháp ủy quyền là sự phát sinh từ thực tiễn hiến pháp và nhƣ là hậu
quả, nó trở thành phƣơng tiện tác động tích cực lẫn nhau giữa Nghị viện và
Chính phủ.
- Chế định lập pháp ủy quyền không vƣợt ra khỏi học thuyết phân chia
quyền lực mà nó bổ sung một cách hữu cơ vào học thuyết này, trở thành một
phần của luật hiến pháp. Rất nhiều văn bản thuộc lập pháp ủy quyền là nguồn
quan trọng của pháp luật.
- Lập pháp ủy quyền không đƣợc trở thành công cụ tăng cƣờng quyền
hành pháp bằng cách làm suy yếu Nghị viện.
- Trong quá trình thực hiện các chức năng của mình, các chủ thể quyền
lực có thể gặp những khó khăn nhất định mà để giải quyết các khó khăn đó các
chủ thể này cần phải có các nhiệm vụ, quyền hạn bổ sung, do đó, họ thƣờng đề
nghị Nghị viện. Việc áp dụng chế định lập pháp ủy quyền cho phép đảm bảo
tối ƣu hóa quản lý nhà nƣớc. Ngoài ra, chế định lập pháp ủy quyền còn tăng
cƣờng sự kiểm soát của Nghị viện đối với các cơ quan đƣợc ủy quyền.
Các công trình nêu trên đã nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền lập
pháp, quyền lập quy của Chính phủ theo hƣớng:
- Khái niệm quyền lập pháp, lập pháp ủy quyền, quyền lập quy; giải
thích nguồn gốc lập pháp ủy quyền, quyền lập quy ở nƣớc ta và các nƣớc trên
thế giới.
- Phạm vi của quyền lập pháp; sự cần thiết phải phân định nội dung
quyền lập pháp với nội dung của quyền lập quy trong nhà nƣớc pháp quyền.
23. 18
- Mối tƣơng quan giữa các luật của Nghị viện với các VBQPPL dƣới
luật; nội dung quyền lập quy của cơ quan hành pháp.
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu quy định của pháp luật về
quyền lập quy của Chính phủ
1.2.1. Các giáo trình, tài liệu
Các quy định của pháp luật về thẩm quyền, hình thức, nội dung, thủ tục
xây dựng, ban hành văn bản thuộc quyền lập quy nói chung và quyền lập quy
của Chính phủ nói riêng đã đƣợc các giáo trình, các sách chuyên khảo nghiên
cứu ở các khía cạnh khác nhau và ở từng thời điểm khác nhau trong những
năm gần đây. Đây là những tài liệu quan trọng trong việc nghiên cứu pháp luật
thực định về quyền lập quy của Chính phủ. Đó là: giáo trình Luật hành chính
của Khoa Luật trƣờng đại học Tổng hợp Hà Nội xuất bản năm 1994; các giáo
trình Luật hành chính của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội do NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội xuất bản vào các năm 2000 và 2005; giáo trình Luật
Hành chính của PGS. TS. Nguyễn Cửu Việt do NXB Chính trị Quốc gia xuất
bản năm 2008; sách chuyên khảo ''Hƣớng dẫn soạn thảo văn bản lập quy'' của
TS. Lƣu Kiếm Thanh, giảng viên Khoa văn bản và Công nghệ hành chính Học
viện hành chính quốc gia do NXB Thống kê xuất bản năm 2003; tài liệu bồi
dƣỡng nghiệp vụ ''Xây dựng VBQPPL'' và ''Đổi mới công tác xây dựng, ban
hành và nâng cao chất lƣợng VBQPPL'' của Bộ Tƣ pháp do NXB Tƣ pháp xuất
bản năm 2008 v. v...
1.2.2. Chương trình của Chính phủ nghiên cứu về đổi mới công tác
xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng VBQPPL
Ngày 14/8/2003, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định số 909/QĐ-
TTg phê duyệt Chƣơng trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao
chất lƣợng VBQPPL.
Chƣơng trình này gồm các đề án nhƣ: Đề án 1 ''Đổi mới quy trình lập dự
kiến chƣơng trình xây dựng VBQPPL dài hạn và hàng năm''; Đề án 2 ''Hoàn
thiện quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính
phủ, các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ''; Đề án 3 ''Xây dựng quy
24. 19
trình xây dựng, ban hành VBQPPL của HĐND và UBND''; Đề án 4 ''Tăng
cƣờng năng lực của các cơ quan và công chức trực tiếp tham gia vào công tác
xây dựng, ban hành VBQPPL''; Đề án 5 ''Xây dựng cơ chế huy động có hiệu
quả sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực
tiễn và nhân dân vào quá trình xây dựng và ban hành VBQPPL''.
Bộ Tƣ pháp và Văn phòng Chính phủ đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ giao
nhiệm vụ nghiên cứu các đề án thuộc Chƣơng trình nêu trên. Mục tiêu của Đề
án 2 là đổi mới cơ bản quy trình xây dựng và ban hành VBQPPL của Chính
phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ nhằm
nâng cao chất lƣợng và đẩy nhanh tốc độ ban hành VBQPPL; bảo đảm tính
công khai, phát huy rộng rãi trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học,
những ngƣời trực tiếp chịu sự điều chỉnh của các QPPL và nhân dân vào quá
trình xây dựng, ban hành VBQPPL của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ
trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ.
Đề án 2 đã phân tích, đánh giá quy định của pháp luật (đến thời điểm
cuối năm 2006) về quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL của Chính phủ, Thủ
tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ và thực trạng của
việc thực hiện quy trình đó trong những năm qua, chỉ ra những ƣu điểm, nhƣợc
điểm và nguyên nhân của những nhƣợc điểm trong quy trình và việc thực hiện
quy trình nói trên.
Các đề án thuộc Chƣơng trình này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
quy định của pháp luật, việc thực hiện các quy định của pháp luật và đƣa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL của
Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ.
Các công trình nêu trên nghiên cứu quy định của pháp luật về quyền lập
quy của Chính phủ theo hƣớng:
- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật về quyền lập quy của Chính
phủ, bao gồm: hình thức, nội dung, quy trình xây dựng, ban hành các VBQPPL
của Chính phủ;
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về hình
thức, nội dung và quy trình xây dựng, ban hành các VBQPPL của Chính phủ.
25. 20
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng quyền lập quy
của Chính phủ
Những nội dung trái pháp luật, không khả thi trong các VBQPPL của
Chính phủ đƣợc các nhà khoa học, các luật gia, các nhà quản lý phản ánh rất
nhiều trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng trong những năm gần đây.
Những ý kiến trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng về những quy định trái
pháp luật, không khả thi trong các VBQPPL của Chính phủ đƣợc các cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền nghiên cứu, xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc tiến hành
kiểm tra, xử lý theo thẩm quyền và mang lại hiệu quả rất tích cực khi các quy
định đó bị đình chỉ thi hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ hoặc bãi bỏ. Đó
là các bài: ''Hạn chế đăng ký xe máy: Trái luật và không hiệu quả'' trên báo
điện tử VietnamNet ngày 21/10/2005; bài ''68 văn bản trái với Luật cƣ trú cần
sửa đổi, bãi bỏ'' của tác giả Khiết Hƣng trên báo Tuổi trẻ điện tử ngày
13/07/2007; ''Hai nghị định của Chính phủ có nhiều nội dung trái luật và pháp
lệnh'' trên báo Tiền phong điện tử ngày 20/6/2007; ''12% số văn bản kiểm tra
có dấu hiệu trái luật'' trên báo Lao Động điện tử ngày 22/11/2008; ''Những
Công văn "siêu" luật'' trên tạp chí Thời báo Kinh tế Sài Gòn điện tử; ''Những
vấn đề lý luận và thực tiễn xoay quanh ý nghĩa giải thích pháp luật của thông
tƣ'' của TS. Nguyễn Ngọc Điện trong Kỷ yếu hội thảo ''Giải thích pháp luật -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn''; ''Về tính hợp pháp, hợp lý trong quyết định
quản lý nhà nƣớc hiện nay'' của ThS. Trần Văn Duy trên tạp chí Nghiên cứu
lập pháp số 148 tháng 6/2009; ''Nghị định hƣớng dẫn quan trọng hơn luật?'' của
GS. TS. Nguyễn Vân Nam trên tạp chí ''thesaigontimes'' điện tử; ''Lại một công
văn sửa nghị định!'' của luật gia Vũ Xuân Tiền trên Tạp chí ''thesaigontimes''
điện tử; ''Các bất cập trong văn bản thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2005'' của
Trần Huỳnh Thanh Nghị trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử; bài ''1 thông
tƣ, 2 cách hiểu'' của Ngô Thiệu Phong trên báo Ngƣời đại biểu nhân dân điện
tử; ''Một nghị định vô hiệu hóa một định chế'' của các tác giả Nguyễn Ngọc
Bích - Ngô Duy Minh trên Tạp chí ''thesaigontimes'' điện tử; ''Không thể sửa
luật bằng nghị định'' của Luật sƣ Trƣơng Thanh Đức trên Tạp chí
26. 21
''thesaigontimes'' điện tử ngày 13/4/2010; ''Khó xử lý nhà trái phép vì Thông
tƣ'' của tác giả Phong Khê trên Báo mới điện tử ngày 17/09/2009 v. v…
Các công trình, bài báo nêu trên đã nêu lên thực trạng công tác lập quy
của Chính phủ trong một số trƣờng hợp cụ thể, nhƣng chƣa chỉ ra đƣợc nguyên
nhân của những nhƣợc điểm và chƣa đƣa ra đƣợc các giải pháp nhằm nâng cao
chất lƣợng và hiệu quả việc thực hiện quyền lập quy của Chính phủ.
27. 22
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Tổng quan các tài liệu, công trình nêu trên nghiên cứu về quyền lập
pháp, quyền lập quy của Chính phủ, theo tác giả Luận án, các công trình nêu
trên đã nghiên cứu:
1. Một số vấn đề lý luận về quyền lập pháp, quyền lập quy nhƣ khái
niệm quyền lập pháp, lập pháp ủy quyền, quyền lập quy; giải thích nguồn gốc
lập pháp ủy quyền, quyền lập quy ở nƣớc ta và các nƣớc trên thế giới; phạm vi
của quyền lập pháp; sự cần thiết phải phân định nội dung quyền lập pháp với
nội dung của quyền lập quy trong nhà nƣớc pháp quyền.
2. Các quy định của pháp luật về hình thức, thẩm quyền, nội dung của
các VBQPPL của Chính phủ.
3. Đánh giá quyền lập quy của Chính phủ trên một số mặt nhất định nhƣ
những ƣu điểm và đặc biệt là những nhƣợc điểm của quyền lập quy của Chính
phủ trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, cho đến nay, chƣa có công trình nào ở trong nƣớc và ở nƣớc
ngoài nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện ở tầm luận án tiến sỹ về
cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền lập quy của Chính phủ. Vì vậy, đề tài
''Quyền lập quy của Chính phủ'' là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu
một cách có hệ thống và tƣơng đối toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về
quyền lập quy của Chính phủ trên cơ sở kế thừa và phát triển các kết quả
nghiên cứu của các công trình nêu trên.
28. 23
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN LẬP QUY
CỦA CHÍNH PHỦ
2.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm quyền lập quy của Chính phủ
2.1.1. Khái niệm lập quy, quyền lập quy, quyền lập quy của Chính phủ
2.1.1.1. Khái niệm lập quy, quyền lập quy
Lập quy là hoạt động xây dựng, ban hành hoặc liên tịch ban hành QPPL
dƣới luật của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền theo thủ tục, trình tự, hình thức
văn bản do pháp luật quy định trên cơ sở và để thi hành các QPPL trong các
văn bản do cơ quan lập pháp hoặc cơ quan nhà nƣớc cấp trên ban hành. Cơ
quan nhà nƣớc chỉ đƣợc lập quy khi đƣợc pháp luật quy định. Pháp luật quy
định cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành QPPL dƣới luật là trao thẩm
quyền đặc biệt cho cơ quan đó - quyền lập quy, quyền ban hành các QPPL
dƣới luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Mục đích
của lập quy và thực hiện quyền lập quy là ban hành hoặc liên tịch ban hành
QPPL dƣới luật nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa QPPL của cơ quan lập pháp hoặc
cơ quan nhà nƣớc cấp trên để thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc trong
phạm vi cả nƣớc, từng ngành, lĩnh vực hoặc từng địa phƣơng.
Hiện nay, trong các từ điển, tài liệu, văn bản pháp luật ở trong nƣớc và
nƣớc ngoài có những định nghĩa khác nhau về lập quy, quyền lập quy.
Lập quy là từ Hán - Việt, theo đó, ''lập'' là dựng nên [53, tr. 191]; ''quy''
là ''cái compa'' và ''chữ quy mang nghĩa là ban hành phép tắc'' [53, tr. 241]. Tức
là, lập quy là việc ban hành quy tắc. ''Quyền'' với nghĩa là ''quyền lực'' [53, tr.
244]; do đó, quyền lập quy là quyền ban hành quy tắc.
Ở nƣớc ngoài, theo Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, từ
''regulation'' - nghĩa là ''quy định'' [35, tr. 795]; theo đó, ban hành ''quy định'' là
hoạt động lập quy của cơ quan hành pháp. Trong tiếng Anh có các cụm từ nhƣ:
29. 24
''rule-making'', ''issue regulation'', ''make regulation'' có nghĩa là ''lập quy'' và
các cụm từ ''power to make regulation'', ''authority to make rules'' tức là ''quyền
lập quy''.
Trong tiếng Nga, có các cụm từ ''подзаконное правотворчество'',
''подзаконное нормотворчество'', ''Правоустановительное подзаконное
правотворчество'' tức là: ''hoạt động ban hành VBQPPL dƣới luật''; hoặc các
cụm từ ''нормоустановительная деятельность'', ''нормоустанавливающая
деятельность'' và từ ''нормоустановление'' nghĩa là ''lập quy'' và cụm từ
''регламентарная власть'' nghĩa là ''quyền lập quy''.
Theo Tiến sỹ khoa học pháp lý, Viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm khoa
học Liên Xô trƣớc đây (nay là Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga) X. X.
Alecxeiev thì VBQPPL dƣới luật là ''VBQPPL của cơ quan có thẩm quyền
đƣợc ban hành trên cơ sở luật và không trái luật'' [144, tr. 226].
Mặc dù không định nghĩa về quyền lập quy, nhƣng Khoản 3 Điều 1 Luật
về VBQPPL của nƣớc Cộng hoà Kazakhxtan ngày 24/3/1998 định nghĩa
''VBQPPL dƣới luật không phải là văn bản lập pháp mà là văn bản đƣợc ban
hành trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp và các luật của nƣớc Cộng hoà
Kazakhxtan'' [155].
Về lập quy và quyền lập quy, chúng tôi thấy rằng: lập quy là khái niệm
chỉ hoạt động xây dựng, ban hành hoặc liên tịch ban hành QPPL dƣới luật của
cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền theo thủ tục, hình thức văn bản do pháp luật
quy định; còn quyền lập quy là khái niệm chỉ thẩm quyền của cơ quan nhà
nƣớc trong việc xây dựng, ban hành hoặc liên tịch ban hành QPPL dƣới luật
đƣợc nghiên cứu ở dƣới đây.
Nghiên cứu các tài liệu trong nƣớc và nƣớc ngoài cho thấy, hiện nay, có
ba quan điểm sau đây về lập quy và quyền lập quy:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, lập quy, quyền lập quy là quyền ban hành
VBQPPL dƣới luật của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền do pháp luật quy
định. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, lập quy là ''hoạt động thể hiện quyền
lực nhà nƣớc bằng ban hành VBQPPL dƣới luật của các cơ quan chính quyền
và quản lý các cấp'' [57, tr. 661]. Định nghĩa nêu trên của Từ điển Bách khoa
30. 25
Việt Nam đã chỉ ra đƣợc lập quy là hoạt động thể hiện quyền lực nhà nƣớc
thông qua việc ban hành các VBQPPL dƣới luật của các cơ quan chính quyền
và quản lý các cấp. Có nhiều cơ quan chính quyền (lập pháp, hành pháp, tƣ
pháp) ở các nƣớc nói chung và ở nƣớc ta nói riêng nhƣng Từ điển này đã
không nêu rõ đó là những cơ quan nào trong hệ thống các cơ quan chính quyền
nhà nƣớc có thẩm quyền lập quy. TS. Đỗ Ngọc Hải cho rằng: ''Lập quy là một
hình thức hoạt động quản lý Nhà nƣớc của các cơ quan hành pháp và một số
cơ quan Tƣ pháp thông qua hoạt động xây dựng và ban hành các VBQPPL
thuộc thẩm quyền theo luật định. Các văn bản của hoạt động lập quy nhằm cụ
thể hóa Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội …'' [32, tr. 21]. Quan điểm
này đã nêu đƣợc chủ thể, mục đích của hoạt động lập quy nhƣng chƣa nêu
đƣợc vị trí của văn bản thuộc quyền lập quy là VBQPPL dƣới luật. Từ điển
Giải thích thuật ngữ pháp lý định nghĩa quyền lập quy là ''quyền đƣợc ban
hành các văn bản dƣới luật của các cơ quan hành pháp Trung ƣơng (Chính phủ,
Thủ tƣớng Chính phủ, các Bộ trƣởng…), HĐND và các cơ quan hành pháp địa
phƣơng (Ủy ban nhân dân - UBND, Chủ tịch UBND)'' [40, tr. 344]. Trong
định nghĩa nêu trên còn thiếu các chủ thể khác có thẩm quyền lập quy theo quy
định của pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng quyền lập quy rất rộng, bao gồm quyền ban
hành VBQPPL dƣới luật và quyền ban hành văn bản về những vấn đề thuộc
thẩm quyền quyết định của cơ quan lập pháp đƣợc cơ quan lập pháp ủy quyền,
tức là lập pháp ủy quyền (ủy quyền trực tiếp). Từ điển Hành chính định nghĩa
quyền lập quy là ''quyền ban hành các VBQPPL dƣới luật của các cơ quan
hành chính nhà nƣớc có thẩm quyền. Trong trƣờng hợp đƣợc cơ quan lập pháp
ủy quyền, quyền này còn bao gồm việc ban hành các văn bản dƣới luật có tính
chất luật thuộc quyền lập pháp'' [31, tr. 211]. Định nghĩa trên đây cho thấy chỉ
cơ quan hành chính mới có thẩm quyền lập quy; trên thực tế ở Việt Nam và
các nƣớc, không chỉ cơ quan hành chính mới có thẩm quyền lập quy mà các cơ
quan khác của nhà nƣớc cũng có thẩm quyền lập quy. Cũng theo định nghĩa
trên đây thì quyền lập quy còn bao gồm cả lập pháp ủy quyền.
31. 26
Quan điểm thứ ba gần giống với quan điểm thứ nhất, nhƣng cho rằng,
quyền lập quy là hình thức ủy quyền lập pháp gián tiếp, tức là Nghị viện ban
hành luật có những quy định khái quát, mang tính nguyên tắc chung và ''ngầm''
giao cho Chính phủ quyền quy định chi tiết thi hành. Trong Từ điển pháp luật
(tiếng Nga), cụm từ ''делегированное законодательство'' có nghĩa là ''lập
pháp ủy quyền'', theo đó, ở một số quốc gia, chính phủ (Pháp, Italia, Tây ban
nha, Balan v. v...) hoặc nguyên thủ quốc gia (Belarus, Kazakhxtan, Kƣrgƣxtan)
''ban hành VBQPPL trên thực tế có hiệu lực nhƣ luật theo sự ủy quyền của
nghị viện. Việc ủy quyền cho chính phủ (nguyên thủ quốc gia) có thể đƣợc
thực hiện bằng việc nghị viện thông qua luật về quyền của chính phủ (nguyên
thủ quốc gia) ban hành VBQPPL thuộc lập pháp ủy quyền về những vấn đề
nhất định trong khoảng thời gian đƣợc xác định cụ thể. Ngoài ra, việc lập pháp
ủy quyền có thể đƣợc hiểu là khi nghị viện ban hành luật có những quy định
chung (''luật khung'') và không thể thực hiện đƣợc nếu không có văn bản pháp
luật thích ứng của cơ quan hành pháp'' [145, tr. 130]. Theo định nghĩa trên đây
thì lập pháp ủy quyền là nguyên thủ quốc gia hoặc cơ quan hành pháp đƣợc
Nghị viện ủy quyền ban hành VBQPPL có hiệu lực nhƣ luật về những vấn đề
nhất định thuộc thẩm quyền quyết định của Nghị viện, trong khoảng thời gian
nhất định theo thủ tục do Nghị viện quy định rất chặt chẽ - đây là hình thức ủy
quyền trực tiếp. Ngoài ra, lập pháp ủy quyền còn đƣợc hiểu là Nghị viện ban
hành luật ''khung'' và ngầm giao cho cơ quan hành pháp ban hành văn bản dƣới
luật quy định chi tiết thi hành luật ''khung'' - đây là hình thức ủy quyền gián
tiếp. Tức là, có hai cách ủy quyền lập pháp là ủy quyền trực tiếp và ủy quyền
gián tiếp.
Nhƣ vậy, các quan điểm nêu trên cho thấy chƣa có định nghĩa, khái
niệm thống nhất về lập quy và quyền lập quy. Quan điểm thứ nhất chỉ nêu lập
quy, quyền lập quy có phạm vi hẹp là quyền ban hành VBQPPL dƣới luật;
quan điểm thứ hai cho rằng quyền lập quy có phạm vi rất rộng, bao gồm quyền
ban hành VBQPPL dƣới luật và văn bản thuộc lập pháp ủy quyền; còn quan
điểm thứ ba cũng gần giống với quan điểm thứ nhất, cho rằng quyền lập quy là
lập pháp ủy quyền gián tiếp. Các quan điểm nêu trên đều cho rằng quyền lập
32. 27
quy là quyền ban hành VBQPPL dƣới luật; trong khi đó, VBQPPL dƣới luật
chỉ là hình thức thể hiện quyền lập quy, là hình thức pháp lý chứa đựng QPPL
dƣới luật do quyền lập quy ban hành. Chƣa có quan điểm nào trong các quan
điểm nêu trên đề cập đến việc liên tịch ban hành QPPL của cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Về lập pháp ủy quyền gián tiếp, có
ý kiến cho rằng: ''nếu coi bất cứ hoạt động lập quy nào của Chính phủ cũng là
lập pháp ủy quyền thì khái niệm này đã đƣợc mở quá rộng và nó sẽ mất các
đặc trƣng cụ thể, do đó, nó mất tính định hƣớng'' [143, tr. 24 - 25].
Lập pháp ủy quyền là một chế định rất phức tạp, có lịch sử hình thành và
phát triển hàng trăm năm nay trên thế giới, đƣợc hiểu và áp dụng rất khác nhau
ở các nƣớc và ở nƣớc ta. Theo sách ''Một số thuật ngữ hành chính'' thì có tới
hơn 4000 cách hiểu và giải thích khác nhau về ủy quyền và ủy quyền đƣợc
thực hiện trong rất nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực lập pháp, ''ủy quyền là
chuyển giao một số quyền lập pháp cho Chính phủ'' [95, tr. 52]. Về tổng quát,
''ủy quyền là sự trao một số quyền năng của chủ thể này cho chủ thể khác, nhân
danh mình để thực hiện một số công việc nhất định'' [95, tr. 52] và từ cách hiểu
đó, sách nêu trên đã đƣa ra khái niệm ủy quyền nhƣ sau: ''Ủy quyền là hành vi
pháp lý của một chủ thể (cơ quan, tổ chức, cá nhân), trao cho một chủ thể khác
một hoặc một số quyền để nhân danh mình thực hiện (một lần hoặc lâu dài)
một số công việc nhất định'' [95, tr. 53].
Trong tiếng Anh có các cụm từ nhƣ: ''delegated legislation'', ''delegated
legislative powers'', ''delegation of legislative power'', có nghĩa là ''lập pháp ủy
quyền'', hoặc cụm từ ''delegate power to make law'' có nghĩa là ''ủy quyền lập
pháp''. Trong tiếng Nga có các cụm từ nhƣ: ''делегированное
законодательство'', ''делегированное правотворчество'', ''делегированное
нормотворчество'', có nghĩa là ''lập pháp ủy quyền'' hoặc сác cụm từ
''делегировать законодательствовать'', ''делегирование законодательных
полномочий'', ''делегация законодательных полномочий'', ''передача
законодательных полномочий'' có nghĩa là ''ủy quyền lập pháp''.
Nhƣ vậy, trong tiếng Anh và tiếng Nga, các cụm từ ''lập pháp ủy quyền''
là sự kết hợp giữa danh từ ''legislation'', ''законодательство'' [lập pháp] và tính
33. 28
động từ bị động ''delegated'', ''делегированное'' [đƣợc ủy quyền] và ''ủy quyền
lập pháp'' là sự kết hợp giữa động từ ''delegate'' [ủy quyền] với cụm từ ''power
to make law'' [quyền ban hành luật] hoặc động từ ''делегировать'' [ủy quyền]
với động từ ''законодательствовать'' [lập pháp]; cụm từ ''делегирование
законодательных полномочий'' có nghĩa là ''sự ủy quyền lập pháp'', là sự kết
hợp giữa danh từ ''sự ủy quyền'' [делегирование, делегация, передача] với
cụm từ ''thẩm quyền lập pháp'' [законодательные полномочия]. Các cụm từ
nêu trên có các cách diễn đạt ở từng ngữ cảnh khác nhau nhƣng đều có một
nghĩa chung là quy định của pháp luật về việc cơ quan lập pháp lập pháp ủy
quyền cho chủ thể nào đó đƣợc ban hành văn bản có nội dung thuộc quyền
quyết định của cơ quan lập pháp.
Qua nghiên cứu Hiến pháp, luật của một số nƣớc trên thế giới về lập
pháp ủy quyền và quyền lập quy, có thể chia thành các nhóm nƣớc nhƣ sau:
Thứ nhất, Hiến pháp của một số nƣớc nhƣ Liên bang Nga, Cộng hòa
Ucraina v. v… không quy định lập pháp ủy quyền, mà chỉ quy định quyền lập
quy của nguyên thủ quốc gia và cơ quan hành pháp các cấp hoặc cấm ủy quyền
và nếu có ủy quyền thì chỉ đƣợc ủy quyền trong các trƣờng hợp rất hạn chế và
theo các thủ tục rất phức tạp (Điều 49 Hiến pháp Mexico).
Thứ hai, Hiến pháp của một số nƣớc không quy định lập pháp ủy quyền,
nhƣng lập pháp ủy quyền đƣợc quy định trong luật khác nhƣ: Phần 5 quy định
về tổ chức Chính phủ và nhân sự Chính phủ trong Luật của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ [132]; Điều 8 Luật lập pháp nƣớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm
2000 [172]; Luật ban hành văn bản thực thi luật năm 1946 của Vƣơng quốc
Anh (Statutory Intsrument Act 1946); Luật ban hành văn bản thực thi luật năm
1985 của Cananda (Statutory Intsrument Act 1985); Luật ban hành văn bản
thực thi luật năm 1992 của Australia (Statutory Intsrument Act 1992) v. v…
Thứ ba, những nƣớc có Hiến pháp quy định về lập pháp ủy quyền và quá
trình thực hiện lập pháp ủy quyền; cụ thể nhƣ: các Điều 76, 77 Hiến pháp Italia
ngày 27/12/1947 [138]; các Điều 82, 83 Hiến pháp Tây Ban Nha ngày
31/10/1978 [135]; Điều 38 Hiến pháp Cộng hòa Pháp ngày 04/10/1958 [133];
Điều 80 Luật Cơ bản [Hiến pháp] Cộng hoà liên bang Đức ngày 23/5/1949
34. 29
[134]; các điều từ Điều 184 đến 188 Hiến pháp Vƣơng quốc Thái Lan ngày
24/8/2007 [142] v. v…
Thứ tư, những nƣớc có Hiến pháp và luật (luật về VBQPPL) đều quy
định về lập pháp ủy quyền và quyền lập quy; cụ thể nhƣ: Điều 101 Hiến pháp
Belarus ngày 24/11/1996 [153] quy định ủy quyền lập pháp cho Tổng thống;
Luật về VBQPPL ngày 10/01/2000 của Belarus cho phép: Chính phủ ban hành
nghị định (Điều 17); các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành nghị định, chỉ thị
(Điều 18); Ngân hàng quốc gia nƣớc Cộng hoà Belarus ban hành nghị quyết;
các xôviết đại biểu địa phƣơng các cấp và cơ quan chấp hành địa phƣơng các
cấp ban hành quyết định. Hoặc Khoản 2 Điều 45 Hiến pháp Cộng hòa
Kazakhxtan ngày 30/8/1995 quy định ủy quyền lập pháp cho Tổng thống; Luật
về VBQPPL của nƣớc Cộng hòa Kazakhxtan ngày 24/3/1998 [155] quy định
quyền lập quy cho các chủ thể khác nhƣ: Tổng thống ban hành sắc lệnh; Chính
phủ ban hành nghị định; Hội đồng hiến pháp, Tòa án tối cao, Ủy ban bầu cử
trung ƣơng ban hành nghị quyết; Bộ trƣởng và ngƣời đứng đầu cơ quan nhà
nƣớc ở trung ƣơng ban hành chỉ thị; các cơ quan nhà nƣớc trung ƣơng ban
hành nghị quyết; chính quyền địa phƣơng (cơ quan đại diện và cơ quan hành
chính) ban hành quyết định, nghị quyết, chỉ thị.
Ở nƣớc ta, kể từ khi thành lập nƣớc ngày 02/9/1945 đến nay, do hoàn
cảnh lịch sử và do quan điểm về phân công chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc, Hiến pháp, pháp luật nƣớc ta chƣa
quy định về lập pháp ủy quyền. Điều 23 Hiến pháp 1946 quy định Nghị viện
''đặt ra các pháp luật'', Điều 44 Hiến pháp 1959 quy định ''Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập pháp của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà'', Điều 82
Hiến pháp 1980 quy định: ''Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và
lập pháp''; Điều 83 Hiến pháp 1992 quy định: ''Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập hiến và lập pháp''. Cho đến trƣớc khi ban hành Luật ban hành
VBQPPL năm 1996 và từ năm 1996 đến nay, Quốc hội chƣa ban hành luật nào
ủy quyền lập pháp cho Chính phủ.
Khoản 2 Bản phụ lục số 1 ban hành kèm theo Nghị định số 527/TTg
ngày 02/11/1957 của Thủ tƣớng Chính phủ quy định: trong thời gian giữa hai
35. 30
khoá họp của Quốc hội, Chính phủ trình Chủ tịch nƣớc ban hành sắc luật sau
khi Ban Thƣờng trực Quốc hội biểu quyết thoả thuận. Sắc luật phải đƣợc trình
Quốc hội vào khoá họp gần nhất để Quốc hội thông qua thành luật (Nghị quyết
ngày 14/9/1957 của Quốc hội chuẩn y Sắc luật số 003-SLT ngày 18/6/1957
quy định chế độ xuất bản; Nghị quyết ngày 14/8/1957 của Quốc hội chuẩn y
Sắc luật số 001/SLT ngày 19/4/1957 cấm chỉ mọi hành động đầu cơ về kinh tế,
sau khi sửa đổi và bổ sung điều 3 của Sắc luật v. v...). Sắc luật đƣợc ban hành
theo quy định trên đây có thể đƣợc xem là hình thức ủy quyền lập pháp nhƣng
quy định về ủy quyền lập pháp không đƣợc Quốc hội ban hành mà do Thủ
tƣớng Chính phủ ban hành tại Phụ lục kèm theo nghị định nên không có giá trị
pháp lý cao và không đƣợc tiếp tục khẳng định tại các Hiến pháp và các luật.
Khoản 4 Điều 91 Hiến pháp năm 1992 quy định UBTVQH có nhiệm vụ,
quyền hạn: ''ra pháp lệnh về những vấn đề đƣợc Quốc hội giao''. Về thứ bậc
hiệu lực pháp lý, pháp lệnh là VBQPPL dƣới luật do Quốc hội giao UBTVQH
ban hành về những vấn đề nhất định thuộc thẩm quyền lập pháp của Quốc hội.
Xét về nội dung và thẩm quyền, pháp lệnh là văn bản thuộc lập pháp ủy quyền.
Tuy nhiên, về mặt pháp lý, Hiến pháp và pháp luật nƣớc ta không quy định về
lập pháp ủy quyền. ''Giao'' ban hành pháp lệnh không có nghĩa là ủy quyền lập
pháp mặc dù pháp lệnh có hiệu lực nhƣ luật nhƣng không đƣợc Quốc hội công
nhận là có hiệu lực nhƣ luật vì nếu pháp lệnh có hiệu lực nhƣ luật thì pháp lệnh
phải đƣợc Quốc hội phê chuẩn thành luật. Quốc hội ''giao'' UBTVQH ban hành
pháp lệnh trong nghị quyết của Quốc hội về chƣơng trình xây dựng luật, pháp
lệnh dài hạn và hàng năm. Nếu theo quy định của pháp luật các nƣớc về lập
pháp ủy quyền thì nghị quyết của Quốc hội về chƣơng trình xây dựng luật,
pháp lệnh dài hạn và hàng năm trong đó có ''giao'' UBTVQH ban hành pháp
lệnh không phải là luật của Quốc hội ủy quyền lập pháp cho UBTVQH.
Về việc Chính phủ ban hành nghị định quy định những vấn đề cần thiết
nhƣng chƣa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu
cầu quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh tế, quản lý xã hội sau khi có sự đồng ý của
UBTVQH theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 56 Luật ban hành VBQPPL
năm 1996 và Khoản 4 Điều 14 Luật ban hành VBQPPL năm 2008: đây là
36. 31
những nghị định có nhiều cách gọi nhƣ nghị định ''không đầu'', nghị định ''độc
lập'' hay nghị định ''tiên phát'' vì các lĩnh vực quản lý nhà nƣớc mà các nghị
định này điều chỉnh khi chƣa có luật của Quốc hội hoặc pháp lệnh của
UBTVQH. Việc Chính phủ ban hành các nghị định này cũng không đƣợc Hiến
pháp và pháp luật quy định là lập pháp ủy quyền. Xét về nội dung và thẩm
quyền ban hành loại nghị định này, thì đây là các văn bản lập pháp ủy quyền
do Chính phủ ban hành nhƣng không phải ủy quyền từ cơ quan lập pháp mà là
ủy quyền từ cơ quan thƣờng trực của cơ quan lập pháp, tức là ủy quyền theo
kiểu ''bắc cầu''. Vì vậy, có ý kiến cho rằng cần phải thể hiện việc Quốc hội lập
pháp ủy quyền cho Chính phủ nhƣ sau: ''nghị định ủy quyền do Quốc hội giao
cụ thể cho Chính phủ, thể hiện trong chƣơng trình xây dựng pháp luật'' [54, tr.
184]. Về loại nghị định này, TS. Lê Văn Hoè cho rằng việc giao cho Chính
phủ ban hành văn bản thuộc lập pháp ủy quyền là ''bƣớc tiến lớn, có tính sáng
tạo của hoạt động lập pháp, giải toả đƣợc ''sức ép'' quá lớn đối với nhu cầu luật,
tạo ra đƣợc thế chủ động trong quản lý điều hành của Chính phủ'' [54, tr. 182].
Tuy nhiên, cũng có ý kiến ngƣợc lại, cho rằng: ''việc Chính phủ ban hành Nghị
định để điều chỉnh những vấn đề mới, cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý
nhà nƣớc nhƣng chƣa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh đã
đƣợc quy định trong Luật hiện hành'' [47, tr. 86]. Nhƣng đến nay, hệ thống
pháp luật về cơ bản đã đƣợc hình thành, làm căn cứ cho quản lý nhà nƣớc, vì
vậy, ''cần nghiên cứu để bỏ quy định vấn đề này trong Luật'' [47, tr. 87]. Chính
phủ ban hành nghị định ''độc lập'' để điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát
sinh nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nƣớc nhƣng chƣa đủ điều kiện xây
dựng thành luật hoặc pháp lệnh là cần thiết trong nhiều năm nữa. Ngay ở các
nƣớc tƣ bản phát triển hàng trăm năm nay, thì lập pháp ủy quyền cũng đang là
xu thế chung trong hoạt động xây dựng pháp luật của các nƣớc đó. Vấn đề ở
đây không phải bỏ quy định cho Chính phủ ban hành các nghị định loại này,
mà cần phải có cơ chế hợp lý để kiểm soát một cách có hiệu quả hoạt động lập
pháp ủy quyền của Chính phủ.
Nhƣ vậy, về mặt lý luận và thực tiễn, lập pháp ủy quyền ở nƣớc ta có
mâu thuẫn nhƣ sau: Hiến pháp, pháp luật không quy định về lập pháp ủy quyền,
37. 32
nhƣng bằng cách dùng các từ UBTVQH ''đồng ý'' để Chính phủ ban hành nghị
định quy định những vấn đề cần thiết nhƣng chƣa đủ điều kiện xây dựng thành
luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh tế,
quản lý xã hội, Quốc hội đã ''gián tiếp'' ủy quyền lập pháp cho Chính phủ. Hiến
pháp, luật không quy định rõ ràng về lập pháp ủy quyền dẫn đến việc không có
cơ chế kiểm soát một cách có hiệu quả đối với lập pháp ủy quyền đã và đang
diễn ra rất phổ biến ở nƣớc ta hiện nay, làm lẫn lộn giữa thẩm quyền lập pháp
và thẩm quyền lập quy.
Trên thực tế, ở nƣớc ta ủy quyền lập pháp cho Chính phủ đã đƣợc thực
hiện ngay sau khi Quốc hội Khoá I của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ban
hành Hiến pháp đầu tiên năm 1946; theo đó, tại Nghị quyết của kỳ họp thứ 2,
Quốc hội khóa I ngày 09/11/1946 đã quyết định: ''trong thời kỳ chƣa thi hành
đƣợc thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để
ban hành các sắc luật'' [64, tr. 102].
Căn cứ quy định nêu trên của Quốc hội, Chủ tịch Chính phủ đã ban hành
rất nhiều sắc lệnh, Thủ tƣớng Chính phủ, các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan
ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc Chính phủ đã ban hành rất nhiều nghị
định, thông tƣ, quyết định, chỉ thị để quản lý nhà nƣớc trong những vùng giải
phóng, lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi.
Những năm hoà bình lập lại sau khi ký Hiệp định Geneve năm 1954 cho
đến khi tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc và những năm trƣớc thời
kỳ bắt đầu sự nghiệp đổi mới thì công tác xây dựng pháp luật của nƣớc ta chủ
yếu do Chính phủ đảm nhiệm. Số lƣợng luật, pháp lệnh ban hành trong hơn
bốn mƣơi năm kể từ năm 1945 đến năm 1986 còn rất ít với 3 Hiến pháp, 32
luật và 36 pháp lệnh [8, T. I., tr. 16 - 21]. Trong các giai đoạn này, các Hiến
pháp, luật không quy định về lập pháp ủy quyền; do đó, Chính phủ không có
căn cứ pháp lý để trình Quốc hội hoặc UBTVQH cho phép lập pháp ủy quyền.
Vì vậy, ngoài rất ít các luật, pháp lệnh đã ban hành, Chính phủ đã xây dựng,
ban hành rất nhiều VBQPPL để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong rất nhiều
lĩnh vực. Rất nhiều văn bản trong số đó xét về nội dung và thẩm quyền là văn
bản thuộc lập pháp ủy quyền nhƣng không đƣợc ủy quyền. Trong thời kỳ đổi
38. 33
mới từ năm 1986 đến nay, công tác xây dựng, ban hành VBQPPL của Chính
phủ ngoài quyền lập quy thì lập pháp ủy quyền vẫn còn đƣợc thực hiện ở nhiều
lĩnh vực nhƣng ngày càng giảm vì số lƣợng luật, pháp lệnh trong những năm
gần đây ngày càng tăng.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc giai đoạn 7/1954 -
30/4/1975, có chế độ Việt Nam Cộng hoà tồn tại ở miền nam nƣớc ta. Hiến
pháp Việt Nam Cộng hoà ngày 26/10/1956 (nền cộng hoà thứ nhất) của chế độ
Ngô Đình Diệm quy định về các trƣờng hợp lập pháp ủy quyền nhƣ sau:
Thứ nhất, giữa hai khoá họp của Quốc hội, vì lý do khẩn cấp, Tổng
thống có thể ký sắc luật và sắc luật này phải đƣợc chuyển đến Văn phòng Quốc
hội ngay sau khi ký. Trong kỳ họp thƣờng lệ kế tiếp nếu Quốc hội không bỏ
phiếu bác bỏ, sắc luật ấy sẽ đƣợc coi nhƣ các đạo luật (Điều 41).
Thứ hai, trong tình trạng khẩn cấp, chiến tranh, nội loạn, khủng hoảng
kinh tế hoặc tài chính, Quốc hội có thể biểu quyết một đạo luật ủy quyền cho
Tổng thống trong một thời gian, với những hạn định rõ, quyền ký các sắc luật
để thực hiện chính sách mà Quốc hội ấn định trong đạo luật ủy quyền. Các sắc
luật phải đƣợc chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi ký; 30 ngày sau
khi mãn thời hạn đã ấn định trong đạo luật ủy quyền, nếu Quốc hội không bác
bỏ, các sắc luật ấy sẽ đƣợc coi nhƣ các đạo luật (Điều 42).
Thứ ba, Tổng thống có thể ký các sắc luật ngân sách nếu ngân sách
không đƣợc Quốc hội quyết định trƣớc ngày 31/12 hàng năm (Điều 43).
Thứ tư, trong tình trạng khẩn cấp, Tổng thống có thể ký sắc lệnh tuyên
bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm trong một hay nhiều vùng;
các sắc lệnh này có thể tạm đình chỉ sự áp dụng một hoặc nhiều đạo luật tại
những vùng đó (Điều 44) [28, tr. 197 - 198].
Nhƣ vậy, theo quy định trên đây của Hiến pháp, Tổng thống có thể ban
hành các văn bản lập pháp ủy quyền là sắc luật có hiệu lực nhƣ luật và sắc lệnh
có thể tạm đình chỉ một hoặc nhiều đạo luật tại những vùng đƣợc tuyên bố tình
trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm.
Hiến pháp ngày 01/4/1967 của Việt Nam Cộng hoà (nền cộng hoà thứ
hai) không có điều, khoản nào quy định về lập pháp ủy quyền cho Tổng thống.
39. 34
Tuy nhiên, ngày 28/6/1972, Quốc hội đã thông qua luật số 005/72 ủy quyền
cho Tổng thống quyết định và ban hành bằng sắc luật các biện pháp cần thiết
trong các lãnh vực an ninh, quốc phòng, kinh tế, tài chánh. Căn cứ luật này,
ngày 20/12/1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký 05 sắc luật ban hành
05 bộ luật nhƣ: Sắc luật số 026/TT/SLU ban hành bộ Hình luật; Sắc luật số
027/TT/SLU ban hành bộ Luật Hình sự tố tụng; Sắc luật số 028/TT/SLU ban
hành bộ Dân luật; Sắc luật số 029/TT/SLU ban hành bộ Luật Thƣơng Mại; và
Sắc luật số 030/TT/SLU ban hành bộ Luật Dân sự và Thƣơng sự Tố Tụng [50,
tr. 36 - 37].
Việc Quốc hội Việt Nam Cộng hoà ban hành luật ủy quyền lập pháp
cho Tổng thống đƣợc coi là hành vi vi hiến và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
căn cứ vào luật vi hiến để ký các sắc luật ban hành 05 luật nêu trên cũng đƣợc
coi là hành vi vi hiến và đã bị các nghị sỹ, các luật gia phản đối.
Các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện lập pháp ủy quyền của
chế độ Việt Nam Cộng hoà là những tƣ liệu để chúng ta nghiên cứu.
Lập pháp ủy quyền và quyền lập quy có điểm giống nhau ở chỗ đó là
thẩm quyền ban hành VBQPPL dƣới luật của cơ quan không thực hiện chức
năng lập pháp; nhƣng quyền lập quy khác với lập pháp ủy quyền nhƣ sau:
Thứ nhất, về thẩm quyền lập quy, có nhiều cơ quan nhà nƣớc (ngoài
Nghị viện) từ trung ƣơng đến địa phƣơng có thẩm quyền lập quy để quy định
chi tiết các luật do cơ quan lập pháp ban hành; về lập pháp ủy quyền, chỉ
những cơ quan nhà nƣớc nhất định (chủ yếu là Chính phủ) đƣợc Nghị viện ủy
quyền tại một luật và theo những thủ tục nhất định mới đƣợc ban hành văn bản
thuộc lập pháp ủy quyền.
Thứ hai, về nội dung, văn bản thuộc quyền lập quy quy định các vấn đề
thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền lập quy và có hiệu
lực pháp lý dƣới luật và hầu hết không quy định thời hạn hết hiệu lực; văn bản
thuộc lập pháp ủy quyền do cơ quan đƣợc Nghị viện ủy quyền ban hành có giá
trị nhƣ luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc thẩm quyền của Nghị viện,
có hiệu lực trong thời hạn nhất định và đƣợc Nghị viện kiểm soát chặt chẽ về
nội dung, phạm vi điều chỉnh.
40. 35
Thứ ba, về thủ tục soạn thảo, ban hành, văn bản thuộc quyền lập quy
đƣợc ban hành theo thủ tục do Nghị viện và Chính phủ ban hành và không phải
trình Nghị viện cho ý kiến trƣớc khi có hiệu lực; văn bản thuộc lập pháp ủy
quyền đƣợc Nghị viện giao cho cơ quan đƣợc ủy quyền tại một luật nhất định
trong đó quy định nội dung, thủ tục, thời hạn ban hành văn bản lập pháp ủy
quyền; cơ quan ban hành văn bản thuộc lập pháp ủy quyền phải trình Nghị
viện xem xét, quyết định trƣớc khi văn bản có hiệu lực.
Thứ tư, cơ quan có thẩm quyền lập quy (Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ
trƣởng cơ quan ngang Bộ) có thể liên tịch với cơ quan, tổ chức khác để ban
hành QPPL, trong khi đó, cơ quan đƣợc ủy quyền lập pháp (ủy quyền trực tiếp)
thì không đƣợc liên tịch với cơ quan, tổ chức khác để ban hành QPPL.
Ở nƣớc ta, theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền lập quy là thuật
ngữ pháp lý về thẩm quyền xây dựng, ban hành VBQPPL dƣới luật của nhiều
chủ thể (Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Hội đồng Thẩm
phán TANDTC, Chánh án TANDTC, Viện trƣởng VKSNDTC, Bộ trƣởng,
Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ, Tổng Kiểm toán Nhà nƣớc, HĐND, UBND các
cấp). Ngoài ra, UBTVQH hoặc Chính phủ có thể liên tịch với cơ quan trung
ƣơng của tổ chức chính trị - xã hội để ban hành nghị quyết liên tịch; Chánh án
TANDTC liên tịch với Viện trƣởng VKSNDTC hoặc Bộ trƣởng, Thủ trƣởng
cơ quan ngang bộ liên tịch với Chánh án TANDTC, Viện trƣởng VKSNDTC,
các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tƣ liên tịch. Có
điểm mới là Khoản 1 Điều 20 Luật ban hành VBQPPL năm 2008 quy định
ngoài việc ban hành pháp lệnh, nghị quyết, UBTVQH thực hiện quyền lập quy
khi liên tịch với cơ quan trung ƣơng của tổ chức chính trị - xã hội để ban hành
nghị quyết liên tịch. Nhƣ vậy, các chủ thể nêu trên đều có quyền lập quy hoặc
cùng phối hợp thực hiện quyền lập quy để quy định chi tiết thi hành luật của
Quốc hội, văn bản pháp luật của cơ quan nhà nƣớc cấp trên.
Luật ban hành VBQPPL năm 1996 đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2002,
Luật ban hành VBQPPL năm 2008, Luật ban hành VBQPPL của HĐND,
UBND năm 2004, các nghị định của Chính phủ và VBQPPL khác có liên quan
quy định về nội dung, hình thức văn bản, thủ tục, trình tự xây dựng, ban hành