SlideShare a Scribd company logo
1 of 108
LUẬN VĂN:
Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và
gia đình - một số khía cạnh pháp lý
hình sự và tội phạm học
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan
trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Gia đình tốt, thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng
tốt.
Nhận thức được tầm quan trọng của gia đình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã thiết lập chế độ hôn nhân
gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, lạc hậu. Quyết tâm xây
dựng chế độ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) mới của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện
rất rõ trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Điều 64, Hiến pháp năm 1992 đã ghi
nhận:
Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những công dân tốt. Con
cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội
không thừa nhận việc phân biệt đối xử với các con.
Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ mới tiến bộ và tuân thủ
triệt để Hiến pháp, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, cũng như BLHS năm 1999 đều đã quy
định cụ thể các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, góp phần ngăn chặn, hạn chế và từng bước xóa
bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến, lạc hậu.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng, diễn biến
phức tạp; tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, kể cả trong lĩnh vực HN&GĐ.
Đáng chú ý, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ không có xu hướng gia tăng, nhưng tính
chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây dư luận xấu trong xã hội.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ và hôn nhân gia đình
cho thấy, mặc dù đây là các tội phạm mà tính chất nguy hiểm cho xã hội không cao, nhưng
có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống gia đình; trên thực tế, các tội phạm này xảy ra rất nhiều,
song việc xử lý bằng các chế tài hình sự còn rất hạn chế. Thực tiễn áp dụng các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc, đòi hỏi khoa học luật hình
sự phải nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận như: khái niệm các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ, ý nghĩa của việc quy định các tội phạm này trong pháp luật hình
sự... Trong khi đó, xung quanh những vấn đề này, vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình -
một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học", mang tính cấp thiết, không những về
lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức
tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. ThS. Bùi Anh Dũng đã
có công trình "Tìm hiểu các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân, các tội xâm
phạm chế độ hôn nhân và gia đình", Nxb Lao động, Hà Nội, 2003; ThS. Trịnh Tiến Việt đã
có các công trình: "Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng các quy định tại chương các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí khoa học
Pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 1/2003, "Tội từ chối hoặc trốn
tránh nghĩa vụ cấp dưỡng trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 4/2002, "Về
tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi
dưỡng mình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 9/2002,); tác giả Nguyễn
Quốc Việt chủ biên cuốn sách: Bộ luật hình sự mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, trong đó có đề cập chương XV - Các tội xâm
phạm chế độ hôn nhân và gia đình; tác giả Nguyễn Ngọc Điệp có công trình: "Tìm hiểu
các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và các tội đối với người chưa thành niên",
Nxb Phụ nữ, Hà Nội; các tác giả Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa có công trình:
Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh,
2000...
Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nhóm các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
và có hệ thống về nhóm tội phạm này dưới góc độ pháp lý hình sự và tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống nhằm nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ
sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế
giới về loại tội phạm này.
- Phân tích và đánh giá tình hình, nguyên nhân và điều kiện các tội xâm phạm chế
độ HN&GĐ, thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này; dự báo tình tội phạm này
trong những năm tới.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ dưới góc độ pháp lý hình sự
và tội phạm học ở Việt Nam, thời gian từ năm 1997 đến năm 2004.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và pháp luật,
những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội
học...
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ, các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối
cao (TANDTC) về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống, phân tích,
tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, điều tra xã
hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ
luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về các tội xâm phạm
chế độ HN&GĐ. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học
của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ;
những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội phạm này trong pháp luật hình sự
hiện hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý trong lập pháp
hình sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ ở Việt
Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
6. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với
việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ ở nước
ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ
bé của mình vào kho tàng lý luận về tội phạm học, luật hình sự, cũng như vào cuộc đấu
tranh phòng, chống nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và
cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 110 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 mục.
Chương 1
Các tội Xâm Phạm Chế Độ HÔN NHÂN Và GIA Đình
Trong luật hình sự việt nam
1.1. khái lược sự hình thành và phát triển những quy định về các tội Xâm phạm
chế độ hôn nhân và gia đình trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lý cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm
1945
Hôn nhân là một vấn đề hệ trọng đối với con người, gia đình là nền tảng của xã
hội. Vì vậy, ngay từ thời phong kiến, HN&GĐ luôn luôn là lĩnh vực được Nhà nước rất
quan tâm điều chỉnh bằng pháp luật.
Trong Bộ luật thành văn đầu tiên của Nhà nước ta - Bộ Hình thư, được ban hành
năm 1042 dưới thời Lý Thái Tông, vấn đề HN&GĐ chiếm giữ một vị trí quan trọng và
được quy định trong nhiều điều luật. Nét đặc trưng chủ yếu của các quy định này là quyền
uy tập trung trong tay người chồng, mà mọi thành viên có bổn phận phục tùng; người chồng
được phép bỏ vợ trong trường hợp người vợ phạm một trong các tội "thất xuất", còn người
vợ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc nếu ruồng bỏ chồng; con cái không làm tròn đạo hiếu sẽ bị
trừng phạt. Trách nhiệm giáo dục con cái tuân theo đạo lý thuộc về cha mẹ, nếu lơ là trách
nhiệm thì chính cha mẹ cũng bị trừng phạt [28, tr. 59].
Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Bộ luật chính thống và quan trọng
nhất của triều đại nhà Lê, mười tội ác (thập ác) đã được quy định tại Điều 3, trong đó có tới
bốn tội liên quan đến HN&GĐ, đó là các tội:
4. ác nghịch, là đánh và mưu giết ông bà, cha mẹ, bác chú, thím, cô,
anh, chị em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng...
7. Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo,
nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn mặc như
thường; nghe thấy tang ông bà, cha mẹ mà không cử ai (tang lễ); nói dối là ông
bà, cha mẹ chết.
8. Bất mục, là giết hay đem bán những người trong họ phải để tang 3
tháng trở lên, đánh đập hoặc tố cáo chồng, cùng những họ hàng từ tiểu công trở
lên...
9. Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đương chức tại nhiệm,
giết thầy học; nghe thấy tin chồng chết mà không cử ai, lại vui chơi ăn mặc như
thường, cùng là tái giá [36, tr. 36-37].
Ngoài ra, trong Quốc triều hình luật còn có hẳn một chương hộ hôn (hôn nhân gia
đình) gồm 58 điều luật, trong đó có một số điều quy định những trường hợp bị cấm kết hôn,
nếu vi phạm sẽ phải chịu hình phạt, đó là là các trường hợp: đang có tang cha mẹ hoặc tang
chồng mà lại lấy chồng hoặc cưới vợ, khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy vợ, lấy
chồng... Ví dụ: Điều 317 quy định: "Người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà
lại lấy chồng hoặc cưới vợ thì xử tội đồ, người khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử biếm ba
tư và đôi vợ chồng mới cưới phải chia lìa" [36, tr. 122]. Bộ luật này còn có một số quy định
thể hiện tư tưởng phong kiến coi khinh nghề hát xướng như quy định tại Điều 323: "Các
quan và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử phạt 70 trượng,
biếm ba tư; con cháu các quan viên mà lấy những phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trượng;
về đều phải ly dị" [36, tr. 123].
Dưới thời thực dân Pháp xâm lược nước ta, Việt Nam vẫn là một nước thuộc địa
nửa phong kiến, chính quyền thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến vẫn duy trì chế độ
hôn nhân phong kiến đã tồn tại từ nhiều thế kỷ, thừa nhận sự cưỡng ép kết hôn của cha mẹ
đối với con cái, bảo vệ chế độ nhiều vợ (đa thê), duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và
nữ trong gia đình. Điều thứ 128 Luật hình An Nam thi hành ở Bắc Kỳ quy định: "Người
vợ hay vợ lẽ hiện đương có chồng mà phạm tội thông gian, xét ra quả thực, phải phạt giam
từ ba tháng đến hai năm và phạt bạc từ bốn mươi đồng đến bốn trăm đồng, người gian phu
bị phạt cũng thế" [55, tr. 21]. Điều thứ 135 của Bộ luật còn quy định:
Người vợ hay vợ lẽ hiện đương có chồng, chưa tuyên cáo sự ly hôn, mà
đi lấy chồng khác, phải phạt giam từ một năm đến năm năm và phạt bạc từ năm
đồng đến hai trăm đồng.
Người có vợ chưa tuyên cáo sự tiêu hôn mà đi lấy vợ khác, phải phạt
giam từ ba tháng đến một năm và phạt bạc từ hai đồng đến một trăm đồng [55,
tr. 22].
Bộ luật hình canh cải áp dụng tại Nam Kỳ cũng quy định những tội phạm và hình
phạt thích ứng để bảo vệ chế độ một chồng nhiều vợ. Theo Bộ luật này, bị coi là phạm tội
thông gian khi một người đàn bà đã có chồng rồi mà còn ân tình với một người đàn ông
khác, còn đối với đàn ông có vợ thì hành vi ngoại tình không coi là tội phạm [38, tr. 202].
1.1.2. Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công cho đến
trước khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối
mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu,
lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá. ở miền Bắc, khoảng
200.000 quân Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh vào tước vũ khí quân Nhật,
nhưng dã tâm của chúng là giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân
để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. ở miền Nam, quân đội Pháp được
quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn, rồi sau đó đánh rộng ra các tỉnh ở Nam Bộ và
Nam Trung Bộ.
Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đó là diệt giặc đói,
diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm và "Đảng ta xác định giữ vững chính quyền là nhiệm
vụ hàng đầu" [18, tr. 468]. Vì vậy, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến năm
1954 là thời điểm ký Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta
là Chính phủ kháng chiến, pháp luật ta cũng là pháp luật kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó
khăn đó, Nhà nước ta vẫn rất quan tâm xây dựng chế độ HN&GĐ mới tiến bộ, từng bước xóa
bỏ những quy định khắt khe của chế độ thực dân, phong kiến đối với phụ nữ (Sắc lệnh số
97/SL ngày 12-05-1950). Tuy nhiên, do phải tập trung quy định các tội phạm liên quan đến
sự an nguy của chính quyền nhân dân như các tội phản bội Tổ quốc, tội gián điệp, tội hối lộ,
tham ô..., cho nên, trong giai đoạn này, Nhà nước ta chưa có quy định về các tội xâm phạm
chế độ HN&GĐ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn
toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Từ khi
Luật HN&GĐ được ban hành năm 1959, đời sống HN&GĐ đã có những chuyển biến đáng
kể. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm pháp luật HN&GĐ vẫn xảy ra phổ biến ở mức độ
nghiêm trọng, Trước tình hình đó, TANDTC đã có Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-
1966 hướng dẫn về xử lý hình sự đối với 8 hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật
HN&GĐ, đó là các hành vi: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ,
yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, thông gian, đánh đập hoặc
ngược đãi vợ, đánh đập hoặc ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ. Đây là văn bản pháp lý đầu
tiên hướng dẫn xử lý hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ
kể từ khi Cách mạng tháng Tám thành công. Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-1966 đã
đề cập về từng hành vi vi phạm như sau:
Thứ nhất, đối với hành vi tảo hôn, Thông tư nêu rõ:
Đối với nạn tảo hôn chủ yếu là giáo dục; cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm
trọng như: đã được chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn
cố ý vi phạm; hoặc đã gây ảnh hưởng chính trị xấu thì có thể phạt cảnh cáo hoặc
phạt tù treo hay tù giam. Đối tượng xử phạt có thể là cha mẹ của đôi trai gái,
người có trách nhiệm nuôi dưỡng (nếu trai hoặc gái chưa đến tuổi chịu trách
nhiệm hình sự), hoặc cả đôi bên trai gái (nếu họ đã đến tuổi chịu TNHS: 15 tuổi [42,
tr. 465].
Thứ hai, đối với hành vi cưỡng ép kết hôn, Thông tư nêu rõ:
Đối với hành động cưỡng ép kết hôn, vi phạm quyền tự do kết hôn, chủ
yếu là giáo dục, cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng, có thể phạt cảnh cáo, tù
treo hay tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo tảo hôn; đã được chính
quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm; có kèm
theo đánh đập tàn nhẫn; đã gây ảnh hưởng chính trị xấu; rõ ràng là nạn nhân vì
bị cưỡng ép kết hôn mà sự sát [42, tr. 467].
Thứ ba, đối với hành vi cản trở hôn nhân tiến bộ, Thông tư hướng dẫn:
Đối với hành động cản trở hôn nhân tự do, tiến bộ, chủ yếu là giáo dục,
cá biệt nếu có tình tiết nghiêm trọng có thể phạt cảnh cáo, tù treo, hay tù giam
nếu rõ ràng là nạn nhân vì bị cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ mà tự sát, cần
phạt tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo cưỡng ép kết hôn; đã được
chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm;
có kèm theo lăng nhục thậm tệ, nhục hình tần nhẫn; đã gây ảnh hưởng chính trị
xấu [42, tr. 468].
Thứ tư, đối với hành vi yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, tức là sự đòi hỏi về
tiền, vàng, quần áo, gạo, thịt, rượu... trong việc cưới hỏi của nhà gái đối với nhà trai với ý
nghĩa là điều kiện để được kết hôn, Thông tư hướng dẫn: "Về mặt hình sự, nếu việc yêu
sách của cải trong việc cưới hỏi gắn liền với tảo hôn, hoặc cưỡng ép kết hôn, hoặc cản trở
hôn nhân tự do và tiến bộ thì cần chú ý kết hợp xem xét, đánh giá trong những trường hợp
phải xử lý nạn tảo hôn, cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ" [42, tr.
469].
Thứ năm, đối với hành vi lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, Thông tư hướng dẫn:
Đối với người lấy nhiều vợ, lấy vợ lẽ (từ sau ngày ban hành Luật
HN&GĐ) chủ yếu vẫn là giáo dục, phê bình, để ngăn ngừa và chấm dứt. Cá
biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng thì có thể bị xử phạt cảnh cáo hoặc tù treo
hay tù giam về tội "lấy nhiều vợ" (hoặc tội lấy vợ lẽ). Nếu bị cáo đã bị xử phạt
cảnh cáo hoặc tù treo mà vẫn không chịu cắt đứt với người vợ lẽ thì phải phạt tù
giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây có thể là: đã được giáo dục, giải thích mà
vẫn cố tình vi phạm; đã được Tòa án tuyên bố cuộc kết hôn là bất hợp pháp mà
vẫn tiếp tục duy trì quan hệ vợ chồng; hành vi có tính chất lừa dối cơ quan,
đoàn thể, lừa dối vợ trước hoặc vợ sau; gây ảnh hưởng, tác hại xấu, dư luận
phản đối [42, tr. 470].
Thứ sáu, đối với hành vi thông gian, tức là hành vi quan hệ tình dục bất chính giữa
một bên đang có vợ hoặc có chồng với người khác (dù là người này đã có hoặc chưa có vợ,
có chồng), Thông tư nêu rõ:
Trong tình hình xã hội miền Bắc nước ta hiện nay, không thể coi thông
gian là một khuyết điểm về sinh hoạt cá nhân, mà khi có những tình tiết nghiêm
trọng nhất định phải coi thông gian là một tội phạm đã xâm phạm đến quan hệ
HN&GĐ được pháp luật bảo vệ, đến thuần phong mỹ tục và đến trật tự xã hội.
Đường lối xử lý cần thiết hiện nay đối với tội thông gian là: biện pháp
ngăn chặn tệ nạn này chủ yếu vẫn giáo dục. Các cơ quan, đoàn thể cần tăng
cường công tác giáo dục quần chúng về đạo đức, xã hội mới, chống những tư
tưởng và nếp sống sa đọa, đồi bại, trụy lạc do xã hội cũ để lại.
Trong một số ít trường hợp cần thiết, có thể dùng biện pháp tư pháp để
làm chỗ dựa cho công tác giáo dục nói trên. Những trường hợp cần thiết đó là:
- Thông gian với vợ bộ đội, vợ cán bộ và vợ những người vì nhiệm vụ
công tác mà phải thoát ly gia đình, tại những địa phương xảy ra nhiều vụ thông
gian, làm ảnh hưởng đến tinh thần công tác của người chồng.
- Thông gian có tính chất nghiêm trọng như: thông gian một cách trắng
trợn hoặc kéo dài; do thông gian mà phá hoại hạnh phúc của nhiều gia đình; bất
chấp sự giáo dục của cơ quan, đoàn thể hoặc sự phản đối của gia đình người
chồng, của người vợ, của kẻ ngoại tình và bị quần chúng công phẫn đòi hỏi phải
trừng phạt.
- Do thông gian mà dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như gây ra án
mạng, tham ô lớn, đào ngũ, đào nhiệm hoặc những hành động phạm pháp
nghiêm trọng khác [42, tr. 471].
Thứ bảy, đối với hành vi đánh đập hoặc ngược đãi vợ, tức là những hành động của
người chồng không đối xử bình đẳng, dân chủ với người vợ, xâm hại đến sức khỏe, nhân
cách, quyền tự do của người vợ, Thông tư hướng dẫn:
Biện pháp chủ yếu vẫn là giáo dục thường xuyên quan điểm bình đẳng
và dân chủ trong quan hệ vợ chồng nhưng cần xử lý về hình sự để hỗ trợ cho
công tác giáo dục trong một số trường hợp cần thiết như:
- Đối với những hành động đánh đập nghiêm trọng như làm chết người,
gây thương tích nặng hoặc thương tật lâu ngày, dẫn đến tự sát, do bọn can phạm
bản chất hung bạo, đánh đập một cách hung ác hoặc dùng thủ đoạn thâm độc
gây ra, cần phải nghiêm trị tùy tình tiết cụ thể.
- Đối với những hành động ngược đãi chưa gây tác hại nghiêm trọng
của những người chậm tiến thì chủ yếu là giáo dục, hoặc cảnh cáo. Trường hợp
có tác hại nhất định và có bị quần chúng căm phẫn, có thể xử phạt cảnh cáo
hoặc án treo hay tù giam khi thấy thật cần thiết [42, tr. 473].
Thứ tám, đối với hành vi đánh đập, ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ, Thông tư
hướng dẫn:
Tập quán lâu đời của nhân dân ta, luật pháp của Nhà nước chúng ta đòi
hỏi con cái phải "kính yêu, săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ". Tuy nhiên, thỉnh
thoảng còn xảy ra trường hợp con cái ngược đãi, hắt hủi, không nuôi dưỡng bố
mẹ già yếu; đôi khi thái độ đối xử vô đạo đức của con cái đã làm cho bố mẹ tự
sát. Trong những trường hợp nghiêm trọng trên, cần đưa ra xét xử điển hình
một vài vụ để giáo dục chung, đồng thời bắt con cái phải nuôi dưỡng bố mẹ già
yếu [42, tr. 474].
Nghiên cứu những quy định trên cho thấy, Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-
1966 của TANDTC đã quán triệt tốt phương châm, đường lối chung đối với việc xử lý về
hình sự các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ là: kiên trì giáo dục, thuyết
phục tuân thủ pháp luật là chủ yếu, kết hợp biện pháp trừng trị đối với những trường hợp
vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ.
1.1.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời cho đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự 1999
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta
đã giành được những thành tựu quan trọng trên một số lĩnh vực, cải biến được một phần cơ
cấu của nền kinh tế - xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều khó khăn và
khuyết điểm như chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu mô hình kinh tế quan liêu, bao cấp
nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình hình kinh tế -
xã hội và đời sống nhân dân. Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành
không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy,
việc ban hành BLHS là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam khóa VII, đã thông qua BLHS, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-
1986 (sau đây gọi tắt là BLHS 1985).
BLHS 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự Việt Nam,
nhất là từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới.
Trong Bộ luật này, đã chính thức ghi nhận về mặt pháp lý các tội phạm xâm phạm
chế độ hôn nhân gia đình nhằm vào những biểu hiện nghiêm trọng nhất của các tàn tích
của chế độ hôn nhân nhân gia đình phong kiến, lạc hậu như: cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn
nhân tự nguyện tiến bộ, vi phạm chế độ một vợ một chồng, tổ chức tảo hôn, loạn luân,
ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Với quan niệm rằng, gia
đình là thiết chế xã hội có trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi của con cái,
nhất là con chưa thành niên và việc đó quan hệ mật thiết với việc bảo đảm hạnh phúc gia
đình, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm
đối với người chưa thành niên vào Chương V của BLHS 1985, từ Điều 143 đến Điều 149
và Điều 150 quy định hình phạt bổ sung.
BLHS 1985 đã quy định tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ (Điều 143), tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 144), tội tổ chức tảo hôn,
tội tảo hôn (Điều 145), tội loạn luân (Điều 146), tội ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ
cha mẹ, vợ chồng, con cái (Điều 147). Tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng các quy định
về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong Bộ luật là: kiên trì giáo dục và thuyết phục
tuân thủ pháp luật, kết hợp biện pháp giáo dục với biện pháp trừng trị đối với những
trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Căn cứ vào khách thể bị xâm phạm, có thể chia các tội
phạm này thành hai nhóm trong đó nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân bao gồm: tội
cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, tội vi phạm chế độ một vợ,
một chồng, tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn, tội loạn luân và nhóm các tội xâm phạm chế độ
gia đình bao gồm: tội ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái.
Việc BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đánh dấu sự trưởng
thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta.
Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong BLHS
1985, cho thấy đặc điểm chung của các tội phạm thuộc nhóm tội này như sau:
Thứ nhất, các hành vi khách quan cấu thành các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ
thường phải có các tình tiết nghiêm trọng như dùng các thủ đoạn thô bạo, xảo quyệt như hành
hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách bằng của cải.
Thứ hai, đối tượng được bảo vệ chủ yếu là người cao tuổi, phụ nữ và con cái mà
quyền lợi của họ bị các hành vi ảnh hưởng của tàn dư tư tưởng phong kiến trọng nam,
khinh nữ và gia trưởng xâm phạm.
Thứ ba, mức hình phạt được quy định đối với các tội này không cao: mức hình
phạt tối đa đối với hầu hết các tội phạm này là ba năm tù, duy nhất tội loạn luân có mức
hình phạt cao nhất là năm năm tù. Như vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS 1985,
nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đều được coi là những tội phạm ít nghiêm trọng.
1.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 cho đến nay
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh
vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước đã có nhiều khởi sắc, được
nhân dân ta và bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích cực, mặt
trái nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình
tội phạm diễn biến phức tạp. Trong tình hình đó, BLHS 1985, dù đã được sửa đổi, bổ sung
4 lần, nhưng còn nhiều điểm bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện,
nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi toàn diện BLHS 1985 là một đòi hỏi
khách quan của hoạt động lập pháp hình sự. Để phục vụ được yêu cầu đề ra, ngày 21-12-
1999, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6, đã thông qua
BLHS (sau đây gọi tắt là BLHS 1999), thay thế cho BLHS 1985. BLHS 1999 có hiệu lực thi
hành từ ngày 1-7-2000.
Về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, BLHS 1999 có những điểm mới cơ bản
như sau:
Thứ nhất, Chương XV của BLHS 1999 quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn
nhân gia đình được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Chương V của BLHS 1985 quy
định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành
niên. Điểm mới đầu tiên dễ nhận thấy là BLHS 1999, đã có điều chỉnh phạm vi của
chương này theo hướng thu hẹp lại chỉ còn các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ còn các tội
phạm đối với người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em được điều chuyển sang các chương
thích hợp khác.
Như vậy, Chương XV của BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn
nhân gia đình chỉ còn lại gồm 7 điều (từ Điều 146 đến Điều 152).
Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm,
BLHS mới đã bổ sung thêm hai tội danh mới, đó là tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều
149) và tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152).
Trong chương này có một tội duy nhất vẫn được giữ nguyên như quy định của
BLHS 1985. Đó là tội loạn luân (Điều 150).
Thứ ba, BLHS 1999 đã bổ sung, sửa đổi cấu thành tội phạm (CTTP) của một số
tội phạm theo hướng hạn chế bớt khả năng xử lý hình sự đối với các tội này. Trong lĩnh
vực này, chủ yếu là áp dụng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và hành chính để giải
quyết. Chỉ xử lý hình sự trong những trường hợp thật cần thiết khi các biện pháp giáo dục,
phòng ngừa, hành chính tỏ ra không có hiệu quả.
Thứ tư, về tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được quy
định tại Điều 146.
Về cơ bản, tội này vẫn được giữ nguyên cấu trúc và hình phạt như quy định tại
Điều 143 BLHS 1985, nhưng có hai điểm mới là:
- Được bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là "đã xử phạt hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm" nhằm thu hẹp phạm vi xử lý về hình sự đối với tội phạm này. Điều
đó cũng phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống loại tội phạm này.
- Mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội này tăng từ 1 năm theo
quy định trước đây lên 3 năm theo quy định tại Điều 146 BLHS 1999.
Thứ năm, về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng được quy định tại Điều 147
BLHS 1999.
Điều luật này được bổ sung, sửa đổi theo hướng bổ sung thêm chủ thể của tội
phạm và thêm các dấu hiệu định tội. Cụ thể như sau:
- Theo quy định của BLHS 1985, thì chỉ người nào đang có vợ, có chồng mà kết
hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác mới phải chịu TNHS về tội này. Trên
thực tế, không ít trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng lại kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng. Đây cũng là hành vi
nguy hiểm xâm phạm chế độ một vợ, một chồng, phá hoại hạnh phúc gia đình của người
khác mà chưa bị pháp luật trừng trị.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nói trên, BLHS 1999 quy định xử lý về hình sự cả
trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
- Bổ sung thêm hai dấu hiệu định tội mới nhằm hạn chế khả năng xử lý về hình sự
đối với tội này. Đó là:
- Gây hậu quả nghiêm trọng;
- Đã bị xử phạt hình chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Thứ sáu, về tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn được quy định tại Điều 148 BLHS
1999
Về cơ bản, những quy định về tội phạm này vẫn được giữ nguyên như trước đây,
nhưng có bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là: "Đã bị xử phạt hành chính mà còn vi
phạm" nhằm hạn chế phạm vi xử lý về hình sự.
Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ được tăng từ 1 năm lên 2 năm.
Thứ bảy, về tội đăng ký kết hôn trái pháp luật được quy định tại Điều 149 BLHS 1999
Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 để ngăn ngừa và trừng trị
những hành vi của người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn đã biết rõ là người xin
đăng ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng ký cho người đó. Tinh thần chung là chỉ
xử lý về hình sự khi đã áp dụng các biện pháp hành chính, kỷ luật mà người vi phạm vẫn
không chịu sửa chữa lỗi lầm của mình, tiếp tục vi phạm.
Thứ tám, về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu,
người có công nuôi dưỡng mình được quy định tại Điều 151 BLHS 1999
Tội phạm này cơ bản vẫn được giữ như quy định trước đây, nhưng có một số điểm
bổ sung. Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn thấy rằng trong xã hội ta còn xảy ra những
trường hợp hành hạ, ngược đãi không chỉ giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái mà cả giữa
những người thân thích khác trong gia đình như giữa cháu với ông bà, giữa cháu với cô,
chú, bác, cậu, dì, thậm chí hành hạ, ngược đãi ngay cả với người đã từng có công nuôi
dưỡng mình khôn lớn. Đây là những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật, xúc phạm
thô bạo đến đạo đức xã hội, đến thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo lý gia đình Việt
Nam. Tuy nhiên, pháp luật hình sự mới chỉ trừng trị hành vi của những người là cha mẹ,
vợ chồng, con cái. Còn hành vi của những người khác trong gia đình như đã nêu trên thì có
thể bị xử lý theo quy định tại Điều 111 BLHS 1985 về tội hành hạ người khác. Đây là điều
không hợp lý, vì cũng là một loại hành vi phạm tội (hành hạ, ngược đãi) do cùng một loại
chủ thể thực hiện (những người thân thích trong gia đình) xâm phạm cùng một loại đối
tượng (những người thân thích khác trong gia đình) nhưng lại bị xử lý ở các điều luật khác
nhau. Vì thế, BLHS 1999 đã có những sửa đổi, bổ sung phù hợp như sau:
- Bổ sung thêm đối tượng bị ngược đãi, hành hạ là: ông bà, cháu và người có công
nuôi dưỡng người phạm tội nhằm mở rộng phạm vi đối tượng phải áp dụng theo quy định
của điều luật này.
- Bổ sung thêm dấu hiệu định tội là: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này mà còn vi phạm nhằm thu hẹp việc xử lý về hình sự đối với
hành vi này.
- Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ được tăng từ 1 năm lên 3 năm.
Thứ chín, về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại
Điều 152 BLHS 1999
Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 nhằm trừng trị những
người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo pháp luật mà cố tình không thực hiện nghĩa vụ đó mặc
dù mình có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó, đã bị xử lý hành chính hoặc gây hậu
quả làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe
hoặc những hậu quả nghiêm trọng khác.
1.2. Những quy định của bộ luật hình sự 1999 về các tội Xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình
1.2.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
Để có thể làm sáng tỏ khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trước hết cần
làm sáng tỏ khái niệm HN&GĐ.
Hôn nhân và gia đình - đó là những hiện tượng xã hội luôn được các nhà triết học,
đạo đức học, xã hội học, luật học, sử học quan tâm nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia
đình, gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp hài hòa, chặt chẽ lợi ích của mỗi
công dân, Nhà nước và xã hội.
C.Mác và Ph. ăngghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, HN&GĐ là những
phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có
mối liên quan trực tiếp, chặt chẽ.
Hôn nhân là hiện tượng xã hội - là sự liên kết giữa người đàn ông và người phụ
nữ. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ
xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Đây là quan hệ giữa hai người khác
giới tính, bản chất và ý nghĩa của nó thể hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng và giáo dục con
cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Có
thể nói, sản xuất ra cuộc sống chính bản thân mình là nhờ lao động, còn sản xuất ra giống
nòi là nhờ sinh đẻ, nói cách khác, tồn tại hai mối quan hệ: mối quan hệ tự nhiên và mối
quan hệ xã hội. Quan hệ hôn nhân là quan hệ xã hội được xác định bởi các quan hệ sản
xuất đang thống trị, vì vậy, tính chất của nó có thể thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ sản
xuất đang thống trị đó.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị đều điều chỉnh các
quan hệ hôn nhân bằng pháp luật cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phục vụ
lợi ích của giai cấp mình. Xã hội chiếm hữu nô lệ, có chế độ hôn nhân chiếm hữu nô lệ; xã
hội phong kiến có chế độ hôn nhân phong kiến; xã hội tư bản có chế độ hôn nhân tư sản,
còn xã hội XHCN có chế độ hôn nhân XHCN. Trong những xã hội bóc lột, những người
thuộc giai cấp bị bóc lột thường khó có thể có quan hệ hôn nhân với những người thuộc
giai cấp thống trị.
Dưới chế độ XHCN, hôn nhân thực sự mang tính chất bình đẳng, tự nguyện, tiến
bộ, đó không phải là hợp đồng, mà là sự liên kết bền vững giữa người đàn ông và người
phụ nữ, trên cơ sở yêu thương, quý trọng lẫn nhau, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và
tinh thần của đôi bên, cũng như thỏa mãn nhu cầu sinh đẻ và giáo dục con cái [56, tr. 12 -
16].
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm hôn nhân như sau: hôn nhân là sự
liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, tự
nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia
đình ấm no, hạnh phúc.
Khái niệm gia đình rộng hơn khái niệm hôn nhân. Nếu như hôn nhân là sự liên kết
giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, thì gia đình là sự liên kết của nhiều người
có quan hệ với nhau do hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Gia đình là sản phẩm của
xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tế -
xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu
của gia đình. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu hẹp của xã hội, là tế bào của xã hội. Trong
mỗi hình thái kinh tế - xã hội, gia đình mang tính chất và kết cấu phù hợp với hình thái đó.
Gia đình XHCN khác về chất so với các kiểu gia đình của các chế độ xã hội trước đó.
Dưới chế độ XHCN, quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình, phản ánh mối
quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội.
Như vậy gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng, trong đó mọi người cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh
thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ
Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ cũng là một loại tội phạm, vì vậy nó phải thỏa
mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện
với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình
diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
thực hiện một cách có lỗi [30, tr. 105].
Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái niệm các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng:
Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện bằng lỗi cố ý gây
thiệt hại cho các quan hệ hôn nhân và gia đình mới, tiến bộ xã hội chủ nghĩa. Sự
gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình [31, tr. 295].
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật cho
rằng, "các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi vi phạm nghiêm
trọng các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam" [57, tr. 405].
Trên cơ sở các quan điểm được trình bày ở trên, tôi xin đưa ra khái niệm các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ như sau như sau: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia
đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ hôn nhân
và gia đình Việt Nam XHCN.
Hôn nhân và gia đình là một nhóm quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của rất nhiều
ngành luật. Luật HN&GĐ quy định về chế độ HN&GĐ, trách nhiệm của công dân, Nhà
nước và xã hội trong việc củng cố chế độ HN&GĐ Việt Nam. Luật dân sự cũng điều chỉnh
lĩnh vực HN&GĐ thông qua việc điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ,
chồng và các thành viên khác trong gia đình như giám hộ, đại diện, nuôi con nuôi, thừa kế,
tài sản, quyền sở hữu... Luật hình sự không quy định quyền và nghĩa vụ nhân thân hay tài
sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình mà chỉ bảo vệ quan hệ nhân thân
và quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình thông qua việc quy định một loạt các
hành vi bị coi là tội phạm và hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi đó như: tội vi phạm chế độ một vợ một chồng, tội cưỡng ép kết hôn, tội từ chối
hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng...
Trong BLHS 1999, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ được quy định tại chương
XV Phần các tội phạm (từ Điều 146 đến Điều 152) bao gồm các tội cụ thể sau: tội cưỡng
ép kết hôn (Điều 146); tội cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 146); tội vi phạm chế
độ một vợ một chồng (Điều 147); tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); tội tảo hôn (Điều 148);
tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149); tội loạn luân (Điều 150); tội ngược đãi ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội hành hạ
ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội từ
chối nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152); tội trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152).
Vì mỗi tội phạm bao giờ cũng được cấu thành bởi bốn yếu tố: mặt khách quan,
mặt chủ quan, khách thể và chủ thể. Cho nên, để hiểu và nhận thức một cách sâu sắc nội
dung khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, cần làm rõ bốn yếu tố của CTTP nói
trên.
Trước hết, việc nghiên cứu khách thể của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là
một trong những vấn đề trọng tâm khi tìm hiểu khái niệm các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ, bởi nó là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, bị các hành vi phạm tội
xâm hại.
Khách thể của các tội phạm này chính là những nguyên tắc cơ bản thiết lập chế độ
HN&GĐ mới, tiến bộ XHCN. Theo Luật HN&GĐ Việt Nam, các nguyên tắc này là: hôn
nhân tự nguyện tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng; hôn nhân giữa công dân
Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo
tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và pháp luật bảo
vệ; vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; cha mẹ có
nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ tôn kính trọng,
chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, các thành
viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Mọi hành vi xâm phạm
những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở, nền tảng cho chế độ hôn nhân gia đình XHCN - khách
thể của tội phạm đều có thể bị xử lý hình sự, sau khi đã áp dụng các chế tài hành chính
nhưng không có hiệu quả.
Nếu như khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
bị các tội phạm xâm hại gây nên những thiệt hại nhất định, thì việc gây nên những thiệt hại
đó bao giờ cũng được thực hiện bởi hành vi cụ thể tác động vào đối tượng bị tác động làm
thay đổi trạng thái bình thường của quan hệ xã hội đó. Sự tác động đó có thể được thực
hiện bằng hành động hoặc không hành động, bằng các công cụ, phương tiện khác nhau để
gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đó chính là mặt khách quan của tội phạm. Hành vi
khách quan của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ có khác nhau về hình thức thể hiện,
nhưng đều có tính chất gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trực tiếp cho các quan hệ
HN&GĐ mới tiến bộ XHCN. Những hình thức thể hiện của hành vi khách quan có thể là:
- Hành vi cưỡng ép kết hôn.
- Hành vi cản trở kết hôn.
- Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác (mặc dù đang có
vợ có chồng hoặc chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ người mà mình kết hôn hoặc sống
chung đang có vợ, có chồng)...
Các hành vi khách quan này, nhìn chung được thực hiện bằng hình thức hành
động. Các tội phạm này có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, nhưng nó
chỉ là dấu hiệu bắt buộc nếu được quy định cụ thể trong từng CTTP.
Trong số các tội này, có ba điều luật quy định hậu quả hoặc đã bị
xử phạt hành chính là dấu hiệu cơ bản thuộc về mặt khách quan (Điều147, Điều 151 và
Điều 152); đối với các tội còn lại, nhà làm luật quy định xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ
luật là dấu hiệu bắt buộc bên cạnh các dấu hiệu khác được mô tả trong luật. Dấu hiệu đã bị
xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm được hiểu là trước đó đã có lần vi
phạm, đã bị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng một trong các hình thức xử phạt hành
chính như cảnh cáo, phạt tiền nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành
chính mà lại có vi phạm chính hành vi đó hoặc thực hiện một trong những hành vi được
liệt kê trong điều luật tương ứng đó. Cần lưu ý rằng, việc xử phạt hành chính chỉ có hiệu
lực trong thời hạn một năm, do vậy nếu hành vi vi phạm xảy ra sau thời hạn một năm kể từ
ngày bị xử phạt, thì không được coi là một trong những dấu hiệu để truy cứu TNHS.
Tội phạm bao giờ cũng được thực hiện bởi những con người cụ thể, bởi vì chỉ có
con người cụ thể mới có thể thực hiện được hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong luật hình sự, mới thể hiện được yếu tố lỗi, chịu trách nhiệm cá nhân, cũng như có thể
gánh chịu các biện pháp trừng trị, giáo dục, cải tạo mà Nhà nước quy định. Chủ thể của
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ phải là những con người cụ thể đã đạt đến một độ tuổi
nhất định và có năng lực TNHS.
Ngoài ra, có những tội phạm đòi hỏi chủ thể, ngoài những dấu hiệu của chủ thể
thường, phải có thêm những dấu hiệu đặc biệt khác. Điều đó có nghĩa, nếu thiếu các dấu
hiệu đặc biệt đó thì không thể trở thành chủ thể của những tội phạm cụ thể đó. Ví dụ, chủ
thể của các tội: tội loạn luân, hay tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng,
con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình phải là chủ thể đặc biệt.
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của
chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Những
dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm bao gồm dấu hiệu lỗi, dấu hiệu động cơ, dấu
hiệu mục đích... Tất cả các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đều được thực hiện với lỗi cố
ý trực tiếp. Điều đó có nghĩa, những chủ thể của các tội phạm này khi thực hiện hành vi
xâm phạm những quan hệ HN&GĐ XHCN đều nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó
xảy ra.
Nhìn chung, tất cả các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đều không có cấu thành
giảm nhẹ và chỉ duy nhất tội xâm phạm chế độ một vợ một chồng có cấu thành tăng nặng.
Ngoài hình phạt chính được áp dụng đối với loại tội này thì đa phần là không có hình phạt
bổ sung (trừ tội đăng ký kết hôn trái pháp luật). Một điểm đặc trưng của nhóm tội này là
mức hình phạt được quy định không cao với các chế tài lựa chọn mà cụ thể là mức hình
phạt tối đa ở hầu hết các tội chỉ đến ba năm tù (chỉ có tội loạn luân có mức hình phạt tù có
thời hạn tối đa là năm năm).
1.2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình
Nhóm các tội phạm được quy định tại chương XV BLHS xâm phạm vào hai quan
hệ xã hội khác nhau đó là HN&GĐ. Tuy nhiên, hai nhóm quan hệ xã hội này lại có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau: hôn nhân là cơ sở của gia đình còn gia đình hạnh phúc giữ cho
hôn nhân bền vững. Cho nên, các nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ vào một chương. Vì vậy, căn cứ vào khách thể trực tiếp bị xâm phạm có thể chia
các tội phạm này thành hai nhóm: nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và nhóm các
tội xâm phạm chế độ gia đình.
Nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân
1- Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 146
BLHS 1999)
Chế độ hôn nhân được xây dựng trên nguyên tắc cơ bản là hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ, bên trai và bên gái được quyền quyết định kết hôn theo ý muốn, không ai được ép
buộc nhưng phải đảm bảo các điều kiện kết hôn do luật định như: đủ tuổi, không phải là
người đang có vợ, có chồng, không thuộc những trường hợp bị cấm kết hôn.
Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này chính là nguyên tắc hôn
nhân tự nguyện - một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ Việt Nam. Nói
cách khác, hành vi phạm tội đã xâm phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện được ghi nhận ở
Điều 64 Hiến pháp 1992 và Điều 2 Luật HN&GĐ 2000.
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này trước hết phải là người có năng
lực TNHS.
Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ có mức tối đa của
khung hình phạt là 3 năm tù, cho nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS 1999, đây là
tội phạm ít nghiêm trọng. Vì vậy, chủ thể của tội phạm này phải từ đủ 16 tuổi trở lên.
Trên thực tế, chủ thể của các tội này thường là những người đã trưởng thành có
quyền uy nhất định trong gia đình của bên nam hoặc bên nữ (cha, me, ông bà, anh chị)
nhưng cũng có thể là người lợi dụng uy quyền về mặt công tác (thủ trưởng đối với nhân
viên) hoặc về mặt tín ngưỡng (chức sắc trong tôn giáo) hoặc bên nam, đối với bên nữ hoặc
ngược lại.
Mặt khách quan của tội phạm: tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện tiến bộ đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc có hành vi
cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-
09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn áp dụng các quy
định tại chương XV - Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ (sau đây gọi tắt là Thông tư số
01) đã đưa ra khái niệm cưỡng ép kết hôn như sau: cưỡng ép kết hôn là dùng mọi thủ đoạn
bắt buộc người khác (bên nam, bên nữ hoặc cải hai bên) phải kết hôn trái với ý muốn của
họ. Theo Thông tư số 01, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ là dùng mọi thủ đoạn để ngăn
cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo luật định hoặc có hành vi cản trở
người khác duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc buộc họ phải cắt đứt quan hệ
đó.
Các hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ nói trên
chỉ CTTP nếu đã được thực hiện bằng các thủ đoạn có tính chất bạo lực, tác động tới ý chí
của người bị hại như hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc thủ đoạn
khác.
Thông tư số 01 đã đưa ra khái niệm hành hạ, ngược đãi như sau: hành hạ, ngược
đãi là đối xử tàn ác, tồi tệ đối với người khác, gây đau khổ về thể xác hoặc tinh thần như:
thường xuyên đánh đập (có thể không gây thương tích), giam hãm, bắt nhịn ăn, nhịn uống,
bắt chịu rét, nhiếc móc, làm nhục... nhằm mục đích cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn
nhân tự nguyện, tiến bộ.
Thông tư này cũng đã đưa ra khái niệm uy hiếp tinh thần: uy hiếp tinh thần là đe
dọa sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản hoặc một lợi ích
thiết thân của người bị đe dọa làm cho người đó có căn cứ để lo sợ thực sự mà phải chịu
khuất phục như đe dọa sẽ đốt nhà, giết người thân, tiết lộ bí mật đời tư của người bị đe
dọa, bố mẹ hoặc người thân trong gia đình, đe dọa sẽ tự tử nếu hai bên nam nữ lấy nhau...
và yêu sách của cải là đòi hỏi của cải một cách quá đáng, không nhân nhượng và coi đó là
một trong những điều kiện để được kết hôn nhằm cản trở hôn nhân tự nguyện giữa đôi bên
nam nữ.
Thủ đoạn khác có thể là bất cứ hành vi nào khác mang tính chất ép buộc, làm tê
liệt ý chí của người bị hại, buộc họ phải nghe theo. Ví dụ dùng thủ đoạn có tính chất bạo
lực như đánh người gây thương tích, hoặc trong
một số trường hợp chịu ảnh hưởng của hủ tục cũ là bắt cóc phụ nữ về làm vợ bằng cách
đón đường dùng vũ lực bắt người con gái đi theo (ví dụ: người H.Mông) [33, tr. 353]. Tuy
nhiên, trong những trường hợp này chỉ coi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn nếu việc
bắt cóc được thực hiện hoàn toàn trái với ý muốn của bên nữ. Còn nếu hai bên nam nữ
thực sự yêu nhau và muốn tiến tới xây dựng gia đình, nhưng gặp phải sự cản trở của gia
đình bên trai, bên gái hoặc cả hai bên mà việc bắt cóc chỉ là giả tạo nhằm chống lại sự cản
trở thì không phải là cưỡng ép kết hôn; hoặc việc bắt cóc đi là để phù hợp với nghi thức
kết hôn truyền thống ở một số dân tộc (ví dụ: người Thái) [23, tr. 48] nhưng có sự đồng
thuận của cả nam và nữ thì cũng không phạm tội.
Trong thực tiễn cần phân biệt những thủ đoạn nêu trên với một số trường hợp như
bố mẹ góp ý kiến với con cái trong việc xây dựng gia đình dù có mang tính chất gia
trưởng, nhưng không kèm theo thủ đoạn ép buộc, thì không phải là hành vi phạm tội, vì
không có thủ đoạn làm tê liệt ý chí của người bị hại; trường hợp một bên đã dùng thủ đoạn
gian xảo để lừa dối bên kia như che giấu hoặc sửa chữa lý lịch chính trị hoặc lý lịch tư
pháp đặc biệt xấu của mình, làm cho bên kia mắc lừa đồng ý kết hôn, thì tuy cũng vi phạm
nguyên tắc tự nguyện kết hôn, có thể yêu cầu xử hủy hôn nhân trái pháp luật, nhưng không
thể coi là một thủ đoạn của tội này vì không có yếu tố cưỡng ép; một trường hợp khác cần
lưu ý nữa đó là người có hành vi cản trở những cuộc hôn nhân bất hợp pháp (những cuộc
hôn nhân mà không đủ các điều kiện kết hôn theo quy định của luật HN&GĐ), dù có dùng
những thủ đoạn như đã phân tích trên đây thì cũng không coi là phạm tội cản trở hôn nhân
tự nguyện tiến bộ, mà tùy từng trường hợp có thể cấu thành các tội phạm khác như: tội cố
ý gây thương tích, tội làm nhục người khác...
Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được coi là hoàn
thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong những thủ đoạn nói trên và đã bị
xử phạt hành chính về hành vi này trước đó. Còn việc người phạm tội trong thực tế đã
cưỡng ép hoặc cản trở được cuộc hôn nhân hay chưa không có ý nghĩa đối với việc định
tội danh.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội nhận thức được hành vi cưỡng ép, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ của
người khác bằng thủ đoạn hành hạ, ngược đãi uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc
bằng thủ đoạn khác là nguy hiểm cho xã hội, nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó.
2- Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS 1999)
Cơ sở để đảm bảo gia đình hạnh phúc là hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính
được thể hiện bằng hôn nhân một vợ một chồng. Theo Ăng-ghen "Xuất phát từ bản chất
của tình yêu là không chia sẻ được... nên hôn nhân
dựa trên tình yêu nam nữ do ngay bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng" [1, tr.
131].
Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này là một trong những nguyên
tắc cơ bản của luật HN&GĐ - nguyên tắc một vợ, một chồng. Nguyên tắc một vợ một
chồng được ghi nhận trong Điều 2 Luật HN&GĐ 2000 và Điều 4 Luật này còn quy định:
"Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người
khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người đang có vợ, có chồng".
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là người đang có vợ, có chồng
hoặc người chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ bên kia đã có chồng, có vợ mà vẫn kết hôn
hoặc chung sống như vợ chồng với người đó.
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có mức hình phạt tối đa là 1 năm tù, cho
nên, theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS 1999, đây là tội phạm ít nghiêm trọng. Vì
vậy, chủ thể của loại tội phạm này phải từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS.
Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội phải có hành vi kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác trong khi đang có vợ hoặc đang có chồng, hoặc
tuy chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ người khác đang có vợ, có chồng.
Theo khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000, kết hôn là việc nam, nữ xác lập
quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC, người đang có vợ, có chồng được hiểu là: người đã kết hôn với người khác theo
đúng quy định của pháp luật, nhưng chưa ly hôn; người sống chung với người khác như vợ
chồng trước ngày 03-01-1987 và đang sống chung như vợ chồng, mà không đăng ký kết hôn;
người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến trước ngày 01-01-
2001 và đang sống chung với nhau như vợ chồng, có đủ điều kiện nhưng không đăng ký
kết hôn. Luật HN&GĐ năm 2000 không thừa nhận những trường hợp hôn nhân thực tế tại
Điều 11: "Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì
không được pháp luật công nhận là vợ chồng".
Thông tư liên tích số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-
09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC đã đưa ra khái niệm chung
sống như vợ chồng:
Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung
sống với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà lại chung sống với
người khác mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng một cách công khai hoặc
không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung
sống như vợ, chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được
hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ, chồng, có tài sản chung và đã được
gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó.
Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc
phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn
duy trì quan hệ đó thì người phạm tội phải chịu TNHS về tội phạm này.
Khác với BLHS 1985, theo quy định của BLHS 1999 thì hành vi kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác chỉ CTTP khi thỏa mãn một trong hai dấu hiệu
sau: gây hậu quả nghiêm trọng, tức là đã làm cho gia đình một bên hoặc hai bên tan vỡ dẫn
đến chia lìa vợ chồng, con cái họ, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát hoặc gây ảnh hưởng
xấu tới trật tự xã hội của địa phương; người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử
phạt hành chính mà còn vi phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp:
người phạm tội biết rõ đối tượng mà mình đang chung sống hoặc kết hôn đang có vợ, có
chồng nhưng vẫn mong muốn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đó.
Trường hợp do lầm tưởng là vợ hoặc chồng của mình đã chết, nên đã kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người khác, thì không phạm tội này.
3- Tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 148 BLHS 1999)
Theo quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000, tảo hôn là việc lấy vợ, lấy
chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo luật định. Độ tuổi kết hôn
được quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật HN&GĐ năm 2000: "1. Nam từ hai mươi tuổi trở
lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên".
Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này là một trong những nguyên
tắc cơ bản của luật HN&GĐ Việt Nam - hôn nhân tiến bộ. Theo nguyên tắc này, việc kết
hôn của hai bên nam nữ phải tuân thủ điều kiện kết hôn nhằm đảm bảo người kết hôn đã
có sự phát triển đầy đủ về mọi mặt và nhận thức được trách nhiệm đối với gia đình, xã hội,
cũng như có khả năng tự chủ được cuộc hôn nhân của mình.
Chủ thể của tội phạm:Chủ thể của tội tổ chức tảo hôn là bất kỳ người nào có năng
lực TNHS và đạt từ 16 tuổi trở lên, thông thường là những người thân thích của bên nam,
bên nữ. Chủ thể của tội tảo hôn là bất kỳ người nào có năng lực TNHS đã đủ tuổi kết hôn
theo luật định. Trong trường hợp cả đôi bên nam nữ đều chưa đủ tuổi kết hôn thì cuộc hôn
nhân này là bất hợp pháp, Tòa án sẽ xử tiêu hôn, các bên đương sự đều không phải chịu
TNHS.
Mặt khách quan của tội phạm: Tội tổ chức tảo hôn và tội tảo hôn đều được biểu
hiện dưới hình thức hành động.
Đối với tội tổ chức tảo hôn, hành vi khách quan của tội này là hành vi tổ chức việc
kết hôn cho người chưa đến tuổi kết hôn. Theo Thông tư số 01, tổ chức tảo hôn được hiểu
là việc tổ chức cho những người chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật
HN&GĐ lấy vợ, lấy chồng. Người tổ chức tảo hôn biết rõ hoặc có căn cứ để biết rõ là hai
người hoặc một trong hai người mà mình tổ chức lễ cưới là chưa đủ tuổi kết hôn theo luật
định; nếu người đó không biết việc này hoặc nhầm lẫn về độ tuổi, thì không phạm tội này.
Theo quy định của BLHS năm 1985, thì tội phạm này được hoàn thành ngay từ
thời điểm tổ chức hôn lễ, nhưng BLHS 1999 bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là "đã bị
xử phạt hành chính mà còn vi phạm" nhằm hạn chế phạm vi xử lý hình sự đối với tội này.
Đối với tội tảo hôn, hành vi phạm tội này là hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng
trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án buộc
chấm dứt quan hệ này. Chỉ cấu thành tội tảo hôn, khi hành vi khách quan có đầy đủ các
dấu hiệu sau: đã có việc kết hôn với người chưa đủ tuổi kết hôn; đã có bản án có hiệu lực
pháp luật của Tòa án xử tiêu hôn buộc chấm dứt quan hệ đó; có hành vi cố ý duy trì quan
hệ vợ chồng bất hợp pháp với người chưa đến tuổi kết hôn (cố ý không chấp hành bản án);
đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm: Hai tội này đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội tổ chức tảo hôn phải biết rõ bên nam, bên nữ hoặc cả hai bên chưa đến
tuổi kết hôn, nhưng vẫn mong muốn việc kết hôn được tổ chức. Đối với tội tảo hôn, người
phạm tội biết rõ là người mình duy trì quan hệ như vợ chồng chưa đến tuổi kết hôn, nhưng
vẫn mong muốn duy trì quan hệ đó.
4- Tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149 BLHS 1999)
Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 để ngăn ngừa và trừng trị
những hành vi của người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn đã biết rõ là người đi đăng
ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng ký cho người đó. Việc xử lý hình sự hành vi này
góp phần đảm bảo thi hành tốt luật HN&GĐ, đồng thời đề cao tinh thần trách nhiệm của cán
bộ làm công tác hộ tịch.
Khách thể của tội phạm: tội phạm này xâm phạm đồng thời hai nhóm quan hệ xã
hội: quan hệ xã hội về trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực HN&GĐ và nguyên tắc
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Chủ thể của tội phạm: Theo Thông tư liên tịch số 01/2001 ngày
25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC, chủ thể của tội phạm
này ngoài những dấu hiệu chung như có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định, phải là
người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn, cụ thể là: người đại diện của chính quyền
hoặc người đại diện của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước ta ở nước
ngoài có thẩm quyền ký giấy chứng nhận kết hôn; cán bộ hộ tịch làm thủ tục đăng ký kết
hôn ở ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cán bộ của Sở Tư pháp đối với trường
hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài; cán bộ làm thủ tục đăng ký kết hôn ở các cơ quan đại
diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài.
Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội phải có hành vi đăng ký kết hôn
trái pháp luật. Theo Thông tư số 01, đăng ký kết hôn trái pháp luật là việc người có trách
nhiệm trong việc đăng ký kết hôn xác nhận sự kiện kết hôn (ghi vào sổ đăng ký kết hôn và
cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn) cho người mà mình biết rõ là chưa đủ điều kiện kết
hôn theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 9 hoặc thuộc một trong các trường hợp cấm kết
hôn được quy định tại Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2000.
Hành vi nói trên chỉ CTTP nếu trước đó đã bị xử lý kỷ luật cũng về hành vi đó.
Cần lưu ý, để truy cứu TNHS về tội này chỉ tính những trường hợp "đã bị xử lý kỷ luật về
hành vi này mà còn vi phạm" kể từ ngày 1/7/2000.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, thể
hiện ở việc người phạm tội biết rõ là người đi đăng ký kết hôn không đủ điều kiện kết hôn
(vi phạm một trong những điều mà luật cấm), nhưng vẫn mong muốn đăng ký kết hôn cho
người đó.
5- Tội loạn luân (Điều 150 BLHS 1999)
Trên cơ sở khoa học và từ việc điều tra khảo sát trên thực tế, các nhà khoa học đã
kết luận rằng: không được quan hệ sinh lý giữa những người có mối quan hệ huyết thống,
vì nếu những người này có quan hệ với nhau thì con cái do họ sinh ra thường bị bệnh tật,
dị dạng hoặc sẽ bị tử vong sau khi sinh. Để bảo đảm cho con cái sau khi sinh ra được khỏe
mạnh, nòi giống phát triển lành mạnh, bảo vệ đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của dân
tộc, pháp luật HN&GĐ cấm kết hôn giữa những người có quan hệ huyết thống và pháp
luật hình sự hiện hành quy định tội loạn luân.
Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này không chỉ là thuần phong mỹ
tục, đạo đức xã hội, hạnh phúc gia đình mà còn là những quan hệ xã hội đảm bảo sự phát
triển bình thường của con cái.
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là những người có năng lực
TNHS, đạt độ tuổi theo luật định và có quan hệ huyết thống với người thuận tình giao cấu
với mình.
Như vậy, đối với tội phạm này, chủ thể của tội phạm ngoài những dấu hiệu chung
còn phải có dấu hiệu đặc biệt: đó là mối quan hệ huyết thống giữa những người đồng tình
giao cấu như: cha mẹ với các con, ông bà với các cháu nội ngoại, giữa anh chị em cùng
cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Trong trường hợp cả hai bên đồng tình giao cấu với
nhau đều thỏa mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm này thì hai người này cùng phạm tội và
bị xét xử cùng một tội nhưng không phải là đồng phạm. Còn trường hợp chỉ có một bên
thỏa mãn dấu hiệu chủ thể thì chỉ xử một người đó với tội loạn luân.
Mặt khách quan của tội phạm: hành vi phạm tội là hành vi đồng tình giao cấu (con
đực và con cái cùng thực hiện chức năng sinh sản) [63, tr. 732] giữa những người cùng
dòng máu về trực hệ (theo quy định của pháp luật, những người cùng dòng máu về trực hệ
là cha mẹ đối với các con, ông bà đối với các cháu nội ngoại, giữa anh chị em cùng cha
khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha) [32, khoản 12 điều 8].
Tội phạm được coi là hoàn thành khi có hành vi thuận tình giao cấu giữa những
người nói trên. Theo Thông tư số 01, để truy cứu TNHS về tội loạn luân, cần xác định rõ
hành vi giao cấu là thuận tình, không có dấu hiệu dùng vũ lực hoặc cưỡng ép, được thực
hiện với người từ đủ 16 tuổi trở lên. Trong trường hợp tuy hành vi giao cấu là thuận tình,
nhưng nếu hành vi đó được thực hiện đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi,
thì không truy cứu TNHS về tội loạn luân mà phải truy cứu TNHS về tội giao cấu với trẻ
em được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 115 BLHS 1999. Trong trường hợp hành vi
loạn luân kèm theo dấu hiệu dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác, thù tùy từng trường hợp, người thực
hiện hành vi đó phải bị truy cứu TNHS về tội hiếp dâm hoặc tội hiếp dâm trẻ em được quy
định tại Điều 111, 112 BLHS 1999. Nếu hành vi loạn luân được thực hiện kèm theo dấu
hiệu lợi dụng quan hệ lệ thuộc khiến bên kia phải miễn cưỡng cho giao cấu, thì tùy từng
trường hợp mà người thực hiện hành vi đó, phải bị truy cứu TNHS về tội cưỡng dâm
hoặc cưỡng dâm trẻ em được quy định tại Điều 113, 114 BLHS 1999. Người thực hiện
hành vi loạn luân với trẻ em dưới 13 tuổi trong mọi trường hợp đều phải bị truy cứu TNHS
về tội hiếp dâm trẻ em được quy định tại Điều 112 BLHS 1999.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội biết rõ mình với người thuận tình giao cấu có mối quan hệ huyết thống
nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi giao cấu nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục. Đối
với những trường hợp mặc dù có mối quan hệ huyết thống với nhau nhưng vì một lý do
nào đó mà họ không thể biết được. Ví dụ: người bố bỏ rơi vợ khi vợ đang mang thai và
bỏ đi một nơi khác sinh sống mà không quan tâm tới tình hình cuộc sống của người vợ
trước và cũng không biết là mình đã có con với người vợ này. Còn người con cũng
không được biết mặt bố và tên bố là gì vì người mẹ không nói cho biết bố là ai và sau
này hai cha con gặp lại nhau, mà đồng tình giao cấu với nhau thì không bị coi là phạm tội
loạn luân.
Nhóm các tội xâm phạm quan hệ gia đình
1- Tội ngược đãi, hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, người có công nuôi
dưỡng mình (Điều 151BLHS 1999)
Sự đối xử bình đẳng giữa vợ chồng và thương yêu nuôi nấng, giáo dục con cái
cũng như việc kính yêu, chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ là một trong những nét đẹp truyền
thống của gia đình Việt Nam, đồng thời cũng là nghĩa vụ có tính đạo lý giữa những người
thân trong gia đình đã được luật hóa thành nghĩa vụ pháp lý trong pháp luật HN&GĐ.
Điều luật quy định hai tội: tội ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu,
người có công nuôi dưỡng mình và tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người
có công nuôi dưỡng mình.
Khách thể của tội phạm: khách thể của hai tội phạm này là nghĩa vụ đạo lý giữa
những người thân trong gia đình, sức khỏe, phẩm giá của người bị hại, hạnh phúc gia đình,
cũng như đạo đức XHCN.
Đối tượng tác động của tội phạm là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu cũng như
người nuôi dưỡng của người phạm tội này, đó cũng là những người thân của người phạm
tội. Theo TTLT số 01/2001 ngày 25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC,
VKSNDTC, đối tượng tác động của tội phạm bao gồm: ông bà nội, ông bà ngoại; cha mẹ,
bao gồm cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế; vợ chồng theo quy định của pháp luật
HN&GĐ; con, bao gồm con đẻ (con trong giá thú, con ngoài giá thú), con nuôi, con rể, con
dâu, con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng; cháu bao gồm cháu nội, cháu ngoại;
người có công nuôi dưỡng mình là anh chị em, cô dì chú bác, bà con thân thích hoặc
những người khác đã và đang nuôi dưỡng người thực hiện hành vi ngược đãi, hành hạ.
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là những người đủ tuổi chịu
TNHS, có năng lực TNHS, đồng thời có mối quan hệ về HN&GĐ hoặc chịu sự nuôi
dưỡng của nạn nhân.
Mặt khách quan của tội phạm: Theo Thông tư số 01, hành vi ngược đãi, hành hạ
được hiểu là việc đối xử tồi tệ về ăn mặc, ở và về các mặt sinh hoạt khác đối với người
thân như nhiếc móc, bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, mặc rách một cách không bình
thường hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể người bị hại như đánh đập, giam cầm...
làm cho người bị hại đau đớn về thể xác và tinh thần.
Việc đối xử như trên bị coi là phạm tội khi nó thể hiện rõ nét sự trái ngược với
điều kiện sống của gia đình họ như có đầy đủ chỗ ở, nhưng lại đưa người bị hại ra ở
chuồng dành cho súc vật... Trường hợp gia đình họ thực sự nghèo khổ, thiếu thốn, thì
không bị coi là phạm tội này.
Theo quy định tại Điều 151 BLHS 1999, chỉ có thể truy cứu TNHS về tội phạm
này khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Hành vi ngược đãi, hành hạ gây hậu quả nghiêm trọng, tức là làm cho người bị
hại bị giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất về danh dự, nhân phẩm hoặc bị thương tích, tổn
hại đến sức khỏe. Hậu quả thương tích hay tổn hại đến sức khỏe là do lỗi vô ý, nếu người
thực hiện hành vi này dẫn đến chết người, thì người đó phải bị truy cứu TNHS về tội vô ý
làm chết người được quy định tại Điều 98 BLHS 1999. Trong trường hợp thương tích, tổn
hại đến sức khỏe hoặc chết người xảy ra do lỗi cố ý, thì tùy trường hợp cụ thể bị truy cứu
TNHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy
định tại Điều 104 hoặc về tội giết người được quy định tại Điều 93; nếu làm cho nạn nhân
uất ức mà tự sát, thì có thể bị truy cứu TNHS về tội bức tử được quy định tại Điều 100
BLHS 1999.
- Người thực hiện hành vi ngược đãi, hành hạ đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người
phạm tội nhận thức được hành vi ngược đãi, hành hạ người thân trong gia đình hoặc người
đã nuôi dưỡng mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng mong muốn thực hiện hành vi
đó.
2- Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152 BLHS 1999)
Theo quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000, nghĩa vụ cấp dưỡng được
đặt ra giữa cha mẹ con cái, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội ngoại với cháu, giữa
vợ và chồng để tạo điều kiện cho các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm
phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Vì vậy, những hành vi vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ cấp dưỡng - nghĩa vụ đạo lý cũng là nghĩa vụ pháp lý, phải bị xử lý
đúng mức.
Khách thể của tội phạm: Hành vi phạm tội đã xâm phạm đến nghĩa vụ cấp dưỡng
do pháp luật HN&GĐ quy định, nói cách khác xâm hại quyền được người khác cấp dưỡng.
Đó là quyền đảm bảo cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của người
được cấp dưỡng trong đời sống cộng đồng.
Theo TTLT số 01/2001 ngày 25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC,
VKSNDTC, nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ của một người phải đóng góp tiền hoặc tài sản
khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng theo quy định của pháp luật HN&GĐ.
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là những người đủ tuổi chịu
TNHS, có năng lực TNHS, có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người mà theo quy định của
pháp luật có nghĩa vụ phải cấp dưỡng. Theo quy định của Luật HN&GĐ 2000, nghĩa vụ
cấp dưỡng được thực hiện giữa: vợ và chồng; cha mẹ và con; ông bà nội, ông bà ngoại và
cháu; anh chị em với nhau.
Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng được hiểu là không chịu đóng góp tiền, tài sản để cấp dưỡng mặc dù có khả năng
thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó.
Cần lưu ý rằng người có hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ bị
truy cứu TNHS khi người đó phải có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ này. Khả
năng thực tế là có tiền, tài sản, hoặc thu nhập có khả năng đảm bảo cuộc sống của gia đình
với mức sống trung bình ở địa phương. Điều 16 của Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03-
10-2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật HN&GĐ năm 2000 quy định: Người
có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên hoặc
tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường
cần thiết cho cuộc sống của người đó. Trường hợp mặc dù có yêu cầu cấp dưỡng và thực tế
do không được cấp dưỡng nên đã xảy ra hậu quả nghiêm trọng nhưng lại cũng chứng minh
được rằng bản thân người được yêu cầu hoàn toàn không có khả năng thực hiện được
nghĩa vụ này (ví dụ bản thân họ cũng không kiếm ra tiền để đủ nuôi sống mình), thì họ không
phạm tội này.
Chỉ có thể truy cứu TNHS về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, khi
có đủ các dấu hiệu sau: người vi phạm phải là người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định
của pháp luật HN&GĐ; người đó từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng; việc từ chối
hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng đã gây hậu quả nghiêm trọng, tức là gây ra hậu quả
xấu bất lợi cho người được cấp dưỡng: do không nhận được sự cấp dưỡng, nên người được
cấp dưỡng phải chịu đói khát nhiều ngày, dẫn đến suy kiệt về sức khỏe; do quá túng thiếu
lại gặp bệnh nặng không có tiền chữa chạy nên đã chết hoặc trẻ em bị thất học sống lang
thang, bờ bụi và phạm pháp... Trong trường hợp chưa gây hậu quả nghiêm trọng, thì người
vi phạm đã bị xử lý hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Trong trường hợp đã có
bản án, quyết định của Tòa án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nhiệm vụ
của mình mà người đó vẫn cố tình không chấp hành, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế cần thiết thì bị truy cứu TNHS theo điều 304 BLHS 1999 về tội không chấp
hành án.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người
phạm tội nhận thức rõ hành vi từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng, trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
là nguy hiểm đối với xã hội, nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó.
1.3. những quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong pháp luật
hình sự của Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Liên bang Nga, Vương quốc Thụy
Điển cho thấy các nước quy định rất khác nhau về các tội phạm này.
BLHS Nhật Bản quy định ba tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhưng tại hai chương
khác nhau. Đó là tội lấy hai vợ hoặc hai chồng tại Điều 184, chương XXII - Các tội khiêu
dâm, hiếp dâm và lấy hai vợ hoặc hai chồng: "Người nào đã có vợ hoặc chồng mà kết hôn
với người khác thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến hai năm. Tương tự như vậy áp dụng
đối với người kết hôn với người đã có vợ hoặc có chồng" [7, tr. 48]; tội bỏ mặc người khác
trong trường hợp tăng nặng tại Điều 218 chương - Các tội bỏ mặc người khác:
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đìnhĐề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
 
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Khóa Luận Pháp Luật Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi, 9 Điểm.docx
Khóa Luận Pháp Luật Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi, 9 Điểm.docxKhóa Luận Pháp Luật Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi, 9 Điểm.docx
Khóa Luận Pháp Luật Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi, 9 Điểm.docx
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOTĐề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 
Báo cáo thực tập: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hôn
Báo cáo thực tập: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hônBáo cáo thực tập: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hôn
Báo cáo thực tập: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hôn
 
Hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân, HOT
Hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân, HOTHợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân, HOT
Hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân, HOT
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOTĐề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
So sánh quy định về hình phạt của pháp luật Việt Nam và Pháp
So sánh quy định về hình phạt của pháp luật Việt Nam và PhápSo sánh quy định về hình phạt của pháp luật Việt Nam và Pháp
So sánh quy định về hình phạt của pháp luật Việt Nam và Pháp
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
 

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT

Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khacVe toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khacHung Nguyen
 
Tailieu.vncty.com th s-11(1)
Tailieu.vncty.com th s-11(1)Tailieu.vncty.com th s-11(1)
Tailieu.vncty.com th s-11(1)Trần Đức Anh
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Khóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình Sự
Khóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình SựKhóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình Sự
Khóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình SựViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT (20)

Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khacVe toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
 
Tailieu.vncty.com th s-11(1)
Tailieu.vncty.com th s-11(1)Tailieu.vncty.com th s-11(1)
Tailieu.vncty.com th s-11(1)
 
Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc
Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh PhúcVi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc
Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc
 
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAYĐề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAY
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAYLuận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
 
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAYĐề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đìnhLuận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
 
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOTTrách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAYLuận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tếLuận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Thuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trước
Thuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trướcThuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trước
Thuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trước
 
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Khóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình Sự
Khóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình SựKhóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình Sự
Khóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình Sự
 
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHSLuận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (19)

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 

Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT

  • 1. LUẬN VĂN: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình - một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học
  • 2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Gia đình tốt, thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Nhận thức được tầm quan trọng của gia đình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã thiết lập chế độ hôn nhân gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, lạc hậu. Quyết tâm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) mới của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện rất rõ trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Điều 64, Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận: Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử với các con. Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ mới tiến bộ và tuân thủ triệt để Hiến pháp, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, cũng như BLHS năm 1999 đều đã quy định cụ thể các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, góp phần ngăn chặn, hạn chế và từng bước xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến, lạc hậu. Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp; tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, kể cả trong lĩnh vực HN&GĐ. Đáng chú ý, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ không có xu hướng gia tăng, nhưng tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây dư luận xấu trong xã hội. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ và hôn nhân gia đình cho thấy, mặc dù đây là các tội phạm mà tính chất nguy hiểm cho xã hội không cao, nhưng
  • 3. có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống gia đình; trên thực tế, các tội phạm này xảy ra rất nhiều, song việc xử lý bằng các chế tài hình sự còn rất hạn chế. Thực tiễn áp dụng các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận như: khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, ý nghĩa của việc quy định các tội phạm này trong pháp luật hình sự... Trong khi đó, xung quanh những vấn đề này, vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình - một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học", mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. ThS. Bùi Anh Dũng đã có công trình "Tìm hiểu các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình", Nxb Lao động, Hà Nội, 2003; ThS. Trịnh Tiến Việt đã có các công trình: "Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng các quy định tại chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí khoa học Pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 1/2003, "Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 4/2002, "Về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 9/2002,); tác giả Nguyễn Quốc Việt chủ biên cuốn sách: Bộ luật hình sự mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, trong đó có đề cập chương XV - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; tác giả Nguyễn Ngọc Điệp có công trình: "Tìm hiểu các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và các tội đối với người chưa thành niên", Nxb Phụ nữ, Hà Nội; các tác giả Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa có công trình: Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2000...
  • 4. Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về nhóm tội phạm này dưới góc độ pháp lý hình sự và tội phạm học. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về loại tội phạm này. - Phân tích và đánh giá tình hình, nguyên nhân và điều kiện các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này; dự báo tình tội phạm này trong những năm tới. - Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ dưới góc độ pháp lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, thời gian từ năm 1997 đến năm 2004. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và pháp luật,
  • 5. những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học... Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, điều tra xã hội... 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. 6. ý nghĩa của luận văn
  • 6. Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý luận về tội phạm học, luật hình sự, cũng như vào cuộc đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 110 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 mục.
  • 7. Chương 1 Các tội Xâm Phạm Chế Độ HÔN NHÂN Và GIA Đình Trong luật hình sự việt nam 1.1. khái lược sự hình thành và phát triển những quy định về các tội Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lý cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Hôn nhân là một vấn đề hệ trọng đối với con người, gia đình là nền tảng của xã hội. Vì vậy, ngay từ thời phong kiến, HN&GĐ luôn luôn là lĩnh vực được Nhà nước rất quan tâm điều chỉnh bằng pháp luật. Trong Bộ luật thành văn đầu tiên của Nhà nước ta - Bộ Hình thư, được ban hành năm 1042 dưới thời Lý Thái Tông, vấn đề HN&GĐ chiếm giữ một vị trí quan trọng và được quy định trong nhiều điều luật. Nét đặc trưng chủ yếu của các quy định này là quyền uy tập trung trong tay người chồng, mà mọi thành viên có bổn phận phục tùng; người chồng được phép bỏ vợ trong trường hợp người vợ phạm một trong các tội "thất xuất", còn người vợ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc nếu ruồng bỏ chồng; con cái không làm tròn đạo hiếu sẽ bị trừng phạt. Trách nhiệm giáo dục con cái tuân theo đạo lý thuộc về cha mẹ, nếu lơ là trách nhiệm thì chính cha mẹ cũng bị trừng phạt [28, tr. 59]. Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê, mười tội ác (thập ác) đã được quy định tại Điều 3, trong đó có tới bốn tội liên quan đến HN&GĐ, đó là các tội: 4. ác nghịch, là đánh và mưu giết ông bà, cha mẹ, bác chú, thím, cô, anh, chị em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng... 7. Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo, nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường; nghe thấy tang ông bà, cha mẹ mà không cử ai (tang lễ); nói dối là ông bà, cha mẹ chết.
  • 8. 8. Bất mục, là giết hay đem bán những người trong họ phải để tang 3 tháng trở lên, đánh đập hoặc tố cáo chồng, cùng những họ hàng từ tiểu công trở lên... 9. Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đương chức tại nhiệm, giết thầy học; nghe thấy tin chồng chết mà không cử ai, lại vui chơi ăn mặc như thường, cùng là tái giá [36, tr. 36-37]. Ngoài ra, trong Quốc triều hình luật còn có hẳn một chương hộ hôn (hôn nhân gia đình) gồm 58 điều luật, trong đó có một số điều quy định những trường hợp bị cấm kết hôn, nếu vi phạm sẽ phải chịu hình phạt, đó là là các trường hợp: đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cưới vợ, khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy vợ, lấy chồng... Ví dụ: Điều 317 quy định: "Người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cưới vợ thì xử tội đồ, người khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử biếm ba tư và đôi vợ chồng mới cưới phải chia lìa" [36, tr. 122]. Bộ luật này còn có một số quy định thể hiện tư tưởng phong kiến coi khinh nghề hát xướng như quy định tại Điều 323: "Các quan và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử phạt 70 trượng, biếm ba tư; con cháu các quan viên mà lấy những phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trượng; về đều phải ly dị" [36, tr. 123]. Dưới thời thực dân Pháp xâm lược nước ta, Việt Nam vẫn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, chính quyền thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến vẫn duy trì chế độ hôn nhân phong kiến đã tồn tại từ nhiều thế kỷ, thừa nhận sự cưỡng ép kết hôn của cha mẹ đối với con cái, bảo vệ chế độ nhiều vợ (đa thê), duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình. Điều thứ 128 Luật hình An Nam thi hành ở Bắc Kỳ quy định: "Người vợ hay vợ lẽ hiện đương có chồng mà phạm tội thông gian, xét ra quả thực, phải phạt giam từ ba tháng đến hai năm và phạt bạc từ bốn mươi đồng đến bốn trăm đồng, người gian phu bị phạt cũng thế" [55, tr. 21]. Điều thứ 135 của Bộ luật còn quy định: Người vợ hay vợ lẽ hiện đương có chồng, chưa tuyên cáo sự ly hôn, mà đi lấy chồng khác, phải phạt giam từ một năm đến năm năm và phạt bạc từ năm đồng đến hai trăm đồng.
  • 9. Người có vợ chưa tuyên cáo sự tiêu hôn mà đi lấy vợ khác, phải phạt giam từ ba tháng đến một năm và phạt bạc từ hai đồng đến một trăm đồng [55, tr. 22]. Bộ luật hình canh cải áp dụng tại Nam Kỳ cũng quy định những tội phạm và hình phạt thích ứng để bảo vệ chế độ một chồng nhiều vợ. Theo Bộ luật này, bị coi là phạm tội thông gian khi một người đàn bà đã có chồng rồi mà còn ân tình với một người đàn ông khác, còn đối với đàn ông có vợ thì hành vi ngoại tình không coi là tội phạm [38, tr. 202]. 1.1.2. Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá. ở miền Bắc, khoảng 200.000 quân Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh vào tước vũ khí quân Nhật, nhưng dã tâm của chúng là giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. ở miền Nam, quân đội Pháp được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn, rồi sau đó đánh rộng ra các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đó là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm và "Đảng ta xác định giữ vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu" [18, tr. 468]. Vì vậy, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến năm 1954 là thời điểm ký Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là Chính phủ kháng chiến, pháp luật ta cũng là pháp luật kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Nhà nước ta vẫn rất quan tâm xây dựng chế độ HN&GĐ mới tiến bộ, từng bước xóa bỏ những quy định khắt khe của chế độ thực dân, phong kiến đối với phụ nữ (Sắc lệnh số 97/SL ngày 12-05-1950). Tuy nhiên, do phải tập trung quy định các tội phạm liên quan đến sự an nguy của chính quyền nhân dân như các tội phản bội Tổ quốc, tội gián điệp, tội hối lộ, tham ô..., cho nên, trong giai đoạn này, Nhà nước ta chưa có quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
  • 10. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Từ khi Luật HN&GĐ được ban hành năm 1959, đời sống HN&GĐ đã có những chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm pháp luật HN&GĐ vẫn xảy ra phổ biến ở mức độ nghiêm trọng, Trước tình hình đó, TANDTC đã có Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04- 1966 hướng dẫn về xử lý hình sự đối với 8 hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ, đó là các hành vi: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, thông gian, đánh đập hoặc ngược đãi vợ, đánh đập hoặc ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên hướng dẫn xử lý hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ kể từ khi Cách mạng tháng Tám thành công. Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-1966 đã đề cập về từng hành vi vi phạm như sau: Thứ nhất, đối với hành vi tảo hôn, Thông tư nêu rõ: Đối với nạn tảo hôn chủ yếu là giáo dục; cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng như: đã được chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm; hoặc đã gây ảnh hưởng chính trị xấu thì có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tù treo hay tù giam. Đối tượng xử phạt có thể là cha mẹ của đôi trai gái, người có trách nhiệm nuôi dưỡng (nếu trai hoặc gái chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự), hoặc cả đôi bên trai gái (nếu họ đã đến tuổi chịu TNHS: 15 tuổi [42, tr. 465]. Thứ hai, đối với hành vi cưỡng ép kết hôn, Thông tư nêu rõ: Đối với hành động cưỡng ép kết hôn, vi phạm quyền tự do kết hôn, chủ yếu là giáo dục, cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng, có thể phạt cảnh cáo, tù treo hay tù giam. Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo tảo hôn; đã được chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm; có kèm theo đánh đập tàn nhẫn; đã gây ảnh hưởng chính trị xấu; rõ ràng là nạn nhân vì bị cưỡng ép kết hôn mà sự sát [42, tr. 467]. Thứ ba, đối với hành vi cản trở hôn nhân tiến bộ, Thông tư hướng dẫn:
  • 11. Đối với hành động cản trở hôn nhân tự do, tiến bộ, chủ yếu là giáo dục, cá biệt nếu có tình tiết nghiêm trọng có thể phạt cảnh cáo, tù treo, hay tù giam nếu rõ ràng là nạn nhân vì bị cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ mà tự sát, cần phạt tù giam. Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo cưỡng ép kết hôn; đã được chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm; có kèm theo lăng nhục thậm tệ, nhục hình tần nhẫn; đã gây ảnh hưởng chính trị xấu [42, tr. 468]. Thứ tư, đối với hành vi yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, tức là sự đòi hỏi về tiền, vàng, quần áo, gạo, thịt, rượu... trong việc cưới hỏi của nhà gái đối với nhà trai với ý nghĩa là điều kiện để được kết hôn, Thông tư hướng dẫn: "Về mặt hình sự, nếu việc yêu sách của cải trong việc cưới hỏi gắn liền với tảo hôn, hoặc cưỡng ép kết hôn, hoặc cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ thì cần chú ý kết hợp xem xét, đánh giá trong những trường hợp phải xử lý nạn tảo hôn, cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ" [42, tr. 469]. Thứ năm, đối với hành vi lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, Thông tư hướng dẫn: Đối với người lấy nhiều vợ, lấy vợ lẽ (từ sau ngày ban hành Luật HN&GĐ) chủ yếu vẫn là giáo dục, phê bình, để ngăn ngừa và chấm dứt. Cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng thì có thể bị xử phạt cảnh cáo hoặc tù treo hay tù giam về tội "lấy nhiều vợ" (hoặc tội lấy vợ lẽ). Nếu bị cáo đã bị xử phạt cảnh cáo hoặc tù treo mà vẫn không chịu cắt đứt với người vợ lẽ thì phải phạt tù giam. Tình tiết nghiêm trọng ở đây có thể là: đã được giáo dục, giải thích mà vẫn cố tình vi phạm; đã được Tòa án tuyên bố cuộc kết hôn là bất hợp pháp mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ vợ chồng; hành vi có tính chất lừa dối cơ quan, đoàn thể, lừa dối vợ trước hoặc vợ sau; gây ảnh hưởng, tác hại xấu, dư luận phản đối [42, tr. 470].
  • 12. Thứ sáu, đối với hành vi thông gian, tức là hành vi quan hệ tình dục bất chính giữa một bên đang có vợ hoặc có chồng với người khác (dù là người này đã có hoặc chưa có vợ, có chồng), Thông tư nêu rõ: Trong tình hình xã hội miền Bắc nước ta hiện nay, không thể coi thông gian là một khuyết điểm về sinh hoạt cá nhân, mà khi có những tình tiết nghiêm trọng nhất định phải coi thông gian là một tội phạm đã xâm phạm đến quan hệ HN&GĐ được pháp luật bảo vệ, đến thuần phong mỹ tục và đến trật tự xã hội. Đường lối xử lý cần thiết hiện nay đối với tội thông gian là: biện pháp ngăn chặn tệ nạn này chủ yếu vẫn giáo dục. Các cơ quan, đoàn thể cần tăng cường công tác giáo dục quần chúng về đạo đức, xã hội mới, chống những tư tưởng và nếp sống sa đọa, đồi bại, trụy lạc do xã hội cũ để lại. Trong một số ít trường hợp cần thiết, có thể dùng biện pháp tư pháp để làm chỗ dựa cho công tác giáo dục nói trên. Những trường hợp cần thiết đó là: - Thông gian với vợ bộ đội, vợ cán bộ và vợ những người vì nhiệm vụ công tác mà phải thoát ly gia đình, tại những địa phương xảy ra nhiều vụ thông gian, làm ảnh hưởng đến tinh thần công tác của người chồng. - Thông gian có tính chất nghiêm trọng như: thông gian một cách trắng trợn hoặc kéo dài; do thông gian mà phá hoại hạnh phúc của nhiều gia đình; bất chấp sự giáo dục của cơ quan, đoàn thể hoặc sự phản đối của gia đình người chồng, của người vợ, của kẻ ngoại tình và bị quần chúng công phẫn đòi hỏi phải trừng phạt. - Do thông gian mà dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như gây ra án mạng, tham ô lớn, đào ngũ, đào nhiệm hoặc những hành động phạm pháp nghiêm trọng khác [42, tr. 471]. Thứ bảy, đối với hành vi đánh đập hoặc ngược đãi vợ, tức là những hành động của người chồng không đối xử bình đẳng, dân chủ với người vợ, xâm hại đến sức khỏe, nhân cách, quyền tự do của người vợ, Thông tư hướng dẫn:
  • 13. Biện pháp chủ yếu vẫn là giáo dục thường xuyên quan điểm bình đẳng và dân chủ trong quan hệ vợ chồng nhưng cần xử lý về hình sự để hỗ trợ cho công tác giáo dục trong một số trường hợp cần thiết như: - Đối với những hành động đánh đập nghiêm trọng như làm chết người, gây thương tích nặng hoặc thương tật lâu ngày, dẫn đến tự sát, do bọn can phạm bản chất hung bạo, đánh đập một cách hung ác hoặc dùng thủ đoạn thâm độc gây ra, cần phải nghiêm trị tùy tình tiết cụ thể. - Đối với những hành động ngược đãi chưa gây tác hại nghiêm trọng của những người chậm tiến thì chủ yếu là giáo dục, hoặc cảnh cáo. Trường hợp có tác hại nhất định và có bị quần chúng căm phẫn, có thể xử phạt cảnh cáo hoặc án treo hay tù giam khi thấy thật cần thiết [42, tr. 473]. Thứ tám, đối với hành vi đánh đập, ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ, Thông tư hướng dẫn: Tập quán lâu đời của nhân dân ta, luật pháp của Nhà nước chúng ta đòi hỏi con cái phải "kính yêu, săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ". Tuy nhiên, thỉnh thoảng còn xảy ra trường hợp con cái ngược đãi, hắt hủi, không nuôi dưỡng bố mẹ già yếu; đôi khi thái độ đối xử vô đạo đức của con cái đã làm cho bố mẹ tự sát. Trong những trường hợp nghiêm trọng trên, cần đưa ra xét xử điển hình một vài vụ để giáo dục chung, đồng thời bắt con cái phải nuôi dưỡng bố mẹ già yếu [42, tr. 474]. Nghiên cứu những quy định trên cho thấy, Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04- 1966 của TANDTC đã quán triệt tốt phương châm, đường lối chung đối với việc xử lý về hình sự các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ là: kiên trì giáo dục, thuyết phục tuân thủ pháp luật là chủ yếu, kết hợp biện pháp trừng trị đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ. 1.1.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời cho đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1999
  • 14. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng trên một số lĩnh vực, cải biến được một phần cơ cấu của nền kinh tế - xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều khó khăn và khuyết điểm như chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu mô hình kinh tế quan liêu, bao cấp nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc ban hành BLHS là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa VII, đã thông qua BLHS, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1- 1986 (sau đây gọi tắt là BLHS 1985). BLHS 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự Việt Nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới. Trong Bộ luật này, đã chính thức ghi nhận về mặt pháp lý các tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình nhằm vào những biểu hiện nghiêm trọng nhất của các tàn tích của chế độ hôn nhân nhân gia đình phong kiến, lạc hậu như: cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ, vi phạm chế độ một vợ một chồng, tổ chức tảo hôn, loạn luân, ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Với quan niệm rằng, gia đình là thiết chế xã hội có trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi của con cái, nhất là con chưa thành niên và việc đó quan hệ mật thiết với việc bảo đảm hạnh phúc gia đình, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên vào Chương V của BLHS 1985, từ Điều 143 đến Điều 149 và Điều 150 quy định hình phạt bổ sung. BLHS 1985 đã quy định tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ (Điều 143), tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 144), tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 145), tội loạn luân (Điều 146), tội ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ
  • 15. cha mẹ, vợ chồng, con cái (Điều 147). Tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng các quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong Bộ luật là: kiên trì giáo dục và thuyết phục tuân thủ pháp luật, kết hợp biện pháp giáo dục với biện pháp trừng trị đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Căn cứ vào khách thể bị xâm phạm, có thể chia các tội phạm này thành hai nhóm trong đó nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân bao gồm: tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn, tội loạn luân và nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình bao gồm: tội ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Việc BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta. Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong BLHS 1985, cho thấy đặc điểm chung của các tội phạm thuộc nhóm tội này như sau: Thứ nhất, các hành vi khách quan cấu thành các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ thường phải có các tình tiết nghiêm trọng như dùng các thủ đoạn thô bạo, xảo quyệt như hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách bằng của cải. Thứ hai, đối tượng được bảo vệ chủ yếu là người cao tuổi, phụ nữ và con cái mà quyền lợi của họ bị các hành vi ảnh hưởng của tàn dư tư tưởng phong kiến trọng nam, khinh nữ và gia trưởng xâm phạm. Thứ ba, mức hình phạt được quy định đối với các tội này không cao: mức hình phạt tối đa đối với hầu hết các tội phạm này là ba năm tù, duy nhất tội loạn luân có mức hình phạt cao nhất là năm năm tù. Như vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS 1985, nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đều được coi là những tội phạm ít nghiêm trọng. 1.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 cho đến nay Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và bạn bè quốc tế đánh giá cao.
  • 16. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Trong tình hình đó, BLHS 1985, dù đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần, nhưng còn nhiều điểm bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi toàn diện BLHS 1985 là một đòi hỏi khách quan của hoạt động lập pháp hình sự. Để phục vụ được yêu cầu đề ra, ngày 21-12- 1999, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6, đã thông qua BLHS (sau đây gọi tắt là BLHS 1999), thay thế cho BLHS 1985. BLHS 1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2000. Về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, BLHS 1999 có những điểm mới cơ bản như sau: Thứ nhất, Chương XV của BLHS 1999 quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Chương V của BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên. Điểm mới đầu tiên dễ nhận thấy là BLHS 1999, đã có điều chỉnh phạm vi của chương này theo hướng thu hẹp lại chỉ còn các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ còn các tội phạm đối với người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em được điều chuyển sang các chương thích hợp khác. Như vậy, Chương XV của BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình chỉ còn lại gồm 7 điều (từ Điều 146 đến Điều 152). Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm, BLHS mới đã bổ sung thêm hai tội danh mới, đó là tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149) và tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152). Trong chương này có một tội duy nhất vẫn được giữ nguyên như quy định của BLHS 1985. Đó là tội loạn luân (Điều 150). Thứ ba, BLHS 1999 đã bổ sung, sửa đổi cấu thành tội phạm (CTTP) của một số tội phạm theo hướng hạn chế bớt khả năng xử lý hình sự đối với các tội này. Trong lĩnh
  • 17. vực này, chủ yếu là áp dụng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và hành chính để giải quyết. Chỉ xử lý hình sự trong những trường hợp thật cần thiết khi các biện pháp giáo dục, phòng ngừa, hành chính tỏ ra không có hiệu quả. Thứ tư, về tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được quy định tại Điều 146. Về cơ bản, tội này vẫn được giữ nguyên cấu trúc và hình phạt như quy định tại Điều 143 BLHS 1985, nhưng có hai điểm mới là: - Được bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là "đã xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" nhằm thu hẹp phạm vi xử lý về hình sự đối với tội phạm này. Điều đó cũng phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống loại tội phạm này. - Mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội này tăng từ 1 năm theo quy định trước đây lên 3 năm theo quy định tại Điều 146 BLHS 1999. Thứ năm, về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng được quy định tại Điều 147 BLHS 1999. Điều luật này được bổ sung, sửa đổi theo hướng bổ sung thêm chủ thể của tội phạm và thêm các dấu hiệu định tội. Cụ thể như sau: - Theo quy định của BLHS 1985, thì chỉ người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác mới phải chịu TNHS về tội này. Trên thực tế, không ít trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng lại kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng. Đây cũng là hành vi nguy hiểm xâm phạm chế độ một vợ, một chồng, phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác mà chưa bị pháp luật trừng trị. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nói trên, BLHS 1999 quy định xử lý về hình sự cả trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ. - Bổ sung thêm hai dấu hiệu định tội mới nhằm hạn chế khả năng xử lý về hình sự đối với tội này. Đó là: - Gây hậu quả nghiêm trọng;
  • 18. - Đã bị xử phạt hình chính về hành vi này mà còn vi phạm. Thứ sáu, về tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn được quy định tại Điều 148 BLHS 1999 Về cơ bản, những quy định về tội phạm này vẫn được giữ nguyên như trước đây, nhưng có bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là: "Đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm" nhằm hạn chế phạm vi xử lý về hình sự. Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ được tăng từ 1 năm lên 2 năm. Thứ bảy, về tội đăng ký kết hôn trái pháp luật được quy định tại Điều 149 BLHS 1999 Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 để ngăn ngừa và trừng trị những hành vi của người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn đã biết rõ là người xin đăng ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng ký cho người đó. Tinh thần chung là chỉ xử lý về hình sự khi đã áp dụng các biện pháp hành chính, kỷ luật mà người vi phạm vẫn không chịu sửa chữa lỗi lầm của mình, tiếp tục vi phạm. Thứ tám, về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình được quy định tại Điều 151 BLHS 1999 Tội phạm này cơ bản vẫn được giữ như quy định trước đây, nhưng có một số điểm bổ sung. Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn thấy rằng trong xã hội ta còn xảy ra những trường hợp hành hạ, ngược đãi không chỉ giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái mà cả giữa những người thân thích khác trong gia đình như giữa cháu với ông bà, giữa cháu với cô, chú, bác, cậu, dì, thậm chí hành hạ, ngược đãi ngay cả với người đã từng có công nuôi dưỡng mình khôn lớn. Đây là những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật, xúc phạm thô bạo đến đạo đức xã hội, đến thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo lý gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật hình sự mới chỉ trừng trị hành vi của những người là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Còn hành vi của những người khác trong gia đình như đã nêu trên thì có thể bị xử lý theo quy định tại Điều 111 BLHS 1985 về tội hành hạ người khác. Đây là điều không hợp lý, vì cũng là một loại hành vi phạm tội (hành hạ, ngược đãi) do cùng một loại chủ thể thực hiện (những người thân thích trong gia đình) xâm phạm cùng một loại đối tượng (những người thân thích khác trong gia đình) nhưng lại bị xử lý ở các điều luật khác nhau. Vì thế, BLHS 1999 đã có những sửa đổi, bổ sung phù hợp như sau:
  • 19. - Bổ sung thêm đối tượng bị ngược đãi, hành hạ là: ông bà, cháu và người có công nuôi dưỡng người phạm tội nhằm mở rộng phạm vi đối tượng phải áp dụng theo quy định của điều luật này. - Bổ sung thêm dấu hiệu định tội là: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm nhằm thu hẹp việc xử lý về hình sự đối với hành vi này. - Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ được tăng từ 1 năm lên 3 năm. Thứ chín, về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Điều 152 BLHS 1999 Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 nhằm trừng trị những người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo pháp luật mà cố tình không thực hiện nghĩa vụ đó mặc dù mình có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó, đã bị xử lý hành chính hoặc gây hậu quả làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc những hậu quả nghiêm trọng khác. 1.2. Những quy định của bộ luật hình sự 1999 về các tội Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình 1.2.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Để có thể làm sáng tỏ khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trước hết cần làm sáng tỏ khái niệm HN&GĐ. Hôn nhân và gia đình - đó là những hiện tượng xã hội luôn được các nhà triết học, đạo đức học, xã hội học, luật học, sử học quan tâm nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp hài hòa, chặt chẽ lợi ích của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội. C.Mác và Ph. ăngghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, HN&GĐ là những phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có mối liên quan trực tiếp, chặt chẽ.
  • 20. Hôn nhân là hiện tượng xã hội - là sự liên kết giữa người đàn ông và người phụ nữ. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Đây là quan hệ giữa hai người khác giới tính, bản chất và ý nghĩa của nó thể hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Có thể nói, sản xuất ra cuộc sống chính bản thân mình là nhờ lao động, còn sản xuất ra giống nòi là nhờ sinh đẻ, nói cách khác, tồn tại hai mối quan hệ: mối quan hệ tự nhiên và mối quan hệ xã hội. Quan hệ hôn nhân là quan hệ xã hội được xác định bởi các quan hệ sản xuất đang thống trị, vì vậy, tính chất của nó có thể thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ sản xuất đang thống trị đó. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị đều điều chỉnh các quan hệ hôn nhân bằng pháp luật cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Xã hội chiếm hữu nô lệ, có chế độ hôn nhân chiếm hữu nô lệ; xã hội phong kiến có chế độ hôn nhân phong kiến; xã hội tư bản có chế độ hôn nhân tư sản, còn xã hội XHCN có chế độ hôn nhân XHCN. Trong những xã hội bóc lột, những người thuộc giai cấp bị bóc lột thường khó có thể có quan hệ hôn nhân với những người thuộc giai cấp thống trị. Dưới chế độ XHCN, hôn nhân thực sự mang tính chất bình đẳng, tự nguyện, tiến bộ, đó không phải là hợp đồng, mà là sự liên kết bền vững giữa người đàn ông và người phụ nữ, trên cơ sở yêu thương, quý trọng lẫn nhau, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của đôi bên, cũng như thỏa mãn nhu cầu sinh đẻ và giáo dục con cái [56, tr. 12 - 16]. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm hôn nhân như sau: hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Khái niệm gia đình rộng hơn khái niệm hôn nhân. Nếu như hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, thì gia đình là sự liên kết của nhiều người có quan hệ với nhau do hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Gia đình là sản phẩm của
  • 21. xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu của gia đình. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu hẹp của xã hội, là tế bào của xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, gia đình mang tính chất và kết cấu phù hợp với hình thái đó. Gia đình XHCN khác về chất so với các kiểu gia đình của các chế độ xã hội trước đó. Dưới chế độ XHCN, quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình, phản ánh mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội. Như vậy gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, trong đó mọi người cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội. Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ cũng là một loại tội phạm, vì vậy nó phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi [30, tr. 105]. Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện bằng lỗi cố ý gây thiệt hại cho các quan hệ hôn nhân và gia đình mới, tiến bộ xã hội chủ nghĩa. Sự gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình [31, tr. 295].
  • 22. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật cho rằng, "các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam" [57, tr. 405]. Trên cơ sở các quan điểm được trình bày ở trên, tôi xin đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ như sau như sau: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam XHCN. Hôn nhân và gia đình là một nhóm quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của rất nhiều ngành luật. Luật HN&GĐ quy định về chế độ HN&GĐ, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc củng cố chế độ HN&GĐ Việt Nam. Luật dân sự cũng điều chỉnh lĩnh vực HN&GĐ thông qua việc điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình như giám hộ, đại diện, nuôi con nuôi, thừa kế, tài sản, quyền sở hữu... Luật hình sự không quy định quyền và nghĩa vụ nhân thân hay tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình mà chỉ bảo vệ quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình thông qua việc quy định một loạt các hành vi bị coi là tội phạm và hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đó như: tội vi phạm chế độ một vợ một chồng, tội cưỡng ép kết hôn, tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng... Trong BLHS 1999, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ được quy định tại chương XV Phần các tội phạm (từ Điều 146 đến Điều 152) bao gồm các tội cụ thể sau: tội cưỡng ép kết hôn (Điều 146); tội cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 146); tội vi phạm chế độ một vợ một chồng (Điều 147); tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); tội tảo hôn (Điều 148); tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149); tội loạn luân (Điều 150); tội ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151); tội từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152); tội trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152). Vì mỗi tội phạm bao giờ cũng được cấu thành bởi bốn yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, khách thể và chủ thể. Cho nên, để hiểu và nhận thức một cách sâu sắc nội
  • 23. dung khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, cần làm rõ bốn yếu tố của CTTP nói trên. Trước hết, việc nghiên cứu khách thể của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là một trong những vấn đề trọng tâm khi tìm hiểu khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, bởi nó là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, bị các hành vi phạm tội xâm hại. Khách thể của các tội phạm này chính là những nguyên tắc cơ bản thiết lập chế độ HN&GĐ mới, tiến bộ XHCN. Theo Luật HN&GĐ Việt Nam, các nguyên tắc này là: hôn nhân tự nguyện tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng; hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và pháp luật bảo vệ; vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ tôn kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Mọi hành vi xâm phạm những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở, nền tảng cho chế độ hôn nhân gia đình XHCN - khách thể của tội phạm đều có thể bị xử lý hình sự, sau khi đã áp dụng các chế tài hành chính nhưng không có hiệu quả. Nếu như khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị các tội phạm xâm hại gây nên những thiệt hại nhất định, thì việc gây nên những thiệt hại đó bao giờ cũng được thực hiện bởi hành vi cụ thể tác động vào đối tượng bị tác động làm thay đổi trạng thái bình thường của quan hệ xã hội đó. Sự tác động đó có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động, bằng các công cụ, phương tiện khác nhau để gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đó chính là mặt khách quan của tội phạm. Hành vi khách quan của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ có khác nhau về hình thức thể hiện, nhưng đều có tính chất gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trực tiếp cho các quan hệ HN&GĐ mới tiến bộ XHCN. Những hình thức thể hiện của hành vi khách quan có thể là: - Hành vi cưỡng ép kết hôn. - Hành vi cản trở kết hôn.
  • 24. - Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác (mặc dù đang có vợ có chồng hoặc chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ người mà mình kết hôn hoặc sống chung đang có vợ, có chồng)... Các hành vi khách quan này, nhìn chung được thực hiện bằng hình thức hành động. Các tội phạm này có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, nhưng nó chỉ là dấu hiệu bắt buộc nếu được quy định cụ thể trong từng CTTP. Trong số các tội này, có ba điều luật quy định hậu quả hoặc đã bị xử phạt hành chính là dấu hiệu cơ bản thuộc về mặt khách quan (Điều147, Điều 151 và Điều 152); đối với các tội còn lại, nhà làm luật quy định xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật là dấu hiệu bắt buộc bên cạnh các dấu hiệu khác được mô tả trong luật. Dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm được hiểu là trước đó đã có lần vi phạm, đã bị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng một trong các hình thức xử phạt hành chính như cảnh cáo, phạt tiền nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính mà lại có vi phạm chính hành vi đó hoặc thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong điều luật tương ứng đó. Cần lưu ý rằng, việc xử phạt hành chính chỉ có hiệu lực trong thời hạn một năm, do vậy nếu hành vi vi phạm xảy ra sau thời hạn một năm kể từ ngày bị xử phạt, thì không được coi là một trong những dấu hiệu để truy cứu TNHS. Tội phạm bao giờ cũng được thực hiện bởi những con người cụ thể, bởi vì chỉ có con người cụ thể mới có thể thực hiện được hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự, mới thể hiện được yếu tố lỗi, chịu trách nhiệm cá nhân, cũng như có thể gánh chịu các biện pháp trừng trị, giáo dục, cải tạo mà Nhà nước quy định. Chủ thể của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ phải là những con người cụ thể đã đạt đến một độ tuổi nhất định và có năng lực TNHS. Ngoài ra, có những tội phạm đòi hỏi chủ thể, ngoài những dấu hiệu của chủ thể thường, phải có thêm những dấu hiệu đặc biệt khác. Điều đó có nghĩa, nếu thiếu các dấu hiệu đặc biệt đó thì không thể trở thành chủ thể của những tội phạm cụ thể đó. Ví dụ, chủ thể của các tội: tội loạn luân, hay tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình phải là chủ thể đặc biệt.
  • 25. Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm bao gồm dấu hiệu lỗi, dấu hiệu động cơ, dấu hiệu mục đích... Tất cả các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Điều đó có nghĩa, những chủ thể của các tội phạm này khi thực hiện hành vi xâm phạm những quan hệ HN&GĐ XHCN đều nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Nhìn chung, tất cả các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đều không có cấu thành giảm nhẹ và chỉ duy nhất tội xâm phạm chế độ một vợ một chồng có cấu thành tăng nặng. Ngoài hình phạt chính được áp dụng đối với loại tội này thì đa phần là không có hình phạt bổ sung (trừ tội đăng ký kết hôn trái pháp luật). Một điểm đặc trưng của nhóm tội này là mức hình phạt được quy định không cao với các chế tài lựa chọn mà cụ thể là mức hình phạt tối đa ở hầu hết các tội chỉ đến ba năm tù (chỉ có tội loạn luân có mức hình phạt tù có thời hạn tối đa là năm năm). 1.2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Nhóm các tội phạm được quy định tại chương XV BLHS xâm phạm vào hai quan hệ xã hội khác nhau đó là HN&GĐ. Tuy nhiên, hai nhóm quan hệ xã hội này lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: hôn nhân là cơ sở của gia đình còn gia đình hạnh phúc giữ cho hôn nhân bền vững. Cho nên, các nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ vào một chương. Vì vậy, căn cứ vào khách thể trực tiếp bị xâm phạm có thể chia các tội phạm này thành hai nhóm: nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình. Nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân 1- Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 146 BLHS 1999) Chế độ hôn nhân được xây dựng trên nguyên tắc cơ bản là hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bên trai và bên gái được quyền quyết định kết hôn theo ý muốn, không ai được ép
  • 26. buộc nhưng phải đảm bảo các điều kiện kết hôn do luật định như: đủ tuổi, không phải là người đang có vợ, có chồng, không thuộc những trường hợp bị cấm kết hôn. Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này chính là nguyên tắc hôn nhân tự nguyện - một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ Việt Nam. Nói cách khác, hành vi phạm tội đã xâm phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện được ghi nhận ở Điều 64 Hiến pháp 1992 và Điều 2 Luật HN&GĐ 2000. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này trước hết phải là người có năng lực TNHS. Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ có mức tối đa của khung hình phạt là 3 năm tù, cho nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS 1999, đây là tội phạm ít nghiêm trọng. Vì vậy, chủ thể của tội phạm này phải từ đủ 16 tuổi trở lên. Trên thực tế, chủ thể của các tội này thường là những người đã trưởng thành có quyền uy nhất định trong gia đình của bên nam hoặc bên nữ (cha, me, ông bà, anh chị) nhưng cũng có thể là người lợi dụng uy quyền về mặt công tác (thủ trưởng đối với nhân viên) hoặc về mặt tín ngưỡng (chức sắc trong tôn giáo) hoặc bên nam, đối với bên nữ hoặc ngược lại. Mặt khách quan của tội phạm: tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc có hành vi cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25- 09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương XV - Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ (sau đây gọi tắt là Thông tư số 01) đã đưa ra khái niệm cưỡng ép kết hôn như sau: cưỡng ép kết hôn là dùng mọi thủ đoạn bắt buộc người khác (bên nam, bên nữ hoặc cải hai bên) phải kết hôn trái với ý muốn của họ. Theo Thông tư số 01, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ là dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo luật định hoặc có hành vi cản trở người khác duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc buộc họ phải cắt đứt quan hệ đó.
  • 27. Các hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ nói trên chỉ CTTP nếu đã được thực hiện bằng các thủ đoạn có tính chất bạo lực, tác động tới ý chí của người bị hại như hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc thủ đoạn khác. Thông tư số 01 đã đưa ra khái niệm hành hạ, ngược đãi như sau: hành hạ, ngược đãi là đối xử tàn ác, tồi tệ đối với người khác, gây đau khổ về thể xác hoặc tinh thần như: thường xuyên đánh đập (có thể không gây thương tích), giam hãm, bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, nhiếc móc, làm nhục... nhằm mục đích cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Thông tư này cũng đã đưa ra khái niệm uy hiếp tinh thần: uy hiếp tinh thần là đe dọa sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản hoặc một lợi ích thiết thân của người bị đe dọa làm cho người đó có căn cứ để lo sợ thực sự mà phải chịu khuất phục như đe dọa sẽ đốt nhà, giết người thân, tiết lộ bí mật đời tư của người bị đe dọa, bố mẹ hoặc người thân trong gia đình, đe dọa sẽ tự tử nếu hai bên nam nữ lấy nhau... và yêu sách của cải là đòi hỏi của cải một cách quá đáng, không nhân nhượng và coi đó là một trong những điều kiện để được kết hôn nhằm cản trở hôn nhân tự nguyện giữa đôi bên nam nữ. Thủ đoạn khác có thể là bất cứ hành vi nào khác mang tính chất ép buộc, làm tê liệt ý chí của người bị hại, buộc họ phải nghe theo. Ví dụ dùng thủ đoạn có tính chất bạo lực như đánh người gây thương tích, hoặc trong một số trường hợp chịu ảnh hưởng của hủ tục cũ là bắt cóc phụ nữ về làm vợ bằng cách đón đường dùng vũ lực bắt người con gái đi theo (ví dụ: người H.Mông) [33, tr. 353]. Tuy nhiên, trong những trường hợp này chỉ coi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn nếu việc bắt cóc được thực hiện hoàn toàn trái với ý muốn của bên nữ. Còn nếu hai bên nam nữ thực sự yêu nhau và muốn tiến tới xây dựng gia đình, nhưng gặp phải sự cản trở của gia đình bên trai, bên gái hoặc cả hai bên mà việc bắt cóc chỉ là giả tạo nhằm chống lại sự cản trở thì không phải là cưỡng ép kết hôn; hoặc việc bắt cóc đi là để phù hợp với nghi thức kết hôn truyền thống ở một số dân tộc (ví dụ: người Thái) [23, tr. 48] nhưng có sự đồng thuận của cả nam và nữ thì cũng không phạm tội.
  • 28. Trong thực tiễn cần phân biệt những thủ đoạn nêu trên với một số trường hợp như bố mẹ góp ý kiến với con cái trong việc xây dựng gia đình dù có mang tính chất gia trưởng, nhưng không kèm theo thủ đoạn ép buộc, thì không phải là hành vi phạm tội, vì không có thủ đoạn làm tê liệt ý chí của người bị hại; trường hợp một bên đã dùng thủ đoạn gian xảo để lừa dối bên kia như che giấu hoặc sửa chữa lý lịch chính trị hoặc lý lịch tư pháp đặc biệt xấu của mình, làm cho bên kia mắc lừa đồng ý kết hôn, thì tuy cũng vi phạm nguyên tắc tự nguyện kết hôn, có thể yêu cầu xử hủy hôn nhân trái pháp luật, nhưng không thể coi là một thủ đoạn của tội này vì không có yếu tố cưỡng ép; một trường hợp khác cần lưu ý nữa đó là người có hành vi cản trở những cuộc hôn nhân bất hợp pháp (những cuộc hôn nhân mà không đủ các điều kiện kết hôn theo quy định của luật HN&GĐ), dù có dùng những thủ đoạn như đã phân tích trên đây thì cũng không coi là phạm tội cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ, mà tùy từng trường hợp có thể cấu thành các tội phạm khác như: tội cố ý gây thương tích, tội làm nhục người khác... Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong những thủ đoạn nói trên và đã bị xử phạt hành chính về hành vi này trước đó. Còn việc người phạm tội trong thực tế đã cưỡng ép hoặc cản trở được cuộc hôn nhân hay chưa không có ý nghĩa đối với việc định tội danh. Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi cưỡng ép, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ của người khác bằng thủ đoạn hành hạ, ngược đãi uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác là nguy hiểm cho xã hội, nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó. 2- Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS 1999) Cơ sở để đảm bảo gia đình hạnh phúc là hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính được thể hiện bằng hôn nhân một vợ một chồng. Theo Ăng-ghen "Xuất phát từ bản chất của tình yêu là không chia sẻ được... nên hôn nhân dựa trên tình yêu nam nữ do ngay bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng" [1, tr. 131].
  • 29. Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật HN&GĐ - nguyên tắc một vợ, một chồng. Nguyên tắc một vợ một chồng được ghi nhận trong Điều 2 Luật HN&GĐ 2000 và Điều 4 Luật này còn quy định: "Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng". Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là người đang có vợ, có chồng hoặc người chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ bên kia đã có chồng, có vợ mà vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đó. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có mức hình phạt tối đa là 1 năm tù, cho nên, theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS 1999, đây là tội phạm ít nghiêm trọng. Vì vậy, chủ thể của loại tội phạm này phải từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS. Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội phải có hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác trong khi đang có vợ hoặc đang có chồng, hoặc tuy chưa có vợ, có chồng nhưng biết rõ người khác đang có vợ, có chồng. Theo khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000, kết hôn là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, người đang có vợ, có chồng được hiểu là: người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật, nhưng chưa ly hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng trước ngày 03-01-1987 và đang sống chung như vợ chồng, mà không đăng ký kết hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến trước ngày 01-01- 2001 và đang sống chung với nhau như vợ chồng, có đủ điều kiện nhưng không đăng ký kết hôn. Luật HN&GĐ năm 2000 không thừa nhận những trường hợp hôn nhân thực tế tại Điều 11: "Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng". Thông tư liên tích số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25- 09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC đã đưa ra khái niệm chung sống như vợ chồng:
  • 30. Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà lại chung sống với người khác mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ, chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ, chồng, có tài sản chung và đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó. Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó thì người phạm tội phải chịu TNHS về tội phạm này. Khác với BLHS 1985, theo quy định của BLHS 1999 thì hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác chỉ CTTP khi thỏa mãn một trong hai dấu hiệu sau: gây hậu quả nghiêm trọng, tức là đã làm cho gia đình một bên hoặc hai bên tan vỡ dẫn đến chia lìa vợ chồng, con cái họ, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát hoặc gây ảnh hưởng xấu tới trật tự xã hội của địa phương; người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm. Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp: người phạm tội biết rõ đối tượng mà mình đang chung sống hoặc kết hôn đang có vợ, có chồng nhưng vẫn mong muốn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đó. Trường hợp do lầm tưởng là vợ hoặc chồng của mình đã chết, nên đã kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, thì không phạm tội này. 3- Tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 148 BLHS 1999) Theo quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000, tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo luật định. Độ tuổi kết hôn được quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật HN&GĐ năm 2000: "1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên". Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật HN&GĐ Việt Nam - hôn nhân tiến bộ. Theo nguyên tắc này, việc kết hôn của hai bên nam nữ phải tuân thủ điều kiện kết hôn nhằm đảm bảo người kết hôn đã
  • 31. có sự phát triển đầy đủ về mọi mặt và nhận thức được trách nhiệm đối với gia đình, xã hội, cũng như có khả năng tự chủ được cuộc hôn nhân của mình. Chủ thể của tội phạm:Chủ thể của tội tổ chức tảo hôn là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và đạt từ 16 tuổi trở lên, thông thường là những người thân thích của bên nam, bên nữ. Chủ thể của tội tảo hôn là bất kỳ người nào có năng lực TNHS đã đủ tuổi kết hôn theo luật định. Trong trường hợp cả đôi bên nam nữ đều chưa đủ tuổi kết hôn thì cuộc hôn nhân này là bất hợp pháp, Tòa án sẽ xử tiêu hôn, các bên đương sự đều không phải chịu TNHS. Mặt khách quan của tội phạm: Tội tổ chức tảo hôn và tội tảo hôn đều được biểu hiện dưới hình thức hành động. Đối với tội tổ chức tảo hôn, hành vi khách quan của tội này là hành vi tổ chức việc kết hôn cho người chưa đến tuổi kết hôn. Theo Thông tư số 01, tổ chức tảo hôn được hiểu là việc tổ chức cho những người chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật HN&GĐ lấy vợ, lấy chồng. Người tổ chức tảo hôn biết rõ hoặc có căn cứ để biết rõ là hai người hoặc một trong hai người mà mình tổ chức lễ cưới là chưa đủ tuổi kết hôn theo luật định; nếu người đó không biết việc này hoặc nhầm lẫn về độ tuổi, thì không phạm tội này. Theo quy định của BLHS năm 1985, thì tội phạm này được hoàn thành ngay từ thời điểm tổ chức hôn lễ, nhưng BLHS 1999 bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là "đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm" nhằm hạn chế phạm vi xử lý hình sự đối với tội này. Đối với tội tảo hôn, hành vi phạm tội này là hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án buộc chấm dứt quan hệ này. Chỉ cấu thành tội tảo hôn, khi hành vi khách quan có đầy đủ các dấu hiệu sau: đã có việc kết hôn với người chưa đủ tuổi kết hôn; đã có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án xử tiêu hôn buộc chấm dứt quan hệ đó; có hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng bất hợp pháp với người chưa đến tuổi kết hôn (cố ý không chấp hành bản án); đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Mặt chủ quan của tội phạm: Hai tội này đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội tổ chức tảo hôn phải biết rõ bên nam, bên nữ hoặc cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn, nhưng vẫn mong muốn việc kết hôn được tổ chức. Đối với tội tảo hôn, người
  • 32. phạm tội biết rõ là người mình duy trì quan hệ như vợ chồng chưa đến tuổi kết hôn, nhưng vẫn mong muốn duy trì quan hệ đó. 4- Tội đăng ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149 BLHS 1999) Đây là một tội phạm mới được bổ sung vào BLHS 1999 để ngăn ngừa và trừng trị những hành vi của người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn đã biết rõ là người đi đăng ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng ký cho người đó. Việc xử lý hình sự hành vi này góp phần đảm bảo thi hành tốt luật HN&GĐ, đồng thời đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công tác hộ tịch. Khách thể của tội phạm: tội phạm này xâm phạm đồng thời hai nhóm quan hệ xã hội: quan hệ xã hội về trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực HN&GĐ và nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Chủ thể của tội phạm: Theo Thông tư liên tịch số 01/2001 ngày 25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC, chủ thể của tội phạm này ngoài những dấu hiệu chung như có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định, phải là người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn, cụ thể là: người đại diện của chính quyền hoặc người đại diện của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước ta ở nước ngoài có thẩm quyền ký giấy chứng nhận kết hôn; cán bộ hộ tịch làm thủ tục đăng ký kết hôn ở ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cán bộ của Sở Tư pháp đối với trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài; cán bộ làm thủ tục đăng ký kết hôn ở các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài. Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội phải có hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật. Theo Thông tư số 01, đăng ký kết hôn trái pháp luật là việc người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn xác nhận sự kiện kết hôn (ghi vào sổ đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn) cho người mà mình biết rõ là chưa đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 9 hoặc thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn được quy định tại Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2000. Hành vi nói trên chỉ CTTP nếu trước đó đã bị xử lý kỷ luật cũng về hành vi đó. Cần lưu ý, để truy cứu TNHS về tội này chỉ tính những trường hợp "đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm" kể từ ngày 1/7/2000.
  • 33. Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện ở việc người phạm tội biết rõ là người đi đăng ký kết hôn không đủ điều kiện kết hôn (vi phạm một trong những điều mà luật cấm), nhưng vẫn mong muốn đăng ký kết hôn cho người đó. 5- Tội loạn luân (Điều 150 BLHS 1999) Trên cơ sở khoa học và từ việc điều tra khảo sát trên thực tế, các nhà khoa học đã kết luận rằng: không được quan hệ sinh lý giữa những người có mối quan hệ huyết thống, vì nếu những người này có quan hệ với nhau thì con cái do họ sinh ra thường bị bệnh tật, dị dạng hoặc sẽ bị tử vong sau khi sinh. Để bảo đảm cho con cái sau khi sinh ra được khỏe mạnh, nòi giống phát triển lành mạnh, bảo vệ đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc, pháp luật HN&GĐ cấm kết hôn giữa những người có quan hệ huyết thống và pháp luật hình sự hiện hành quy định tội loạn luân. Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm này không chỉ là thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội, hạnh phúc gia đình mà còn là những quan hệ xã hội đảm bảo sự phát triển bình thường của con cái. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là những người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi theo luật định và có quan hệ huyết thống với người thuận tình giao cấu với mình. Như vậy, đối với tội phạm này, chủ thể của tội phạm ngoài những dấu hiệu chung còn phải có dấu hiệu đặc biệt: đó là mối quan hệ huyết thống giữa những người đồng tình giao cấu như: cha mẹ với các con, ông bà với các cháu nội ngoại, giữa anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Trong trường hợp cả hai bên đồng tình giao cấu với nhau đều thỏa mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm này thì hai người này cùng phạm tội và bị xét xử cùng một tội nhưng không phải là đồng phạm. Còn trường hợp chỉ có một bên thỏa mãn dấu hiệu chủ thể thì chỉ xử một người đó với tội loạn luân. Mặt khách quan của tội phạm: hành vi phạm tội là hành vi đồng tình giao cấu (con đực và con cái cùng thực hiện chức năng sinh sản) [63, tr. 732] giữa những người cùng dòng máu về trực hệ (theo quy định của pháp luật, những người cùng dòng máu về trực hệ
  • 34. là cha mẹ đối với các con, ông bà đối với các cháu nội ngoại, giữa anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha) [32, khoản 12 điều 8]. Tội phạm được coi là hoàn thành khi có hành vi thuận tình giao cấu giữa những người nói trên. Theo Thông tư số 01, để truy cứu TNHS về tội loạn luân, cần xác định rõ hành vi giao cấu là thuận tình, không có dấu hiệu dùng vũ lực hoặc cưỡng ép, được thực hiện với người từ đủ 16 tuổi trở lên. Trong trường hợp tuy hành vi giao cấu là thuận tình, nhưng nếu hành vi đó được thực hiện đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi, thì không truy cứu TNHS về tội loạn luân mà phải truy cứu TNHS về tội giao cấu với trẻ em được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 115 BLHS 1999. Trong trường hợp hành vi loạn luân kèm theo dấu hiệu dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác, thù tùy từng trường hợp, người thực hiện hành vi đó phải bị truy cứu TNHS về tội hiếp dâm hoặc tội hiếp dâm trẻ em được quy định tại Điều 111, 112 BLHS 1999. Nếu hành vi loạn luân được thực hiện kèm theo dấu hiệu lợi dụng quan hệ lệ thuộc khiến bên kia phải miễn cưỡng cho giao cấu, thì tùy từng trường hợp mà người thực hiện hành vi đó, phải bị truy cứu TNHS về tội cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm trẻ em được quy định tại Điều 113, 114 BLHS 1999. Người thực hiện hành vi loạn luân với trẻ em dưới 13 tuổi trong mọi trường hợp đều phải bị truy cứu TNHS về tội hiếp dâm trẻ em được quy định tại Điều 112 BLHS 1999. Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ mình với người thuận tình giao cấu có mối quan hệ huyết thống nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi giao cấu nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục. Đối với những trường hợp mặc dù có mối quan hệ huyết thống với nhau nhưng vì một lý do nào đó mà họ không thể biết được. Ví dụ: người bố bỏ rơi vợ khi vợ đang mang thai và bỏ đi một nơi khác sinh sống mà không quan tâm tới tình hình cuộc sống của người vợ trước và cũng không biết là mình đã có con với người vợ này. Còn người con cũng không được biết mặt bố và tên bố là gì vì người mẹ không nói cho biết bố là ai và sau này hai cha con gặp lại nhau, mà đồng tình giao cấu với nhau thì không bị coi là phạm tội loạn luân. Nhóm các tội xâm phạm quan hệ gia đình
  • 35. 1- Tội ngược đãi, hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151BLHS 1999) Sự đối xử bình đẳng giữa vợ chồng và thương yêu nuôi nấng, giáo dục con cái cũng như việc kính yêu, chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ là một trong những nét đẹp truyền thống của gia đình Việt Nam, đồng thời cũng là nghĩa vụ có tính đạo lý giữa những người thân trong gia đình đã được luật hóa thành nghĩa vụ pháp lý trong pháp luật HN&GĐ. Điều luật quy định hai tội: tội ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình và tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình. Khách thể của tội phạm: khách thể của hai tội phạm này là nghĩa vụ đạo lý giữa những người thân trong gia đình, sức khỏe, phẩm giá của người bị hại, hạnh phúc gia đình, cũng như đạo đức XHCN. Đối tượng tác động của tội phạm là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu cũng như người nuôi dưỡng của người phạm tội này, đó cũng là những người thân của người phạm tội. Theo TTLT số 01/2001 ngày 25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC, đối tượng tác động của tội phạm bao gồm: ông bà nội, ông bà ngoại; cha mẹ, bao gồm cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế; vợ chồng theo quy định của pháp luật HN&GĐ; con, bao gồm con đẻ (con trong giá thú, con ngoài giá thú), con nuôi, con rể, con dâu, con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng; cháu bao gồm cháu nội, cháu ngoại; người có công nuôi dưỡng mình là anh chị em, cô dì chú bác, bà con thân thích hoặc những người khác đã và đang nuôi dưỡng người thực hiện hành vi ngược đãi, hành hạ. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là những người đủ tuổi chịu TNHS, có năng lực TNHS, đồng thời có mối quan hệ về HN&GĐ hoặc chịu sự nuôi dưỡng của nạn nhân. Mặt khách quan của tội phạm: Theo Thông tư số 01, hành vi ngược đãi, hành hạ được hiểu là việc đối xử tồi tệ về ăn mặc, ở và về các mặt sinh hoạt khác đối với người thân như nhiếc móc, bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, mặc rách một cách không bình thường hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể người bị hại như đánh đập, giam cầm... làm cho người bị hại đau đớn về thể xác và tinh thần.
  • 36. Việc đối xử như trên bị coi là phạm tội khi nó thể hiện rõ nét sự trái ngược với điều kiện sống của gia đình họ như có đầy đủ chỗ ở, nhưng lại đưa người bị hại ra ở chuồng dành cho súc vật... Trường hợp gia đình họ thực sự nghèo khổ, thiếu thốn, thì không bị coi là phạm tội này. Theo quy định tại Điều 151 BLHS 1999, chỉ có thể truy cứu TNHS về tội phạm này khi thuộc một trong các trường hợp sau: - Hành vi ngược đãi, hành hạ gây hậu quả nghiêm trọng, tức là làm cho người bị hại bị giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất về danh dự, nhân phẩm hoặc bị thương tích, tổn hại đến sức khỏe. Hậu quả thương tích hay tổn hại đến sức khỏe là do lỗi vô ý, nếu người thực hiện hành vi này dẫn đến chết người, thì người đó phải bị truy cứu TNHS về tội vô ý làm chết người được quy định tại Điều 98 BLHS 1999. Trong trường hợp thương tích, tổn hại đến sức khỏe hoặc chết người xảy ra do lỗi cố ý, thì tùy trường hợp cụ thể bị truy cứu TNHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 104 hoặc về tội giết người được quy định tại Điều 93; nếu làm cho nạn nhân uất ức mà tự sát, thì có thể bị truy cứu TNHS về tội bức tử được quy định tại Điều 100 BLHS 1999. - Người thực hiện hành vi ngược đãi, hành hạ đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi ngược đãi, hành hạ người thân trong gia đình hoặc người đã nuôi dưỡng mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó. 2- Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152 BLHS 1999) Theo quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000, nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra giữa cha mẹ con cái, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội ngoại với cháu, giữa vợ và chồng để tạo điều kiện cho các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Vì vậy, những hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ cấp dưỡng - nghĩa vụ đạo lý cũng là nghĩa vụ pháp lý, phải bị xử lý đúng mức.
  • 37. Khách thể của tội phạm: Hành vi phạm tội đã xâm phạm đến nghĩa vụ cấp dưỡng do pháp luật HN&GĐ quy định, nói cách khác xâm hại quyền được người khác cấp dưỡng. Đó là quyền đảm bảo cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của người được cấp dưỡng trong đời sống cộng đồng. Theo TTLT số 01/2001 ngày 25-09-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC, nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ của một người phải đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật HN&GĐ. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là những người đủ tuổi chịu TNHS, có năng lực TNHS, có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người mà theo quy định của pháp luật có nghĩa vụ phải cấp dưỡng. Theo quy định của Luật HN&GĐ 2000, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa: vợ và chồng; cha mẹ và con; ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; anh chị em với nhau. Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng được hiểu là không chịu đóng góp tiền, tài sản để cấp dưỡng mặc dù có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó. Cần lưu ý rằng người có hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ bị truy cứu TNHS khi người đó phải có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ này. Khả năng thực tế là có tiền, tài sản, hoặc thu nhập có khả năng đảm bảo cuộc sống của gia đình với mức sống trung bình ở địa phương. Điều 16 của Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03- 10-2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật HN&GĐ năm 2000 quy định: Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó. Trường hợp mặc dù có yêu cầu cấp dưỡng và thực tế do không được cấp dưỡng nên đã xảy ra hậu quả nghiêm trọng nhưng lại cũng chứng minh được rằng bản thân người được yêu cầu hoàn toàn không có khả năng thực hiện được nghĩa vụ này (ví dụ bản thân họ cũng không kiếm ra tiền để đủ nuôi sống mình), thì họ không phạm tội này.
  • 38. Chỉ có thể truy cứu TNHS về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, khi có đủ các dấu hiệu sau: người vi phạm phải là người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật HN&GĐ; người đó từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng; việc từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng đã gây hậu quả nghiêm trọng, tức là gây ra hậu quả xấu bất lợi cho người được cấp dưỡng: do không nhận được sự cấp dưỡng, nên người được cấp dưỡng phải chịu đói khát nhiều ngày, dẫn đến suy kiệt về sức khỏe; do quá túng thiếu lại gặp bệnh nặng không có tiền chữa chạy nên đã chết hoặc trẻ em bị thất học sống lang thang, bờ bụi và phạm pháp... Trong trường hợp chưa gây hậu quả nghiêm trọng, thì người vi phạm đã bị xử lý hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Trong trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nhiệm vụ của mình mà người đó vẫn cố tình không chấp hành, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết thì bị truy cứu TNHS theo điều 304 BLHS 1999 về tội không chấp hành án. Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng, trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng là nguy hiểm đối với xã hội, nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó. 1.3. những quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong pháp luật hình sự của Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Liên bang Nga, Vương quốc Thụy Điển cho thấy các nước quy định rất khác nhau về các tội phạm này. BLHS Nhật Bản quy định ba tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhưng tại hai chương khác nhau. Đó là tội lấy hai vợ hoặc hai chồng tại Điều 184, chương XXII - Các tội khiêu dâm, hiếp dâm và lấy hai vợ hoặc hai chồng: "Người nào đã có vợ hoặc chồng mà kết hôn với người khác thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến hai năm. Tương tự như vậy áp dụng đối với người kết hôn với người đã có vợ hoặc có chồng" [7, tr. 48]; tội bỏ mặc người khác trong trường hợp tăng nặng tại Điều 218 chương - Các tội bỏ mặc người khác: