SlideShare a Scribd company logo
1 of 122
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN MỸ LINH
PH¸P LUËT VÒ DÞCH Vô C¤NG
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN MỸ LINH
PH¸P LUËT VÒ DÞCH Vô C¤NG
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. VŨ TRỌNG HÁCH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Mỹ Linh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦ A PHÁ P LUẬT VỀ DI ̣CH VỤ CÔNG ..........8
1.1. Nhƣ̃ng vấn đề lý luâ ̣n về di ̣ch vụ công .......................................................8
1.1.1. Quan niê ̣m về di ̣ch vụ công ...........................................................................8
1.1.2. Đặc điểm dịch vụ công ................................................................................11
1.1.3. Phân loa ̣i di ̣ch vụ công.................................................................................13
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về dịch vụ công....................................17
1.2.1. Quan niệm pháp luật về dịch vụ công ........................................................17
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về dịch vụ công.....................................................20
1.2.3. Vai trò của pháp luật về dịch vụ công .........................................................26
1.2.4. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về dịch vụ công..............32
1.3. Pháp luật về dịch vụ công ở một số quốc gia và những vấn đề có
thể vận dụng ở Việt Nam...........................................................................47
1.3.1. Pháp luật về dịch vụ công ở một số nước....................................................47
1.3.2. Những vấn đề có thể vận dụng ở Việt Nam ................................................53
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM......57
2.1. Thực trạng nội dung pháp luật về dịch vụ công.....................................57
2.1.1. Những quy định về phạm vi cung cấp dịch vụ công ...................................57
2.1.2. Những quy định về chủ thể cung cấp dịch vụ công ....................................57
2.1.3. Những quy đi ̣nh về nguyên tắc quản lý di ̣ch vụ công.................................63
2.2. Những thành tựu và hạn chế của pháp luật về dịch vụ công ................66
2.2.1. Những thành tựu của pháp luật về dịch vụ công .....................................66
2.2.2. Những hạn chế, bất cập của pháp luật về dịch vụ công...........................72
2.2.3. Nhâ ̣n xét chung về pháp luâ ̣t di ̣ch vụ công..................................................79
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚ NG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ DI ̣CH VỤCÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................81
3.1. Các yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công ........................81
3.1.1. Yêu cầu của nền kinh tế thi ̣trường , hội nhâ ̣p kinh tế quốc tế .....................81
3.1.2. Yêu cầu của cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền..................83
3.1.3. Yêu cầu về nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ công cho công
dân và xã hội ................................................................................................84
3.2. Phƣơng hƣớ ng hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông ............................85
3.2.1. Xây dựng pháp luật về dịch vụ công toàn diện , thống nhất, đồng bộ,
phù hợp với thời kỳ hội nhập .......................................................................85
3.2.2. Xây dựng pháp luâ ̣t di ̣ch vụcông phù hợp với nền hành chính phục
vụ nhân dân một cách chính quy , chuyên nghiê ̣p........................................91
3.2.3. Xây dựng pháp luâ ̣t di ̣ch vụcông phù hợp với yêu cầu cải cách kinh
tế - văn hóa...................................................................................................94
3.2.4. Pháp luật về dịch vụ công phải đảm bảo dân chủ , minh ba ̣ch , cạnh
tranh bình đẳng cho các chủ thể tham gia di ̣ch vụ ......................................94
3.3. Nhƣ̃ng giải pháp xây dƣ̣ng p háp luâ ̣t di ̣ch vụcông trong giai
đoa ̣n hiê ̣n nay..............................................................................................96
3.3.1. Nhâ ̣n thứ c, thể chế hóa các nguyên tắc cung cấp di ̣ch vụcông ..................96
3.3.2. Ban hành các quy pha ̣m pháp luâ ̣t điều chỉnh chuyên biê ̣t trong lĩnh
vực di ̣ch vụcông ..........................................................................................99
3.3.3. Thực hiện thường xuyên rà soát, phápđiển hóapháp luật về dịchvụ công.......101
3.3.4. Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công....................105
3.3.5. Tăng cường các điều kiện đảm bảo để nâng cao chất lượng dịch vụ công......109
3.3.6. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân để thuận tiện
tiếp nhận và thụ hưởng các dịch vụ công ..................................................110
3.3.7. Tiếp tục xã hội hóa và tranh thủ nguồn lực tại chỗ, nguồn lực trong
nước và quốc tế cho việc phát triển dịch vụ công .....................................111
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................115
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dịch vụ công là dịch vụ mới trong xã hội, sự xuất hiện của dịch vụ công đã
tác động và đặt ra những yêu cầu mới với hệ thống pháp luật Việt Nam. Nhà nước
ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
dịch vụ công phù hợp với ý chí, lợi ích của Nhà nước, đáp ứng với nhu cầu thực tế
của người dân. Ngược lại, các dịch vụ công cần có những định hướng thống nhất từ
Nhà nước để tồn tại, phát triển đúng với quy luật, đáp ứng nhu cầu thực tế của
người dân trong thời kỳ hội nhập. Điều chỉnh pháp luật với các dịch vụ công là
nhu cầu tất yếu nhưng pháp luật chỉ có thể phát huy được ưu thế của mình khi
các quy định toàn diện, thống nhất và phù hợp với các điều kiện khách quan.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công là một quá trình với những
bước đi thận trọng trên cơ sở nhận thức đúng đắn về bản chất, phạm vi các dịch vụ
cũng như các yêu cầu về cách thức tổ chức và mô hình cung cấp dịch vụ phù hợp
với điều kiện của nước ta.
Pháp luật hiện hành được ban hành trong giai đoạn đầu hình thành các dịch
vụ công ở Việt Nam nên không thể tránh khỏi những hạn chế, bất cập do nhận
thức về dịch vụ chưa thật đầy đủ, toàn diện. Bản thân các dịch vụ công vẫn đang
trong quá trình hình thành và phát triển nên cần có những quy định pháp luật khoa
học, thống nhất để định hướng sự phát triển lâu dài phù hợp với xu thế khách
quan. Trong khi đó nhu cầu của người dân về các dịch vụ công không ngừng
tăng cao về số lượng, phong phú, đa dạng về nội dung; nhu cầu về quản lý nhà
nước một cách có hiệu lực, hiệu quả các vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng trong tình hình mới đã đặt ra những đòi hỏi mới với pháp luật về dịch vụ
công. Tất cả các yếu tố này đã tác động buộc hệ thống quy phạm pháp luật về
dịch vụ công phải không ngừng được bổ sung những quy định mới, tiến bộ, sửa
đổi, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp, lạc hậu để phù hợp với nhu cầu
của toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay.
2
Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam
hiê ̣n nay” làm luận văn cao học Luâ ̣t, mã ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp
luâ ̣t, nhằm mong muốn làm rõ hơn nhữn g vấn đề về lý luâ ̣n và thực tiễn của pháp
luâ ̣t di ̣ch vụcông ở Viê ̣t Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở phương Tây, dịch vụ công được nhiều quốc gia nghiên cứu từ đầu thế
kỷ 20. Tuy nhiên, ở Việt Nam dịch vụ công là vấn đề mới nhưng đã và đang
khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Nhiều tác giả đã có những công trình
nghiên cứu, đề tài khoa học, bài viết về dịch vụ công có giá trị góp phần hoàn
thiện loại hình dịch vụ này cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Điển hình
một số đề tài liên quan như:
- Chu Văn Thành (chủ biên), Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004, là tập hợp bài viết của nhiều tác giả khác
nhau (hai mươi bảy bài viết) về ba mảng nội dung lớn: Một là về những vấn đề lý
luận về dịch vụ công ở Việt Nam như khái niệm dịch vụ, mối quan hệ dịch vụ công
với nhà nước, vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ, vai trò quản lý của
Nhà nước với việc cung ứng dịch vụ. Thứ hai là thực tiễn tổ chức thực hiện dịch vụ
công ở Việt Nam. Trong nội dung này, các bài viết không chỉ đề cập đến thực
trạng cung cấp dịch vụ công, bao gồm cả các dịch vụ công cộng và các dịch vụ
hành chính công, mà còn nhấn mạnh đến quá trình chuyển giao việc thực hiện các
dịch vụ công cộng cho cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước thực hiện. Ba là kinh
nghiệm một số nước trên thế giới trong cung ứng dịch vụ công và quản lý cung
ứng dịch vụ công. Mặc dù vậy, những quan điểm trong các bài viết về xã hội hóa
các dịch vụ công (chủ yếu tập trung vào các dịch vụ công cộng) đã chỉ ra xu hướng
phát triển tất yếu của các dịch vụ công ở nước ta trong xã hội ngày nay.
- Chu Văn Thành, Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở
Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2007, tác giả
tập trung nghiên cứu về cung ứng dịch vụ và quản lý dịch vụ công dưới góc nhìn
đổi mới của cải cách hành chính. Trong cuốn sách này tác giả trình bày có hệ
3
thống về các vấn đề có liên quan đến dịch vụ công, dịch vụ công cộng, dịch vụ
công trong lĩnh vực hành chính, mô hình cung cấp theo phương thức xã hội hóa,
mô hình quản lý dịch vụ khi vừa có sự tham gia của cơ quan nhà nước, vừa có sự
tham gia của cá nhân và tổ chức vào cung cấp dịch vụ.
- Lê Chi Mai, Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
năm 2003; đã công bố những kết quả nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ về
dịch vụ công dưới các góc độ kinh tế, quản lý. Tác giả đã dày công nghiên cứu so
sánh giữa dịch vụ công cộng, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ hành chính
công để từ đó đưa ra những đặc trưng riêng của từng nhóm dịch vụ công. Các
nội dung về thực trạng cung cấp dịch vụ công trong cuốn sách khá chi tiết, có số
liệu minh họa gắn với những kết quả thực hiện trên thực tế nên phản ánh rõ nét
thực trạng cung cấp dịch vụ trong thời kỳ đầu. Đánh giá về những thành tựu đạt
được hay những tồn tại của các nhóm dịch vụ công, tác giả cũng căn cứ vào các
quy định pháp luật có liên quan để bình luận, nhận xét.
- Lê Chi Mai, Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước, do
Nhà xuất bản Lao động - Xã hội xuất bản năm 2002, trong cuốn này tác giả viết về
các vấn đề đặt ra trong giai đoạn đầu thực hiện xã hội hóa các dịch vụ công, bao
gồm các dịch vụ công cộng như vệ sinh môi trường, vận tải công cộng và các dịch
vụ sự nghiệp công như giáo dục, văn hóa, y tế, cũng được đề cập khá chi tiết. Các
nội dung trong cuốn sách đã phản ánh trung thực hiện trạng cung cấp dịch vụ cùng
với những ưu điểm và nhược điểm cần khắc phục. Điểm mạnh là tác giả đã đưa ra
các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiến trình xã hội hóa các dịch vụ công
có tính thuyết phục cao. Các nghiên cứu đã góp phần quan trọng làm sáng tỏ những
vấn đề về sự tồn tại khách quan của các dịch vụ công. Tuy nhiên, các nghiên cứu của
tác giả chủ yếu dưới góc độ quản lý, đối tượng nghiên cứu trong nội dung các cuốn
sách không phải là pháp luật về các hoạt động dịch vụ, vì thế pháp luật được nhắc
đến còn khá mờ nhạt, chưa toàn diện, chưa trực tiếp đi vào những quy định, giải
pháp có tính pháp lý cụ thể.
- Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên). Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch
4
vụ công - Nhận thức, thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin
xuất bản, năm 2002. Cuốn sách này tập hợp các bài viết của nhiều tác giả, chia
thành ba phần lớn: Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công, những bài
viết trong phần này chủ yếu đề cập đến bản chất của dịch vụ công, dịch vụ công
trong mối quan hệ với nhà nước và trách nhiệm của nhà nước trong cung ứng dịch
vụ công và quản lý dịch vụ công; Các mô hình cung ứng dịch vụ công, bàn về thực
tiễn triển khai thực hiện các dịch vụ công, trong đó có thí điểm thực hiện dịch vụ
công chứng, dịch vụ nhà đất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và mô hình thí
điểm tại Ủy ban nhân dân Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở những
nghiên cứu này, trong Phần 3 các tác giả đã được tập trung giải quyết "Các vấn đề
bức xúc đặt ra từ thực tiễn và một số giải pháp". Các mô hình thí điểm về dịch
vụ hành chính công ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh cũng được xem xét, đánh
giá để kết luận về sự phù hợp với tính chất của các dịch vụ công, từ đó rút ra bài học
và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động. Nội dung cuốn sách Vai trò của
Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công - Nhận thức, thực trạng và giải pháp vừa tập
trung phân tích những vấn đề có tính lý luận, vừa giải quyết những yêu cầu của thực
tiễn đặt ra nên có ý nghĩa lớn cả trong khoa học và thực tiễn.
- Đỗ Thị Hải Hà, “Quản lý Nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công”, Nhà
xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, năm 2007, tác giả dựa trên các kết quả nghiên cứu,
tìm tòi các bài học, kinh nghiệm của nước ngoài trong quản lý nhà nước đối với
cung ứng dịch vụ công - một công việc cần thiết và bổ ích, nhất là sau khi Việt Nam
gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Qua đó, tác giả đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả việc cung ứng các dịch vụ công cho xã
hội của nước ta.
- Đặng Đức Đạm – Phó trưởng Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Đổi
mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam, đăng trên website: http://www.vnep.org.vn/
Modules/CMS/Upload/6/ đưa ra quan điểm hữu ích về khái niệm dịch vụ công và
giải pháp hoàn thiện việc cung ứng nhiều loại hình dịch vụ công.
5
Có thể nhận thấy, các cuốn sách, bài viết nêu trên đã góp phần khẳng định
sự tồn tại khách quan của dịch vụ công phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế -
xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Một số tác phẩm bước đầu có đề cập
đến pháp luật về dịch vụ công. Một trong những nội dung cơ bản được đề cập đến
trong tất cả các cuốn sách này là tập trung làm rõ bản chất, khái niệm, đặc điểm và
phân loại các dịch vụ công, tập trung nghiên cứu, bàn luận về các loại dịch vụ
công. Hầu hết các tác phẩm chưa đi sâu nghiên cứu pháp luật về dịch vụ công một
cách toàn diện, sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luâ ̣n văn là nghiên cứu thực tra ̣ng của pháp luâ ̣t về di ̣ch vụ
công ở Viê ̣t Nam hiê ̣n nay , từ đó đề xuất các giải pháp để xây dựng , hoàn thiện
pháp luật về dịch vụ công phù hợp với tình hình hiê ̣n nay.
Để làm rõ mục đích trên, luâ ̣n văn có nhiê ̣m vụ:
- Làm rõ các khái niệm về: quan niê ̣m, đă ̣c điểm, phân loa ̣i di ̣ch vụcông theo
quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t hiê ̣n hành.
- Làm rõ khái niệm, đối tượng, phương pháp, nội dung của pháp luật về dịch
vụ công; quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về dịch vụ công ; thực
trạng pháp luật về dịch vụ công hiện nay ở Việt Nam.
- Chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng , hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công
để góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ công , đáp ứ ng đòi hỏi của pháp luâ ̣t và
nhu cầu của người dân trong thời kỳ hội nhâ ̣p .
- Đưa ra các giải pháp xây dựng, hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công ở
Viê ̣t Nam .
4. Đối tƣợng và pha ̣m vi nghiên cƣ́ u của luâ ̣n văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật về
dịch vụ công ở Việt Nam , có tham khảo pháp luật về dịch công của một số quốc
gia trên thế giới .
Phạm vi nghiên cứ u tâ ̣p trung chủyếu vào hê ̣thống pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông ở
Viê ̣t Nam trong giai đoa ̣n khoảnghơn 10 năm trở la ̣i đây.
6
5. Cơ sở lý luâ ̣n và phƣơng pháp nghiên cƣ́ u của luâ ̣n văn
Cơ sở lý luâ ̣n của viê ̣c nghiên cứ u đề tài là những luâ ̣n điểm trong học thuyết
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật ; các quan điểm
của Đảng Cộng sản Viê ̣t Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về cải cách bộmáy nhà nước,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Viê ̣t Nam xã hội chủ nghĩa, về xây dựng hoàn thiện
hê ̣thống pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay.
Đồng thời, tác giả có tham khảo và kế thừa có chọn lọc một số công trình
nghiên cứ u của các nhà khoa học về di ̣ch vụcông.
Các phương pháp được tác giả sử dụng trong luâ ̣n văn gồm : phương pháp
phân tích , tổng hợp , diễn di ̣ch , quy na ̣p , phương pháp li ̣ch sử , phương pháp hê ̣
thống, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học...
6. Nhƣ̃ng điểm mớ i của luâ ̣n văn
Với mục đích và nhiê ̣m vụnêu trên , những nội dung sau đây là những đóng
góp mới:
- Hê ̣thống phân tích , bổ sung những vấn đề có tính lý luâ ̣n về dịch vụ công,
yêu cầu cung cấp các di ̣ch vụcông cho xã hội và phục vụ đời sống nhân dân.
- Đánh giá về thực tra ̣ng chất lượng , tính đồng bộ , thống nhất , đầy đủ
của pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay , đưa ra một số ưu điểm và
hạn chế ;
- Đưa ra những căn cứ khoa học , xác đi ̣nh phương hướng, giải pháp nhằm
góp phần xây dựng hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thƣ̣c tiễn của luâ ̣n văn
Kết quả nghiên cứ u của luâ ̣n văn bổ sung vào sự phát triển của lý luâ ̣n
nhà nước và pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức lý luận về dịch vụ công . Với
ý nghĩa đó, luâ ̣n văn góp phần:
- Thống nhất một số nhâ ̣n thứ c cơ bản liên quan đến di ̣ch vụcông , pháp luật
về di ̣ch vụcông.
- Khái quát quá trình hình thành và phát triển cũng như phân tích những quy
đi ̣nh của pháp luật về dịch vụ công để đánh giá chất lượng, mứ c độhoàn thiê ̣n... của
7
pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam ; chỉ ra những nguyên nhân , tồn ta ̣i củ a pháp
luâ ̣t về di ̣ch vụcông.
- Cung cấp các căn cứ khoa học cho viê ̣c hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông.
- Luâ ̣n văn có thể làm tài liê ̣u tham khảo cho các nhà nghiên cứ u, giảng dạy,
những người làm công tác thực tế và sinh viên, học viên trong các cơ sở đào ta ̣o cử
nhân luâ ̣t , cử nhân hành chính , các trường đào tạo , bồi dưỡng cán bộcủa Đảng
và Nhà nước…
8. Kết cấu của luâ ̣n văn
Ngoài phần mở đầu, kết luâ ̣n, và danh mục tài liê ̣u tham khảo , luâ ̣n văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luâ ̣n của pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông.
Chương 2: Thực tra ̣ng pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông ở Viê ̣t Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công
ở Việt Nam hiện nay.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦ A PHÁ P LUẬT VỀ DI ̣CH VỤCÔNG
1.1. Nhƣ̃ng vấn đề lý luâ ̣n về di ̣ch vụcông
1.1.1. Quan niê ̣m về di ̣ch vụ công
Khái niệm "dịch vụ công" được sử dụng phổ biến rộng rãi ở châu Âu sau
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Dịch vụ công theo từ tiếng Anh là “public
service”, trong tiếng Pháp là”service public”. Trong từ điển English Dictionary định
nghĩa: từ Service (dịch vụ, phục vụ) The performance of duties by a waiter or
servant – dịch vụ là sự thực hiện nhiệm vụ của người phục vụ. Theo nghĩa Hán -
Việt: dịch (làm, biến đổi, chuyển dời); vụ (chuyên, vụ việc, phục vụ), công việc
mang tính chuyên môn phục vụ cho con người, cho xã hội. Từ điển Bách khoa Việt
Nam cho rằng: dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu sản
xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Từ điển Kinh tế học hiện đại: dịch vụ là các chức
năng hoặc nhiệm vụ được thực hiện mà người ta có nhu cầu và do đó, tạo ra giá cả
hình thành nên một thị trường thích hợp. Dịch vụ là những hoạt động mang tính
phục vụ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người, của xã hội.
Trong thời đại mới, khi nói đến dịch vụ người ta thường nghĩ ngay đến dịch vụ gắn
liền với các nhiệm vụ kinh tế: là một loại sản phẩm kinh tế, không phải là vật phẩm
mà là công việc của con người dưới hình thái lao động thể lực, kiến thức và kỹ năng
chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thương mại. Vậy, dịch vụ là những hoạt động
mang tính phục vụ, là một quá trình luân chuyển hàng hóa từ người sản xuất đến
người tiêu dùng hoặc các hoạt động khác nhằm đáp ứng nhu cầu sống của cá nhân
hay một nhóm người. Đó là một khái niệm rộng và dịch vụ công chỉ là một nhóm
trong số những nhóm dịch vụ nói chung.
Dịch vụ công được hiểu gắn với phạm trù hàng hóa công cộng. Khi loại hàng
hóa được cung cấp thỏa mãn được một số đặc tính cơ bản sau, dịch vụ đó sẽ được
gọi là dịch vụ công: 1. Đó là một loại hàng hóa mà mọi người đều phải sử dụng.
Nói cách khác, đối tượng cung cấp là loại hàng hóa cần thiết cho tất cả mọi người.
9
2. Sự công bằng, bình đẳng được bảo đảm. Không phân biệt giai tầng xã hội, không
phân biệt khu vực sinh sống và sắc tộc, loại dịch vụ này được cung cấp một cách
bình đẳng cho mọi người. 3. Hàng hóa được duy trì không chạy theo lợi nhuận kinh
tế. Ngay cả khi không được tiêu dùng thì hàng hóa công cộng vẫn được duy trì. Vậy
rõ ràng lợi nhuận kinh tế không phải là yếu tố quyết định sự tồn tại của loại hàng
hóa này mà mục đích chính là sự ổn định, phát triển xã hội và bảo đảm các điều
kiện sống thiết yếu cho người dân. Thậm chí có những loại hàng hóa công cộng
được nhà nước bao cấp một phần hoặc toàn bộ. Bởi vậy, nhiều người quan niệm,
dịch vụ công luôn gắn với vai trò của nhà nước. Có thể nói dịch vụ công chính là
dịch vụ cung cấp loại hàng hóa vừa được làm rõ – hàng hóa công cộng [16, tr.8].
Các nhà nghiên cứu hành chính xuất phát từ góc nhìn của chủ thể quản lý
nhà nước, cho rằng dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong
việc thực thi chức năng quản lý hành chính và bảo đảm cung ứng các hàng hóa công
cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của đông đảo cộng đồng. Theo cách hiểu này
vai trò và trách nhiệm của nhà nước được nhấn mạnh đối với những hoạt động cung
cấp hàng hóa công cộng. Nhìn từ phía đối tượng được hưởng lợi ích của dịch vụ
công có thể hiểu, đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của xã hội và cộng đồng, việc tiến hành các hoạt động ấy có thể do chủ thể
nhà nước và ngoài nhà nước đảm nhiệm. Nhưng các nhiệm vụ về lợi ích chung ngày
càng tăng lên do sự gia tăng nhu cầu xã hội đã dẫn tới việc một số tư nhân cũng
tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ này . Yếu tố về tổ chức (người trực tiếp
cung ứng dịch vụ công ) không c ̣òn là yếu tố quyết định để biết xem một dịch vụ có
phải là dịch vụ công hay không . Từ thực tế đó, vấn đề đặt ra không phải ai là người
trực tiếp cung ứng một dịch vụ phục vụ lợi ích chung, mà là ở chỗ ai chịu trách
nhiệm cuối cùng về việc cung ứng dịch vụ này cho xã hội. Từ đó, các tác giả cho
rằng, "một hoạt động lợi ích chung được một pháp nhân công quyền đảm nhiệm
được coi là một dịch vụ công" – "đảm nhiệm" ở đây được hiểu như trách nhiệm của
Nhà nước trong việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công. Như vậy, một hoạt động với
lợi ích chung do một tư nhân đảm trách không được xem là một dịch vụ công, trừ
phi có sự tác động của Nhà nước đến việc cung ứng dịch vụ đó [19].
10
Quan niệm về dịch vụ công cũng thay đổi từng thời kỳ, tùy thuộc vào bối
cảnh từng quốc gia và mức độ ưu tiên cung ứng loại dịch vụ này. Có nước cho rằng
“dịch vụ công là hoạt động vì lợi ích chung, do cơ quan nhà nước hoặc tư nhân
đảm nhiệm” [17]. Quan niệm khác lại cho rằng: “Dịch vụ công là một loại dịch vụ
do nhà nước (cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước) trực tiếp thực
hiện hoặc ủy quyền cho các tổ chức, đơn vị ngoài nhà nước thực hiện dưới sự giám
sát của nhà nước” [37]. Danh mục các dịch vụ công cũng được xếp theo những
nhóm khác nhau ở những quốc gia khác nhau và mỗi nước lại có nhận thức khác
nhau về phạm vi của dịch vụ công. Ví dụ, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được
coi là dịch vụ công, từ quốc phòng, an ninh, pháp chế tới các chính sách kinh tế xã
hội, môi trường, văn hóa… Trong khi đó, Pháp và Italia đều quan niệm dịch vụ công
là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan nhà nước
đảm nhiệm hoặc do các tổ chức tư nhân thực hiện theo tiêu chuẩn, quy định của nhà
nước. Hay ở Singapore quốc gia ở Đông Nam Á gần Việt Nam, những dịch vụ như
ngân hàng, bưu chính, giao thông công cộng và tiện ích cơ bản được tách khỏi hoạt
động của Nhà nước, họ đơn thuần là những pháp nhân thương mại. Chính phủ đã lập
ra các cơ quan quản lý để giám sát ở tầm vĩ mô dưới hình thức xem xét mức phí mà
các đơn vị này đặt ra, nhất là trong những lĩnh vực độc quyền.
Ở Việt Nam, khái niệm dịch vụ công được hiểu đó là chức năng phục vụ
của nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng mà không phải lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Nhiều người cho rằng dịch vụ công là những hoạt
động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của
xã hội, do nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu
vực tư nhân thực hiện.
Hiện nay, khái niệm của thuật ngữ dịch vụ công ở nước ta vẫn còn nhiều ý
kiến khác nhau. Tuy nhiên, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã quy định vấn đề
dịch vụ công trong chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, như
Luật Tổ chức Chính phủ 2001, Điều 8 Khoản 4 quy định các nhiệm vụ của Chính
phủ: “Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển kinh tế quốc dân, phát triển văn
11
hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công”; hoặc Điều 22 quy
định: “Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý
nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực…”. Luật Tổ chức Chính phủ 2015
số 76/2015/QH13 vừa được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2015 một lần
nữa khẳng định: “Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc
ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” [25, Điều 39, khoản 1]. Điều này có
nghĩa là nhà nước thông qua các cơ quan hành chính có vai trò quan trọng trong
cung ứng và quản lý các dịch vụ công, khai thác các nguồn lực trong xã hội, nâng
cao chất lượng dịch vụ công phục vụ người dân.
Dù được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau, song dịch vụ công có
những tính chất chung nhằm phục vụ nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã
hội, của cộng đồng dân cư và trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này thuộc về nhà
nước. Và cho dù nhà nước có ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân khác thực hiện
thì nhà nước vẫn chịu trách nhiệm quản lý, điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng
trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục sự bất cập của thị trường trong
tiến trình hội nhập hiện nay.
Từ những phân tích trên, tôi cho rằng: Dịch vụ công là dịch vụ cung cấp
hàng hóa công cộng do nhà nước bảo đảm thực hiện bằng cách trực tiếp hoặc ủy
quyền, nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân, vì lợi ích chung của cộng
đồng và sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Đặc điểm dịch vụ công
1.1.2.1. Dịch vụ công mang tính chất xã hội:
Dịch vụ được thực hiện trong phạm vi rộng, bao gồm các hoạt động vì lợi ích
chung của cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người dân một cách công
bằng, bình đẳng, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội. Dịch vụ công có vai trò
bảo đảm ổn định xã hội và mang tính quần chúng rộng rãi. Từ đó có thể nhận thấy
lợi ích kinh tế không phải là điều kiện tiên quyết chi phối các dịch vụ này. Khác với
12
các hoạt động kinh tế, dân sự sinh lợi khác, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ
công theo sự ủy quyền của nhà nước phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt mà
nhà nước đặt ra riêng cho lĩnh vực dịch vụ cung ứng.
1.1.2.2. Là một loại dịch vụ do Nhà nước (dưới hình thức là các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước) trực tiếp thực hiện hoặc uỷ quyền cho
các cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước thực hiện dưới sự giám sát của Nhà nước,
nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội.
Ở đây, Nhà nước là người chịu trách nhiệm đến cùng trước nhân dân, xã hội
về số lượng dịch vụ cũng như chất lượng dịch vụ. Trách nhiệm thể hiện qua việc
hoạch định chính sách, thể chế pháp luật, quy định thẩm quyền của các đơn vị công
lập và ngoài công lập cung ứng dịch vụ, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nghiệp vụ của các đơn vị này, đảm bảo hài hòa các mối quan hệ giữa các chủ thể
tham gia cung ứng dịch vụ công.
1.1.2.3. Đối tượng cung ứng là loại hàng hóa đặc biệt
Như phân tích ở phần khái niệm, loại hàng hóa được cung ứng ở đây là hàng
hóa “công cộng”. Dịch vụ buộc phải được duy trì ngay cả khi không sinh lợi và
không được tiêu dùng. Bắt nguồn từ mục đích chính là phục vụ lợi ích cộng đồng
nên loại hình dịch vụ công không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Vì thế loại
hàng hóa được cung ứng ở đây không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Hàng
hóa có thể là hiện vật hay phi hiện vật đều được người sử dụng trả tiền dưới hình
thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước chứ không trả trực tiếp (trừ một số phí và lệ
phí theo quy định). Có những dịch vụ người thụ hưởng chỉ phải đóng một phần hay
được miễn toàn bộ lệ phí.
1.1.2.4. Thể hiện rõ vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước:
Nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong quá trình cung cấp dịch vụ công. Mặc
dù nhiều dịch vụ công được chuyển giao ra ngoài khu vực nhà nước, song không
thoát ly khỏi sự quản lý và kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Nhà nước bảo đảm
cho những dịch vụ này phải được duy trì, ngay cả trong trường hợp nó không đem
lại lợi nhuận mong muốn. Ngoài ra, Nhà nước còn phải thực hiện chức năng điều
13
tiết dịch vụ công nhằm khắc phục những hạn chế của thị trường, sao cho phù hợp
với những khu vực có đặc điểm, điều kiện, nhu cầu khác nhau của mỗi giai tầng
trong xã hội. Nhà nước thực hiện việc hỗ trợ đặc biệt cho những đối tượng khó
khăn, các đối tượng chính sách và bảo đảm an sinh xã hội.
1.1.2.5. Không tuân theo quan hệ thị trường đầy đủ
Nếu trong các giao dịch kinh tế, dân sự tính sinh lợi được đặt lên hàng đầu
thì trong dịch vụ công các giao dịch lại có mục đích chủ yếu là phục vụ cho lợi ích
chung của cộng đồng trên cơ sở cung cấp các loại hàng hóa công cộng, thiết yếu.
Dịch vụ công được duy trì chủ yếu không theo các quy luật cung – cầu mà nó tồn
tại dựa trên sự bảo đảm của nhà nước.
1.1.3. Phân loại di ̣ch vụ công
Có nhiều cách phân loại các loại hình dịch vụ công. Căn cứ vào điều kiện
thực tế ở Việt Nam, xét theo chủ thể cung ứng có thể chia thành các loại: dịch vụ do
nhà nước trực tiếp cung ứng, dịch vụ do nhà nước ủy quyền toàn phần hoặc một
phần. Tuy nhiên, để nghiên cứu một cách tổng thể, dựa vào tính chất của dịch vụ
công được chia thành các nhóm như sau:
1.1.3.1. Dịch vụ hành chính công
Một số nhà nghiên cứu cho rằng hành chính công được quan niệm là hoạt
động của cơ quan nhà nước, mang tính quyền lực và sử dụng quyền lực của nhà
nước phục vụ lợi ích hợp pháp của công dân. Trong Giáo trình Hành chính học đại
cương, tác giả đưa ra khái niệm:
Hành chính công là một thiết chế được tạo thành bởi hệ thống các
pháp nhân chính phủ, bộ, ủy ban nhân dân, cơ quan nhà nước, công sở
hành chính và sự nghiệp, có thẩm quyền tổ chức và điều hành mọi quá
trình kinh tế - xã hội và hoạt động của các tổ chức, công dân bằng văn
bản quy phạm để thi hành luật.
Hoặc một quan niệm khác lại cho rằng dịch vụ hành chính công là tổng thể
các chính sách, quy định, quy trình, thủ tục... được Nhà nước đầu tư ngân sách và
chịu trách nhiệm quản lý và điều hành, “tổ chức quản lý và thực hiện các hoạt động
của bộ máy chính phủ trong đó có các hoạt động thực thi luật, quy định và quyết
14
định của chính phủ, thực hiện quản lý cung ứng dịch vụ công” [32]. Từ những quan
niệm trên có thể thấy rằng dịch vụ hành chính công gắn liền với chức năng quản lý
của nhà nước. Chỉ có nhà nước mới là chủ thể đủ tư cách pháp lý để đảm nhận các
hoạt động cung ứng. Dịch vụ hành chính công liên quan đến những dịch vụ công
cốt lõi, bao gồm các dịch vụ mà Nhà nước là người duy nhất cung cấp và mọi công
dân bắt buộc phải nhận khi có nhu cầu về chúng. Nhà nước cung cấp các loại dịch
vụ này dựa trên cơ sở pháp lý và nguyên tắc quản lý nhà nước cơ bản. Trước đây,
dịch vụ hành chính công đồng nhất với việc thực hiện các dịch vụ công cốt lõi và
Nhà nước là chủ thể duy nhất cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, sau này khi dịch vụ
công được mở rộng thì một vài dịch vụ hành chính công cũng đã được Nhà nước ủy
quyền cho khu vực tư nhân thực hiện.
Chủ thể thực hiện dịch vụ hành chính công là nhà nước hay các cá nhân, tổ
chức được nhà nước ủy quyền thực hiện. Các chủ thể này cung cấp dịch vụ hành
chính công liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật của các cơ quan hành chính
nhà nước, cụ thể như các hoạt động thẩm định hồ sơ, ký phê duyệt, tổ chức cho
đăng ký, cấp các loại giấy phép, giấy tờ pháp lý (cấp giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp phép khai thác khoáng
sản, cấp giấy phép xuất nhập khẩu, hải quan, chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu...),
công chứng, chứng thực, an ninh, trật tự an toàn xã hội... Người dân thụ hưởng các
dịch vụ này không phải trả ngang giá các sản phẩm mà họ nhận được mà chỉ phải
đóng lệ phí hoặc phí theo quy định của nhà nước. Để phân biệt với các dịch vụ công
khác, xin đưa ra một số đặc trưng của dịch vụ hành chính công như sau:
- Cung cấp các dịch vụ hành chính dựa trên cơ sở pháp lý và nguyên tắc quản
lý cơ bản của nhà nước. Đó là việc thực hành quyền hạn kinh tế, chính trị, xã hội và
hành chính nhằm quản lý các vấn đề của nhà nước ở các cấp. Có thể liệt kê một số
dịch vụ như: pháp luật, an ninh, quốc phòng, các nguồn phúc lợi xã hội, cấp giấy sở
hữu, giấy tờ tùy thân, môi trường, phòng dịch...
- Dịch vụ hành chính công bao gồm các quá trình xây dựng chính sách và
thực thi chính sách. Xây dựng chính sách là một vấn đề quan trọng của nền hành
15
chính công, các chính sách được xây dựng sẽ tác động đến sự vận hành và thực
hiện các dịch vụ công. Các quyết định về chính sách có thể ảnh hưởng đến hành vi
và vì vậy sẽ cải thiện hoặc làm giảm chất lượng của dịch vụ. Sau khi một quyết
định được đưa ra thì tất yếu sẽ chuyển thành quá trình thực thi chính sách. Đó là
một chuỗi các thủ tục và thực hành, trực tiếp tác động đến người dân khi họ có
nhu cầu sử dụng dịch vụ.
- Mục tiêu của dịch vụ hành chính công nhằm cung cấp các dịch vụ với chất
lượng tốt cho mọi người dân một cách công bằng, bình đẳng, đặc biệt là người
nghèo. Dịch vụ hành chính công đóng vai trò quan trọng trong xóa đói giảm nghèo
bởi vì nó khuyến khích tính minh bạch và trách nhiệm giải trình từ những cán bộ và
cơ quan nhà nước.
Một cách chung nhất, dịch vụ hành chính công được hiểu là toàn bộ các yếu
tố như bộ máy chung, thủ tục, hệ thống, nhân sự... được nhà nước trả lương để quản
lý, định hướng về các vấn đề thực hành quản lý; quản lý và thực thi các hoạt động
quản lý nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước. Bao gồm các quá trình thi hành
luật, quy định và quyết định của chính phủ và việc quản lý liên quan đến cung cấp
dịch vụ. Dịch vụ hành chính công phục vụ lợi ích hoặc tạo điều kiện cho việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức do cơ quan hành chính nhà nước, các tổ
chức thuộc cơ quan hành chính nhà nước, cá nhân, tổ chức được Nhà nước cho
phép cung cấp theo nguyên tắc bình đẳng, không vì mục đích lợi nhuận, góp phần
thiết lập, duy trì và bảo vệ trật tự quản lý hành chính nhà nước.
1.1.3.2. Dịch vụ xã hội công
a. Dịch vụ sự nghiệp công: Loại dịch vụ này bao gồm các hoạt động cung
cấp phúc lợi xã hội thiết yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, y tế,
chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội… Theo xu hướng chung hiện nay là Nhà nước
chỉ thực hiện những dịch vụ mà xã hội không thể làm được, vì vậy đối với loại dịch
vụ sự nghiệp công, nhà nước có thể chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ
cho khu vực tư nhân và tổ chức xã hội, nhằm giảm tải cho bộ máy nhà nước, khai
thác nguồn lực trong xã hội, phá bỏ bao cấp, nâng cao chất lượng dịch vụ công phục
16
vụ người dân. Đây chính là điểm khác với loại dịch vụ hành chính công. Thuật ngữ
xã hội hóa các dịch vụ sự nghiệp công cũng được xuất hiện và mở rộng. Nhiều bệnh
viện, nhà trường và các tổ chức sự nghiệp khác do các tổ chức, cá nhân thực hiện
xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng. Mặc dù về mặt chất lượng cung ứng dịch vụ
còn nhiều điều phải bàn, song việc mở rộng chủ thể cung ứng đã phá vỡ thế độc
quyền của nhà nước, tạo ra những tiện ích đáng kể cho người sử dụng.
b. Dịch vụ công ích: đó là các hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ cơ bản
thiết yếu cho người dân liên quan đến vệ sinh môi trường, cấp điện, nước, vận tải
công cộng, xử lý rác thải, phòng chống thiên tai… đều được coi là các dịch vụ công
ích. Các loại dịch vụ này thường được nhà nước ủy quyền cho các doanh nghiệp và
tư nhân thực hiện.
Với các đặc điểm đa dạng của mỗi loại dịch vụ công ích trên, có thể thấy rằng
cung ứng các dịch vụ này có hiệu quả, chất lượng là một điều khó khăn đòi hỏi phải
xác định loại nào giữ vai trò chủ chốt, loại nào có thể giao cho các tổ chức ngoài nhà
nước thực hiện. Nếu giải quyết không tốt vấn đề này hiệu quả dịch vụ sẽ giảm sút,
ảnh hưỏng tiêu cực đến đời sống nhân dân và sự phát triển chung của toàn xã hội.
Tính ưu việt của một xã hội được phản chiếu một cách rõ ràng qua chất
lượng cung ứng dịch vụ công ích, bởi vì dịch vụ công ích là những hoạt động phục
vụ các lợi ích tối cần thiết của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững có kỷ
cương, trật tự. Mọi xã hội đều có những vấn đề chung, liên quan đến cuộc sống của
tất cả mọi người. Đó là các vấn đề như trật tự trị an, phân hóa giàu nghèo, giáo dục,
y tế, dân số, môi trường, tài nguyên,…Để giải quyết thành công các vấn đề này, cần
có sự góp sức của cả nhà nước, cộng đồng và các tổ chức xã hội thông qua việc
cung ứng các dịch vụ công ích. Nếu các dịch vụ này bị ngừng cung cấp hoặc cung
cấp không đầy đủ, chất lượng thấp thì sẽ dẫn đến những rối loạn trong xã hội, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống của mỗi người dân, đồng thời tác động tiêu cực
đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
Như vậy dù có là loại hình dịch vụ công ích nào thì nhìn chung, các dịch vụ
này đều đáp ứng những nhu cầu chung của xã hội về các lĩnh vực sau đây: Duy trì
trật tự công cộng và an toàn xã hội như quốc phòng, an ninh, ngoại giao; Bảo vệ trật
17
tự kinh tế, trật tự mua bán trên thị trường thông qua việc xây dựng và thực thi thể
chế kinh tế thị trường; Cung cấp các tiện ích công cộng cho toàn thể thành viên
trong xã hội như bảo vệ sức khỏe, giao thông công cộng, thông tin, thư viện công
cộng…; Quản lý tài nguyên và tài sản công cộng như: quản lý tài sản nhà nước, bảo
vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên; Bảo vệ quyền công dân, quyền con người...
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về dịch vụ công
1.2.1. Quan niệm pháp luật về dịch vụ công
Khi dịch vụ công ra đời thì đồng thời xuất hiện nhu cầu cần có các quy tắc
chung làm cơ sở cho hành vi của các bên chủ thể tham gia hoạt động này. Dịch vụ
công vừa có tính chất phục vụ quyền, lợi ích của dân chúng, vừa bảo đảm mục
đích quản lý nhà nước, dưới góc độ khác, dịch vụ công liên quan đến việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, vừa liên quan đến hoạt động của bộ
máy nhà nước nên việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong dịch vụ
phải bằng pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Ở Việt Nam, chưa có sự đồng thuận tuyệt đối trong nhận thức về pháp luật
điều chỉnh dịch vụ công. Dịch vụ là những hoạt động có tính chất "bắc cầu" giữa
quản lý nhà nước với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, trong
giao dịch mà cá nhân, tổ chức tham gia vào. Từ phía các cơ quan nhà nước thì
đảm bảo dịch vụ công tồn tại và phát triển bằng cơ chế pháp luật là nhiệm vụ cần
hoàn thành. Xuất phát từ phía dân chúng thì dịch vụ công là những dịch vụ phục vụ
lợi ích của cá nhân, tổ chức phát sinh từ chính nhu cầu thiết yếu của đời sống hàng
ngày. So sánh với hoạt động quản lý nhà nước có thể thấy rằng quản lý dịch vụ
công là những hoạt động gắn với quyền lực nhà nước, dù được tổ chức thực hiện
như thế nào cũng luôn thể hiện tính đơn phương, tính bắt buộc phải phục tùng và
tính cưỡng chế [11, tr.9,10]. Các dịch vụ công được thực hiện trên cơ sở mối quan
hệ bình đẳng giữa cá nhân, tổ chức là người yêu cầu dịch vụ với cơ quan, tổ chức
cung cấp dịch vụ. Cơ quan nhà nước với tư cách là chủ thể cung cấp dịch vụ, nếu sử
dụng mệnh lệnh để duy trì việc cung cấp dịch vụ thì tính phục vụ của dịch vụ công
không còn. Vì thế, để điều chỉnh dịch vụ công cần sử dụng tổng hợp các quy phạm
18
pháp luật dân sự, thương mại hay quy phạm hành chính phù hợp với từng loại hình
của dịch vụ công. Pháp luật về dịch vụ công vừa phải thể hiện những yếu tố pháp luật
về tổ chức cung cấp, thủ tục cung cấp, quyền kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà
nước với việc cung cấp dịch vụ, vừa có những nội dung của pháp luật về dân sự như
các quy định về quyền, lợi ích của các bên khi tham gia cung ứng dịch vụ công.
Mặc dù có những đặc trưng riêng nhưng pháp luật về dịch vụ công không
là một hệ thống pháp luật biệt lập mà chỉ là một nội dung cụ thể của hệ thống pháp
luật Việt Nam nói chung, có mối liên hệ chặt chẽ với các quy định về tổ chức bộ
máy nhà nước, về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước, với các quy định pháp luật về dân sự, thương mại, đất đai, hôn
nhân gia đình, thuế, hải quan, y tế, giao thông, môi trường...
Về hình thức, pháp luật về dịch vụ công bao gồm các quy định do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành. Có nhiều cách thức thể hiện khác nhau các
quy định pháp luật về dịch vụ công nhưng phổ biến nhất hiện nay là: các quy định có
tính nguyên tắc, quy định khung về dịch vụ sẽ được định ra trong nội dung của văn
bản quy phạm pháp luật chuyên ngành như Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật
Doanh nghiệp, Luật Hộ tịch, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Xây dựng, Luật Cư
trú, Luật Giáo dục, Luật y tế, Luật Giao thông đường bộ, Luật Tài nguyên và Môi
trường,... Các quy định cụ thể như hình thức, thủ tục thực hiện, thẩm quyền cung
cấp, quyền, nghĩa vụ của các bên trong dịch vụ, sẽ được quy định cụ thể trong văn
bản riêng, thường là các thông tư, quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, nghị
định. Có thể một hoặc một nhóm các dịch vụ công được quy định riêng trong một
văn bản luật như Luật Công chứng quy định về hoạt động công chứng. Cũng có
văn bản quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung cho việc cung cấp các
dịch vụ khác nhau như Quyết định 09/2015/QĐ-TTg ngày 25/3/2015 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một
cửa liên thông tại cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương hay Nghị định số
43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ
công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan
19
nhà nước. Do tính đa dạng, phong phú của các dịch vụ công nên không có một
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp, các quy phạm pháp luật về dịch
vụ công được thể hiện trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, liên kết
chặt chẽ với nhau.
Về nội dung, pháp luật về dịch vụ công là những quy tắc hành vi cho các
chủ thể tham gia vào dịch vụ, ngoài ra còn bao gồm các nguyên tắc, các chủ
trương, chính sách, kế hoạch phát triển từng dịch vụ, nhóm dịch vụ công. Pháp luật
về dịch vụ công có thể chia thành hai nhóm nội dung chính là: các quy định về tổ
chức, cung cấp dịch vụ và các quy định về quản lý nhà nước đối với dịch vụ
công. Các nội dung cụ thể của pháp luật gồm: nguyên tắc của dịch vụ công; hình
thức cung cấp; các yêu cầu, điều kiện đối với việc cung cấp dịch vụ; quyền, nghĩa
vụ các bên trong dịch vụ, thủ tục thực hiện dịch vụ; quy định về tổ chức bộ máy,
tổ chức nhân sự; về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong dịch vụ công.
Về phạm vi tác động, đối tượng điều chỉnh, pháp luật về dịch vụ công tác
động đến các cơ quan nhà nước, các cá nhân, tổ chức tham gia dịch vụ. Đối tượng
tác động của pháp luật về dịch vụ công có thể chia thành ba nhóm cơ bản. Một là,
các chủ thể cung cấp dịch vụ, đây là nhóm chủ thể bằng hoạt động của mình đáp
ứng nhu cầu về dịch vụ công của dân chúng, nhóm này bao gồm các cơ quan hành
chính, các đơn vị, tổ chức dịch vụ công thuộc cơ quan hành chính, các tổ chức
dịch vụ công của cá nhân, tổ chức được nhà nước cho phép cung cấp dịch vụ,
các cán bộ, công chức, viên chức, các cá nhân trực tiếp thực hiện những công
việc nhất định trong quá trình cung cấp một dịch vụ công cụ thể. Hai là, các chủ
thể yêu cầu và hưởng thụ dịch vụ, đây là những cá nhân, tổ chức đã đưa ra yêu
cầu đến các chủ thể cung cấp dịch vụ và hưởng thụ dịch vụ phù hợp với quy định
của pháp luật. Có những dịch vụ chủ thể hưởng thụ chỉ có thể là cá nhân như
các dịch vụ đăng ký kết hôn, cấp chứng minh thư, cấp giấy phép điều khiển
phương tiện giao thông, cấp thẻ bảo hiểm y tế... cũng có những dịch vụ chủ thể chỉ
có thể là tổ chức như trong dịch vụ cấp giấy phép khai thác khoáng sản chủ thể
chỉ có thể là doanh nghiệp, có những dịch vụ chủ thể hưởng thụ có thể là cá
20
nhân hay tổ chức như công chứng, chứng thực, cấp sổ đỏ, sổ hồng, sổ hộ khẩu, y
tế, giáo dục... Ba là, các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong cung
cấp các dịch vụ công chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương
đến địa phương như Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp,
các cơ quan chuyên môn thuộc cơ quan hành chính. Các cơ quan này bằng hành vi
quản lý của mình đảm bảo cho việc cung cấp dịch vụ đúng pháp luật, có chất lượng,
đáp ứng yêu cầu của nhân dân.
Tương ứng với sự tham gia của ba nhóm chủ thể nêu trên, những quan hệ
xã hội là đối tượng điều chỉnh của pháp luật về dịch vụ công gồm: những quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình cung cấp dịch vụ, đó là những quan hệ giữa chủ
thể cung cấp dịch vụ với chủ thể hưởng thụ dịch vụ; quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình quản lý nhà nước với các dịch vụ giữa các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền với các chủ thể cung cấp dịch vụ, chủ thể hưởng thụ dịch vụ.
Tóm lại, pháp luật về dịch vụ công là tổng thể các quy phạm pháp luật do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh những quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình cung cấp và quản lý nhà nước về dịch vụ công.
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về dịch vụ công
Pháp luật về dịch vụ công vừa phản ánh những yếu tố chung của hệ thống
pháp luật Việt Nam vừa có những đặc trưng riêng, với tư cách là những quy
định pháp luật điều chỉnh nhiều nội dung trong các mặt hoạt động của Nhà nước
và xã hội. Pháp luật về dịch vụ công có những đặc điểm sau:
1.2.2.1. Pháp luật về dịch vụ công là hệ thống các quy phạm pháp luật do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
Các phong tục, tập quán, các quy phạm đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo so
với các quy phạm pháp luật có sự hạn chế về phạm vi tác động, thiếu chặt chẽ và
thống nhất đã làm cho các loại quy tắc hành vi này không thể là chuẩn mực để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dịch vụ công. Do vậy, tất
yếu cần có sự điều chỉnh pháp lý đối với quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dịch vụ
công. Dịch vụ công cũng xa lạ với các phong tục, tập quán vốn có và cũng không
21
thừa nhận bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, của các cơ quan hành chính
trước đó là quy tắc xử sự chung cho các chủ thể, vì thế pháp luật về dịch vụ công
chỉ có hình thức nguồn là các văn bản quy phạm pháp luật. Dịch vụ công bao gồm
nhiều dịch vụ cụ thể, nên hiện nay các quy định về dịch vụ công được thể hiện trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Pháp luật về dịch vụ công có hình thức thể hiện là các luật do Quốc hội ban
hành, các nghị định của Chính phủ, thông tư, quyết định của Bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ, quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Trong số các văn bản quy phạm pháp luật quy định về dịch vụ
công đó, các luật do Quốc hội ban hành có vai trò quan trọng. Luật là văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, có tính ổn định nên tạo cơ sở thuận lợi cho
việc tổ chức thực hiện các dịch vụ công một cách thống nhất, chứa đựng những quy
phạm để các chủ thể tham gia cung ứng dịch vụ công thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình. Nhưng hình thức văn bản luật chỉ phù hợp với những dịch vụ đã định
hình và phát triển ổn định. Quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung luật khá phức tạp
và thường kéo dài dễ làm cho các luật trở nên lạc hậu so với thực tiễn cung cấp dịch
vụ. Để tránh tình trạng vừa ban hành đã lạc hậu, nhiều luật của Quốc hội chỉ quy
định các vấn đề chung có tính nguyên tắc và giao cho Chính phủ và các cơ quan
hành chính quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Thực tế này đã làm giảm khả năng
áp dụng trực tiếp của luật về dịch vụ công. Vấn đề thường thấy là các luật được
ban hành đã có hiệu lực nhưng lại phải chờ Nghị định, thông tư của Chính phủ và
các bộ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành mới chính thức được tổ chức thực
hiện trên thực tế. Các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hành chính nhà
nước ban hành mặc dù có hiệu lực pháp lý thấp hơn các luật của Quốc hội
nhưng có thủ tục ban hành, sửa đổi, bổ sung linh hoạt dễ thích hợp để điều chỉnh
các dịch vụ công trong giai đoạn hiện nay. Thông thường, Chính phủ ban hành
nghị định quy định về các dịch vụ công cụ thể. Các Bộ, cơ quan ngang bộ trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn quản lý chuyên môn của mình sẽ quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành nghị định của Chính phủ về các yếu tố chuyên môn, nghiệp vụ
22
của việc cung cấp dịch vụ. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương quy định
việc tổ chức thực hiện dịch vụ tại địa phương mình.
Pháp luật về dịch vụ công mới được hình thành tại Việt Nam nên vẫn chưa
định hình rõ nét. Chỉ có pháp luật về một số dịch vụ đã tương đối đồng bộ như
pháp luật về đăng ký doanh nghiệp, công chứng, chứng thực... và một số dịch vụ
thiết yếu như cung cấp điện, nước sinh hoạt, giao thông công cộng... trong khi
phần lớn pháp luật về các dịch vụ khác vẫn thiếu những quy phạm có hiệu lực
pháp lý cao, quy định đầy đủ, thống nhất về các nội dung liên quan như pháp luật
về y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, cấp sổ đỏ... Vì vậy, pháp luật về dịch vụ công
cần có những quy phạm phù hợp nhất kịp thời điều chỉnh, định hướng các quan hệ
phát sinh trong việc cung ứng các dịch vụ, phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng cao
của cộng đồng dân cư.
1.2.2.2. Pháp luật về dịch vụ công có mối liên hệ chặt chẽ với các ngành
luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Pháp luật Việt Nam là hệ thống pháp luật thành văn, bao gồm tập hợp các
văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều
chỉnh mối quan hệ xã hội xác định, định hướng các quan hệ đó phát triển phù hợp
với mục đích của Nhà nước. Pháp luật về dịch vụ công là một nội dung của hệ
thống pháp luật Việt Nam có mối liên hệ và thống nhất với các quy định khác.
Trước hết, pháp luật về dịch vụ công có mối liên hệ mật thiết với các quy
định pháp luật về tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước. Xét về tính chất các dịch
vụ phản ánh những hoạt động quản lý nhà nước nên việc quy định về từng dịch vụ
cụ thể phải đảm bảo phù hợp với hoạt động quản lý có liên quan đến dịch vụ đó.
Qua đó, Nhà nước cũng phải thực hiện quản lý đối với bản thân các dịch vụ. Do
vậy, các quy định pháp luật về dịch vụ công không tách rời với các quy định về
quản lý nhà nước. Pháp luật về dịch vụ công có mối quan hệ mật thiết với những
quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các
cơ quan quản lý nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước là chủ thể cơ bản, quan
trọng nhất trong cung cấp dịch vụ đồng thời cũng được giao nhiệm vụ chính quản
23
lý nhà nước đối với từng dịch vụ. Pháp luật về dịch vụ phải xác định rõ những
cơ quan quản lý nào cung cấp dịch vụ hoặc tham gia vào quá trình cung cấp dịch
vụ; các yêu cầu đối với cơ quan quản lý khi cung cấp một dịch vụ nhất định.
Dưới sự tổ chức quản lý, điều tiết của cơ quan Nhà nước, các dịch vụ công
tạo ra các bảo đảm pháp lý cho cá nhân, tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp
luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ nên pháp luật về dịch vụ công còn có mối
quan hệ mật thiết với các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Pháp luật
là cơ sở pháp lý để công dân đưa ra yêu cầu cụ thể về dịch vụ nhằm thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình. Một mặt, pháp luật về dịch vụ công không hạn chế
việc thực hiện các quyền của công dân, nhất là các quyền cơ bản về chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội, các quyền tự do được ghi nhận trong Hiến pháp. Mặt
khác, pháp luật cũng phải đảm bảo thuận lợi nhất cho công dân khi thực hiện nghĩa
vụ của mình. Ví dụ, công dân có quyền tự do kết hôn khi đủ tuổi theo quy định của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (sửa đổi năm 2014) quy định việc đăng kí có
thể thực hiện ở nơi cư trú của chồng hoặc vợ, hơn nữa có cả trung tâm tư vấn sức
khỏe, hôn nhân gia đình hỗ trợ cho các chủ thể kết hôn; Luật giáo dục 2005 cho
phép mọi người dân ở mọi lứa tuổi có quyền đi học; Việc đưa ra yêu cầu về đăng ký
doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp số 64/2014/QH13 ngày
26/11/2014 về đăng ký doanh nghiệp tạo điều kiện cho mọi cá nhân, tổ chức thực
hiện quyền tự do kinh doanh...
Quan hệ pháp luật về dịch vụ công là tiền đề cho các quan hệ pháp luật, các
giao dịch khác có thể diễn ra hợp pháp và được đảm bảo thực hiện từ phía Nhà
nước. Do vậy pháp luật về dịch vụ công còn có mối liên hệ với các quy định pháp
luật về dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, kinh tế, lao động, y tế, giao thông...
Thêm vào đó, từ các giao dịch dân sự, kinh tế thương mại, lao động, hôn nhân gia
đình... sẽ quyết định sự cần thiết phải có các dịch vụ công tương ứng. Ví dụ, cấp
giấy chứng nhận kết hôn là sự công nhận chính thức của Nhà nước về việc một
người nam và một người nữ đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau là vợ chồng,
từ đó phát sinh quyền, nghĩa vụ với nhau, với tài sản chung, với con chung, các
24
quan hệ dân sự tương ứng cũng phát sinh từ tài sản chung, nghĩa vụ chung của vợ
chồng. Giấy đăng ký kinh doanh là giấy tờ có giá trị pháp lý đầu tiên để Nhà nước
thừa nhận chính thức một pháp nhân ra đời từ đó phát sinh các giao dịch dân sự, lao
động, thương mại tương ứng.
Mối liên hệ giữa pháp luật về dịch vụ công với các ngành luật khác thể hiện
sự tác động qua lại hai chiều, biện chứng, các quy định pháp luật bổ khuyết cho
nhau để đảm bảo tất cả những quan hệ xã hội quan trọng đều được điều chỉnh và
bảo vệ bằng pháp luật. Mối quan hệ giữa pháp luật về dịch vụ công với các ngành
luật khác là cơ sở cho tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.
1.2.2.3. Pháp luật về dịch vụ công quy định toàn diện các vấn đề khác nhau
của dịch vụ công
Do tính đa dạng của các loại hình dịch vụ công, tính chặt chẽ, phức tạp của
việc cung cấp dịch vụ mà nội dung pháp luật về các dịch vụ này cũng đa dạng,
phong phú.
Thứ nhất, pháp luật quy định các dịch vụ cụ thể khác nhau
Như đã nêu ở mục 1.1.3, dịch vụ công được chia thành hai nhóm lớn là:
nhóm các dịch vụ hành chính công (bao gồm: cấp các loại giấy phép; đăng ký và
cấp giấy chứng nhận; công chứng, chứng thực; các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ); nhóm
dịch vụ xã hội công (bao gồm: dịch vụ sự nghiệp công: cung cấp các dịch vụ giáo
dục, văn hóa, khoa học, y tế, chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội; dịch vụ công ích:
cung cấp dịch vụ về điện, nước, vệ sinh môi trường, xây dựng...). Trong từng
nhóm lại bao gồm nhiều dịch vụ cụ thể. Sự khác nhau về chủ thể cung cấp, điều
kiện, thủ tục thực hiện, yêu cầu của các chủ thể tham gia dịch vụ đã làm cho từng
dịch vụ khác biệt nhau, pháp luật có các quy định riêng để phù hợp với những đặc
trưng này. Nếu căn cứ vào các loại dịch vụ công, thì pháp luật về dịch vụ công có
thể chia thành:
- Các quy định pháp luật về các dịch vụ cấp giấy phép như các quy định
về cấp giấy phép khai thác khoáng sản, giấy phép thực hiện hoạt động ngành nghề
kinh doanh có điều kiện, điều khiển phương tiện giao thông (giấy phép lái xe), cấp
các loại giấy phép đầu tư, giấy phép xây dựng...
25
- Các quy định pháp luật về đăng ký và cấp giấy chứng nhận, giấy tờ pháp lý
như các quy định về đăng ký kinh doanh, đăng ký giao dịch đảm bảo; đăng ký cấp
chứng minh thư, cấp giấy khai sinh, khai tử, kết hôn, cải chính hộ tịch hay đăng ký
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, đăng ký sở hữu xe...
- Các quy định pháp luật về công chứng, chứng thực: các quy định về công
chứng hợp đồng, giao dịch, chứng thực bản sao, chữ ký...
- Các quy định về các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, như các quy định về trợ
giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, tư vấn việc làm miễn phí, cung cấp thông tin...
- Các quy định pháp luật về y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, giáo dục phổ
thông, cung cấp điện, nước sinh hoạt, xử lý rác thải, vệ sinh môi trường, dịch vụ vận
tải công cộng, xây dựng và bảo dưỡng đường xá, cầu, cống...
Thứ hai, đối với từng dịch vụ cụ thể, pháp luật lại quy định rất nhiều nội
dung khác nhau
Đối với từng dịch vụ pháp luật quy định những nội dung cụ thể của dịch vụ
như: phạm vi dịch vụ, các nguyên tắc tổ chức, thực hiện, quyền và nghĩa vụ của các
thủ thể tham gia, trình tự, thủ tục thực hiện và cách thức quản lý của nhà nước đối
với việc cung ứng dịch vụ. Những nội dung cụ thể của các dịch vụ khác nhau, pháp
luật cũng quy định khác nhau cho phù hợp với đặc điểm riêng của từng dịch vụ. Ví
dụ, cùng là hoạt động cấp giấy phép nhưng cấp giấy đăng ký kinh doanh đối với
ngành nghề kinh doanh có điều kiện và ngành nghề kinh doanh không có điều kiện
theo Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 thì trình tự, thủ tục cho các chủ
thể cũng khác nhau. Hay cùng là hoạt động chứng nhận tính xác thực và hợp pháp
nhưng quyền và nghĩa vụ của công chứng viên trong hoạt động công chứng các giao
dịch, hợp đồng theo Điều 22 Luật Công chứng khác với quyền và nghĩa vụ của người
thực hiện chứng thực bản sao, chữ ký theo Điều 12 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP
ngày 15/8/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng
thực chữ ký...
Căn cứ vào nội dung cụ thể, cần thiết để điều chỉnh từng loại dịch vụ thì
pháp luật về dịch vụ công, được chia thành hai nhóm nội dung cơ bản là: các quy
26
định pháp luật về tổ chức, thực hiện dịch vụ và các quy định về quản lý nhà nước
đối với các dịch vụ công. Hai mảng nội dung này có mối quan hệ biện chứng,
không thể tách rời, đảm bảo cho các dịch vụ công tồn tại, phát triển theo yêu cầu
của các chủ thể tham gia, phù hợp với mục đích của Nhà nước. Pháp luật là hình
thức thể hiện ý chí của Nhà nước nên những lợi ích mà Nhà nước mong muốn đạt
được sẽ quyết định nội dung các quy phạm pháp luật về tổ chức, thực hiện dịch vụ.
Những quy định về tổ chức, thực hiện dịch vụ phải phù hợp với mục đích quản lý
của nhà nước. Ngược lại, những quy định về quản lý nhà nước phải phù hợp với yêu
cầu khách quan, những yếu tố kỹ thuật, nghiệp vụ của từng dịch vụ cụ thể. Dịch vụ
công trong mỗi dịch vụ cụ thể có yêu cầu riêng về chuyên môn, nghiệp vụ tổ chức
thực hiện và quản lý nhà nước nếu các yêu cầu này không được thực hiện đúng trên
thực tế sẽ làm giảm chất lượng của dịch vụ, biến các dịch vụ này thành các hoạt
động quản lý nhà nước thuần túy, hoặc thành các giao dịch dân sự, thương mại có
bản chất khác hẳn. Vì vậy, các quy định pháp luật về tổ chức, thực hiện dịch vụ và
các quy định về quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công phải đồng bộ, thống nhất
với nhau tạo cơ sở pháp lý cho dịch vụ phát triển phù hợp với yêu cầu khách quan.
1.2.3. Vai trò của pháp luật về dịch vụ công
Pháp luật với chức năng cơ bản là điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng các
quan hệ đó vận động, phát triển phù hợp với ý chí, lợi ích của nhà nước, phù hợp
với lợi ích chung của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Như đã
phân tích ở mục 1.2.3.3 pháp luật về dịch vụ công điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã
hội cơ bản là các quan hệ xã hội phát sinh trong cung cấp dịch vụ và các quan hệ về
quản lý nhà nước với việc cung cấp dịch vụ đó, nên vai trò của pháp luật về dịch vụ
cũng thể hiện dưới hai góc độ chính:
1.2.3.1. Vai trò của pháp luật trong việc cung cấp dịch vụ công
Dịch vụ công chỉ ra đời và tồn tại trên cơ sở sự cho phép của nhà nước bằng
các quy định của pháp luật, ngược lại, pháp luật về dịch vụ công xuất phát từ đòi
hỏi của thực tiễn để điều chỉnh hành vi, hoạt động của các chủ thể liên quan đến
việc cung ứng dịch vụ. Vai trò của pháp luật trong việc cung cấp dịch vụ công
được thể hiện trên những phương diện cụ thể sau:
27
Pháp luật về dịch vụ công là khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể tham
gia vào dịch vụ
Các chủ thể tham gia dịch vụ công bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ
chức, đơn vị thực hiện cung cấp dịch vụ công; các cá nhân, tổ chức là người yêu cầu
và hưởng thụ dịch vụ. Mỗi chủ thể có tư cách khác nhau khi tham gia vào hoạt động
cung ứng dịch vụ công. Do đó, nếu để các chủ thể tự do thực hiện những hành vi mà
họ mong muốn thì hành vi của chủ thể này có thể sẽ cản trở hoặc làm tổn hại đến
quyền, nghĩa vụ hợp pháp của chủ thể khác, làm cho việc cung cấp dịch vụ công bị
rối loạn, dịch vụ công sẽ phát triển theo hướng không theo mục đích điều chỉnh của
Nhà nước. Vì vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ban hành pháp luật
làm khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể, quy định quyền và nghĩa vụ phù hợp
với từng chủ thể trong loại dịch vụ công tương ứng. Với các chủ thể cung cấp dịch
vụ, pháp luật quy định rõ phạm vi dịch vụ mà chủ thể được cung cấp hoặc tham gia
cung cấp, các yêu cầu, điều kiện cung cấp, chất lượng dịch vụ, đối tượng phục vụ cụ
thể. Thậm chí pháp luật có cả biện pháp, chế tài đối với cá nhân, tổ chức cung cấp
dịch vụ không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Với các chủ thể yêu cầu và
hưởng thụ dịch vụ, pháp luật quy định điều kiện, năng lực của chủ thể, quyền và
nghĩa vụ của chủ thể, cách thức đưa ra yêu cầu và hưởng thụ dịch vụ, những giới
hạn trong yêu cầu dịch vụ. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định các biện pháp,
chính sách hỗ trợ cá nhân, tổ chức có hoàn cảnh đặc biệt, tạo diều kiện thuận lợi cho
họ tiếp cận và sử dụng dịch vụ.
Với vai trò là khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể trong dịch vụ công, các
quy định của pháp luật cần khái quát hóa các yêu cầu từ Nhà nước, từ phía nhân dân
đối với từng hành vi yêu cầu - cung cấp - hưởng thụ những dịch vụ cụ thể thành các
chuẩn mực. Các quy định của pháp luật càng chi tiết, cụ thể bao nhiêu càng dễ cho
các chủ thể trong cung cấp, sử dụng dịch vụ bấy nhiêu, nếu các quy định chung
chung, không rõ nghĩa, không rõ yêu cầu dễ tạo ra sự tùy tiện của các chủ thể tham
gia vào dịch vụ.
Pháp luật về dịch vụ công với tư cách là khuôn mẫu hành vi cho các chủ thể
28
trong cung cấp dịch vụ, tạo ra hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia dịch vụ
xác định được hành vi của mình được hay không được làm gì, tránh hành vi tùy
tiện, không có căn cứ pháp lý.
Pháp luật về dịch vụ công thể hiện cam kết đảm bảo của Nhà nước về việc
cung cấp dịch vụ
Xuất phát từ bản chất Nhà nước ta là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”.
Bởi vậy pháp luật với tư cách là hình thức phản ánh ý chí của Nhà nước, phản ánh
yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, phải thể hiện sự cam kết của Nhà nước về việc
cung cấp các dịch vụ công đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân. Nội dung các quy
định của pháp luật thể hiện sự tương quan giữa nhu cầu của dân chúng với khả năng
đáp ứng của các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ. Nếu các quy
định của pháp luật lạc hậu hơn khả năng đáp ứng của Nhà nước về các dịch vụ công
thì sẽ không thỏa mãn được nhu cầu của nhân dân và gây ra những trở ngại trong tiếp
nhận, hưởng thụ dịch vụ. Ngược lại, nếu pháp luật quy định vượt quá khả năng cung
ứng dịch vụ của Nhà nước thì các quy định trở thành bất khả thi, vai trò điều chỉnh
của pháp luật không được phát huy, dễ tạo ra những lộn xộn trong cung cấp và hưởng
thụ dịch vụ công, gây mất niềm tin trong dân chúng.
Tuy nhiên, khi tình hình kinh tế - xã hội thay đổi, khả năng cung cấp các
dịch vụ công của Nhà nước cũng thay đổi phù hợp với thực tế yêu cầu ngày càng
cao của nhân dân về việc sử dụng dịch vụ. Pháp luật về dịch vụ công không chỉ thể
hiện cam kết của Nhà nước đảm bảo cung cấp dịch vụ trong thời điểm hiện tại mà
còn dự báo khả năng đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong tương lai. Chính khả
năng dự báo của pháp luật cho phép các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị
cung cấp dịch vụ chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu
của nhân dân.
Hiện nay, để phù hợp với xu thế phát triển chung, Nhà nước đã cho phép
cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ công. Điều này tạo
thêm cơ hội cho người dân được tự do lựa chọn chủ thể cung cấp với dịch vụ tương
ứng phù hợp. Nhà nước giao cho các cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện thực hiện
29
việc cung cấp những dịch vụ cụ thể là một cách thể hiện sự cam kết cung cấp đầy
đủ, có chất lượng các dịch vụ công cho nhân dân, phù hợp tiến trình phát triển của
xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Pháp luật về dịch vụ công góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức tham gia vào dịch vụ
Pháp luật về dịch vụ công ghi nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức cũng như quy định các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền, các biện
pháp bảo vệ lợi ích đó của các cá nhân, tổ chức khi tham gia dịch vụ. Với mỗi nhóm
chủ thể khác nhau, pháp luật sẽ thể hiện vai trò bảo vệ khác nhau. Pháp luật bảo vệ
sự công bằng của cá nhân, tổ chức trong hưởng thụ dịch vụ, bảo đảm quyền hưởng
thụ dịch vụ bình đẳng cho mọi công dân, những hạn chế về điều kiện cá nhân không
cản trở việc hưởng thụ các lợi ích mà dịch vụ công đưa lại. Ví dụ Điều 3 Luật khám
chữa bệnh số 40/2009/QH12 quy định nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh là: “bình đẳng, công bằng và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người
bệnh”, “người bệnh có quyền được khám bệnh, chữa bệnh có chất lượng phù hợp
với điều kiện thực tế” (Điều 10).
Với các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ, pháp luật
bảo vệ hoạt động cung cấp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục không bị cản trở
bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác một cách trái pháp luật. Lợi ích mà các chủ
thể cung cấp dịch vụ hướng tới có thể là việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn
vị; còn đối với các tổ chức dịch vụ của cá nhân, tổ chức là được hoạt động và tạo ra
thu nhập hợp pháp. Sự tham gia của cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước vào cung ứng
dịch vụ công đã làm xuất hiện sự cạnh tranh giữa các cơ quan, tổ chức cung cấp
dịch vụ với nhau. Cạnh tranh đưa lại nhiều lựa chọn cho người dân trong việc tiếp
cận và sử dụng dịch vụ công và buộc các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ phải
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tạo cơ hội cho nhiều chủ thể hưởng thụ
dịch vụ. Để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh khiến các chủ thể cung cấp dịch vụ
công phải dùng những cách thức khác nhau để thu hút khách hàng, kể cả các
phương pháp, thủ đoạn bất hợp pháp. Pháp luật với tư cách là đại lượng công bằng,
30
tạo ra và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và phòng, chống cạnh tranh
không lành mạnh giữa các chủ thể cung cấp dịch vụ với nhau. Pháp luật có các chế
tài áp dụng đối với các hành vi của chủ thể cung cấp vi phạm quyền và nghĩa vụ khi
tham gia vào dịch vụ. Ví dụ trong hoạt động hỗ trợ tư pháp, tư vấn pháp lý nếu
người trợ giúp pháp lý có hành vi dùng Thẻ Cộng tác viên trợ giúp pháp lý, Thẻ trợ
giúp viên pháp lý hoặc lợi dụng danh nghĩa cộng tác viên trợ giúp pháp lý để thực
hiện các hoạt động không thuộc nhiệm vụ được giao nhằm mục đích vụ lợi thì bị
phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng, có thể bị tước quyền sử dụng Thẻ trợ
giúp viên pháp lý, Thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý từ 03 tháng đến 06 tháng
(Điều 36 Nghị định 60/2009/NĐ-CP ngày 23/9/2009 về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tư pháp).
Ngoài ra, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong dịch
vụ công, pháp luật cũng quy định những cơ chế bảo vệ đặc thù như: cơ chế giám sát
của cơ quan quyền lực nhà nước, cơ chế thanh tra, kiểm tra của các cơ quan hành
chính, ghi nhận quyền giám sát, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức đối
với từng loại hình dịch vụ công. Khi các quyền và lợi ích của cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân được bảo đảm, bảo vệ không bị xâm phạm thông qua các quy định
pháp luật thích hợp là tiền đề cho việc cung cấp các dịch vụ công đúng với bản chất
vốn có của dịch vụ.
1.2.3.2. Vai trò của Pháp luật về dịch vụ công với chức năng quản lý của nhà nước
Ngoài chức năng cung cấp dịch vụ công thì nhà nước còn đảm nhiệm cả
chức năng quản lý dịch vụ. Khác với chức năng quản lý xuất phát từ những yêu cầu
về nguyên tắc, tổ chức của bộ máy nhà nước, chức năng phục vụ xã hội bắt nguồn
từ “nhu cầu cụ thể của các tổ chức và công dân, ngay cả khi các nhu cầu này có thể
phát sinh từ những yêu cầu của Nhà nước” [14]. Mặt khác, chức năng này cũng
nhằm đáp ứng những yêu cầu mới trong thay đổi quan niệm về vai trò của nhà nước
– quan niệm nhà nước xây dựng nền hành chính phục vụ, trong đó người dân là
khách hàng. Tuy nhiên, không dừng lại ở lí do đó, mà nhà nước còn thực hiện cung
cấp dịch vụ công nhằm thực hiện những nhiệm vụ mang tính quyền lực nhà nước:
31
Pháp luật về dịch vụ công giúp duy trì trật tự xã hội, an ninh; quản lý tài
nguyên đất nước
Đề đảm bảo an toàn, bí mật quốc gia và để phát triển đất nước theo quy
hoạch, mục tiêu chung, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng thì nhà nước cần thiết
giữ vai trò chủ đạo cung ứng các dịch vụ này. Ở nước ta những nhiệm vụ này vẫn
hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của nhà nước. Ở một số nước khác đã xã hội hóa
ngay cả loại dịch vụ mang tính công cộng này.
Pháp luật về dịch vụ công bảo đảm sự công bằng, quyền và lợi ích chính
đáng của người dân
Bản chất của dịch vụ công là cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho người
dân, đảm bảo – đó là loại hàng hóa công cộng. Còn đối với khu vực tư nhân, mục
tiêu quan trọng nhất là lợi nhuận. Chính vì thế nhà nước cần phải đảm trách những
dịch vụ cần thiết nhằm đảm bảo sự công bằng mà không hoàn toàn phụ thuộc vào
lợi ích kinh tế. Nếu các dịch vụ công phó thác hoàn toàn cho khu vực tư thì lợi ích
của người nghèo, những khu vực kém phát triển sẽ không được bảo đảm.
Bảo vệ quyền và lợi ích của công dân cũng là một nhiệm vụ quan trọng cần
đến vai trò của nhà nước. Thông qua việc cung cấp dịch vụ công, nhà nước sử dụng
quyền lực của mình để bảo đảm quyền dân chủ và quyền hợp pháp khác của công
dân. Việc bảo đảm cung cấp đầy đủ chất lượng và số lượng dịch vụ đồng nghĩa với
việc bảo đảm an toàn cho cuộc sống của người dân. Thêm nữa, trong trường hợp
khu vực tư nhân không đủ sức hoặc không muốn cung ứng thì nhà nước phải đảm
nhận trách nhiệm này. Ví dụ như xây dựng mạng lưới giao thông, cơ sở hạ tầng,
điện, trường học với nguồn vốn đầu tư lớn.
Pháp luật về dịch vụ công đảm bảo phúc lợi xã hội
Đối với các khu vực kém phát triển và những đối tượng yếu thế trong xã hội,
đối tượng chính sách, người nghèo… nhà nước phải bảo đảm các dịch vụ công được
cung cấp thường xuyên và kịp thời như chính sách về y tế, bảo hiểm y tế, giáo dục,
an sinh xã hội và các chính sách hỗ trợ khác.
32
Pháp luật về dịch vụ công giúp đối phó với những khiếm khuyết của thị trường
Dịch vụ công chịu những ảnh hưởng và không nằm ngoài quy luật của cơ
chế kinh tế thị trường. Những dịch vụ được lựa chọn ngày càng nhiều hơn, tốt hơn
và chi phí cao hơn. Tuy nhiên không phải nơi nào cũng có một thị trường đầy đủ
các tiện ích. Nhất là đối với khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Lúc đó
vai trò của nhà nước trở nên vô cùng quan trọng trong việc ngăn chặn sự gián đoạn
cung cấp dịch vụ công do những hạn chế của thị trường. Nhà nước cần phải cân đối
giữa một bên là thị trường tự do và bên kia là trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ của
nhà nước đối với nhóm đối tượng thiệt thòi. Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm các
dịch vụ phải được cung cấp với mức phí vừa phải và không để người dân bị ảnh
hưởng bởi sự hạn chế của thị trường.
1.2.4. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về dịch vụ công
Pháp luật về các dịch vụ công được ban hành từ cuối thập niên 90 cho đến
khoảng hơn mười năm trở lại đây, chủ yếu tập trung trong thời kỳ thực hiện
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 ban
hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng
Chính phủ. Đây có thể coi là kết quả thể hiện sự thành công của 10 năm thực hiện
Chương trình và làm tiền đề triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 ban hành kèm theo Nghị
quyết 30C/2011/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính phủ. Sau mười lăm năm thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, từ cuối những thập niên 90 đến đầu những năm
2000 quan niệm về thực hiện các nhiệm vụ của quản lý nhà nước về dịch vụ công
đã bắt đầu hình thành, cơ sở pháp lý về dịch vụ công đã được ghi nhận trong hệ
thống pháp luật ở Việt Nam.
Tuy nhiên sự ra đời và phát triển của pháp luật về các loại dịch vụ công
không diễn ra đồng thời mà là một quá trình chuyển đổi dần dần với từng dịch vụ
phát triển theo cơ chế thị trường và nhu cầu đời sống của nhân dân. Các văn bản
pháp luật về dịch vụ công được ban hành là hình thức phản ánh nhu cầu, đòi hỏi
của dân chúng về dịch vụ, vừa là tuyên bố pháp lý chính thức của Nhà nước với
33
việc ra đời một dịch vụ cụ thể cũng được xây dựng và ban hành vào những thời
điểm khác nhau.
Sự ra đời các văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ công là kết quả của
việc sửa đổi, bổ sung, thay thế những văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà
nước trong các lĩnh vực khác nhau. Các văn bản mới được ban hành đã quy định
tương đối trọn vẹn những nội dung của từng dịch vụ độc lập hoặc quy định một số
nội dung của một dịch vụ cụ thể, khẳng định được sự tồn tại của các loại dịch vụ
công trong xã hội. Các văn bản quy phạm pháp luật cũng đồng thời xác lập một quy
trình phù hợp cho các chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng từng dịch vụ cụ thể.
1.2.4.1. Sự hình thành và phát triển pháp luật về dịch vụ hành chính công
Dịch vụ hành chính công là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà
nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Do vậy, cho đến nay, đối tượng cung
ứng duy nhất các dịch vụ công này là cơ quan công quyền hay các cơ quan do nhà
nước thành lập hoặc được ủy quyền thực hiện cung ứng dịch vụ. Đây là một phần
trong chức năng quản lý nhà nước. Để thực hiện chức năng này, nhà nước phải tiến
hành những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng
ký, công chứng, thị thực, tư pháp, hộ tịch...
Pháp luật về dịch vụ hành chính công ở nước ta hiện nay bao gồm tổng thể
các văn bản quy phạm pháp luật thành văn được quy định trong các luật, nghị định
và các văn bản quy phạm pháp luật của các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác
nhưng chủ yếu vẫn là các quy phạm pháp luật do các cơ quan hành chính nhà nước
(Chính phủ và các cơ quan trực thuộc) ban hành. Nội dung pháp luật về dịch vụ
hành chính công bao gồm các quy định chung cho tất cả các loại dịch vụ, các quy
định cụ thể về một hoặc một số dịch vụ cụ thể. Cùng với quá trình cải cách hành
chính, pháp luật về dịch vụ hành chính công đang ngày càng hoàn thiện đáp ứng
yêu cầu từ góc độ quản lý hành chính của nhà nước đến nhu cầu sử dụng dịch vụ
của đông đảo quần chúng nhân dân.
Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 4/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế "một cửa" tại các cơ quan hành chính ở
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT

More Related Content

What's hot

Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Kien Thuc
 
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )Nguyễn Ngọc Phan Văn
 

What's hot (20)

Đề tài: Xử phạt trong lĩnh vực giao thông đường bộ tỉnh Quảng Ninh
Đề tài: Xử phạt trong lĩnh vực giao thông đường bộ tỉnh Quảng NinhĐề tài: Xử phạt trong lĩnh vực giao thông đường bộ tỉnh Quảng Ninh
Đề tài: Xử phạt trong lĩnh vực giao thông đường bộ tỉnh Quảng Ninh
 
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAY
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAYLuận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAY
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAY
Luận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAYLuận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAY
Luận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAY
 
Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật hiện nay
Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật hiện nayCơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật hiện nay
Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật hiện nay
 
Đề tài: Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở Hà Nội, HOT
Đề tài: Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở Hà Nội, HOTĐề tài: Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở Hà Nội, HOT
Đề tài: Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở Hà Nội, HOT
 
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAYLuận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
 
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
 
Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hộiĐảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Luận văn: Ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luật
Luận văn: Ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luậtLuận văn: Ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luật
Luận văn: Ưu đãi người có công với cách mạng theo pháp luật
 
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Kho 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Lịch Sử Đảng Được Nhiều Sinh Viên Làm
Kho 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Lịch Sử Đảng Được Nhiều Sinh Viên LàmKho 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Lịch Sử Đảng Được Nhiều Sinh Viên Làm
Kho 200 Đề Tài Tiểu Luận Môn Lịch Sử Đảng Được Nhiều Sinh Viên Làm
 
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai ChâuLuận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về lãnh sự và bảo hộ công dân, HOT
 
Luận văn: Quyền của lao động nữ làm việc tại các khu công nghiệp
Luận văn: Quyền của lao động nữ làm việc tại các khu công nghiệpLuận văn: Quyền của lao động nữ làm việc tại các khu công nghiệp
Luận văn: Quyền của lao động nữ làm việc tại các khu công nghiệp
 
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT

Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Dịch Vụ Công Cộng
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Dịch Vụ Công CộngLuận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Dịch Vụ Công Cộng
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Dịch Vụ Công CộngDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...hanhha12
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sựLuận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT (20)

Luận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAY
Luận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAYLuận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAY
Luận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAY
 
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOTPháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
 
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây raTrách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra
 
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOTĐề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về công chức cấp xã ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về công chức cấp xã ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về công chức cấp xã ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về công chức cấp xã ở Việt Nam, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Dịch Vụ Công Cộng
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Dịch Vụ Công CộngLuận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Dịch Vụ Công Cộng
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Dịch Vụ Công Cộng
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú ThọLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
 
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
 
Luận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAYLuận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Pháp luật lao động về lao động nữ ở các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật lao động về lao động nữ ở các doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật lao động về lao động nữ ở các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật lao động về lao động nữ ở các doanh nghiệp
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết việc làm tại Quảng Bình, HOT
Luận văn: Pháp luật về giải quyết việc làm tại Quảng Bình, HOTLuận văn: Pháp luật về giải quyết việc làm tại Quảng Bình, HOT
Luận văn: Pháp luật về giải quyết việc làm tại Quảng Bình, HOT
 
Đề tài: Thẩm quyền của tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án, HOT
Đề tài: Thẩm quyền của tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án, HOTĐề tài: Thẩm quyền của tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án, HOT
Đề tài: Thẩm quyền của tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án, HOT
 
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoá
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoáTính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoá
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoá
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sựLuận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
 
Luận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau
Luận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà MauLuận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau
Luận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau
 
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAYLuận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
 
Luận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY
Luận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAYLuận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY
Luận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY
 
Đề tài: Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về chứng thực ở cấp xã
Đề tài: Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về chứng thực ở cấp xãĐề tài: Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về chứng thực ở cấp xã
Đề tài: Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về chứng thực ở cấp xã
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 

Recently uploaded (19)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 

Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN MỸ LINH PH¸P LUËT VÒ DÞCH Vô C¤NG ë VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN MỸ LINH PH¸P LUËT VÒ DÞCH Vô C¤NG ë VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. VŨ TRỌNG HÁCH HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Mỹ Linh
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦ A PHÁ P LUẬT VỀ DI ̣CH VỤ CÔNG ..........8 1.1. Nhƣ̃ng vấn đề lý luâ ̣n về di ̣ch vụ công .......................................................8 1.1.1. Quan niê ̣m về di ̣ch vụ công ...........................................................................8 1.1.2. Đặc điểm dịch vụ công ................................................................................11 1.1.3. Phân loa ̣i di ̣ch vụ công.................................................................................13 1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về dịch vụ công....................................17 1.2.1. Quan niệm pháp luật về dịch vụ công ........................................................17 1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về dịch vụ công.....................................................20 1.2.3. Vai trò của pháp luật về dịch vụ công .........................................................26 1.2.4. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về dịch vụ công..............32 1.3. Pháp luật về dịch vụ công ở một số quốc gia và những vấn đề có thể vận dụng ở Việt Nam...........................................................................47 1.3.1. Pháp luật về dịch vụ công ở một số nước....................................................47 1.3.2. Những vấn đề có thể vận dụng ở Việt Nam ................................................53 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM......57 2.1. Thực trạng nội dung pháp luật về dịch vụ công.....................................57 2.1.1. Những quy định về phạm vi cung cấp dịch vụ công ...................................57 2.1.2. Những quy định về chủ thể cung cấp dịch vụ công ....................................57 2.1.3. Những quy đi ̣nh về nguyên tắc quản lý di ̣ch vụ công.................................63 2.2. Những thành tựu và hạn chế của pháp luật về dịch vụ công ................66 2.2.1. Những thành tựu của pháp luật về dịch vụ công .....................................66 2.2.2. Những hạn chế, bất cập của pháp luật về dịch vụ công...........................72 2.2.3. Nhâ ̣n xét chung về pháp luâ ̣t di ̣ch vụ công..................................................79 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚ NG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DI ̣CH VỤCÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................81
  • 5. 3.1. Các yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công ........................81 3.1.1. Yêu cầu của nền kinh tế thi ̣trường , hội nhâ ̣p kinh tế quốc tế .....................81 3.1.2. Yêu cầu của cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền..................83 3.1.3. Yêu cầu về nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ công cho công dân và xã hội ................................................................................................84 3.2. Phƣơng hƣớ ng hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông ............................85 3.2.1. Xây dựng pháp luật về dịch vụ công toàn diện , thống nhất, đồng bộ, phù hợp với thời kỳ hội nhập .......................................................................85 3.2.2. Xây dựng pháp luâ ̣t di ̣ch vụcông phù hợp với nền hành chính phục vụ nhân dân một cách chính quy , chuyên nghiê ̣p........................................91 3.2.3. Xây dựng pháp luâ ̣t di ̣ch vụcông phù hợp với yêu cầu cải cách kinh tế - văn hóa...................................................................................................94 3.2.4. Pháp luật về dịch vụ công phải đảm bảo dân chủ , minh ba ̣ch , cạnh tranh bình đẳng cho các chủ thể tham gia di ̣ch vụ ......................................94 3.3. Nhƣ̃ng giải pháp xây dƣ̣ng p háp luâ ̣t di ̣ch vụcông trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay..............................................................................................96 3.3.1. Nhâ ̣n thứ c, thể chế hóa các nguyên tắc cung cấp di ̣ch vụcông ..................96 3.3.2. Ban hành các quy pha ̣m pháp luâ ̣t điều chỉnh chuyên biê ̣t trong lĩnh vực di ̣ch vụcông ..........................................................................................99 3.3.3. Thực hiện thường xuyên rà soát, phápđiển hóapháp luật về dịchvụ công.......101 3.3.4. Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công....................105 3.3.5. Tăng cường các điều kiện đảm bảo để nâng cao chất lượng dịch vụ công......109 3.3.6. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân để thuận tiện tiếp nhận và thụ hưởng các dịch vụ công ..................................................110 3.3.7. Tiếp tục xã hội hóa và tranh thủ nguồn lực tại chỗ, nguồn lực trong nước và quốc tế cho việc phát triển dịch vụ công .....................................111 KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................115
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dịch vụ công là dịch vụ mới trong xã hội, sự xuất hiện của dịch vụ công đã tác động và đặt ra những yêu cầu mới với hệ thống pháp luật Việt Nam. Nhà nước ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dịch vụ công phù hợp với ý chí, lợi ích của Nhà nước, đáp ứng với nhu cầu thực tế của người dân. Ngược lại, các dịch vụ công cần có những định hướng thống nhất từ Nhà nước để tồn tại, phát triển đúng với quy luật, đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân trong thời kỳ hội nhập. Điều chỉnh pháp luật với các dịch vụ công là nhu cầu tất yếu nhưng pháp luật chỉ có thể phát huy được ưu thế của mình khi các quy định toàn diện, thống nhất và phù hợp với các điều kiện khách quan. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công là một quá trình với những bước đi thận trọng trên cơ sở nhận thức đúng đắn về bản chất, phạm vi các dịch vụ cũng như các yêu cầu về cách thức tổ chức và mô hình cung cấp dịch vụ phù hợp với điều kiện của nước ta. Pháp luật hiện hành được ban hành trong giai đoạn đầu hình thành các dịch vụ công ở Việt Nam nên không thể tránh khỏi những hạn chế, bất cập do nhận thức về dịch vụ chưa thật đầy đủ, toàn diện. Bản thân các dịch vụ công vẫn đang trong quá trình hình thành và phát triển nên cần có những quy định pháp luật khoa học, thống nhất để định hướng sự phát triển lâu dài phù hợp với xu thế khách quan. Trong khi đó nhu cầu của người dân về các dịch vụ công không ngừng tăng cao về số lượng, phong phú, đa dạng về nội dung; nhu cầu về quản lý nhà nước một cách có hiệu lực, hiệu quả các vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng trong tình hình mới đã đặt ra những đòi hỏi mới với pháp luật về dịch vụ công. Tất cả các yếu tố này đã tác động buộc hệ thống quy phạm pháp luật về dịch vụ công phải không ngừng được bổ sung những quy định mới, tiến bộ, sửa đổi, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp, lạc hậu để phù hợp với nhu cầu của toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay.
  • 7. 2 Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiê ̣n nay” làm luận văn cao học Luâ ̣t, mã ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luâ ̣t, nhằm mong muốn làm rõ hơn nhữn g vấn đề về lý luâ ̣n và thực tiễn của pháp luâ ̣t di ̣ch vụcông ở Viê ̣t Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Ở phương Tây, dịch vụ công được nhiều quốc gia nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, ở Việt Nam dịch vụ công là vấn đề mới nhưng đã và đang khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Nhiều tác giả đã có những công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, bài viết về dịch vụ công có giá trị góp phần hoàn thiện loại hình dịch vụ này cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Điển hình một số đề tài liên quan như: - Chu Văn Thành (chủ biên), Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004, là tập hợp bài viết của nhiều tác giả khác nhau (hai mươi bảy bài viết) về ba mảng nội dung lớn: Một là về những vấn đề lý luận về dịch vụ công ở Việt Nam như khái niệm dịch vụ, mối quan hệ dịch vụ công với nhà nước, vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ, vai trò quản lý của Nhà nước với việc cung ứng dịch vụ. Thứ hai là thực tiễn tổ chức thực hiện dịch vụ công ở Việt Nam. Trong nội dung này, các bài viết không chỉ đề cập đến thực trạng cung cấp dịch vụ công, bao gồm cả các dịch vụ công cộng và các dịch vụ hành chính công, mà còn nhấn mạnh đến quá trình chuyển giao việc thực hiện các dịch vụ công cộng cho cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước thực hiện. Ba là kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong cung ứng dịch vụ công và quản lý cung ứng dịch vụ công. Mặc dù vậy, những quan điểm trong các bài viết về xã hội hóa các dịch vụ công (chủ yếu tập trung vào các dịch vụ công cộng) đã chỉ ra xu hướng phát triển tất yếu của các dịch vụ công ở nước ta trong xã hội ngày nay. - Chu Văn Thành, Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2007, tác giả tập trung nghiên cứu về cung ứng dịch vụ và quản lý dịch vụ công dưới góc nhìn đổi mới của cải cách hành chính. Trong cuốn sách này tác giả trình bày có hệ
  • 8. 3 thống về các vấn đề có liên quan đến dịch vụ công, dịch vụ công cộng, dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính, mô hình cung cấp theo phương thức xã hội hóa, mô hình quản lý dịch vụ khi vừa có sự tham gia của cơ quan nhà nước, vừa có sự tham gia của cá nhân và tổ chức vào cung cấp dịch vụ. - Lê Chi Mai, Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, năm 2003; đã công bố những kết quả nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ về dịch vụ công dưới các góc độ kinh tế, quản lý. Tác giả đã dày công nghiên cứu so sánh giữa dịch vụ công cộng, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ hành chính công để từ đó đưa ra những đặc trưng riêng của từng nhóm dịch vụ công. Các nội dung về thực trạng cung cấp dịch vụ công trong cuốn sách khá chi tiết, có số liệu minh họa gắn với những kết quả thực hiện trên thực tế nên phản ánh rõ nét thực trạng cung cấp dịch vụ trong thời kỳ đầu. Đánh giá về những thành tựu đạt được hay những tồn tại của các nhóm dịch vụ công, tác giả cũng căn cứ vào các quy định pháp luật có liên quan để bình luận, nhận xét. - Lê Chi Mai, Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước, do Nhà xuất bản Lao động - Xã hội xuất bản năm 2002, trong cuốn này tác giả viết về các vấn đề đặt ra trong giai đoạn đầu thực hiện xã hội hóa các dịch vụ công, bao gồm các dịch vụ công cộng như vệ sinh môi trường, vận tải công cộng và các dịch vụ sự nghiệp công như giáo dục, văn hóa, y tế, cũng được đề cập khá chi tiết. Các nội dung trong cuốn sách đã phản ánh trung thực hiện trạng cung cấp dịch vụ cùng với những ưu điểm và nhược điểm cần khắc phục. Điểm mạnh là tác giả đã đưa ra các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiến trình xã hội hóa các dịch vụ công có tính thuyết phục cao. Các nghiên cứu đã góp phần quan trọng làm sáng tỏ những vấn đề về sự tồn tại khách quan của các dịch vụ công. Tuy nhiên, các nghiên cứu của tác giả chủ yếu dưới góc độ quản lý, đối tượng nghiên cứu trong nội dung các cuốn sách không phải là pháp luật về các hoạt động dịch vụ, vì thế pháp luật được nhắc đến còn khá mờ nhạt, chưa toàn diện, chưa trực tiếp đi vào những quy định, giải pháp có tính pháp lý cụ thể. - Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên). Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch
  • 9. 4 vụ công - Nhận thức, thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin xuất bản, năm 2002. Cuốn sách này tập hợp các bài viết của nhiều tác giả, chia thành ba phần lớn: Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công, những bài viết trong phần này chủ yếu đề cập đến bản chất của dịch vụ công, dịch vụ công trong mối quan hệ với nhà nước và trách nhiệm của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công và quản lý dịch vụ công; Các mô hình cung ứng dịch vụ công, bàn về thực tiễn triển khai thực hiện các dịch vụ công, trong đó có thí điểm thực hiện dịch vụ công chứng, dịch vụ nhà đất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và mô hình thí điểm tại Ủy ban nhân dân Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở những nghiên cứu này, trong Phần 3 các tác giả đã được tập trung giải quyết "Các vấn đề bức xúc đặt ra từ thực tiễn và một số giải pháp". Các mô hình thí điểm về dịch vụ hành chính công ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh cũng được xem xét, đánh giá để kết luận về sự phù hợp với tính chất của các dịch vụ công, từ đó rút ra bài học và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động. Nội dung cuốn sách Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công - Nhận thức, thực trạng và giải pháp vừa tập trung phân tích những vấn đề có tính lý luận, vừa giải quyết những yêu cầu của thực tiễn đặt ra nên có ý nghĩa lớn cả trong khoa học và thực tiễn. - Đỗ Thị Hải Hà, “Quản lý Nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, năm 2007, tác giả dựa trên các kết quả nghiên cứu, tìm tòi các bài học, kinh nghiệm của nước ngoài trong quản lý nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công - một công việc cần thiết và bổ ích, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Qua đó, tác giả đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả việc cung ứng các dịch vụ công cho xã hội của nước ta. - Đặng Đức Đạm – Phó trưởng Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam, đăng trên website: http://www.vnep.org.vn/ Modules/CMS/Upload/6/ đưa ra quan điểm hữu ích về khái niệm dịch vụ công và giải pháp hoàn thiện việc cung ứng nhiều loại hình dịch vụ công.
  • 10. 5 Có thể nhận thấy, các cuốn sách, bài viết nêu trên đã góp phần khẳng định sự tồn tại khách quan của dịch vụ công phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Một số tác phẩm bước đầu có đề cập đến pháp luật về dịch vụ công. Một trong những nội dung cơ bản được đề cập đến trong tất cả các cuốn sách này là tập trung làm rõ bản chất, khái niệm, đặc điểm và phân loại các dịch vụ công, tập trung nghiên cứu, bàn luận về các loại dịch vụ công. Hầu hết các tác phẩm chưa đi sâu nghiên cứu pháp luật về dịch vụ công một cách toàn diện, sâu sắc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luâ ̣n văn là nghiên cứu thực tra ̣ng của pháp luâ ̣t về di ̣ch vụ công ở Viê ̣t Nam hiê ̣n nay , từ đó đề xuất các giải pháp để xây dựng , hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công phù hợp với tình hình hiê ̣n nay. Để làm rõ mục đích trên, luâ ̣n văn có nhiê ̣m vụ: - Làm rõ các khái niệm về: quan niê ̣m, đă ̣c điểm, phân loa ̣i di ̣ch vụcông theo quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t hiê ̣n hành. - Làm rõ khái niệm, đối tượng, phương pháp, nội dung của pháp luật về dịch vụ công; quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về dịch vụ công ; thực trạng pháp luật về dịch vụ công hiện nay ở Việt Nam. - Chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng , hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công để góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ công , đáp ứ ng đòi hỏi của pháp luâ ̣t và nhu cầu của người dân trong thời kỳ hội nhâ ̣p . - Đưa ra các giải pháp xây dựng, hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công ở Viê ̣t Nam . 4. Đối tƣợng và pha ̣m vi nghiên cƣ́ u của luâ ̣n văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam , có tham khảo pháp luật về dịch công của một số quốc gia trên thế giới . Phạm vi nghiên cứ u tâ ̣p trung chủyếu vào hê ̣thống pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông ở Viê ̣t Nam trong giai đoa ̣n khoảnghơn 10 năm trở la ̣i đây.
  • 11. 6 5. Cơ sở lý luâ ̣n và phƣơng pháp nghiên cƣ́ u của luâ ̣n văn Cơ sở lý luâ ̣n của viê ̣c nghiên cứ u đề tài là những luâ ̣n điểm trong học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật ; các quan điểm của Đảng Cộng sản Viê ̣t Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về cải cách bộmáy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Viê ̣t Nam xã hội chủ nghĩa, về xây dựng hoàn thiện hê ̣thống pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay. Đồng thời, tác giả có tham khảo và kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên cứ u của các nhà khoa học về di ̣ch vụcông. Các phương pháp được tác giả sử dụng trong luâ ̣n văn gồm : phương pháp phân tích , tổng hợp , diễn di ̣ch , quy na ̣p , phương pháp li ̣ch sử , phương pháp hê ̣ thống, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học... 6. Nhƣ̃ng điểm mớ i của luâ ̣n văn Với mục đích và nhiê ̣m vụnêu trên , những nội dung sau đây là những đóng góp mới: - Hê ̣thống phân tích , bổ sung những vấn đề có tính lý luâ ̣n về dịch vụ công, yêu cầu cung cấp các di ̣ch vụcông cho xã hội và phục vụ đời sống nhân dân. - Đánh giá về thực tra ̣ng chất lượng , tính đồng bộ , thống nhất , đầy đủ của pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay , đưa ra một số ưu điểm và hạn chế ; - Đưa ra những căn cứ khoa học , xác đi ̣nh phương hướng, giải pháp nhằm góp phần xây dựng hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong giai đoạn hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thƣ̣c tiễn của luâ ̣n văn Kết quả nghiên cứ u của luâ ̣n văn bổ sung vào sự phát triển của lý luâ ̣n nhà nước và pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức lý luận về dịch vụ công . Với ý nghĩa đó, luâ ̣n văn góp phần: - Thống nhất một số nhâ ̣n thứ c cơ bản liên quan đến di ̣ch vụcông , pháp luật về di ̣ch vụcông. - Khái quát quá trình hình thành và phát triển cũng như phân tích những quy đi ̣nh của pháp luật về dịch vụ công để đánh giá chất lượng, mứ c độhoàn thiê ̣n... của
  • 12. 7 pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam ; chỉ ra những nguyên nhân , tồn ta ̣i củ a pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông. - Cung cấp các căn cứ khoa học cho viê ̣c hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông. - Luâ ̣n văn có thể làm tài liê ̣u tham khảo cho các nhà nghiên cứ u, giảng dạy, những người làm công tác thực tế và sinh viên, học viên trong các cơ sở đào ta ̣o cử nhân luâ ̣t , cử nhân hành chính , các trường đào tạo , bồi dưỡng cán bộcủa Đảng và Nhà nước… 8. Kết cấu của luâ ̣n văn Ngoài phần mở đầu, kết luâ ̣n, và danh mục tài liê ̣u tham khảo , luâ ̣n văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luâ ̣n của pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông. Chương 2: Thực tra ̣ng pháp luâ ̣t về di ̣ch vụcông ở Viê ̣t Nam. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay.
  • 13. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦ A PHÁ P LUẬT VỀ DI ̣CH VỤCÔNG 1.1. Nhƣ̃ng vấn đề lý luâ ̣n về di ̣ch vụcông 1.1.1. Quan niê ̣m về di ̣ch vụ công Khái niệm "dịch vụ công" được sử dụng phổ biến rộng rãi ở châu Âu sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Dịch vụ công theo từ tiếng Anh là “public service”, trong tiếng Pháp là”service public”. Trong từ điển English Dictionary định nghĩa: từ Service (dịch vụ, phục vụ) The performance of duties by a waiter or servant – dịch vụ là sự thực hiện nhiệm vụ của người phục vụ. Theo nghĩa Hán - Việt: dịch (làm, biến đổi, chuyển dời); vụ (chuyên, vụ việc, phục vụ), công việc mang tính chuyên môn phục vụ cho con người, cho xã hội. Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Từ điển Kinh tế học hiện đại: dịch vụ là các chức năng hoặc nhiệm vụ được thực hiện mà người ta có nhu cầu và do đó, tạo ra giá cả hình thành nên một thị trường thích hợp. Dịch vụ là những hoạt động mang tính phục vụ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người, của xã hội. Trong thời đại mới, khi nói đến dịch vụ người ta thường nghĩ ngay đến dịch vụ gắn liền với các nhiệm vụ kinh tế: là một loại sản phẩm kinh tế, không phải là vật phẩm mà là công việc của con người dưới hình thái lao động thể lực, kiến thức và kỹ năng chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thương mại. Vậy, dịch vụ là những hoạt động mang tính phục vụ, là một quá trình luân chuyển hàng hóa từ người sản xuất đến người tiêu dùng hoặc các hoạt động khác nhằm đáp ứng nhu cầu sống của cá nhân hay một nhóm người. Đó là một khái niệm rộng và dịch vụ công chỉ là một nhóm trong số những nhóm dịch vụ nói chung. Dịch vụ công được hiểu gắn với phạm trù hàng hóa công cộng. Khi loại hàng hóa được cung cấp thỏa mãn được một số đặc tính cơ bản sau, dịch vụ đó sẽ được gọi là dịch vụ công: 1. Đó là một loại hàng hóa mà mọi người đều phải sử dụng. Nói cách khác, đối tượng cung cấp là loại hàng hóa cần thiết cho tất cả mọi người.
  • 14. 9 2. Sự công bằng, bình đẳng được bảo đảm. Không phân biệt giai tầng xã hội, không phân biệt khu vực sinh sống và sắc tộc, loại dịch vụ này được cung cấp một cách bình đẳng cho mọi người. 3. Hàng hóa được duy trì không chạy theo lợi nhuận kinh tế. Ngay cả khi không được tiêu dùng thì hàng hóa công cộng vẫn được duy trì. Vậy rõ ràng lợi nhuận kinh tế không phải là yếu tố quyết định sự tồn tại của loại hàng hóa này mà mục đích chính là sự ổn định, phát triển xã hội và bảo đảm các điều kiện sống thiết yếu cho người dân. Thậm chí có những loại hàng hóa công cộng được nhà nước bao cấp một phần hoặc toàn bộ. Bởi vậy, nhiều người quan niệm, dịch vụ công luôn gắn với vai trò của nhà nước. Có thể nói dịch vụ công chính là dịch vụ cung cấp loại hàng hóa vừa được làm rõ – hàng hóa công cộng [16, tr.8]. Các nhà nghiên cứu hành chính xuất phát từ góc nhìn của chủ thể quản lý nhà nước, cho rằng dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý hành chính và bảo đảm cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của đông đảo cộng đồng. Theo cách hiểu này vai trò và trách nhiệm của nhà nước được nhấn mạnh đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng. Nhìn từ phía đối tượng được hưởng lợi ích của dịch vụ công có thể hiểu, đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng, việc tiến hành các hoạt động ấy có thể do chủ thể nhà nước và ngoài nhà nước đảm nhiệm. Nhưng các nhiệm vụ về lợi ích chung ngày càng tăng lên do sự gia tăng nhu cầu xã hội đã dẫn tới việc một số tư nhân cũng tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ này . Yếu tố về tổ chức (người trực tiếp cung ứng dịch vụ công ) không c ̣òn là yếu tố quyết định để biết xem một dịch vụ có phải là dịch vụ công hay không . Từ thực tế đó, vấn đề đặt ra không phải ai là người trực tiếp cung ứng một dịch vụ phục vụ lợi ích chung, mà là ở chỗ ai chịu trách nhiệm cuối cùng về việc cung ứng dịch vụ này cho xã hội. Từ đó, các tác giả cho rằng, "một hoạt động lợi ích chung được một pháp nhân công quyền đảm nhiệm được coi là một dịch vụ công" – "đảm nhiệm" ở đây được hiểu như trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công. Như vậy, một hoạt động với lợi ích chung do một tư nhân đảm trách không được xem là một dịch vụ công, trừ phi có sự tác động của Nhà nước đến việc cung ứng dịch vụ đó [19].
  • 15. 10 Quan niệm về dịch vụ công cũng thay đổi từng thời kỳ, tùy thuộc vào bối cảnh từng quốc gia và mức độ ưu tiên cung ứng loại dịch vụ này. Có nước cho rằng “dịch vụ công là hoạt động vì lợi ích chung, do cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm” [17]. Quan niệm khác lại cho rằng: “Dịch vụ công là một loại dịch vụ do nhà nước (cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước) trực tiếp thực hiện hoặc ủy quyền cho các tổ chức, đơn vị ngoài nhà nước thực hiện dưới sự giám sát của nhà nước” [37]. Danh mục các dịch vụ công cũng được xếp theo những nhóm khác nhau ở những quốc gia khác nhau và mỗi nước lại có nhận thức khác nhau về phạm vi của dịch vụ công. Ví dụ, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công, từ quốc phòng, an ninh, pháp chế tới các chính sách kinh tế xã hội, môi trường, văn hóa… Trong khi đó, Pháp và Italia đều quan niệm dịch vụ công là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan nhà nước đảm nhiệm hoặc do các tổ chức tư nhân thực hiện theo tiêu chuẩn, quy định của nhà nước. Hay ở Singapore quốc gia ở Đông Nam Á gần Việt Nam, những dịch vụ như ngân hàng, bưu chính, giao thông công cộng và tiện ích cơ bản được tách khỏi hoạt động của Nhà nước, họ đơn thuần là những pháp nhân thương mại. Chính phủ đã lập ra các cơ quan quản lý để giám sát ở tầm vĩ mô dưới hình thức xem xét mức phí mà các đơn vị này đặt ra, nhất là trong những lĩnh vực độc quyền. Ở Việt Nam, khái niệm dịch vụ công được hiểu đó là chức năng phục vụ của nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng mà không phải lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhiều người cho rằng dịch vụ công là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện. Hiện nay, khái niệm của thuật ngữ dịch vụ công ở nước ta vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã quy định vấn đề dịch vụ công trong chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, như Luật Tổ chức Chính phủ 2001, Điều 8 Khoản 4 quy định các nhiệm vụ của Chính phủ: “Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển kinh tế quốc dân, phát triển văn
  • 16. 11 hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công”; hoặc Điều 22 quy định: “Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực…”. Luật Tổ chức Chính phủ 2015 số 76/2015/QH13 vừa được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2015 một lần nữa khẳng định: “Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” [25, Điều 39, khoản 1]. Điều này có nghĩa là nhà nước thông qua các cơ quan hành chính có vai trò quan trọng trong cung ứng và quản lý các dịch vụ công, khai thác các nguồn lực trong xã hội, nâng cao chất lượng dịch vụ công phục vụ người dân. Dù được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau, song dịch vụ công có những tính chất chung nhằm phục vụ nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội, của cộng đồng dân cư và trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này thuộc về nhà nước. Và cho dù nhà nước có ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân khác thực hiện thì nhà nước vẫn chịu trách nhiệm quản lý, điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục sự bất cập của thị trường trong tiến trình hội nhập hiện nay. Từ những phân tích trên, tôi cho rằng: Dịch vụ công là dịch vụ cung cấp hàng hóa công cộng do nhà nước bảo đảm thực hiện bằng cách trực tiếp hoặc ủy quyền, nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân, vì lợi ích chung của cộng đồng và sự phát triển kinh tế - xã hội. 1.1.2. Đặc điểm dịch vụ công 1.1.2.1. Dịch vụ công mang tính chất xã hội: Dịch vụ được thực hiện trong phạm vi rộng, bao gồm các hoạt động vì lợi ích chung của cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người dân một cách công bằng, bình đẳng, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội. Dịch vụ công có vai trò bảo đảm ổn định xã hội và mang tính quần chúng rộng rãi. Từ đó có thể nhận thấy lợi ích kinh tế không phải là điều kiện tiên quyết chi phối các dịch vụ này. Khác với
  • 17. 12 các hoạt động kinh tế, dân sự sinh lợi khác, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ công theo sự ủy quyền của nhà nước phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt mà nhà nước đặt ra riêng cho lĩnh vực dịch vụ cung ứng. 1.1.2.2. Là một loại dịch vụ do Nhà nước (dưới hình thức là các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước) trực tiếp thực hiện hoặc uỷ quyền cho các cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước thực hiện dưới sự giám sát của Nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội. Ở đây, Nhà nước là người chịu trách nhiệm đến cùng trước nhân dân, xã hội về số lượng dịch vụ cũng như chất lượng dịch vụ. Trách nhiệm thể hiện qua việc hoạch định chính sách, thể chế pháp luật, quy định thẩm quyền của các đơn vị công lập và ngoài công lập cung ứng dịch vụ, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghiệp vụ của các đơn vị này, đảm bảo hài hòa các mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia cung ứng dịch vụ công. 1.1.2.3. Đối tượng cung ứng là loại hàng hóa đặc biệt Như phân tích ở phần khái niệm, loại hàng hóa được cung ứng ở đây là hàng hóa “công cộng”. Dịch vụ buộc phải được duy trì ngay cả khi không sinh lợi và không được tiêu dùng. Bắt nguồn từ mục đích chính là phục vụ lợi ích cộng đồng nên loại hình dịch vụ công không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Vì thế loại hàng hóa được cung ứng ở đây không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Hàng hóa có thể là hiện vật hay phi hiện vật đều được người sử dụng trả tiền dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước chứ không trả trực tiếp (trừ một số phí và lệ phí theo quy định). Có những dịch vụ người thụ hưởng chỉ phải đóng một phần hay được miễn toàn bộ lệ phí. 1.1.2.4. Thể hiện rõ vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước: Nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong quá trình cung cấp dịch vụ công. Mặc dù nhiều dịch vụ công được chuyển giao ra ngoài khu vực nhà nước, song không thoát ly khỏi sự quản lý và kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Nhà nước bảo đảm cho những dịch vụ này phải được duy trì, ngay cả trong trường hợp nó không đem lại lợi nhuận mong muốn. Ngoài ra, Nhà nước còn phải thực hiện chức năng điều
  • 18. 13 tiết dịch vụ công nhằm khắc phục những hạn chế của thị trường, sao cho phù hợp với những khu vực có đặc điểm, điều kiện, nhu cầu khác nhau của mỗi giai tầng trong xã hội. Nhà nước thực hiện việc hỗ trợ đặc biệt cho những đối tượng khó khăn, các đối tượng chính sách và bảo đảm an sinh xã hội. 1.1.2.5. Không tuân theo quan hệ thị trường đầy đủ Nếu trong các giao dịch kinh tế, dân sự tính sinh lợi được đặt lên hàng đầu thì trong dịch vụ công các giao dịch lại có mục đích chủ yếu là phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng trên cơ sở cung cấp các loại hàng hóa công cộng, thiết yếu. Dịch vụ công được duy trì chủ yếu không theo các quy luật cung – cầu mà nó tồn tại dựa trên sự bảo đảm của nhà nước. 1.1.3. Phân loại di ̣ch vụ công Có nhiều cách phân loại các loại hình dịch vụ công. Căn cứ vào điều kiện thực tế ở Việt Nam, xét theo chủ thể cung ứng có thể chia thành các loại: dịch vụ do nhà nước trực tiếp cung ứng, dịch vụ do nhà nước ủy quyền toàn phần hoặc một phần. Tuy nhiên, để nghiên cứu một cách tổng thể, dựa vào tính chất của dịch vụ công được chia thành các nhóm như sau: 1.1.3.1. Dịch vụ hành chính công Một số nhà nghiên cứu cho rằng hành chính công được quan niệm là hoạt động của cơ quan nhà nước, mang tính quyền lực và sử dụng quyền lực của nhà nước phục vụ lợi ích hợp pháp của công dân. Trong Giáo trình Hành chính học đại cương, tác giả đưa ra khái niệm: Hành chính công là một thiết chế được tạo thành bởi hệ thống các pháp nhân chính phủ, bộ, ủy ban nhân dân, cơ quan nhà nước, công sở hành chính và sự nghiệp, có thẩm quyền tổ chức và điều hành mọi quá trình kinh tế - xã hội và hoạt động của các tổ chức, công dân bằng văn bản quy phạm để thi hành luật. Hoặc một quan niệm khác lại cho rằng dịch vụ hành chính công là tổng thể các chính sách, quy định, quy trình, thủ tục... được Nhà nước đầu tư ngân sách và chịu trách nhiệm quản lý và điều hành, “tổ chức quản lý và thực hiện các hoạt động của bộ máy chính phủ trong đó có các hoạt động thực thi luật, quy định và quyết
  • 19. 14 định của chính phủ, thực hiện quản lý cung ứng dịch vụ công” [32]. Từ những quan niệm trên có thể thấy rằng dịch vụ hành chính công gắn liền với chức năng quản lý của nhà nước. Chỉ có nhà nước mới là chủ thể đủ tư cách pháp lý để đảm nhận các hoạt động cung ứng. Dịch vụ hành chính công liên quan đến những dịch vụ công cốt lõi, bao gồm các dịch vụ mà Nhà nước là người duy nhất cung cấp và mọi công dân bắt buộc phải nhận khi có nhu cầu về chúng. Nhà nước cung cấp các loại dịch vụ này dựa trên cơ sở pháp lý và nguyên tắc quản lý nhà nước cơ bản. Trước đây, dịch vụ hành chính công đồng nhất với việc thực hiện các dịch vụ công cốt lõi và Nhà nước là chủ thể duy nhất cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, sau này khi dịch vụ công được mở rộng thì một vài dịch vụ hành chính công cũng đã được Nhà nước ủy quyền cho khu vực tư nhân thực hiện. Chủ thể thực hiện dịch vụ hành chính công là nhà nước hay các cá nhân, tổ chức được nhà nước ủy quyền thực hiện. Các chủ thể này cung cấp dịch vụ hành chính công liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước, cụ thể như các hoạt động thẩm định hồ sơ, ký phê duyệt, tổ chức cho đăng ký, cấp các loại giấy phép, giấy tờ pháp lý (cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp phép khai thác khoáng sản, cấp giấy phép xuất nhập khẩu, hải quan, chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu...), công chứng, chứng thực, an ninh, trật tự an toàn xã hội... Người dân thụ hưởng các dịch vụ này không phải trả ngang giá các sản phẩm mà họ nhận được mà chỉ phải đóng lệ phí hoặc phí theo quy định của nhà nước. Để phân biệt với các dịch vụ công khác, xin đưa ra một số đặc trưng của dịch vụ hành chính công như sau: - Cung cấp các dịch vụ hành chính dựa trên cơ sở pháp lý và nguyên tắc quản lý cơ bản của nhà nước. Đó là việc thực hành quyền hạn kinh tế, chính trị, xã hội và hành chính nhằm quản lý các vấn đề của nhà nước ở các cấp. Có thể liệt kê một số dịch vụ như: pháp luật, an ninh, quốc phòng, các nguồn phúc lợi xã hội, cấp giấy sở hữu, giấy tờ tùy thân, môi trường, phòng dịch... - Dịch vụ hành chính công bao gồm các quá trình xây dựng chính sách và thực thi chính sách. Xây dựng chính sách là một vấn đề quan trọng của nền hành
  • 20. 15 chính công, các chính sách được xây dựng sẽ tác động đến sự vận hành và thực hiện các dịch vụ công. Các quyết định về chính sách có thể ảnh hưởng đến hành vi và vì vậy sẽ cải thiện hoặc làm giảm chất lượng của dịch vụ. Sau khi một quyết định được đưa ra thì tất yếu sẽ chuyển thành quá trình thực thi chính sách. Đó là một chuỗi các thủ tục và thực hành, trực tiếp tác động đến người dân khi họ có nhu cầu sử dụng dịch vụ. - Mục tiêu của dịch vụ hành chính công nhằm cung cấp các dịch vụ với chất lượng tốt cho mọi người dân một cách công bằng, bình đẳng, đặc biệt là người nghèo. Dịch vụ hành chính công đóng vai trò quan trọng trong xóa đói giảm nghèo bởi vì nó khuyến khích tính minh bạch và trách nhiệm giải trình từ những cán bộ và cơ quan nhà nước. Một cách chung nhất, dịch vụ hành chính công được hiểu là toàn bộ các yếu tố như bộ máy chung, thủ tục, hệ thống, nhân sự... được nhà nước trả lương để quản lý, định hướng về các vấn đề thực hành quản lý; quản lý và thực thi các hoạt động quản lý nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước. Bao gồm các quá trình thi hành luật, quy định và quyết định của chính phủ và việc quản lý liên quan đến cung cấp dịch vụ. Dịch vụ hành chính công phục vụ lợi ích hoặc tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức do cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức thuộc cơ quan hành chính nhà nước, cá nhân, tổ chức được Nhà nước cho phép cung cấp theo nguyên tắc bình đẳng, không vì mục đích lợi nhuận, góp phần thiết lập, duy trì và bảo vệ trật tự quản lý hành chính nhà nước. 1.1.3.2. Dịch vụ xã hội công a. Dịch vụ sự nghiệp công: Loại dịch vụ này bao gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội thiết yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, y tế, chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội… Theo xu hướng chung hiện nay là Nhà nước chỉ thực hiện những dịch vụ mà xã hội không thể làm được, vì vậy đối với loại dịch vụ sự nghiệp công, nhà nước có thể chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ cho khu vực tư nhân và tổ chức xã hội, nhằm giảm tải cho bộ máy nhà nước, khai thác nguồn lực trong xã hội, phá bỏ bao cấp, nâng cao chất lượng dịch vụ công phục
  • 21. 16 vụ người dân. Đây chính là điểm khác với loại dịch vụ hành chính công. Thuật ngữ xã hội hóa các dịch vụ sự nghiệp công cũng được xuất hiện và mở rộng. Nhiều bệnh viện, nhà trường và các tổ chức sự nghiệp khác do các tổ chức, cá nhân thực hiện xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng. Mặc dù về mặt chất lượng cung ứng dịch vụ còn nhiều điều phải bàn, song việc mở rộng chủ thể cung ứng đã phá vỡ thế độc quyền của nhà nước, tạo ra những tiện ích đáng kể cho người sử dụng. b. Dịch vụ công ích: đó là các hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ cơ bản thiết yếu cho người dân liên quan đến vệ sinh môi trường, cấp điện, nước, vận tải công cộng, xử lý rác thải, phòng chống thiên tai… đều được coi là các dịch vụ công ích. Các loại dịch vụ này thường được nhà nước ủy quyền cho các doanh nghiệp và tư nhân thực hiện. Với các đặc điểm đa dạng của mỗi loại dịch vụ công ích trên, có thể thấy rằng cung ứng các dịch vụ này có hiệu quả, chất lượng là một điều khó khăn đòi hỏi phải xác định loại nào giữ vai trò chủ chốt, loại nào có thể giao cho các tổ chức ngoài nhà nước thực hiện. Nếu giải quyết không tốt vấn đề này hiệu quả dịch vụ sẽ giảm sút, ảnh hưỏng tiêu cực đến đời sống nhân dân và sự phát triển chung của toàn xã hội. Tính ưu việt của một xã hội được phản chiếu một cách rõ ràng qua chất lượng cung ứng dịch vụ công ích, bởi vì dịch vụ công ích là những hoạt động phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững có kỷ cương, trật tự. Mọi xã hội đều có những vấn đề chung, liên quan đến cuộc sống của tất cả mọi người. Đó là các vấn đề như trật tự trị an, phân hóa giàu nghèo, giáo dục, y tế, dân số, môi trường, tài nguyên,…Để giải quyết thành công các vấn đề này, cần có sự góp sức của cả nhà nước, cộng đồng và các tổ chức xã hội thông qua việc cung ứng các dịch vụ công ích. Nếu các dịch vụ này bị ngừng cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, chất lượng thấp thì sẽ dẫn đến những rối loạn trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của mỗi người dân, đồng thời tác động tiêu cực đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Như vậy dù có là loại hình dịch vụ công ích nào thì nhìn chung, các dịch vụ này đều đáp ứng những nhu cầu chung của xã hội về các lĩnh vực sau đây: Duy trì trật tự công cộng và an toàn xã hội như quốc phòng, an ninh, ngoại giao; Bảo vệ trật
  • 22. 17 tự kinh tế, trật tự mua bán trên thị trường thông qua việc xây dựng và thực thi thể chế kinh tế thị trường; Cung cấp các tiện ích công cộng cho toàn thể thành viên trong xã hội như bảo vệ sức khỏe, giao thông công cộng, thông tin, thư viện công cộng…; Quản lý tài nguyên và tài sản công cộng như: quản lý tài sản nhà nước, bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên; Bảo vệ quyền công dân, quyền con người... 1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về dịch vụ công 1.2.1. Quan niệm pháp luật về dịch vụ công Khi dịch vụ công ra đời thì đồng thời xuất hiện nhu cầu cần có các quy tắc chung làm cơ sở cho hành vi của các bên chủ thể tham gia hoạt động này. Dịch vụ công vừa có tính chất phục vụ quyền, lợi ích của dân chúng, vừa bảo đảm mục đích quản lý nhà nước, dưới góc độ khác, dịch vụ công liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, vừa liên quan đến hoạt động của bộ máy nhà nước nên việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong dịch vụ phải bằng pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Ở Việt Nam, chưa có sự đồng thuận tuyệt đối trong nhận thức về pháp luật điều chỉnh dịch vụ công. Dịch vụ là những hoạt động có tính chất "bắc cầu" giữa quản lý nhà nước với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, trong giao dịch mà cá nhân, tổ chức tham gia vào. Từ phía các cơ quan nhà nước thì đảm bảo dịch vụ công tồn tại và phát triển bằng cơ chế pháp luật là nhiệm vụ cần hoàn thành. Xuất phát từ phía dân chúng thì dịch vụ công là những dịch vụ phục vụ lợi ích của cá nhân, tổ chức phát sinh từ chính nhu cầu thiết yếu của đời sống hàng ngày. So sánh với hoạt động quản lý nhà nước có thể thấy rằng quản lý dịch vụ công là những hoạt động gắn với quyền lực nhà nước, dù được tổ chức thực hiện như thế nào cũng luôn thể hiện tính đơn phương, tính bắt buộc phải phục tùng và tính cưỡng chế [11, tr.9,10]. Các dịch vụ công được thực hiện trên cơ sở mối quan hệ bình đẳng giữa cá nhân, tổ chức là người yêu cầu dịch vụ với cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Cơ quan nhà nước với tư cách là chủ thể cung cấp dịch vụ, nếu sử dụng mệnh lệnh để duy trì việc cung cấp dịch vụ thì tính phục vụ của dịch vụ công không còn. Vì thế, để điều chỉnh dịch vụ công cần sử dụng tổng hợp các quy phạm
  • 23. 18 pháp luật dân sự, thương mại hay quy phạm hành chính phù hợp với từng loại hình của dịch vụ công. Pháp luật về dịch vụ công vừa phải thể hiện những yếu tố pháp luật về tổ chức cung cấp, thủ tục cung cấp, quyền kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước với việc cung cấp dịch vụ, vừa có những nội dung của pháp luật về dân sự như các quy định về quyền, lợi ích của các bên khi tham gia cung ứng dịch vụ công. Mặc dù có những đặc trưng riêng nhưng pháp luật về dịch vụ công không là một hệ thống pháp luật biệt lập mà chỉ là một nội dung cụ thể của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, có mối liên hệ chặt chẽ với các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, với các quy định pháp luật về dân sự, thương mại, đất đai, hôn nhân gia đình, thuế, hải quan, y tế, giao thông, môi trường... Về hình thức, pháp luật về dịch vụ công bao gồm các quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Có nhiều cách thức thể hiện khác nhau các quy định pháp luật về dịch vụ công nhưng phổ biến nhất hiện nay là: các quy định có tính nguyên tắc, quy định khung về dịch vụ sẽ được định ra trong nội dung của văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành như Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Hộ tịch, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Xây dựng, Luật Cư trú, Luật Giáo dục, Luật y tế, Luật Giao thông đường bộ, Luật Tài nguyên và Môi trường,... Các quy định cụ thể như hình thức, thủ tục thực hiện, thẩm quyền cung cấp, quyền, nghĩa vụ của các bên trong dịch vụ, sẽ được quy định cụ thể trong văn bản riêng, thường là các thông tư, quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, nghị định. Có thể một hoặc một nhóm các dịch vụ công được quy định riêng trong một văn bản luật như Luật Công chứng quy định về hoạt động công chứng. Cũng có văn bản quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung cho việc cung cấp các dịch vụ khác nhau như Quyết định 09/2015/QĐ-TTg ngày 25/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương hay Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan
  • 24. 19 nhà nước. Do tính đa dạng, phong phú của các dịch vụ công nên không có một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp, các quy phạm pháp luật về dịch vụ công được thể hiện trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, liên kết chặt chẽ với nhau. Về nội dung, pháp luật về dịch vụ công là những quy tắc hành vi cho các chủ thể tham gia vào dịch vụ, ngoài ra còn bao gồm các nguyên tắc, các chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển từng dịch vụ, nhóm dịch vụ công. Pháp luật về dịch vụ công có thể chia thành hai nhóm nội dung chính là: các quy định về tổ chức, cung cấp dịch vụ và các quy định về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công. Các nội dung cụ thể của pháp luật gồm: nguyên tắc của dịch vụ công; hình thức cung cấp; các yêu cầu, điều kiện đối với việc cung cấp dịch vụ; quyền, nghĩa vụ các bên trong dịch vụ, thủ tục thực hiện dịch vụ; quy định về tổ chức bộ máy, tổ chức nhân sự; về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong dịch vụ công. Về phạm vi tác động, đối tượng điều chỉnh, pháp luật về dịch vụ công tác động đến các cơ quan nhà nước, các cá nhân, tổ chức tham gia dịch vụ. Đối tượng tác động của pháp luật về dịch vụ công có thể chia thành ba nhóm cơ bản. Một là, các chủ thể cung cấp dịch vụ, đây là nhóm chủ thể bằng hoạt động của mình đáp ứng nhu cầu về dịch vụ công của dân chúng, nhóm này bao gồm các cơ quan hành chính, các đơn vị, tổ chức dịch vụ công thuộc cơ quan hành chính, các tổ chức dịch vụ công của cá nhân, tổ chức được nhà nước cho phép cung cấp dịch vụ, các cán bộ, công chức, viên chức, các cá nhân trực tiếp thực hiện những công việc nhất định trong quá trình cung cấp một dịch vụ công cụ thể. Hai là, các chủ thể yêu cầu và hưởng thụ dịch vụ, đây là những cá nhân, tổ chức đã đưa ra yêu cầu đến các chủ thể cung cấp dịch vụ và hưởng thụ dịch vụ phù hợp với quy định của pháp luật. Có những dịch vụ chủ thể hưởng thụ chỉ có thể là cá nhân như các dịch vụ đăng ký kết hôn, cấp chứng minh thư, cấp giấy phép điều khiển phương tiện giao thông, cấp thẻ bảo hiểm y tế... cũng có những dịch vụ chủ thể chỉ có thể là tổ chức như trong dịch vụ cấp giấy phép khai thác khoáng sản chủ thể chỉ có thể là doanh nghiệp, có những dịch vụ chủ thể hưởng thụ có thể là cá
  • 25. 20 nhân hay tổ chức như công chứng, chứng thực, cấp sổ đỏ, sổ hồng, sổ hộ khẩu, y tế, giáo dục... Ba là, các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương như Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc cơ quan hành chính. Các cơ quan này bằng hành vi quản lý của mình đảm bảo cho việc cung cấp dịch vụ đúng pháp luật, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của nhân dân. Tương ứng với sự tham gia của ba nhóm chủ thể nêu trên, những quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của pháp luật về dịch vụ công gồm: những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cung cấp dịch vụ, đó là những quan hệ giữa chủ thể cung cấp dịch vụ với chủ thể hưởng thụ dịch vụ; quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước với các dịch vụ giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với các chủ thể cung cấp dịch vụ, chủ thể hưởng thụ dịch vụ. Tóm lại, pháp luật về dịch vụ công là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cung cấp và quản lý nhà nước về dịch vụ công. 1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về dịch vụ công Pháp luật về dịch vụ công vừa phản ánh những yếu tố chung của hệ thống pháp luật Việt Nam vừa có những đặc trưng riêng, với tư cách là những quy định pháp luật điều chỉnh nhiều nội dung trong các mặt hoạt động của Nhà nước và xã hội. Pháp luật về dịch vụ công có những đặc điểm sau: 1.2.2.1. Pháp luật về dịch vụ công là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành Các phong tục, tập quán, các quy phạm đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo so với các quy phạm pháp luật có sự hạn chế về phạm vi tác động, thiếu chặt chẽ và thống nhất đã làm cho các loại quy tắc hành vi này không thể là chuẩn mực để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dịch vụ công. Do vậy, tất yếu cần có sự điều chỉnh pháp lý đối với quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dịch vụ công. Dịch vụ công cũng xa lạ với các phong tục, tập quán vốn có và cũng không
  • 26. 21 thừa nhận bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, của các cơ quan hành chính trước đó là quy tắc xử sự chung cho các chủ thể, vì thế pháp luật về dịch vụ công chỉ có hình thức nguồn là các văn bản quy phạm pháp luật. Dịch vụ công bao gồm nhiều dịch vụ cụ thể, nên hiện nay các quy định về dịch vụ công được thể hiện trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Pháp luật về dịch vụ công có hình thức thể hiện là các luật do Quốc hội ban hành, các nghị định của Chính phủ, thông tư, quyết định của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong số các văn bản quy phạm pháp luật quy định về dịch vụ công đó, các luật do Quốc hội ban hành có vai trò quan trọng. Luật là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, có tính ổn định nên tạo cơ sở thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện các dịch vụ công một cách thống nhất, chứa đựng những quy phạm để các chủ thể tham gia cung ứng dịch vụ công thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nhưng hình thức văn bản luật chỉ phù hợp với những dịch vụ đã định hình và phát triển ổn định. Quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung luật khá phức tạp và thường kéo dài dễ làm cho các luật trở nên lạc hậu so với thực tiễn cung cấp dịch vụ. Để tránh tình trạng vừa ban hành đã lạc hậu, nhiều luật của Quốc hội chỉ quy định các vấn đề chung có tính nguyên tắc và giao cho Chính phủ và các cơ quan hành chính quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Thực tế này đã làm giảm khả năng áp dụng trực tiếp của luật về dịch vụ công. Vấn đề thường thấy là các luật được ban hành đã có hiệu lực nhưng lại phải chờ Nghị định, thông tư của Chính phủ và các bộ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành mới chính thức được tổ chức thực hiện trên thực tế. Các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước ban hành mặc dù có hiệu lực pháp lý thấp hơn các luật của Quốc hội nhưng có thủ tục ban hành, sửa đổi, bổ sung linh hoạt dễ thích hợp để điều chỉnh các dịch vụ công trong giai đoạn hiện nay. Thông thường, Chính phủ ban hành nghị định quy định về các dịch vụ công cụ thể. Các Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn quản lý chuyên môn của mình sẽ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành nghị định của Chính phủ về các yếu tố chuyên môn, nghiệp vụ
  • 27. 22 của việc cung cấp dịch vụ. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương quy định việc tổ chức thực hiện dịch vụ tại địa phương mình. Pháp luật về dịch vụ công mới được hình thành tại Việt Nam nên vẫn chưa định hình rõ nét. Chỉ có pháp luật về một số dịch vụ đã tương đối đồng bộ như pháp luật về đăng ký doanh nghiệp, công chứng, chứng thực... và một số dịch vụ thiết yếu như cung cấp điện, nước sinh hoạt, giao thông công cộng... trong khi phần lớn pháp luật về các dịch vụ khác vẫn thiếu những quy phạm có hiệu lực pháp lý cao, quy định đầy đủ, thống nhất về các nội dung liên quan như pháp luật về y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, cấp sổ đỏ... Vì vậy, pháp luật về dịch vụ công cần có những quy phạm phù hợp nhất kịp thời điều chỉnh, định hướng các quan hệ phát sinh trong việc cung ứng các dịch vụ, phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của cộng đồng dân cư. 1.2.2.2. Pháp luật về dịch vụ công có mối liên hệ chặt chẽ với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam Pháp luật Việt Nam là hệ thống pháp luật thành văn, bao gồm tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh mối quan hệ xã hội xác định, định hướng các quan hệ đó phát triển phù hợp với mục đích của Nhà nước. Pháp luật về dịch vụ công là một nội dung của hệ thống pháp luật Việt Nam có mối liên hệ và thống nhất với các quy định khác. Trước hết, pháp luật về dịch vụ công có mối liên hệ mật thiết với các quy định pháp luật về tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước. Xét về tính chất các dịch vụ phản ánh những hoạt động quản lý nhà nước nên việc quy định về từng dịch vụ cụ thể phải đảm bảo phù hợp với hoạt động quản lý có liên quan đến dịch vụ đó. Qua đó, Nhà nước cũng phải thực hiện quản lý đối với bản thân các dịch vụ. Do vậy, các quy định pháp luật về dịch vụ công không tách rời với các quy định về quản lý nhà nước. Pháp luật về dịch vụ công có mối quan hệ mật thiết với những quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước là chủ thể cơ bản, quan trọng nhất trong cung cấp dịch vụ đồng thời cũng được giao nhiệm vụ chính quản
  • 28. 23 lý nhà nước đối với từng dịch vụ. Pháp luật về dịch vụ phải xác định rõ những cơ quan quản lý nào cung cấp dịch vụ hoặc tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ; các yêu cầu đối với cơ quan quản lý khi cung cấp một dịch vụ nhất định. Dưới sự tổ chức quản lý, điều tiết của cơ quan Nhà nước, các dịch vụ công tạo ra các bảo đảm pháp lý cho cá nhân, tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ nên pháp luật về dịch vụ công còn có mối quan hệ mật thiết với các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Pháp luật là cơ sở pháp lý để công dân đưa ra yêu cầu cụ thể về dịch vụ nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Một mặt, pháp luật về dịch vụ công không hạn chế việc thực hiện các quyền của công dân, nhất là các quyền cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, các quyền tự do được ghi nhận trong Hiến pháp. Mặt khác, pháp luật cũng phải đảm bảo thuận lợi nhất cho công dân khi thực hiện nghĩa vụ của mình. Ví dụ, công dân có quyền tự do kết hôn khi đủ tuổi theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (sửa đổi năm 2014) quy định việc đăng kí có thể thực hiện ở nơi cư trú của chồng hoặc vợ, hơn nữa có cả trung tâm tư vấn sức khỏe, hôn nhân gia đình hỗ trợ cho các chủ thể kết hôn; Luật giáo dục 2005 cho phép mọi người dân ở mọi lứa tuổi có quyền đi học; Việc đưa ra yêu cầu về đăng ký doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp số 64/2014/QH13 ngày 26/11/2014 về đăng ký doanh nghiệp tạo điều kiện cho mọi cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tự do kinh doanh... Quan hệ pháp luật về dịch vụ công là tiền đề cho các quan hệ pháp luật, các giao dịch khác có thể diễn ra hợp pháp và được đảm bảo thực hiện từ phía Nhà nước. Do vậy pháp luật về dịch vụ công còn có mối liên hệ với các quy định pháp luật về dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, kinh tế, lao động, y tế, giao thông... Thêm vào đó, từ các giao dịch dân sự, kinh tế thương mại, lao động, hôn nhân gia đình... sẽ quyết định sự cần thiết phải có các dịch vụ công tương ứng. Ví dụ, cấp giấy chứng nhận kết hôn là sự công nhận chính thức của Nhà nước về việc một người nam và một người nữ đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau là vợ chồng, từ đó phát sinh quyền, nghĩa vụ với nhau, với tài sản chung, với con chung, các
  • 29. 24 quan hệ dân sự tương ứng cũng phát sinh từ tài sản chung, nghĩa vụ chung của vợ chồng. Giấy đăng ký kinh doanh là giấy tờ có giá trị pháp lý đầu tiên để Nhà nước thừa nhận chính thức một pháp nhân ra đời từ đó phát sinh các giao dịch dân sự, lao động, thương mại tương ứng. Mối liên hệ giữa pháp luật về dịch vụ công với các ngành luật khác thể hiện sự tác động qua lại hai chiều, biện chứng, các quy định pháp luật bổ khuyết cho nhau để đảm bảo tất cả những quan hệ xã hội quan trọng đều được điều chỉnh và bảo vệ bằng pháp luật. Mối quan hệ giữa pháp luật về dịch vụ công với các ngành luật khác là cơ sở cho tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam. 1.2.2.3. Pháp luật về dịch vụ công quy định toàn diện các vấn đề khác nhau của dịch vụ công Do tính đa dạng của các loại hình dịch vụ công, tính chặt chẽ, phức tạp của việc cung cấp dịch vụ mà nội dung pháp luật về các dịch vụ này cũng đa dạng, phong phú. Thứ nhất, pháp luật quy định các dịch vụ cụ thể khác nhau Như đã nêu ở mục 1.1.3, dịch vụ công được chia thành hai nhóm lớn là: nhóm các dịch vụ hành chính công (bao gồm: cấp các loại giấy phép; đăng ký và cấp giấy chứng nhận; công chứng, chứng thực; các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ); nhóm dịch vụ xã hội công (bao gồm: dịch vụ sự nghiệp công: cung cấp các dịch vụ giáo dục, văn hóa, khoa học, y tế, chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội; dịch vụ công ích: cung cấp dịch vụ về điện, nước, vệ sinh môi trường, xây dựng...). Trong từng nhóm lại bao gồm nhiều dịch vụ cụ thể. Sự khác nhau về chủ thể cung cấp, điều kiện, thủ tục thực hiện, yêu cầu của các chủ thể tham gia dịch vụ đã làm cho từng dịch vụ khác biệt nhau, pháp luật có các quy định riêng để phù hợp với những đặc trưng này. Nếu căn cứ vào các loại dịch vụ công, thì pháp luật về dịch vụ công có thể chia thành: - Các quy định pháp luật về các dịch vụ cấp giấy phép như các quy định về cấp giấy phép khai thác khoáng sản, giấy phép thực hiện hoạt động ngành nghề kinh doanh có điều kiện, điều khiển phương tiện giao thông (giấy phép lái xe), cấp các loại giấy phép đầu tư, giấy phép xây dựng...
  • 30. 25 - Các quy định pháp luật về đăng ký và cấp giấy chứng nhận, giấy tờ pháp lý như các quy định về đăng ký kinh doanh, đăng ký giao dịch đảm bảo; đăng ký cấp chứng minh thư, cấp giấy khai sinh, khai tử, kết hôn, cải chính hộ tịch hay đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, đăng ký sở hữu xe... - Các quy định pháp luật về công chứng, chứng thực: các quy định về công chứng hợp đồng, giao dịch, chứng thực bản sao, chữ ký... - Các quy định về các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, như các quy định về trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, tư vấn việc làm miễn phí, cung cấp thông tin... - Các quy định pháp luật về y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, giáo dục phổ thông, cung cấp điện, nước sinh hoạt, xử lý rác thải, vệ sinh môi trường, dịch vụ vận tải công cộng, xây dựng và bảo dưỡng đường xá, cầu, cống... Thứ hai, đối với từng dịch vụ cụ thể, pháp luật lại quy định rất nhiều nội dung khác nhau Đối với từng dịch vụ pháp luật quy định những nội dung cụ thể của dịch vụ như: phạm vi dịch vụ, các nguyên tắc tổ chức, thực hiện, quyền và nghĩa vụ của các thủ thể tham gia, trình tự, thủ tục thực hiện và cách thức quản lý của nhà nước đối với việc cung ứng dịch vụ. Những nội dung cụ thể của các dịch vụ khác nhau, pháp luật cũng quy định khác nhau cho phù hợp với đặc điểm riêng của từng dịch vụ. Ví dụ, cùng là hoạt động cấp giấy phép nhưng cấp giấy đăng ký kinh doanh đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện và ngành nghề kinh doanh không có điều kiện theo Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 thì trình tự, thủ tục cho các chủ thể cũng khác nhau. Hay cùng là hoạt động chứng nhận tính xác thực và hợp pháp nhưng quyền và nghĩa vụ của công chứng viên trong hoạt động công chứng các giao dịch, hợp đồng theo Điều 22 Luật Công chứng khác với quyền và nghĩa vụ của người thực hiện chứng thực bản sao, chữ ký theo Điều 12 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 15/8/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký... Căn cứ vào nội dung cụ thể, cần thiết để điều chỉnh từng loại dịch vụ thì pháp luật về dịch vụ công, được chia thành hai nhóm nội dung cơ bản là: các quy
  • 31. 26 định pháp luật về tổ chức, thực hiện dịch vụ và các quy định về quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công. Hai mảng nội dung này có mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời, đảm bảo cho các dịch vụ công tồn tại, phát triển theo yêu cầu của các chủ thể tham gia, phù hợp với mục đích của Nhà nước. Pháp luật là hình thức thể hiện ý chí của Nhà nước nên những lợi ích mà Nhà nước mong muốn đạt được sẽ quyết định nội dung các quy phạm pháp luật về tổ chức, thực hiện dịch vụ. Những quy định về tổ chức, thực hiện dịch vụ phải phù hợp với mục đích quản lý của nhà nước. Ngược lại, những quy định về quản lý nhà nước phải phù hợp với yêu cầu khách quan, những yếu tố kỹ thuật, nghiệp vụ của từng dịch vụ cụ thể. Dịch vụ công trong mỗi dịch vụ cụ thể có yêu cầu riêng về chuyên môn, nghiệp vụ tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước nếu các yêu cầu này không được thực hiện đúng trên thực tế sẽ làm giảm chất lượng của dịch vụ, biến các dịch vụ này thành các hoạt động quản lý nhà nước thuần túy, hoặc thành các giao dịch dân sự, thương mại có bản chất khác hẳn. Vì vậy, các quy định pháp luật về tổ chức, thực hiện dịch vụ và các quy định về quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công phải đồng bộ, thống nhất với nhau tạo cơ sở pháp lý cho dịch vụ phát triển phù hợp với yêu cầu khách quan. 1.2.3. Vai trò của pháp luật về dịch vụ công Pháp luật với chức năng cơ bản là điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng các quan hệ đó vận động, phát triển phù hợp với ý chí, lợi ích của nhà nước, phù hợp với lợi ích chung của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Như đã phân tích ở mục 1.2.3.3 pháp luật về dịch vụ công điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã hội cơ bản là các quan hệ xã hội phát sinh trong cung cấp dịch vụ và các quan hệ về quản lý nhà nước với việc cung cấp dịch vụ đó, nên vai trò của pháp luật về dịch vụ cũng thể hiện dưới hai góc độ chính: 1.2.3.1. Vai trò của pháp luật trong việc cung cấp dịch vụ công Dịch vụ công chỉ ra đời và tồn tại trên cơ sở sự cho phép của nhà nước bằng các quy định của pháp luật, ngược lại, pháp luật về dịch vụ công xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn để điều chỉnh hành vi, hoạt động của các chủ thể liên quan đến việc cung ứng dịch vụ. Vai trò của pháp luật trong việc cung cấp dịch vụ công được thể hiện trên những phương diện cụ thể sau:
  • 32. 27 Pháp luật về dịch vụ công là khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể tham gia vào dịch vụ Các chủ thể tham gia dịch vụ công bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị thực hiện cung cấp dịch vụ công; các cá nhân, tổ chức là người yêu cầu và hưởng thụ dịch vụ. Mỗi chủ thể có tư cách khác nhau khi tham gia vào hoạt động cung ứng dịch vụ công. Do đó, nếu để các chủ thể tự do thực hiện những hành vi mà họ mong muốn thì hành vi của chủ thể này có thể sẽ cản trở hoặc làm tổn hại đến quyền, nghĩa vụ hợp pháp của chủ thể khác, làm cho việc cung cấp dịch vụ công bị rối loạn, dịch vụ công sẽ phát triển theo hướng không theo mục đích điều chỉnh của Nhà nước. Vì vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ban hành pháp luật làm khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể, quy định quyền và nghĩa vụ phù hợp với từng chủ thể trong loại dịch vụ công tương ứng. Với các chủ thể cung cấp dịch vụ, pháp luật quy định rõ phạm vi dịch vụ mà chủ thể được cung cấp hoặc tham gia cung cấp, các yêu cầu, điều kiện cung cấp, chất lượng dịch vụ, đối tượng phục vụ cụ thể. Thậm chí pháp luật có cả biện pháp, chế tài đối với cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Với các chủ thể yêu cầu và hưởng thụ dịch vụ, pháp luật quy định điều kiện, năng lực của chủ thể, quyền và nghĩa vụ của chủ thể, cách thức đưa ra yêu cầu và hưởng thụ dịch vụ, những giới hạn trong yêu cầu dịch vụ. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định các biện pháp, chính sách hỗ trợ cá nhân, tổ chức có hoàn cảnh đặc biệt, tạo diều kiện thuận lợi cho họ tiếp cận và sử dụng dịch vụ. Với vai trò là khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể trong dịch vụ công, các quy định của pháp luật cần khái quát hóa các yêu cầu từ Nhà nước, từ phía nhân dân đối với từng hành vi yêu cầu - cung cấp - hưởng thụ những dịch vụ cụ thể thành các chuẩn mực. Các quy định của pháp luật càng chi tiết, cụ thể bao nhiêu càng dễ cho các chủ thể trong cung cấp, sử dụng dịch vụ bấy nhiêu, nếu các quy định chung chung, không rõ nghĩa, không rõ yêu cầu dễ tạo ra sự tùy tiện của các chủ thể tham gia vào dịch vụ. Pháp luật về dịch vụ công với tư cách là khuôn mẫu hành vi cho các chủ thể
  • 33. 28 trong cung cấp dịch vụ, tạo ra hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia dịch vụ xác định được hành vi của mình được hay không được làm gì, tránh hành vi tùy tiện, không có căn cứ pháp lý. Pháp luật về dịch vụ công thể hiện cam kết đảm bảo của Nhà nước về việc cung cấp dịch vụ Xuất phát từ bản chất Nhà nước ta là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Bởi vậy pháp luật với tư cách là hình thức phản ánh ý chí của Nhà nước, phản ánh yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, phải thể hiện sự cam kết của Nhà nước về việc cung cấp các dịch vụ công đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân. Nội dung các quy định của pháp luật thể hiện sự tương quan giữa nhu cầu của dân chúng với khả năng đáp ứng của các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ. Nếu các quy định của pháp luật lạc hậu hơn khả năng đáp ứng của Nhà nước về các dịch vụ công thì sẽ không thỏa mãn được nhu cầu của nhân dân và gây ra những trở ngại trong tiếp nhận, hưởng thụ dịch vụ. Ngược lại, nếu pháp luật quy định vượt quá khả năng cung ứng dịch vụ của Nhà nước thì các quy định trở thành bất khả thi, vai trò điều chỉnh của pháp luật không được phát huy, dễ tạo ra những lộn xộn trong cung cấp và hưởng thụ dịch vụ công, gây mất niềm tin trong dân chúng. Tuy nhiên, khi tình hình kinh tế - xã hội thay đổi, khả năng cung cấp các dịch vụ công của Nhà nước cũng thay đổi phù hợp với thực tế yêu cầu ngày càng cao của nhân dân về việc sử dụng dịch vụ. Pháp luật về dịch vụ công không chỉ thể hiện cam kết của Nhà nước đảm bảo cung cấp dịch vụ trong thời điểm hiện tại mà còn dự báo khả năng đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong tương lai. Chính khả năng dự báo của pháp luật cho phép các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của nhân dân. Hiện nay, để phù hợp với xu thế phát triển chung, Nhà nước đã cho phép cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ công. Điều này tạo thêm cơ hội cho người dân được tự do lựa chọn chủ thể cung cấp với dịch vụ tương ứng phù hợp. Nhà nước giao cho các cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện thực hiện
  • 34. 29 việc cung cấp những dịch vụ cụ thể là một cách thể hiện sự cam kết cung cấp đầy đủ, có chất lượng các dịch vụ công cho nhân dân, phù hợp tiến trình phát triển của xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Pháp luật về dịch vụ công góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức tham gia vào dịch vụ Pháp luật về dịch vụ công ghi nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức cũng như quy định các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền, các biện pháp bảo vệ lợi ích đó của các cá nhân, tổ chức khi tham gia dịch vụ. Với mỗi nhóm chủ thể khác nhau, pháp luật sẽ thể hiện vai trò bảo vệ khác nhau. Pháp luật bảo vệ sự công bằng của cá nhân, tổ chức trong hưởng thụ dịch vụ, bảo đảm quyền hưởng thụ dịch vụ bình đẳng cho mọi công dân, những hạn chế về điều kiện cá nhân không cản trở việc hưởng thụ các lợi ích mà dịch vụ công đưa lại. Ví dụ Điều 3 Luật khám chữa bệnh số 40/2009/QH12 quy định nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là: “bình đẳng, công bằng và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bệnh”, “người bệnh có quyền được khám bệnh, chữa bệnh có chất lượng phù hợp với điều kiện thực tế” (Điều 10). Với các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ, pháp luật bảo vệ hoạt động cung cấp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục không bị cản trở bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác một cách trái pháp luật. Lợi ích mà các chủ thể cung cấp dịch vụ hướng tới có thể là việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; còn đối với các tổ chức dịch vụ của cá nhân, tổ chức là được hoạt động và tạo ra thu nhập hợp pháp. Sự tham gia của cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước vào cung ứng dịch vụ công đã làm xuất hiện sự cạnh tranh giữa các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ với nhau. Cạnh tranh đưa lại nhiều lựa chọn cho người dân trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ công và buộc các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ phải nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tạo cơ hội cho nhiều chủ thể hưởng thụ dịch vụ. Để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh khiến các chủ thể cung cấp dịch vụ công phải dùng những cách thức khác nhau để thu hút khách hàng, kể cả các phương pháp, thủ đoạn bất hợp pháp. Pháp luật với tư cách là đại lượng công bằng,
  • 35. 30 tạo ra và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và phòng, chống cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể cung cấp dịch vụ với nhau. Pháp luật có các chế tài áp dụng đối với các hành vi của chủ thể cung cấp vi phạm quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào dịch vụ. Ví dụ trong hoạt động hỗ trợ tư pháp, tư vấn pháp lý nếu người trợ giúp pháp lý có hành vi dùng Thẻ Cộng tác viên trợ giúp pháp lý, Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc lợi dụng danh nghĩa cộng tác viên trợ giúp pháp lý để thực hiện các hoạt động không thuộc nhiệm vụ được giao nhằm mục đích vụ lợi thì bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng, có thể bị tước quyền sử dụng Thẻ trợ giúp viên pháp lý, Thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý từ 03 tháng đến 06 tháng (Điều 36 Nghị định 60/2009/NĐ-CP ngày 23/9/2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp). Ngoài ra, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong dịch vụ công, pháp luật cũng quy định những cơ chế bảo vệ đặc thù như: cơ chế giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, cơ chế thanh tra, kiểm tra của các cơ quan hành chính, ghi nhận quyền giám sát, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức đối với từng loại hình dịch vụ công. Khi các quyền và lợi ích của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được bảo đảm, bảo vệ không bị xâm phạm thông qua các quy định pháp luật thích hợp là tiền đề cho việc cung cấp các dịch vụ công đúng với bản chất vốn có của dịch vụ. 1.2.3.2. Vai trò của Pháp luật về dịch vụ công với chức năng quản lý của nhà nước Ngoài chức năng cung cấp dịch vụ công thì nhà nước còn đảm nhiệm cả chức năng quản lý dịch vụ. Khác với chức năng quản lý xuất phát từ những yêu cầu về nguyên tắc, tổ chức của bộ máy nhà nước, chức năng phục vụ xã hội bắt nguồn từ “nhu cầu cụ thể của các tổ chức và công dân, ngay cả khi các nhu cầu này có thể phát sinh từ những yêu cầu của Nhà nước” [14]. Mặt khác, chức năng này cũng nhằm đáp ứng những yêu cầu mới trong thay đổi quan niệm về vai trò của nhà nước – quan niệm nhà nước xây dựng nền hành chính phục vụ, trong đó người dân là khách hàng. Tuy nhiên, không dừng lại ở lí do đó, mà nhà nước còn thực hiện cung cấp dịch vụ công nhằm thực hiện những nhiệm vụ mang tính quyền lực nhà nước:
  • 36. 31 Pháp luật về dịch vụ công giúp duy trì trật tự xã hội, an ninh; quản lý tài nguyên đất nước Đề đảm bảo an toàn, bí mật quốc gia và để phát triển đất nước theo quy hoạch, mục tiêu chung, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng thì nhà nước cần thiết giữ vai trò chủ đạo cung ứng các dịch vụ này. Ở nước ta những nhiệm vụ này vẫn hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của nhà nước. Ở một số nước khác đã xã hội hóa ngay cả loại dịch vụ mang tính công cộng này. Pháp luật về dịch vụ công bảo đảm sự công bằng, quyền và lợi ích chính đáng của người dân Bản chất của dịch vụ công là cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho người dân, đảm bảo – đó là loại hàng hóa công cộng. Còn đối với khu vực tư nhân, mục tiêu quan trọng nhất là lợi nhuận. Chính vì thế nhà nước cần phải đảm trách những dịch vụ cần thiết nhằm đảm bảo sự công bằng mà không hoàn toàn phụ thuộc vào lợi ích kinh tế. Nếu các dịch vụ công phó thác hoàn toàn cho khu vực tư thì lợi ích của người nghèo, những khu vực kém phát triển sẽ không được bảo đảm. Bảo vệ quyền và lợi ích của công dân cũng là một nhiệm vụ quan trọng cần đến vai trò của nhà nước. Thông qua việc cung cấp dịch vụ công, nhà nước sử dụng quyền lực của mình để bảo đảm quyền dân chủ và quyền hợp pháp khác của công dân. Việc bảo đảm cung cấp đầy đủ chất lượng và số lượng dịch vụ đồng nghĩa với việc bảo đảm an toàn cho cuộc sống của người dân. Thêm nữa, trong trường hợp khu vực tư nhân không đủ sức hoặc không muốn cung ứng thì nhà nước phải đảm nhận trách nhiệm này. Ví dụ như xây dựng mạng lưới giao thông, cơ sở hạ tầng, điện, trường học với nguồn vốn đầu tư lớn. Pháp luật về dịch vụ công đảm bảo phúc lợi xã hội Đối với các khu vực kém phát triển và những đối tượng yếu thế trong xã hội, đối tượng chính sách, người nghèo… nhà nước phải bảo đảm các dịch vụ công được cung cấp thường xuyên và kịp thời như chính sách về y tế, bảo hiểm y tế, giáo dục, an sinh xã hội và các chính sách hỗ trợ khác.
  • 37. 32 Pháp luật về dịch vụ công giúp đối phó với những khiếm khuyết của thị trường Dịch vụ công chịu những ảnh hưởng và không nằm ngoài quy luật của cơ chế kinh tế thị trường. Những dịch vụ được lựa chọn ngày càng nhiều hơn, tốt hơn và chi phí cao hơn. Tuy nhiên không phải nơi nào cũng có một thị trường đầy đủ các tiện ích. Nhất là đối với khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Lúc đó vai trò của nhà nước trở nên vô cùng quan trọng trong việc ngăn chặn sự gián đoạn cung cấp dịch vụ công do những hạn chế của thị trường. Nhà nước cần phải cân đối giữa một bên là thị trường tự do và bên kia là trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ của nhà nước đối với nhóm đối tượng thiệt thòi. Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm các dịch vụ phải được cung cấp với mức phí vừa phải và không để người dân bị ảnh hưởng bởi sự hạn chế của thị trường. 1.2.4. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về dịch vụ công Pháp luật về các dịch vụ công được ban hành từ cuối thập niên 90 cho đến khoảng hơn mười năm trở lại đây, chủ yếu tập trung trong thời kỳ thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Đây có thể coi là kết quả thể hiện sự thành công của 10 năm thực hiện Chương trình và làm tiền đề triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 ban hành kèm theo Nghị quyết 30C/2011/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính phủ. Sau mười lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, từ cuối những thập niên 90 đến đầu những năm 2000 quan niệm về thực hiện các nhiệm vụ của quản lý nhà nước về dịch vụ công đã bắt đầu hình thành, cơ sở pháp lý về dịch vụ công đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam. Tuy nhiên sự ra đời và phát triển của pháp luật về các loại dịch vụ công không diễn ra đồng thời mà là một quá trình chuyển đổi dần dần với từng dịch vụ phát triển theo cơ chế thị trường và nhu cầu đời sống của nhân dân. Các văn bản pháp luật về dịch vụ công được ban hành là hình thức phản ánh nhu cầu, đòi hỏi của dân chúng về dịch vụ, vừa là tuyên bố pháp lý chính thức của Nhà nước với
  • 38. 33 việc ra đời một dịch vụ cụ thể cũng được xây dựng và ban hành vào những thời điểm khác nhau. Sự ra đời các văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ công là kết quả của việc sửa đổi, bổ sung, thay thế những văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau. Các văn bản mới được ban hành đã quy định tương đối trọn vẹn những nội dung của từng dịch vụ độc lập hoặc quy định một số nội dung của một dịch vụ cụ thể, khẳng định được sự tồn tại của các loại dịch vụ công trong xã hội. Các văn bản quy phạm pháp luật cũng đồng thời xác lập một quy trình phù hợp cho các chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng từng dịch vụ cụ thể. 1.2.4.1. Sự hình thành và phát triển pháp luật về dịch vụ hành chính công Dịch vụ hành chính công là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Do vậy, cho đến nay, đối tượng cung ứng duy nhất các dịch vụ công này là cơ quan công quyền hay các cơ quan do nhà nước thành lập hoặc được ủy quyền thực hiện cung ứng dịch vụ. Đây là một phần trong chức năng quản lý nhà nước. Để thực hiện chức năng này, nhà nước phải tiến hành những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, tư pháp, hộ tịch... Pháp luật về dịch vụ hành chính công ở nước ta hiện nay bao gồm tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật thành văn được quy định trong các luật, nghị định và các văn bản quy phạm pháp luật của các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác nhưng chủ yếu vẫn là các quy phạm pháp luật do các cơ quan hành chính nhà nước (Chính phủ và các cơ quan trực thuộc) ban hành. Nội dung pháp luật về dịch vụ hành chính công bao gồm các quy định chung cho tất cả các loại dịch vụ, các quy định cụ thể về một hoặc một số dịch vụ cụ thể. Cùng với quá trình cải cách hành chính, pháp luật về dịch vụ hành chính công đang ngày càng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu từ góc độ quản lý hành chính của nhà nước đến nhu cầu sử dụng dịch vụ của đông đảo quần chúng nhân dân. Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 4/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế "một cửa" tại các cơ quan hành chính ở