SlideShare a Scribd company logo
1 of 112
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN VIỆT HÀ
CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS N...
HÀ NỘI - ...
1
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA
HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI
7
1.1. Khái niệm cơ quan điều tra hình sự quân đội 7
1.1.1. Vị trí của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 7
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan điều tra hình
sự quân đội
9
1.2. Sự cần thiết của cơ quan điều tra hình sự trong quân đội 12
1.3. Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra hình sự quân đội với các
cơ quan khác
17
1.3.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong quân đội
19
1.3.1.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện
kiểm sát quân sự
19
1.3.1.2. Mối quan hệ của Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Tòa
án quân sự
24
1.3.2. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ
quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực
lượng Cảnh sát nhân dân
25
1.3.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với
Đảng ủy, người chỉ huy các cấp trong quân đội
28
1.4. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của cơ quan điều
tra hình sự quân đội
31
1.5. Cơ quan điều tra trong quân đội ở một số nước 35
1.5.1. Cộng hòa Liên bang Nga 35
1.5.2. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 36
1.5.3. Vương quốc Anh 36
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI
38
2.1. Thực trạng về tổ chức của cơ quan điều tra hình sự quân đội 38
2.1.1. Tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
38
2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 38
2.1.1.2. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 39
2.1.2. Thực trạng về tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 46
2.2. Thực trạng hoạt động của cơ quan điều tra hình sự quân đội 48
2.2.1. Hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
48
2.2.1.1. Trong tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và khởi tố
vụ án hình sự
48
2.2.1.2. Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự 50
2.2.1.3. Tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra, kết thúc điều tra, đề nghị truy tố 56
2.2.2. Thực trạng hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 59
2.2.2.1. Tình hình tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra hình sự quân đội từ 2006 - 2011
59
2.2.2.2. Kết quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 62
2.2.2.3. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động tố tụng hình sự
của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
64
2.3. Một số nhận xét về mô hình tổ chức hệ thống cơ quan điều
tra hình sự quân đội hiện nay
71
2
2.3.1. Ưu điểm 71
2.3.2. Nhược điểm 71
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU
TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI
75
3.1. Sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
điều tra hình sự quân đội
75
3.1.1. Yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới 75
3.1.2. Yêu cầu đổi mới Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo tiến
trình cải cách tư pháp
78
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
điều tra hình sự quân đội
79
3.2.1. Những định hướng đổi mới Cơ quan điều tra hình sự quân đội 79
3.2.2. Các giải pháp cụ thể 81
3.2.2.1. Đổi mới cơ cấu tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quân đội 81
3.2.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự phối hợp của các đơn vị
trong toàn quân đối với hoạt động điều tra theo tố tụng hình
sự của Cơ quan điều tra hình sự
83
3.2.2.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự 84
3.2.2.4. Nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ Điều tra viên 87
3.2.2.5. Bảo đảm kinh phí, điều kiện cơ sở vật chất cho hoạt động của
các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội
89
3.2.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp 90
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC 101
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng
trong quân đội đã đổi mới về tổ chức và hoạt động. Đối với hoạt động tố tụng
hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội đã áp dụng nhiều hình
thức, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao trách nhiệm của
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; tạo được sự chuyển biến
rõ nét trong các mặt công tác của từng ngành; hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án có nhiều tiến bộ; các vụ án hình sự được đưa ra xét xử kịp
thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, được cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đồng
tình; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường
kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về
kiện toàn lại tổ chức, biên chế của Ngành điều tra hình sự quân đội theo Pháp
lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004. Cục điều tra hình sự đã phối hợp với
các cơ quan, đơn vị trong toàn quân hoàn thành việc giải thể 163 Cơ quan
điều tra hình sự ở các bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, các sư đoàn, học viện, nhà trường và tương đương để tổ chức thành 68
Cơ quan điều tra hình sự khu vực; kiện toàn lại 30 Cơ quan điều tra hình sự
cấp quân khu và Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng. Mô hình này đã
đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống vi phạm, tội phạm
trong quân đội trong thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, sau hơn sáu năm thực hiện, mô hình này cũng đã bộc lộ
những hạn chế, vướng mắc: Thứ nhất, bộ máy tổ chức cồng kềnh nhưng phân
bố mất cân đối nghiêm trọng, phân tán lực lượng dẫn đến việc một số Cơ quan
điều tra hình sự hoạt động kém hiệu quả; thứ hai, thẩm quyền điều tra chồng
4
chéo, địa bàn quản lý quá rộng trong khi lực lượng điều tra viên còn thiếu và
hạn chế về năng lực trình độ, nhất là khối Cơ quan điều tra hình sự các tổng cục,
binh chủng, binh đoàn, quân đoàn... thứ ba, công tác tiếp nhận và xử lý tố giác,
tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền của mỗi Cơ quan điều tra hình sự thường
phải qua nhiều khâu trung gian, làm mất thời cơ khám phá án, đặc biệt là đối
với những vụ án phức tạp; khả năng điều tra trinh sát khó thực hiện, nên việc
điều tra, khám phá các vụ án chưa rõ đối tượng, tội phạm có tổ chức, truy bắt
đối tượng phạm tội - truy nã, thu hồi tài sản bị tội phạm chiếm đoạt hiệu quả
thấp; giải quyết mối quan hệ công tác với các cơ quan nghiệp vụ của Bộ Công
an, Viện kiểm sát quân sự và các đơn vị quân đội gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Trước đòi hỏi nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử
trong tố tụng hình sự, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều
tra luôn là yêu cầu mang tính khách quan. Đảng và Nhà nước ta đã xác định
đổi mới cơ quan điều tra là một nội dung trọng tâm trong tiến trình cải cách tư
pháp, được ghi nhận trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020".
Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về Cơ
quan điều tra hình sự quân đội. Trên cơ sở đó, tìm giải pháp góp phần hoàn
thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân
đội. Góp phần tích cực, quan trọng vào việc bảo vệ pháp luật, xây dựng quân
đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, là
yêu cầu cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khi việc nghiên cứu về cơ quan điều tra nói chung luôn là đề tài
thu hút sự quân tâm của các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn trên cả bình diện
lý luận cũng như thực tiễn và đã có nhiều công trình được công bố. Thì việc
nghiên cứu về Cơ quan điều tra hình sự quân đội còn khá hạn chế, cho đến
nay có một số công trình nghiên cứu, cụ thể như sau:
5
Thứ nhất, các đề tài của Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng: 1) Đề
tài cấp cơ sở "Thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra hình sự trong quân
đội", Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2000; 2) Đề án cấp Bộ
"Đổi mới tổ chức, hoạt động của các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội",
Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2009); 3) Đề tài cấp Bộ "Xây
dựng lực lượng cảnh vệ làm nhiệm vụ canh giữ, dẫn giải bị can, bị cáo; bảo vệ
phiên tòa, bảo vệ các Trại giam, Trại tạm giam; hỗ trợ công tác thi hành án",
Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2009; 4) Đề tài cấp Bộ "Tổ
chức, xây dựng kho vật chứng, tịch thu trong các vụ án do Cơ quan điều tra hình
sự quân đội tiến hành", Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2009.
Thứ hai, các luận văn thạc sĩ Luật học: 1) Vũ Minh Thành, Tổ chức
hoạt động điều tra vụ án giết người của Cơ quan điều tra hình sự quân đội,
Luận văn thạc sĩ luật học, 1999; 2) Ngô Minh Giang, Tổ chức hoạt động điều
tra các vụ án Trộm cắp tài sản trong doanh trại quân đội, Luận văn thạc sĩ
luật học, 2001; 3) Nguyễn Ngọc Tư, Tổ chức hoạt động điều tra các vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra hình sự cấp thứ hai trong quân đội- thực trạng
và các giải pháp nâng cao hiệu quả, Luận văn thạc sĩ luật học, 1999; 4) Thân
Tuấn Anh, Hệ thống tổ chức Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong quân đội
nhân dân. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra,
Luận văn thạc sĩ luật học, 2005; 5) Hoàng Tùng, Mối quan hệ phối hợp giữa
Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan nghiệp cụ của lực lượng
Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an trong hoạt động điều tra các vụ án có lên
quan đến quân đội, Luận văn thạc sĩ luật học, 2001; 6) Nguyễn Công Quyền,
Công tác hiện trường vụ án hình sự và việc tăng cường công tác hiện trường
vụ án hình sự trong quân đội, Luận văn thạc sĩ luật học, 1997; 7) Nguyễn
Trọng Nga, Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra
hình sự trong quân đội nhân dân, Luận văn thạc sĩ luật học, 2006...
Những công trình nghiên cứu về Cơ quan điều tra hình sự quân đội
nêu trên mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra mô hình theo hướng thu gọn đầu mối;
nghiên cứu độc lập về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự cấp
6
thứ nhất hoặc cấp thức hai hoặc cấp thứ ba; nghiên cứu tổ chức hoạt động
điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội đối với một số tội phạm cụ
thể... chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, tổng thể về Cơ quan điều
tra hình sự quân đội. Mặt khác, do được nghiên cứu đã lâu nên các công trình
đó chưa thể hiện được quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đổi mới cơ
quan điều tra nói chung, Cơ quan điều tra hình sự quân đội nói riêng, theo yêu
cầu của tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu về
cơ quan điều tra trong quân đội là yêu cầu cấp thiết trong điều kiện cải cách tư
pháp và xây dựng quân đội trong điều kiện hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm sáng tỏ vấn đề lý luận, thực tiễn về Cơ quan điều tra hình sự
quân đội. Đánh giá đúng thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều
tra hình sự quân đội trong tố tụng hình sự. Tìm ra một số giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội khi giải
quyết vụ án hình sự và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Luận giải về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm
quyền của Cơ quan điều tra hình sự quân đội.
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực
trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Chỉ ra
những khiếm khuyết của mô hình hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra hình
sự quân đội hiện nay; những hạn chế bất cập, khó khăn, vướng mắc khi thực
hiện thẩm quyền điều tra; những hạn chế trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đề xuất phương án xây dựng mô hình hệ thống tổ chức mới của Cơ
quan điều tra hình sự quân đội phù hợp với hệ thống tổ chức của Nhà nước,
7
đặc thù của Quân đội, theo hướng thu gọn đầu mối và hoạt động điều tra theo
nguyên tắc địa bàn, lãnh thổ.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan
điều tra hình sự quân đội.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một luận văn cao học, chúng tôi giới hạn việc nghiên
cứu tập trung vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức và
hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Số liệu, tư liệu thực tế dùng
trong luận văn được trích dẫn từ các báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết của
Cục điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng trong khoảng thời gian từ năm 2006 -
2011. Do yêu cầu công tác, một số ví dụ minh họa trong luận văn về vụ việc
vi phạm, tội phạm có thể tác giả không nêu tên đơn vị quân đội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận và phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm
của Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp quân đội.
Quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê, mô hình hóa; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật; phương pháp chuyên
gia, trao đổi, tọa đàm…
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã tiếp thu có chọn lọc
kết quả của các công trình đã được công bố, các đánh giá, tổng kết của các cơ
quan chuyên môn và các chuyên gia.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
8
Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý
luận về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội trong tố
tụng hình sự.
Về thực tiễn, luận văn là tài liệu có giá trị cho việc nghiên cứu, học tập.
Những đề xuất, kiến nghị trong luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học
phục vụ cho công tác đổi mới về Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo tiến trình
cải cách tư pháp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về Cơ quan điều tra hình sự quân đội.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra
hình sự quân đội.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của Cơ quan điều tra hình sự quân đội.
9
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG
VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI
1.1. KHÁI NIỆM CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI
1.1.1. Vị trí của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Cơ quan điều tra hình sự quân đội - Công an Quân pháp, được thành
lập theo Sắc lệnh số 258/SL ngày 19/11/1948 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký.
Công an Quân pháp thuộc Quân pháp cục (là cục chuyên môn của Bộ Quốc
phòng) và được tổ chức từ cấp trung ương đến cấp liên khu, đại đoàn. Sau đó,
cùng với sự phát triển của quân đội và yêu cầu tăng cường pháp chế, nghiêm
chỉnh thi hành pháp luật trong quân đội, hệ thống tổ chức Công an Quân pháp
được tổ chức ở Bộ Quốc phòng (Cục Quân pháp) và các quân khu, quân đoàn,
quân chủng, binh chủng (Phòng hoặc Ban quân pháp)... Sau khi Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989 được
ban hành, hệ thống Cơ quan điều tra hình sự quân đội gồm có 194 cơ quan,
được tổ chức ở ba cấp: cấp thứ nhất là Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc
phòng; cấp thứ hai là các Cơ quan điều tra hình sự cấp quân khu và tương
đương; cấp thứ ba là các Cơ quan điều tra hình sự ở các binh chủng, bộ chỉ
huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và tương đương. Từ năm
2003 đến nay, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh Tổ
chức điều tra hình sự, Cơ quan điều tra hình sự quân đội thuộc hệ thống cơ
quan điều tra, là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, bộ máy
tổ chức vẫn được phân chia thành ba cấp điều tra. Nhưng ở cấp thứ ba có sự
thay đổi về cơ cấu tổ chức, tên gọi và thẩm quyền, cụ thể: các Cơ quan điều
tra hình sự (Ban điều tra hình sự) ở các binh chủng, bộ chỉ huy quân sự tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và tương đương bị giải thể để thành lập các
Cơ quan điều tra hình sự khu vực trực thuộc cấp thứ hai. Về thẩm quyền, Cơ
10
quan điều tra hình sự quân đội được tiến hành điều tra những vụ án hình sự về
các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXIII
của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát quân sự trung ương).
Tóm lại: lịch sử hình thành, phát triển của Cơ quan điều tra hình sự
quân đội gắn liền với sự phát triển của quân đội. Trong quân đội, Cơ quan
điều tra hình sự luôn được tổ chức thành một hệ thống độc lập theo đơn vị
hành chính quân đội; Cơ quan điều tra hình sự quân đội là lực lượng điều tra
riêng biệt, có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thuộc thẩm quyền, Cơ quan
điều tra hình sự quân đội có vị trí đặc biệt quan trọng. Mặc dù, Cơ quan điều
tra hình sự quân đội không có quyền quyết định một người có tội hay không,
nhưng những tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra hình sự quân đội cung
cấp sẽ là cơ sở cho quyết định truy tố của Viện kiểm sát quân sự và các phán
quyết của Tòa án quân sự. Bởi vì, thực chất hoạt động điều tra là quá trình tìm
kiếm, thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội và các tình
tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, các quyết định của Viện
kiểm sát quân sự và của Tòa án quân sự phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và
kết quả quá trình điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Giai đoạn
điều tra nhanh chóng, chính xác thì việc truy tố và xét xử mới nhanh chóng và
có chất lượng. Ngược lại, hoạt động điều tra kéo dài, kết quả điều tra không
chính xác sẽ dẫn đến những hậu quả bất lợi cho xã hội, cho tổ chức, cho công
dân và quân nhân, như: gây oan sai; công lý không được thực thi, dư luận xã
hội sẽ bức xúc. Theo PGS, TS Trần Đình Nhã thì:
Điều tra là khâu đột phá, là giai đoạn đầu giữ vai trò thành
bại đối với cả tiến trình tố tụng hình sự. Những kết quả khả quan cũng
11
như những sai lầm tư pháp nghiêm trọng nhất như bỏ lọt tội phạm,
làm oan người vô tội… thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra. Vị
trí quan trọng của giai đoạn điều tra đối với công tác xét xử không
chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà Cơ quan điều tra
có thể cung cấp cho Tòa án, mà thậm chí nhiều trường hợp, sự
nhận định đánh giá tội phạm của cơ quan điều tra và của Viện
Kiểm sát còn quy định giới hạn việc xét xử [34].
Có thể thấy, hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội là không
thể thiếu được trong tố tụng hình sự. Tòa án quân sự muốn xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật thì trước đó, Cơ quan điều tra hình sự quân đội phải
thu thập đầy đủ chứng cứ xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm
tội và những chứng cứ xác định những tình tiết khác của vụ án hình sự.
Từ những vấn đề nêu trên có thể khẳng định: Cơ quan điều tra hình sự
quân đội có vị trí quan trọng, không thể thiếu được đối với quân đội và trong
tố tụng hình sự.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan điều tra
hình sự quân đội
Cơ quan điều tra hình sự quân đội có hai chức năng: Thứ nhất, thực
hiện chức năng cơ bản là điều tra theo tố tụng hình sự đối với những vụ án
hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến
Chương XXIII của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án quân sự (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương); thứ hai, tham mưu cho
cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội về công tác đấu tranh phòng ngừa và
chống vi phạm, tội phạm. Trong phạm vi chức năng của mình, Cơ quan điều
tra hình sự quân đội có nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
12
chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc
phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của quân nhân, công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng và của
các công dân khác.
Cơ quan điều tra hình sự quân đội thực hiện chức năng, nhiệm vụ
bằng những công tác sau đây [4]:
- Tiến hành điều tra những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Phối hợp với các cơ quan tư pháp trong và
ngoài quân đội, các cơ quan, tổ chức khác trong đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật và tội phạm hình sự; chỉ đạo và kiểm tra mọi hoạt động của
các cơ quan, đơn vị thuộc quyền.
- Quản lý tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự thuộc thẩm
quyền xảy ra trong quân đội và có liên quan đến quân đội; làm rõ nguyên
nhân, điều kiện vi phạm, tội phạm để tham mưu cho Đảng ủy và chỉ huy các
đơn vị trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống vi phạm pháp luật, tội
phạm hình sự, duy trì kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước.
- Quản lý và chỉ huy các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ trực thuộc
về công tác quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân theo đúng đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Bộ Quốc phòng.
- Quản lý kho vật chứng và vật chứng của các vụ án hình sự ở giai
đoạn điều tra, truy tố do các Cơ quan điều tra trong quân đội và Viện kiểm sát
quân sự tiến hành.
- Quản lý về tổ chức và nghiệp vụ công tác cảnh vệ tư pháp trong
quân đội để làm nhiệm vụ bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng,
người bị hại, áp giải bị can, bị cáo, bảo vệ phiên tòa, dẫn giải người làm
chứng, bảo vệ các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, hỗ trợ việc thi hành
các lệnh bắt, khám xét, quyết định về dân sự và thi hành các bản án hình sự.
13
- Quản lý tổ chức và công tác giám định kỹ thuật hình sự trong quân
đội; thực hiện nhiệm vụ Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo 138 Bộ Quốc
phòng và các đơn vị.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; tiến hành xác minh
giải quyết những vụ việc theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng
Bộ Quốc phòng, Đảng ủy và chỉ huy cấp trực thuộc Bộ Quốc phòng.
- Đề xuất các chủ trương, biện pháp kiện toàn tổ chức, biên chế đội
ngũ cán bộ và những hoạt động nghiệp vụ của Cơ quan điều tra hình sự cho
phù hợp với hệ thống tổ chức, hoạt động của các cơ quan điều tra của Nhà
nước và điều kiện của Quân đội.
- Thực hiện công tác đảng, công tác chính trị và các nhiệm vụ hành
chính quân sự theo chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, chỉ huy đơn vị.
- Sơ kết, tổng kết các mặt công tác, nghiên cứu pháp luật, xây dựng và
quản lý các đề tài khoa học về đấu tranh chống tội phạm hình sự trong quân
đội; xây dựng quy trình kỹ thuật, chiến thuật điều tra từng loại án; tổ chức tập
huấn nghiệp vụ để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán
bộ ngành.
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ điều tra các vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có những quyền hạn sau:
Thứ nhất, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can: Khi có tố giác, tin báo về tội phạm, Cơ quan điều tra
hình sự quân đội tiến hành kiểm tra, xác minh xem tố giác, tin báo đó có hay
không dấu hiệu của tội phạm không để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi
tố vụ án hình sự. Và khi có đủ chứng cứ xác định một người đã thực hiện
hành vi phạm tội thì ra quyết định khởi tố bị can.
Thứ hai, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền điều tra tất cả
các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền, được áp dụng các biện pháp điều tra theo
14
quy định của pháp luật để phát hiện và thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm làm
rõ tội phạm và người phạm tội, như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai người bị hại,
đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra…
Thứ ba, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền áp dụng các biện
pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự: các biện pháp ngăn chặn; các biện pháp
bảo đảm thu thập chứng cứ; các biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho hoạt động
tố tụng hình sự; các biện pháp bảo đảm cho thi hành án; các biện pháp khác…
Thứ tư, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền ra quyết định tạm
đình chỉ điều tra, làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, đình chỉ điều tra.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra Khái niệm về Cơ quan điều tra
hình sự quân đội như sau:
Cơ quan điều tra hình sự quân đội là cơ quan điều tra được tổ chức
trong quân đội nhân dân, là chủ thể tiến hành tố tụng hình sự, có chức
năng điều tra đối với những vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các
chương từ Chương XII đến Chương XXIII của Bộ luật hình sự khi các tội
phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự (trừ các tội phạm
thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự
trung ương) nhằm giải quyết vụ án khách quan, góp phần bảo đảm công lý,
trật tự pháp luật và quyền con người trong tố tụng hình sự; duy trì, củng cố
kỷ luật và bảo vệ sức mạnh chiến đấu của quân đội.
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ TRONG
QUÂN ĐỘI
Quân đội nhân dân Việt Nam mà tiền thân là Đội Việt Nam tuyên
truyền Giải phóng quân thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1945. Hơn 66 năm
qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được nhân dân hết lòng tin yêu, đùm bọc và
giúp đỡ, Quân đội nhân dân Việt nam đã không ngừng trưởng thành, lớn
15
mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, lập nên những chiến công oanh liệt.
Từ thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm
1945. Tiếp đó, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong cuộc kháng
chiến thần thánh 30 năm, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, mở ra kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau
chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội lại cùng với nhân dân cả nước tiến
hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, các thế hệ cán bộ,
chiến sĩ quân đội vẫn kế tiếp nhau phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp
của "Bộ đội Cụ Hồ", luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu,
một đội quân công tác, một đội quân sản xuất. Thực hiện chức năng là đội
quân công tác, Quân đội luôn giữ mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Các đơn
vị tích cực thực hiện công tác dân vận; tham gia xóa đói, giảm nghèo, góp
phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân. Nhiều
đơn vị đã đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa;
tham gia công tác cứu hộ và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống lụt bão. Thực
hiện chức năng là đội quân sản xuất, Quân đội đã tận dụng mọi tiềm năng lao
động, đất đai, kỹ thuật... để đẩy mạnh tăng gia sản xuất, ổn định và cải thiện
đời sống cho bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp của quân đội đã sản xuất được
các loại vũ khí, khí tài phù hợp với yêu cầu tác chiến hiện đại, đáp ứng yêu
cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh tế
của quân đội đã trở thành các tổ chức kinh tế lớn của đất nước, đi đầu trong
kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước. Thực hiện
chức năng cơ bản là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của đất nước.
Quân đội ta được tổ chức theo hướng tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí,
khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện thường xuyên, sẵn sàng hoàn
16
thành mọi nhiệm vụ được giao. Hiện nay, Quân đội có lực lượng thường trực
gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với tổng quân số khoảng 450.000
người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người. Bộ đội chủ lực là thành
phần nồng cốt của Quân đội gồm lực lượng cơ động của các quân đoàn, quân
chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực của quân khu và bộ đội chuyên môn kỹ thuật.
Bên cạnh các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, còn có hệ
thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện
nghiên cứu, các nhà trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp. Cụ
thể, về thành phần của Quân đội như sau: Lục quân Việt Nam không tổ chức
thành bộ tư lệnh riêng mà đặt dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ Quốc
phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị; sự chỉ đạo chuyên ngành của
các tổng cục và cơ quan chức năng khác. Lục quân được trang bị theo hướng
hiện đại, gọn nhẹ, có khả năng cơ động cao, có sức đột kích và hỏa lực mạnh,
có khả năng tác chiến trong các điều kiện địa hình, thời tiết, khí hậu, phù hợp
với nghệ thuật chiến tranh nhân dân hiện đại. Lục quân có 07 Quân khu 1, 2,
3, 4, 5, 7, 9 và Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; 06 Binh chủng: Pháo binh, Tăng -
Thiết giáp, Công binh, Thông tin, Hóa học, Đặc công; 04 quân đoàn 1, 2, 3, 4.
Các quân khu được tổ chức trên các hướng chiến lược và theo địa bàn. Quân
đoàn là đơn vị cơ động lớn nhất của Lục quân, được bố trí để bảo vệ các địa
bàn chiến lược trọng yếu của quốc gia. Các binh chủng tham gia tác chiến hợp
đồng quân binh chủng theo phân công, đồng thời thực hiện chức năng bảo
đảm kỹ thuật và huấn luyện, đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật theo các
chuyên ngành cho toàn quân. Quân chủng Phòng không - Không quân đảm
nhiệm cả nhiệm vụ của bộ đội phòng không quốc gia và của không quân, là
lượng lực nòng cốt quản lý, bảo vệ vùng trời, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm
quốc gia. Quân chủng Hải quân là lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia
trên biển. Bộ đội Biên phòng là một thành phần của Quân đội, có vị trí như
một quân chủng thực hiện chức năng quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển và các cửa
17
khẩu theo quy định của pháp luật và là lực lượng trong các khu vực phòng thủ
tỉnh, huyện biên giới. Bộ đội địa phương là lực lượng cơ động tác chiến chủ
yếu trên địa bàn địa phương, hoạt động chiến đấu trong thế trận phòng thủ
chung của quân khu. Lực lượng dự bị động viên là một thành phần của Quân
đội, được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, sẵn
sàng tham gia lực lượng thường trực khi có yêu cầu. Lực lượng dự bị động
viên bao gồm quân dự bị và phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, đã
được lựa chọn và sắp xếp trong kế hoạch sẵn sàng bổ sung cho lực lượng
thường trực của Quân đội. Các học viện, nhà trường và viện nghiên cứu là các
trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, kỹ thuật quân sự. Các đơn vị kinh
tế - quốc phòng là lực lượng đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Quân đội nhân dân Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Bởi vì, Quân đội chính là công cụ bạo lực sắc
bén, lực lượng nòng cốt bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ công cuộc xây
dựng đất nước. Trong kháng chiến, Quân đội đã cùng với toàn dân đánh đuổi
đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước. Thời kỳ hòa bình, Quân đội là lực
lượng nòng cốt trong thực hiện chức năng đối ngoại của Nhà nước, đảm bảo
giữ vững hòa bình, ổn định đất nước, ngăn chặn các hoạt động phá hoại, gây
chiến, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược
dưới mọi hình thức và quy mô. Do vậy, bảo vệ sức mạnh của quân đội, để
đảm bảo cho quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống luôn
được Đảng, Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng yếu. Vì thế, bên cạnh nhiệm
vụ kiện toàn về tổ chức biên chế, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, thường xuyên làm tốt công tác huấn luyện, trang bị đủ vũ khí, phương
tiện kỹ thuật quân sự cho quân đội. Thì công tác đấu tranh phòng ngừa và
chống những hành vi xâm hại đến sức mạnh quân đội bao gồm lực lượng, con
người, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, tính tổ chức và kỷ luật luôn là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu. Để thực hiện được nhiệm vụ đó và với tính chất đặc thù
của hoạt động quân sự, trong quân đội cần phải tổ chức hệ thống cơ quan bảo
18
vệ pháp luật riêng biệt, thực hiện chức năng nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy,
người chỉ huy các cấp về công tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm, đồng thời
xử lý kịp thời, nghiêm minh những tội phạm, người thực hiện hành vi phạm
tội xâm hại đến sức mạnh của quân đội.
Trong thực tiễn, ngay khi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
được thành lập, các hoạt động phòng ngừa tội phạm, giữ gìn và phát huy bản
chất tốt đẹp của quân đội đã được tiến hành. Chính phủ đã ban hành các Sắc
lệnh thành lập, củng cố về cơ cấu tổ chức và quy định chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong quân đội. Cơ quan điều tra hình sự
quân đội - Công an Quân pháp được thành lập ngày 19/11/1948 theo Sắc lệnh
258/SL, có nhiệm vụ truy tầm tất cả các vụ phạm pháp và thu thập tài liệu, bắt
giữ người phạm pháp thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án binh. Ngay từ khi
mới thành lập, mặc dù còn có nhiều khó khăn, nhưng công tác điều tra, đấu
tranh phòng chống những hành vi vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà
nước đã được tiến hành với ý thức trách nhiệm cao, đúng đường lối quan
điểm của Đảng, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
quân đội cách mạng. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ, Công an Quân pháp đã tích cực hoạt động điều tra khám phá, làm
rõ, kết luận nhanh chóng, kịp thời rất nhiều vụ việc, vụ án thuộc thẩm quyền,
trong đó có nhiều vụ án lớn, phức tạp, nghiêm trọng. Điển hình là vụ H.122;
vụ Trần Dụ Châu, giám đốc Nha Quân nhu phạm tội tham ô… Trực tiếp tham
gia chiến đấu tiêu diệt địch, điển hình là Trại K50 thuộc Ban Quân pháp Miền
đóng tại Tây Ninh. Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Công an Quân pháp
đã hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt là tổ chức chỉ đạo công tác
kiểm soát quân sự, đảm bảo trật tự trị an cho các thành phố, thị xã mới giải
phóng; quản lý giáo dục cải tạo hàng vạn tù binh quân đội Sài gòn; rà soát
hàng nghìn đối tượng thuộc chuyên án H.66; giải quyết có hiệu quả một số vụ
gây rối ở Ninh Bình, Hà Bắc, Hà Nội, Việt Trì, Đồng Nai… Đến năm 1981,
Công an Quân pháp được đổi tên thành Cơ quan điều tra hình sự quân đội.
19
Hiện nay, hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền
của Cơ quan điều tra hình sự quân đội được thực hiện theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự. Trung bình mỗi năm, Cơ quan điều tra hình sự quân đội
đã phát hiện, thống kê, phân loại và xử lý hàng nghìn vụ việc, trong đó có
30% đến 40% số vụ phạm pháp, phạm tội phải xử lý bằng hình sự. Trải qua
hơn 63 năm, được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng
Bộ Quốc phòng, của Đảng ủy và chỉ huy các cấp, sự giúp đỡ của các cơ quan
hữu quan, cơ quan tư pháp trong - ngoài quân đội và lực lượng Công an nhân
dân. Các thế hệ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ của Cơ quan điều tra hình sự quân
đội đã không ngừng phấn đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ. Luôn gắn nghiệp vụ điều tra hình sự với nhiệm vụ chính trị, quân
sự của quân đội trong từng thời kỳ, lấy mục tiêu nâng cao sức mạnh tổng hợp
của quân đội và của lực lượng vũ trang nhân dân làm nhiệm vụ chính trị của
mình. Có thể khẳng định, ở đâu có hoạt động của quân đội ta ở đó có công tác
điều tra hình sự. Cơ quan điều tra hình sự quân đội có vai trò to lớn trong sự
nghiệp xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của quân đội, như lời của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp: Từ khi ra đời, các thế hệ Công an quân pháp - Điều tra
hình sự đã vượt quan mọi khó khăn, thực hiện tốt các nhiệm vụ: điều tra, quản lý
cải tạo phạm nhân, kiểm soát quân sự… Thành tích đó đã góp phần giáo dục ý
thức pháp luật, giữ gìn kỷ cương phép nước và tăng cường kỷ luật quân đội,
ngăn chặn mọi hành vi phạm pháp, giữ vững và nâng cao sức mạnh chiến đấu
của quân đội ta.
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI
VỚI CÁC CƠ QUAN KHÁC
Theo triết học Mác - Lênin, các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới,
dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là
những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật
chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời
20
nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những
quan hệ xác định. Mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, bất kỳ
một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ một không gian nào và ở bất kỳ một thời
gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác. Ngay trong
cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào
cũng có mối liên hệ với những thành phần, yếu tố khác. Sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối
liên hệ biểu hiện khác nhau: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu… Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò
khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.
Vì vậy, mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các
cơ quan trong và ngoài quân đội là yêu cầu tất yếu khách quan. Bởi vì: hoạt
động điều tra của Cơ quan điều tra nói chung, Cơ quan điều tra hình sự quân
đội nói riêng là dạng hoạt động nhận thức nhằm tái tạo lại sự kiện phạm tội đã
xảy ra để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi
phạm tội, cũng như các tình tiết khác của vụ án hình sự. Đây là hoạt động
phức tạp, đa dạng, nhiều chiều, liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị, lực
lượng khác nhau. Hơn nữa, hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
mang tính đặc thù do hệ thống tổ chức theo đơn vị hành chính quân đội. Do
đó, các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội luôn hết sức chú trọng và xác
định phải giải quyết tốt các mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng
khác trong quân đội; với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ
của lực lượng cảnh sát nhân dân - Bộ Công an; với lãnh đạo và chỉ huy đơn vị
các cấp; giữa cấp trên và cấp dưới. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để tạo lực
lượng và sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho Cơ quan điều tra hình sự quân đội
hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực tiễn đã chứng minh, nơi nào
không giải quyết tốt các mối quan hệ thì ở đó công tác điều tra hình sự không
hoàn thành nhiệm vụ.
21
Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan
trong và ngoài quân đội bao gồm quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước. Quan
hệ phối hợp được hiểu là mỗi cơ quan thực hiện nghiêm chỉnh chức năng,
nhiệm vụ của mình để đảm bảo sự thống nhất, nhịp nhàng cho toàn bộ quá
trình tố tụng hình sự. Với ý nghĩa này thì sự phối hợp là yếu tố thường xuyên
không thể thiếu được trong hoạt động tố tụng hình sự. Quan hệ chế ước giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự không phải là quan hệ quyền uy, mệnh
lệnh, phục tùng. Tức là, quan hệ giữa các cơ quan này không phải là quan hệ
chấp hành và điều hành. Vì, khi thực hiện tố tụng hình sự, yêu cầu đặt ra cho
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là phải tuyệt đối tuân thủ các quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự. Nếu vi phạm thì hoạt động tố tụng hình sự bị
coi là bất hợp pháp. Hậu quả của nó không chỉ xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân mà còn có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, giải
quyết vụ án sai lệch với sự thật khách quan. Chế ước là sự cần thiết để mỗi cơ
quan độc lập trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, kịp thời
phát hiện vi phạm pháp luật của cơ quan khác, để có biện pháp ngăn chặn,
khắc phục, sửa chữa kịp thời.
1.3.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong quân đội
1.3.1.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với
Viện kiểm sát quân sự
Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát
quân sự xuất hiện khi một trong hai cơ quan nhận được tố giác, tin báo về tội
phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội, mối
quan hệ này là quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước. Nhằm đảm bảo mọi
hành vi phạm tội phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; việc điều tra phải
khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật. Mối quan hệ giữa
22
Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát quân sự có những đặc
điểm chung và đặc điểm riêng đặc thù:
a) Đặc điểm chung
Thứ nhất, Cơ quan điều tra hình sự quân đội và Viện kiểm sát quân sự
phối hợp với nhau trong khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, đảm bảo việc
khởi tố là có căn cứ pháp luật.
Cơ quan điều tra hình sự quân đội và Viện kiểm sát quân sự cùng có
trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội do cá nhân, cơ quan, tổ chức và
kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát quân sự có
trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra hình sự
quân đội. Trong thời hạn hai mươi ngày (trường hợp đặc biệt là hai tháng), kể từ
ngày nhận được tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra hình sự
quân đội phải tổ chức kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định khởi tố vụ án
hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp đã ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự, mà có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng
với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn tội phạm khác, Cơ quan điều tra hình sự
quân đội ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra các quyết định trên, Cơ quan điều tra hình
sự phải gửi cho Viện kiểm sát quân sự cùng cấp để kiểm sát việc khởi tố vụ
án hình sự. Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi
phạm tội thì Cơ quan điều tra hình sự quân đội ra quyết định khởi tố bị can.
Khi có căn cứ hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã khởi tố
hoặc còn hành vi phạm tội khác, Cơ quan điều tra hình sự quân đội ra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Trong thời hạn 24 giờ,
kể từ khi ra các quyết định trên, Cơ quan điều tra hình sự phải gửi cho Viện
kiểm sát quân sự cùng cấp để phê chuẩn việc khởi tố. Trong thời hạn ba ngày,
23
kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát quân sự phải
quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho
Cơ quan điều tra hình sự.
Viện kiểm sát quân sự chỉ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong
trường hợp Tòa án quân sự yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và sau khi đã hủy
bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra hình sự quân
đội. Viện kiểm sát quân sự chỉ ra quyết định khởi tố bị can khi nhận hồ sơ và
kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội
trong vụ án chưa bị khởi tố. Trong trường hợp, Viện kiểm sát quân sự phát
hiện có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội
xảy ra hoặc có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào
tội đã khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Viện kiểm sát quân sự có
thể tự mình ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố. Trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi Viện kiểm sát quân sự ra quyết định khởi tố hoặc
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố, Viện kiểm sát quân sự
phải gửi cho Cơ quan điều tra hình sự cùng cấp để tiến hành điều tra.
Thứ hai, Viện kiểm sát quân sự chế ước các hoạt động của Cơ quan
điều tra hình sự quân đội trong giai đoạn điều tra, đảm bảo hoạt động điều
tra được tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việc thực hiện đồng thời chức năng công tố và chức năng kiểm sát
điều tra làm cho Viện kiểm sát quân sự không còn là cơ quan giữ vị trí thứ
yếu, thụ động trong hoạt động điều tra bên cạnh Cơ quan điều tra hình sự
quân đội, mà đã trở thành cơ quan chịu trách nhiệm chính về tính hợp pháp,
hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động điều tra. Cơ quan điều tra hình sự quân
đội một mặt vẫn thực hiện theo thẩm quyền liên quan đến hoạt động điều tra,
mặt khác chịu sự chế ước của Viện kiểm sát quân sự đối với toàn bộ hoạt
động điều tra: Viện kiểm sát quân sự đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ
quan điều tra hình sự quân đội tiến hành điều tra. Những yêu cầu điều tra của
24
Viện kiểm sát quân sự có hướng thu thập chứng cứ và biện pháp cần được áp
dụng trong quá trình điều tra; Viện kiểm sát quân sự có thể có mặt trong các
hoạt động điều tra mà Cơ quan điều tra hình sự quân đội tiến hành. Trong một
số hoạt động điều tra, sự có mặt của Kiểm sát viên - Viện kiểm sát quân sự là
bắt buộc: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều
tra...; toàn bộ các văn bản quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hình sự
quân đội đều phải được gửi cho Viện kiểm sát quân sự theo hạn định để Viện
kiểm sát quân sự kiểm sát các hoạt động điều tra hoặc phê chuẩn theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự.
Thứ ba, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có trách nhiệm đảm bảo
cho Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra theo
đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Viện kiểm sát quân sự có đủ cơ sở pháp lý để chế ước Cơ quan điều
tra hình sự quân đội. Các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát quân sự,
Cơ quan điều tra hình sự quân đội có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, Cơ
quan điều tra hình sự quân đội cũng có quyền đề nghị Viện kiểm sát quân sự
thực hiện đúng chức trách của mình, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật
do những người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát quân sự gây nên: Đối
với những yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát quân sự (Quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện
pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các
quyết định của Cơ quan điều tra hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự. Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Cơ quan điều tra hình sự; yêu cầu Cơ quan điều tra hình sự truy nã bị
can. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án), nếu không nhất trí, Cơ quan điều tra hình sự quân đội vẫn phải chấp
hành, nhưng có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp
và trong thời hạn 20 ngày, Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp phải xem
25
xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho Cơ quan điều tra hình sự
đã kiến nghị. Đối với những quyết định, yêu cầu còn lại của Viện kiểm sát
quân sự mà Cơ quan điều tra hình sự quân đội phải thực hiện, nếu có căn cứ
cho rằng quyết định, yêu cầu đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của mình hoặc của người khác thì Cơ quan điều tra hình sự quân đội
có quyền khiếu nại và Viện kiểm sát quân sự có trách nhiệm giải quyết theo
thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; Khi có căn cứ cho
rằng Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên có thể không đảm bảo vô
tư trong khi thực hành công cụ kiểm sát. Cơ quan điều tra hình sự quân đội có
quyền kiến nghị Viện kiểm sát quân sự cùng cấp hoặc Viện kiểm sát quân sự
cấp trên thay đổi người tiến hành tố tụng; Trong trường hợp Cơ quan điều tra
hình sự quân đội không đồng ý và không thực hiện những yêu cầu đặt ra trong
yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát quân sự, thì Cơ quan điều tra hình sự quân
đội phải nêu rõ lý do trong Bản kết luận điều tra, tại sao không thực hiện yêu
cầu của Viện kiểm sát quân sự.
b) Đặc điểm riêng đặc thù
Do bộ máy tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân
đội theo đơn vị hành chính quân đội, trong khi bộ máy tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát quân sự theo khu vực địa giới hành chính nhà nước (Ví dụ:
Viện kiểm sát quân sự khu vực 33 thuộc Quân khu 3, thực hiện quyền công tố
và kiểm sát điều tra hoạt động của các cơ quan điều tra hình sự khu vực trên
địa bàn 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên). Nên mối quan hệ giữa Cơ quan điều
tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát quân sự, có những đặc điểm riêng đặc
thù: một Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội có mối quan hệ với nhiều
Viện kiểm sát quân sự cùng cấp và ngược lại một Viện kiểm sát quân sự có
mối quan hệ với nhiều Cơ quan điều tra hình sự cùng cấp.
Thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội
vừa theo nguyên tắc địa bàn, lãnh thổ và vừa theo đơn vị hành chính quân đội.
26
Trong khi đó, thẩm quyền thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều
tra của Viện kiểm sát quân sự là theo nguyên tắc địa bàn, lãnh thổ. Do đó,
trong thực tế xảy ra việc một Cơ quan điều tra hình sự có mối quan hệ với
nhiều Viện kiểm sát quân sự cùng cấp và ngược lại một Viện kiểm sát quân
sự có mối quan hệ với nhiều cơ quan điều tra hình sự cùng cấp.
Ví dụ thứ nhất, một Cơ quan điều tra hình sự có mối quan hệ với
nhiều Viện kiểm sát quân sự cùng cấp: Cơ quan điều tra hình sự khu vực Binh
chủng Công Binh có thể có quan hệ với tất cả các cơ quan Viện kiểm sát quân
sự khu vực của Quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9 và Thủ đô Hà Nội, khi quân nhân
thuộc Binh chủng Công Binh phạm tội trên địa bàn thuộc một trong các Viện
kiểm sát quân sự khu vực trên quản lý.
Ví dụ thứ hai, một Viện kiểm sát quân sự có mối quan hệ với nhiều Cơ
quan điều tra hình sự cùng cấp: Viện kiểm sát quân sự khu vực 33 Quân khu 3
(quản lý địa bàn hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên) sẽ có quan hệ với các Cơ
quan điều tra hình sự khu vực của các tổng cục, quân khu, binh chủng, binh
đoàn, quân đoàn… khi quân nhân thuộc các tổng cục, quân khu (kể cả quân
khu 3), binh chủng, binh đoàn, quân đoàn phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải
Dương hoặc Hưng Yên.
1.3.1.2. Mối quan hệ của Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Tòa
án quân sự
Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Tòa án quân
sự là quan hệ phối hợp, có thể ở ngay giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình
sự, trong trường hợp xảy ra những vụ trọng án, phức tạp hoặc có khó khăn khi
xác định tội danh cần phải thống nhất giữa ba ngành: điều tra hình sự, Viện
kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự; phối hợp khi Tòa án quân sự trả hồ sơ để
điều tra bổ sung hoặc hủy bản án để điều tra lại, Cơ quan điều tra hình sự
quân đội trao đổi với Tòa án quân sự làm rõ những vấn đề cần điều tra bổ
sung hoặc cần điều tra lại; Phối hợp khi Tòa án quân sự triệu tập những người
27
tham gia tố tụng là quân nhân các đơn vị do Cơ quan điều tra hình sự quân đội
quản lý, phục vụ cho công tác xét xử vụ án hình sự.
Ngoài ra, mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra hình sự quân
đội với Tòa án quân sự còn có đặc điểm riêng đặc thù, đó là một Cơ quan điều
tra hình sự có mối quan hệ với nhiều Tòa án quân sự cùng cấp và ngược lại
một Tòa án quân sự có mối quan hệ với nhiều Cơ quan điều tra hình sự cùng
cấp. Do bộ máy tổ chức và hoạt động của Tòa án quân sự theo khu vực địa
giới hành chính nhà nước như Viện kiểm sát quân sự.
1.3.2. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ
quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lƣợng Cảnh sát
nhân dân
Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan
Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân
là quan hệ phối hợp, hỗ trợ, hiệp đồng theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
được pháp luật quy định. Đây là hoạt động phổ biến, tất yếu khách quan, do đòi
hỏi từ chính những quy định của pháp luật và thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm.
a) Sự cần thiết của quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra hình sự
quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực
lượng Cảnh sát nhân dân
Sự phối hợp của Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ
của lực lượng Cảnh sát nhân dân với Cơ quan điều tra hình sự quân đội luôn
có vị trí đặc biệt, vai trò to lớn đối với hoạt động điều tra giải quyết các vụ án
hình sự thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Có rất nhiều
vụ án cần đến sự phối hợp từ Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp
vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân: những vụ án xảy ra ngoài doanh trại;
những vụ án xảy ra trong doanh trại nhưng đối tượng là dân sự hoặc do quân
nhân trong đơn vị câu kết với các đối tượng dân sự thực hiện; việc truy bắt
28
đối tượng phạm tội, truy tìm tang vật, vật chứng… Cơ quan điều tra hình sự
quân đội không thể hoặc khó có khả năng, điều kiện để thực hiện hoặc điều
tra làm rõ. Lý do là phải thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình
sự; số lượng cán bộ điều tra trong các Cơ quan điều tra hình sự ít, trong khi đó
địa bàn điều tra rộng và không có các lực lượng nghiệp vụ.
Ví dụ thứ nhất, trong vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ, các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội không
thể khám nghiệm hiện trường nếu không có lực lượng Cảnh sát giao thông điều
chỉnh giao thông; đa số các vụ khám nghiệm tử thi là do lực lượng kỹ thuật
hình sự Công an các địa phương thực hiện để đáp ứng với yêu cầu điều tra; vấn
đề truy bắt phương tiện tham gia tai nạn giao thông bỏ chạy, cần phải có sự tham
gia của nhiều lực lượng trong công an nhân dân và trên một địa bàn rộng lớn.
Ví dụ thứ hai, Vụ giết người, cướp tài sản xảy ra ngày 28/11/2008 tại
phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Ngày 05/12/2008,
nhân dân phát hiện xác chị Nguyễn Thị Vân nhân viên của d883, e131, Quân
chủng H (đóng quân phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, thành phố Hải
Phòng) bị vùi lấp bởi rác thải khu vực gần đơn vị đóng quân. Cơ quan điều tra
hình sự Quân chủng H và Công an Hải phòng đã thành lập ban chuyên án, xác
định nhiệm vụ của Cơ quan điều tra hình sự Quân chủng H tiến hành các hoạt
động điều tra ở trong doanh trại; lực lượng Công an Hải phòng tiến hành các
hoạt động điều tra ở ngoài doanh trại: làm rõ mối quan hệ bên ngoài của chị
Vân và gia đình; truy tìm tài sản của chị Vân đã mất, đặc biệt là chiếc xe mô
tô… qua rà soát các cửa hàng xe máy, hiệu cầm đồ lực lượng Cảnh sát đã xác
định được đối tượng mang chiếc xe mô tô của chị Vân đi cầm đồ, từ đó các cơ
quan đã tìm ra thủ phạm là quân nhân cùng đơn vị với chị Vân.
b) Cơ sở pháp lý của quan hệ phối hợp
Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan
Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân
29
là quan hệ pháp luật giữa các chủ thể tham gia hoạt động điều tra tội phạm. Vì
thế, sự phân công trách nhiệm, phối hợp trong hoạt động điều tra tội phạm liên
quan đến quân đội giữa hai lực lượng phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
Cơ sở pháp lý của quan hệ phối hợp được quy định trong Hiến pháp, hệ thống
các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và các quy phạm pháp luật quy định về
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cơ quan, cụ thể: Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004; Nghị định số
77/2010/NĐ-CP ngày 12/07/2010 của Chính phủ "Về phối hợp giữa Bộ Công an
và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng"; Thông tư liên tịch số
01/2008/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BQP-BCA ngày 20/10/2008 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an
"Về quan hệ phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội và ngoài quân đội"...
c) Nguyên tắc phối hợp
Là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về tổ chức phối hợp điều tra
giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các
cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân, bảo đảm theo mục đích,
nhiệm vụ của hoạt động điều tra, để làm rõ sự thật vụ án. Theo đó, quan hệ
phối hợp giữa các cơ quan này phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:
* Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa
Bảo đảm cho Cơ quan điều tra hình sự quân đội và Cơ quan Cảnh sát
điều tra, các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong quá
trình phối hợp điều tra vụ án hình sự liên quan đến quân đội.
* Nguyên tắc bảo đảm tính độc lập
Đảm bảo tính độc lập về chức năng, nhiệm vụ trong quan hệ phối hợp
điều tra giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra
30
và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân, đòi hỏi khi thực
hiện các yêu cầu, nhiệm vụ phối hợp điều tra, từng cơ quan được tiến hành nhiệm
vụ theo các biện pháp riêng của mình, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan đó. Nguyên tắc độc lập trong quan hệ phối hợp còn đòi hỏi khi phân công
hoặc yêu cầu phối hợp phải trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan.
* Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất về mục đích
Mục đích của hoạt động điều tra tội phạm là phát hiện kịp thời tội
phạm, làm rõ toàn bộ sự thật của vụ án. Quan hệ phối hợp điều tra giữa Cơ
quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan
nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân phải hướng tới mục đích đó. Tính
thống nhất về mục đích trong quan hệ phối hợp điều tra tội phạm liên quan
đến quân đội phải được quán triệt và nhận thức đầy đủ đối với từng cơ quan,
cán bộ tham gia phối hợp.
1.3.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với
Đảng ủy, ngƣời chỉ huy các cấp trong quân đội
Được quy định trong Quy chế hoạt động của Ngành điều tra hình sự
quân đội, ban hành theo Quyết định số 47/2006/QĐ-BQP ngày 16/03/2006
của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Cụ thể như sau:
a) Quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Đảng ủy
* Cơ quan điều tra hình sự các cấp chịu sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng ủy cấp mình theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cục Điều tra hình sự chịu sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Quân ủy Trung ương.
- Phòng điều tra hình sự, Cơ quan điều tra hình sự khu vực thuộc Bộ
Tổng tham mưu; các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng;
Bộ đội Biên phòng; Binh đoàn 12, Binh đoàn 15, Binh đoàn 16 (sau đây gọi
31
chung là quân khu và cấp tương đương) chịu sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng ủy quân khu và cấp tương đương.
* Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Đảng ủy
- Cơ quan điều tra hình sự chịu sự lãnh đạo của Đảng ủy cấp mình
trong việc quán triệt, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ theo chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Chủ động báo cáo xin ý kiến chủ trương lãnh đạo của Đảng ủy đối
với các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp và chấp hành nghiêm các nghị quyết
của Đảng ủy. Khi Đảng ủy cho chủ trương giải quyết các vụ việc mà Cơ quan
điều tra hình sự chưa thấy phù hợp với pháp luật, thì phải báo cáo lại với
Đảng ủy, nếu không thống nhất thì tiếp tục báo cáo lên Cơ quan điều tra hình
sự cấp trên để giải quyết.
b) Quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với người chỉ huy
* Quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với người chỉ huy
trực tiếp.
- Cục Điều tra hình sự thuộc quyền chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng.
- Phòng điều tra hình sự quân khu và cấp tương đương thuộc quyền
chỉ huy, quản lý trực tiếp của Tư lệnh quân khu và cấp tương đương.
- Cơ quan điều tra hình sự khu vực quân khu và cấp tương đương
thuộc quyền chỉ huy, quản lý trực tiếp của Trưởng phòng điều tra hình sự
quân khu và cấp tương đương; chịu sự quản lý về hành chính, quân sự của
người chỉ huy đơn vị nơi đặt trụ sở.
* Trách nhiệm của người chỉ huy đơn vị với Cơ quan điều tra hình sự
quân đội.
- Trách nhiệm của người chỉ huy, quản lý trực tiếp: Chỉ đạo Cơ quan
điều tra hình sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật;
32
phân công Cơ quan điều tra hình sự thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan điều tra hình sự; Cho ý kiến chỉ
đạo giải quyết đối với những vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, có ảnh
hưởng đến Đảng, Nhà nước, Quân đội theo đề nghị của Cơ quan điều tra hình
sự. Những nội dung mang tính chất chuyên môn nghiệp vụ thì Cơ quan điều
tra hình sự thực hiện theo quy định của pháp luật; Xây dựng Cơ quan điều tra
hình sự vững mạnh về mọi mặt, tạo điều kiện thuận lợi để Cơ quan điều tra
hình sự hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; Phối hợp với Cơ quan
điều tra hình sự cấp trên để tuyển chọn, đào tạo, quản lý, sử dụng và bồi
dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ điều tra; Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị,
cá nhân thuộc quyền kịp thời thông báo tình hình vi phạm, tội phạm cho Cơ
quan điều tra hình sự và tổ chức thực hiện các quyết định của Cơ quan điều
tra hình sự.
- Trách nhiệm của người chỉ huy đơn vị nơi đặt trụ sở của Cơ quan
điều tra hình sự khu vực: Thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính quân sự đối
với Cơ quan điều tra hình sự; Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, cá nhân thuộc
quyền kịp thời thông báo tình hình vi phạm, tội phạm cho Cơ quan điều tra
hình sự; Đảm bảo vật chất, tinh thần cho Cơ quan điều tra hình sự như đối với
đơn vị khác thuộc quyền. Tạo điều kiện thuận lợi để Cơ quan điều tra hình sự
hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Trách nhiệm của người chỉ huy đóng quân trên địa bàn: Chỉ đạo các
cơ quan, đơn vị, cá nhân thuộc quyền kịp thời thông báo tình hình vi phạm,
tội phạm cho Cơ quan điều tra hình sự; Tạo điều kiện thuận lợi để Cơ quan
điều tra hình sự hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
* Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự quân đội với người chỉ huy
- Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự với người chỉ huy, quản lý
trực tiếp: Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp
luật và Quy chế hoạt động của Ngành điều tra hình sự quân đội; kịp thời xin ý
33
kiến giải quyết đối với những vụ án, vụ việc nghiêm trọng phức tạp, có ảnh
hưởng đến Đảng, Nhà nước, Quân đội. Thực hiện nghiêm chỉnh các quyết
định, chỉ thị, mệnh lệnh của người chỉ huy trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ
xây dựng đơn vị. Nếu có ý kiến không thống nhất thì báo cáo lên Cơ quan
điều tra hình sự cấp trên để giải quyết.
- Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự khu vực với người chỉ huy
đơn vị nơi đặt trụ sở: Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của pháp luật và Quy chế của Ngành điều tra hình sự quân đội Thực hiện
nghiêm chỉnh các quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh của người chỉ huy trong tổ
chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng đơn vị; định kỳ hoặc đột xuất phản ảnh với
người chỉ huy về tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm xảy ra trong các cơ
quan đơn vị thuộc quyền, đồng thời kiến nghị với người chỉ huy các biện pháp
khắc phục và phòng ngừa.
- Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự khu vực với người chỉ huy
đơn vị đóng quân trên địa bàn: Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
theo quy định của pháp luật và Quy chế của Ngành điều tra hình sự quân đội;
định kỳ hoặc đột xuất phản ảnh với người chỉ huy về tình hình vi phạm pháp
luật và tội phạm xảy ra trong các cơ quan đơn vị thuộc quyền, đồng thời kiến
nghị với người chỉ huy các biện pháp khắc phục và phòng ngừa.
1.4. SƠ LƢỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CƠ
QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI
Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhằm bảo vệ chính quyền, trừng
trị kịp thời những phần tử phản cách mạng ngoan cố chống lại nhân dân, đồng
thời giáo dục, răn đe những người có hành vi vi phạm chủ trương chính sách của
Chính phủ, ngày 13/09/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra Sắc lệnh số 13C/SL thành lập các Tòa án quân sự trong phạm vi
cả nước, để xử lý những người vi phạm các quy định của Chính phủ lâm thời.
34
Ngày 25/03/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34-NV tổ
chức Bộ Quốc phòng, cơ cấu tổ chức gồm có văn phòng, các cục chuyên môn,
trong đó có Quân pháp Cục. Điều 14 của Sắc lệnh quy định Quân pháp Cục
có nhiệm vụ tổ chức các Tòa án binh và các Tòa án quân sự. Theo đề nghị của
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 23/08/1946 Quyền Chủ tịch nước Huỳnh
Thúc Kháng đã ký Sắc lệnh số 163/SL lập một Tòa án binh lâm thời, trụ sở
đặt tại Hà Nội, có thẩm quyền xét xử: các nhân viên phạm pháp bất cứ về tội
gì trừ những tội vi cảnh thuộc thẩm quyền của các tòa án tư pháp và các
thường tội thuộc quyền nghị phạt của các cấp chỉ huy quân đội; những nhân
viên các ngành chuyên môn trong quân đội, những người làm việc cho quân
đội như công nhân, chủ thầu khi phạm pháp liên can đến quân đội; những
người thuộc bất cứ hạng nào mà phạm pháp ở trong các đồn trại, quân y viện,
nhà đề lao binh hoặc một cơ quan nào của quân đội hoặc phạm pháp làm thiệt
hại đến quân đội. Đến ngày 16/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc
lệnh số 19/SL về việc tổ chức các Tòa án binh trên toàn cõi Việt Nam.
Nhằm đề cao kỷ luật, phát huy bản chất truyền thống và nâng cao sức
mạnh chiến đấu của quân đội cách mạng, đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến
đấu trong giai đoạn mới của sự nghiệp kháng chiến, theo đề nghị của Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ngày 19/11/1948, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 258/SL tổ chức Công an Quân pháp trong thời
kỳ kháng chiến. Công an Quân pháp có nhiệm vụ: Truy tầm tất cả các việc
phạm pháp, thuộc thẩm quyền Tòa án binh, thu thập các tài liệu và bắt giam
những người phạm pháp để giao cho Tòa án binh xét xử; thi hành các mệnh
lệnh cùng bản án của Tòa án binh.
Do yêu cầu của công tác điều tra chống tội phạm trong quân đội, ngày
20/7/1950 Cục Quân pháp - Bảo vệ được thành lập. Hệ thống Cơ quan Quân
pháp - Bảo vệ được tổ chức đến liên khu và đại đoàn, đảm nhận nhiệm vụ của
Quân pháp, Bảo vệ an ninh trong quân đội và Tòa án binh. Những vụ án về an
ninh do lực lượng bảo vệ phụ trách, những vụ án khác do lực lượng quân
35
pháp đảm nhiệm. Cuối năm 1955, do yêu cầu của công tác bảo vệ nội bộ,
Quân ủy Trung ương quyết định tách Cục Quân pháp - Bảo vệ thành hai bộ
phận, thực hiện các chức năng khác nhau. Bộ phận Quân pháp gồm có Công
an Quân pháp và Tòa án binh. Bộ phận Bảo vệ an ninh được giữ nguyên, sau
đó thành lập Cục Bảo vệ (tiền thân của Cơ quan điều tra An ninh quân đội).
Ngày 12/5/1961, Tổng cục Chính trị ra Thông tư số 06, thông báo quyết
định của Trung ương Đảng, Quốc hội, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng
về việc thành lập hệ thống Viện kiểm sát quân sự trong toàn quân. Theo thông tư
số 06, cán bộ cơ quan quân pháp các cấp cùng với các ủy viên công tố của Tòa
án binh được điều chuyển về Viện kiểm sát quân sự các cấp. Cơ quan Quân
pháp - Bảo vệ từ thời gian này trở đi gọi là cơ quan bảo vệ. Các hoạt động
điều tra liên quan đến an ninh chính trị do Cục Bảo vệ đảm nhiệm. Các hoạt
động điều tra khác và công tố do Viện kiểm sát quân sự các cấp trực tiếp chỉ
đạo. Với quyết định trên, từ năm 1961 nhiệm vụ hoạt động điều tra nằm trong
hệ thống Viện kiểm sát quân sự các cấp. Tòa án binh được đổi tên thành Tòa án
quân sự.
Đến năm 1974, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam đã đến kề
ngày thắng lợi. Nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng,
ngày 16/12/1974, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 205/QP về việc tổ chức lại
Ngành Quân pháp, hệ thống tổ chức gồm: Cục Quân pháp trực thuộc Bộ Quốc
phòng; các quân khu, quân đoàn, quân binh chủng có phòng quân pháp. Các
cơ quan quân pháp có nhiệm vụ chính là điều tra những hành động phạm pháp
hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự. Ngày 30/4/1975, Viện kiểm
sát quân sự trung ương tổ chức cuộc họp bàn giao công tác điều tra hình sự
sang Cục Quân pháp. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng
và Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về phương hướng, nhiệm vụ xây
dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Ngày 08/03/1977, Bộ tổng Tham mưu ra
Quyết định số 61/QĐ-TM quy định tổ chức, biên chế hệ thống cơ quan quân
pháp các cấp. Theo quyết định này, các Quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9 và Quân
36
khu Thủ Đô; các Tổng cục Hậu cần, Kỹ thuật, Xây dựng kinh tế; các Quân
đoàn 1, 2, 3, 4; các Quân chủng Phòng không - Không quân và Hải quân có
Phòng quân pháp. Ban quân pháp được tổ chức ở các Cơ quan Bộ Tổng Tham
mưu, Tổng cục Chính trị, các Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố và các
Binh chủng Công binh, Thông tin. Các binh chủng còn lại, các học viện, nhà
trường, một số cục trực thuộc các tổng cục bố trí trợ lý quân pháp.
Đến ngày 21/02/1981, Cơ quan Quân pháp được đổi tên thành Cơ
quan điều tra hình sự quân đội theo Quyết định số 50/QĐ-BQP của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, Cơ quan
điều tra hình sự quân đội có thẩm quyền điều tra các tội phạm được quy định
từ Chương II đến Chương XII của Bộ luật hình sự do các đối tượng là quân
nhân gây ra. Trường hợp không phải quân nhân gây ra song ảnh hưởng hoặc
có liên quan đến quân đội, lực lượng điều tra hình sự quân đội phối hợp với
cơ quan điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân tiến hành điều tra.
Tháng 02 năm 1986, Nhà nước ban hành Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm
sát quân sự, Theo pháp lệnh này, Viện kiểm sát quân sự các cấp có nhiệm vụ
tiến hành điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật (trừ các vụ án
thuộc Cơ quan An ninh điều tra) và quản lý các trại giam quân sự. Vì vậy,
ngày 03/11/1987, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số
235/ĐUQSTƯ về việc chuyển giao chức năng và tổ chức của hệ thống cơ
quan làm công tác điều tra hình sự, các trại giam quân sự cho Viện Kiểm sát
quân sự trung ương đảm nhiệm.
Đến ngày 04/04/1989, Hội đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh Tổ chức
điều tra hình sự, trong đó quy định tổ chức Cơ quan điều tra trong quân đội.
Gồm hai lực lượng là: Cơ quan điều tra hình sự, Cơ quan an ninh điều tra. Để cụ
thể hóa quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và Pháp lệnh Tổ chức
điều tra hình sự năm 1989, ngày 21/08/1989, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban
hành Quyết định số 236/QĐ-QP về việc tổ chức Cơ quan điều tra hình sự trong
37
quân đội. Theo quyết định này, Cơ quan điều tra hình được tổ chức ở ba cấp: Cơ
quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng (Cục Điều tra hình sự); Cơ quan điều tra hình
sự cấp quân khu và tương đương (Phòng điều tra hình sự); Cơ quan điều tra hình
sự cấp Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố và tương đương (Ban điều tra hình sự).
Thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh
Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, các Cơ quan điều tra hình sự trong quân
đội được tổ chức lại, chủ yếu ở cấp thứ ba và theo hướng thu gọn đầu mối, từ
193 Cơ quan điều tra hình sự giảm xuống còn 99 Cơ quan điều tra hình sự.
Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của Cơ quan điều tra hình sự
quân đội, thấy rằng: mặc dù nhiều lần tách, nhập, thay đổi về tổ chức và tên gọi
nhưng nhiệm vụ điều tra tội phạm được quy định trong Sắc lệnh số 258/SL vẫn
không thay đổi. Có thể khẳng định, ở đâu có hoạt động của quân đội ta ở đó có
công tác điều tra hình sự. Cơ quan điều tra hình sự quân đội có vai trò to lớn
trong sự nghiệp xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của quân đội.
1.5. CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG QUÂN ĐỘI Ở MỘT SỐ NƢỚC
1.5.1. Cộng hòa Liên bang Nga
Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định hệ thống các cơ quan
điều tra gồm:
- Cơ quan Công an điều tra;
- Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng;
- Cơ quan an ninh quốc gia điều tra;
- Cơ quan cứu hỏa;
- Cơ quan biên phòng;
- Cơ quan Hải quan liên bang;
Ngoài ra, Thủ trưởng các đơn vị cải tạo, các cơ sở bắt buộc chữa bệnh
và các cơ sở giáo dưỡng cũng có quyền điều tra tội phạm thuộc thẩm quyền
38
của mình và Thuyền trưởng viễn dương có quyền điều tra các tội phạm xảy ra
trên tàu.
1.5.2. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy
định hệ thống các cơ quan điều tra gồm:
- Cơ quan điều tra của Bộ Công an;
- Cơ quan điều tra của Bộ An ninh quốc gia;
- Cơ quan điều tra của An ninh quân đội;
- Tổng cục chống tham ô, hối lộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy
định rất cụ thể về thẩm quyền và giới hạn điều tra của từng cơ quan điều tra. Theo
đó, Cơ quan điều tra của Bộ Công an có quyền điều tra các loại tội phạm hình sự
trên lãnh thổ Trung Quốc; Cơ quan điều tra của An ninh quân đội có quyền điều
tra các vụ án hình sự xảy ra trong các đơn vị quân đội; Cơ quan điều tra của Bộ
An ninh có quyền điều tra các vụ án hình sự phá hoại an ninh quốc gia; Tổng
cục chống tham ô, hối lộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chức năng khởi
tố và tự mình điều tra hơn 50 loại tội được quy định trong Bộ luật hình sự.
1.5.3. Vƣơng quốc Anh
Cơ quan điều tra của Vương quốc Anh được tổ chức gồm nhiều lực
lượng, có thẩm quyền điều tra riêng theo quy định của pháp luật, cụ thể gồm:
- Lực lượng Cảnh sát Bộ Quốc phòng (Quân cảnh);
- Lực lượng Cảnh sát dân sự;
- Lực lượng Cảnh sát vận tải;
- Lực lượng Cảnh sát Bộ Nội vụ
- Cơ quan Hải quan, thuế vụ;
- Văn phòng chống tội phạm lừa đảo nghiêm trọng.
39
Các lực lượng Cảnh sát riêng biệt có trách nhiệm điều tra, xử lý tội
phạm địa phương, khu vực và phòng chống tội phạm; Cảnh sát Bộ Quốc
phòng là lực lượng có trách nhiệm cụ thể đối với an ninh và hoạt động của Bộ
Quốc phòng; Cảnh sát dân sự có chức năng điều tra, xử lý các tội phạm
nghiêm trọng qua biên giới; Cảnh sát vận tả chịu trách nhiệm phòng ngừa và
điều tra các loại tội phạm trên các tuyến đường sắt và hệ thống ngầm; Các
đơn vị Cảnh sát Bộ Nội vụ là một lực lượng nhỏ, có trách nhiệm bảo vệ các
yếu nhân, đảm bảo an ninh ở những nơi công cộng; Cơ quan Hải quan có
quyền tiến hành khởi tố và điều tra vụ án liên quan đến gian lận, trốn thuế…
Qua nghiên cứu hệ thống tổ chức và thẩm quyền điều tra của cơ quan
điều tra một số nước trên thế giới, có thể thấy rằng trong quân đội luôn có tổ
chức cơ quan điều tra, thẩm quyền điều tra riêng theo quy định của pháp luật.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Với tiêu đề "Lý luận chung về Cơ quan điều tra hình sự quân đội", trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
những quy định của pháp luật thực định, đã làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
- Khái quát những vấn đề cơ bản về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Cơ quan điều tra hình sự quân đội trong tố tụng hình sự.
- Cơ quan điều tra hình sự có vị trí quan trọng, là cơ quan không thể
thiếu được trong quân đội và trong tố tụng hình sự. Việc tổ chức Cơ quan điều
tra hình sự trong quân đội là đòi hỏi khách quan, xuất phát từ chính thực tiễn
đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại đến quân đội. Nhằm củng cố, tăng
cường kỷ luật, bảo vệ pháp luật và sức mạnh của quân đội.
- Tổ chức bộ máy và hoạt động điều tra theo thẩm quyền của Cơ quan
điều tra hình sự quân đội được tổ chức theo đơn vị hành chính quân đội.
Để minh họa những vấn đề lý luận trên, luận văn sẽ trình bày thực
trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội ở Chương 2.
40
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI
2.1. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ
QUÂN ĐỘI
2.1.1. Tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội
Theo Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, trong quân đội
nhân dân có hệ thống tổ chức Cơ quan điều tra hình sự và hệ thống tổ chức
Cơ quan An ninh điều tra. Hệ thống tổ chức Cơ quan điều tra hình sự phân
thành ba cấp: Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng (cấp thứ nhất); Cơ
quan điều tra hình sự quân khu và tương đương (cấp thứ hai); Cơ quan điều
tra hình sự khu vực (cấp thứ ba). Tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự Bộ
Quốc phòng gồm có các phòng điều tra, phòng nghiệp vụ và bộ máy giúp
việc; tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương gồm có Ban
điều tra và bộ máy giúp việc; tổ chức Cơ quan điều tra hình sự khu vực gồm
có bộ phận điều tra và bộ máy giúp việc.
Để triển khai thực hiện Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, ngày
08/10/2004 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định số 139/2004/QĐ-BQP
"Về tổ chức và nhiệm vụ của Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội nhân
dân", quy định trong quân đội có 99 Cơ quan điều tra hình sự các cấp, gồm:
01 Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; 30 Cơ quan điều tra hình sự
quân khu và tương đương (Bộ Tổng Tham mưu, các tổng cục, quân khu, quân
đoàn, quân chủng, Bộ đội Biên phòng, binh chủng, binh đoàn và các tổ chức
sự nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng); 68 Cơ quan điều tra hình sự khu vực thuộc
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOTLuận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmLuận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
 
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAYĐề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAYLuận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOTLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạtLuận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Điều tra vụ án hình sự có bị can là người dân tộc thiểu số
Luận văn: Điều tra vụ án hình sự có bị can là người dân tộc thiểu sốLuận văn: Điều tra vụ án hình sự có bị can là người dân tộc thiểu số
Luận văn: Điều tra vụ án hình sự có bị can là người dân tộc thiểu số
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAYMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 

Similar to Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam

Similar to Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam (20)

Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tốLuận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
 
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
 
Đề tài: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Điều tra trong Quân đội
Đề tài: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Điều tra trong Quân độiĐề tài: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Điều tra trong Quân đội
Đề tài: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Điều tra trong Quân đội
 
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOTLuận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
 
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sựLuận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
 
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựNhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sátQuyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
 
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAYĐề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
 
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOTLuận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
 
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOTLuận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sátLuận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
 
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOTLuận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dânMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
 
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰVAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
 
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 

Luận văn: Cơ quan điều tra hình sự quân đội nhân dân Việt Nam

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VIỆT HÀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS N... HÀ NỘI - ...
  • 2. 1 MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI 7 1.1. Khái niệm cơ quan điều tra hình sự quân đội 7 1.1.1. Vị trí của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 7 1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 9 1.2. Sự cần thiết của cơ quan điều tra hình sự trong quân đội 12 1.3. Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan khác 17 1.3.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong quân đội 19 1.3.1.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát quân sự 19 1.3.1.2. Mối quan hệ của Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Tòa án quân sự 24 1.3.2. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân 25 1.3.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Đảng ủy, người chỉ huy các cấp trong quân đội 28 1.4. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của cơ quan điều tra hình sự quân đội 31 1.5. Cơ quan điều tra trong quân đội ở một số nước 35 1.5.1. Cộng hòa Liên bang Nga 35 1.5.2. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 36 1.5.3. Vương quốc Anh 36 Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI 38 2.1. Thực trạng về tổ chức của cơ quan điều tra hình sự quân đội 38 2.1.1. Tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành 38 2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 38 2.1.1.2. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 39 2.1.2. Thực trạng về tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 46 2.2. Thực trạng hoạt động của cơ quan điều tra hình sự quân đội 48 2.2.1. Hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành 48 2.2.1.1. Trong tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự 48 2.2.1.2. Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự 50 2.2.1.3. Tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra, kết thúc điều tra, đề nghị truy tố 56 2.2.2. Thực trạng hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 59 2.2.2.1. Tình hình tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội từ 2006 - 2011 59 2.2.2.2. Kết quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 62 2.2.2.3. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra hình sự quân đội 64 2.3. Một số nhận xét về mô hình tổ chức hệ thống cơ quan điều tra hình sự quân đội hiện nay 71
  • 3. 2 2.3.1. Ưu điểm 71 2.3.2. Nhược điểm 71 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI 75 3.1. Sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra hình sự quân đội 75 3.1.1. Yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới 75 3.1.2. Yêu cầu đổi mới Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo tiến trình cải cách tư pháp 78 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra hình sự quân đội 79 3.2.1. Những định hướng đổi mới Cơ quan điều tra hình sự quân đội 79 3.2.2. Các giải pháp cụ thể 81 3.2.2.1. Đổi mới cơ cấu tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quân đội 81 3.2.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sự phối hợp của các đơn vị trong toàn quân đối với hoạt động điều tra theo tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra hình sự 83 3.2.2.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự 84 3.2.2.4. Nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ Điều tra viên 87 3.2.2.5. Bảo đảm kinh phí, điều kiện cơ sở vật chất cho hoạt động của các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội 89 3.2.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp 90 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 PHỤ LỤC 101
  • 4. 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội đã đổi mới về tổ chức và hoạt động. Đối với hoạt động tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội đã áp dụng nhiều hình thức, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; tạo được sự chuyển biến rõ nét trong các mặt công tác của từng ngành; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án có nhiều tiến bộ; các vụ án hình sự được đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, được cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đồng tình; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về kiện toàn lại tổ chức, biên chế của Ngành điều tra hình sự quân đội theo Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004. Cục điều tra hình sự đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong toàn quân hoàn thành việc giải thể 163 Cơ quan điều tra hình sự ở các bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các sư đoàn, học viện, nhà trường và tương đương để tổ chức thành 68 Cơ quan điều tra hình sự khu vực; kiện toàn lại 30 Cơ quan điều tra hình sự cấp quân khu và Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng. Mô hình này đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống vi phạm, tội phạm trong quân đội trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, sau hơn sáu năm thực hiện, mô hình này cũng đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc: Thứ nhất, bộ máy tổ chức cồng kềnh nhưng phân bố mất cân đối nghiêm trọng, phân tán lực lượng dẫn đến việc một số Cơ quan điều tra hình sự hoạt động kém hiệu quả; thứ hai, thẩm quyền điều tra chồng
  • 5. 4 chéo, địa bàn quản lý quá rộng trong khi lực lượng điều tra viên còn thiếu và hạn chế về năng lực trình độ, nhất là khối Cơ quan điều tra hình sự các tổng cục, binh chủng, binh đoàn, quân đoàn... thứ ba, công tác tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền của mỗi Cơ quan điều tra hình sự thường phải qua nhiều khâu trung gian, làm mất thời cơ khám phá án, đặc biệt là đối với những vụ án phức tạp; khả năng điều tra trinh sát khó thực hiện, nên việc điều tra, khám phá các vụ án chưa rõ đối tượng, tội phạm có tổ chức, truy bắt đối tượng phạm tội - truy nã, thu hồi tài sản bị tội phạm chiếm đoạt hiệu quả thấp; giải quyết mối quan hệ công tác với các cơ quan nghiệp vụ của Bộ Công an, Viện kiểm sát quân sự và các đơn vị quân đội gặp nhiều khó khăn, bất cập. Trước đòi hỏi nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra luôn là yêu cầu mang tính khách quan. Đảng và Nhà nước ta đã xác định đổi mới cơ quan điều tra là một nội dung trọng tâm trong tiến trình cải cách tư pháp, được ghi nhận trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Trên cơ sở đó, tìm giải pháp góp phần hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Góp phần tích cực, quan trọng vào việc bảo vệ pháp luật, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, là yêu cầu cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Trong khi việc nghiên cứu về cơ quan điều tra nói chung luôn là đề tài thu hút sự quân tâm của các nhà khoa học, cán bộ thực tiễn trên cả bình diện lý luận cũng như thực tiễn và đã có nhiều công trình được công bố. Thì việc nghiên cứu về Cơ quan điều tra hình sự quân đội còn khá hạn chế, cho đến nay có một số công trình nghiên cứu, cụ thể như sau:
  • 6. 5 Thứ nhất, các đề tài của Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng: 1) Đề tài cấp cơ sở "Thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội", Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2000; 2) Đề án cấp Bộ "Đổi mới tổ chức, hoạt động của các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội", Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2009); 3) Đề tài cấp Bộ "Xây dựng lực lượng cảnh vệ làm nhiệm vụ canh giữ, dẫn giải bị can, bị cáo; bảo vệ phiên tòa, bảo vệ các Trại giam, Trại tạm giam; hỗ trợ công tác thi hành án", Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2009; 4) Đề tài cấp Bộ "Tổ chức, xây dựng kho vật chứng, tịch thu trong các vụ án do Cơ quan điều tra hình sự quân đội tiến hành", Cục Điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2009. Thứ hai, các luận văn thạc sĩ Luật học: 1) Vũ Minh Thành, Tổ chức hoạt động điều tra vụ án giết người của Cơ quan điều tra hình sự quân đội, Luận văn thạc sĩ luật học, 1999; 2) Ngô Minh Giang, Tổ chức hoạt động điều tra các vụ án Trộm cắp tài sản trong doanh trại quân đội, Luận văn thạc sĩ luật học, 2001; 3) Nguyễn Ngọc Tư, Tổ chức hoạt động điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra hình sự cấp thứ hai trong quân đội- thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả, Luận văn thạc sĩ luật học, 1999; 4) Thân Tuấn Anh, Hệ thống tổ chức Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong quân đội nhân dân. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, Luận văn thạc sĩ luật học, 2005; 5) Hoàng Tùng, Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan nghiệp cụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an trong hoạt động điều tra các vụ án có lên quan đến quân đội, Luận văn thạc sĩ luật học, 2001; 6) Nguyễn Công Quyền, Công tác hiện trường vụ án hình sự và việc tăng cường công tác hiện trường vụ án hình sự trong quân đội, Luận văn thạc sĩ luật học, 1997; 7) Nguyễn Trọng Nga, Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội nhân dân, Luận văn thạc sĩ luật học, 2006... Những công trình nghiên cứu về Cơ quan điều tra hình sự quân đội nêu trên mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra mô hình theo hướng thu gọn đầu mối; nghiên cứu độc lập về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự cấp
  • 7. 6 thứ nhất hoặc cấp thức hai hoặc cấp thứ ba; nghiên cứu tổ chức hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội đối với một số tội phạm cụ thể... chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, tổng thể về Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Mặt khác, do được nghiên cứu đã lâu nên các công trình đó chưa thể hiện được quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đổi mới cơ quan điều tra nói chung, Cơ quan điều tra hình sự quân đội nói riêng, theo yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu về cơ quan điều tra trong quân đội là yêu cầu cấp thiết trong điều kiện cải cách tư pháp và xây dựng quân đội trong điều kiện hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Làm sáng tỏ vấn đề lý luận, thực tiễn về Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Đánh giá đúng thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội trong tố tụng hình sự. Tìm ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội khi giải quyết vụ án hình sự và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Luận giải về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. - Nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Chỉ ra những khiếm khuyết của mô hình hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội hiện nay; những hạn chế bất cập, khó khăn, vướng mắc khi thực hiện thẩm quyền điều tra; những hạn chế trong hoạt động tố tụng hình sự. - Đề xuất phương án xây dựng mô hình hệ thống tổ chức mới của Cơ quan điều tra hình sự quân đội phù hợp với hệ thống tổ chức của Nhà nước,
  • 8. 7 đặc thù của Quân đội, theo hướng thu gọn đầu mối và hoạt động điều tra theo nguyên tắc địa bàn, lãnh thổ. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi một luận văn cao học, chúng tôi giới hạn việc nghiên cứu tập trung vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Số liệu, tư liệu thực tế dùng trong luận văn được trích dẫn từ các báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết của Cục điều tra hình sự - Bộ Quốc phòng trong khoảng thời gian từ năm 2006 - 2011. Do yêu cầu công tác, một số ví dụ minh họa trong luận văn về vụ việc vi phạm, tội phạm có thể tác giả không nêu tên đơn vị quân đội. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp quân đội. Quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê, mô hình hóa; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật; phương pháp chuyên gia, trao đổi, tọa đàm… Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình đã được công bố, các đánh giá, tổng kết của các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
  • 9. 8 Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội trong tố tụng hình sự. Về thực tiễn, luận văn là tài liệu có giá trị cho việc nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị trong luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác đổi mới về Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo tiến trình cải cách tư pháp. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội.
  • 10. 9 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI 1.1. KHÁI NIỆM CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI 1.1.1. Vị trí của Cơ quan điều tra hình sự quân đội Cơ quan điều tra hình sự quân đội - Công an Quân pháp, được thành lập theo Sắc lệnh số 258/SL ngày 19/11/1948 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Công an Quân pháp thuộc Quân pháp cục (là cục chuyên môn của Bộ Quốc phòng) và được tổ chức từ cấp trung ương đến cấp liên khu, đại đoàn. Sau đó, cùng với sự phát triển của quân đội và yêu cầu tăng cường pháp chế, nghiêm chỉnh thi hành pháp luật trong quân đội, hệ thống tổ chức Công an Quân pháp được tổ chức ở Bộ Quốc phòng (Cục Quân pháp) và các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng (Phòng hoặc Ban quân pháp)... Sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989 được ban hành, hệ thống Cơ quan điều tra hình sự quân đội gồm có 194 cơ quan, được tổ chức ở ba cấp: cấp thứ nhất là Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; cấp thứ hai là các Cơ quan điều tra hình sự cấp quân khu và tương đương; cấp thứ ba là các Cơ quan điều tra hình sự ở các binh chủng, bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và tương đương. Từ năm 2003 đến nay, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Cơ quan điều tra hình sự quân đội thuộc hệ thống cơ quan điều tra, là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, bộ máy tổ chức vẫn được phân chia thành ba cấp điều tra. Nhưng ở cấp thứ ba có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, tên gọi và thẩm quyền, cụ thể: các Cơ quan điều tra hình sự (Ban điều tra hình sự) ở các binh chủng, bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và tương đương bị giải thể để thành lập các Cơ quan điều tra hình sự khu vực trực thuộc cấp thứ hai. Về thẩm quyền, Cơ
  • 11. 10 quan điều tra hình sự quân đội được tiến hành điều tra những vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXIII của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương). Tóm lại: lịch sử hình thành, phát triển của Cơ quan điều tra hình sự quân đội gắn liền với sự phát triển của quân đội. Trong quân đội, Cơ quan điều tra hình sự luôn được tổ chức thành một hệ thống độc lập theo đơn vị hành chính quân đội; Cơ quan điều tra hình sự quân đội là lực lượng điều tra riêng biệt, có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thuộc thẩm quyền, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có vị trí đặc biệt quan trọng. Mặc dù, Cơ quan điều tra hình sự quân đội không có quyền quyết định một người có tội hay không, nhưng những tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra hình sự quân đội cung cấp sẽ là cơ sở cho quyết định truy tố của Viện kiểm sát quân sự và các phán quyết của Tòa án quân sự. Bởi vì, thực chất hoạt động điều tra là quá trình tìm kiếm, thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, các quyết định của Viện kiểm sát quân sự và của Tòa án quân sự phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và kết quả quá trình điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Giai đoạn điều tra nhanh chóng, chính xác thì việc truy tố và xét xử mới nhanh chóng và có chất lượng. Ngược lại, hoạt động điều tra kéo dài, kết quả điều tra không chính xác sẽ dẫn đến những hậu quả bất lợi cho xã hội, cho tổ chức, cho công dân và quân nhân, như: gây oan sai; công lý không được thực thi, dư luận xã hội sẽ bức xúc. Theo PGS, TS Trần Đình Nhã thì: Điều tra là khâu đột phá, là giai đoạn đầu giữ vai trò thành bại đối với cả tiến trình tố tụng hình sự. Những kết quả khả quan cũng
  • 12. 11 như những sai lầm tư pháp nghiêm trọng nhất như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội… thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra. Vị trí quan trọng của giai đoạn điều tra đối với công tác xét xử không chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà Cơ quan điều tra có thể cung cấp cho Tòa án, mà thậm chí nhiều trường hợp, sự nhận định đánh giá tội phạm của cơ quan điều tra và của Viện Kiểm sát còn quy định giới hạn việc xét xử [34]. Có thể thấy, hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội là không thể thiếu được trong tố tụng hình sự. Tòa án quân sự muốn xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì trước đó, Cơ quan điều tra hình sự quân đội phải thu thập đầy đủ chứng cứ xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và những chứng cứ xác định những tình tiết khác của vụ án hình sự. Từ những vấn đề nêu trên có thể khẳng định: Cơ quan điều tra hình sự quân đội có vị trí quan trọng, không thể thiếu được đối với quân đội và trong tố tụng hình sự. 1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cơ quan điều tra hình sự quân đội Cơ quan điều tra hình sự quân đội có hai chức năng: Thứ nhất, thực hiện chức năng cơ bản là điều tra theo tố tụng hình sự đối với những vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXIII của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương); thứ hai, tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội về công tác đấu tranh phòng ngừa và chống vi phạm, tội phạm. Trong phạm vi chức năng của mình, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
  • 13. 12 chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của quân nhân, công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng và của các công dân khác. Cơ quan điều tra hình sự quân đội thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công tác sau đây [4]: - Tiến hành điều tra những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Phối hợp với các cơ quan tư pháp trong và ngoài quân đội, các cơ quan, tổ chức khác trong đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự; chỉ đạo và kiểm tra mọi hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc quyền. - Quản lý tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự thuộc thẩm quyền xảy ra trong quân đội và có liên quan đến quân đội; làm rõ nguyên nhân, điều kiện vi phạm, tội phạm để tham mưu cho Đảng ủy và chỉ huy các đơn vị trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống vi phạm pháp luật, tội phạm hình sự, duy trì kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước. - Quản lý và chỉ huy các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ trực thuộc về công tác quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Bộ Quốc phòng. - Quản lý kho vật chứng và vật chứng của các vụ án hình sự ở giai đoạn điều tra, truy tố do các Cơ quan điều tra trong quân đội và Viện kiểm sát quân sự tiến hành. - Quản lý về tổ chức và nghiệp vụ công tác cảnh vệ tư pháp trong quân đội để làm nhiệm vụ bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại, áp giải bị can, bị cáo, bảo vệ phiên tòa, dẫn giải người làm chứng, bảo vệ các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, hỗ trợ việc thi hành các lệnh bắt, khám xét, quyết định về dân sự và thi hành các bản án hình sự.
  • 14. 13 - Quản lý tổ chức và công tác giám định kỹ thuật hình sự trong quân đội; thực hiện nhiệm vụ Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo 138 Bộ Quốc phòng và các đơn vị. - Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; tiến hành xác minh giải quyết những vụ việc theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Đảng ủy và chỉ huy cấp trực thuộc Bộ Quốc phòng. - Đề xuất các chủ trương, biện pháp kiện toàn tổ chức, biên chế đội ngũ cán bộ và những hoạt động nghiệp vụ của Cơ quan điều tra hình sự cho phù hợp với hệ thống tổ chức, hoạt động của các cơ quan điều tra của Nhà nước và điều kiện của Quân đội. - Thực hiện công tác đảng, công tác chính trị và các nhiệm vụ hành chính quân sự theo chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, chỉ huy đơn vị. - Sơ kết, tổng kết các mặt công tác, nghiên cứu pháp luật, xây dựng và quản lý các đề tài khoa học về đấu tranh chống tội phạm hình sự trong quân đội; xây dựng quy trình kỹ thuật, chiến thuật điều tra từng loại án; tổ chức tập huấn nghiệp vụ để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ ngành. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ điều tra các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có những quyền hạn sau: Thứ nhất, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can: Khi có tố giác, tin báo về tội phạm, Cơ quan điều tra hình sự quân đội tiến hành kiểm tra, xác minh xem tố giác, tin báo đó có hay không dấu hiệu của tội phạm không để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Và khi có đủ chứng cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì ra quyết định khởi tố bị can. Thứ hai, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền điều tra tất cả các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền, được áp dụng các biện pháp điều tra theo
  • 15. 14 quy định của pháp luật để phát hiện và thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm làm rõ tội phạm và người phạm tội, như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai người bị hại, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra… Thứ ba, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự: các biện pháp ngăn chặn; các biện pháp bảo đảm thu thập chứng cứ; các biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự; các biện pháp bảo đảm cho thi hành án; các biện pháp khác… Thứ tư, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, đình chỉ điều tra. Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra Khái niệm về Cơ quan điều tra hình sự quân đội như sau: Cơ quan điều tra hình sự quân đội là cơ quan điều tra được tổ chức trong quân đội nhân dân, là chủ thể tiến hành tố tụng hình sự, có chức năng điều tra đối với những vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXIII của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương) nhằm giải quyết vụ án khách quan, góp phần bảo đảm công lý, trật tự pháp luật và quyền con người trong tố tụng hình sự; duy trì, củng cố kỷ luật và bảo vệ sức mạnh chiến đấu của quân đội. 1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ TRONG QUÂN ĐỘI Quân đội nhân dân Việt Nam mà tiền thân là Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1945. Hơn 66 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được nhân dân hết lòng tin yêu, đùm bọc và giúp đỡ, Quân đội nhân dân Việt nam đã không ngừng trưởng thành, lớn
  • 16. 15 mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, lập nên những chiến công oanh liệt. Từ thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tiếp đó, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong cuộc kháng chiến thần thánh 30 năm, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội lại cùng với nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội vẫn kế tiếp nhau phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu, một đội quân công tác, một đội quân sản xuất. Thực hiện chức năng là đội quân công tác, Quân đội luôn giữ mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Các đơn vị tích cực thực hiện công tác dân vận; tham gia xóa đói, giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân. Nhiều đơn vị đã đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa; tham gia công tác cứu hộ và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống lụt bão. Thực hiện chức năng là đội quân sản xuất, Quân đội đã tận dụng mọi tiềm năng lao động, đất đai, kỹ thuật... để đẩy mạnh tăng gia sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống cho bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp của quân đội đã sản xuất được các loại vũ khí, khí tài phù hợp với yêu cầu tác chiến hiện đại, đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh tế của quân đội đã trở thành các tổ chức kinh tế lớn của đất nước, đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước. Thực hiện chức năng cơ bản là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia của đất nước. Quân đội ta được tổ chức theo hướng tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí, khí tài hiện đại cần thiết, thực hiện huấn luyện thường xuyên, sẵn sàng hoàn
  • 17. 16 thành mọi nhiệm vụ được giao. Hiện nay, Quân đội có lực lượng thường trực gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương với tổng quân số khoảng 450.000 người và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người. Bộ đội chủ lực là thành phần nồng cốt của Quân đội gồm lực lượng cơ động của các quân đoàn, quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực của quân khu và bộ đội chuyên môn kỹ thuật. Bên cạnh các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, còn có hệ thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện nghiên cứu, các nhà trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp. Cụ thể, về thành phần của Quân đội như sau: Lục quân Việt Nam không tổ chức thành bộ tư lệnh riêng mà đặt dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị; sự chỉ đạo chuyên ngành của các tổng cục và cơ quan chức năng khác. Lục quân được trang bị theo hướng hiện đại, gọn nhẹ, có khả năng cơ động cao, có sức đột kích và hỏa lực mạnh, có khả năng tác chiến trong các điều kiện địa hình, thời tiết, khí hậu, phù hợp với nghệ thuật chiến tranh nhân dân hiện đại. Lục quân có 07 Quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9 và Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; 06 Binh chủng: Pháo binh, Tăng - Thiết giáp, Công binh, Thông tin, Hóa học, Đặc công; 04 quân đoàn 1, 2, 3, 4. Các quân khu được tổ chức trên các hướng chiến lược và theo địa bàn. Quân đoàn là đơn vị cơ động lớn nhất của Lục quân, được bố trí để bảo vệ các địa bàn chiến lược trọng yếu của quốc gia. Các binh chủng tham gia tác chiến hợp đồng quân binh chủng theo phân công, đồng thời thực hiện chức năng bảo đảm kỹ thuật và huấn luyện, đào tạo sĩ quan, nhân viên kỹ thuật theo các chuyên ngành cho toàn quân. Quân chủng Phòng không - Không quân đảm nhiệm cả nhiệm vụ của bộ đội phòng không quốc gia và của không quân, là lượng lực nòng cốt quản lý, bảo vệ vùng trời, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm quốc gia. Quân chủng Hải quân là lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Bộ đội Biên phòng là một thành phần của Quân đội, có vị trí như một quân chủng thực hiện chức năng quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển và các cửa
  • 18. 17 khẩu theo quy định của pháp luật và là lực lượng trong các khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới. Bộ đội địa phương là lực lượng cơ động tác chiến chủ yếu trên địa bàn địa phương, hoạt động chiến đấu trong thế trận phòng thủ chung của quân khu. Lực lượng dự bị động viên là một thành phần của Quân đội, được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, sẵn sàng tham gia lực lượng thường trực khi có yêu cầu. Lực lượng dự bị động viên bao gồm quân dự bị và phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, đã được lựa chọn và sắp xếp trong kế hoạch sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội. Các học viện, nhà trường và viện nghiên cứu là các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, kỹ thuật quân sự. Các đơn vị kinh tế - quốc phòng là lực lượng đi đầu trong kết hợp kinh tế với quốc phòng. Quân đội nhân dân Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Bởi vì, Quân đội chính là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng nòng cốt bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ công cuộc xây dựng đất nước. Trong kháng chiến, Quân đội đã cùng với toàn dân đánh đuổi đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước. Thời kỳ hòa bình, Quân đội là lực lượng nòng cốt trong thực hiện chức năng đối ngoại của Nhà nước, đảm bảo giữ vững hòa bình, ổn định đất nước, ngăn chặn các hoạt động phá hoại, gây chiến, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô. Do vậy, bảo vệ sức mạnh của quân đội, để đảm bảo cho quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống luôn được Đảng, Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng yếu. Vì thế, bên cạnh nhiệm vụ kiện toàn về tổ chức biên chế, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thường xuyên làm tốt công tác huấn luyện, trang bị đủ vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự cho quân đội. Thì công tác đấu tranh phòng ngừa và chống những hành vi xâm hại đến sức mạnh quân đội bao gồm lực lượng, con người, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, tính tổ chức và kỷ luật luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Để thực hiện được nhiệm vụ đó và với tính chất đặc thù của hoạt động quân sự, trong quân đội cần phải tổ chức hệ thống cơ quan bảo
  • 19. 18 vệ pháp luật riêng biệt, thực hiện chức năng nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy, người chỉ huy các cấp về công tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh những tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội xâm hại đến sức mạnh của quân đội. Trong thực tiễn, ngay khi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, các hoạt động phòng ngừa tội phạm, giữ gìn và phát huy bản chất tốt đẹp của quân đội đã được tiến hành. Chính phủ đã ban hành các Sắc lệnh thành lập, củng cố về cơ cấu tổ chức và quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong quân đội. Cơ quan điều tra hình sự quân đội - Công an Quân pháp được thành lập ngày 19/11/1948 theo Sắc lệnh 258/SL, có nhiệm vụ truy tầm tất cả các vụ phạm pháp và thu thập tài liệu, bắt giữ người phạm pháp thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án binh. Ngay từ khi mới thành lập, mặc dù còn có nhiều khó khăn, nhưng công tác điều tra, đấu tranh phòng chống những hành vi vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước đã được tiến hành với ý thức trách nhiệm cao, đúng đường lối quan điểm của Đảng, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, Công an Quân pháp đã tích cực hoạt động điều tra khám phá, làm rõ, kết luận nhanh chóng, kịp thời rất nhiều vụ việc, vụ án thuộc thẩm quyền, trong đó có nhiều vụ án lớn, phức tạp, nghiêm trọng. Điển hình là vụ H.122; vụ Trần Dụ Châu, giám đốc Nha Quân nhu phạm tội tham ô… Trực tiếp tham gia chiến đấu tiêu diệt địch, điển hình là Trại K50 thuộc Ban Quân pháp Miền đóng tại Tây Ninh. Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Công an Quân pháp đã hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt là tổ chức chỉ đạo công tác kiểm soát quân sự, đảm bảo trật tự trị an cho các thành phố, thị xã mới giải phóng; quản lý giáo dục cải tạo hàng vạn tù binh quân đội Sài gòn; rà soát hàng nghìn đối tượng thuộc chuyên án H.66; giải quyết có hiệu quả một số vụ gây rối ở Ninh Bình, Hà Bắc, Hà Nội, Việt Trì, Đồng Nai… Đến năm 1981, Công an Quân pháp được đổi tên thành Cơ quan điều tra hình sự quân đội.
  • 20. 19 Hiện nay, hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của Cơ quan điều tra hình sự quân đội được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trung bình mỗi năm, Cơ quan điều tra hình sự quân đội đã phát hiện, thống kê, phân loại và xử lý hàng nghìn vụ việc, trong đó có 30% đến 40% số vụ phạm pháp, phạm tội phải xử lý bằng hình sự. Trải qua hơn 63 năm, được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, của Đảng ủy và chỉ huy các cấp, sự giúp đỡ của các cơ quan hữu quan, cơ quan tư pháp trong - ngoài quân đội và lực lượng Công an nhân dân. Các thế hệ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ của Cơ quan điều tra hình sự quân đội đã không ngừng phấn đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Luôn gắn nghiệp vụ điều tra hình sự với nhiệm vụ chính trị, quân sự của quân đội trong từng thời kỳ, lấy mục tiêu nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân đội và của lực lượng vũ trang nhân dân làm nhiệm vụ chính trị của mình. Có thể khẳng định, ở đâu có hoạt động của quân đội ta ở đó có công tác điều tra hình sự. Cơ quan điều tra hình sự quân đội có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của quân đội, như lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Từ khi ra đời, các thế hệ Công an quân pháp - Điều tra hình sự đã vượt quan mọi khó khăn, thực hiện tốt các nhiệm vụ: điều tra, quản lý cải tạo phạm nhân, kiểm soát quân sự… Thành tích đó đã góp phần giáo dục ý thức pháp luật, giữ gìn kỷ cương phép nước và tăng cường kỷ luật quân đội, ngăn chặn mọi hành vi phạm pháp, giữ vững và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. 1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI VỚI CÁC CƠ QUAN KHÁC Theo triết học Mác - Lênin, các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời
  • 21. 20 nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ một không gian nào và ở bất kỳ một thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, yếu tố khác. Sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu… Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan trong và ngoài quân đội là yêu cầu tất yếu khách quan. Bởi vì: hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra nói chung, Cơ quan điều tra hình sự quân đội nói riêng là dạng hoạt động nhận thức nhằm tái tạo lại sự kiện phạm tội đã xảy ra để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết khác của vụ án hình sự. Đây là hoạt động phức tạp, đa dạng, nhiều chiều, liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị, lực lượng khác nhau. Hơn nữa, hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội mang tính đặc thù do hệ thống tổ chức theo đơn vị hành chính quân đội. Do đó, các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội luôn hết sức chú trọng và xác định phải giải quyết tốt các mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong quân đội; với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng cảnh sát nhân dân - Bộ Công an; với lãnh đạo và chỉ huy đơn vị các cấp; giữa cấp trên và cấp dưới. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để tạo lực lượng và sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho Cơ quan điều tra hình sự quân đội hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực tiễn đã chứng minh, nơi nào không giải quyết tốt các mối quan hệ thì ở đó công tác điều tra hình sự không hoàn thành nhiệm vụ.
  • 22. 21 Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan trong và ngoài quân đội bao gồm quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước. Quan hệ phối hợp được hiểu là mỗi cơ quan thực hiện nghiêm chỉnh chức năng, nhiệm vụ của mình để đảm bảo sự thống nhất, nhịp nhàng cho toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Với ý nghĩa này thì sự phối hợp là yếu tố thường xuyên không thể thiếu được trong hoạt động tố tụng hình sự. Quan hệ chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự không phải là quan hệ quyền uy, mệnh lệnh, phục tùng. Tức là, quan hệ giữa các cơ quan này không phải là quan hệ chấp hành và điều hành. Vì, khi thực hiện tố tụng hình sự, yêu cầu đặt ra cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là phải tuyệt đối tuân thủ các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Nếu vi phạm thì hoạt động tố tụng hình sự bị coi là bất hợp pháp. Hậu quả của nó không chỉ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, giải quyết vụ án sai lệch với sự thật khách quan. Chế ước là sự cần thiết để mỗi cơ quan độc lập trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật của cơ quan khác, để có biện pháp ngăn chặn, khắc phục, sửa chữa kịp thời. 1.3.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong quân đội 1.3.1.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát quân sự Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát quân sự xuất hiện khi một trong hai cơ quan nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội, mối quan hệ này là quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước. Nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật. Mối quan hệ giữa
  • 23. 22 Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát quân sự có những đặc điểm chung và đặc điểm riêng đặc thù: a) Đặc điểm chung Thứ nhất, Cơ quan điều tra hình sự quân đội và Viện kiểm sát quân sự phối hợp với nhau trong khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, đảm bảo việc khởi tố là có căn cứ pháp luật. Cơ quan điều tra hình sự quân đội và Viện kiểm sát quân sự cùng có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân đội do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát quân sự có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Trong thời hạn hai mươi ngày (trường hợp đặc biệt là hai tháng), kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra hình sự quân đội phải tổ chức kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, mà có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn tội phạm khác, Cơ quan điều tra hình sự quân đội ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra các quyết định trên, Cơ quan điều tra hình sự phải gửi cho Viện kiểm sát quân sự cùng cấp để kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự. Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra hình sự quân đội ra quyết định khởi tố bị can. Khi có căn cứ hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác, Cơ quan điều tra hình sự quân đội ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra các quyết định trên, Cơ quan điều tra hình sự phải gửi cho Viện kiểm sát quân sự cùng cấp để phê chuẩn việc khởi tố. Trong thời hạn ba ngày,
  • 24. 23 kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát quân sự phải quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho Cơ quan điều tra hình sự. Viện kiểm sát quân sự chỉ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Tòa án quân sự yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và sau khi đã hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Viện kiểm sát quân sự chỉ ra quyết định khởi tố bị can khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố. Trong trường hợp, Viện kiểm sát quân sự phát hiện có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Viện kiểm sát quân sự có thể tự mình ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi Viện kiểm sát quân sự ra quyết định khởi tố hoặc quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố, Viện kiểm sát quân sự phải gửi cho Cơ quan điều tra hình sự cùng cấp để tiến hành điều tra. Thứ hai, Viện kiểm sát quân sự chế ước các hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội trong giai đoạn điều tra, đảm bảo hoạt động điều tra được tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việc thực hiện đồng thời chức năng công tố và chức năng kiểm sát điều tra làm cho Viện kiểm sát quân sự không còn là cơ quan giữ vị trí thứ yếu, thụ động trong hoạt động điều tra bên cạnh Cơ quan điều tra hình sự quân đội, mà đã trở thành cơ quan chịu trách nhiệm chính về tính hợp pháp, hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động điều tra. Cơ quan điều tra hình sự quân đội một mặt vẫn thực hiện theo thẩm quyền liên quan đến hoạt động điều tra, mặt khác chịu sự chế ước của Viện kiểm sát quân sự đối với toàn bộ hoạt động điều tra: Viện kiểm sát quân sự đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra hình sự quân đội tiến hành điều tra. Những yêu cầu điều tra của
  • 25. 24 Viện kiểm sát quân sự có hướng thu thập chứng cứ và biện pháp cần được áp dụng trong quá trình điều tra; Viện kiểm sát quân sự có thể có mặt trong các hoạt động điều tra mà Cơ quan điều tra hình sự quân đội tiến hành. Trong một số hoạt động điều tra, sự có mặt của Kiểm sát viên - Viện kiểm sát quân sự là bắt buộc: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra...; toàn bộ các văn bản quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hình sự quân đội đều phải được gửi cho Viện kiểm sát quân sự theo hạn định để Viện kiểm sát quân sự kiểm sát các hoạt động điều tra hoặc phê chuẩn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Thứ ba, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có trách nhiệm đảm bảo cho Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Viện kiểm sát quân sự có đủ cơ sở pháp lý để chế ước Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát quân sự, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra hình sự quân đội cũng có quyền đề nghị Viện kiểm sát quân sự thực hiện đúng chức trách của mình, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật do những người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát quân sự gây nên: Đối với những yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát quân sự (Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra hình sự; yêu cầu Cơ quan điều tra hình sự truy nã bị can. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án), nếu không nhất trí, Cơ quan điều tra hình sự quân đội vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp và trong thời hạn 20 ngày, Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp phải xem
  • 26. 25 xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho Cơ quan điều tra hình sự đã kiến nghị. Đối với những quyết định, yêu cầu còn lại của Viện kiểm sát quân sự mà Cơ quan điều tra hình sự quân đội phải thực hiện, nếu có căn cứ cho rằng quyết định, yêu cầu đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác thì Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền khiếu nại và Viện kiểm sát quân sự có trách nhiệm giải quyết theo thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; Khi có căn cứ cho rằng Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên có thể không đảm bảo vô tư trong khi thực hành công cụ kiểm sát. Cơ quan điều tra hình sự quân đội có quyền kiến nghị Viện kiểm sát quân sự cùng cấp hoặc Viện kiểm sát quân sự cấp trên thay đổi người tiến hành tố tụng; Trong trường hợp Cơ quan điều tra hình sự quân đội không đồng ý và không thực hiện những yêu cầu đặt ra trong yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát quân sự, thì Cơ quan điều tra hình sự quân đội phải nêu rõ lý do trong Bản kết luận điều tra, tại sao không thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát quân sự. b) Đặc điểm riêng đặc thù Do bộ máy tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo đơn vị hành chính quân đội, trong khi bộ máy tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự theo khu vực địa giới hành chính nhà nước (Ví dụ: Viện kiểm sát quân sự khu vực 33 thuộc Quân khu 3, thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều tra hoạt động của các cơ quan điều tra hình sự khu vực trên địa bàn 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên). Nên mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Viện kiểm sát quân sự, có những đặc điểm riêng đặc thù: một Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội có mối quan hệ với nhiều Viện kiểm sát quân sự cùng cấp và ngược lại một Viện kiểm sát quân sự có mối quan hệ với nhiều Cơ quan điều tra hình sự cùng cấp. Thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội vừa theo nguyên tắc địa bàn, lãnh thổ và vừa theo đơn vị hành chính quân đội.
  • 27. 26 Trong khi đó, thẩm quyền thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra của Viện kiểm sát quân sự là theo nguyên tắc địa bàn, lãnh thổ. Do đó, trong thực tế xảy ra việc một Cơ quan điều tra hình sự có mối quan hệ với nhiều Viện kiểm sát quân sự cùng cấp và ngược lại một Viện kiểm sát quân sự có mối quan hệ với nhiều cơ quan điều tra hình sự cùng cấp. Ví dụ thứ nhất, một Cơ quan điều tra hình sự có mối quan hệ với nhiều Viện kiểm sát quân sự cùng cấp: Cơ quan điều tra hình sự khu vực Binh chủng Công Binh có thể có quan hệ với tất cả các cơ quan Viện kiểm sát quân sự khu vực của Quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9 và Thủ đô Hà Nội, khi quân nhân thuộc Binh chủng Công Binh phạm tội trên địa bàn thuộc một trong các Viện kiểm sát quân sự khu vực trên quản lý. Ví dụ thứ hai, một Viện kiểm sát quân sự có mối quan hệ với nhiều Cơ quan điều tra hình sự cùng cấp: Viện kiểm sát quân sự khu vực 33 Quân khu 3 (quản lý địa bàn hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên) sẽ có quan hệ với các Cơ quan điều tra hình sự khu vực của các tổng cục, quân khu, binh chủng, binh đoàn, quân đoàn… khi quân nhân thuộc các tổng cục, quân khu (kể cả quân khu 3), binh chủng, binh đoàn, quân đoàn phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương hoặc Hưng Yên. 1.3.1.2. Mối quan hệ của Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Tòa án quân sự Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Tòa án quân sự là quan hệ phối hợp, có thể ở ngay giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, trong trường hợp xảy ra những vụ trọng án, phức tạp hoặc có khó khăn khi xác định tội danh cần phải thống nhất giữa ba ngành: điều tra hình sự, Viện kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự; phối hợp khi Tòa án quân sự trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc hủy bản án để điều tra lại, Cơ quan điều tra hình sự quân đội trao đổi với Tòa án quân sự làm rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung hoặc cần điều tra lại; Phối hợp khi Tòa án quân sự triệu tập những người
  • 28. 27 tham gia tố tụng là quân nhân các đơn vị do Cơ quan điều tra hình sự quân đội quản lý, phục vụ cho công tác xét xử vụ án hình sự. Ngoài ra, mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Tòa án quân sự còn có đặc điểm riêng đặc thù, đó là một Cơ quan điều tra hình sự có mối quan hệ với nhiều Tòa án quân sự cùng cấp và ngược lại một Tòa án quân sự có mối quan hệ với nhiều Cơ quan điều tra hình sự cùng cấp. Do bộ máy tổ chức và hoạt động của Tòa án quân sự theo khu vực địa giới hành chính nhà nước như Viện kiểm sát quân sự. 1.3.2. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lƣợng Cảnh sát nhân dân Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân là quan hệ phối hợp, hỗ trợ, hiệp đồng theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định. Đây là hoạt động phổ biến, tất yếu khách quan, do đòi hỏi từ chính những quy định của pháp luật và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. a) Sự cần thiết của quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân Sự phối hợp của Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân với Cơ quan điều tra hình sự quân đội luôn có vị trí đặc biệt, vai trò to lớn đối với hoạt động điều tra giải quyết các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra hình sự quân đội. Có rất nhiều vụ án cần đến sự phối hợp từ Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân: những vụ án xảy ra ngoài doanh trại; những vụ án xảy ra trong doanh trại nhưng đối tượng là dân sự hoặc do quân nhân trong đơn vị câu kết với các đối tượng dân sự thực hiện; việc truy bắt
  • 29. 28 đối tượng phạm tội, truy tìm tang vật, vật chứng… Cơ quan điều tra hình sự quân đội không thể hoặc khó có khả năng, điều kiện để thực hiện hoặc điều tra làm rõ. Lý do là phải thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; số lượng cán bộ điều tra trong các Cơ quan điều tra hình sự ít, trong khi đó địa bàn điều tra rộng và không có các lực lượng nghiệp vụ. Ví dụ thứ nhất, trong vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội không thể khám nghiệm hiện trường nếu không có lực lượng Cảnh sát giao thông điều chỉnh giao thông; đa số các vụ khám nghiệm tử thi là do lực lượng kỹ thuật hình sự Công an các địa phương thực hiện để đáp ứng với yêu cầu điều tra; vấn đề truy bắt phương tiện tham gia tai nạn giao thông bỏ chạy, cần phải có sự tham gia của nhiều lực lượng trong công an nhân dân và trên một địa bàn rộng lớn. Ví dụ thứ hai, Vụ giết người, cướp tài sản xảy ra ngày 28/11/2008 tại phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Ngày 05/12/2008, nhân dân phát hiện xác chị Nguyễn Thị Vân nhân viên của d883, e131, Quân chủng H (đóng quân phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng) bị vùi lấp bởi rác thải khu vực gần đơn vị đóng quân. Cơ quan điều tra hình sự Quân chủng H và Công an Hải phòng đã thành lập ban chuyên án, xác định nhiệm vụ của Cơ quan điều tra hình sự Quân chủng H tiến hành các hoạt động điều tra ở trong doanh trại; lực lượng Công an Hải phòng tiến hành các hoạt động điều tra ở ngoài doanh trại: làm rõ mối quan hệ bên ngoài của chị Vân và gia đình; truy tìm tài sản của chị Vân đã mất, đặc biệt là chiếc xe mô tô… qua rà soát các cửa hàng xe máy, hiệu cầm đồ lực lượng Cảnh sát đã xác định được đối tượng mang chiếc xe mô tô của chị Vân đi cầm đồ, từ đó các cơ quan đã tìm ra thủ phạm là quân nhân cùng đơn vị với chị Vân. b) Cơ sở pháp lý của quan hệ phối hợp Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân
  • 30. 29 là quan hệ pháp luật giữa các chủ thể tham gia hoạt động điều tra tội phạm. Vì thế, sự phân công trách nhiệm, phối hợp trong hoạt động điều tra tội phạm liên quan đến quân đội giữa hai lực lượng phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Cơ sở pháp lý của quan hệ phối hợp được quy định trong Hiến pháp, hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và các quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cơ quan, cụ thể: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004; Nghị định số 77/2010/NĐ-CP ngày 12/07/2010 của Chính phủ "Về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng"; Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BQP-BCA ngày 20/10/2008 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an "Về quan hệ phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội và ngoài quân đội"... c) Nguyên tắc phối hợp Là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về tổ chức phối hợp điều tra giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân, bảo đảm theo mục đích, nhiệm vụ của hoạt động điều tra, để làm rõ sự thật vụ án. Theo đó, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan này phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau: * Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa Bảo đảm cho Cơ quan điều tra hình sự quân đội và Cơ quan Cảnh sát điều tra, các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong quá trình phối hợp điều tra vụ án hình sự liên quan đến quân đội. * Nguyên tắc bảo đảm tính độc lập Đảm bảo tính độc lập về chức năng, nhiệm vụ trong quan hệ phối hợp điều tra giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra
  • 31. 30 và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân, đòi hỏi khi thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ phối hợp điều tra, từng cơ quan được tiến hành nhiệm vụ theo các biện pháp riêng của mình, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó. Nguyên tắc độc lập trong quan hệ phối hợp còn đòi hỏi khi phân công hoặc yêu cầu phối hợp phải trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan. * Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất về mục đích Mục đích của hoạt động điều tra tội phạm là phát hiện kịp thời tội phạm, làm rõ toàn bộ sự thật của vụ án. Quan hệ phối hợp điều tra giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Cơ quan Cảnh sát điều tra và các cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân phải hướng tới mục đích đó. Tính thống nhất về mục đích trong quan hệ phối hợp điều tra tội phạm liên quan đến quân đội phải được quán triệt và nhận thức đầy đủ đối với từng cơ quan, cán bộ tham gia phối hợp. 1.3.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Đảng ủy, ngƣời chỉ huy các cấp trong quân đội Được quy định trong Quy chế hoạt động của Ngành điều tra hình sự quân đội, ban hành theo Quyết định số 47/2006/QĐ-BQP ngày 16/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Cụ thể như sau: a) Quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Đảng ủy * Cơ quan điều tra hình sự các cấp chịu sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng ủy cấp mình theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. - Cục Điều tra hình sự chịu sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Quân ủy Trung ương. - Phòng điều tra hình sự, Cơ quan điều tra hình sự khu vực thuộc Bộ Tổng tham mưu; các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng; Bộ đội Biên phòng; Binh đoàn 12, Binh đoàn 15, Binh đoàn 16 (sau đây gọi
  • 32. 31 chung là quân khu và cấp tương đương) chịu sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng ủy quân khu và cấp tương đương. * Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự quân đội với Đảng ủy - Cơ quan điều tra hình sự chịu sự lãnh đạo của Đảng ủy cấp mình trong việc quán triệt, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. - Chủ động báo cáo xin ý kiến chủ trương lãnh đạo của Đảng ủy đối với các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp và chấp hành nghiêm các nghị quyết của Đảng ủy. Khi Đảng ủy cho chủ trương giải quyết các vụ việc mà Cơ quan điều tra hình sự chưa thấy phù hợp với pháp luật, thì phải báo cáo lại với Đảng ủy, nếu không thống nhất thì tiếp tục báo cáo lên Cơ quan điều tra hình sự cấp trên để giải quyết. b) Quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với người chỉ huy * Quan hệ giữa Cơ quan điều tra hình sự quân đội với người chỉ huy trực tiếp. - Cục Điều tra hình sự thuộc quyền chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. - Phòng điều tra hình sự quân khu và cấp tương đương thuộc quyền chỉ huy, quản lý trực tiếp của Tư lệnh quân khu và cấp tương đương. - Cơ quan điều tra hình sự khu vực quân khu và cấp tương đương thuộc quyền chỉ huy, quản lý trực tiếp của Trưởng phòng điều tra hình sự quân khu và cấp tương đương; chịu sự quản lý về hành chính, quân sự của người chỉ huy đơn vị nơi đặt trụ sở. * Trách nhiệm của người chỉ huy đơn vị với Cơ quan điều tra hình sự quân đội. - Trách nhiệm của người chỉ huy, quản lý trực tiếp: Chỉ đạo Cơ quan điều tra hình sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật;
  • 33. 32 phân công Cơ quan điều tra hình sự thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan điều tra hình sự; Cho ý kiến chỉ đạo giải quyết đối với những vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, có ảnh hưởng đến Đảng, Nhà nước, Quân đội theo đề nghị của Cơ quan điều tra hình sự. Những nội dung mang tính chất chuyên môn nghiệp vụ thì Cơ quan điều tra hình sự thực hiện theo quy định của pháp luật; Xây dựng Cơ quan điều tra hình sự vững mạnh về mọi mặt, tạo điều kiện thuận lợi để Cơ quan điều tra hình sự hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; Phối hợp với Cơ quan điều tra hình sự cấp trên để tuyển chọn, đào tạo, quản lý, sử dụng và bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ điều tra; Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, cá nhân thuộc quyền kịp thời thông báo tình hình vi phạm, tội phạm cho Cơ quan điều tra hình sự và tổ chức thực hiện các quyết định của Cơ quan điều tra hình sự. - Trách nhiệm của người chỉ huy đơn vị nơi đặt trụ sở của Cơ quan điều tra hình sự khu vực: Thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính quân sự đối với Cơ quan điều tra hình sự; Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, cá nhân thuộc quyền kịp thời thông báo tình hình vi phạm, tội phạm cho Cơ quan điều tra hình sự; Đảm bảo vật chất, tinh thần cho Cơ quan điều tra hình sự như đối với đơn vị khác thuộc quyền. Tạo điều kiện thuận lợi để Cơ quan điều tra hình sự hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. - Trách nhiệm của người chỉ huy đóng quân trên địa bàn: Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, cá nhân thuộc quyền kịp thời thông báo tình hình vi phạm, tội phạm cho Cơ quan điều tra hình sự; Tạo điều kiện thuận lợi để Cơ quan điều tra hình sự hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. * Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự quân đội với người chỉ huy - Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự với người chỉ huy, quản lý trực tiếp: Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và Quy chế hoạt động của Ngành điều tra hình sự quân đội; kịp thời xin ý
  • 34. 33 kiến giải quyết đối với những vụ án, vụ việc nghiêm trọng phức tạp, có ảnh hưởng đến Đảng, Nhà nước, Quân đội. Thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh của người chỉ huy trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng đơn vị. Nếu có ý kiến không thống nhất thì báo cáo lên Cơ quan điều tra hình sự cấp trên để giải quyết. - Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự khu vực với người chỉ huy đơn vị nơi đặt trụ sở: Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và Quy chế của Ngành điều tra hình sự quân đội Thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh của người chỉ huy trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng đơn vị; định kỳ hoặc đột xuất phản ảnh với người chỉ huy về tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm xảy ra trong các cơ quan đơn vị thuộc quyền, đồng thời kiến nghị với người chỉ huy các biện pháp khắc phục và phòng ngừa. - Trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự khu vực với người chỉ huy đơn vị đóng quân trên địa bàn: Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và Quy chế của Ngành điều tra hình sự quân đội; định kỳ hoặc đột xuất phản ảnh với người chỉ huy về tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm xảy ra trong các cơ quan đơn vị thuộc quyền, đồng thời kiến nghị với người chỉ huy các biện pháp khắc phục và phòng ngừa. 1.4. SƠ LƢỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhằm bảo vệ chính quyền, trừng trị kịp thời những phần tử phản cách mạng ngoan cố chống lại nhân dân, đồng thời giáo dục, răn đe những người có hành vi vi phạm chủ trương chính sách của Chính phủ, ngày 13/09/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra Sắc lệnh số 13C/SL thành lập các Tòa án quân sự trong phạm vi cả nước, để xử lý những người vi phạm các quy định của Chính phủ lâm thời.
  • 35. 34 Ngày 25/03/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34-NV tổ chức Bộ Quốc phòng, cơ cấu tổ chức gồm có văn phòng, các cục chuyên môn, trong đó có Quân pháp Cục. Điều 14 của Sắc lệnh quy định Quân pháp Cục có nhiệm vụ tổ chức các Tòa án binh và các Tòa án quân sự. Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 23/08/1946 Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng đã ký Sắc lệnh số 163/SL lập một Tòa án binh lâm thời, trụ sở đặt tại Hà Nội, có thẩm quyền xét xử: các nhân viên phạm pháp bất cứ về tội gì trừ những tội vi cảnh thuộc thẩm quyền của các tòa án tư pháp và các thường tội thuộc quyền nghị phạt của các cấp chỉ huy quân đội; những nhân viên các ngành chuyên môn trong quân đội, những người làm việc cho quân đội như công nhân, chủ thầu khi phạm pháp liên can đến quân đội; những người thuộc bất cứ hạng nào mà phạm pháp ở trong các đồn trại, quân y viện, nhà đề lao binh hoặc một cơ quan nào của quân đội hoặc phạm pháp làm thiệt hại đến quân đội. Đến ngày 16/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 19/SL về việc tổ chức các Tòa án binh trên toàn cõi Việt Nam. Nhằm đề cao kỷ luật, phát huy bản chất truyền thống và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội cách mạng, đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến đấu trong giai đoạn mới của sự nghiệp kháng chiến, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ngày 19/11/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 258/SL tổ chức Công an Quân pháp trong thời kỳ kháng chiến. Công an Quân pháp có nhiệm vụ: Truy tầm tất cả các việc phạm pháp, thuộc thẩm quyền Tòa án binh, thu thập các tài liệu và bắt giam những người phạm pháp để giao cho Tòa án binh xét xử; thi hành các mệnh lệnh cùng bản án của Tòa án binh. Do yêu cầu của công tác điều tra chống tội phạm trong quân đội, ngày 20/7/1950 Cục Quân pháp - Bảo vệ được thành lập. Hệ thống Cơ quan Quân pháp - Bảo vệ được tổ chức đến liên khu và đại đoàn, đảm nhận nhiệm vụ của Quân pháp, Bảo vệ an ninh trong quân đội và Tòa án binh. Những vụ án về an ninh do lực lượng bảo vệ phụ trách, những vụ án khác do lực lượng quân
  • 36. 35 pháp đảm nhiệm. Cuối năm 1955, do yêu cầu của công tác bảo vệ nội bộ, Quân ủy Trung ương quyết định tách Cục Quân pháp - Bảo vệ thành hai bộ phận, thực hiện các chức năng khác nhau. Bộ phận Quân pháp gồm có Công an Quân pháp và Tòa án binh. Bộ phận Bảo vệ an ninh được giữ nguyên, sau đó thành lập Cục Bảo vệ (tiền thân của Cơ quan điều tra An ninh quân đội). Ngày 12/5/1961, Tổng cục Chính trị ra Thông tư số 06, thông báo quyết định của Trung ương Đảng, Quốc hội, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về việc thành lập hệ thống Viện kiểm sát quân sự trong toàn quân. Theo thông tư số 06, cán bộ cơ quan quân pháp các cấp cùng với các ủy viên công tố của Tòa án binh được điều chuyển về Viện kiểm sát quân sự các cấp. Cơ quan Quân pháp - Bảo vệ từ thời gian này trở đi gọi là cơ quan bảo vệ. Các hoạt động điều tra liên quan đến an ninh chính trị do Cục Bảo vệ đảm nhiệm. Các hoạt động điều tra khác và công tố do Viện kiểm sát quân sự các cấp trực tiếp chỉ đạo. Với quyết định trên, từ năm 1961 nhiệm vụ hoạt động điều tra nằm trong hệ thống Viện kiểm sát quân sự các cấp. Tòa án binh được đổi tên thành Tòa án quân sự. Đến năm 1974, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam đã đến kề ngày thắng lợi. Nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, ngày 16/12/1974, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 205/QP về việc tổ chức lại Ngành Quân pháp, hệ thống tổ chức gồm: Cục Quân pháp trực thuộc Bộ Quốc phòng; các quân khu, quân đoàn, quân binh chủng có phòng quân pháp. Các cơ quan quân pháp có nhiệm vụ chính là điều tra những hành động phạm pháp hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự. Ngày 30/4/1975, Viện kiểm sát quân sự trung ương tổ chức cuộc họp bàn giao công tác điều tra hình sự sang Cục Quân pháp. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng và Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về phương hướng, nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Ngày 08/03/1977, Bộ tổng Tham mưu ra Quyết định số 61/QĐ-TM quy định tổ chức, biên chế hệ thống cơ quan quân pháp các cấp. Theo quyết định này, các Quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9 và Quân
  • 37. 36 khu Thủ Đô; các Tổng cục Hậu cần, Kỹ thuật, Xây dựng kinh tế; các Quân đoàn 1, 2, 3, 4; các Quân chủng Phòng không - Không quân và Hải quân có Phòng quân pháp. Ban quân pháp được tổ chức ở các Cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố và các Binh chủng Công binh, Thông tin. Các binh chủng còn lại, các học viện, nhà trường, một số cục trực thuộc các tổng cục bố trí trợ lý quân pháp. Đến ngày 21/02/1981, Cơ quan Quân pháp được đổi tên thành Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo Quyết định số 50/QĐ-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, Cơ quan điều tra hình sự quân đội có thẩm quyền điều tra các tội phạm được quy định từ Chương II đến Chương XII của Bộ luật hình sự do các đối tượng là quân nhân gây ra. Trường hợp không phải quân nhân gây ra song ảnh hưởng hoặc có liên quan đến quân đội, lực lượng điều tra hình sự quân đội phối hợp với cơ quan điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân tiến hành điều tra. Tháng 02 năm 1986, Nhà nước ban hành Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự, Theo pháp lệnh này, Viện kiểm sát quân sự các cấp có nhiệm vụ tiến hành điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật (trừ các vụ án thuộc Cơ quan An ninh điều tra) và quản lý các trại giam quân sự. Vì vậy, ngày 03/11/1987, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 235/ĐUQSTƯ về việc chuyển giao chức năng và tổ chức của hệ thống cơ quan làm công tác điều tra hình sự, các trại giam quân sự cho Viện Kiểm sát quân sự trung ương đảm nhiệm. Đến ngày 04/04/1989, Hội đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, trong đó quy định tổ chức Cơ quan điều tra trong quân đội. Gồm hai lực lượng là: Cơ quan điều tra hình sự, Cơ quan an ninh điều tra. Để cụ thể hóa quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989, ngày 21/08/1989, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành Quyết định số 236/QĐ-QP về việc tổ chức Cơ quan điều tra hình sự trong
  • 38. 37 quân đội. Theo quyết định này, Cơ quan điều tra hình được tổ chức ở ba cấp: Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng (Cục Điều tra hình sự); Cơ quan điều tra hình sự cấp quân khu và tương đương (Phòng điều tra hình sự); Cơ quan điều tra hình sự cấp Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố và tương đương (Ban điều tra hình sự). Thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, các Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội được tổ chức lại, chủ yếu ở cấp thứ ba và theo hướng thu gọn đầu mối, từ 193 Cơ quan điều tra hình sự giảm xuống còn 99 Cơ quan điều tra hình sự. Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của Cơ quan điều tra hình sự quân đội, thấy rằng: mặc dù nhiều lần tách, nhập, thay đổi về tổ chức và tên gọi nhưng nhiệm vụ điều tra tội phạm được quy định trong Sắc lệnh số 258/SL vẫn không thay đổi. Có thể khẳng định, ở đâu có hoạt động của quân đội ta ở đó có công tác điều tra hình sự. Cơ quan điều tra hình sự quân đội có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của quân đội. 1.5. CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG QUÂN ĐỘI Ở MỘT SỐ NƢỚC 1.5.1. Cộng hòa Liên bang Nga Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định hệ thống các cơ quan điều tra gồm: - Cơ quan Công an điều tra; - Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; - Cơ quan an ninh quốc gia điều tra; - Cơ quan cứu hỏa; - Cơ quan biên phòng; - Cơ quan Hải quan liên bang; Ngoài ra, Thủ trưởng các đơn vị cải tạo, các cơ sở bắt buộc chữa bệnh và các cơ sở giáo dưỡng cũng có quyền điều tra tội phạm thuộc thẩm quyền
  • 39. 38 của mình và Thuyền trưởng viễn dương có quyền điều tra các tội phạm xảy ra trên tàu. 1.5.2. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định hệ thống các cơ quan điều tra gồm: - Cơ quan điều tra của Bộ Công an; - Cơ quan điều tra của Bộ An ninh quốc gia; - Cơ quan điều tra của An ninh quân đội; - Tổng cục chống tham ô, hối lộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định rất cụ thể về thẩm quyền và giới hạn điều tra của từng cơ quan điều tra. Theo đó, Cơ quan điều tra của Bộ Công an có quyền điều tra các loại tội phạm hình sự trên lãnh thổ Trung Quốc; Cơ quan điều tra của An ninh quân đội có quyền điều tra các vụ án hình sự xảy ra trong các đơn vị quân đội; Cơ quan điều tra của Bộ An ninh có quyền điều tra các vụ án hình sự phá hoại an ninh quốc gia; Tổng cục chống tham ô, hối lộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chức năng khởi tố và tự mình điều tra hơn 50 loại tội được quy định trong Bộ luật hình sự. 1.5.3. Vƣơng quốc Anh Cơ quan điều tra của Vương quốc Anh được tổ chức gồm nhiều lực lượng, có thẩm quyền điều tra riêng theo quy định của pháp luật, cụ thể gồm: - Lực lượng Cảnh sát Bộ Quốc phòng (Quân cảnh); - Lực lượng Cảnh sát dân sự; - Lực lượng Cảnh sát vận tải; - Lực lượng Cảnh sát Bộ Nội vụ - Cơ quan Hải quan, thuế vụ; - Văn phòng chống tội phạm lừa đảo nghiêm trọng.
  • 40. 39 Các lực lượng Cảnh sát riêng biệt có trách nhiệm điều tra, xử lý tội phạm địa phương, khu vực và phòng chống tội phạm; Cảnh sát Bộ Quốc phòng là lực lượng có trách nhiệm cụ thể đối với an ninh và hoạt động của Bộ Quốc phòng; Cảnh sát dân sự có chức năng điều tra, xử lý các tội phạm nghiêm trọng qua biên giới; Cảnh sát vận tả chịu trách nhiệm phòng ngừa và điều tra các loại tội phạm trên các tuyến đường sắt và hệ thống ngầm; Các đơn vị Cảnh sát Bộ Nội vụ là một lực lượng nhỏ, có trách nhiệm bảo vệ các yếu nhân, đảm bảo an ninh ở những nơi công cộng; Cơ quan Hải quan có quyền tiến hành khởi tố và điều tra vụ án liên quan đến gian lận, trốn thuế… Qua nghiên cứu hệ thống tổ chức và thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra một số nước trên thế giới, có thể thấy rằng trong quân đội luôn có tổ chức cơ quan điều tra, thẩm quyền điều tra riêng theo quy định của pháp luật. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Với tiêu đề "Lý luận chung về Cơ quan điều tra hình sự quân đội", trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, những quy định của pháp luật thực định, đã làm sáng tỏ một số vấn đề sau: - Khái quát những vấn đề cơ bản về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra hình sự quân đội trong tố tụng hình sự. - Cơ quan điều tra hình sự có vị trí quan trọng, là cơ quan không thể thiếu được trong quân đội và trong tố tụng hình sự. Việc tổ chức Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội là đòi hỏi khách quan, xuất phát từ chính thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại đến quân đội. Nhằm củng cố, tăng cường kỷ luật, bảo vệ pháp luật và sức mạnh của quân đội. - Tổ chức bộ máy và hoạt động điều tra theo thẩm quyền của Cơ quan điều tra hình sự quân đội được tổ chức theo đơn vị hành chính quân đội. Để minh họa những vấn đề lý luận trên, luận văn sẽ trình bày thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra hình sự quân đội ở Chương 2.
  • 41. 40 Chương 2 THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI 2.1. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ QUÂN ĐỘI 2.1.1. Tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành 2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự quân đội Theo Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, trong quân đội nhân dân có hệ thống tổ chức Cơ quan điều tra hình sự và hệ thống tổ chức Cơ quan An ninh điều tra. Hệ thống tổ chức Cơ quan điều tra hình sự phân thành ba cấp: Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng (cấp thứ nhất); Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương (cấp thứ hai); Cơ quan điều tra hình sự khu vực (cấp thứ ba). Tổ chức của Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng gồm có các phòng điều tra, phòng nghiệp vụ và bộ máy giúp việc; tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương gồm có Ban điều tra và bộ máy giúp việc; tổ chức Cơ quan điều tra hình sự khu vực gồm có bộ phận điều tra và bộ máy giúp việc. Để triển khai thực hiện Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, ngày 08/10/2004 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định số 139/2004/QĐ-BQP "Về tổ chức và nhiệm vụ của Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội nhân dân", quy định trong quân đội có 99 Cơ quan điều tra hình sự các cấp, gồm: 01 Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; 30 Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương (Bộ Tổng Tham mưu, các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng, Bộ đội Biên phòng, binh chủng, binh đoàn và các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng); 68 Cơ quan điều tra hình sự khu vực thuộc