Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng), cho các bạn tham khảo
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
Luận văn: Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế về hoàn thuế, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ KHÁNH LY
CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN
CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ KHÁNH LY
CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN
CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải
Hà Nội - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 07 tháng 04 năm 2015
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lê Thị Khánh Ly
4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự
TTQLKT : Trật tự quản lý kinh tế
GTGT : Giá trị gia tăng
TNHS : Trách nhiệm hình sự
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG...................................................................................... 8
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ
TRỊ GIA TĂNG ............................................................................................... 8
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về hoàn thuế giá trị gia tăng. .......................... 8
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế giá trị gia tăng.................................. 8
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về hoàn thuế giá trị gia tăng............................ 9
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng. ............................................... 14
1.1.2.1. Khái niệm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực
hoàn thuế giá trị gia tăng............................................................................... 14
1.1.2.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh
vực hoàn thuế giá trị gia tăng........................................................................ 19
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.................... 21
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế từ sau Cách mạng tháng Tám đến trƣớc khi có Bộ luật hình sự
năm 1985. ....................................................................................................... 21
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các tội xâm phạm các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế .................................................................. 26
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
6. TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ THỰC
TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TP. HẢI PHÒNG ................................. 29
2.1. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ..................... 29
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về tội trốn thuế. ................................ 30
2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nƣớc. ............................. 42
2.1.3.Quy định của Bộ luật hình sự về tội vi phạm quy định về bảo quản,
quản lý trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nƣớc. ........ 46
2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TRÊN ĐỊA BÀN TP. HẢI PHÒNG................................. 48
2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình tội phạm của thành
phố Hải Phòng. .............................................................................................. 48
2.2.2. Thực trạng công tác xét xử các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng......................................... 50
2.3. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN LÀM GIẢM
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ
QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA
TĂNG ............................................................................................................. 57
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế của pháp luật quy định về các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng ............. 57
2.3.2. Những hạn chế trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng......... 61
2.3.3. Một số hạn chế, bất cập khác trong công tác quản lý nhà nƣớc về
kinh tế liên quan đến lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.......................... 64
2.3.3.1. Nguyên nhân từ công tác quản lý nhà nước trong việc thành lập
doanh nghiệp.................................................................................................. 64
2.3.3.2. Lĩnh vực thuế giá trị gia tăng và quản lý hóa đơn. ......................... 66
7. 2.3.3.3. Nguyên nhân từ hoạt động quản lý trong lĩnh vực hải quan. ........ 68
2.3.3.4. Nguyên nhân từ lĩnh vực ngân hàng............................................... 70
Chương 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC
TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH
VỰCHOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG.................................................. 72
3.1. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT.......................................... 72
3.1.1. Hoàn thiện các quy định trong Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng. ............ 72
3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật khác liên quan đến thuế giá trị
gia tăng. .......................................................................................................... 79
3.1.3. Hoàn thiện quy định trong lĩnh vực hải quan.................................. 83
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ
KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ... 85
3.2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội
phạm trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.......................................... 85
3.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan Thuế trong đấu tranh
phòng chống tội phạm về hoàn thuế giá trị gia tăng.................................. 90
3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành Hải quan trong đấu tranh
phòng chống tội phạm về hoàn thuế giá trị gia tăng.................................. 92
3.3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC...................................................................... 94
KẾT LUẬN.................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 98
8. DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. So sánh số vụ án các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn
thuế GTGT đã được khởi tố điều tra với tổng số vụ án hình sự được khởi tố,
điều tra giai đoạn 2010-2014........................................................................... 51
Bảng 2.2. So sánh số vụ án liên quan đến thuế GTGT đã được khởi tố điều tra
so với số vụ án hình sự trong lĩnh vực kinh tế đã được khởi tố điều tra giai
đoạn 2010-2014............................................................................................... 51
Bảng 2.3. Số liệu truy tố, xét xử các vụ án các tội xâm phạm TTQLKT trong
lĩnh vực hoàn thuế GTGT ............................................................................... 52
Bảng 2.4. Thành phần bị cáo được đưa ra xét xử sơ thẩm về các tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT ..................................................... 53
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế, xã hội
quan trọng. Đáng chú ý hơn cả là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế
thị trường là nền kinh tế mở, năng động, trong đó tồn tại những quan hệ kinh
tế đa phương, đa chiều của nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh khác nhau từ
các thành phần kinh tế khác nhau. Cạnh tranh là yếu tố đặc thù của kinh tế thị
trường và cạnh tranh lành mạnh là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế, thúc đẩy việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất
lao động.
Trong xã hội hiện đại, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà
nước. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều
chỉnh về thuế và hoạt động thu thuế như: Luật quản lý thuế, Luật thuế giá trị
gia tăng (GTGT), Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất nhập khẩu....
Luật thuế GTGT sau một thời gian ban hành đã đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn, là kênh thu thuế quan trọng góp phần vào ngân sách nhà nước.
Trong các quy định về thuế GTGT thì vấn đề hoàn thuế GTGT là một chính
sách hỗ trợ quan trọng của nhà nước đối với các doanh nghiệp nộp thuế nhiều
hơn thu nhập đầu vào. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã lợi
dụng chính sách hoàn thuế GTGT của nhà nước để dùng các thủ đoạn chiếm
đoạt tiền hoàn thuế GTGT. Thủ đoạn điển hình của các đối tượng này là mua
bán khống quá đơn GTGT sau đó kê khai nhằm tạo ra mức đóng thuế GTGT
ảo, từ đó lập hồ sơ chiếm đoạt tiền hoàn thuế, hoặc các đối tượng này thực
hiện hoạt động xuất nhập khẩu, sau đó lợi dụng chính sách thuế xuất nhập
10. 2
khẩu của nhà, lập các hồ sơ xuất nhập khẩu khống, liên kết với một số cán bộ
thoái hóa, biến chất của ngành Hải quan, Thuế để rút tiền hoàn thuế GTGT từ
ngân sách nhà nước.
Hải Phòng là thành phố lớn của cả nước, có hoạt động kinh tế sôi động,
đặc biệt với địa thế là thành phố có cảng biển, hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa tại Hải Phòng diễn ra sôi nổi. Với tính chất đặc thù như vậy, nên Hải
Phòng là thành phố xảy ra tình trạng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
(TTQLKT) trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT nhiều trên cả nước. Các năm vừa
qua, các cơ quan tư pháp thành phố Hải Phòng đã điều tra, truy tố và xét xử
rất nhiều vụ án hình sự có liên quan đến việc chiếm đoạt tiền hoàn thuế
GTGT, chủ yếu ở các tội: Trốn thuế, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Buôn lậu,
Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ...
Mặc dù Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
đã có những thay đổi rất quan trọng khi tội phạm hóa đối với các tội phạm có
liên quan trực tiếp đến lĩnh vực thuế GTGT khi bổ sung hai điều luật quy định
tại Điều 164a (Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước) và Điều 164b (Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản
lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước). Đồng thời, liên ngành tư
pháp trung ương đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT-BTP-
BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC về Hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ
luật Hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính - kế toán và chứng
khoán. Tuy nhiên, với tính chất phức tạp của các loại tội phạm liên quan đến
thuế, tài chính nói chung và tội phạm liên quan đến thuế GTGT nói riêng,
đồng thời các đối tượng phạm tội luôn có những thủ đoạn tinh vi để chiếm
đoạt tiền hoàn thuế GTGT của Nhà nước, nên hoạt động đấu tranh, phòng
chống các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT nhìn
chung còn chưa đáp ứng được yêu cầu trên thực tế. Nhiều vụ án xảy ra nhưng
việc điều tra, truy tố còn chậm, thậm chí có những vụ án bị đình chỉ điều tra,
một số vụ án đã được khởi tố thì có tranh cãi về tội danh, nhiều quan điểm
11. 3
khác nhau trong việc xác định tội danh của các đối tượng phạm tội. Điều này
xuất phát từ những quy định không thực sự chặt chẽ, rõ ràng trong BLHS và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Công tác đấu tranh, phòng, chống các tội
xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT còn chưa thực sự đạt kết
quả cao, nguyên nhân là do thiếu sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật liên
quan đến các ngành thuế, hải quan, ngân hàng về quản lý lĩnh vực thuế
GTGT. Bên cạnh đó còn có nguyên nhân từ thực trạng công tác tổ chức hoạt
động, công tác cán bộ của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong quản lý
lĩnh vực này như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thuế, Hải quan...
Chính vì những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng BLHS về các
tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT và đấu tranh đối với
loại tội phạm này. Với mong muốn tìm ra giải pháp nhằm đấu tranh có hiệu
quả, tăng cường năng lực áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về tội
xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT nên chúng tôi quyết
định chọn đề tài: “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực
hoàn thuế giá trị gia tăng theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng)”làm đề tài luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn, sự phức tạp và tính động của
vấn đề nghiên cứu, vấn đề các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn
thuế GTGT đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học. Đã có
khá nhiều công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm TTQLKT nói chung và
các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT nói riêng.
- Những công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm TTQLKT
+ Tác giả Mai Thế Bày với Luận án tiến sĩ “Đấu tranh phòng, chống các
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” bảo vệ năm 2006 tại Viện Nhà nước và
Pháp luật.
12. 4
+ Tác giả Nguyễn Văn Nam với Luận án tiến sĩ “Trách nhiệm hình sự đối
với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” bảo vệ năm 2008 tại Viện Nhà
nước và Pháp luật.
+ Tác giả Nguyễn Văn Trượng với bài viết “Bàn về các quy định của Bộ
luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 2/2009.
+ Tác giả Vũ Trọng Khương với bài viết: “Những bất cập khi áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” Tạp
chí Kiểm sát số 20/2006....
- Những công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh
vực hoàn thuế GTGT
Trong lĩnh vực nghiên cứu về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực
hoàn thuế GTGT cũng đã nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể đến
các tác giả như:
+ Tác giả Phan Quang Phương với luận văn thạc sĩ: “Phát hiện, điều tra
tội phạm lừa đảo trong việc thực hiện Luật thuế GTGT của lực lượng cảnh sát
nhân dân”, bảo vệ tại Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2002;
+ Tác giả Mai Thế Bày với bài viết: “Một số vấn đề về đấu tranh phòng
chống tội phạm trong lĩnh vực luật thuế GTGT” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 6/2003;
+ Tác giả Ngô Thị Thu Thủy với luận văn: “Đặc điểm hình sự của tội
phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT và giải pháp phòng ngừa”, bảo vệ tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2003...
Tất cả các đề tài đã một mức độ nào đó nghiên cứu về các tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT, tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên
cứu một cách tổng thể về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế
GTGT, đặc biệt là nghiên cứu theo góc độ BLHS năm 1999 đã được sửa đổi bổ
sung năm 2009, và với tình hình thực tiễn trên một địa bàn cụ thể là thành phố
Hải Phòng. Chính vì vậy, việc tác giả lựa chọn vấn đề nghiên cứu như trên càng
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
13. 5
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài góp phần làm rõ thêm một số điểm về mặt lý luận
khoa học và thực tiễn của các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn
thuế GTGT trong BLHS Việt Nam năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Đồng thời xác định những điểm bất cập chưa hợp lý trong thực tiễn đấu tranh,
phòng, chống đối với loại tội phạm này. Từ đó, đề tài đề xuất một số kiến
nghị lập pháp nhằm hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm TTQLKT trong
lĩnh vực hoàn thuế GTGT và các giải pháp nhằm đấu tranh đối với loại tội
phạm này trên thực tiễn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định về các
tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT của BLHS, cụ thể là:
- Vấn đề khái niệm, đặc điểm của các tội xâm phạm TTQLKT trong
lĩnh vực hoàn thuế GTGT;
- Vấn đề thực tiễn áp dụng các quy định về các tội xâm phạm TTQLKT
trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT;
- Nghiên cứu các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT và giải pháp
nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này trên thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT trong BLHS Việt Nam năm 1999 sửa
đổi, bổ sung năm 2009 và thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về các tội phạm
này trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2010 đến năm 2014.
14. 6
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Để tiếp cận vấn đề nghiên cứu đề tài tác giả dựa trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự cũng như
chính sách đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngoài ra, còn sử dụng các thành
tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về
nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật
tố tụng hình sự, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu,
sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học
luật hình sự.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng tỏ vấn đề
như: phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê,… Đồng
thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước
và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc
lĩnh vực tư pháp hình sự do TANDTC hoặc của các cơ quan bảo vệ pháp luật
ở trung ương ban hành có liên quan đến đề tài.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ là chuyên khảo nghiên cứu một cách toàn diện,
có hệ thống và đồng bộ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội xâm
phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT. Trong luận văn này, tác giả
giải quyết các vấn đề về mặt lý luận sau:
- Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về
các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT như: Một số vấn
đề chung về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT:
khái niệm, đặc điểm các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế
GTGT; lịch sử hình thành và phát triển các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh
vực hoàn thuế GTGT.
15. 7
- Phân tích và luận giải một cách khoa học về thực tiễn quy định hiện
hành của BLHS về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế
GTGT; đưa ra được các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT và giải pháp
nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này trên thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là đề tài nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách có hệ thống và
toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội xâm phạm TTQLKT
trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần vào việc làm rõ thực tiễn áp dụng quy định về các
tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT, đồng thời đưa các
kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT và giải pháp nâng cao hiệu quả đấu
tranh, phòng chống loại tội phạm này trên thực tiễn.
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo trong lĩnh vực pháp
luật, cũng như phục vụ công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng và
thực tiễn xét xử trên địa bàn TP.Hải Phòng.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong
lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
16. 8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN
LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÁC TỘI XÂM
PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về hoàn thuế giá trị gia tăng.
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thuế giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế được áp dụng rất phổ biến trên thế
giới. Thuật ngữ này theo tiếng Pháp là “Tax sur la Valuer Ajourtee”, theo
tiếng Anh là: Value Added Tax (viết tắt là VAT).
Điều 2 của Luật thuế GTGT của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số
13/2008/QH12 ngày 03/6/2008 đã quy định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính
trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản
xuất, lưu thông đến tiêu dùng” [42].
Như vậy, thuế GTGT được coi là một loại thuế tiêu dùng và là thuế
gián thu nhằm đánh vào hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nhưng được thu
ở khâu bán hàng. Nói cách khác, thuế GTGT là sắc thuế áp dụng đối với giá
trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ ở tất cả các khâu sản xuất, lưu thống đến
tiêu dùng. Đặc biệt, thuế GTGT đánh vào khâu cuối cùng (khâu tiêu dùng) sẽ
bằng tổng giá trị của các lần đánh thuế của các khâu trước đó.
Dưới góc độ pháp lý, thuế GTGT là nghĩa vụ tài chính theo đó người
chịu thuế phải nộp một phần thu nhập của mình cho nhà nước, thông qua
hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Trong thực tế, phần đông các chủ thể có
nghĩa vụ nộp thuế GTGT không tự nguyện nộp thuế nếu như nhà nước không
ràng buộc họ bằng các nghĩa vụ pháp lý bắt buộc.
17. 9
Đặc điểm của thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào giá trị
tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ trên bình diện rộng. Tính gián thu của thuế
GTGT được thể hiện qua đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế là hai chủ
thể hoàn toàn khách nhau. Mặt khác, sắc thuế này cũng mang bản chất liên
hoàn và có tính tập trung kinh tế cao, mang những đặc tính cơ bản, đặc trưng
của một sắc thuế khoa học, tiên tiến như: tính lũy thoái, điều tiết hành vi tiêu
dùng hàng hóa dịch vụ. Tuy nhiên, đặc điểm chính, chủ yếu của thuế GTGT
là: Thuế GTGT là sắc thuế gián thu đánh trên bình diện rộng; Thuế GTGT
gắn liền với chế độ sổ sách kế toán và hóa đơn chứng từ.
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về hoàn thuế giá trị gia tăng.
Tại khoản 1, điểm a, Điều 10 Luật thuế GTGT quy định: “Số thuế giá
trị gia tăng phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế giá trị gia
tăng đầu ra trừ số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ” [42]. Theo quy định tại
khoản 1, Điều 7 Nghị định 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/12/2008
thì “Số thuế giá trị gia tăng phải nộp tính theo phương pháp khấu trừ bằng số
thuế giá trị gia tăng đầu ra (-) số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ”. Khấu
trừ thuế là căn cứ quan trọng trong việc hoàn thuế GTGT hiện nay.
Tại Chương III Điều 10, Nghị định 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 08/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
thuế GTGT quy định về hoàn thuế GTGT như sau: “Việc hoàn thuế giá trị gia
tăng thực hiện theo quy định tại Điều 13 Luật thuế giá trị gia tăng...” [11].
Như vậy, hoàn thuế GTGT được hiểu là việc cơ quan quản lý thuế có
thẩm quyền hoàn trả lại cho đối tượng số tiền thuế GTGT đã nộp thừa hoặc
chưa được khấu trừ hết. Việc hoàn thuế GTGT được thực hiện theo yêu cầu
của các chủ thể khi họ đáp ứng đủ các điều kiện hoàn thuế GTGT theo quy
định của pháp luật.
18. 10
Ở nước ta, Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn về thuế hiện hành
không đưa ra khái niệm, định nghĩa cụ thể về hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên, có
thể xem xét khái niệm hoàn thuế GTGT dưới góc độ khác nhau, cụ thể:
Xem xét dưới góc độ kinh tế - tài chính, hoàn thuế GTGT là việc nhà
nước hoàn trả lại cho doanh nghiệp một khoản tiền thuế nhất định đúng bằng
với số thuế doanh nghiệp đã nộp khi doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện
theo quy định của pháp luật.
Xét dưới góc độ nghiệp vụ thuế thì hoàn thuế GTGT chỉ đơn thuần là
một biện pháp kỹ thuật trong công tác tiến hành thu thuế.
Xét dưới góc độ pháp lý thì hoàn thuế là quyền của đối tượng nộp thuế
được nhà nước trả lại một khoản tiền thuế nhất định khi có đơn yêu cầu của
doanh nghiệp và doanh nghiệp chứng minh thỏa mãn các điều kiện pháp luật
quy định. Hơn nữa hoàn thuế GTGT còn là một chế định pháp luật mà nội
dung của nó là tập hợp các quy phạm pháp luật quy định về các trường hợp
được hoàn thuế, điều kiện hoàn thuế, đối tượng được hoàn thuế, thẩm quyền
ra quyết định hoàn thuế và trình tự, thủ tục hoàn thuế...
Đây là những quan điểm về hoàn thuế GTGT nhìn từ những góc độ khác
nhau trong quá trình nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý cho
thấy hoàn thuế GTGT là việc nhà nước hoàn trả lại một khoản tiền nhất định
cho đối tượng nộp thuế khi họ thỏa mãn các điều kiện pháp luật quy định.
Như vậy, hoàn thuế GTGT là việc hoàn trả một số tiền thuế nộp thừa
cho tổ chức cá nhân nộp thuế khi: (i) Tổ chức cá nhân nộp thuế có số tiền nộp
thuế đã nộp lớn hơn số tiền thuế phải nộp; (ii) Tổ chức cá nhân nộp thuế có số
tiền thuế được hoàn theo quy định của pháp luật về thuế GTGT.
Mặt khác, quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối sản phẩm là chu
trình kinh tế có sự tham gia của nhiều chủ thể. Cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ
là người nộp thuế GTGT nên việc hoàn thuế GTGT là một nghiệp vụ rất quan
trọng của thuế GTGT. Phạm vi đối tượng nộp thuế GTGT rất rộng, việc hoàn
19. 11
thuế GTGT cũng diễn ra trên phạm vi rất rộng, bao hàm nhiều quan hệ phức
tạp và có sự liên hoàn giữa các đối tượng nộp thuế.
Vì thế, hoàn thuế GTGT được hiểu là trường hợp đặc biệt của khấu trừ
thuế nên hoàn thuế chỉ đặt ra đối với đối tượng nộp thuế theo phương thức
khấu trừ thuế. Các cơ sở kinh doanh trong ba tháng liên tục trở lên (không
phân biệt niên độ kế toán) có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết sẽ được
hoàn lại. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của
thời gian xin hoàn thuế. Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hóa, dịch vụ
xuất khẩu, nếu có số thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu
có số thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế
GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ bán trong nước thì cũng được tính vào
số thuế được hoàn trong tháng.
Theo quy định của khoản 2, Điều 7 Nghị định 123/2008/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 08/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật thuế GTGT của Việt Nam quy định về hoàn thuế GTGT quy
định: “Số thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng tổng số thuế giá trị gia tăng của hàng
hóa, dịch vụ bán ra ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng. Thuế giá trị gia tăng ghi
trên hóa đơn giá trị gia tăng bằng giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
bán ra nhân (x) với thuế suất thuế giá trị gia tăng của hàng hóa dịch vụ
đó”[11].
Về nguyên tắc, nếu trong thời kỳ nộp thuế mà thuế đầu vào được khấu
trừ không hết thì sẽ phát sinh quyền hoàn thuế. Như vậy, qua phân tích ở trên
có thể hiểu: “Hoàn thuế là hệ quả của hành vi khấu trừ thuế đầu vào nếu số
thuế đầu vào được khấu trừ không hết thì nhà nước có nghĩa vụ hoàn thuế
cho doanh nghiệp, tức trả lại số thuế nộp thừa cho doanh nghiệp trong kỳ đó.
Nếu nhà nước không hoàn lại kịp thời số tiền thừa này thì coi như nhà nước
chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Số tiền này thuộc quyền sở hữu của doanh
20. 12
nghiệp, Nhà nước chỉ là người nắm giữ tạm thời khi chưa xác định được số
tiền doanh nghiệp phải nộp là bao nhiêu.”
Việc hoàn thuế GTGT có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, chủ thể được hoàn thuế GTGT là đối tượng nộp thuế GTGT
theo quy định của pháp luật. Tại khoản 1 Điều 2, Nghị định số 123/2008/NĐ-
CP ngày 8/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật thuế GTGT quy định: “Người nộp thuế giá trị gia tăng là
tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia
tăng và tổ chức cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng”. Như
vậy, chỉ những tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu
thuế và các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT mới là đối
tượng được hoàn thuế GTGT.
Thực chất của việc hoàn thuế là việc Nhà nước trả lại đối tượng nộp
thuế một khoản tiền thuế tương ứng với số tiền thuế mà chủ thể đó đã nộp
thừa. Như vậy, cá nhân, tổ chức thuộc diện nộp thuế GTGT mà chưa hoàn
thành nghĩa vụ nộp thuế với nhà nước thì cũng không có quyền yêu cầu hoàn
thuế GTGT.
- Thứ hai, tổ chức, cá nhân đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình, đó
là chuyển quyền sở hữu một khoản tiền nhất định (tiền thuế) vào ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên, sau đó tổ chức, cá nhân căn cứ vào quy định hiện hành về
hoàn thuế GTGT, nếu phù hợp các quy định này, thì tổ chức cá nhân, sẽ nộp
đơn tới cơ quan thuế có thẩm quyền để yêu cầu được hoàn trả số tiền thuế.
Xét về bản chất thì tiền hoàn thuế GTGT là việc chuyển quyền sở hữu
(một giá trị nhất định) từ Nhà nước sang cho các tổ chức, cá nhân thỏa mãn
các điều kiện được hoàn thuế. Việc hoàn thuế được thực hiện bằng một quyết
định hành chính của cơ quan thuế có thẩm quyền.
- Thứ ba, căn cứ để được xét và chấp nhận cho hoàn thuế GTGT đó là
toàn bộ hồ sơ hoàn thuế GTGT. Hồ sơ hoàn thuế GTGT phải do chính chủ thể
21. 13
nộp thuế GTGT lập hợp lệ theo quy định của pháp luật nhằm chứng minh sự
thỏa mãn các điều kiện được xét và chấp nhận hoàn thuế. Hồ sơ hoàn thuế
GTGT được quy định cụ thể tại Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn
thi hành.
- Thứ tư, nguồn tài chính để thực hiện hoàn thuế GTGT được trích lập
từ số tiền thuế GTGT đã thu, gọi là Qũy hoàn thuế GTGT. Qũy này do cơ
quan tài chính thành lập và sử dụng vào mục đích hoàn thuế GTGT cho người
nộp thuế theo quy định của pháp luật. Những quy định cụ thể về Qũy hoàn
thuế GTGT được Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể.
Từ những đặc điểm trên, là luận cứ cơ bản để chúng ta có thể tìm hiểu
về tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT, những tội phạm này về đặc điểm
chứa đựng những đặc điểm riêng biệt của các tội phạm khác nhau được quy
định trong BLHS tuy nhiên, điểm chung của những tội phạm này đều liên
quan đến việc, thu nộp, hoàn thuế GTGT và các hành vi có liên quan đến các
hoạt động này như hành vi nhận hối lộ, đưa hối lộ, tham ô tài sản, thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng....
* Vai trò và ý nghĩa của hoàn thuế giá trị gia tăng:
Hoàn thuế GTGT là một trong những chế định pháp luật có ý nghĩa
quan trọng. Thông qua việc thực hiện pháp luật thuế GTGT thì hoàn thuế
GTGT đã thể hiện được vai trò và ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, hoàn thuế GTGT thể hiện tính ưu việt, vượt trội của thuế
GTGY so với thuế doanh thu. Hoàn thuế GTGT đã khắc phục được nhược
điểm đánh trùng lặp giữa các khâu, đối với cùng một hàng hóa, dịch vụ hay
cùng một chủ thể nộp thuế, từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng của thuế
doanh thu.
Thứ hai, hoàn thuế GTGT giữ vai trò và ý nghĩa to lớn trong việc bảo
đảm tính công bằng, bình đẳng cho các chủ thể nộp thuế. Do bản chất chất của
hoàn thuế GTGT là đánh vào giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ trong quá
22. 14
trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng nên khi chưa có giá trị tăng thêm thì
không được đánh thuế GTGT thêm của hàng hóa, dịch vụ. Do là loại thuế đánh
vào giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ nên số thuế GTGT này đã được cấu
thành ngay trong giá cả của các loại hàng hóa, dịch vụ chịu thuế đó.
Thứ ba, hoàn thuế GTGT đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích,
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ. Theo quy định của pháp luật
hoàn thuế GTGT thì hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ cũng phải chịu
thuế GTGT. Tuy nhiên, với mức thuế suất chỉ là 0% thì sau khi xuất khẩu hàng
hóa dịch vụ, các chủ thể nộp thuế có quyền yêu cầu hoàn thuế GTGT đầu vào
(có thể sẽ được hoàn loại toàn bộ số thuế đầu vào mà doanh nghiệp đã nộp, vì
thuế suất GTGT của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu chỉ là 0%).
Thứ tư, hoàn thuế GTGT là động lực để các doanh nghiệp kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hóa đơn, chứng
từ, chế độ kế toán. Hoàn thuế GTGT được thực hiện trên cơ sở căn cứ yếu tố
thuế đầu ra và yếu tố thuế đầu vào. Vì vậy, các chủ thể muốn được hoàn thuế
phải chứng minh được quyền hoàn thuế của mình thông qua các hồ sơ, chứng
từ hợp pháp. Để thực hiện được quyền hoàn thuế của mình thì trong quá trình
hoạt động, kinh doanh của mình các chủ thể này phải tuân thủ đúng chế độ
hóa đơn chứng từ.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
1.1.2.1. Khái niệm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh
vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
Tội phạm hóa là việc ghi nhận trong pháp luật hình sự một hành vi nào
đó là tội phạm (mà trước đây chưa được pháp luật hình sự coi là tội phạm) và
quy định trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện hành vi đó. Trước giai
đoạn đổi mới, kinh tế nước ta phát triển theo hướng quản lý tập trung, quan
liêu bao cấp do đó, các thành phần kinh tế tư nhân chưa phát triển, chính vì
23. 15
vậy, việc xuất hóa đơn chưa xuất hiện trong thực tế quản lý kinh tế. Sau Đại
hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã tiến hành cải cách, đổi mới toàn diện về kinh
tế, xã hội, phát triển theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, với nền tảng là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có
thành phần kinh tế tư nhân, quản lý kinh tế của các doanh nghiệp bằng hóa
đơn, chứng từ. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý thuế của các doanh
nghiệp bắt buộc phải tiến bằng chế độ hóa đơn, chứng từ và chế độ kế toán.
Đặc biệt là Nhà nước đã ban hành hàng loạt các loại thuế để quản lý kinh tế
như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân...
Lần đầu tiên ở nước ta ban hành về một hình thức thuế mới, chuyên đánh vào
phần giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng sử dụng. Sự
xuất hiện của một hình thức thuế mới đã tác động sâu rộng đến mọi mặt của
nền kinh tế, việc quản lý thuế của Nhà nước trở nên dễ dàng hơn, ngân sách
nhà nước được tăng một nguồn thu đáng kể. Tuy nhiên, sự xuất hiện của hình
thức thuế mới này, đặc biệt là chính sách của Nhà nước về chế độ hoàn thuế
giá trị gia tăng dẫn đến việc các đối tượng đã lợi dụng chính sách này để lừa
đảo chiếm đoạt tiền hoàn thuế, trốn thuế, buôn lậu... Do đó, việc tội phạm hóa
đối với các hành vi chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng là một nhu cầu
tất yếu, để nhằm xử lý hình sự đối với các tội phạm này, nhằm ngăn chặn, hạn
chế tiến tới đẩy lùi các hành vi này ra khỏi đời sống kinh tế.
Trước khi tìm hiểu về khái niệm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng chúng ta phải tìm hiểu thế nào là
các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Trong các giáo trình luật hình sự và tội phạm học hiện nay, khái niệm
các tội xâm phạm TTQLKT được đề cập đến một cách khá đơn giản và khá
thống nhất. Có thể điểm qua một số quan điểm chính về khái niệm các tội
xâm phạm TTQLKT như sau:
24. 16
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà
nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân qua việc vi phạm các quy
định của Nhà nước trong quản lý kinh tế [46, tr.81].
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với hoạt động sản
xuất, kinh doanh gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của
tổ chức và cá nhân [29. Tr.329].
Các khái niệm trên đây được xây dựng trên cơ sở khái niệm chung về
tội phạm và tên gọi chung của nhóm tội phạm (tên chương). Tên chương là sự
phản ánh khái quát nhất nhóm các quan hệ xã hội có cùng tính chất bị nhóm
các tội xâm hại - khách thế loại của tội phạm. Đây cũng là đặc điểm chung
đặc trưng nhất của nhóm tội phạm. Bước tiếp cận và phương thức xây dựng
khái niệm tội phạm như vậy là tương đối hợp lý. Tuy nhiên, các khái niệm
trên đây còn đưa ra tương đối chung chung. Lý do cơ bản dẫn đến hạn chế
này, theo chúng tôi là do chưa làm rõ được nội hàm khách thể loại của tội
phạm, hay thuật ngữ “trật tự quản lý kinh tế”.
Các thuật ngữ “trật tự quản lý kinh tế”, “cơ chế quản lý kinh tế”, “quan
hệ quản lý kinh tế” đều gắn với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước. Việc
quy định các tội xâm phạm TTQLKT và trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm TTQLKT là xuất phát từ trật tự quản lý kinh tế, cơ chế quản lý
kinh tế, quan hệ quản lý kinh tế và rộng hơn là chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước bị hành vi phạm tội xâm hại đáng kể. Lẽ dĩ nhiên, qua việc vi phạm
các chế độ, chính sách quản lý kinh tế, nền kinh tế đất nước, lợi ích của Nhà
nước, của các chủ thể kinh tế và lợi ích của người tiêu dùng đều bị xâm hại
[32, tr.34].
25. 17
Như vậy, nếu xuất phát từ hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm,
có thể phát biểu khái niệm các tội xâm phạm TTQLKT như sau: Các tội xâm
phạm TTQLKT là các hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước trong quản
lý kinh tế, xâm phạm cơ chế Nhà nước quản lý, vận hành nền kinh tế, gây thiệt
hại đáng kể cho nền kinh tế, lợi ích của Nhà nước, các chủ thể kinh tế và
người tiêu dùng.
Nếu xuất phát từ khái niệm chung về tội phạm và khách thể loại (nhóm)
của tội phạm, có thể phát biểu khái niệm các tội xâm phạm TTQLKT như sau:
Các tội xâm phạm TTQLKT là các hành vi nguy hiểm cho xã hội, được
quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách có lỗi,
xâm hại các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý, vận hành nền kinh tế
giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế và các chủ thể kinh tế.
Trong lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước có rất nhiều loại tội
phạm khác nhau, trong đó có các loại tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế giá
trị giá tăng. Trước khi BLHS 1999 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009 thì
trong lĩnh vực thuế GTGT chưa có điều luật cụ thể nào quy định trực tiếp về
các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực thuế GTGT.
Trong giai đoạn này, hành vi chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng được
Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
23 tháng 11 năm 2004 Hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
các hành vi mua bán, sử dụng trái phép hóa đơn giá trị gia tăng thì hành vi
hoàn thuế giá trị gia tăng tùy từng tính chất, đặc điểm của hành vi và chủ thể
mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
tội tham ô tài sản, tội buôn lậu, tội trốn thuế [51]....
Tuy nhiên, hiện nay, Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA-
TANDTC-VKSNDTC-BTP đã bị thay thế bằng Thông tư liên tịch số
10/2013/TTLT/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 26 tháng 6 năm
2013 hướng dẫn một số điều của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài
26. 18
chính - kế toán và chứng khoán. Hiện nay, theo Thông tư trên thì không quy
định trực tiếp việc chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT sẽ áp dụng trách nhiệm
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội tham ô tài sản, cũng như tội
buôn lậu và tội trốn thuế. Về bản chất, hành vi chiếm đoạt tiền hoàn thuế, vẫn
sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm trên. Tuy nhiên, các tội
phạm về lừa đạo chiếm đoạt tài sản (Chương xâm phạm sở hữu) và Tội tham
ô tài sản (Chương các tội phạm về chức vụ) không thuộc phạm vi của các tội
phạm xâm phạm TTQLKT (Chương XVI - Các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế) do đó, trong phạm vi luận văn này, để phù hợp với tên đề tài, chúng
tôi chỉ nghiên cứu về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế
giá trị gia tăng mà không nghiên cứu về các tội phạm trong các chương khác
cũng liên quan đến chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT.
Sau khi BLHS được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, đã bổ sung thêm
hai tội danh liên quan đến xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hóa đơn, chứng
từ là Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ, thu nộp ngân
sách nhà nước và Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng
từ thu nộp ngân sách nhà nước. Như vậy, về bản chất, các tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT theo quy định của BLHS năm 1999
sửa đổi, bổ sung năm 2009 bao gồm các tội phạm sau: Tội trốn thuế; Tội in,
phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ, thu nộp ngân sách nhà nước
và Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước. Bởi lẽ, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền hoàn thuế
GTGT, người phạm tội sẽ tiến hành các hành vi khác liên quan đến hợp thức
hóa hóa đơn, chứng từ để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT từ nhà nước.
Đồng thời kết quả của quá trình chiếm đoạt này cũng góp phần thực hiện
hành vi trốn thuế của các đối tượng phạm tội.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm các tội xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT như sau:
27. 19
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá
trị gia tăng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi,
xâm hại các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế ở lĩnh vực hoàn
thuế giá trị gia tăng.
1.1.2.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong
lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh
vực hoàn thuế giá trị gia tăng có các đặc điểm sau.
Thứ nhất, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị
gia tăng có đầy đủ các đặc điểm của tội phạm nói chung. Theo các nhà luật
hình sự hiện nay, tội phạm bao gồm các dấu hiệu cơ bản là: tính nguy hiểm
cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự. Từ dấu hiệu chung của tội
phạm chúng ta có thể thấy, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn
thuế GTGT cũng có các đặc điểm như: tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái
pháp luật hình sự và tính có lỗi. Bởi lẽ quan hệ giữa nhóm tội phạm này với
các tội phạm nói chung là quan hệ giữa cái cụ thể và cái toàn thể. Do cái cụ
thể cần phải có đầy đủ đặc tính của cái toàn thể nên các tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT có đầy đủ những đặc tính của tội
phạm nói chung.
Thứ hai, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT là
các tội phạm trong Chương các tội xâm phạm TTQLKT, do đó, tính chất
chung của nó là các tội phạm này xâm phạm tới các quan hệ phát sinh trong
quá trình quản lý kinh tế, vận hành nền kinh tế giữa các cơ quan quản lý Nhà
nước về kinh tế và các chủ thể kinh tế [32, tr.27]. Như vậy, từ đặc điểm này ta
có thể rút gọn được đối tượng nghiên cứu của luận văn, theo đó luận văn chỉ
nghiên cứu về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT
chứ không nghiên cứu về các tội phạm nói chung trong lĩnh vực hoàn thuế
28. 20
GTGT như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội tham ô, tội thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng.... Như vậy, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh
vực hoàn thuế GTGT trước hết phải là các tội phạm nằm trong Chương các
tội xâm phạm TTQLKT nói chung, có đầy đủ đặc điểm của nhóm các tội
phạm này, trong đó vấn đề quan trọng nhất là khách thể nhóm của các tội
phạm này là xâm hại các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý, vận hành
nền kinh tế.
Thứ ba, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT có
đặc trưng là đều liên quan đến các hành vi mua bán, sử dụng hóa đơn GTGT
và các tờ khai thuế GTGT để nhằm các mục đích khác nhau như: lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, tham ô tài sản, trốn thuế, buôn lậu cũng từ đó BLHS năm
1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã bổ sung thêm hai tội phạm liên quan đến
lĩnh vực này đó là Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu
nộp ngân sách nhà nước và Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa
đơn, chứng từ nộp ngân sách nhà nước. Như vậy, các tội xâm phạm TTQLKT
trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT phải là các tội vừa nằm trong Chương các tội
xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT, tuy nhiên, phải xâm
phạm trực tiếp tới quá trình mua bán, sử dụng hóa đơn GTGT và các hành vi
có liên quan đến hoạt động thu nộp thuế GTGT, bao gồm các tội: Tội trốn
thuế; Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân
sách nhà nước và Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng
từ nộp ngân sách nhà nước.
29. 21
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC TỘI XÂM
PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế từ sau Cách mạng tháng Tám đến trƣớc khi có Bộ luật
hình sự năm 1985.
Cách mạng tháng 8 thành công, những toàn Đảng, toàn dân vẫn phải
đương đầu với cuộc chiến chống giặc đói, giặc rét và giặc ngoại xâm. Những
hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế của nhân dân, xâm
phạm chế độ kinh tế, tài chính của đất nước được đánh giá có mức độ nguy
hiểm ngang bằng và cần nghiêm trị như những hành vi chống đối chính quyền
Cách mạng.
Nhằm trừng trị kịp thời những hành vi xâm phạm pháp luật kinh tế, bảo
vệ nền kinh tế non trẻ của đất nước, tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp thắng lợi, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành
hàng loạt các văn bản pháp luật chủ yếu dưới dạng các sắc lệnh. Trong đó
phải kể đến các sắc lệnh quan trọng như:
- Sắc lệnh số 07/SL của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ cộng hòa ngày 05/9/1945 về việc để sự buôn bán và chuyên chở thóc gạo
được tự do trong toàn hạt Bắc bộ. Sắc lệnh 07/SL đề ra đường lối xử lý
nghiêm khắc đối với các hành vi tích trữ thóc gạo, mưu sự đầu cơ xét ra có
phương hại đến nền kinh tế. Khoản thứ tư của Sắc lệnh nêu rõ: “Kẻ nào tích
trữ thóc gạo, mưu sự đầu cơ, xét ra có phương hại đến nền kinh tế sẽ bị
nghiêm phạt theo quân luật và gia sản sẽ bị tịch thu”.
- Sắc lệnh số 202/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng
hòa ngày 15/10/1946 quy định về việc buôn bán vàng bạc. Điều thứ 5 Sắc
lệnh quy định: Nếu trái với các điều nói trên (quy định về buôn bán vàng) sẽ
bị phạt: Tiền nhất thiết gấp ba số vàng gian lận hay định gian lận; Tù từ một
30. 22
tháng đến hai năm hoặc sẽ phải chịu một trong hai thứ hình phạt ấy; Nếu tái
phạm có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
- Sắc lệnh số 180/SL ngày 20 - 12 - 1950 của Chủ tịch nước Việt Nam
Dân chủ cộng hoà ấn định hình phạt đối với những hành vi phá hoại nền tài
chính quốc gia, làm tội thiệt đến giá trị hay làm khó dễ cho sự lưu hành giấy
bạc Việt Nam. Điều 1 Sắc lệnh quy định: Những người đầu cơ tiền tệ, làm
giấy bạc giả, lưu hành giấy bạc giả, tàng trữ hay lưu hành những giấy bạc của
địch hay đã có lệnh cấm, hoặc có những hành động có tính cách phá hoại nền
tài chính quốc gia sẽ bị truy tố trước Toà án quân sự.
Có thể nói đây là những quy định đầu tiên của Nhà nước về các tội
phạm kinh tế nói chung, các tội xâm phạm TTQLKT nói riêng. Nhìn chung,
các quy định còn đơn giản, song đã khẳng định khá rõ ràng quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta là nghiêm phạt các hành vi gây phương hại cho nền
kinh tế, tài chính của đất nước.
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 mở ra giai đoạn mới của Cách
mạng Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh giải phóng
Miền Nam. Hiến pháp năm 1959 ra đời thay thế Hiến pháp năm 1946 và là cơ
sở pháp lý cho nhiệm vụ ở giai đoạn mới của Cách mạng Việt Nam. Chương
II Hiến pháp năm 1959 (từ Điều 9 đến Điều 21), quy định rõ chế độ kinh tế
của Việt Nam là “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa” (Điều 9) với “kinh tế quốc
doanh thuộc hình thức sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế
quốc dân và được Nhà nước đảm bảo phát triển ưu tiên” (Điều 12). Trên cơ
sở quy định này, tính chất của quan hệ xã hội là khách thể của các tội phạm về
kinh tế đã được xác lập.
Để bảo vệ chế độ kinh tế theo Hiến pháp năm 1959, Nhà nước đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng làm cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh
chống các tội phạm về kinh tế. Một số hành vi phạm tội về kinh tế được đánh
giá là có mức độ nghiêm nguy hiểm cho xã hội cao và cần bị nghiêm trị là:
31. 23
- Hành động đầu cơ về kinh tế (Sắc luật số 001/SLt của Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà ngày 19-4-1957 cấm chỉ mọi hành động đầu cơ
về kinh tế );
- Các hành động buôn bán, tích trữ, vận chuyển trái phép vật tư, hàng
hoá do Nhà nước thống nhất quản lý (Chỉ thị số 146-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 5-6-1974);
- Các hành động chống thuế nông nghiệp (Thông tư 3887-VNH/HS
ngày 02-11-1957 của Bộ Tư pháp);
- Việc nấu rượu trái phép (Pháp lệnh ngày 13-10-1966 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội);
- Các hành vi đầu cơ, buôn lậu kim khí quý, đá quý, ngọc trai (Nghị
Định số 355-TTg ngày 16-7-1958 của Thủ tướng Chính phủ)...
So với các văn bản pháp luật thời kỳ trước, các văn bản pháp luật thời
kỳ này đã có bước phát triển đáng kể, cả về loại hình văn bản, kỹ thuật lập
pháp và nội dung quy định. Từ chỗ chỉ với các quy định đơn giản dưới hình
thức sắc lệnh, các nhà làm luật đã quy định về tội phạm kinh tế ở nhiều dạng
văn bản khác nhau như sắc luật, thông tư, chỉ thị, pháp lệnh... Các nhà làm
luật cũng chú ý xác định cụ thể các hành vi gây phương hại nền kinh tế bị coi
là tội phạm và đường lối xử lý các tội phạm này.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn
do chiến tranh, song Nhà nước ta vẫn chú ý hoàn thiện pháp luật về quản lý
kinh tế và hoàn thiện các quy định về các tội phạm về kinh tế. Các quy định
về các tội phạm về kinh tế thời kỳ này khá chặt chẽ về mặt pháp lý và mang
tính hiệu quả cao trong thực tiễn áp dụng. Hai văn bản có vai trò quan trọng
thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với các tội phạm về kinh tế
thời kỳ này là:
- Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày
21 - 10 - 1970;
32. 24
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (Pháp
lệnh năm 1970) quy định về các tội phạm gây thiệt hại trực tiếp và gián tiếp
đến tài sản. Việc xây dựng Pháp lệnh năm 1970 thể hiện kỹ thuật lập pháp
tiến bộ đáng kể. Pháp lệnh năm 1970 được kết cấu thành 3 chương: chương I
- Nguyên tắc chung, chương II - Tội phạm và hình phạt và chương III - Điều
khoản chung. Chính sách hình sự đối với tội phạm được thể hiện khá rõ nét.
Pháp lệnh năm 1970 xác định mục đích của việc ban hành Pháp lệnh là “để
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc
phòng, bảo vệ nền văn hoá dân tộc, nâng cao đời sống của nhân dân, bảo đảm
thắng lợi hoàn toàn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cho cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước; để phát huy tinh thần làm chủ tập thể của
cán bộ, công nhân viên chức và toàn thể nhân dân, đề cao đạo đức xã hội chủ
nghĩa và ý thức tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, động viên mọi
người ra sức đấu tranh chống những hành vi xâm phạm tài sản đó”. Các
nguyên tắc xử lý được xác định rõ ràng: “nghiêm trị bọn lưu manh chuyên
nghiệp, bọn tái phạm, bọn phạm tội có tổ chức, bọn cầm đầu, bọn lợi dụng
chức vụ quyền hạn để phạm tội, bọn gây thiết hại nặng; xử nhẹ hoặc miễn
hình phạt cho những kẻ tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự
nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra”[49, tr.231].
Chương II Pháp lệnh năm 1970 quy định khá rõ ràng về các tội phạm
và hình phạt cụ thể. Đáng lưu ý là một số hành vi xâm phạm TTQLKT cũng
được quy định khá cụ thể trong Pháp lệnh. Điều 12 quy định về tội cố ý làm
trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế tài chính gây thiệt hại đến
tài sản xã hội chủ nghĩa; Điều 13 quy định về tội vi phạm chế độ tem phiếu
dùng vào việc phân phối tài sản xã hội chủ nghĩa.
Pháp lệnh năm 1970 đã chú ý xây dựng cấu thành tội phạm cơ bản và
cấu thành tội phạm tăng nặng với các tình tiết định khung tăng nặng và các
khung hình phạt riêng có ý nghĩa phân hoá TNHS đối với các tội phạm cụ thể.
33. 25
Sau ngày Miền Nam được giải phóng năm 1975, để đối phó với các thế
lực thù địch phá hoại nền kinh tế, ngày 15 - 3 - 1976 Hội đồng Chính Phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số
03 - SL/76 quy định các tội phạm và hình phạt, xét xử các tội phạm ở miền
NamViệt Nam ở thời điểm ban hành.
Sắc luật số 03-SL/76 được coi là sự khái quát chính sách hình sự về tội
phạm và hình phạt nói chung. Sắc luật số 03-SL/76 xác định có bảy loại tội
phạm: 1) Tội phản cách mạng (Điều 3); 2) Tội xâm phạm đến tài sản công
cộng (Điều 4); 3) Tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân
(Điều 5); 4) Tội kinh tế (Điều 6); 5) Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn và tội
hối lộ (Điều 7); 6) Tội xâm phạm tài sản riêng của công dân (Điều 8) và 7)
Tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân
dân (Điều 9). Như vậy, tội kinh tế được đánh giá có mức độ nguy hiểm thứ tư
trong bảy nhóm tội phạm.
Lần đầu tiên, khái niệm tội kinh tế được xác lập:
“ Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về kinh tế, tài chánh cho Nhà nước, cho
hợp tác xã hoặc cho tập thể nhân dân, gây trở ngại cho việc khôi phục và
phát triển sản xuất, cho việc ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân, gồm
có các loại :
- Sản xuất hàng giả, cố ý lừa gạt người tiêu thụ.
- Kinh doanh trái phép, cố ý trốn tránh quy định của Nhà nước.
- Làm bạc giả hoặc tiêu thụ bạc giả.
- Mua gian, bán lận, trốn thuế, lừa gạt nhà cầm quyền.
- Đầu cơ, tích trữ, tung tin thất thiệt dìm giá, tăng giá phá rối thị trường.
- Bán hàng Nhà nước cấm” (Điều 6)
Sắc luật 03-SL/76 có nội dung (về tội danh và đường lối xử lý) về cơ
bản là thống nhất với các Pháp lệnh năm 1970. Điểm mới của Sắc luật 03-
SL/76 so với các văn bản pháp luật trước đó là đã khái quát được tính chất
34. 26
nguy hiểm của các hành vi phạm tội kinh tế, tập hợp được những hình thức
phạm tội phổ biến cần nghiêm trị [50, tr.148].
Như vậy, qua nghiên các quy định về tội phạm xâm phạm các tội xâm
phạm TTQLKT trong giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước khi
BLHS lần đầu tiên được ban hành ta thấy, trong giai đoạn này các tội xâm
phạm TTQLKT đã được bước đầu đề cập đến trong các văn bản quy phạm
pháp luật về hình sự của nhà nước ta. Tuy nhiên, đặt trong mối tương quan
với các quy định nhằm bảo vệ chế độ chính trị, trật tự xã hội khác như tội
phản cách mạng, tội xâm phạm tài sản của nhà nước thì các tội phạm về xâm
phạm các tội xâm phạm TTQLKT chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt là
lĩnh vực thuế GTGT trong giai đoạn này chưa được đề cập đến, bởi lẽ nền
kinh tế đang trong giai đoạn cả nước còn chiến tranh, miền Bắc thì trong tình
trạng bao cấp, tập trung giải phóng miền Nam nên các thành phần kinh tế
chưa phát triển, các quan hệ về thuế, kinh doanh chưa hình thành nhiều. Do
đó, trong giai đoạn này, tội phạm xâm phạm trật tự các tội xâm phạm
TTQLKT chưa được quy định nhiều trong các văn bản của nhà nước.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các tội xâm phạm các
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế .
Trên cơ sở tập hợp và pháp điển hoá luật lệ về hình sự đã ban hành
từ những năm đầu của chính quyền cách mạng đến giữa những năm 1980,
cũng như thể chế hoá chính sách hình sự của Nhà nước ta trong thời kỳ cả
nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, BLHS đầu tiên được Quốc hội
thông qua ngày 27 - 6 - 1985, có hiệu lực ngày 1 - 1 - 1986.
Quy định về các tội xâm phạm chế độ kinh tế, tài chính được tập hợp
thành một chương riêng trong Phần các tội phạm của BLHS năm 1985 với tên
gọi: Các tội phạm về kinh tế (chương VII Phần các tội phạm). Tên gọi mang
tính chất khái quát này được kế thừa quy định tại Điều 6 Sắc luật 03-SL/76
ngày 19 - 4 -1976.
35. 27
Chương các tội phạm về kinh tế bao gồm 21 điều luật quy định các tội
phạm cụ thể (từ Điều 164 đến Điều 184) và một điều luật quy định hình phạt
bổ sung (Điều 185). Trong quá trình áp dụng, đến giữa năm 1997, BLHS đã
được Quốc hội sửa đổi bổ sung bốn lần (lần thứ nhất vào tháng 12 năm 1989,
lần thứ hai vào tháng 8 năm 1991, lần thứ ba vào tháng 12 năm 1992 và lần
thứ tư vào tháng 5 năm 1997). Trong cả bốn lần sửa đổi, chương các tội phạm
về kinh tế vẫn được giữ nguyên về số lượng điều luật. Tuy nhiên, trong từng
điều luật cụ thể đều có sự sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của thực tế nhằm
từng bước đáp ứng yêu cầu đấu tranh bảo đảm TTQLKT, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần duy trì và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Theo quy định của BLHS năm 1985 đã xác định các dấu hiệu pháp lý
đặc trưng của các tội phạm về kinh tế.
Sự xâm hại chế độ kinh tế, tài chính được biểu hiện cụ thể qua sự vi
phạm ở mức độ nhất định các quy định cũng như các chính sách kinh tế, tài
chính của Nhà nước. Những quy định và chính sách kinh tế rất đa dạng và
phong phú, có thể có tính chất chung cho toàn bộ hệ thống kinh tế, nhưng
cũng có thể có tính chất riêng cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế. Mỗi tội
phạm về kinh tế cụ thể đều vi phạm những quy định, những chính sách kinh tế
cụ thể ở các mức độ khác nhau. Đa số các tội phạm về kinh tế được quy định
là những tội có cấu thành tội phạm hình thức (Điều 164 đến Điều 173 và Điều
183, Điều 184). Các tội phạm còn lại có cấu thành tội phạm vật chất, tức là tội
phạm hoàn thành khi hành vi đã gây ra hậu quả nhất định. Hậu quả của các tội
phạm về kinh tế là những thiệt hại cho nền kinh tế nói chung cũng như cho
từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế. Ở những tội phạm nhất định, hậu quả đó có
thể được thể hiện ở những thiệt hại vật chất cụ thể [38].
Đối với đa số các tội phạm về kinh tế, lỗi của người phạm tội là lỗi cố
ý. Chủ thể thực hiện có thể là bất kỳ ai có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật
định. Trong một số tội phạm, chủ thể chỉ có thể là những người có chức vụ,
quyền hạn trong các cơ sở hoạt động kinh tế và trong cơ quan Nhà nước hoặc
các tổ chức xã hội (Điều 174 đến Điều 182).
36. 28
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội trốn thuế rất đơn giản, theo
đó: “Người nào trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử lý hành chính mà
còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù
từ ba tháng đến ba năm”[38]. Quy định về tội trốn thuế đã có những thay đổi
rõ rệt so với các quy định trước đây, bởi lẽ trong giai đoạn này, nền kinh tế thị
trường đã bước nào được hình thành và hoàn thiện, các hành vi trốn thuế đã
bắt đầu manh nha trên thực tế. Vì vậy, quy định của BLHS có ý nghĩa quan
trọng trong đấu tranh phòng chống hành vi này.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, quy định về thuế GTGT chưa được ban
hành bởi lẽ đầu tiên Luật thuế GTGT ban hành năm 1997, từ đó, các hành vi
chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT mới bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam. Quy
định của Luật thuế GTGT năm 1997 một mặt đã tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động thu thuế nộp ngân sách nhà nước đồng thời cũng là cơ sở để doanh
nghiệp thu hồi được số thuế đã phải nộp. Tuy nhiên, lợi dụng các quy định
của Luật thuế GTGT về hoàn thuế, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện các hành
vi lập hồ sơ khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế của Nhà nước. Thực tiễn đã
đặt ra việc áp dụng các quy định của BLHS để đấu tranh phòng chống tội
phạm này.
37. 29
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH
VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
TRÊN ĐỊA BÀN TP.HẢI PHÒNG
2.1. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH
TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Sau một thời gian thực hiện, BLHS năm 1985 đã góp phần tích cực
trong việc đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm nói chung và các tội
phạm xâm phạm các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT
nói riêng. Tuy nhiên, các BLHS năm 1985 cũng đã bộc lộ những vướng mắc
bất cập gây khó khăn cho quá trình áp dụng. BLHS năm 1999 đã được ban
hành, đây là bước phát triển mới trong quá trình pháp điển hóa pháp luật hình
sự ở nước ta hiện nay. Quy định về các tội xâm phạm các tội xâm phạm
TTQLKT trong BLHS năm 1999 đã có những bước thay đổi cơ bản.
Như trên đã phân tích tại Chương 1 của luận văn, chúng ta thấy, BLHS
năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 không có một Chương hay Mục riêng
qui định về các tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT mà ở đây là một
nhóm các tội phạm nằm rải rác ở các Chương, các Mục khác nhau. Các tội
phạm này cùng có một đặc trưng là xâm phạm tới các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực thuế GTGT như: chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT, tham ô tài sản từ
tiền hoàn thuế GTGT, trốn thuế, buôn lậu.... Tuy nhiên, từ những đặc điểm
của các tội xâm phạm TTQLKT nói chung, chúng ta thấy, các tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT thuộc Chương XVI của BLHS chỉ
bao gồm các tội phạm sau: Tội trốn thuế (Điều 161); Tội in, phát hành, mua
bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 164a); Tội
38. 30
vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước (Điều 164b). Như vậy, những quy định về các tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT trong BLHS được quy định cụ thể
như sau.
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về tội trốn thuế.
Tội trốn thuế được quy định tại Điều 161 BLHS năm 1999, Điều 161
quy định:
Người nào trốn thuế với số tiền từ một trăm triệu đồng đến dưới ba
trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành
chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các
tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193,
194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm, thì... [40].
Trốn thuế là không nộp thuế cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Tội trốn thuế là tội phạm đã được quy định từ sớm vì hành vi trốn thuế là
hành vi xâm phạm đến ngân sách của Nhà nước. Tuy nhiên, chính sách thuế
cũng tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của đất nước và chính sách hình
sự đối với hành vi trốn thuế cũng phụ thuộc vào tình hình đó. Tội trốn thuế có
những dấu hiệu cơ bản sau.
- Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biệt nhưng
cũng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm này, mà chỉ
những người theo quy định của pháp luật phải nộp thuế mới có thể trở thành
chủ thể của tội phạm này. Chủ thể của tội phạm này phụ thuộc đối tượng phải
nộp các loại thuế cho Nhà nước.
Nếu không có đăng ký kinh doanh mà kinh doanh hoặc kinh doanh
không đúng với giấy phép kinh doanh nhằm trốn thuế thì thuộc trường hợp
phạm tội kinh doanh trái phép; nếu trốn thuế xuất nhập khẩu nhằm buôn bán
39. 31
hàng hoá qua biên giới thì thuộc trường hợp phạm tội buôn lậu; nếu buôn bán
hàng cấm nhằm trốn thuế thì thuộc trường hợp buôn bán hàng cấm.v.v...
Các điều kiện khác về chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với
các tội phạm khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong bất cứ trường hợp nào, vì cả ba
khoản của Điều 161 Bộ luật hình sự không có trường hợp nào là tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
- Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là trốn việc
nộp thuế theo quy định của pháp luật. Hành vi trốn nộp thuế có thể được biểu
hiện khác nhau như: Khai bớt doanh thu, khai man hàng hoá, gian lận trong
việc hạch toán hoặc có những thủ đoạn gian dối khác để không phải nộp số
tiền thuế mà theo pháp luật họ phải nộp.
Nếu người phạm tội không có thủ đoạn gian dối để trốn thuế mà chỉ có
hành vi chây ỳ không chịu nộp thuế, thì không phải là hành vi trốn thuế mà
tuỳ trường hợp người chây ỳ nộp thuế có thể bị xử phạt hành chính theo quy
định của pháp luật về hành vi chây ỳ việc nộp thuế. Nếu người có nghĩa vụ
phải nộp thuế, nhưng trốn tránh việc nộp thuế bằng cách rời khỏi nơi cư trú
hoặc bỏ trốn để không phải nộp thuế thì bị coi là trốn thuế [36, tr.72].
Nếu sau khi đã nộp đủ, nộp đúng số tiền thuế cho Nhà nước, nhưng sau
đó lại dùng thủ đoạn gian dối để được hoàn thuế thì hành vi của người phạm
tội là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: trong thời gian qua một số
doanh nghiệp, cá nhân đã lợi dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng, đã
dùng thủ đoạn gian dối làm thủ tục xin hoàn thuế giá trị gia tăng.
Hiện nay, theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 10/2003/TTLT/BTP-
BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 26 tháng 6 năm 2013 hướng dẫn một
số quy định của BLHS về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính - kế toán,
chứng khoán thì: “Người phạm tội trốn thuế là người thực hiện một trong các
40. 32
hành vi được qui định tại Điều 108 của Luật quản lý thuế, đồng thời thỏa mãn
các dấu hiệu được qui định tại Điều 161 của BLHS”.
Như vậy, hành vi trốn thuế vừa phải đáp ứng được điều kiện là vi phạm
quy định tại Điều 108 Luật quản lý thuế vừa thỏa mãn các dấu hiệu như trên
đã phân tích về Tội trốn thuế quy định tại Điều 161 BLHS. Điều 108 Luật
quản lý thuế quy định:
Người nộp thuế có một trong các hành vi trốn thuế, gian lận thuế sau
đây thì phải nộp đủ số tiền thuế theo quy định và bị phạt từ 1 đến 3 lần số tiền
thuế trốn:
1. Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ
sơ khai thuế sau chín mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế
theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 32 của Luật này hoặc ngày hết
thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định tại Điều 33 của Luật này;
2. Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc
xác định số tiền thuế phải nộp;
3. Không xuất hoá đơn khi bán hàng hoá, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hoá
đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hoá, dịch vụ đã bán;
4. Sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán hàng hoá,
nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền
thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm
hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;
5. Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số
tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;
6. Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai
bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan trong thời gian
sáu mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan;
7. Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu;
41. 33
8. Cấu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hoá nhằm mục đích
trốn thuế;
9. Sử dụng hàng hoá được miễn thuế không đúng với mục đích quy
định mà không khai thuế [44].
Qua Điều 108 Luật quản lý thuế ta thấy, có một hành vi vi phạm quy
định tại khoản 5 Điều 108, theo đó người nộp thuế sử dụng chứng từ, tài liệu
không hợp pháp khác để xác định sai số thuế phải nộp, số tiền thuế được
hoàn. Như vậy, hành vi trốn thuế bằng cách sửng dụng chứng từ, tài liệu
nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế rất tinh vi, nó vừa xâm phạm đến quan hệ về
nộp thuế, vừa có hành vi chiếm đoạt tiền hoàn thuế của Nhà nước.
Ví dụ, như trường hợp các đối tượng phạm tội lợi dụng các quy định về
mua hàng của những người trực tiếp sản xuất sản xuất chỉ cần bảng kê nguồn
hàng thu mua mà không quy định phải có xác nhận nguồn hàng, địa chỉ người
bán theo mẫu 04/GTGT, các đối tượng đã kê khống các bảng kê này, xuất hóa
đơn lòng vòng qua nhiều doanh nghiệp, ở nhiều địa phương khác nhau, nhằm
che dấu nguồn gốc hàng hóa gây khó khăn cho công tác kiểm tra, xác minh và
điều tra, xử lý của các cơ quan chức năng khi bị phát hiện.
Thủ đoạn thứ hai là các doanh nghiệp được thành lập các kiểu nêu trên
móc nối với nhau hoặc móc nối với các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện các
thủ đoạn mua bán hóa đơn GTGT, ghi giá hàng hóa trên hóa đơn GTGT
không đúng thực tế tạo điều kiện cho các đơn vị này lập hồ sơ khống xin hoàn
thuế. Hành vi này vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp trốn thuế, đối với số
thuế phải nộp vừa chiếm đoạt được tiền hoàn thuế của Nhà nước.
Thủ đoạn thứ ba là việc các đối tượng tạo dựng nguồn hàng hóa khống
bằng cách kê khai các điểm mua hàng không có thật, không rõ địa chỉ, mua
trôi nổi ở chợ hoặc trung tâm thương mại, sử dụng hóa đơn ở “chợ đen”, lập
các hợp đồng mua bán nội địa khống với các phương án: thanh toán trực tiếp,
không qua ngân hàng để tránh bị phát hiện. Hợp thức hóa việc mua bán nội
42. 34
địa khống bằng cách ký hợp đồng mua bán hàng giả với nhiều cung đoạn,
nhiều doanh nghiệp trước khi xuất khẩu. Mỗi cung đoạn đều làm giả phiếu
nhập kho, xuất kho, chế biến và vận chuyển.... thậm chí có đóng một phần
thuế GTGT. Nhưng mà mục đích chính là trốn thuế, và chiếm đoạt tiền hoàn
thuế giá trị gia tăng. Như vậy, hành vi trốn thuế là để nhằm mục đích không
phải nộp thuế nhưng lại được hưởng nhiều tiền hoàn thuế hơn.
Ở nước ta, hiện tượng trốn lậu thuế hay cụ thể là gian lận trong khấu
trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng đang là hiện tượng rất phổ biến, thủ đoạn ngày
càng tinh vi và xảo quyệt. Theo kết quả kiểm toán hàng năm, Kiểm toán Nhà
nước đã phát hiện một số sai phạm phổ biến như: hạch toán doanh thu không
đúng niên độ kế toán, doanh thu ghi trên hoá đơn thấp hơn giá thực tế thanh
toán để giảm thuế GTGT đầu ra và giảm thu nhập chịu thuế, áp dụng sai thuế
suất thuế GTGT, không phân bổ thuế GTGT đối với hàng không chịu thuế...
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp chủ yếu vi phạm ở những khoản chi
không được phép hạch toán như quà biếu, tham quan, chi khuyến mãi... hoặc
các hành vi gian lận trong hoàn thuế GTGT như thành lập nhiều doanh nghiệp
trung gian ở nhiều nơi khác nhau, tổ chức mua bán lòng vòng hàng hoá, dịch
vụ lập hồ sơ khống nhằm hạn chế sự kiểm soát của cơ quan thuế; lập hồ sơ
khống xuất khẩu hàng hoá nhất là hàng nông, lâm, hải sản chưa chế biến qua
đường biên giới đất liền để được hoàn thuế...; từ khi thực hiện việc điều chỉnh
mức thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu ưu đãi đối với một số nhóm mặt
hàng, lập tức xuất hiện hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu hạ giá khai báo
tính thuế để gian lận thuế. Nếu như trước kia, hành vi gian lận về thuế qua giá
chỉ xuất hiện ở hàng nhập khẩu thì thời gian gần đây, lực lượng hải quan đã
phát hiện hành vi gian lận thuế qua giá đối với cả hàng xuất khẩu. Có những
trường hợp doanh nghiệp “ẩn lậu” lên tới cả trăm tỷ đồng. Việc thành lập
doanh nghiệp để mua bán, sử dụng hóa đơn GTGT bất hợp pháp đang là chiêu
bài làm giàu bất chính được nhiều đối tượng sử dụng hiện nay. Loại tội phạm
43. 35
này thường hoạt động dưới phương thức và thủ đoạn là thành lập doanh
nghiệp với rất nhiều ngành nghề kinh doanh, thuê nhà với hợp đồng ngắn hạn
làm trụ sở công ty để có điều kiện mua hóa đơn GTGT. Sau khi mua được
hóa đơn, các đối tượng bỏ trốn khỏi địa chỉ kinh doanh.
Theo nghiên cứu của các nhà luật học và nghiên cứu thuế tài chính thì
các hành vi gian lận nhằm mục đích trốn thuế chủ yếu được thực hiện dưới
các hành vi sau:
- Bỏ ngoài sổ sách kế toán
Đây là thủ đoạn khá phổ biến hiện nay. Theo đó, người nộp thuế
thường sử dụng đồng thời hai hệ thống sổ sách kế toán, một hệ thống sổ kế
toán nội bộ phản ánh đầy đủ các giao dịch kinh tế, hệ thống kế toán còn lại chỉ
phản ánh một phần các giao dịch kinh tế để khai thuế. Kiểu hành vi này thường
xảy ra ở các doanh nghiệp (DN) dân doanh hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh bán lẻ, ăn uống, khách sạn, xây dựng dân dụng và sản xuất nhỏ. Đây
chính là một kiểu hoạt động kinh tế ngầm mà môi trường thuận lợi của nó là
nền kinh tế tiền mặt. Rất khó có thể xác định được số thuế thất thu do hành vi
trốn thuế này gây ra vì nếu xác định được thì đã không xảy ra thất thu thuế.
Một số vụ trốn thuế bị phanh phui thời gian qua cho thấy hành vi này
khá phổ biến và gây thất thu ngân sách. Chẳng hạn, Công ty trách nhiệm hữu
hạn (TNHH) thông tin tín nhiệm và xếp hạng DN Việt Nam đã trốn thuế
1.028 triệu đồng qua hành vi không ghi sổ kế toán tiền bán quyền mua căn hộ;
Công ty Viễn thông điện lực bán hàng không xuất hóa đơn, không phản ánh
vào sổ kế toán để trốn thuế 37 tỷ đồng.
- Tạo giao dịch bán hàng giả mạo
Mục tiêu của thủ đoạn này là chiếm đoạt tiền ngân sách nhà nước
(NSNN) thông qua hoàn thuế hoặc tiếp tay cho hành vi tham nhũng NSNN
của một bộ phận công chức được giao nhiệm vụ mua sắm tài sản, hàng hóa,
dịch vụ cho cơ quan nhà nước. Thủ đoạn này cũng liên quan đến hành vi giao
44. 36
dịch mua hàng giả mạo sẽ phân tích dưới đây nhằm giúp cho bên mua tăng
thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào được khấu trừ và giảm chi phí tính thuế
thu nhập doanh nghiệp.
Ngoài xuất khẩu khống, giao dịch bán hàng hóa, dịch vụ giả mạo còn
được thực hiện chủ yếu thông qua các hợp đồng bán hàng khống; các hợp
đồng cung cấp dịch vụ khống và xuất hóa đơn khống. Hành vi này được thực
hiện ở cả doanh nghiệp “ma” và cả ở các doanh nghiệp đang hoạt động kinh
doanh bình thường.
-Tạo giao dịch mua hàng giả mạo
Đây là hành vi trốn thuế khá phổ biến hiện nay, thực tế doanh nghiệp
không có khoản chi này nhưng đã tự tạo ra chứng từ để hợp pháp hóa khoản
chi không có thực, vì thế có thể gọi đây là chi khống. Chi khống thể hiện qua
những bảng kê thanh toán giả mạo với chữ ký giả, hợp đồng lao động giả mạo
(có trường hợp tên người lao động không có thật; có trường hợp tên người lao
động là có thật nhưng thực sự không làm việc cho doanh nghiệp đó) và thể
hiện ở những hóa đơn đi mua của cơ sở kinh doanh khác. Bằng hành vi này,
doanh nghiệp không chỉ trốn thuế thu nhập doanh nghiệp mà còn trốn cả thuế
GTGT thông qua việc khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Đối với những
hóa đơn đi mua, để phát hiện, cơ quan thuế phải làm tốt công tác đối chiếu,
xác minh.
Thủ đoạn tạo giao dịch mua hàng giả mạo không hoàn toàn trùng với
thủ đoạn thành lập doanh nghiệp “ma”, do việc tạo giao dịch mua hàng giả
mạo không chỉ thực hiện thông qua hành vi mua hóa đơn, song giữa chúng có
mối liên hệ mật thiết. doanh nghiệp “ma” là doanh nghiệp được thành lập theo
quy định của Luật Doanh nghiệp nhưng thực tế không sản xuất kinh doanh,
chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện để được phát hành hoá đơn, từ đó bán hóa
đơn cho các đối tượng khác hoặc trung gian lập hoá đơn mua bán khống, lập
hồ sơ giả mạo để xin hoàn thuế. Mức độ thiệt hại do những hoá đơn trôi nổi
45. 37
này gây ra là không thể kiểm soát được, bởi nó hoàn toàn phụ thuộc vào số
chi phí đầu vào cần hợp thức hoá của doanh nghiệp mua bán hoá đơn.
Hiện nay, hình thức gian lận này càng được tổ chức tinh vi hơn và có
hệ thống, tuy nhiên có một số đặc điểm mang tính định vị như: Các doanh
nghiệp “ma” thường thành lập dưới dạng công ty TNHH hay doanh nghiệp tư
nhân; chủ doanh nghiệp thường là người có hộ khẩu thường trú ở địa phương
khác đến đăng ký thành lập doanh nghiệp, hạn chế về trình độ học vấn, không
am hiểu pháp luật; văn phòng giao dịch thường đi thuê thời hạn ngắn, trụ sở
chật hẹp, tài sản không tương xứng với mô hình tối thiểu của một doanh
nghiệp bình thường; đăng ký kinh doanh nhiều ngành nghề, chủ yếu là thương
mại, dịch vụ tổng hợp, những ngành nghề không cần phải đăng ký vốn pháp
định và không bắt buộc có chứng chỉ hành nghề; doanh thu lớn nhưng chênh
lệch giữa thuế GTGT đầu vào và thuế GTGT đầu ra ít nên kê khai thuế thấp,
thậm chí có thuế GTGT phải nộp âm nhiều kỳ nhưng không làm thủ tục xin
hoàn thuế…
- Ghi giá bán thấp hơn giá thực tế
Hành vi này được gọi là “down” giá. Đây là hành vi ghi giá bán trên
hóa đơn và kê khai doanh thu tính thuế thấp hơn giá khách hàng thực tế thanh
toán. Hành vi này thường gặp ở các doanh nghiệp kinh doanh nhà hàng khách
sạn, vận tải tư nhân, xăng dầu, kinh doanh vật liệu xây dựng, bán ô tô và xe
máy, hàng trang trí nội thất... Các công ty xây dựng (nhà dân và đơn vị xây
dựng vãng lai) khi thi công các công trình ở các địa phương khác hay xây nhà
tư nhân thường khai báo không trung thực, không kê khai hoặc giấu bớt một
phần công trình. Hành vi gian lận này làm giảm thuế GTGT và thuế thu nhập
doanh nghiệp (TNDN) phải nộp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến số thu ngân
sách hàng năm.