SlideShare a Scribd company logo
1 of 116
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ TUẤN HAI
XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ TUẤN HAI
XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
HÀ NỘI - 2015
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Vò TuÊn Hai
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM
CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ
7
1.1. Khái niệm, đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa
án quân sự
7
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 7
1.1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 11
1.2. Vai trò, ý nghĩa xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 13
1.3. Quy định xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự một số nước
trên thế giới
15
1.3.1. Quy định trong xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa
15
1.3.2. Quy định xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự Hoa Kỳ 18
1.3.3. Những kinh nghiệm về quy định xét xử sơ thẩm của các Tòa
án quân sự trên thế giới có thể vận dụng đối với Tòa án quân
sự Việt Nam
19
Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ
24
2.1. Qui định pháp luật về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 24
2.1.1. Pháp luật về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự từ 1945
đến trước năm 2003
24
2.1.2. Qui định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về xét xử sơ thẩm
của các Tòa án quân sự
30
5
2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 47
2.2.1. Tình hình thực tiễn xét xử sơ thẩm sơ thẩm của các Tòa án
quân sự từ năm 2009 đến năm 2014
47
2.2.2. Nhận xét, đánh giá 58
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong
hoạt động xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự
58
2.3.1. Những vướng mắc, bất cập trong quy định của Bộ luật hình
sự, Bộ luật tố tụng hình sự
59
2.3.2. Những hạn chế, thiếu sót trong quá trình xét xử sơ thẩm của
các Tòa án quân sự
64
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế 79
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA
ÁN QUÂN SỰ
83
3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự
83
3.1.1. Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự xuất phát từ yêu cầu
cải cách tư pháp
83
3.1.2. Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự phải gắn liền với
việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án quân sự
84
3.1.3. Hoạt động xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự phải gắn
liền với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự
85
3.1.4. Hoạt động xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự phải gắn
liền với nhiệm vụ xây dựng đội ngũ thẩm phán có chất lượng
86
3.2. Hoàn thiện pháp luật về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 86
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự 86
3.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm của các
Tòa án quân sự
97
KẾT LUẬN 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TAQS : Tòa án quân sự
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tình hình giải quyết xét xử sơ thẩm của các TAQS từ
năm 2009 đến năm 2014
48
2.2 Tình hình giải quyết án hình sự sơ thẩm của các TAQS
Khu vực từ năm 2009 đến năm 2014
49
2.3 Tình hình giải quyết án hình sự sơ thẩm của các TAQS
Quân khu, Quân chủng từ năm 2009 đến năm 2014
49
2.4 Phân tích hình phạt và các biện pháp tha miễn TNHS và
áp dụng hình phạt đối với bị cáo bị các TAQS xét xử sơ
thẩm từ năm 2009 đến năm 2014
50
2.5 Tỷ lệ các tội phạm chủ yếu mà các TAQS xét xử sơ thẩm
từ năm 2009 đến 2014
52
2.6 Tỷ lệ đối tượng phạm tội từ năm 2009 đến năm 2014 của
các TAQS
54
2.7 Số bị cáo bị xét xử sơ thẩm có kháng cáo kháng nghị của
các TAQS từ năm 2009 đến năm 2014
54
2.8 Chất lượng xét xử sơ thẩm của các TAQS từ năm 2009
đến năm 2014
55
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", công cuộc cải cách tư pháp
đã được tổ chức thực hiện với tinh thần quyết tâm cao, đạt được nhiều kết
quả. Nhận thức về công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực,
chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát
triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày 2/6/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 phù hợp với
quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính.
Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu vụ án hình sự, tại phiên tòa bị cáo,
những người tham gia tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan được triệu
tập hoặc báo đến phiên tòa; mọi chứng cứ tài liệu của vụ án đã được thu thập
trong quá trình điều tra, truy tố đều được công khai xem xét. Kết quả xét xử
sơ thẩm là bản án khẳng định bị cáo có tội hoặc không có tội, tội gì, hình phạt
như thế nào, các biện pháp tư pháp cần áp dụng, những kiến nghị với các cơ
quan tổ chức về biện pháp khắc phục điều kiện, nguyên nhân phạm tội.
Xét xử sơ thẩm được coi là trung tâm của tố tụng hình sự, ở đó hội
đồng xét xử đưa ra những phán quyết về tất cả mọi vấn đề liên quan đến vụ án
bằng bản án, đồng thời cũng phản ánh kết quả cũng như tính khách quan của
các giai đoạn tố tụng trước đó. Vì vậy, xét xử sơ khách quan, công bằng,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm
công lý, góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhận
9
thức tầm quan trọng này, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003 qui định
thẩm quyền, thủ tục xét xử sơ thẩm là cơ sở cho hoạt động xét xử của tòa án,
trong đó có Tòa án quân sự (TAQS). Vì thế, hoạt động xét xử của TAQS
trong đó có xét xử sơ thẩm đã đáp ứng được yêu cầu xử lý tội phạm xảy ra
trong quân đội, góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm
trong lĩnh vực quốc phòng, bảo đảm nghiêm kỷ cương của quân đội, góp phần
bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, hoạt động xét xử sơ thẩm của
các TAQS thời gian qua còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại chưa đáp ứng được
yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu phát triển, xây dựng quân đội chính qui
hiện đại. Những hạn chế trong hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS, như:
Áp dụng pháp hình sự, dân sự… không chính xác dẫn đến ra quyết định trong
bản án không phù hợp thực tế của sự việc; Còn vi phạm thủ tục tố tụng trong
quá trình xét xử sơ thẩm, nhất là thủ tục tranh tụng tại phiên tòa dẫn đến việc
giải quyết vụ án không khách quan; Còn xảy ra hiện tượng xét xử chưa
nghiêm minh, chưa khách quan, công bằng, còn tình trạng xử nặng, xử nhẹ,
chưa đúng tội hoặc lọt người, lọt tội, quyết định bồi thường thiệt hại chưa phù
hợp với thực tế, chưa đúng với qui định của pháp luật, một số vụ còn vi phạm
thủ tục tố tụng…. Những hạn chế trên đã làm cho chất lượng, hiệu quả xét xử
sơ thẩm của các TAQS chưa đáp ứng được đòi hỏi xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh như Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư
pháp của Bộ Chính trị đã đề ra.
Tình hình nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu hoạt động xét xử của
các TAQS là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm trong
quân đội cũng như đáp ứng đòi hỏi của khoa học pháp lý tố tụng hình sự trong
điều kiện triển khai các Nghị quyết về cải cách tư pháp và Hiến pháp 2013. Vì
vậy, học viên chọn đề tài: "Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự" làm
luận văn tốt nghiệp để góp phần giải quyết các yêu cầu đó.
10
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu chế định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở các mức độ khác nhau
đã được một số nhà khoa học, luật gia quan tâm, nghiên cứu và được đề cập trong
các công trình, trong các tạp chí, trong một số sách chuyên khảo và giáo trình.
Trong các công trình, tạp chí, sách chuyên khảo và giáo trình này
bước đầu phân tích và làm rõ những vấn đề xung quanh chế định xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trong BLTTHS hiện hành, đồng thời đưa ra mô hình lý
luận của kiến giải lập pháp về các quy phạm của chế định này trong hệ thống
Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chúng ta có thể kể đến như:
Các công trình mang tính đại cương: Giáo trình Luật tố tụng hình sự,
của Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2009; Giáo trình Luật
tố tụng hình sự Việt Nam, của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, của Võ Khánh Vinh 2009;…
Các công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu, liên quan trực tiếp
về sơ thẩm trong các TAQS có: Luận văn thạc sĩ luật học "Thẩm quyền xét xử
sơ thẩm của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp" của Nguyễn Văn
Huyên năm 1996; Luận văn thạc sĩ luật học "Thẩm quyền xét xử của các Tòa
án quân sự" của Đàm Văn Dũng năm 1996;
Ngoài ra một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có liên
quan đến xét xử sơ thẩm trong các TAQS như: Hoàng Ngọc Thành, về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND),
số 01 năm 2002; Lê Văn Sua, về áp dụng Điều 4 Pháp lệnh tổ chức Tòa án
quân sự năm 2002, Tạp chí kiểm sát, số 9/2005; Nguyễn Đình Huề, một số
vấn đề về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự, Tạp chí TAND, số
9/2010; Huỳnh Quốc Hùng, cần sửa đổi bổ sung một số nội dung của thông
tư liên tịch số 01 ngày 18/4/2005 về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự,
Tạp chí Kiểm sát số 01/2010; Trần Đăng Khoa, cần sửa đổi bổ sung một số
11
điều của Bộ luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, thẩm quyền thi hành án và
quyết định của Tòa án quân sự, Tạp chí kiểm sát số 18/2010; Dương Đại
Nghĩa, xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Tòa án quân sự trong quá trình cải
cách tư pháp, Tạp chí TAND, số 18/2010;...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu được nghiên cứu chưa thực sự
toàn diện và đầy đủ về hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS theo đúng
tinh thần cải cách tư pháp hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ một cách có hệ thống
về mặt lý luận những nội dung cơ bản của chế định xét xử sơ thẩm theo luật
tố tụng hình sự Việt Nam và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn của
các TAQS cũng như xác định những bất cập và nguyên nhân của nó nhằm đề
xuất kiến giải pháp hoàn thiện và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng chế định này trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình
những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của xét xử sơ
thẩm: Bản chất của xét xử sơ thẩm, thẩm quyền, thủ tục, xét xử sơ thẩm của
TAQS; vai trò, ý nghĩa của của hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS…
- Khái quát lịch sử phát triển của chế định xét xử sơ thẩm các TAQS
và phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS 2003 cũng như các văn bản
pháp luật khác về xét xử sơ thẩm.
- Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy định của BLTTHS, Bộ
luật hình sự (BLHS) trong thực tiễn xét xử sơ thẩm của các TAQS.
- Phân tích những vướng mắc, hạn chế trong các quy định của BLTTHS,
BLHS trong hoạt động xét xử sơ thẩm chỉ ra nguyên nhân và đồng thời đưa ra
12
những kiến nghị, giải pháp để khắc phục, hoàn thiện các quy định của
BLTTHS, BLHS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn này tập trung nghiên cứu: Lý luận về xét xử sơ thẩm; các
quy định về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của BLTTHS 2003 và thực tiễn xét
xử sơ thẩm của các TAQS.
Phạm vi nghiên cứu:
Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 về
xét xử sơ thẩm và thực trạng của hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS,
những tồn tại, vướng mắc, nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử
sơ thẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này dựa trên việc sử dụng
phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam, về cải cách tư pháp, về tính nhân đạo của pháp luật…
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê, v.v…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo trong khoa học luật hình sự và tố tụng
hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và đồng bộ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định xét xử sơ thẩm của các TAQS ở
cấp độ một luận văn. Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận
những vấn đề sau:
13
Ý nghĩa lý luận:
Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện một số vấn đề lý luận về
chế định xét xử sơ thẩm như: Khái niệm, đặc điểm của xét xử sơ thẩm của các
TAQS, các quy định cơ bản của chế định;
- Nghiên cứu quy định về xét xử sơ thẩm của TAQS một số nước,
đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm có thể vận dụng đối với TAQS Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Phân tích việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình
sự trong thực tiễn xét xử sơ thẩm của các TAQS từ năm 2009 đến năm 2014,
qua đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự liên
quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm các TAQS trong thời gian qua. Đặc biệt,
trong phạm vi nhất định, luận văn tập trung chỉ ra một số các tồn tại, vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng và những nguyên nhân của thực trạng này để tìm
ra giải pháp khắc phục.
- Đề xuất sửa đổi các quy định của BLHS, BLTTHS cho phù hợp với
chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta.
- Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng,
luận văn đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự để phục vụ tốt yêu cầu của công tác xét xử,
yêu cầu của thực tiễn công tác phòng và chống tội phạm cũng như việc giáo
dục, cải tạo người phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự.
Chương 2: Qui định của pháp luật và thực tiễn xét xử sơ thẩm của các
Tòa án quân sự.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử
sơ thẩm của các Tòa án quân sự.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM
CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN QUÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự
Xét xử là chức năng thuộc về Tòa án, là một giai đoạn tố tụng quan
trọng được tiến hành dưới hình thức phiên tòa nhân danh Nhà nước đưa ra
một phán quyết theo một trình tự luật định những vụ án thuộc thẩm quyền của
Tòa án.
Theo từ điển Luật học: "Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản
chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp
lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng
với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc" [54, tr. 869].
Hoạt động xét xử gắn liền với quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư
pháp là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Thông qua hoạt động xét xử,
Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước ban hành quyết định để thực thi trên
thực tế các quyền và nghĩa vụ chủ thể quan hệ pháp luật hay nói cách khác đó
là thực thi quyền tư pháp. Quyền tư pháp là quyền được thực hiện thông qua
hoạt động bảo vệ pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tư pháp.
Hiến pháp 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [25, tr. 54].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua các giai đoạn như:
điều tra, truy tố và xét xử. Giai đoạn xét xử là một khâu đặc biệt quan trọng là
giai đoạn trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các giai đoạn tố
tụng trước (điều tra, truy tố), các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ điều tra thu
thập chứng cứ làm cơ sở cho quá trình giải quyết vụ án chưa thể quyết định
15
người đó có tội hay không có tội. Để xác định một người có tội hay không có
tội phải thông qua một phiên tòa, tại đó mọi chứng cứ tài liệu của vụ án do cơ
quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một
cách công khai, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
được nghe trực tiếp lời khai của nhau được tranh luận từ đó tạo điều kiện cho
Tòa án ra bản án đúng pháp luật. Có thể nói xét xử sơ thẩm được xác định
như một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự là đỉnh
cao của quyền tư pháp, tại phiên tòa quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố
tụng và tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất.
Theo Từ điển Luật học: "Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra
xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền" [54, tr. 869].
Theo Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của Trường Đại học Luật Hà
Nội: "Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó
Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết
định tố tụng theo quy định của pháp luật" [47, tr. 345].
Theo Giáo trình luật tố tụng hình sự của Khoa Luật - Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội:
Xét xử sơ thẩm được hiểu là một giai đoạn của tố tụng hình
sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền thay mặt Nhà nước tiến hành
việc xét xử lần đầu, toàn diện, tổng thể vụ án hình sự trên cơ sở bản
cáo trạng của Viện kiểm sát, xem xét đánh giá chứng cứ và dựa trên
kết quả tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm làm cơ sở để ra các phán
quyết công minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng bản án và quyết
định của mình [6, tr. 359].
Theo GS.TSKH Lê Cảm: Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và
cuối cùng, trung tâm và:
Quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó
cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố
16
tụng hình sự tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc
xét xử, 2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem
xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công
khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn
đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không)
của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án
hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp
và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật
theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án hay quyết
định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của
Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm
hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm
bảo sức thuyết phục [2].
Tòa án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thuộc hệ thống TAND được tổ chức trong quân đội.
Bằng hoạt động xét xử của mình, TAQS cấp sơ thẩm có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ
của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của
quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của quân nhân, công chức, công
nhân quốc phòng và của các công dân khác góp phần giáo dục quân nhân,
công chức, công nhân quốc phòng trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, điều lệnh của quân đội, tôn trọng những quy tắc của cuộc
sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm
pháp luật khác.
Hoạt động xét xử của TAQS tuân thủ những nguyên tắc và trình tự,
thủ tục được quy định trong BLTTHS, đó là để tuyên bố một người có tội và
17
phải chịu hình phạt nhất thiết phải thông qua việc xét xử tại phiên tòa của Hội
đồng xét xử. Một người chỉ bị coi là có tội khi người đó bị tòa án xét xử và
kết án bằng bản án theo đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, hoạt động xét
xử sơ thẩm của TAQS cũng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như: Nguyên
tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; Nguyên tắc xét
xử tập thể quyết định theo đa số; Nguyên tắc xét xử công khai; Đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Thông qua hoạt động xét xử, TAQS mới
ban hành bản án, quyết định tuyên bố một người có tội hoặc không có tội, từ
đó áp dụng hình phạt hay khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể
nào đó. Đồng thời, cũng thông qua hoạt động xét xử mà bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quân đội, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và các quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm và đặc biệt là qua các
phiên tòa công khai góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống, nâng cao ý thức đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác.
Như vậy, xét xử sơ thẩm của các TAQS là hoạt động của Hội đồng xét
xử sơ thẩm của TAQS cấp Quân khu, TAQS cấp khu vực nhân danh Nhà nước,
căn cứ vào pháp luật, tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự để đưa ra phán
quyết (bằng một bản án hình sự) giải quyết một vụ án cụ thể ở cấp sơ thẩm.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm đều là xét xử
lần đầu. Trường hợp Tòa án có thẩm quyền xem xét ra quyết định hủy bản án
để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại theo quy định tại Điều 250, 287 và Điều
300 của BLTTHS năm 2003 thì việc xét xử sơ thẩm lại không phải là xét xử
lần đầu tiên.
Từ những phân tích trên có thể nêu ra khái niệm xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của TAQS như sau: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự là việc
18
Tòa án quân sự xét xử lần đầu vụ án hình sự thuộc thẩm quyền và quyết định bị
cáo có phạm tội hay không; nếu phạm tội gì theo điều khoản nào của Bộ luật
hình sự và quyết định áp dụng loại mức hình phạt nào đối với người phạm tội.
1.1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự
Xét xử sơ thẩm của TAQS có những đặc điểm chung như xét xử sơ
thẩm của TAND đồng thời còn có những đặc điểm riêng chi phối quá trình
xét xử của TAQS. Những đặc điểm có tính đặc thù đó là:
Thứ nhất, TAQS chỉ xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, TAQS không
giải quyết vụ án dân sự độc lập hoặc giải quyết các vụ án kinh tế lao động và
hôn nhân gia đình. Do vậy, khi xét xử sơ thẩm, các TAQS phải chú ý giải
quyết triệt để các vấn đề dân sự vì việc tách phần dân sự để xét xử riêng rất
phức tạp, không kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho đương sự. Trong trường hợp
đặc biệt không thể giải quyết được thì TAQS tách phần dân sự để xét xử riêng,
đồng thời phải hướng dẫn cho đương sự khởi kiện vụ án dân sự trước TAND.
Theo qui định của pháp luật, nguyên tắc hai cấp xét xử được thiết lập
ở các nước cũng như ở Việt Nam, Điều 20 của BLTTHS 2003 quy định:
Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của Bộ luật này… [21].
Đây là đặc điểm riêng biệt của xét xử sơ thẩm.
Thứ hai, chỉ xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền
của TAQS. TAQS chỉ xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại
ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập
trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ
phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm
vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý, thuộc thẩm quyền xét xử
của TAQS, không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu.
Những vụ án hình sự mà người phạm tội không thuộc các đối tượng quy định
19
nêu trên chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS nếu họ phạm tội liên quan
đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Đặc điểm về thẩm quyền xét
xử của TAQS còn được thể hiện ở việc phân định thẩm quyền xét xử giữa TAQS
các cấp căn cứ vào chức vụ và bậc quân hàm của người phạm tội. Nếu bị cáo khi
phạm tội hoặc bị khởi tố có quân hàm từ Trung tá trở xuống hoặc có chức vụ
tương đương Trung đoàn trưởng trở xuống thì do TAQS xét xử sơ thẩm. Đối với
những bị cáo có quân hàm từ Thượng tá trở lên thì do TAQS xét xử sơ thẩm.
Đây là đặc điểm thể hiện rõ nét đặc thù của quân đội, một tổ chức có quy định
chặt chẽ về cấp bậc quân hàm, về cấp trên cấp dưới và về chỉ huy phục tùng.
Đặc điểm này đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải có kiến thức pháp lý, chính
trị, xã hội và bậc quân hàm tương ứng, có kinh nghiệm để xét xử những bị cáo
có bậc quân hàm, chức vụ theo thẩm quyền xét xử của từng cấp TAQS.
Thứ ba, người tiến hành tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của
TAQS có những đặc điểm khác với phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAND.
Người tiến hành tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAQS là Thẩm
phán TAQS, Hội thẩm quân nhân, Thư ký TAQS và Kiểm sát viên Viện kiểm
sát quân sự. Thẩm phán TAQS tham gia Hội đồng xét xử ngoài tiêu chuẩn
chung theo quy định của pháp luật, để được Chủ tịch nước bổ nhiệm còn phải
có tiêu chuẩn đặc thù là sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam. Kiểm sát viên
Viện kiểm sát quân sự cũng là những sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam,
các Hội thẩm quân nhân là sĩ quan quân đội hoặc công nhân viên quốc phòng.
Có kiến thức pháp lý cần thiết theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, TAQS có địa bàn xét xử rộng, nghi thức phiên tòa hình sự sơ
thẩm khác TAND. Do địa bàn xét xử của TAQS rất rộng nên công tác chuẩn
bị xét xử, triệu tập người đến phiên tòa đòi hỏi TAQS phải chủ động, nắm
chắc địa bàn xét xử và thực hiện nghiêm ngặt các thời hạn do BLTTHS quy
định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Mặt khác, để phục vụ nhiệm vụ chính trị
của các đơn vị và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn quản
20
hạt nên phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAQS thường phải tổ chức lưu động,
xa trụ sở. Trong các phiên tòa lớn, phiên tòa xét xử lưu động, phiên tòa xét xử
điển hình thường có tiêu binh thực hiện phần nghi thức và làm phần tiêu binh
trong suốt quá trình xét xử của TAQS. TAND không có đặc điểm này.
Thứ năm, về mối quan hệ giữa TAQS và Viện kiểm sát quân sự. TAND
và Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo địa bàn hành chính lãnh thổ.
Mỗi TAND chỉ phải quan hệ tố tụng với một Viện kiểm sát nhân dân. Trong
quân đội do hệ thống tổ chức của hai hệ thống TAQS và Viện kiểm sát quân
sự khác nhau, không theo nguyên tắc chung. Do vậy, hoạt động xét xử sơ
thẩm của TAQS ở cấp quân khu cũng như khu vực phải quan hệ tố tụng với
nhiều Viện kiểm sát quân sự. Đặc điểm này đòi hỏi TAQS phải xây dựng mối
quan hệ phối thuộc với các Viện kiểm sát quân sự, thường xuyên tổ chức rút
kinh nghiệm để tạo sự thống nhất đảm bảo hoạt động xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
1.2. VAI TRÒ, Ý NGHĨA XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ
Pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn định và phát
triển xã hội, là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách của Nhà nước; bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực trên
quy mô toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã
hội; là phương tiện bảo đảm cho quần chúng nhân dân tham gia quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Chính vì vậy mà xét xử sơ thẩm của TAQS có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng.
Xét xử sơ thẩm của các TAQS góp phần xây dựng và bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, quân đội nhân dân.
Trên phương diện thực tiễn, hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS chính
là việc thực thi nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, quyền tự do dân chủ, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
công dân. Chính vì vậy, xét xử sơ thẩm của TAQS có vai trò to lớn trong việc
21
bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mọi hành vi xâm phạm đến
các quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ đều được xử lý nghiêm minh,
kịp thời, đúng pháp luật thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS.
Xét xử sơ thẩm của các TAQS góp phần duy trì trật tự, kỷ luật quân
đội, nâng cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội.
Thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS, mọi hành vi vi phạm
pháp luật của quân nhân và mọi hành vi xâm phạm, gây thiệt hại cho quân đội
đều bị trừng trị thích đáng và phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Việc xử phạt người phạm tội ngoài mục đích trừng trị người đó, nó còn có tác
dụng to lớn trong việc giáo dục cho bộ đội ý thức chấp hành pháp luật, chấp
hành kỷ luật quân đội. Đây là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, giúp cho bộ
đội tránh được những vi phạm pháp luật, kỷ luật xảy ra trong công tác, trong
cuộc sống; góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng chính
quy, tinh nhuệ, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và khả năng sẵn
sàng chiến đấu, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xét xử sơ thẩm của các TAQS góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói riêng.
Thông qua hoạt động xét xử những tư duy pháp lý mới được hình
thành và chỉ có thông qua thực tiễn xét xử các quy phạm pháp luật nói chung
và các quy phạm pháp luật hình sự nói riêng mới được kiểm nghiệm về tính
phù hợp với thực tiễn và yêu cầu của xã hội. Trên cơ sở đó phát hiện những
quy phạm pháp luật còn chung chung khó hiểu hoặc hiểu theo nhiều cách,
những quy phạm pháp luật không còn phù hợp để đề nghị sửa đổi, bổ sung.
Mặt khác, cũng qua hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS những dạng tội phạm
mới (trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, môi trường…)
mà pháp luật hiện hành chưa có quy phạm điều chỉnh được phát hiện. Từ đó,
tạo cơ sở cho việc đề xuất hướng bổ sung những tội phạm mới này.
22
Xét xử sơ thẩm của các TAQS của góp phần phổ biến giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn.
Phần lớn các phiên tòa sơ thẩm của các TAQS đều được xét xử lưu
động. Thông qua các phiên tòa xét xử công khai, đặc biệt là các phiên tòa xét
xử lưu động, kiến thức pháp luật đã được chuyển tải đến cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố
tụng, việc xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo, việc tranh luận tại
phiên tòa và các phán quyết của Tòa án là "kênh" chuyển tải kiến thức pháp
luật một cách trực tiếp, cụ thể, sinh động và hiệu quả nhất đến cán bộ, chiến sĩ
và nhân dân. Qua phiên tòa, họ nắm được các quy định của pháp luật, họ hiểu
được nguyên nhân, điều kiện phạm tội và hậu quả phải gánh chịu của việc
phạm tội. Từ đó, hình thành ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Vì vậy,
việc mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TƯ
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, đặc biệt là việc tăng cường xét xử lưu động của các
TAQS có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phổ biến giáo dục pháp luật
nhằm nâng cao kiến thức pháp luật, sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật cho cán
bộ, chiến sĩ và nhân dân.
1.3. QUY ĐỊNH XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ MỘT SỐ
NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1. Quy định trong xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa
TAQS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một bộ phận của hệ thống
TAND Trung Hoa được tổ chức trong quân đội để thực hiện nhiệm vụ giải
quyết các vụ án hình sự có liên quan đến Quân đội. Việc thành lập TAQS
trong hệ thống TAND là dựa trên những đặc điểm riêng biệt của quân đội như
tổ chức theo từng Quân khu hay Khu vực, từng Quân chủng thực hiện những
nhiệm vụ riêng biệt cũng như tính chất của các vụ án xảy ra trong quân đội.
23
Mục đích và nhiệm vụ của các TAQS là xét xử các tội phạm gây nguy hại đến
quốc phòng và an ninh quốc gia, bảo vệ an ninh lãnh thổ, hệ thống pháp luật
và các điều lệnh quân đội, tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội và
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quân nhân cũng như nhân dân.
Tòa án quân sự trong Quân đội Trung Hoa được tổ chức thành ba cấp
là TAQS quân giải phóng nhân dân tương đương TAQS trung ương ở Việt
Nam, TAQS đại Quân khu và các ngành chuyên biệt của Quân đội; TAQS
Khu vực.
Các TAQS Trung Hoa xét xử các vụ án hình sự mà người phạm tội là
quân nhân trong quân ngũ, người được hưởng lương từ nguồn ngân sách quân
đội và các vụ án hình sự khác mà Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) giao
cho TAQS xét xử. TAQS Trung Hoa thực hiện chế độ xét xử hai cấp; Tòa án
cấp trên trực tiếp có thẩm quyền phúc thẩm lại bản án của TAQS cấp dưới
trực tiếp của mình.
Án hình sự Trung Hoa được phân chia thành 02 dạng là án công tố và
án tư tố:
Đối với án công tố là án do viện kiểm sát quân sự đề nghị truy tố: Sau
khi thẩm tra vụ án viện kiểm sát quân sự đã đề nghị truy tố, TAQS phải quyết
định mở phiên tòa xét xử nếu cáo trạng đã nêu đầy đủ được các tình tiết,
chứng cứ phạm tội rõ ràng, ngoài ra còn có danh sách chứng cứ và nhân
chứng cũng như bản sao hoặc ảnh của các chứng cứ quan trọng gửi kèm.
TAQS phải Quyết định mở phiên tòa ấn định thời gian, địa điểm mở phiên
tòa, thành viên hội đồng xét xử và phải thông báo cho viện kiểm sát quân sự
và các đương sự biết thời gian, địa điểm mở phiên tòa trong thời hạn tối thiểu
03 ngày trước khi mở phiên tòa. Quyết định mở phiên tòa là quyết định áp
dụng pháp luật rất quan trọng của TAQS Trung Hoa là văn bản đánh dấu quá
trình xét xử sơ thẩm của TAQS Trung Hoa, Quyết định mở phiên tòa rất
giống với Quyết định đưa vụ án ra xét xử của TAQS Việt Nam.
24
Đối với các vụ án tư tố là: các vụ án chỉ có thể được giải quyết dựa
trên cơ sở khiếu nại, tố cáo; các vụ án mà người bị hại có chứng cứ chứng
minh là các vụ án ít nghiêm trọng; các vụ án mà người bị hại có chứng cứ
chứng minh rằng bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật bởi vì
hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền cá nhân hoặc quyền tài sản của họ,
trong khi đó, cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát quân sự không truy cứu
trách nhiệm hình sự của bị cáo.
Sau khi thẩm tra án tư tố, TAQS Trung Hoa phải giải quyết theo từng
trường hợp sau đây:
Một là, nếu tình tiết phạm tội rõ ràng, chứng cứ đầy đủ, vụ án phải
được xét xử tại phiên tòa;
Hai là, trong trường hợp vụ án tư tố thiếu chứng cứ buộc tội, nếu tư tố
viên không thể xuất trình chứng cứ bổ sung, TAQS phải thuyết phục người
này rút lại việc truy tố hoặc ra lệnh bác bỏ việc truy tố.
Nếu tư tố viên, sau khi đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt không có lý do chính đáng, hoặc nếu bỏ ra khỏi phiên tòa mà không được
sự cho phép của Tòa án, vụ án có thể bị coi là đã bị người này rút lại.
Tòa án quân sự Trung Hoa trong quá trình xét xử phải ban hành Bản
án hình sự với nội dung là một trong những phán quyết sau:
Một là, nếu các tình tiết của vụ án rõ ràng, chứng cứ đáng tin cậy và
đầy đủ, và bị cáo bị cho là có tội theo luật thì tuyên có tội
Hai là, nếu bị cáo được cho là vô tội theo luật thì tuyên vô tội;
Ba là, nếu chứng cứ không đầy đủ và do đó bị cáo không thể bị coi là có
tội thì phải tuyên vô tội vì chứng cứ không đủ và việc truy tố không có cơ sở.
Trong vụ án được tuyên tại tòa, thì phải chuyển các quyết định cho
các bên đương sự và viện kiểm sát quân sự tiến hành truy tố trong thời hạn 05
ngày. Trong trường hợp bản án hình sự được tuyên sau đó trong một ngày
được ấn định, thì phải chuyển bản án hình sự ngay sau khi tuyên án cho các
bên đương sự và viện kiểm sát quân sự tiến hành truy tố.
25
Bản án hình sự phải có chữ ký của các thành viên trong hội đồng xét
xử và thư ký phiên tòa, đồng thời ghi rõ thời hạn kháng cáo và tên TAQS sẽ
xét xử phúc thẩm.
Đối với việc ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử TAQS không có thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
TAQS ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa nếu kiểm sát
viên thấy rằng vụ án mình truy tố cần điều tra bổ sung, và kiến nghị điều này.
1.3.2. Quy định xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự Hoa Kỳ
Quân đội Hoa Kỳ không có hệ thống TAQS được tổ chức độc lập và
hoạt động thường xuyên để xét xử vụ án từ cấp sơ thẩm đến cấp phúc thẩm
như ở Việt Nam. Tòa án ở cấp sơ thẩm chỉ được lập khi cần thiết để xét xử
quân nhân vi phạm pháp luật và thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định
của Luật tư pháp quân sự thống nhất.
- Về thẩm quyền:
TAQS Hoa Kỳ chỉ xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo là sĩ quan, quân
nhân thuộc lực lượng vũ trang Hoa Kỳ xảy ra trong doanh trại quân đội.
Tùy từng loại Tòa án binh mà nó có thẩm quyền giải quyết vụ án hình
sự theo đối tượng và mức khung hình phạt áp dụng đối với tội mà bị cáo phạm.
Tòa án binh giản lược có thẩm quyền xét xử tất cả quân nhân (trừ sĩ
quan quân đội); học viên trường sĩ quan lục quân, học viên trường sĩ quan
không quân, học viên trường hải quân phạm các tội được quy định trong luật
tư pháp quân sự thống nhất mà người có thẩm quyền thành lập đề nghị đưa ra
xét xử tại Tòa án binh.
Tòa án binh đặc biệt có thẩm quyền xét xử các quân nhân và sĩ quan
trong Quân đội mà hình phạt áp dụng đối với bị cáo không phải là tử hình,
tước quân tịch, buộc rời khỏi quân ngũ, giam giữ trên 6 tháng, cải tạo lao
động không giam giữ trên 3 tháng, tịch quá 2/3 lương/tháng hoặc tịch thu
lương quá 6 tháng.
26
Tòa án binh thẩm quyền chung có thẩm quyền xét xử đối với tất cả
các sĩ quan về các tội danh và hình phạt theo quy định của luật tư pháp quân
sự thống nhất kể cả khi hình phạt đối với bị cáo là tử hình.
Sau khi có bản án của Tòa án binh, bản án này sẽ được người có thẩm
quyền thành lập Tòa án binh đó xem xét lại phê chuẩn. Bản án sẽ chỉ được
phê chuẩn nếu người có thẩm quyền triệu tập thấy rằng việc xác định hành vi
phạm tội là có căn cứ và hình phạt áp dụng đối với bị cáo là tương ứng với
hành vi phạm tội. Người có thẩm quyền triệu tập này có thể phê chuẩn hoặc
sửa đổi những nội dung trong bản án về xác định hành vi phạm tội và hình
phạt đối với bị cáo hoặc không chấp nhận việc xác định tội danh của Tòa án
binh và chuyển nó thành một tội danh khác nhẹ hơn. Người có thẩm quyền
thành lập Tòa án binh cũng có thể bác bỏ một phần hoặc toàn bộ bản án về
xác định tội danh và hình phạt. Tuy nhiên, nếu Tòa án xác định là bị cáo
không có tội thì người này lại không thể bác bỏ bản án và kết án bị cáo là tội
phạm được.
1.3.3. Những kinh nghiệm về quy định xét xử sơ thẩm của các Tòa
án quân sự trên thế giới có thể vận dụng đối với Tòa án quân sự Việt Nam
Về tổ chức Tòa án quân sự
Nghiên cứu các mô hình tổ chức TAQS trong quân đội ở các nước
trên thế giới có thể thấy hai loại cơ bản: mô hình TAQS thường trực và mô
hình Tòa án binh.
Mô hình TAQS thường trực: Là mô hình mà ở đó các TAQS được
thành lập với cơ cấu nhân sự chỉ thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án thuộc thẩm
quyền của TAQS. Đại diện mô hình này là Trung Quốc, các TAQS ở nước
này được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở và chia ra thành
các cấp xét xử khác nhau. Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử phúc thẩm đối với
vụ án mà bản án của Tòa án cấp dưới trực tiếp đã xét xử sơ thẩm. Ở Trung
Quốc các TAQS nằm trong hệ thống TAND, xét xử theo luật chung của Nhà
nước ban hành.
27
Điểm mạnh của mô hình trên là tính chuyên nghiệp của TAQS trong
công tác xét xử. TAQS giải quyết vụ án theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ
và đảm bảo các quyền cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với
bị cáo. Người phạm tội sẽ được các cơ quan tư pháp trong quân đội như cơ
quan điều tra, công tố xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự trước khi
chuyển cho Tòa án để xét xử theo thẩm quyền. Với quá trình tố tụng như vậy,
hành vi phạm tội của người phạm tội được xem xét rất kỹ lưỡng. Đội ngũ cán
bộ TAQS được chuyên môn hóa, được đào tạo cơ bản, bồi dưỡng nghiệp vụ
xét xử thường xuyên nên có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn cũng
như năng lực thực hành. Biên chế của TAQS ổn định, tập trung thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm là xét xử ít bị chi phối bởi các nhiệm vụ quân sự khác.
Mô hình Tòa án binh: Mô hình này có đặc điểm khác biệt với mô hình
là các TAQS cấp thấp nhất, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án không
phải là các TAQS thường trực mà chỉ được thành lập bằng một quyết định của
người chỉ huy có thẩm quyền khi cần thiết để xét xử quân nhân vi phạm pháp
luật trong đơn vị. TAQS thường trực chỉ được thành lập ở cấp xét xử phúc
thẩm, thượng thẩm. Đại diện của mô hình này là Mỹ. Ở Mỹ có ba loại Tòa sơ
thẩm: Tòa án binh giản lược, Tòa án binh đặc biệt và Tòa án binh thẩm quyền
chung. Nếu bị cáo không đồng ý với quyết định của Tòa sơ thẩm thì có quyền
kháng cáo lên cấp phúc thẩm. Các Tòa phúc thẩm là các Tòa án thường trực
được tổ chức trong Quân đội để xem xét lại các bản án của Tòa án binh đã
được người chỉ huy có thẩm quyền thành lập Tòa án binh phê chuẩn. Ở mỗi
Quân chủng, có một Tòa phúc thẩm loại này và nó có nhiệm vụ xem xét lại
theo thủ tục phúc thẩm các bản án do Tòa án binh trong Quân chủng đó đã
ban hành. Trên Tòa hình sự phúc thẩm của các Quân chủng thì có Tòa thượng
thẩm Liên bang cho toàn lực lượng Quận đội Hoa Kỳ. Trong quân đội Mỹ chỉ
có một Tòa thượng thẩm gồm 5 thẩm phán với nhiệm kỳ là 15 năm.
Ưu điểm của mô hình này là có xu hướng gọn nhẹ vì những vụ án đơn
giản thì người chỉ huy có thẩm quyền có thể tự mình giải quyết được theo thủ
28
tục rút gọn, hệ thống TAQS không cồng kềnh, biên chế ít, vụ việc xảy ra được
giải quyết nhanh vì không phải qua các trình tự tố tụng rườm rà như điều tra,
truy tố. Tuy nhiên, nếu tổ chức theo mô hình này dẫn đến nhiều tồn tại bất cập
như Tòa án binh của Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Thể
hiện việc xử lý tội phạm, vi phạm pháp luật trong đơn vị phụ thuộc vào ý thức
chủ quan của người chỉ huy. Một vụ án xảy ra, người chỉ huy thấy cần giải
quyết bằng Tòa án thì thành lập Tòa án binh, nếu không muốn thì thôi, dẫn
đến việc xử lý không triệt để, bỏ lọt tội phạm. Do không có cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát nên người chỉ huy giải quyết vụ việc không theo thủ tục tư
pháp, không đảm bảo đầy đủ được các quyền của những người tham gia tố
tụng. Các thẩm phán xét xử là những sĩ quan kiêm nhiệm, không phải là
những người chuyên trách nên trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử thấp,
chất lượng xét xử không cao.
Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tổ chức các TAQS theo mô
hình các Tòa án thường trực là có hiệu quả, phù hợp với cơ cấu tổ chức Nhà
nước và Quân đội của Nhà nước pháp quyền XHCN đáp ứng yêu cầu xây dựng
nền tư pháp dân chủ, hiện đại vì quyền con người. Tuy nhiên để tăng cường
tính hiệu quả trong hoạt động của TAQS thì cần phải thu hẹp tổ chức, giảm
biên chế hơn nữa để đảm bảo số lượng cán bộ trong ngành TAQS tương ứng
với số vụ án đưa ra xét xử tại Tòa án, tiết kiệm được ngân sách cho Nhà nước.
Về thẩm quyền xét xử
Nghiên cứu thẩm quyền xét xử của TAQS các nước thấy rằng mỗi
nước thẩm quyền của TAQS được quy định khác nhau, phụ thuộc vào chế độ
chính trị, mô hình tổ chức các cơ quan Nhà nước và vị trí, vai trò của quân đội
trong hệ thống chính trị. Thẩm quyền xét xử của TAQS các nước được xác
định theo hai khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng quy định thẩm quyền rộng: Ngoài quân nhân phạm
tội thì những người khác do quân đội quản lý phạm tội hoặc tội phạm liên
29
quan đến quốc phòng an ninh đều do TAQS xét xử. Các TAQS Trung Quốc
có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà người phạm tội là quân nhân
trong quân ngũ, người được hưởng lương từ nguồn ngân sách quân đội và các
vụ án hình sự khác mà TANDTC giao cho TAQS xét xử thường là các vụ án
liên quan đến quốc phòng-an ninh.
- Khuynh hướng quy định thẩm quyền hẹp. Đại diện cho khuynh
hướng này là các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa. Ở các nước này, TAQS
chỉ xét xử quân nhân phạm tội. Cụ thể như TAQS Mỹ thẩm quyền xét xử các
vụ án hình sự mà bị cáo là sĩ quan, quân nhân thuộc lực lượng vũ trang.
Tóm lại, nghiên cứu tổ chức và thẩm quyền xét xử của TAQS các
nước trên thế giới, so sánh với TAQS của Việt Nam, chúng tôi cho rằng hệ
thống TAQS được tổ chức thường trực trong quân đội là phù hợp với Việt
Nam và thẩm quyền xét xử như hiện nay là hợp lý.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Xét xử sơ thẩm của các TAQS là việc TAQS xét xử lần đầu vụ án
hình sự thuộc thẩm quyền và quyết định bị cáo có phạm tội hay không; nếu
phạm tội gì theo điều khoản nào của BLHS và quyết định áp dụng loại mức
hình phạt nào đối với người phạm tội.
Xét xử sơ thẩm của các TAQS có những đặc điểm chung như xét xử
sơ thẩm của TAND đồng thời còn có những đặc điểm riêng chi phối quá trình
xét xử của TAQS như: TAQS chỉ xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự;, chỉ xét
xử sơ thẩm những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của TAQS; Người tiến
hành tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAQS là Thẩm phán TAQS,
Hội thẩm quân nhân, Thư ký TAQS và Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự;
TAQS có địa bàn xét xử rộng, nghi thức phiên tòa hình sự sơ thẩm khác
TAND;, về mối quan hệ giữa TAQS và Viện kiểm sát quân sự.
Hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS vai trò, ý nghĩa rất quan
trọng: Xét xử sơ thẩm của các TAQS góp phần xây dựng và bảo vệ pháp chế
30
xã hội chủ nghĩa; duy trì trật tự, kỷ luật quân đội, nâng cao sức mạnh và khả
năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội; góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói riêng; xét
xử sơ thẩm của các TAQS còn góp phần phổ biến giáo dục, nâng cao ý thức
pháp luật cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn.
Nghiên cứu tổ chức và thẩm quyền xét xử của TAQS một nước trên
thế giới, so sánh với TAQS của Việt Nam, chúng tôi cho rằng hệ thống TAQS
được tổ chức thường trực trong quân đội là phù hợp với Việt Nam và thẩm
quyền xét xử như hiện nay là hợp lý.
31
Chương 2
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM
CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ
2.1. QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN
QUÂN SỰ
2.1.1. Pháp luật về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự từ 1945
đến trƣớc năm 2003
Xuất phát từ học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Tòa án
nói chung và TAQS nói riêng là công cụ hữu hiệu của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động để kịp thời trấn áp sự phản kháng của bọn phản cách mạng
và tội phạm nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, giữ vững nền độc lập của dân tộc; bảo vệ chính quyền cách
mạng, sức mạnh chiến đấu của quân đội, giữ vững an ninh trật tự xã hội cho
nhân dân. Vì vậy, ngay sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33C-SL về việc
thành lập các TAQS trong phạm vi cả nước.
Theo Sắc lệnh này, các TAQS có thẩm quyền xét xử tất cả các người
nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Trừ khi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử
lấy theo quân luật (Điều 2) [32, tr. 12]. Ngày 15/01/1946, Chính phủ ra Sắc
lệnh số 07/SL bổ sung thẩm quyền xét xử cho các TAQS xét xử cả những
việc bắt cóc tống tiền, ám sát và những tội phạm khác [32, tr. 22].
Do khó khăn phức tạp về thông tin liên lạc trong điều kiện cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước, để kịp thời bảo vệ sức mạnh
chiến đấu của quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 163/SL ngày
23/8/1946 (về thành lập Tòa án binh lâm thời đặt trụ sở tại Hà Nội), Sắc lệnh
số 19/SL ngày 16/02/1947 và Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp ban hành Thông
32
lệnh số 60 ngày 28/5/1947 thành lập các Tòa án binh trên toàn cõi Việt Nam.
Theo các văn bản này, các Tòa án binh gồm một Chánh án và hai Hội thẩm;
một ủy viên chính phủ buộc tội và một lục sự ghi chép và có thẩm quyền xét
xử các quân nhân và thường dân phạm bất cứ tội gì gây thiệt hại cho quân đội.
Cũng như các TAQS, các Tòa án binh không phải là cơ quan chuyên trách mà
chỉ thành lập khi có vụ việc xảy ra. Theo sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946
về tổ chức Tòa án binh lâm thời đã được quy định thẩm quyền của TAQS, cụ
thể Điều 2 Sắc lệnh quy định: " Tòa án binh lâm thời có thẩm quyền xét xử:
- Các quân nhân phạm pháp bất cứ về tội gì, trừ những tội vi cảnh
thuộc thẩm quyền của các Tòa án tư pháp và những "thường tội" định ở Điều 43
Sắc lệnh số 71/SL ngày 22/05/1946 thuộc quyền nghị phạt của cấp chỉ huy
quân đội.
- Những nhân viên các ngành chuyên môn trong quân đội, những
người làm việc trong quân đội như: công nhân, chủ thầu khi phạm pháp có
liên quan đến quân đội.
- Những người thuộc bất cứ hạng nào mà phạm pháp ở trong các đồn
trại, quân y viện, nhà lao binh, hoặc một cơ quan nào của quân đội hoặc phạm
pháp làm thiệt hại đến quân đội".
Cán bộ làm công tác xét xử của các TAQS và Tòa án binh chủ yếu do
những cán bộ chỉ huy trong quân đội kiêm nhiệm (trừ một Hội thẩm chuyên
môn do cơ quan tư pháp cử ra). Do pháp luật của Nhà nước ta ban hành còn
rất ít, nên khi xét xử các TAQS, các Tòa án binh vừa phải vận dụng đường lối,
chính sách của Đảng và của Nhà nước dân chủ cộng hòa, vừa phải vận dụng các
quy định pháp luật của chế độ cũ, nếu các quy định đó không trái với chính thể
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Các Tòa án binh vừa làm công tác xét xử, vừa làm
công tác điều tra, truy tố, quản lý, giáo dục phạm nhân, tuyên truyền giáo dục
pháp luật. Những quyết nghị của TAQS và Tòa án binh sẽ đem thi hành ngay,
không ai có quyền chống án, trừ trường hợp bản án tuyên xử tử thì tội nhân có
33
quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm [32, tr. 13; 49]. Các TAQS
và Tòa án binh là tiền thân của các TAQS sau này.
Trong giai đoạn toàn quốc kháng chiến Nhà nước đã ban hành nhiều
quy phạm pháp luật TTHS có liên quan đến TAQS. Sắc lệnh số 19/SL ngày
16/02/1947 về tổ chức các tòa án binh trong toàn cõi Việt Nam, Sắc lệnh số
45/SL ngày 25/04/1947 về đặt một tòa án binh tối cao, Thông lệnh số 60/TL
ngày 28/05/1947 của liên bộ quốc phòng- Tư pháp về tổ chức Tòa án binh tại
mặt trận, Sắc lệnh số 59/SL ngày 05/07/1947 về đặt một tòa án binh khu trung
ương. Trong thời kỳ này, thẩm quyền xét xử giữa TAQS và TAND được phân
định cụ thể, Điều 2 Sắc lệnh số 19/SL ngày 16/02/1947 quy định: "Trong một
vụ phạm pháp có cả quân nhân, cả dân thường, việc ấy sẽ do Tòa án binh
hoặc TAQS xét xử tùy ý theo trường hợp và tính cách việc phạm pháp".
Việc tổ chức Tòa án binh tại mặt trận được quy định tại điểm a Thông
lệnh số 60/TL ngày 28/05/1947 của liên bộ Quốc phòng - Tư pháp: ở một số
địa điểm đang tác chiến, có thể lập một Tòa án binh tại mặt trận, do quyết
định của viên chỉ huy mặt trận từ cấp Trung đoàn trưởng trở lên, hoặc quyết
định của một cấp dưới đã được ủy quyền của Trung đoàn trưởng. Tòa án binh
tại mặt trận có quyền xét xử những người thuộc bất cứ hạng nào phạm pháp
quả tang vào ở những địa điểm đương tác chiến, một trong những tội sau này:
- Phản quốc
- Gián điệp
- Cướp bóc, nhũng nhiễu dân chúng
Tòa án binh tại mặt trận có quyền tuyên đến tử hình.
Mỗi khi có những việc phạm pháp thuộc loại trên, Tòa án binh tại mặt
trận sẽ họp để xử ngay và bản án sẽ được thi hành ngay.
Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức TAND năm 1960 được ban
hành, trong đó khẳng định rõ các TAQS thuộc hệ thống TAND là cơ quan xét
xử của Nhà nước được tổ chức trong quân đội, chịu sự giám đốc xét xử của cơ
quan cao nhất là TANDTC và được tổ chức theo những quy định riêng. Đây
34
là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và phát triển hệ thống TAQS thống
nhất gồm hai cấp: gồm TAQS Trung ương, các TAQS quân khu, quân chủng.
Hệ thống tổ chức TAQS hai cấp được duy trì trong suốt cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước cho đến khi ban hành Pháp lệnh tổ chức TAQS năm
1986. Trong giai này quy định về xét xử sơ thẩm đã được Nhà nước ta thời kỳ
này quy định rất chặt chẽ:
Về thẩm quyền xét xử của Tòa án:
Trong thời gian tại ngũ, có việc phạm tội của quân nhân xảy ra trong
quân đội hoặc ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền của TAQS. Trường hợp
quân nhân đào ngũ về phạm tội ở địa phương, nếu TAQS không đưa ra xét xử
thì TAND có thẩm quyền xét xử việc phạm tội của quân nhân ở địa phương,
nhưng trước khi đưa ra xét xử, phải có quyết định của cơ quan quân sự loại
ngũ kẻ phạm tội cũng phải bị loại ngũ trước khi TAND xét xử.
Trong một vụ án có bị cáo là quân nhân, có bị cáo là dân thường, nếu
không thể tách các bị cáo là thường dân xét xử riêng thì TAQS xét xử toàn bộ
vụ án. Nếu có thể tách ra để xét xử, thì TAQS xét xử những quân nhân phạm
tội, còn TAND xét xử những thường dân phạm tội.
Đối với những trường hợp thường dân phạm tội gây thiệt hại cho quân
đội, TAQS xét xử những người phạm tội gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc có
liên quan đến bí mật quốc phòng, với những trường hợp phạm tội khác, viện
kiểm sát quân sự hoặc TAQS có thể chuyển cho viện kiểm sát nhân dân hoặc
TAND truy tố, xét xử.
Về chuẩn bị xét xử sơ thẩm: bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ
thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 16/ TATC ngày 27/09/1974 đã đề cập
đến việc họp trù bị giữa Tòa án với Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, những
trường hợp cần họp trù bị là:
Hồ sơ thiếu những chứng cứ chủ yếu hoặc trong quá trình điều tra có
sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố tụng là cho việc điều tra
không chính xác.
35
Tòa án nhân dân có ý kiến khác với bản cáo trạng về các vấn đề như:
cấu thành tội phạm, năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo, số người bị
đưa ra xét xử tội danh điều luật được áp dụng…
Có những điều kiện phải xét việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Có những lý do để tạm tha bị cáo đang bị tạm giam hoặc cần phải thiết
phải giam bị cáo đang được tại ngoại
Cấm thi hành những biện pháp bảo đảm bồi thường, tịch thu tài sản
hoặc giảm bớt tài sản đã bị kê biên,
Cấm di lý vụ án.
Vụ án thuộc loại cần phải bảo đảm tốt việc truy tố và xét xử để phục
vụ việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được tống đạt
chậm nhất là năm ngày trước khi mở phiên tòa. Nếu vụ án có tính chất
nghiêm trọng, phức tạp thì thời gian đó phải dài hơn.
Về thủ tục tại phiên tòa
Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo Thông
tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TANDTC đã quy định những nguyên tắc
chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, đó là nguyên tắc xét xử công khai, xét
xử trực tiếp bằng lời nói và liên tục. Thông tư đã quy định về trình tự tranh
luận tại phiên tòa như sau:
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách nhiệm bồi thường và
người có tài sản, quyền lợi liên quan đến việc phạm pháp trình bày những lý
lẽ về những vấn đề có liên quan đến quyền lợi của mình.
Đại diện Viện kiểm sát trình bày kết luận của mình về vụ án.
Bị cáo tự bào chữa, nhưng nếu bị cáo có người bào chữa thì sau khi
người bào chữa đã bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền phát biểu bổ sung.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm của các TAQS
của thời kỳ này cho thấy các quy định về xét xử sơ thẩm từng bước được hoàn
36
thiện, bổ sung đáp ứng nhu cầu xã hội mới. Các nguyên tắc cơ bản của xét xử
sơ thẩm được tiếp tục ghi nhận và phát triển nguyên tắc mọi công dân bình đẳng
trước pháp luật; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; nguyên tắc
việc xét xử có Hội thẩm nhân dân và nang quyền với Thẩm phán; nguyên tắc
tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự; nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Tóm lại, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển quy định pháp
luật về xét xử sơ thẩm qua các thời kỳ cho thấy tầm quan trọng của chế định
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong việc bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, ngay từ khi ra đời nhà
nước ta đã có những quan tâm đáng kể cho việc ban hành các văn bản quy
định về vấn đề này, các quy định về xét xử sơ thẩm ngày càng được phát triển
và từng bước hoàn thiện. Thủ tục giải quyết ngày càng được quy định một
cách chặt chẽ, rõ ràng.
Nhìn chung, các quy định về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong
những năm trước khi ban hành BLTTHS đã có những đóng góp quan trọng
trong việc tạo nền móng xây dựng BLTTHS nói chung và chế định xét xử sơ
thẩm nói riêng. Các quy định về thẩm quyền xét xử, nguyên tắc xét xử, thủ
tục tố tụng tại phiên tòa ngày càng được tôn trọng, đảm bảo quyền con người
trong tố tụng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đảm
bảo việc xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật tạo điều kiện nâng cao
chất lượng phiên tòa hình sự sơ thẩm góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế
độ, bảo vệ nhà nước. Từ xét xử theo một thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung
thẩm đến thực hiện chế độ xét xử hai cấp (sơ thẩm, phúc thẩm), các TAQS
Việt Nam đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp chiến đấu,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đã hoàn tốt chức năng, nhiệm vụ được giao:
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến
37
đấu của quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng,
tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa
án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu
tranh, chống và phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
2.1.2. Qui định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về xét xử sơ thẩm
của các Tòa án quân sự
Cùng với công cuộc cải cách kinh tế và cải cách tư pháp hành chính,
Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp và coi đây
là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Nhiều tư tưởng, quan điểm, định hướng về cải cách
tư pháp trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới" đã được pháp luật hóa thành những quy định tương
ứng của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014... cần tiếp tục được pháp luật hóa thành
những quy định của BLTTHS, đồng thời hạn chế được những bất cập của
BLTTHS năm 1988 nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng của hoạt động tư
pháp, đảm bảo tốt hơn quyền tự do dân chủ của công dân, đảm bảo thống
nhất, đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp,
yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. Ngày 26/11/2003
BLTTHS đã được thông qua tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XI. Quốc hội
cũng đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật, theo đó Bộ luật có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 gồm 8 phần, 37 chương và 346 điều luật.
So với BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 đã tăng 1 phần, 5 chương và 49 điều
luật. Bộ luật đã giữ lại những quy định còn phù hợp, loại bỏ những quy định
38
không còn phù hợp, sửa đổi những quy định chưa chặt chẽ, chưa chính xác
hoặc chưa cụ thể, bổ sung và xây dựng những quy định còn thiếu, kết cấu của
Bộ luật, ngôn ngữ, cách diễn đạt... cũng được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về xét xử sơ thẩm tại phần thứ
3, gồm 7 chương và 60 điều luật. Bên cạnh đó còn có nhiều điều luật khác
điều chỉnh chế định này.
2.1.2.1. Quy định về các nguyên tắc cơ bản
Các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2003 gồm 30 nguyên tắc được
quy định từ Điều 3 đến Điều 32.
Về cơ bản, các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2003 là những nguyên
tắc quan trọng, chủ đạo trong hoạt động tố tụng hình sự mà mọi chủ thể tham
gia vào quá trình tố tụng hình sự, mọi cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân phải
quán triệt và tuân thủ để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của BLTTHS là nhằm
chủ động phòng ngừa ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng
và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
So với BLTTHS 1988 thì trong BLTTHS 2003 những nguyên tắc cơ
bản của tố tụng hình sự tiếp tục được quy định thành một chương riêng
(chương II). Bên cạnh một số nguyên tắc được quy định trong BLTTHS 1988
vẫn còn phù hợp và được giữ nguyên, trong BLTTHS 2003 đã có sửa đổi, bổ
sung một số nội dung trong một số nguyên tắc đồng thời xây dựng mới một số
nguyên tắc của tố tụng hình sự. Cụ thể:
- Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3);
- Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4);
- Đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật;
- Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 6);
- Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công
dân (Điều 7);
39
- Tòa án xét xử tập thể (Điều 8);
- Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật (Điều 9);
- Xác định sự thật vụ án (Điều 10);
- Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11);
- Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
(Điều 12);
- Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố
tụng hình sự (Điều 14);
- Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
(Điều 16);
- Xét xử công khai (Điều 18);
- Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19);
- Bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Tòa án (Điều 22);
- Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự (Điều 25);
- Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 31);...
2.1.2.2 Quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của các Tòa án
quân sự
Theo pháp luật tố tụng hình sự hiện hành Việt Nam phân định thẩm
quyền xét xử như sau:
- Tòa án quân sự Khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây:
+ Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
+ Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
+ Các tội quy định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219,
221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322, 323 của BLHS.
40
- Tòa án quân sự cấp Quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAQS Khu vực hoặc những vụ
án thuộc thẩm quyền của TAQS Khu vực mà mình lấy lên để xét xử [21].
Như vậy, TAQS Khu vực xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù, trừ các
tội theo quy định theo quy định tại Khoản 1 Điều 170 BLTTHS.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 29 Pháp lệnh Tổ chức TAQS thì
các TAQS Khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm theo quy định của BLTTHS mà bị cáo khi phạm tội có quân
hàm từ Trung tá trở xuống hoặc là người có chức vụ từ Trung đoàn trưởng
hoặc tương đương trở xuống.
Thẩm quyền xét xử của TAQS cũng đã được quy định tại Điều 3 Pháp
lệnh Tổ chức TAQS và được quy định, hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên
tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA ngày 18/4/2005 của
TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an
hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của TAQS; Quyết định số 79/2004/QĐ-BQP
ngày 07/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc phân định địa bàn xét
xử của TAQS. Trên cơ sở đó có thể xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của
các TAQS như sau [1]:
Thẩm quyền theo đối tượng
Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử mà bị cáo là quân nhân tại ngũ,
công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung
huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối
thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ
quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý, thuộc thẩm quyền xét xử của
TAQS, không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu.
Những vụ án hình sự mà người phạm tội không thuộc các đối tượng
nêu trên chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS nếu họ phạm tội liên quan
đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
41
Trường hợp trong cùng vụ án vừa có người phạm tội hoặc tội phạm
thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm
thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án; nếu có
thể tách ra để xét xử riêng thì TAQS xét xử người phạm tội và tội phạm thuộc
thẩm quyền của mình, người phạm tội và tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét
xử của TAND.
Thẩm quyền xét xử theo thời gian
Đối với những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện
tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ trong quân đội hoặc
những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được
thực hiện trước khi vào quân đội thì TAQS xét xử những tội phạm có liên
quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội; những tội phạm
khác do TAND xét xử.
Việc tính thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời gian phục vụ
trong Quân đội được thực hiện như sau:
- Thời điểm bắt đầu thời gian phục vụ trong quân đội được tính từ:
+ Thời điểm đơn vị quân đội nhận bàn giao quân từ Ban chỉ huy quân
sự địa phương;
+ Thời điểm đã đăng ký tại nơi tuyển dụng làm nhiệm vụ quân sự, nơi
tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên,
tình trạng sẵn sàng chiến đấu, phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục
vụ chiến đấu, nơi được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự và chịu sự quản lý
trực tiếp của các đơn vị quân đội;
+ Thời điểm có mặt tại đơn vị, doanh nghiệp quân đội để thực hiện
hợp đồng lao động.
- Thời gian phục vụ trong quân đội được kết thúc vào:
+ Thời điểm nhận quyết định ra quân trong các trường hợp quân nhân
được phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành, thôi việc, nghỉ hưu, nghỉ mất sức
hoặc nghỉ việc theo các chế độ, chính sách xã hội khác.
42
Trường hợp chiến sĩ xuất ngũ đúng thời hạn mà đơn vị tổ chức cho ra
quân thì thời gian phục vụ quân đội được kết thúc vào thời điểm mà đơn vị
bàn giao cho Ban chỉ huy quân sự địa phương;
+ Thời điểm cắt quân số được ghi trong quyết định cắt quân số hoặc
thời điểm ra quyết định cắt quân số, nếu trong quyết định đó không ghi ngày
cắt quân số đối với trường hợp đào ngũ;
+ Thời điểm tước danh hiệu quân nhân của đơn vị quân đội có thẩm
quyền có hiệu lực đối với trường hợp vi phạm kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật;
+ Thời điểm kết thúc thời hạn tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc
kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu, phối
thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu;
+ Thời điểm hết hạn trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị
quân đội trực tiếp quản lý trong trường hợp không có quyết định của cơ quan
quân sự có thẩm quyền về việc kéo dài thời hạn này;
+ Thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ:
Khác với TAND là xét xử các vụ việc theo địa giới hành chính, TAQS
xét xử theo địa giới hành chính quân sự. Việc phân định địa bàn trong Quân
đội để xác định thẩm quyền xét xử của TAQS do Bộ Quốc phòng quy định cụ
thể: Một TAQS cấp Quân khu hoặc Khu vực có thể xét xử các vụ án xảy ra
trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố.
Ví dụ: TAQS Quân khu 3 có thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là 09 tỉnh,
thành phố; TAQS Khu vực 1 Quân khu 3 có thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
gồm 4 tỉnh, thành phố là: Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng.
Đặc điểm về thẩm quyền xét xử của TAQS còn được thể hiện ở việc
phân định thẩm quyền xét xử giữa TAQS các cấp căn cứ vào chức vụ và bậc
quân hàm của người phạm tội. Nếu bị cáo khi phạm tội hoặc khi bị khởi tố có
quân hàm từ trung tá trở xuống hoặc có chức vụ từ trung đoàn trưởng hoặc
43
tương đương trở xuống thì do TAQS Khu vực xét xử. Đối với những bị cáo
có quân hàm từ Thượng tá trở lên hoặc có chức vụ Phó Sư đoàn trưởng, Phó
Cục trưởng và tương đương trở lên thì do TAQS cấp Quân khu xét xử. Đây là
đặc điểm thể hiện rõ nét đặc thù của quân đội, một tổ chức có quy định chặt
chẽ về cấp bậc quân hàm, về cấp trên cấp dưới, về chỉ huy và phục tùng. Đặc
điểm này đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải có kiến thức pháp lý, chính trị,
xã hội và bậc quân hàm tương ứng mới đủ trình độ, kinh nghiệm để xét xử
những bị cáo có bậc quân hàm chức vụ cao.
Ngoài ra khác với TAND là một Tòa chỉ xét xử những vụ án do một
Viện kiểm sát nhân dân truy tố, một TAQS có thể xét xử những vụ án do
nhiều VKSQS truy tố.
Ví dụ: TAQS Khu vực 1, Quân khu 3 hiện nay xét xử những vụ án do
06 Viện kiểm sát quân sự khu vực truy tố. Đó là các Viện kiểm sát quân sự
khu vực 31, Viện kiểm sát quân sự khu vực 32, Viện kiểm sát quân sự khu
vực 1 Quân chủng Phòng không Không quân, Viện kiểm sát quân sự khu vực
phía Bắc Bộ đội biên phòng, Viện kiểm sát quân sự khu vực Quân đoàn 1,
Viện kiểm sát quân sự khu vực Quân đoàn 2.
2.1.2.3. Quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Chuẩn bị xét xử là giai đoạn đầu tiên trong xét xử sơ thẩm của TAQS.
Giai đoạn này TAQS tiến hành các công việc cần thiết chuẩn bị cho việc mở
phiên tòa, nhằm đảm bảo cho việc xét xử đúng thời hạn luật định và đạt chất
lượng, hiệu quả cao. Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày TAQS thụ lý
vụ án cho đến trước ngày mở phiên tòa.
Sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên
tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định
của BLTTHS. Trước hết Thẩm phán phải căn cứ vào các quy định từ Điều 170
đến Điều 173 BLTTHS, Pháp lệnh Tổ chức TAQS và các văn bản hướng dẫn
để xác định xem vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS mình không.
44
Nếu vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án mình thì báo cáo Chánh án
quyết định chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 174
BLTTHS và các văn bản hướng dẫn. Tiếp theo, Thẩm phán nghiên cứu nội
dung của vụ án.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu thấy có căn cứ theo quy định tại
Điều 179 BLTTHS thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để
điều tra bổ sung; nếu thấy có căn cứ theo quy định tại Điều 180 BLTTHS thì
Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; nếu Viện kiểm sát
rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án thì đình chỉ vụ án theo
quy định tại Điều 181 BLTTHS; nếu thấy vụ án đủ điều kiện để đưa ra xét xử thì
Thẩm phán quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Điều 178 BLTTHS.
Trong giai đoạn này, Thẩm phán còn phải giải quyết khiếu nại, yêu
cầu của những người tham gia tố tụng; quyết định hoặc đề nghị Chánh án, phó
Chánh án Tòa án mình quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn đối với bị can theo quy định tại Điều 177 BLTTHS. Để bảo đảm
cho việc mở phiên tòa, bên cạnh việc lập kế hoạch xét hỏi, dự kiến trước các
tình huống xảy ra, Thẩm phán TAQS còn phải tiến hành triệu tập những
người tham gia tố tụng, chuẩn bị lệnh trích xuất, lệnh dẫn giải bị cáo (trường
hợp bị cáo bị tạm giam), chuẩn bị cho việc áp giải bị cáo hoặc dẫn giải người
làm chứng theo quy định của BLTTHS.
Có thể nói, hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS ở giai đoạn này rất
quan trọng; nó là cơ sở, tiền đề thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo và đảm bảo
cho hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS được khách quan, công bằng, đúng
pháp luật.
* Quy định về thành phần tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm
- Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm.
Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét
xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
45
Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt
có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội
thẩm. Việc quy định này nhằm đảm bảo cho việc xét xử sơ thẩm những vụ án
này toàn diện, khách quan.
- Sự có mặt của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc, nếu
vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Bởi lẽ, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa
sơthẩm để thực hiện nhiệm vụ kiểm sát hoạt động xét xử, tham gia xét hỏi và
tranh luận, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Trong mọi trường hợp kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.
- Sự có mặt của Thư ký tòa án là bắt buộc. Mặc dù trong phần này
không có quy định nào là sự có mặt của Thư ký Tòa án là bắt buộc nhưng căn
cứ Điều 33, Điều 41 BLTTHS thì Thư ký Tòa án cũng là một trong những
người tiến hành tố tụng nên đương nhiên phiên tòa xét xử sơ thẩm phải có sự
tham gia của Thư ký Tòa án.
Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 còn quy định về từ chối, thay đổi những
người tiến hành tố tụng. Những quy định này đảm bảo cho việc xét xử vụ án
được khách quan, toàn diện, đảm bào quyền và lợi ích các đương sự theo
đúng quy định của pháp luật.
- Sự có mặt của bị cáo. Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu
tập; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng
mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.
Trong trường hợp bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo
khác thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh.
Nếu bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu
cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.
Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:
Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả;
Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
46
Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã
được giao giấy triệu tập hợp lệ.
- Người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp
của họ; người làm chứng; người giám định được triệu tập tham gia phiên tòa.
Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có
thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Nếu người bào chữa vắng mặt, thì Tòa
án vẫn tiến hành việc xét xử. Trường hợp bị cáo là người chưa thành niên
hoặc người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần hoặc trường hợp bị cáo bị
truy tố đưa ra xét xử về tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình mà người
bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.
Đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án và đại diện hợp pháp của họ có quyền tham gia phiên tòa.
Nếu họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa hoặc cứ
tiến hành xét xử(nếu sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử, lời
khai của họ ít quan trọng hoặc họ đã có lời khai ở Cơ quan điều tra.
Nếu thấy sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc bị
đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét
xử có thể tách việc bồi thường để xét xử theo thủ tục tố tụng dân sự.
Đối với người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa từng trường hợp, Hội
đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa (nếu xét thấy sự có mặt của họ là cần
thiết) hoặc vẫn tiến hành xét xử. Nếu người làm chứng đã được triệu tập
nhưng cố ý không đến mà không có lí do chính đáng thì Hội đồng xét xử có
thể ra quyết định dẫn giải.
Đối với người giám định vắng mặt tại phiên tòa thì Tòa án hoãn phiên
tòa nếu thấy sự có mặt của họ là cần thiết. Nếu người giám định đã có kết
luận viết và sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử thì Tòa án vẫn
tiến hành xét xử.
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (18)

Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOTLuận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
 
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữLuận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
 
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
 
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sựLuận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Quy định của pháp luật về thủ tục tái thẩm, HAY
Luận văn: Quy định của pháp luật về thủ tục tái thẩm, HAYLuận văn: Quy định của pháp luật về thủ tục tái thẩm, HAY
Luận văn: Quy định của pháp luật về thủ tục tái thẩm, HAY
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOT
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOTLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOT
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOT
 
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAYĐề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 

Similar to Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT

Similar to Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT (20)

Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đTranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
 
Thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam ...
Thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam ...Thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam ...
Thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam ...
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.docGiám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tùQuyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựNhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.docGiới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
 
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂMBài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Recently uploaded (20)

C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 

Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ TUẤN HAI XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ TUẤN HAI XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI - 2015
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Vò TuÊn Hai
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án quân sự 7 1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 7 1.1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 11 1.2. Vai trò, ý nghĩa xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 13 1.3. Quy định xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự một số nước trên thế giới 15 1.3.1. Quy định trong xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 15 1.3.2. Quy định xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự Hoa Kỳ 18 1.3.3. Những kinh nghiệm về quy định xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự trên thế giới có thể vận dụng đối với Tòa án quân sự Việt Nam 19 Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ 24 2.1. Qui định pháp luật về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 24 2.1.1. Pháp luật về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự từ 1945 đến trước năm 2003 24 2.1.2. Qui định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 30
  • 5. 5 2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 47 2.2.1. Tình hình thực tiễn xét xử sơ thẩm sơ thẩm của các Tòa án quân sự từ năm 2009 đến năm 2014 47 2.2.2. Nhận xét, đánh giá 58 2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự 58 2.3.1. Những vướng mắc, bất cập trong quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự 59 2.3.2. Những hạn chế, thiếu sót trong quá trình xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 64 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế 79 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ 83 3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 83 3.1.1. Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp 83 3.1.2. Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự phải gắn liền với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án quân sự 84 3.1.3. Hoạt động xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự phải gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự 85 3.1.4. Hoạt động xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự phải gắn liền với nhiệm vụ xây dựng đội ngũ thẩm phán có chất lượng 86 3.2. Hoàn thiện pháp luật về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 86 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự 86 3.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự 97 KẾT LUẬN 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
  • 6. 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TAQS : Tòa án quân sự
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Tình hình giải quyết xét xử sơ thẩm của các TAQS từ năm 2009 đến năm 2014 48 2.2 Tình hình giải quyết án hình sự sơ thẩm của các TAQS Khu vực từ năm 2009 đến năm 2014 49 2.3 Tình hình giải quyết án hình sự sơ thẩm của các TAQS Quân khu, Quân chủng từ năm 2009 đến năm 2014 49 2.4 Phân tích hình phạt và các biện pháp tha miễn TNHS và áp dụng hình phạt đối với bị cáo bị các TAQS xét xử sơ thẩm từ năm 2009 đến năm 2014 50 2.5 Tỷ lệ các tội phạm chủ yếu mà các TAQS xét xử sơ thẩm từ năm 2009 đến 2014 52 2.6 Tỷ lệ đối tượng phạm tội từ năm 2009 đến năm 2014 của các TAQS 54 2.7 Số bị cáo bị xét xử sơ thẩm có kháng cáo kháng nghị của các TAQS từ năm 2009 đến năm 2014 54 2.8 Chất lượng xét xử sơ thẩm của các TAQS từ năm 2009 đến năm 2014 55
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", công cuộc cải cách tư pháp đã được tổ chức thực hiện với tinh thần quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức về công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày 2/6/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 phù hợp với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu vụ án hình sự, tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan được triệu tập hoặc báo đến phiên tòa; mọi chứng cứ tài liệu của vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố đều được công khai xem xét. Kết quả xét xử sơ thẩm là bản án khẳng định bị cáo có tội hoặc không có tội, tội gì, hình phạt như thế nào, các biện pháp tư pháp cần áp dụng, những kiến nghị với các cơ quan tổ chức về biện pháp khắc phục điều kiện, nguyên nhân phạm tội. Xét xử sơ thẩm được coi là trung tâm của tố tụng hình sự, ở đó hội đồng xét xử đưa ra những phán quyết về tất cả mọi vấn đề liên quan đến vụ án bằng bản án, đồng thời cũng phản ánh kết quả cũng như tính khách quan của các giai đoạn tố tụng trước đó. Vì vậy, xét xử sơ khách quan, công bằng, nghiêm minh, đúng người, đúng tội có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm công lý, góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhận
  • 9. 9 thức tầm quan trọng này, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003 qui định thẩm quyền, thủ tục xét xử sơ thẩm là cơ sở cho hoạt động xét xử của tòa án, trong đó có Tòa án quân sự (TAQS). Vì thế, hoạt động xét xử của TAQS trong đó có xét xử sơ thẩm đã đáp ứng được yêu cầu xử lý tội phạm xảy ra trong quân đội, góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực quốc phòng, bảo đảm nghiêm kỷ cương của quân đội, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS thời gian qua còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu phát triển, xây dựng quân đội chính qui hiện đại. Những hạn chế trong hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS, như: Áp dụng pháp hình sự, dân sự… không chính xác dẫn đến ra quyết định trong bản án không phù hợp thực tế của sự việc; Còn vi phạm thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử sơ thẩm, nhất là thủ tục tranh tụng tại phiên tòa dẫn đến việc giải quyết vụ án không khách quan; Còn xảy ra hiện tượng xét xử chưa nghiêm minh, chưa khách quan, công bằng, còn tình trạng xử nặng, xử nhẹ, chưa đúng tội hoặc lọt người, lọt tội, quyết định bồi thường thiệt hại chưa phù hợp với thực tế, chưa đúng với qui định của pháp luật, một số vụ còn vi phạm thủ tục tố tụng…. Những hạn chế trên đã làm cho chất lượng, hiệu quả xét xử sơ thẩm của các TAQS chưa đáp ứng được đòi hỏi xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh như Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị đã đề ra. Tình hình nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu hoạt động xét xử của các TAQS là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm trong quân đội cũng như đáp ứng đòi hỏi của khoa học pháp lý tố tụng hình sự trong điều kiện triển khai các Nghị quyết về cải cách tư pháp và Hiến pháp 2013. Vì vậy, học viên chọn đề tài: "Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự" làm luận văn tốt nghiệp để góp phần giải quyết các yêu cầu đó.
  • 10. 10 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu chế định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở các mức độ khác nhau đã được một số nhà khoa học, luật gia quan tâm, nghiên cứu và được đề cập trong các công trình, trong các tạp chí, trong một số sách chuyên khảo và giáo trình. Trong các công trình, tạp chí, sách chuyên khảo và giáo trình này bước đầu phân tích và làm rõ những vấn đề xung quanh chế định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong BLTTHS hiện hành, đồng thời đưa ra mô hình lý luận của kiến giải lập pháp về các quy phạm của chế định này trong hệ thống Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chúng ta có thể kể đến như: Các công trình mang tính đại cương: Giáo trình Luật tố tụng hình sự, của Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2009; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, của Võ Khánh Vinh 2009;… Các công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu, liên quan trực tiếp về sơ thẩm trong các TAQS có: Luận văn thạc sĩ luật học "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp" của Nguyễn Văn Huyên năm 1996; Luận văn thạc sĩ luật học "Thẩm quyền xét xử của các Tòa án quân sự" của Đàm Văn Dũng năm 1996; Ngoài ra một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có liên quan đến xét xử sơ thẩm trong các TAQS như: Hoàng Ngọc Thành, về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), số 01 năm 2002; Lê Văn Sua, về áp dụng Điều 4 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002, Tạp chí kiểm sát, số 9/2005; Nguyễn Đình Huề, một số vấn đề về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự, Tạp chí TAND, số 9/2010; Huỳnh Quốc Hùng, cần sửa đổi bổ sung một số nội dung của thông tư liên tịch số 01 ngày 18/4/2005 về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, Tạp chí Kiểm sát số 01/2010; Trần Đăng Khoa, cần sửa đổi bổ sung một số
  • 11. 11 điều của Bộ luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, thẩm quyền thi hành án và quyết định của Tòa án quân sự, Tạp chí kiểm sát số 18/2010; Dương Đại Nghĩa, xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Tòa án quân sự trong quá trình cải cách tư pháp, Tạp chí TAND, số 18/2010;... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu được nghiên cứu chưa thực sự toàn diện và đầy đủ về hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS theo đúng tinh thần cải cách tư pháp hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của chế định xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn của các TAQS cũng như xác định những bất cập và nguyên nhân của nó nhằm đề xuất kiến giải pháp hoàn thiện và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: - Làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của xét xử sơ thẩm: Bản chất của xét xử sơ thẩm, thẩm quyền, thủ tục, xét xử sơ thẩm của TAQS; vai trò, ý nghĩa của của hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS… - Khái quát lịch sử phát triển của chế định xét xử sơ thẩm các TAQS và phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS 2003 cũng như các văn bản pháp luật khác về xét xử sơ thẩm. - Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy định của BLTTHS, Bộ luật hình sự (BLHS) trong thực tiễn xét xử sơ thẩm của các TAQS. - Phân tích những vướng mắc, hạn chế trong các quy định của BLTTHS, BLHS trong hoạt động xét xử sơ thẩm chỉ ra nguyên nhân và đồng thời đưa ra
  • 12. 12 những kiến nghị, giải pháp để khắc phục, hoàn thiện các quy định của BLTTHS, BLHS. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn này tập trung nghiên cứu: Lý luận về xét xử sơ thẩm; các quy định về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của BLTTHS 2003 và thực tiễn xét xử sơ thẩm của các TAQS. Phạm vi nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 về xét xử sơ thẩm và thực trạng của hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS, những tồn tại, vướng mắc, nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này dựa trên việc sử dụng phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về cải cách tư pháp, về tính nhân đạo của pháp luật… Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, v.v… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là công trình chuyên khảo trong khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và đồng bộ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định xét xử sơ thẩm của các TAQS ở cấp độ một luận văn. Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:
  • 13. 13 Ý nghĩa lý luận: Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện một số vấn đề lý luận về chế định xét xử sơ thẩm như: Khái niệm, đặc điểm của xét xử sơ thẩm của các TAQS, các quy định cơ bản của chế định; - Nghiên cứu quy định về xét xử sơ thẩm của TAQS một số nước, đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm có thể vận dụng đối với TAQS Việt Nam. Ý nghĩa thực tiễn: - Phân tích việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong thực tiễn xét xử sơ thẩm của các TAQS từ năm 2009 đến năm 2014, qua đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm các TAQS trong thời gian qua. Đặc biệt, trong phạm vi nhất định, luận văn tập trung chỉ ra một số các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và những nguyên nhân của thực trạng này để tìm ra giải pháp khắc phục. - Đề xuất sửa đổi các quy định của BLHS, BLTTHS cho phù hợp với chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta. - Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng, luận văn đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự để phục vụ tốt yêu cầu của công tác xét xử, yêu cầu của thực tiễn công tác phòng và chống tội phạm cũng như việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm hai chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự. Chương 2: Qui định của pháp luật và thực tiễn xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự.
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự Xét xử là chức năng thuộc về Tòa án, là một giai đoạn tố tụng quan trọng được tiến hành dưới hình thức phiên tòa nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết theo một trình tự luật định những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án. Theo từ điển Luật học: "Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc" [54, tr. 869]. Hoạt động xét xử gắn liền với quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Thông qua hoạt động xét xử, Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước ban hành quyết định để thực thi trên thực tế các quyền và nghĩa vụ chủ thể quan hệ pháp luật hay nói cách khác đó là thực thi quyền tư pháp. Quyền tư pháp là quyền được thực hiện thông qua hoạt động bảo vệ pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tư pháp. Hiến pháp 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [25, tr. 54]. Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua các giai đoạn như: điều tra, truy tố và xét xử. Giai đoạn xét xử là một khâu đặc biệt quan trọng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các giai đoạn tố tụng trước (điều tra, truy tố), các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ điều tra thu thập chứng cứ làm cơ sở cho quá trình giải quyết vụ án chưa thể quyết định
  • 15. 15 người đó có tội hay không có tội. Để xác định một người có tội hay không có tội phải thông qua một phiên tòa, tại đó mọi chứng cứ tài liệu của vụ án do cơ quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau được tranh luận từ đó tạo điều kiện cho Tòa án ra bản án đúng pháp luật. Có thể nói xét xử sơ thẩm được xác định như một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự là đỉnh cao của quyền tư pháp, tại phiên tòa quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất. Theo Từ điển Luật học: "Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền" [54, tr. 869]. Theo Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội: "Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật" [47, tr. 345]. Theo Giáo trình luật tố tụng hình sự của Khoa Luật - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội: Xét xử sơ thẩm được hiểu là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền thay mặt Nhà nước tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện, tổng thể vụ án hình sự trên cơ sở bản cáo trạng của Viện kiểm sát, xem xét đánh giá chứng cứ và dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm làm cơ sở để ra các phán quyết công minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng bản án và quyết định của mình [6, tr. 359]. Theo GS.TSKH Lê Cảm: Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm và: Quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố
  • 16. 16 tụng hình sự tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục [2]. Tòa án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thuộc hệ thống TAND được tổ chức trong quân đội. Bằng hoạt động xét xử của mình, TAQS cấp sơ thẩm có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng và của các công dân khác góp phần giáo dục quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, điều lệnh của quân đội, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Hoạt động xét xử của TAQS tuân thủ những nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định trong BLTTHS, đó là để tuyên bố một người có tội và
  • 17. 17 phải chịu hình phạt nhất thiết phải thông qua việc xét xử tại phiên tòa của Hội đồng xét xử. Một người chỉ bị coi là có tội khi người đó bị tòa án xét xử và kết án bằng bản án theo đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS cũng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như: Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; Nguyên tắc xét xử tập thể quyết định theo đa số; Nguyên tắc xét xử công khai; Đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Thông qua hoạt động xét xử, TAQS mới ban hành bản án, quyết định tuyên bố một người có tội hoặc không có tội, từ đó áp dụng hình phạt hay khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể nào đó. Đồng thời, cũng thông qua hoạt động xét xử mà bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quân đội, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm và đặc biệt là qua các phiên tòa công khai góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác. Như vậy, xét xử sơ thẩm của các TAQS là hoạt động của Hội đồng xét xử sơ thẩm của TAQS cấp Quân khu, TAQS cấp khu vực nhân danh Nhà nước, căn cứ vào pháp luật, tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự để đưa ra phán quyết (bằng một bản án hình sự) giải quyết một vụ án cụ thể ở cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm đều là xét xử lần đầu. Trường hợp Tòa án có thẩm quyền xem xét ra quyết định hủy bản án để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại theo quy định tại Điều 250, 287 và Điều 300 của BLTTHS năm 2003 thì việc xét xử sơ thẩm lại không phải là xét xử lần đầu tiên. Từ những phân tích trên có thể nêu ra khái niệm xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAQS như sau: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự là việc
  • 18. 18 Tòa án quân sự xét xử lần đầu vụ án hình sự thuộc thẩm quyền và quyết định bị cáo có phạm tội hay không; nếu phạm tội gì theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự và quyết định áp dụng loại mức hình phạt nào đối với người phạm tội. 1.1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự Xét xử sơ thẩm của TAQS có những đặc điểm chung như xét xử sơ thẩm của TAND đồng thời còn có những đặc điểm riêng chi phối quá trình xét xử của TAQS. Những đặc điểm có tính đặc thù đó là: Thứ nhất, TAQS chỉ xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, TAQS không giải quyết vụ án dân sự độc lập hoặc giải quyết các vụ án kinh tế lao động và hôn nhân gia đình. Do vậy, khi xét xử sơ thẩm, các TAQS phải chú ý giải quyết triệt để các vấn đề dân sự vì việc tách phần dân sự để xét xử riêng rất phức tạp, không kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho đương sự. Trong trường hợp đặc biệt không thể giải quyết được thì TAQS tách phần dân sự để xét xử riêng, đồng thời phải hướng dẫn cho đương sự khởi kiện vụ án dân sự trước TAND. Theo qui định của pháp luật, nguyên tắc hai cấp xét xử được thiết lập ở các nước cũng như ở Việt Nam, Điều 20 của BLTTHS 2003 quy định: Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này… [21]. Đây là đặc điểm riêng biệt của xét xử sơ thẩm. Thứ hai, chỉ xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của TAQS. TAQS chỉ xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý, thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu. Những vụ án hình sự mà người phạm tội không thuộc các đối tượng quy định
  • 19. 19 nêu trên chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS nếu họ phạm tội liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Đặc điểm về thẩm quyền xét xử của TAQS còn được thể hiện ở việc phân định thẩm quyền xét xử giữa TAQS các cấp căn cứ vào chức vụ và bậc quân hàm của người phạm tội. Nếu bị cáo khi phạm tội hoặc bị khởi tố có quân hàm từ Trung tá trở xuống hoặc có chức vụ tương đương Trung đoàn trưởng trở xuống thì do TAQS xét xử sơ thẩm. Đối với những bị cáo có quân hàm từ Thượng tá trở lên thì do TAQS xét xử sơ thẩm. Đây là đặc điểm thể hiện rõ nét đặc thù của quân đội, một tổ chức có quy định chặt chẽ về cấp bậc quân hàm, về cấp trên cấp dưới và về chỉ huy phục tùng. Đặc điểm này đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải có kiến thức pháp lý, chính trị, xã hội và bậc quân hàm tương ứng, có kinh nghiệm để xét xử những bị cáo có bậc quân hàm, chức vụ theo thẩm quyền xét xử của từng cấp TAQS. Thứ ba, người tiến hành tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAQS có những đặc điểm khác với phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAND. Người tiến hành tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAQS là Thẩm phán TAQS, Hội thẩm quân nhân, Thư ký TAQS và Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự. Thẩm phán TAQS tham gia Hội đồng xét xử ngoài tiêu chuẩn chung theo quy định của pháp luật, để được Chủ tịch nước bổ nhiệm còn phải có tiêu chuẩn đặc thù là sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam. Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự cũng là những sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, các Hội thẩm quân nhân là sĩ quan quân đội hoặc công nhân viên quốc phòng. Có kiến thức pháp lý cần thiết theo quy định của pháp luật. Thứ tư, TAQS có địa bàn xét xử rộng, nghi thức phiên tòa hình sự sơ thẩm khác TAND. Do địa bàn xét xử của TAQS rất rộng nên công tác chuẩn bị xét xử, triệu tập người đến phiên tòa đòi hỏi TAQS phải chủ động, nắm chắc địa bàn xét xử và thực hiện nghiêm ngặt các thời hạn do BLTTHS quy định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Mặt khác, để phục vụ nhiệm vụ chính trị của các đơn vị và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn quản
  • 20. 20 hạt nên phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAQS thường phải tổ chức lưu động, xa trụ sở. Trong các phiên tòa lớn, phiên tòa xét xử lưu động, phiên tòa xét xử điển hình thường có tiêu binh thực hiện phần nghi thức và làm phần tiêu binh trong suốt quá trình xét xử của TAQS. TAND không có đặc điểm này. Thứ năm, về mối quan hệ giữa TAQS và Viện kiểm sát quân sự. TAND và Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo địa bàn hành chính lãnh thổ. Mỗi TAND chỉ phải quan hệ tố tụng với một Viện kiểm sát nhân dân. Trong quân đội do hệ thống tổ chức của hai hệ thống TAQS và Viện kiểm sát quân sự khác nhau, không theo nguyên tắc chung. Do vậy, hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS ở cấp quân khu cũng như khu vực phải quan hệ tố tụng với nhiều Viện kiểm sát quân sự. Đặc điểm này đòi hỏi TAQS phải xây dựng mối quan hệ phối thuộc với các Viện kiểm sát quân sự, thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm để tạo sự thống nhất đảm bảo hoạt động xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 1.2. VAI TRÒ, Ý NGHĨA XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ Pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội, là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực trên quy mô toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã hội; là phương tiện bảo đảm cho quần chúng nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Chính vì vậy mà xét xử sơ thẩm của TAQS có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng. Xét xử sơ thẩm của các TAQS góp phần xây dựng và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, quân đội nhân dân. Trên phương diện thực tiễn, hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS chính là việc thực thi nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền tự do dân chủ, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Chính vì vậy, xét xử sơ thẩm của TAQS có vai trò to lớn trong việc
  • 21. 21 bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mọi hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ đều được xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS. Xét xử sơ thẩm của các TAQS góp phần duy trì trật tự, kỷ luật quân đội, nâng cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS, mọi hành vi vi phạm pháp luật của quân nhân và mọi hành vi xâm phạm, gây thiệt hại cho quân đội đều bị trừng trị thích đáng và phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Việc xử phạt người phạm tội ngoài mục đích trừng trị người đó, nó còn có tác dụng to lớn trong việc giáo dục cho bộ đội ý thức chấp hành pháp luật, chấp hành kỷ luật quân đội. Đây là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, giúp cho bộ đội tránh được những vi phạm pháp luật, kỷ luật xảy ra trong công tác, trong cuộc sống; góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng chính quy, tinh nhuệ, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và khả năng sẵn sàng chiến đấu, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xét xử sơ thẩm của các TAQS góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói riêng. Thông qua hoạt động xét xử những tư duy pháp lý mới được hình thành và chỉ có thông qua thực tiễn xét xử các quy phạm pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật hình sự nói riêng mới được kiểm nghiệm về tính phù hợp với thực tiễn và yêu cầu của xã hội. Trên cơ sở đó phát hiện những quy phạm pháp luật còn chung chung khó hiểu hoặc hiểu theo nhiều cách, những quy phạm pháp luật không còn phù hợp để đề nghị sửa đổi, bổ sung. Mặt khác, cũng qua hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS những dạng tội phạm mới (trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, môi trường…) mà pháp luật hiện hành chưa có quy phạm điều chỉnh được phát hiện. Từ đó, tạo cơ sở cho việc đề xuất hướng bổ sung những tội phạm mới này.
  • 22. 22 Xét xử sơ thẩm của các TAQS của góp phần phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn. Phần lớn các phiên tòa sơ thẩm của các TAQS đều được xét xử lưu động. Thông qua các phiên tòa xét xử công khai, đặc biệt là các phiên tòa xét xử lưu động, kiến thức pháp luật đã được chuyển tải đến cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, việc xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo, việc tranh luận tại phiên tòa và các phán quyết của Tòa án là "kênh" chuyển tải kiến thức pháp luật một cách trực tiếp, cụ thể, sinh động và hiệu quả nhất đến cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Qua phiên tòa, họ nắm được các quy định của pháp luật, họ hiểu được nguyên nhân, điều kiện phạm tội và hậu quả phải gánh chịu của việc phạm tội. Từ đó, hình thành ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Vì vậy, việc mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đặc biệt là việc tăng cường xét xử lưu động của các TAQS có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao kiến thức pháp luật, sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. 1.3. QUY ĐỊNH XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.3.1. Quy định trong xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa TAQS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một bộ phận của hệ thống TAND Trung Hoa được tổ chức trong quân đội để thực hiện nhiệm vụ giải quyết các vụ án hình sự có liên quan đến Quân đội. Việc thành lập TAQS trong hệ thống TAND là dựa trên những đặc điểm riêng biệt của quân đội như tổ chức theo từng Quân khu hay Khu vực, từng Quân chủng thực hiện những nhiệm vụ riêng biệt cũng như tính chất của các vụ án xảy ra trong quân đội.
  • 23. 23 Mục đích và nhiệm vụ của các TAQS là xét xử các tội phạm gây nguy hại đến quốc phòng và an ninh quốc gia, bảo vệ an ninh lãnh thổ, hệ thống pháp luật và các điều lệnh quân đội, tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quân nhân cũng như nhân dân. Tòa án quân sự trong Quân đội Trung Hoa được tổ chức thành ba cấp là TAQS quân giải phóng nhân dân tương đương TAQS trung ương ở Việt Nam, TAQS đại Quân khu và các ngành chuyên biệt của Quân đội; TAQS Khu vực. Các TAQS Trung Hoa xét xử các vụ án hình sự mà người phạm tội là quân nhân trong quân ngũ, người được hưởng lương từ nguồn ngân sách quân đội và các vụ án hình sự khác mà Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) giao cho TAQS xét xử. TAQS Trung Hoa thực hiện chế độ xét xử hai cấp; Tòa án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền phúc thẩm lại bản án của TAQS cấp dưới trực tiếp của mình. Án hình sự Trung Hoa được phân chia thành 02 dạng là án công tố và án tư tố: Đối với án công tố là án do viện kiểm sát quân sự đề nghị truy tố: Sau khi thẩm tra vụ án viện kiểm sát quân sự đã đề nghị truy tố, TAQS phải quyết định mở phiên tòa xét xử nếu cáo trạng đã nêu đầy đủ được các tình tiết, chứng cứ phạm tội rõ ràng, ngoài ra còn có danh sách chứng cứ và nhân chứng cũng như bản sao hoặc ảnh của các chứng cứ quan trọng gửi kèm. TAQS phải Quyết định mở phiên tòa ấn định thời gian, địa điểm mở phiên tòa, thành viên hội đồng xét xử và phải thông báo cho viện kiểm sát quân sự và các đương sự biết thời gian, địa điểm mở phiên tòa trong thời hạn tối thiểu 03 ngày trước khi mở phiên tòa. Quyết định mở phiên tòa là quyết định áp dụng pháp luật rất quan trọng của TAQS Trung Hoa là văn bản đánh dấu quá trình xét xử sơ thẩm của TAQS Trung Hoa, Quyết định mở phiên tòa rất giống với Quyết định đưa vụ án ra xét xử của TAQS Việt Nam.
  • 24. 24 Đối với các vụ án tư tố là: các vụ án chỉ có thể được giải quyết dựa trên cơ sở khiếu nại, tố cáo; các vụ án mà người bị hại có chứng cứ chứng minh là các vụ án ít nghiêm trọng; các vụ án mà người bị hại có chứng cứ chứng minh rằng bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật bởi vì hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền cá nhân hoặc quyền tài sản của họ, trong khi đó, cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát quân sự không truy cứu trách nhiệm hình sự của bị cáo. Sau khi thẩm tra án tư tố, TAQS Trung Hoa phải giải quyết theo từng trường hợp sau đây: Một là, nếu tình tiết phạm tội rõ ràng, chứng cứ đầy đủ, vụ án phải được xét xử tại phiên tòa; Hai là, trong trường hợp vụ án tư tố thiếu chứng cứ buộc tội, nếu tư tố viên không thể xuất trình chứng cứ bổ sung, TAQS phải thuyết phục người này rút lại việc truy tố hoặc ra lệnh bác bỏ việc truy tố. Nếu tư tố viên, sau khi đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, hoặc nếu bỏ ra khỏi phiên tòa mà không được sự cho phép của Tòa án, vụ án có thể bị coi là đã bị người này rút lại. Tòa án quân sự Trung Hoa trong quá trình xét xử phải ban hành Bản án hình sự với nội dung là một trong những phán quyết sau: Một là, nếu các tình tiết của vụ án rõ ràng, chứng cứ đáng tin cậy và đầy đủ, và bị cáo bị cho là có tội theo luật thì tuyên có tội Hai là, nếu bị cáo được cho là vô tội theo luật thì tuyên vô tội; Ba là, nếu chứng cứ không đầy đủ và do đó bị cáo không thể bị coi là có tội thì phải tuyên vô tội vì chứng cứ không đủ và việc truy tố không có cơ sở. Trong vụ án được tuyên tại tòa, thì phải chuyển các quyết định cho các bên đương sự và viện kiểm sát quân sự tiến hành truy tố trong thời hạn 05 ngày. Trong trường hợp bản án hình sự được tuyên sau đó trong một ngày được ấn định, thì phải chuyển bản án hình sự ngay sau khi tuyên án cho các bên đương sự và viện kiểm sát quân sự tiến hành truy tố.
  • 25. 25 Bản án hình sự phải có chữ ký của các thành viên trong hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa, đồng thời ghi rõ thời hạn kháng cáo và tên TAQS sẽ xét xử phúc thẩm. Đối với việc ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử TAQS không có thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung. TAQS ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa nếu kiểm sát viên thấy rằng vụ án mình truy tố cần điều tra bổ sung, và kiến nghị điều này. 1.3.2. Quy định xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự Hoa Kỳ Quân đội Hoa Kỳ không có hệ thống TAQS được tổ chức độc lập và hoạt động thường xuyên để xét xử vụ án từ cấp sơ thẩm đến cấp phúc thẩm như ở Việt Nam. Tòa án ở cấp sơ thẩm chỉ được lập khi cần thiết để xét xử quân nhân vi phạm pháp luật và thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của Luật tư pháp quân sự thống nhất. - Về thẩm quyền: TAQS Hoa Kỳ chỉ xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo là sĩ quan, quân nhân thuộc lực lượng vũ trang Hoa Kỳ xảy ra trong doanh trại quân đội. Tùy từng loại Tòa án binh mà nó có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự theo đối tượng và mức khung hình phạt áp dụng đối với tội mà bị cáo phạm. Tòa án binh giản lược có thẩm quyền xét xử tất cả quân nhân (trừ sĩ quan quân đội); học viên trường sĩ quan lục quân, học viên trường sĩ quan không quân, học viên trường hải quân phạm các tội được quy định trong luật tư pháp quân sự thống nhất mà người có thẩm quyền thành lập đề nghị đưa ra xét xử tại Tòa án binh. Tòa án binh đặc biệt có thẩm quyền xét xử các quân nhân và sĩ quan trong Quân đội mà hình phạt áp dụng đối với bị cáo không phải là tử hình, tước quân tịch, buộc rời khỏi quân ngũ, giam giữ trên 6 tháng, cải tạo lao động không giam giữ trên 3 tháng, tịch quá 2/3 lương/tháng hoặc tịch thu lương quá 6 tháng.
  • 26. 26 Tòa án binh thẩm quyền chung có thẩm quyền xét xử đối với tất cả các sĩ quan về các tội danh và hình phạt theo quy định của luật tư pháp quân sự thống nhất kể cả khi hình phạt đối với bị cáo là tử hình. Sau khi có bản án của Tòa án binh, bản án này sẽ được người có thẩm quyền thành lập Tòa án binh đó xem xét lại phê chuẩn. Bản án sẽ chỉ được phê chuẩn nếu người có thẩm quyền triệu tập thấy rằng việc xác định hành vi phạm tội là có căn cứ và hình phạt áp dụng đối với bị cáo là tương ứng với hành vi phạm tội. Người có thẩm quyền triệu tập này có thể phê chuẩn hoặc sửa đổi những nội dung trong bản án về xác định hành vi phạm tội và hình phạt đối với bị cáo hoặc không chấp nhận việc xác định tội danh của Tòa án binh và chuyển nó thành một tội danh khác nhẹ hơn. Người có thẩm quyền thành lập Tòa án binh cũng có thể bác bỏ một phần hoặc toàn bộ bản án về xác định tội danh và hình phạt. Tuy nhiên, nếu Tòa án xác định là bị cáo không có tội thì người này lại không thể bác bỏ bản án và kết án bị cáo là tội phạm được. 1.3.3. Những kinh nghiệm về quy định xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự trên thế giới có thể vận dụng đối với Tòa án quân sự Việt Nam Về tổ chức Tòa án quân sự Nghiên cứu các mô hình tổ chức TAQS trong quân đội ở các nước trên thế giới có thể thấy hai loại cơ bản: mô hình TAQS thường trực và mô hình Tòa án binh. Mô hình TAQS thường trực: Là mô hình mà ở đó các TAQS được thành lập với cơ cấu nhân sự chỉ thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án thuộc thẩm quyền của TAQS. Đại diện mô hình này là Trung Quốc, các TAQS ở nước này được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở và chia ra thành các cấp xét xử khác nhau. Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử phúc thẩm đối với vụ án mà bản án của Tòa án cấp dưới trực tiếp đã xét xử sơ thẩm. Ở Trung Quốc các TAQS nằm trong hệ thống TAND, xét xử theo luật chung của Nhà nước ban hành.
  • 27. 27 Điểm mạnh của mô hình trên là tính chuyên nghiệp của TAQS trong công tác xét xử. TAQS giải quyết vụ án theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và đảm bảo các quyền cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với bị cáo. Người phạm tội sẽ được các cơ quan tư pháp trong quân đội như cơ quan điều tra, công tố xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự trước khi chuyển cho Tòa án để xét xử theo thẩm quyền. Với quá trình tố tụng như vậy, hành vi phạm tội của người phạm tội được xem xét rất kỹ lưỡng. Đội ngũ cán bộ TAQS được chuyên môn hóa, được đào tạo cơ bản, bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử thường xuyên nên có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn cũng như năng lực thực hành. Biên chế của TAQS ổn định, tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là xét xử ít bị chi phối bởi các nhiệm vụ quân sự khác. Mô hình Tòa án binh: Mô hình này có đặc điểm khác biệt với mô hình là các TAQS cấp thấp nhất, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án không phải là các TAQS thường trực mà chỉ được thành lập bằng một quyết định của người chỉ huy có thẩm quyền khi cần thiết để xét xử quân nhân vi phạm pháp luật trong đơn vị. TAQS thường trực chỉ được thành lập ở cấp xét xử phúc thẩm, thượng thẩm. Đại diện của mô hình này là Mỹ. Ở Mỹ có ba loại Tòa sơ thẩm: Tòa án binh giản lược, Tòa án binh đặc biệt và Tòa án binh thẩm quyền chung. Nếu bị cáo không đồng ý với quyết định của Tòa sơ thẩm thì có quyền kháng cáo lên cấp phúc thẩm. Các Tòa phúc thẩm là các Tòa án thường trực được tổ chức trong Quân đội để xem xét lại các bản án của Tòa án binh đã được người chỉ huy có thẩm quyền thành lập Tòa án binh phê chuẩn. Ở mỗi Quân chủng, có một Tòa phúc thẩm loại này và nó có nhiệm vụ xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm các bản án do Tòa án binh trong Quân chủng đó đã ban hành. Trên Tòa hình sự phúc thẩm của các Quân chủng thì có Tòa thượng thẩm Liên bang cho toàn lực lượng Quận đội Hoa Kỳ. Trong quân đội Mỹ chỉ có một Tòa thượng thẩm gồm 5 thẩm phán với nhiệm kỳ là 15 năm. Ưu điểm của mô hình này là có xu hướng gọn nhẹ vì những vụ án đơn giản thì người chỉ huy có thẩm quyền có thể tự mình giải quyết được theo thủ
  • 28. 28 tục rút gọn, hệ thống TAQS không cồng kềnh, biên chế ít, vụ việc xảy ra được giải quyết nhanh vì không phải qua các trình tự tố tụng rườm rà như điều tra, truy tố. Tuy nhiên, nếu tổ chức theo mô hình này dẫn đến nhiều tồn tại bất cập như Tòa án binh của Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Thể hiện việc xử lý tội phạm, vi phạm pháp luật trong đơn vị phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người chỉ huy. Một vụ án xảy ra, người chỉ huy thấy cần giải quyết bằng Tòa án thì thành lập Tòa án binh, nếu không muốn thì thôi, dẫn đến việc xử lý không triệt để, bỏ lọt tội phạm. Do không có cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nên người chỉ huy giải quyết vụ việc không theo thủ tục tư pháp, không đảm bảo đầy đủ được các quyền của những người tham gia tố tụng. Các thẩm phán xét xử là những sĩ quan kiêm nhiệm, không phải là những người chuyên trách nên trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử thấp, chất lượng xét xử không cao. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tổ chức các TAQS theo mô hình các Tòa án thường trực là có hiệu quả, phù hợp với cơ cấu tổ chức Nhà nước và Quân đội của Nhà nước pháp quyền XHCN đáp ứng yêu cầu xây dựng nền tư pháp dân chủ, hiện đại vì quyền con người. Tuy nhiên để tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động của TAQS thì cần phải thu hẹp tổ chức, giảm biên chế hơn nữa để đảm bảo số lượng cán bộ trong ngành TAQS tương ứng với số vụ án đưa ra xét xử tại Tòa án, tiết kiệm được ngân sách cho Nhà nước. Về thẩm quyền xét xử Nghiên cứu thẩm quyền xét xử của TAQS các nước thấy rằng mỗi nước thẩm quyền của TAQS được quy định khác nhau, phụ thuộc vào chế độ chính trị, mô hình tổ chức các cơ quan Nhà nước và vị trí, vai trò của quân đội trong hệ thống chính trị. Thẩm quyền xét xử của TAQS các nước được xác định theo hai khuynh hướng sau: - Khuynh hướng quy định thẩm quyền rộng: Ngoài quân nhân phạm tội thì những người khác do quân đội quản lý phạm tội hoặc tội phạm liên
  • 29. 29 quan đến quốc phòng an ninh đều do TAQS xét xử. Các TAQS Trung Quốc có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà người phạm tội là quân nhân trong quân ngũ, người được hưởng lương từ nguồn ngân sách quân đội và các vụ án hình sự khác mà TANDTC giao cho TAQS xét xử thường là các vụ án liên quan đến quốc phòng-an ninh. - Khuynh hướng quy định thẩm quyền hẹp. Đại diện cho khuynh hướng này là các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa. Ở các nước này, TAQS chỉ xét xử quân nhân phạm tội. Cụ thể như TAQS Mỹ thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo là sĩ quan, quân nhân thuộc lực lượng vũ trang. Tóm lại, nghiên cứu tổ chức và thẩm quyền xét xử của TAQS các nước trên thế giới, so sánh với TAQS của Việt Nam, chúng tôi cho rằng hệ thống TAQS được tổ chức thường trực trong quân đội là phù hợp với Việt Nam và thẩm quyền xét xử như hiện nay là hợp lý. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Xét xử sơ thẩm của các TAQS là việc TAQS xét xử lần đầu vụ án hình sự thuộc thẩm quyền và quyết định bị cáo có phạm tội hay không; nếu phạm tội gì theo điều khoản nào của BLHS và quyết định áp dụng loại mức hình phạt nào đối với người phạm tội. Xét xử sơ thẩm của các TAQS có những đặc điểm chung như xét xử sơ thẩm của TAND đồng thời còn có những đặc điểm riêng chi phối quá trình xét xử của TAQS như: TAQS chỉ xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự;, chỉ xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của TAQS; Người tiến hành tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAQS là Thẩm phán TAQS, Hội thẩm quân nhân, Thư ký TAQS và Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự; TAQS có địa bàn xét xử rộng, nghi thức phiên tòa hình sự sơ thẩm khác TAND;, về mối quan hệ giữa TAQS và Viện kiểm sát quân sự. Hoạt động xét xử sơ thẩm của các TAQS vai trò, ý nghĩa rất quan trọng: Xét xử sơ thẩm của các TAQS góp phần xây dựng và bảo vệ pháp chế
  • 30. 30 xã hội chủ nghĩa; duy trì trật tự, kỷ luật quân đội, nâng cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội; góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói riêng; xét xử sơ thẩm của các TAQS còn góp phần phổ biến giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn. Nghiên cứu tổ chức và thẩm quyền xét xử của TAQS một nước trên thế giới, so sánh với TAQS của Việt Nam, chúng tôi cho rằng hệ thống TAQS được tổ chức thường trực trong quân đội là phù hợp với Việt Nam và thẩm quyền xét xử như hiện nay là hợp lý.
  • 31. 31 Chương 2 QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ 2.1. QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA CÁC TÒA ÁN QUÂN SỰ 2.1.1. Pháp luật về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự từ 1945 đến trƣớc năm 2003 Xuất phát từ học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Tòa án nói chung và TAQS nói riêng là công cụ hữu hiệu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để kịp thời trấn áp sự phản kháng của bọn phản cách mạng và tội phạm nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ vững nền độc lập của dân tộc; bảo vệ chính quyền cách mạng, sức mạnh chiến đấu của quân đội, giữ vững an ninh trật tự xã hội cho nhân dân. Vì vậy, ngay sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33C-SL về việc thành lập các TAQS trong phạm vi cả nước. Theo Sắc lệnh này, các TAQS có thẩm quyền xét xử tất cả các người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trừ khi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật (Điều 2) [32, tr. 12]. Ngày 15/01/1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 07/SL bổ sung thẩm quyền xét xử cho các TAQS xét xử cả những việc bắt cóc tống tiền, ám sát và những tội phạm khác [32, tr. 22]. Do khó khăn phức tạp về thông tin liên lạc trong điều kiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước, để kịp thời bảo vệ sức mạnh chiến đấu của quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946 (về thành lập Tòa án binh lâm thời đặt trụ sở tại Hà Nội), Sắc lệnh số 19/SL ngày 16/02/1947 và Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp ban hành Thông
  • 32. 32 lệnh số 60 ngày 28/5/1947 thành lập các Tòa án binh trên toàn cõi Việt Nam. Theo các văn bản này, các Tòa án binh gồm một Chánh án và hai Hội thẩm; một ủy viên chính phủ buộc tội và một lục sự ghi chép và có thẩm quyền xét xử các quân nhân và thường dân phạm bất cứ tội gì gây thiệt hại cho quân đội. Cũng như các TAQS, các Tòa án binh không phải là cơ quan chuyên trách mà chỉ thành lập khi có vụ việc xảy ra. Theo sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946 về tổ chức Tòa án binh lâm thời đã được quy định thẩm quyền của TAQS, cụ thể Điều 2 Sắc lệnh quy định: " Tòa án binh lâm thời có thẩm quyền xét xử: - Các quân nhân phạm pháp bất cứ về tội gì, trừ những tội vi cảnh thuộc thẩm quyền của các Tòa án tư pháp và những "thường tội" định ở Điều 43 Sắc lệnh số 71/SL ngày 22/05/1946 thuộc quyền nghị phạt của cấp chỉ huy quân đội. - Những nhân viên các ngành chuyên môn trong quân đội, những người làm việc trong quân đội như: công nhân, chủ thầu khi phạm pháp có liên quan đến quân đội. - Những người thuộc bất cứ hạng nào mà phạm pháp ở trong các đồn trại, quân y viện, nhà lao binh, hoặc một cơ quan nào của quân đội hoặc phạm pháp làm thiệt hại đến quân đội". Cán bộ làm công tác xét xử của các TAQS và Tòa án binh chủ yếu do những cán bộ chỉ huy trong quân đội kiêm nhiệm (trừ một Hội thẩm chuyên môn do cơ quan tư pháp cử ra). Do pháp luật của Nhà nước ta ban hành còn rất ít, nên khi xét xử các TAQS, các Tòa án binh vừa phải vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước dân chủ cộng hòa, vừa phải vận dụng các quy định pháp luật của chế độ cũ, nếu các quy định đó không trái với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa. Các Tòa án binh vừa làm công tác xét xử, vừa làm công tác điều tra, truy tố, quản lý, giáo dục phạm nhân, tuyên truyền giáo dục pháp luật. Những quyết nghị của TAQS và Tòa án binh sẽ đem thi hành ngay, không ai có quyền chống án, trừ trường hợp bản án tuyên xử tử thì tội nhân có
  • 33. 33 quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm [32, tr. 13; 49]. Các TAQS và Tòa án binh là tiền thân của các TAQS sau này. Trong giai đoạn toàn quốc kháng chiến Nhà nước đã ban hành nhiều quy phạm pháp luật TTHS có liên quan đến TAQS. Sắc lệnh số 19/SL ngày 16/02/1947 về tổ chức các tòa án binh trong toàn cõi Việt Nam, Sắc lệnh số 45/SL ngày 25/04/1947 về đặt một tòa án binh tối cao, Thông lệnh số 60/TL ngày 28/05/1947 của liên bộ quốc phòng- Tư pháp về tổ chức Tòa án binh tại mặt trận, Sắc lệnh số 59/SL ngày 05/07/1947 về đặt một tòa án binh khu trung ương. Trong thời kỳ này, thẩm quyền xét xử giữa TAQS và TAND được phân định cụ thể, Điều 2 Sắc lệnh số 19/SL ngày 16/02/1947 quy định: "Trong một vụ phạm pháp có cả quân nhân, cả dân thường, việc ấy sẽ do Tòa án binh hoặc TAQS xét xử tùy ý theo trường hợp và tính cách việc phạm pháp". Việc tổ chức Tòa án binh tại mặt trận được quy định tại điểm a Thông lệnh số 60/TL ngày 28/05/1947 của liên bộ Quốc phòng - Tư pháp: ở một số địa điểm đang tác chiến, có thể lập một Tòa án binh tại mặt trận, do quyết định của viên chỉ huy mặt trận từ cấp Trung đoàn trưởng trở lên, hoặc quyết định của một cấp dưới đã được ủy quyền của Trung đoàn trưởng. Tòa án binh tại mặt trận có quyền xét xử những người thuộc bất cứ hạng nào phạm pháp quả tang vào ở những địa điểm đương tác chiến, một trong những tội sau này: - Phản quốc - Gián điệp - Cướp bóc, nhũng nhiễu dân chúng Tòa án binh tại mặt trận có quyền tuyên đến tử hình. Mỗi khi có những việc phạm pháp thuộc loại trên, Tòa án binh tại mặt trận sẽ họp để xử ngay và bản án sẽ được thi hành ngay. Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức TAND năm 1960 được ban hành, trong đó khẳng định rõ các TAQS thuộc hệ thống TAND là cơ quan xét xử của Nhà nước được tổ chức trong quân đội, chịu sự giám đốc xét xử của cơ quan cao nhất là TANDTC và được tổ chức theo những quy định riêng. Đây
  • 34. 34 là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và phát triển hệ thống TAQS thống nhất gồm hai cấp: gồm TAQS Trung ương, các TAQS quân khu, quân chủng. Hệ thống tổ chức TAQS hai cấp được duy trì trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho đến khi ban hành Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 1986. Trong giai này quy định về xét xử sơ thẩm đã được Nhà nước ta thời kỳ này quy định rất chặt chẽ: Về thẩm quyền xét xử của Tòa án: Trong thời gian tại ngũ, có việc phạm tội của quân nhân xảy ra trong quân đội hoặc ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền của TAQS. Trường hợp quân nhân đào ngũ về phạm tội ở địa phương, nếu TAQS không đưa ra xét xử thì TAND có thẩm quyền xét xử việc phạm tội của quân nhân ở địa phương, nhưng trước khi đưa ra xét xử, phải có quyết định của cơ quan quân sự loại ngũ kẻ phạm tội cũng phải bị loại ngũ trước khi TAND xét xử. Trong một vụ án có bị cáo là quân nhân, có bị cáo là dân thường, nếu không thể tách các bị cáo là thường dân xét xử riêng thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách ra để xét xử, thì TAQS xét xử những quân nhân phạm tội, còn TAND xét xử những thường dân phạm tội. Đối với những trường hợp thường dân phạm tội gây thiệt hại cho quân đội, TAQS xét xử những người phạm tội gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc có liên quan đến bí mật quốc phòng, với những trường hợp phạm tội khác, viện kiểm sát quân sự hoặc TAQS có thể chuyển cho viện kiểm sát nhân dân hoặc TAND truy tố, xét xử. Về chuẩn bị xét xử sơ thẩm: bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 16/ TATC ngày 27/09/1974 đã đề cập đến việc họp trù bị giữa Tòa án với Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, những trường hợp cần họp trù bị là: Hồ sơ thiếu những chứng cứ chủ yếu hoặc trong quá trình điều tra có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố tụng là cho việc điều tra không chính xác.
  • 35. 35 Tòa án nhân dân có ý kiến khác với bản cáo trạng về các vấn đề như: cấu thành tội phạm, năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo, số người bị đưa ra xét xử tội danh điều luật được áp dụng… Có những điều kiện phải xét việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Có những lý do để tạm tha bị cáo đang bị tạm giam hoặc cần phải thiết phải giam bị cáo đang được tại ngoại Cấm thi hành những biện pháp bảo đảm bồi thường, tịch thu tài sản hoặc giảm bớt tài sản đã bị kê biên, Cấm di lý vụ án. Vụ án thuộc loại cần phải bảo đảm tốt việc truy tố và xét xử để phục vụ việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị của địa phương. Bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được tống đạt chậm nhất là năm ngày trước khi mở phiên tòa. Nếu vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì thời gian đó phải dài hơn. Về thủ tục tại phiên tòa Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TANDTC đã quy định những nguyên tắc chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, đó là nguyên tắc xét xử công khai, xét xử trực tiếp bằng lời nói và liên tục. Thông tư đã quy định về trình tự tranh luận tại phiên tòa như sau: Người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách nhiệm bồi thường và người có tài sản, quyền lợi liên quan đến việc phạm pháp trình bày những lý lẽ về những vấn đề có liên quan đến quyền lợi của mình. Đại diện Viện kiểm sát trình bày kết luận của mình về vụ án. Bị cáo tự bào chữa, nhưng nếu bị cáo có người bào chữa thì sau khi người bào chữa đã bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền phát biểu bổ sung. Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm của các TAQS của thời kỳ này cho thấy các quy định về xét xử sơ thẩm từng bước được hoàn
  • 36. 36 thiện, bổ sung đáp ứng nhu cầu xã hội mới. Các nguyên tắc cơ bản của xét xử sơ thẩm được tiếp tục ghi nhận và phát triển nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; nguyên tắc việc xét xử có Hội thẩm nhân dân và nang quyền với Thẩm phán; nguyên tắc tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự; nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Tóm lại, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển quy định pháp luật về xét xử sơ thẩm qua các thời kỳ cho thấy tầm quan trọng của chế định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong việc bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, ngay từ khi ra đời nhà nước ta đã có những quan tâm đáng kể cho việc ban hành các văn bản quy định về vấn đề này, các quy định về xét xử sơ thẩm ngày càng được phát triển và từng bước hoàn thiện. Thủ tục giải quyết ngày càng được quy định một cách chặt chẽ, rõ ràng. Nhìn chung, các quy định về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong những năm trước khi ban hành BLTTHS đã có những đóng góp quan trọng trong việc tạo nền móng xây dựng BLTTHS nói chung và chế định xét xử sơ thẩm nói riêng. Các quy định về thẩm quyền xét xử, nguyên tắc xét xử, thủ tục tố tụng tại phiên tòa ngày càng được tôn trọng, đảm bảo quyền con người trong tố tụng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật tạo điều kiện nâng cao chất lượng phiên tòa hình sự sơ thẩm góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ, bảo vệ nhà nước. Từ xét xử theo một thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm đến thực hiện chế độ xét xử hai cấp (sơ thẩm, phúc thẩm), các TAQS Việt Nam đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đã hoàn tốt chức năng, nhiệm vụ được giao: bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến
  • 37. 37 đấu của quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh, chống và phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. 2.1.2. Qui định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự Cùng với công cuộc cải cách kinh tế và cải cách tư pháp hành chính, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp và coi đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhiều tư tưởng, quan điểm, định hướng về cải cách tư pháp trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" đã được pháp luật hóa thành những quy định tương ứng của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014... cần tiếp tục được pháp luật hóa thành những quy định của BLTTHS, đồng thời hạn chế được những bất cập của BLTTHS năm 1988 nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp, đảm bảo tốt hơn quyền tự do dân chủ của công dân, đảm bảo thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. Ngày 26/11/2003 BLTTHS đã được thông qua tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XI. Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật, theo đó Bộ luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 gồm 8 phần, 37 chương và 346 điều luật. So với BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 đã tăng 1 phần, 5 chương và 49 điều luật. Bộ luật đã giữ lại những quy định còn phù hợp, loại bỏ những quy định
  • 38. 38 không còn phù hợp, sửa đổi những quy định chưa chặt chẽ, chưa chính xác hoặc chưa cụ thể, bổ sung và xây dựng những quy định còn thiếu, kết cấu của Bộ luật, ngôn ngữ, cách diễn đạt... cũng được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về xét xử sơ thẩm tại phần thứ 3, gồm 7 chương và 60 điều luật. Bên cạnh đó còn có nhiều điều luật khác điều chỉnh chế định này. 2.1.2.1. Quy định về các nguyên tắc cơ bản Các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2003 gồm 30 nguyên tắc được quy định từ Điều 3 đến Điều 32. Về cơ bản, các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2003 là những nguyên tắc quan trọng, chủ đạo trong hoạt động tố tụng hình sự mà mọi chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng hình sự, mọi cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân phải quán triệt và tuân thủ để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của BLTTHS là nhằm chủ động phòng ngừa ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. So với BLTTHS 1988 thì trong BLTTHS 2003 những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự tiếp tục được quy định thành một chương riêng (chương II). Bên cạnh một số nguyên tắc được quy định trong BLTTHS 1988 vẫn còn phù hợp và được giữ nguyên, trong BLTTHS 2003 đã có sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong một số nguyên tắc đồng thời xây dựng mới một số nguyên tắc của tố tụng hình sự. Cụ thể: - Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3); - Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4); - Đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; - Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 6); - Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (Điều 7);
  • 39. 39 - Tòa án xét xử tập thể (Điều 8); - Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9); - Xác định sự thật vụ án (Điều 10); - Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11); - Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 12); - Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng hình sự (Điều 14); - Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16); - Xét xử công khai (Điều 18); - Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19); - Bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Tòa án (Điều 22); - Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự (Điều 25); - Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 31);... 2.1.2.2 Quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự Theo pháp luật tố tụng hình sự hiện hành Việt Nam phân định thẩm quyền xét xử như sau: - Tòa án quân sự Khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây: + Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; + Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; + Các tội quy định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322, 323 của BLHS.
  • 40. 40 - Tòa án quân sự cấp Quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAQS Khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của TAQS Khu vực mà mình lấy lên để xét xử [21]. Như vậy, TAQS Khu vực xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù, trừ các tội theo quy định theo quy định tại Khoản 1 Điều 170 BLTTHS. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 29 Pháp lệnh Tổ chức TAQS thì các TAQS Khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm theo quy định của BLTTHS mà bị cáo khi phạm tội có quân hàm từ Trung tá trở xuống hoặc là người có chức vụ từ Trung đoàn trưởng hoặc tương đương trở xuống. Thẩm quyền xét xử của TAQS cũng đã được quy định tại Điều 3 Pháp lệnh Tổ chức TAQS và được quy định, hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA ngày 18/4/2005 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của TAQS; Quyết định số 79/2004/QĐ-BQP ngày 07/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc phân định địa bàn xét xử của TAQS. Trên cơ sở đó có thể xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của các TAQS như sau [1]: Thẩm quyền theo đối tượng Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý, thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu. Những vụ án hình sự mà người phạm tội không thuộc các đối tượng nêu trên chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS nếu họ phạm tội liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
  • 41. 41 Trường hợp trong cùng vụ án vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án; nếu có thể tách ra để xét xử riêng thì TAQS xét xử người phạm tội và tội phạm thuộc thẩm quyền của mình, người phạm tội và tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của TAND. Thẩm quyền xét xử theo thời gian Đối với những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ trong quân đội hoặc những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trước khi vào quân đội thì TAQS xét xử những tội phạm có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội; những tội phạm khác do TAND xét xử. Việc tính thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời gian phục vụ trong Quân đội được thực hiện như sau: - Thời điểm bắt đầu thời gian phục vụ trong quân đội được tính từ: + Thời điểm đơn vị quân đội nhận bàn giao quân từ Ban chỉ huy quân sự địa phương; + Thời điểm đã đăng ký tại nơi tuyển dụng làm nhiệm vụ quân sự, nơi tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu, phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nơi được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự và chịu sự quản lý trực tiếp của các đơn vị quân đội; + Thời điểm có mặt tại đơn vị, doanh nghiệp quân đội để thực hiện hợp đồng lao động. - Thời gian phục vụ trong quân đội được kết thúc vào: + Thời điểm nhận quyết định ra quân trong các trường hợp quân nhân được phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành, thôi việc, nghỉ hưu, nghỉ mất sức hoặc nghỉ việc theo các chế độ, chính sách xã hội khác.
  • 42. 42 Trường hợp chiến sĩ xuất ngũ đúng thời hạn mà đơn vị tổ chức cho ra quân thì thời gian phục vụ quân đội được kết thúc vào thời điểm mà đơn vị bàn giao cho Ban chỉ huy quân sự địa phương; + Thời điểm cắt quân số được ghi trong quyết định cắt quân số hoặc thời điểm ra quyết định cắt quân số, nếu trong quyết định đó không ghi ngày cắt quân số đối với trường hợp đào ngũ; + Thời điểm tước danh hiệu quân nhân của đơn vị quân đội có thẩm quyền có hiệu lực đối với trường hợp vi phạm kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật; + Thời điểm kết thúc thời hạn tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu, phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; + Thời điểm hết hạn trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý trong trường hợp không có quyết định của cơ quan quân sự có thẩm quyền về việc kéo dài thời hạn này; + Thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ: Khác với TAND là xét xử các vụ việc theo địa giới hành chính, TAQS xét xử theo địa giới hành chính quân sự. Việc phân định địa bàn trong Quân đội để xác định thẩm quyền xét xử của TAQS do Bộ Quốc phòng quy định cụ thể: Một TAQS cấp Quân khu hoặc Khu vực có thể xét xử các vụ án xảy ra trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố. Ví dụ: TAQS Quân khu 3 có thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là 09 tỉnh, thành phố; TAQS Khu vực 1 Quân khu 3 có thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ gồm 4 tỉnh, thành phố là: Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng. Đặc điểm về thẩm quyền xét xử của TAQS còn được thể hiện ở việc phân định thẩm quyền xét xử giữa TAQS các cấp căn cứ vào chức vụ và bậc quân hàm của người phạm tội. Nếu bị cáo khi phạm tội hoặc khi bị khởi tố có quân hàm từ trung tá trở xuống hoặc có chức vụ từ trung đoàn trưởng hoặc
  • 43. 43 tương đương trở xuống thì do TAQS Khu vực xét xử. Đối với những bị cáo có quân hàm từ Thượng tá trở lên hoặc có chức vụ Phó Sư đoàn trưởng, Phó Cục trưởng và tương đương trở lên thì do TAQS cấp Quân khu xét xử. Đây là đặc điểm thể hiện rõ nét đặc thù của quân đội, một tổ chức có quy định chặt chẽ về cấp bậc quân hàm, về cấp trên cấp dưới, về chỉ huy và phục tùng. Đặc điểm này đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải có kiến thức pháp lý, chính trị, xã hội và bậc quân hàm tương ứng mới đủ trình độ, kinh nghiệm để xét xử những bị cáo có bậc quân hàm chức vụ cao. Ngoài ra khác với TAND là một Tòa chỉ xét xử những vụ án do một Viện kiểm sát nhân dân truy tố, một TAQS có thể xét xử những vụ án do nhiều VKSQS truy tố. Ví dụ: TAQS Khu vực 1, Quân khu 3 hiện nay xét xử những vụ án do 06 Viện kiểm sát quân sự khu vực truy tố. Đó là các Viện kiểm sát quân sự khu vực 31, Viện kiểm sát quân sự khu vực 32, Viện kiểm sát quân sự khu vực 1 Quân chủng Phòng không Không quân, Viện kiểm sát quân sự khu vực phía Bắc Bộ đội biên phòng, Viện kiểm sát quân sự khu vực Quân đoàn 1, Viện kiểm sát quân sự khu vực Quân đoàn 2. 2.1.2.3. Quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm Chuẩn bị xét xử là giai đoạn đầu tiên trong xét xử sơ thẩm của TAQS. Giai đoạn này TAQS tiến hành các công việc cần thiết chuẩn bị cho việc mở phiên tòa, nhằm đảm bảo cho việc xét xử đúng thời hạn luật định và đạt chất lượng, hiệu quả cao. Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày TAQS thụ lý vụ án cho đến trước ngày mở phiên tòa. Sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định của BLTTHS. Trước hết Thẩm phán phải căn cứ vào các quy định từ Điều 170 đến Điều 173 BLTTHS, Pháp lệnh Tổ chức TAQS và các văn bản hướng dẫn để xác định xem vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS mình không.
  • 44. 44 Nếu vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án mình thì báo cáo Chánh án quyết định chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 174 BLTTHS và các văn bản hướng dẫn. Tiếp theo, Thẩm phán nghiên cứu nội dung của vụ án. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu thấy có căn cứ theo quy định tại Điều 179 BLTTHS thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung; nếu thấy có căn cứ theo quy định tại Điều 180 BLTTHS thì Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; nếu Viện kiểm sát rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án thì đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 181 BLTTHS; nếu thấy vụ án đủ điều kiện để đưa ra xét xử thì Thẩm phán quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Điều 178 BLTTHS. Trong giai đoạn này, Thẩm phán còn phải giải quyết khiếu nại, yêu cầu của những người tham gia tố tụng; quyết định hoặc đề nghị Chánh án, phó Chánh án Tòa án mình quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can theo quy định tại Điều 177 BLTTHS. Để bảo đảm cho việc mở phiên tòa, bên cạnh việc lập kế hoạch xét hỏi, dự kiến trước các tình huống xảy ra, Thẩm phán TAQS còn phải tiến hành triệu tập những người tham gia tố tụng, chuẩn bị lệnh trích xuất, lệnh dẫn giải bị cáo (trường hợp bị cáo bị tạm giam), chuẩn bị cho việc áp giải bị cáo hoặc dẫn giải người làm chứng theo quy định của BLTTHS. Có thể nói, hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS ở giai đoạn này rất quan trọng; nó là cơ sở, tiền đề thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo và đảm bảo cho hoạt động xét xử sơ thẩm của TAQS được khách quan, công bằng, đúng pháp luật. * Quy định về thành phần tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm - Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
  • 45. 45 Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Việc quy định này nhằm đảm bảo cho việc xét xử sơ thẩm những vụ án này toàn diện, khách quan. - Sự có mặt của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc, nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Bởi lẽ, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơthẩm để thực hiện nhiệm vụ kiểm sát hoạt động xét xử, tham gia xét hỏi và tranh luận, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Trong mọi trường hợp kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. - Sự có mặt của Thư ký tòa án là bắt buộc. Mặc dù trong phần này không có quy định nào là sự có mặt của Thư ký Tòa án là bắt buộc nhưng căn cứ Điều 33, Điều 41 BLTTHS thì Thư ký Tòa án cũng là một trong những người tiến hành tố tụng nên đương nhiên phiên tòa xét xử sơ thẩm phải có sự tham gia của Thư ký Tòa án. Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 còn quy định về từ chối, thay đổi những người tiến hành tố tụng. Những quy định này đảm bảo cho việc xét xử vụ án được khách quan, toàn diện, đảm bào quyền và lợi ích các đương sự theo đúng quy định của pháp luật. - Sự có mặt của bị cáo. Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa. Trong trường hợp bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh. Nếu bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo. Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây: Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả; Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
  • 46. 46 Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ. - Người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ; người làm chứng; người giám định được triệu tập tham gia phiên tòa. Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Nếu người bào chữa vắng mặt, thì Tòa án vẫn tiến hành việc xét xử. Trường hợp bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần hoặc trường hợp bị cáo bị truy tố đưa ra xét xử về tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và đại diện hợp pháp của họ có quyền tham gia phiên tòa. Nếu họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa hoặc cứ tiến hành xét xử(nếu sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử, lời khai của họ ít quan trọng hoặc họ đã có lời khai ở Cơ quan điều tra. Nếu thấy sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử theo thủ tục tố tụng dân sự. Đối với người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa từng trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa (nếu xét thấy sự có mặt của họ là cần thiết) hoặc vẫn tiến hành xét xử. Nếu người làm chứng đã được triệu tập nhưng cố ý không đến mà không có lí do chính đáng thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết định dẫn giải. Đối với người giám định vắng mặt tại phiên tòa thì Tòa án hoãn phiên tòa nếu thấy sự có mặt của họ là cần thiết. Nếu người giám định đã có kết luận viết và sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử.