SlideShare a Scribd company logo
1 of 72
®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
BïI LAN ANH
H×NH Sù HãA TR¸CH NHIÖM CñA PH¸P NH¢N §èi
víi c¸c téi ph¹m vÒ chøc vô trong luËt h×nh
sù viÖt nam
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Hµ néi - 2015
®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
bïi lan anh
H×nh sù hãa tr¸ch nhiÖm cña ph¸p nh©n ®èi
víi c¸c téi ph¹m vÒ chøc vô trong luËt h×nh
sù viÖt nam
Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù vµ tè tông h×nh sù
M· sè : 60 38 01 04
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. §µo LÖ Thu
Hµ néi - 2015
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Bộ luật hình sự(BLHS) là một đạo luật lớn, quan trọng, có tính đặc thù
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Sau 15 năm thi hành, BLHS năm 1999 đã
có những đóng góp quan trọng, thể hiện khá toàn diện chính sách hình sự của
Đảng, Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ, nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, trước yêu cầu thượng tôn pháp luật, đẩy mạnh cải cách tư pháp,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhất là để phù
hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013 thì việc phải sửa đổi, bổ sung BLHS
năm 1999 là rất cần thiết.
Năm định hướng lớn trong sửa đổi BLHS lần này là thể chế hóa chủ
trương của Đảng về hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng đề cao hiệu quả
phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân; thể chế hóa về mặt hình
sự chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy sự phát
triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường hợp tác
quốc tế; hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự; đổi mới tư duy về tội phạm và
hình phạt, về cơ sở trách nhiệm hình sự (TNHS), khắc phục những hạn chế
trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình
hình mới. Trong đó, đáng chú ý là sẽ sửa đổi theo hướng hình sự hóa trách
nhiệm của pháp nhân.
TNHS của pháp nhân không phải là vấn đề mới mà đây là vấn đề đã
được ghi nhận trong pháp luật hình sự quốc gia cũng như các văn bản pháp
luật quốc tế. Xét ở góc độ pháp luật quốc gia, vấn đề TNHS của pháp nhân đã
được quy định trong pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới, như Anh,
Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ,
Thụy Sĩ, Tây Ban Nha và gần đây, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu như Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia, Croatia, v.v.... Trong khu
vực Châu Á, một số quốc gia cũng đã ghi nhận TNHS của pháp nhân như
Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Trung Quốc… Dưới góc độ pháp luật quốc
tế, TNHS pháp nhân đã được khẳng định và nhấn mạnh trong nhiều Công ước
của Liên Hợp quốcnhư Công ước về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố, Công
ước quốc về chống tham nhũng, Công ước về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia…
Ở Việt Nam, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được đưa ra thảo luận và
nghiên cứu chính thức trong quá trình xây dựng BLHS năm 1999. Tuy nhiên,
tại thời điểm này, vấn đề TNHS của pháp nhân chưa được nghiên cứu sâu về
mặt lý luận và thực tiễn, do vậy, vấn đề này vẫn tiếp tục được nghiên cứu.
Năm 2009, khi sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, vấn đề TNHS của
pháp nhân một lần nữa được đưa ra nghiên cứu, thảo luận để quy định bổ
sung vào BLHS. Nhưng do đây là lần sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS, chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung một số vấn đề thật sự cấp bách nhất,
bức xúc nhất của thực tiễn tại thời điểm đó để tháo gỡ một số khó khăn,
vướng mắc lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạmnên vấn đề
TNHS của pháp nhân được thống nhất để lại tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng cả
về mặt lý luận và thực tiễn cho lần sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện BLHS.
Đến thời điểm hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đã đến lúc cần
bổ sung chế định TNHS của pháp nhân để xử lý đối với các trường hợp tổ
chức kinh tế (pháp nhân) vì chạy theo lợi ích cục bộ, đã thực hiện nhiều hành
vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế,
gây hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội, cho nền kinh tế nhưng chỉ xử lý
hình sự đối với cá nhân mà trong nhiều trường hợp việc xác định trách nhiệm
cá nhân là rất khó khăn. Trong khi đó, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp chỉ bị xử
lý bằng các chế tài hành chính, kinh tế, dân sự, không đảm bảo tính răn đe,
phòng ngừa. Vì vậy, cần nghiên cứu khả năng bổ sung quy định TNHS của
pháp nhân vào BLHS.
Trong những năm gần đây ở nước ta thì các tội phạm về chức vụ cũng
có những diễn biến phức tạp. Để khắc phục và đẩy lùi tình trạng tham nhũng
đang diễn ra trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, nâng
cao ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị,
các cán bộ, công chức và mỗi công dân về công tác phòng, chống tham
nhũng; để đấu tranh chống những biểu biện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ,
công chức cũng như những hành vi tiếp tay cho tiêu cực là điều kiện tiên
quyết để duy trì sự trong sạch, vững mạnh của bộ máy nhà nước; để đảm bảo
hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, Nhà nước Việt Nam thì việc
bổ sung quy định TNHS của pháp nhân đối với một số loại tội trong đó có các
tội phạm về chức vụ là cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn các pháp nhân ngày càng thực hiện những hành
vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm và vì vấn đề TNHS của pháp nhân là
một vấn đề không mới và đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề này trên
nhiều bình diện chung nên tác giả luận văn quyết định lựa chọn nghiên cứu
vấn đề đối với một nhóm tội phạm cụ thể. Và đề tài mà tác giả lựa chọn để
nghiên cứu là: “Hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội
phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói việc nghiên cứu vấn đề TNHS của pháp nhân trong thời gian
gần đây đã được các tác giả đặc biệt quan tâm. Cho đến nay đã có nhiều công
trình khoa học, các bài viết đề cập và nghiên cứu đến vấn đề TNHS của pháp
nhân.
Năm 2011, Tiến sỹ Cao Thị Oanh đã chủ nhiệm công trình nghiên cứu
khoa học cấp bộ với đề tài “Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc áp dụng TNHS đối với tổ chức” (Viện khoa học pháp lý); trong công
trình nghiên cứu này có một số bài viết của các tác giả như: “Quy định về
TNHS của tổ chức ở Trung Quốc” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà; “TNHS của
pháp nhân tại Mỹ” của tác giả Nguyễn Khắc Hải; “Cơ sở thực tiễn của việc
thiết lập chế định TNHS đơn vị pháp nhân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Anh Tuấn; “TNHS của pháp nhân trong luật hình sự một số nước
theo truyền thống Common Law”; “TNHS của pháp nhân theo luật hình sự
một số nước theo truyền thống châu Âu lục địa” của tác giả Trịnh Quốc
Toản…
Một số bài viết về vấn đề TNHS của pháp nhân được đăng trên các báo,
tạp chí như bài viết: “TNHS của pháp nhân theo pháp luật hình sự một số
nước trên thế giới và lựa chọn cho Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tất Thành
trên tạp chí Tòa án nhân dân số 9/2013; “TNHS của pháp nhân theo luật hình
sự một số nước trên thế giới và sự cần thiết phải quy định TNHS pháp nhân
trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Lực trên tạp chí Khoa
học pháp lý; “TNHS của pháp nhân và mô hình lý luận của nó trong luật hình
sự Việt Nam tương lai” của tác giả Trịnh Quốc Toản trên tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 5/2006; “Vấn đề TNHS của pháp nhân”của tác giả Nguyễn Quý
Công trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2010, “Đề xuất, kiến nghị, sửa
đổi, bổ sung một số quy định tại phần chung của BLHS” của tác giả Dương
Văn Thắng trên tạp chí Kiểm sát số 16/2014…
Ngoài ra còn có một số cuốn sách tham khảo cũng nghiên cứu vấn đề
này như cuốn:”TNHS của pháp nhân trong Pháp luật hình sự” của tác giả
Trịnh Quốc Toản - nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật; “chuyên đề về
Luật hình sự (kỷ yếu hội thảo khoa học do nhà pháp luật Việt – Pháp phối hợp
với vụ pháp luật hình sự - hành chính, tổ chức từ ngày 5-7 tháng 10 năm 1995
tại Hà Nội)” – Bộ tư pháp, viện nghiên cứu khoa học pháp lý; “Báo cáo đánh
giá quốc gia của Việt Nam (2012), “Đánh giá thực hiện Công ước Liên hợp
quốc về Chống tham nhũng của Việt Nam trong chu trình đánh giá 2011 –
2012 đối với các Điều từ 15-42, chương III “Hình sự hóa và thực thi pháp
luật” và các Điều từ 44-50, chương IV “Hợp tác quốc tế” do Li-băng và Italia
thực hiện”” – nhà xuất bản Lao động xã hội (2012); Luận văn thạc sĩ của tác
giả Nguyễn Hải Anh với đề tài “TNHS của pháp nhân – những vẫn đề lý luận
và thực tiễn” (2010)…
Những công trình nghiên cứu khoa học, những bài viết nói trên đã giới
thiệu được các quy định về TNHS pháp nhân ở một số nước, phân tích, so
sánh các quy định về TNHS của pháp nhân trong pháp luật hình sự một số
nước đại diện cho các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới để từ đó đưa
ra những quan điểm về việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân tại Việt
Nam. Tuy nhiên mỗi công trình chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định
nhưng chủ yếu là nghiên cứu vấn đề lý luận TNHS của pháp nhân mà chưa có
một công trình nghiên cứu nào tập trung phân tích và chỉ ra sự cần thiết phải
quy định TNHS của pháp nhân đối với nhóm tội phạm cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra những ý kiến đề xuất để hoàn thiện quy
định của luật hình sự Việt Nam về các tội phạm chức vụ, góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
Với mục đích nêu trên, đề tài nghiên cứu sẽ giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
Thứ nhất: Đưa ra các quan điểm, cơ sở quy định TNHS của pháp nhân;
những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của các tội phạm về chức vụ để từ đó
chỉ ra sự cần thiết việc hình sự hóa TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm
về chức vụ.
Thứ hai: Trình bày nội dung của một số công ước quốc tế mà Việt Nam
là quốc gia thành viên và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới có quy
định vấn đề TNHS của pháp nhân nói chung và TNHS của pháp nhân đối với
các tội phạm tham nhũng nói riêng để từ đó tổng kết kinh nghiệm cho quá
trình lập pháp của Việt Nam.
Cuối cùng:Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của luật cũng như những
vướng mắc trong quá trình áp dụng luật hình sự Việt Nam đồng thời nghiên
cứu lý luận TNHS của pháp nhân, kinh nghiệm lập pháp và kinh nghiệm áp
dụng luật hình sự về vấn đề TNHS của pháp nhân đối với các tội về chức vụ
của một số quốc gia trên thế giới đưa ra một số kiến nghị cụ thể về TNHS của
pháp nhân đối với tội phạm về chức vụ trong luật hình sự Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học và những
quy định của luật hình sự Việt Nam, các quy định của luật hình sự một số
nước trên thế giới về vấn đề TNHS của pháp nhân đối các tội đưa hối hộ và
nhận hối lộ, các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc phê
chuẩn có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Hiện nay vấn đề liên quan đến TNHS của pháp nhân nói chung và
TNHS của pháp nhân đối với các tội đưa hối lộ và nhận hối lộ nói riêng đang
được quan tâm. Tuy nhiên tác giả chỉ thực hiện luận văn trong phạm vi những
vấn đề được nhìn nhận từ góc độ luật hình sự. Đề tài được tiếp cận và được
thực hiện dưới góc độ luật hình sự và so sánh luật, chủ yếu trên cơ sở những
quy định hiện hành của luật hình sự Việt Nam và một số công ước quốc tế
cũng như luật pháp của một số quốc gia có quy định vấn đề TNHS của pháp
nhân đối với các tội phạm đưa hối lộ và nhận hối lộ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về vấn đề nâng
cao chất lượng THQCT trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết Đại hội Đảng
VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của
Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học
điều tra hình sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: phương pháp phân
tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch;
phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp
các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu trong luận văn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm ba chương:
- Chương 1:Những vấn đề về TNHS của pháp nhân và cáctội phạm về
chức vụtrong Luật hình sự Việt Nam.
- Chương 2:Những đòi hỏi của việc quy địnhTNHS của pháp nhân
đối với các tội phạm chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam.
- Chương 3: Kiến nghị hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với
các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰCỦA PHÁP
NHÂN VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀVỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN
1.1.1. Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
TNHS của pháp nhân là một vấn đề không mới trong khoa học pháp lý
hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm
pháp lý của pháp nhân mới chỉ được quy định trong lĩnh vực dân sự, kinh tế,
hành chính. Trong lĩnh vực hình sự, trách nhiệm của pháp nhân vẫn chưa
được quy định. Từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, khoa học hình sự nước
ta mới đưa ra những luận chứng chủ yếu cho sự điều chỉnh về mặt luật pháp
chế định TNHS của pháp nhân. Tuy chỉ có một số tác giả nghiên cứu về vấn
đề này song đã xuất hiện những quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này
mà tựu chung lại là hai luồng quan điểm cơ bản. Đó là quan điểm ủng hộ việc
thiết lập chế định TNHS nhiệm hình sự của pháp nhân và quan điểm phản đối
việc thiết lập chế định này. Tất cả đều đưa ra những lập luận và lý lẽ riêng để
chứng minh và bảo vệ quan điểm của mình.
Quan điểm cho rằng chủ thể của tội phạm chỉ có thể là thể nhân chiếm
ưu thế và tồn tại trong một thời gian dài. Những nhà hình sự học theo quan
điểm này cho rằng việc thiết lập TNHS của pháp nhân đã vi phạm một nguyên
tắc cơ bản của Luật hình sự là nguyên tắc lỗi. Theo cách hiểu truyền thống từ
trước đến nay, lỗi được hiểu là thái độ tâm lý của người đó đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội, bị Luật hình sự cấm và thái độ đối với hậu quả do hành
vi đó gây ra. Do đó lỗi trong pháp luật hình sự về cơ bản chỉ có ở cá nhân
người phạm tội. Ngay cả trong trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng
phạm thì mỗi người tham gia với một vai trò khác nhau, họ có thể là người tổ
chức, người giúp sức, người thực hành, người xúi giục nên tính chất, mức độ
tham gia của mỗi người là khác nhau vì vậy lỗi của họ là khác nhau. Lỗi trong
trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng phạm chỉ đặt ra đối với mỗi người
phạm tội chứ không thể quy lỗi chung đối với nhóm đồng phạm đó[1, tr.7].
Không thể có lỗi của tập thể con người mặc dù có thể tập thể con người đó có
những quan điểm chung về một số vấn đề như trường hợp đồng phạm hay
đồng phạm có tổ chức[8, tr. 26]. Còn pháp nhân là do con người lập ra và hoạt
động của nó chỉ có thể được thực hiện thông qua những con người cụ thể nên
nó không thể và không bao giờ có lỗi. Pháp nhân chỉ là một thực thể giả tưởng
của pháp luật, nó chỉ là cấu trúc pháp lý được thiết lập nhằm phục vụ các lợi
ích cá nhân của những thành viên pháp nhân. Các nghị quyết, các quyết định
của pháp nhân chỉ là kết quả của con số cộng các ý chí cá nhân của các thành
viên pháp nhân chứ không phải tự sự mong muốn của chính pháp nhân đó [30,
tr. 52].Do vậy không có lỗi nào có thể quy kết cho pháp nhân và theo logic
của sự vật và phép biện chứng của triết học - không có lỗi hình sự thì không
có TNHS. Trái lại những quan điểm của những nhà hình sự học theo học
thuyết truyền thống phản đối việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân,
nhưng người ủng hộ thiết lập chế định TNHS của pháp nhân đã đưa ra lập
luận phản bác lại những quan điểm trên. Họ cho rằng pháp nhân không phải là
một trìu tượng pháp lý thuần túy mà nó có những đặc tính không đổi được
thừa nhận chung, nó có sự tồn tại thực tế trong mối quan hệ với các thành viên
của pháp nhân và tổ chức trên thực tế. Ý chí của pháp nhân hoàn toàn độc lập
với ý chí của các thành viên trong pháp nhân. Trong điều lệ cũng như trong
các văn bản của pháp nhân luôn có các quy định về tổ chức, về hoạt động của
pháp nhân và pháp nhân có thể tự do tìm kiếm lợi ích riêng của bản thân độc
lập với lợi ích cá nhân tạo lên nó [30, tr. 54]. Pháp nhân bao gồm các cá nhân
được hình thành bởi những lợi ích tập trung và được tổ chức thông qua các
cấu trúc pháp lý xác định. Trong mỗi pháp nhân, những định hướng chủ đạo
thể hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn
toàn giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên pháp nhân mà
pháp nhân hoàn toàn có ý chí riêng của mình, có mong muốn riêng của mình,
được xử sự tự do và hưởng các quyền tự chủ của chủ thể và vì vậy, nó cũng có
điều kiện để có lỗi khi thực hiện tội phạm. Pháp nhân có thể được so sánh với
con người. Denning LJ, một thẩm phán nổi tiếng người Anh trong một phiên
tòa xét xử tranh chấp giữa hai công ty tại Anh năm 1957 đã có một nhận định
mà sau này thường được dẫn chứng để nói về tư cách pháp nhân: “Một công
ty dưới góc độ nào đó giống như cơ thể con người. Nó có bộ não, có hệ thần
kinh trung ương kiểm tra những gì nó làm. Nó cũng có tay để cầm công cụ và
hành động theo mệnh lệnh của hệ thần kinh trung ương” [40, tr. 2]. Nếu lỗi
của thể nhân là sự tự do ý chí của chủ thể, tự do lựa chọn hành vi trái pháp
luật, gây thiệt hại cho quan hệ xã hội trong khi có tự do và khả năng lựa chọn
hành vi của mình thì pháp nhân cũng vậy, nó cũng có tự do khi lựa chọn hành
vi của nó. Do đó những người theo quan điểm ủng hộ TNHS của pháp nhân
khẳng định lại việc quy kết TNHS của pháp nhân là trên cơ sở lỗi chứ không
phải quy tội khách quan.
Những người theo học thuyết truyền thống chống lại TNHS của pháp
nhân ngoài việc đưa ra quan điểm việc thiết lập chế định TNHS của pháp
nhân vi phạm nguyên tắc lỗi trong luật hình sự thì theo họ, nó còn vi phạm
một nguyên tắc nữa của luật hình sự đó là nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi khi tòa án quyết định hình phạt đối
với người phạm tội thì trong từng vụ án cụ thể phải căn cứ vào hành vi, sự
tham gia cụ thể của họ vào tội phạm bị truy cứu, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS, các yếu tố nhân thân của người phạm tội để đưa ra một bản án phù
hợp đối với từng người phạm tội. Mỗi người phạm tội sẽ có hình phạt thỏa
đáng. Trong khi một tội phạm được thực hiện trong khuôn khổ hoạt động của
pháp nhân, thì hoặc là toàn bộ các thành viên của pháp nhân đã phạm tội cần
phải bị trừng trị có sự phân biệt và tương xứng với lỗi của từng người hoặc là
chỉ trừng trị một hoặc một số người trong pháp nhân đã liên hiệp hành động
phạm tội. Sẽ là đúng, công bằng nếu trừng trị những người đó; sẽ là không
công bằng nếu lại trừng trị tất cả những thành viên khác trong pháp nhân chỉ
vì lý do họ thuộc về một tập thể hoặc là họ phụ thuộc vào nó [18, tr. 12]. Như
vậy, rõ ràng trong cả hai trường hợp đều không có nhu cầu trừng trị vào pháp
nhân. Theo Thomas Hobbes, cái giá thực sự khi áp dụng TNHS, xét đến cùng,
chính các pháp nhân không phải chịu mà là những cá nhân cụ thể trong pháp
nhân như người góp cổ phần, cổ đông, người lao động… phải chịu. Như vậy
chế định TNHS của pháp nhân không thể chấp nhận được về phương diện
pháp lý cũng như đạo đức [30, tr. 53] Về quan điểm cho rằng việc quy kết
TNHS và áp dụng hình phạt với pháp nhân sẽ không công bằng và gây hại cho
nguyên tắc cá thể hóa hình phạt thì theo quan điểm của hình sự học hiện đại,
những người ủng hộ việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân lý giả rằng:
Chế tài hình sự buộc phải áp dụng trực tiếp và chỉ đối với chính bản thân chủ
thể phạm tội, tức là đòi hỏi việc trừng trị nhằm trực tiếp vào những pháp nhân
khi các thực thể này phạm tội. Công bằng không có nghĩa là phải trừng trị các
cá nhân này hay cá nhân khác mà công bằng chính là buộc chủ thể thực hiện
tội phạm phải chịu hình phạt. Không có lý lẽ công bằng nào lại buộc cá nhân
những người cấp dưới vốn chẳng có quyền hành gì và các nhà quản lý có
trách nhiệm thành những người phải hứng chịu hậu quả thay cho pháp nhân
phạm tội [18, tr. 18]. Cũng không có sự công bằng nào về cùng một hành vi
phạm tội lại có những cách đối xử khác nhau. Đối với pháp nhân phạm tội
cùng loại thì xử lý bằng các biện pháp trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm
hành chính. Còn đối với cá nhân những người lãnh đạo, người đại diện của
pháp nhân phạm tội vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân
lại bị trừng trị bằng biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn nhiều. Như vậy bằng
việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân là thể hiện nguyên tắc công bằng và
bình đẳng. Pháp nhân phạm tội thì pháp nhân phải là chủ thể đứng ra chịu
TNHS. Nếu pháp nhân phạm tội mà bắt thành viên của pháp nhân phạm tội
chịu TNHS còn pháp nhân chỉ bị xử lý chế tài phi hình sự là sự không công
bằng. Bản án kết tội đối với một pháp nhân khác với bản án có thể xảy ra của
các thành viên pháp nhân, nó không nhằm vào cá nhân các thành viên của
pháp nhân mà chính là pháp nhân – chủ thể chịu TNHS.
Tiếp nữa những người theo học thuyết truyền thống không chỉ chống lại
TNHS của pháp nhân bằng lý lẽ là pháp nhân không có khả năng phạm tội mà
họ còn cho rằng các chế tài hình sự nói chung không thể áp dụng được cho
pháp nhân và nếu có hình phạt nào áp dụng thì cũng không cần thiết và cũng
không có hiệu quả. Những hình phạt đặc trưng, truyền thống và mang lại hiệu
quả trong luật hình sự như tử hình, phạt tù…thị lại không thể áp dụng được
cho pháp nhân. “Người ta có thể bắt giam như thế nào đối với một thực thể
mà bản chất của nó là vô hình?” [18. Tr. 13]. Làm thể nào có thể tước mạng
sống của một chủ thể giả tưởng mà bản thân của nó là thiếu sự tồn tại của thực
thể hữu hình
Như vậy một khi hình phạt không thể được áp dụng thì tất nhiên mục
đích của hình phạt cũng không được đặt ra. Một số hình phạt khác mặc dù có
khả năng áp dụng được cho pháp nhân như phạt tiền, tịch thu tài sản, tước một
số quyền… song nếu áp dụng những hình phạt này sẽ tác động cả những cá
nhân là thành viên của pháp nhân không có lỗi, không thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Điều này là sự bất công bằng giữa các thành viên trong pháp
nhân, gây phá sản cho pháp nhân, làm ảnh hưởng thu nhập, đời sống của họ,
dẫn đến bất bình đối với pháp luật, ảnh hưởng xã hội. Lúc này mặc dù có thể
áp dụng hình phạt đối với pháp nhân song mục đích của hình phạt không đạt
được. Mặt khác trong hệ thống pháp luật, trong từng ngành luật tương ứng
như luật hành chính, luật dân sự… đã có chế tài pháp lý phi hình sự như chế
tài phạt tiền, cấm hoạt động nhất định, giải thể pháp nhân… vì vậy họ cho
rằng nếu các chế tài ấy được xây dựng lại một cách khoa học và phù hợp với
thực tiễn thì cũng có thể áp dụng đối với pháp nhân chứ không nhất thiết phải
ghi nhận các chế tài ấy trong pháp luật hình sự. Quan điểm cho rằng các pháp
nhân về bản chất là những thực thể vô hình nên không thể áp dụng hình phạt
đối với nó, một số hình phạt trong hệ thống hình phạt nước ta rất đa dạng, một
số hình phạt như tử hình hay các hình phạt tước hoặc hạn chế quyền tự do
thân thể không thể áp dụng được với pháp nhân song với sự đa dạng trong hệ
thống hình phạt rất nhiều hình phạt có thể áp dụng đối với pháp nhân mà tác
động đến những quyền và tài sản mà pháp nhân có. Những hình phạt này đang
dần dần phát triển phù hợp với bản chất pháp nhân phạm tội và mục đích của
hình phạt đã đạt được. Mặc dù đúng là những hình phạt này đã có trong các
chế tài pháp lý phi hình sự song do tính chất phi hình sự mà những chế tài này
không đạt được hiệu quả cao khi áp dụng. Trên thực tế đã chứng minh điều đó
khi các vụ việc do pháp nhân thực hiện gây thiệt hại cho xã hội tăng nhanh cả
về số lượng lẫn mức độ nghiêm trọng.
Tóm lại trong khoa học pháp lý hiện nay vấn đề có nên quy định TNHS
của pháp nhân hay không còn là vấn đề đang được tranh cãi giữa các nhà
nghiên cứu pháp lý. Đặc biệt là trong thời gian vừa qua khi mà Ban soạn thảo
Dựa án BLHS sửa đổi đã tiến hành phiên họp và nhận được nhiều ý kiến trái
chiều. Tuy nhiên đa số các ý kiến đều tán thành việc quy định TNHS của pháp
nhân đối với một nhóm tội, trong đó có các tội phạm về chức vụ. Tác giả cũng
ủng hộ quan điểm thiết lập chế độ TNHS của pháp nhân đối với một nhóm tội
phạm trong đó có các tội phạm về chức vụ bởi vì việc thiết lập TNHS của
pháp nhân không vướng bất kỳ nguyên tác nào của luật hình sự, đồng thời còn
góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là các
tội phạm về chức vụ trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Cơ sởcủa việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
*Cơ sở lý luận của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân
Như chúng ta đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi,
trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Dựa vào khái niêm tội phạm này
chúng ta có thể đưa ra những cơ sở lý giải đối với chủ thể của tội phạm là
pháp nhân giống như những người ủng hộ quan điểm thiết lập chế định TNHS
của pháp nhân lập luận.
Trước hết có thể khẳng định pháp nhân là một thực thể có thật. Pháp
nhân có những đặc tính không đổi được thừa nhận chung, có sự tồn tại thực tế
của nó trong mối quan hệ với các thành viên của pháp nhân. Thực tế pháp luật
đã ghi nhận nó trên phương diện pháp lý. Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 của
Việt Nam quy định pháp nhân được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó; nhân danh chính mình tham gia vào quan hệ xã hội một cách
độc lập.
Cũng như thể nhân, pháp nhân cũng có hành vi của mình. Tuy nhiên
hành vi của pháp nhân khác với thể nhân, hành vi của pháp nhân được thực
hiện thông qua người đại diện, người lãnh đạo của pháp nhân. Trong các điều
lệ, văn bản về pháp nhân luôn có các quy định về tổ chức, hoạt động của pháp
nhân và đó chính là hành vi của pháp nhân. Theo quy định của pháp luật, quy
chế, điều lệ của pháp nhân thì người lãnh đạo, đại diện được thay mặt pháp
nhân ra các quyết định, thực hiện các hành vi thuộc thẩm quyền của pháp
nhân, vì lợi ích của pháp nhân. Với hậu quả có lợi cũng như bất lợi phát sinh
từ hành vi theo sự lựa chọn trên cơ sở ý chí của người đại diện, người lãnh
đạo đều do pháp nhân thụ hưởng hoặc gánh chịu. Những hoạt động của pháp
nhân thường là những hành vi có lợi cho pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân,
lợi ích của xã hội nhưng cá biệt cũng có những hoạt động vì lợi ích của mình
mà pháp nhân có thể gây thiệt hại cho xã hội ở những mức độ khác nhau và
việc gây thiệt hại ở mức độ đáng kể là rất có thể xảy ra. Vì vậy pháp nhân có
thể có hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
Mặt khác, các pháp nhân mặc dù bao gồm các cá nhân nhưng được hình
thành bởi những lợi ích tập trung và được pháp luật thông qua các cấu trúc
pháp lý xác định. Pháp nhân có thể tự quyết định một cách tự do và theo đuổi
những mục tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá nhân
tạo nên pháp nhân đó. Trong các pháp nhân, những định hướng chủ đạo thể
hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn toàn
giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên tập đoàn. Pháp nhân
hoàn toàn có ý chí của riêng mình bởi vì nó sinh ra, tồn tại và phát triển bằng
sự gặp gỡ giữa các ý chí cá nhân của thành viên của mình. Vì vậy pháp nhân
là một thực thể có ý chí, có mong muốn riêng, được xử sự tự do và hưởng
quyền tự chủ của chủ thể và có thể so sánh với quyền tự chủ của cá nhân. Vì
vậy nó có năng lực thực hiện tội phạm một cách có lỗi và đương nhiên có thể
bị xử lý về hình sự. Như đã phân tích ở trên, lỗi trong luật hình sự là thể hiện
tự do ý chí của chủ thể (Tự do lựa chọn hành vi trái pháp luật, gây thiêt hại
cho quan hệ xã hội trong khi có tự do và khả năng lựa chọn hành vi hợp pháp)
thì pháp nhân cũng hoàn toàn tự do khi lựa chọn hành vi của mình. Vì vậy
việc quy kết TNHS cho pháp nhân là hoàn toàn hợp lý trên cơ sở lỗi chứ
không phải quy tội khách quan. Như vậy hành vi của pháp nhân hoàn toàn có
thể đáp ứng các đặc điểm của tội phạm theo quy định của BLHS Việt Nam
hiện hành.
Cuối cùng, việc áp dụng hình phạt cho pháp nhân hoàn toàn có khả
năng thực thi. Hình phạt là biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội và pháp nhân cũng có quyền và lợi ích nhất định, nên về lý
thuyết, việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp nhân phạm tội là
điều có thể. Và khi chúng ta tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp
nhân tức là chúng ta đã đạt được mục đích trừng trị, răn đe cũng như phòng
ngừa của hình phạt. Do đó có thể khẳng định hoàn toàn có thể quy kết TNHS
đối với pháp nhân.
Như vậy có thể khẳng định về mặt lý luận, khoa học pháp lý hình sự
hiện đại đã giải quyết cơ bản TNHS của pháp nhân. Việc thiết lập chế định
TNHS của pháp nhân không vi phạm bất kỳ dấu hiệu nào của tội phạm cũng
như nguyên tắc của Luật hình sự. Ngày nay, việc thừa nhận TNHS của pháp
nhân là xu hướng phát triển chung trong pháp luật hình sự của nhiều nước và
chúng ta hoàn toàn có thể quy định chế định này trong luật hình sự Việt Nam.
*Cơ sở thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân
Qua thực tế thấy rằng, quan điểm coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm
đã có từ lâu và hiện nay nó đã được chính thức thừa nhận ở một số quốc gia
trong đó có những quốc gia từ trước tới nay không thừa nhận mà thậm chí còn
phê phán. TNHS của pháp nhân đã được ghi nhận và trở thành nguyên tắc cơ
bản trong Luật hình sự của mỗi nước theo truyền thống Án lệnhư Anh, Mỹ,
Canada, Australia, New Zealand…Ở châu Âu lục địa, chế định TNHS cũng đã
được thừa nhận trong pháp luật hình sự nhiều quốc gia như Pháp, Hà Lan, Bỉ,
Thụy Sĩ, Tây Ban Nha… Vấn đề TNHS của pháp nhân đã được điều chỉnh về
mặt lập pháp không chỉ ở các nước theo truyền thống Common Law, châu Âu
lục địa mà còn được thừa nhận ở một số nước châu Á như Nhật Bản, Singapo,
đặc biệt là Trung Quốc – một nước láng giềng của Việt Nam trong thời gian
trước còn phản đối việc chấp nhận TNHS của pháp nhân.
Không chỉ được ghi nhận trong pháp luật hình sự các quốc gia mà vấn
đề TNHS của pháp nhân đã chính thức được khuyến nghị trong nhiều văn bản
quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Công ước của liên hiệp quốc về chống
tham nhũng 2003, Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia… Mặc dù quy định thiết lập TNHS của pháp nhân chỉ là quy
định mang tính chất khuyến nghị song trong quyết định phê duyệt thực hiện
các Công ước này, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu nghiên cứu bổ sung pháp
nhân là chủ thể của hành vi tham nhũng. Có thể thấy xu hướng thừa nhận
TNHS của pháp nhân đã ngày càng phổ biến trong pháp luật các quốc gia và
là một xu hướng hợp thời đại. Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét, bổ sung chế
định này trong pháp luật quốc gia.
Ở Việt Nam, nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự cho thấy trước khi
ban hành BLHS, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được thiết lập.Trong thời kỳ
phong kiến, vấn đề TNHS của pháp nhân cũng được đề cập trong Quốc triều
hình luật, Điều 62 chương Tạp luật có quy định: “Những trang trại ven biển
mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hóa lên bờ, thì bị xử biếm 3 tư,
phải phạt gấp ba tang vật để sung công, lấy một phần thưởng cho người tố
giác. Người chủ trang trại ấy mất chức giám trang”. Trước các mạng tháng
Tám năm 1945, vấn đề TNHS của pháp nhân cũng được quy định trong pháp
luật của chế độ thực dân phong kiến thời kỳ trước cách mạng tháng Tám như
Điều 12 Dụ số 45.1088 ngày 03/5/1945 về trừng trị các vi phạm luật lệ hối
đoái, quy định: “Đối với trường hợp vi phạm luật lệ hối đoái thì không những
giám đốc, quản trị viên, quản lý của pháp nhân bị truy tố mà chính bản thân
pháp nhân cũng có thể bị truy tố và bị phạt bạc”. Sau cách mạng tháng Tám
năm 1945, chính quyền chế độ cũ ở vùng tạm chiến của thực dân Pháp và ở
miền Nam Việt Nam dưới chế độ Sài Gòn sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954
cũng đã ban hành một số văn bản quy định TNHS của pháp nhân như: Điều
33 Dụ số 10 ngày 23/6/1950, Điều 26 Dụ số 33 ngày 16/11/1952… đặc biệt
trong BLHS ngày 20/12/1972 của chính quyền Sài Gòn cũ chính thức quy
định TNHS của pháp nhân là nguyên tắc chung trong luật hình sự. Điều 8 bộ
luật này quy định “Luật hình chi phối mọi cá nhân và pháp nhân cứ trú trên
lãnh thổ Việt Nam và mọi sự kiện xảy ra trên lãnh thổ này, kể cả không phận
và hải phận”. Điều 69 quy định “Cá nhân và pháp nhân đều có thể bị truy cứu
TNHS” và Điều 71 quy định “Pháp nhân có thể bị xử phạt giải tán, phạt vạ và
tịch thu tài sản”. Trong hai lần pháp điển hóa BLHS năm 1985 và 1999, mặc
dù trong kiến giải lập pháp của các tác giả được đưa ra tại Điều 2 BLHS 1985
quy định “Cơ sở của TNHS” với nội dung “Cơ quan, tổ chức, đơn vị (sau đây
gọi là tổ chức) phải chịu TNHS về hành vi phạm tội do đại diện của mình thực
hiện vì lợi ích của tổ chức đó”. Nhưng sau đó trong dự thảo luật lần thứ XI
(10/1998) thì kiến giải lập pháp này bị các nhà làm luật Việt Nam loại bỏ. Và
BLHS hiện hành vẫn chưa chấp nhận nguyên tắc TNHS pháp nhân bên cạnh
nguyên tắc TNHS cá nhân.
Một thực tiễn đáng buồn là các vi phạm pháp luật có tính chất tội phạm
do pháp nhân thực hiện ở nước ta trong những năm gần đây tăng rất nhanh.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vấn đề trên nhưng nguyên nhân căn bản và sâu
sa nhất đó là sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường. Việt Nam
đang tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với những chính sách kinh tế thông thoáng, hội nhập kinh tế quốc
tế, gia nhập WTO nhằm mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của nhà nước ta đã
tạo điều kiện phát triển mọi mặt, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế. Tuy
nhiên bên cạnh những yếu tố tích cực đó đã xuất hiện những hành vi có tính
chất tội phạm ngày càng gia tăng cả về quy mô và mức độ nguy hiểm không
chỉ do cá nhân mà còn do tổ chức, pháp nhân thực hiện. Những vụ gây thiệt
hại đáng kể do pháp nhân gây ra không còn là cá biệt mà đã trở thành hiện
tượng phổ biến. Với chế tài pháp lý hiện nay thì việc chỉ xử lý TNHS đối với
người đại diện của pháp nhân còn bản thân pháp nhân sẽ chỉ chịu trách nhiệm
dân sự hay trách nhiệm hành chính. Chính điều này là nguyên nhân dẫn đến
hiện tượng các pháp nhân ngày càng phạm tội nhiều hơn. Việc áp dụng trách
nhiệm dân sự hay trách nhiệm hành chính đối với pháp nhân phạm tội không
còn đạt hiệu quả trong việc ngăn chặn pháp nhân có những hành vi gây thiệt
hại, hậu quả pháp lý mà pháp nhân phải gánh chịu không đủ nghiêm khắc để
phòng ngừa tái phạm. Thêm vào đó việc chỉ truy cứu TNHS đối với cá nhân
những người lãnh đạo, người đại diện trong những trường hợp này là thiếu
công bằng và không hợp lý. Các cá nhân được đó chỉ sử dụng các biện pháp
điều hành cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ được giao, họ không được làm
trái các quyết định đó. Một khi những biện pháp đó mà đem lại lợi ích cho
pháp nhân thì tất cả những thành viên của pháp nhân được hưởng còn khi
những biện pháp mà họ áp dụng vi phạm pháp luật thì chỉ mình bản thân họ
gánh chịu trách nhiệm. Mặt khác việc truy cứu TNHS cá nhân trong trường
hợp này không thể ngăn chặn được pháp nhân tiếp tục thực hiện hành vi trái
pháp luật bởi bị khi cá nhân những người đại diện của pháp nhân này bị truy
cứu TNHSthì sẽ có cá nhân khác thay thế và tiếp tục thực hiện hành vi tương
tự vì mục đích của pháp nhân.
Từ những cơ sở trên đòi hỏi phải quy định TNHS của pháp nhân. Chỉ
có TNHS với tính nghiêm khắc của các chế tài mới đủ sức răn đe và có khả
năng phòng ngừa hành vi tiếp tục phạm tội của pháp nhân đồng thời, việc áp
dụng TNHS đối với pháp nhân mới tương xứng và phù hợp với mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại do pháp nhân thực hiện. Và một lần
nữa khẳng định rằng trong điều kiện xã hội hiện nay thật sự cần thiết phải quy
định TNHS đối với pháp nhân.
1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ HÌNH SỰ CƠ BẢN CỦA CÁC TỘI
PHẠM VỀ CHỨC VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1.Sơ lƣợc lịch sử lập pháp hình sự nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về các tội phạm chức vụ
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật hình sự về các tội phạm chức vụ.
Năm 1946, Sắc lệnh số 223/SL được ban hành ngày 17/11 quy định đưa
hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ hoặc phù lạm, biển thủ công
quỹ. Sắc lệnh này tuy chưa mô tả hành vi phạm tội và quy định hình phạt còn
cứng nhắc nhưng đã thể hiện sự phân hóa trong xử lý đối với người tự thú, tố
giác đồng bọn. Sắc lệnh là văn bản quy phạm pháp luật hình sự đầu tiên của
nhà nước ta quy định tội phạm về chức vụ. Năm 1948, Sắc lệnh số 200/SL
ngày 7/8 về trưng tập công chức có quy định tội đào nhiệm. Năm 1956, Sắc
lệnh số 267/SL ngày 15/6 quy định trừng trị những âm mưu và hành động phá
hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân, làm cản trở việc thực
hiện chính sách, kế hoạch nhà nước quy định các tội phạm về chức vụ gồm:
tội không làm hoặc làm sai công vụ mình phụ trách và tội thiếu tinh thần trách
nhiệm làm thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã,
của nhân dân. Năm 1976, Sắc lệnh số 03 được Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành ngày 15 tháng 3 quy định thêm tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn và quy định tội đưa và nhận hối lộ. Năm 1981,
pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ được ban hành ngày 20 tháng 5. Pháp lệnh
này thay thế các văn bản pháp luật hình sự trước đó về các tội hối lộ. Lần đầu
tiên trong pháp lệnh, tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ được quy định tại điều
luật độc lập, các dấu hiệu pháp lí được điều luật mô tả, các tình tiết tăng nặng
và tăng nặng đặc biệt được quy định trong những điều khoản riêng. Pháp lệnh
này loại bỏ được những hạn chế của những văn bản pháp luật hình sự trước
đây và giúp cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt được thuận lợi,
chính xác. [32, tr. 358-360]
Năm 1985, BLHS đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được ban hành ngày 27 tháng 6. Kế thừa kinh nghiệm lập pháp hình
sự và kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm những năm trước đây,
BLHS năm 1985 đã dành một chương quy định tội phạm chức vụ. Tuy nhiên,
do những quy định của BLHS năm 1985 về các tội phạm về chức vụ còn
nhiều điểm chưa được hướng dẫn và thực tiễn xét xử nhiều trường hợp phạm
tội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng
BLHS để truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Các quy định của BLHS năm 1999 đối với các tội phạm về tham nhũng,
các tội phạm khác về chức vụ đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ánh được thực
trạng công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thời gian qua,
giúp cho việc điều tra, truy tố mà đặc biệt là việc xét xử loại tội phạm này sẽ
thuận lợi hơn trước đây.
BLHS năm 1999 đi vào cuộc sống đã phát huy vai trò, tác dụng tích cực
và trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm,
qua đó góp phần bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;
từng bước đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ và lợi ích hợp pháp của
công dân, của tổ chức; thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu
cầu hội nhập quốc tế, phục vụ công cuộc đổi mới đất nước, góp phần tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong những năm vừa
qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ chương, biện pháp nhằm ngăn chặn
và đẩy lùi tệ tham nhũng, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên cuộc
đấu tranh chống tham nhũng chưa đem lại hiệu quả, tình trạng tham nhũng
vẫn rất nghiêm trọng, vẫn là một trong những nguy cơ làm suy yếu chế độ xã
hội chủ nghĩa, trực tiếp làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước ta. Ngoài những hành vi tham nhũng thì đi liền với nó là những hành vi
có liên quan đến tham nhũng hoặc có liên quan đến chức vụ, quyền hạn.
1.2.2.Khái niệm các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt
Nam hiện hành
Khái niệm tội phạm về chức vụ được các nhà làm luật quy định tại một
điều riêng biệt trong BLHS năm 1999. Điều 277 quy định: “Các tội phạm về
chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức
do những người có chức vụ thực hiện khi thực hiện công vụ”. Ngoài ra điều
luật cũng giải thích thêm: “Những người có chức vụ nói trên đây là những
người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có
hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất
định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”.
Nếu căn cứ vào những quy định trên thì các tội phạm về chức vụ quy
định từ Điều 278 đến Điều 291 BLHS có một số trường hợp không thỏa mãn
khái niệm mà Điều 277 quy định như: tội đưa hối lộ quy định tại Điều 289, tội
làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 290 BLHS, không chỉ người có chức vụ
thực hiện mà còn bao gồm cả những người không có chức vụ thực hiện, mặc
dù hành vi của họ cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức. Ngoài các tội phạm quy định tại Chương XXI BLHS ra, còn nhiều tội
phạm khác quy định ở các Chương khác cũng do người có chức vụ thực hiện
và cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, nhưng
lại không phải là tội phạm về chức vụ.
Việc đưa ta một khái niệm về các tội phạm về chức vụ thật chính xác,
thật đặc trưng cho loại tội phạm này về lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều vấn
đề phải tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên chúng ta không nên quá câu lệ vào
khái niệm hay định nghĩa về loại tội phạm này, vi khi đã là luật thì trước hết
mọi cơ quan, tổ chức và mọi người phải tuân theo. Vấn đề quan trọng là cần
hiểu và nắm chắc các dấu hiệu pháp lý đối với các tội phạm quy định tại
chương XXI BLHS. [36, tr. 50]
BLHS hiện hành nước ta quy định tội phạm về chức vụ tại chương XXI,
trong đó mục A quy định các tội phạm về tham nhũng (từ điều 278 đến Điều
284), mục B quy định các tội khác về chức vụ (từ Điều 285 đến Điều 291).
Ngoài các tội phạm được quy định tại chương XXI, các chương khác của
BLHS 1999 cũng quy định các tội phạm khác về chức vụ, như tội thiếu trách
nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144), tội cố
ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
(Điều 165).
1.2.3. Những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của tội đƣa hối lộ và
nhận hối lộ trong Luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm về chức vụ được quy định từ Điều 278 đến Điều 291 Bộ
luật hình sự. Tuy nhiên khi nghiên cứu vun đề trách nhiệm hình sự của pháp
nhân đối với các tội phạm về chức vụ, tác giả sẽ nghiên cứu và đề xuất vấn đề
trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với hai tội đưa hối lộ và nhận hối
lộ.Chính vì vậy tác giả sẽ chỉ ra những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của
hai tội đưa hối lộ và nhận hối lộ (gọi chung là các tội phạm về hối lộ) như sau:
Trước hết về chủ thể của tộinhận hối lộ: Theo quan điểm truyền thống
của luật hình sự Việt Nam, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể
là chủ thể của tội này. Cũng theo các hiểu được thừa nhận chung trong Luật
hình sự Việt Nam, người có chức vụ, quyền hạn là người được giao phụ trách
một công vụ nhất định trong các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức và khi thi
hành công vụ đó người này có một quyền năng nhất định trong mối quan hệ
với những người khác.Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, phạm vi
những chủ thể có thể nhận hối lộ khá rộng. Ngoài những người đang giữ chức
vụ hoặc có quyền hạn nhất định, một số chủ thể khác cũng có khả năng trở
thành đối tượng của hành vi đưa hối lộ. Đó có thể là những người có khả năng
gây ảnh hưởng tới một hoạt động ban hành quyết định cụ thể trong khi chức
vụ chính thức của họ lại hoàn toàn độc lập với hoạt động đó. Đó còn có thể là
những người tuy không còn nắm giữ cương vị công tác nữa song vẫn có khả
năng gây ảnh hưởng tới hoạt động ra quyết định của một cơ quan nhất định.
Tác giả đồng tình với quan điểm hiểu khái niệm người có chức vụ, quyền hạn
ở các tội phạm về hối lộ theo nghĩa rộng. Nhờ đó luật hình sự có thể bao quát
được tất cả những đối tượng có nguy cơ lợi dụng chức trách của mình nhận lợi
ích để thực thi chức trách theo hướng có lợi cho người đưa lợi ích.
Tiếp theo, về vấn đề các dạng hành vi của tội đưa hối lộ và nhận hối lộ
không được bàn luận nhiều trong khoa học luật hình sự. Nhìn chung các quan
điểm đều thống nhất cho rằng các tội phạm về hối lộ là những tội chỉ cần có
một dấu hiệu trong mặt khách quan được phản ánh là hành vi khách quan.
Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ là một trong ba dạng: hành vi nhận lời
mời hối lộ, hành vi nhận của hối lộ và hành vi đòi hối lộ. “Nhận lời mời hối
lộ” là hành vi đồng ý với lời đề nghị hối lộ của người đưa hối lộ. Khi người có
chức vụ nhận lời mời hối lộ là lúc thỏa thuận giữa người đưa và người hối lộ
đã đạt được. “Nhận của hối lộ” là hành vi thực tế tiếp nhận lợi ích từ phía
người đưa hối lộ. “Đòi hối lộ” là hành vi của người có chức vụ chủ động yêu
cầu người khác phải đưa lợi ích cho mình để đổi lấy việc mình thực hiện chức
trách theo hướng có lợi cho người đưa lợi ích. Tội phạm hoàn thành khi chủ
thể thực tế nhận của hối lộ hoặc đạt được sự thỏa thuận với người đưa về việc
nhận của hối lộ và chịu ảnh hưởng của người đưa hối lộ trong khi thực hiện
nhiệm vụ của mình. Các hành vi hối lộ có thể được thực hiện dưới bất kỳ hình
thức nào, có thể kín đáo hoặc công khai [29, tr. 48].
Cuối cùng về lỗi của người phạm tội về hối lộ là lỗi cố ý. Cả người đưa
và người nhận hối lộ đều nhận thức đầy đủ về tính chất sai trái của hành vi
mình thực hiện, hơn nữa còn nhận thức được tính không chính đáng của hành
vi mình thực hiện, hơn nữa còn nhận thức được tính không chính đáng của
hành vi của những bên còn lại trong quan hệ hối lộ. Việc họ vẫn quyết định
thực hiện hành vi cho thấy họ đã mong muốn cho những hành vi nguy hiểm
cho xã hội đó xảy ra. Dù hành vi là hối lộ chủ động hay hối lộ bị động thì việc
chủ thể đồng ý thực hiện hành vi đã thể hiện sự tự nguyện trong ý chí của chủ
thể.
Chương 2
NHỮNG ĐÕI HỎI CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
CỦA PHÁP NHÂN ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. NHỮNG ĐỒI HỎI CỦA VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ THEO CÁC
CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM LÀ QUỐC GIA THÀNH VIÊN
2.1.1. Công ƣớc Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003
Tham nhũng là hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia
trên thế giới. Tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng đến các nguồn lực công,
xâm hại đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý,
công bằng xã hội, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển bền vững, làm
xói mòn lòng tin của người dân vào nhà nước và pháp luật. Tham nhũng
thường liên kết một cách tinh vi, chặt chẽ với các tội phạm khác, đặc biệt là
tội phạm có tổ chức và tội phạm kinh tế, gây ra những hậu quả nguy hại, khó
lường, mang tính chất dây chuyền. Không nằm ngoài tiến trình toàn cầu hóa
đang diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc trên mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội,
tham nhũng đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới của mỗi quốc gia và đang trở
thành một hiện tượng mang tính khu vực và quốc tế, với tốc độ lây lan nhanh
chóng cùng mức độ tàn phá ngày một nặng nề. Vì vậy chống tham nhũng
đang trở thành một nhiệm vụ quan trọng, cần thiết, đòi hỏi các nỗ lực chung
của cộng đồng quốc tế. Trong đó, yêu cầu trước tiên và cơ bản nhất là phải
thiết lập được một số công cụ pháp lý toàn diện, có hiệu lực pháp lý cao làm
cơ sở cho việc đẩy mạnh hoạt động phòng, chống tham nhũng tại mỗi quốc
gia, trong mỗi khu vực và trên thế giới. [25, tr. 7]
Trước tình hình đó, việc hình thành một khuôn khổ pháp lý quốc tế để
phòng chống tham nhũng giữa các quốc gia trên thế giới là một yêu cầu cấp
thiết đặt ra. Ngày 04/12/2000, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ra Nghị quyết
số 55/61 xác định cần phải có một văn kiện pháp lý quốc tế hữu hiệu chống
tham nhũng. Theo Nghị quyết này, Ủy ban soạn thảo Công ước của Liên hợp
quốc về chống tham nhũng được thành lập. Ngày 01/10/2003, tại phiên họp
thứ 7, với tinh thần khẩn trương và xây dựng, Công ước đã được thông qua
với 8 chương và 71 điều. Từ ngày 09 đến ngày 11/12/2003, đã có 95 nước ký
Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, trong đó có Việt Nam.
Hiện tại số thành viên tham gia Công ước tăng lên 173 thành viên. Công ước
gồm có: Lời nói đầu, 8 Chương, 71 Điều đã thể hiện rõ tính chất nguy hiểm,
mức độ nghiêm trọng và những hậu quả tiêu cực của tham nhũng đối với các
giá trị dân chủ, đạo đức, công lý, nguyên tắc pháp quyền và sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế; đồng thời, khuyến cáo
các quốc gia cần quyết tâm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng bằng
hệ thống các biện pháp toàn diện, đa dạng và hữu hiệu. Như vậy, ý chí xóa
bỏ tham nhũng đã trở thành trách nhiệm của các quốc gia và các quốc gia
thành viên nhằm tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng
thông qua hợp tác điều tra, truy tố, trao đổi thông tin, thu hồi tài sản, trợ giúp
kỹ thuật, hỗ trợ tăng cường năng lực xây dựng thể chế. Phạm vi áp dụng của
Công ước bao trùm tất cả các lĩnh vực của công tác chống tham nhũng, gồm:
phòng ngừa, điều tra, truy tố tham nhũng và việc phong toả, tạm giữ, tịch thu
và hoàn trả tài sản có được do phạm các tội quy định trong Công ước.
Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng đã được Việt Nam ký
kết vào ngày 10 tháng 12 năm 2003, được Chủ tịch nước phê chuẩn vào
ngày 30 tháng 6 năm 2009 và trở thành thành viên chính thức kể từ ngày 18
tháng 9 năm 2009. Đây được coi là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng thể
hiện quyết tâm và cam kết của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế trong công
cuộc phòng, chống tham nhũng. Vị trí của Công ước trong hệ thống pháp
luật của Việt Nam là thấp hơn một bậc so với Hiến pháp và cao hơn một bậc
so với các nguồn luật khác. Giống như các điều ước quốc tế khác, Công ước
có thể được áp dụng trực tiếp, toàn bộ hoặc một phần, hoặc thông qua các
quy định và pháp luật trong nước. Việt Nam đã có tuyên bố khi phê chuẩn
rằng các điều khoản của Công ước không được áp dụng trực tiếp. (35)
Khi phê
chuẩn Công ước, Việt Nam tuyên bốkhông bị ràng buộc bởi các quy định
TNHS của pháp nhân (Điều 26) do pháp luật Việt Nam chưa đáp ứng hoàn
toàn quy định này.
Điều 26 Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng quy định các
quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp cần thiết, trên cơ sở phù hợp với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia, quy định trách nhiệm của
pháp nhân khi thực hiện hoặc tham gia thực hiện các tội phạm quy định tại
Công ước. Hình thức trách nhiệm cụ thể do các quốc gia tự quyết định, có
thể là TNHS, hành chính hoặc dân sự, miễn là ở mức độ tương xứng, thích
đáng và có tác dụng ngăn ngừa. Cần lưu ý rằng trách nhiệm của pháp nhân
không loại trừ TNHS của cá nhân có liên quan.
Mặc dù pháp nhân phải chịu trách nhiệm hành chính và dân sự (không
phải TNHS) theo quy định của các văn bản pháp luật có liên quan (Điều 93
Bộ luật dân sự và Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính), nhưng trách nhiệm
này không áp dụng đối với các tội được quy định trong Công ước. Pháp nhân
có thể phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc dân sự theo quy định của luật xử
lý vi phạm hành chính hoặc Bộ luật dân sự hiện hành. Điều 5 Luật xử lý vi
phạm hành chính 2012 quy định “tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về
mọi hành vi hành chính do mình gây ra”. Tuy nhiên, các hành vi tham nhũng
của pháp nhân theo quy định của Công ước chưa được coi là hành vi vi phạm
hành chính. Về trách nhiệm dân sự, theo quy định của Điều 622 Bộ luật Dân
sự, thì pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi
thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao. Tuy nhiên, cũng giống trách nhiệm
hành chính, pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa quy định pháp nhân phải
chịu trách nhiệm dân sự đối với hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng.
Do đó, pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu này của Công
ước.
Các chuyên gia Việt Nam cho rằng những khó khăn gặp phải về mặt lý
luận dẫn đến Việt Nam chưa chấp nhận việc quy định TNHS của pháp nhân
đối với các tội phạm tham nhũng nói riêng và với một số tội khác trong BLHS
hiện hành nói chung là: Thứ nhất, trong pháp luật hình sự Việt Nam, quan
niệm về lỗi là lỗi của cá nhân người phạm tội. Pháp nhân là một thực thể giả
tưởng của pháp luật. Chỉ có các cá nhân cụ thể mà thông qua nó, pháp nhân
hành động mới hội tụ đủ các yếu tố cần thiết để quy kết tội phạm và mới có
thể bị trừng trị. Thứ hai là hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam không
dễ áp dụng được với pháp nhân (đặc biệt là đối với một số hình thức xử phạt
như tử hình, tù, cải tạo không giam giữ) và nếu có hình phạt nào áp dụng được
thì cũng không cần thiết hoặc cũng không có hiệu quả đối với pháp nhân –
một thực thể trìu tượng có bản chất nhân tạo và vô hình. Thứ ba là nếu trừng
trị pháp nhân về mặt hình sự sẽ vi phạm nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và
không đạt được mục đích giáo dục, cải tạo của hình phạt.
Nguyên tắc TNHS của pháp nhân đã được áp dụng ở các nước theo
truyền thống pháp luật chung (Common Law) và châu Âu lục địa
(Continental), trong đó có một số nước châu Á. Về thực tiễn, đứng trước tình
hình tội phạm do pháp nhân thực hiện ngày càng gia tăng và ngày càng nguy
hiểm, dư luận xã hội ủng hộ mạnh mẽ việc truy cứu TNHS của pháp nhân. Số
các vụ việc tham nhũng có sự dính líu của pháp nhân chiếm một tỷ lệ tương
đối cao, đặc biệt là các vụ việc có liên quan đến các giao dịch thương mại
hoặc các hoạt động cấp phép… Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế
giới đã quy định TNHS đối với cá nhân phạm các tội về tham nhũng hoặc các
tội phạm liên quan. Tuy nhiên, việc phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử các
vụ việc tham nhũng liên quan đến pháp nhân vẫn gặp nhiều khó khăn, nhiều
lúc dẫn đến tình trạng xử lý thiếu triệt để, không hiệu quả. Không phải lúc nào
cơ quan có thẩm quyền cũng có thể xác định chính xác người phải chịu
TNHS, nhất là trong những tập đoàn lớn, đa quốc gia, có cơ cấu tổ chức phức
tạp, hoặc khi việc đưa ra quyết định của pháp nhân mang tính chất tập thể chứ
không phải mang tính chất riêng lẻ, cá thể. Mặt khác, trong nhiều trường hợp,
pháp nhân vẫn tiếp tục dính líu tới các vụ việc tham nhũng, dù các nhân của
pháp nhân đó, thậm chí người lãnh đạo, điều hành pháp nhân đã bị truy tố
hoặc đưa ra xét xử. Điều này đòi hỏi pháp nhân cũng phải chịu trách nhiệm
pháp lý khi tham gia hoặc dính líu tới các vụ việc tham nhũng [24. Tr.
45].Chính vì vậy nếu chỉ xử lý về mặt hình sự đối với thể nhân rõ ràng đã bỏ
lọt tội phạm, trái với nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự, dẫn đến
khó khăn trong cuộc chiến chống tội phạm vì thiếu hiệu quả ngăn ngừa. Khi
đó nhà nước sẽ gặp khó khăn trong việc trấn áp và kiểm soát tình hình tội
phạm. Trước tình hình tội phạm do pháp nhân thực hiện ngày càng gia tăng và
phức tạp và do Việt Nam mới bắt đầu bước vào thực hiện nền kinh tế thị
trường, rất khó có thể biết cách khắc phục tốt nhất các tồn tại của nền kinh tế
thị trường, và Việt Nam cần phải có những quy định phù hợp.
Do vậy, để hoàn thành nghĩa vụ của quốc gia thành viên đối với Công
ước, kiến nghị được đưa ra là cần xây dựng các quy định về TNHS của pháp
nhân đối với các tội phạm về tham nhũng. Việt Nam cần coi đây là nội dung
ưu tiên để tránh vấn đề miễn trừ đối với pháp nhân tham gia tội phạm tham
nhũng. Có như vậy mới cho phép trừng trị tội phạm hiệu quả hơn, bổ sung lỗ
hổng trong chính sách pháp luật về hình sự qua đó cũng giúp bảo đảm công
bằng hơn trong việc chia trách nhiệm giữa các pháp nhân, tổ chức và cá nhân
người phạm tội đã hành động vì lợi ích của các thực thể này. Việt Nam đã nỗ
lực nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các tội tham nhũng trong BLHS vào lần sửa
đổi, bổ sung tiếp theo. Dự án BLHS (sửa đổi) đã được đưa vào Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII và hiện dự thảo
BLHS sửa đổi này đang được lấy ý kiến.
2.1.2. Công ƣớc của Liên Hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia
Trong những năm qua, cộng đồng quốc tế đã chứng kiến sự gia tăng của
những hành vi phạm tội do các nhóm tội phạm có tổ chức thực hiện như:
khủng bố quốc tế, buôn lậu ma tuý, mua bán người..., gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng cả về tài chính và con người ở hầu hết các nước trên thế giới.
Một trong những thách thức toàn cầu, đe doạ đến an ninh, sự ổn định của hầu
hết các quốc gia trên thế giới là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Loại tội
phạm này hoành hành khắp thế giới với nhiều loại hình hoạt động. Khu vực
Đông Nam Á là địa bàn hoạt động khá sôi nổi của các tổ chức tội phạm xuyên
quốc gia. Để đấu tranh hiệu quả đối với loại tội phạm nguy hiểm này thì một
hoặc vài quốc gia không thể gặt hái thành công mà cần có sự hỗ trợ, hợp tác
của cả cộng đồng quốc tế. Liên hợp quốc đã xây dựng được công ước về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (công ước TOC) và 3 nghị định thư
bổ sung cho Công ước, bao gồm: Nghị định thư về chống buôn bán người, đặc
biệt là PNTE; Nghị định thư về chống đưa người di cư bất hợp pháp và Nghị
định thư về chống mua bán bất hợp pháp vũ khí, đạn dược. Đây là những cơ
sở pháp lý cho các quốc gia trong việc phòng và chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia.
Năm 2000, tại Italia, Việt Nam cùng 123 quốc gia khác đã ký chính
thức Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia và 3 Nghị định thư bổ sung Công ước. Tại Việt Nam vào năm 2013, Chủ
tịch nước và Thủ tướng Chính phủ đã ký các Quyết định số 605/QĐ-Ttg ngày
18 tháng 4 năm 2013 phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Công ước phòng
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa,
trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Đối với
nước ta, việc tham gia Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia là một yêu cầu thực tế khi tình hình tội phạm ở nước ta
có xu hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất nguy hiểm, đặc biệt là sự
phát triển đáng lo ngại của tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Hệ thống
pháp luật của nước ta (Hiến pháp, pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng, phòng
chống tham nhũng…) về đấu tranh chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
đã khá đủ điều kiện để vận hành và thực hiện Công ước. Bên cạnh đó, các cơ
quan tiến hành tố tụng cùng với văn phòng cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol
và Aseanpol) của nước ta đã có những hợp tác hiệu quả trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự có nhận tố nước ngoài.
Chính phủ nhận thấy rằng tham nhũng hiện đang là một thách thức lớn
đối với Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã áp dụng một loạt chính sách và các
công cụ pháp lý có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các nỗ lực phòng
chống tham nhũng. Cụ thể là Luật Phòng chống tham nhũng được thông qua
năm 2005 và có hiệu lực vào tháng 7/2006 (sửa đổi bổ sung năm 2007 và
2012). Năm 2009, Chiến lược Quốc gia về Phòng chống Tham nhũng đến
năm 2020 đã được xây dựng và ban hành. Hơn nữa, việc Việt Nam phê chuẩn
Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng và Công ước của Liên hợp
quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đã mang lại lực đẩy mới
cho những nỗ lực phòng chống tham nhũng. Điều 10 Công ước của Liên hợp
quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia quy định trách nhiệm pháp
lý của pháp nhân thực hiện hành vi tham nhũng như sau:“Điều 10: Trách
nhiệm pháp lý của pháp nhân: 1. Mỗi Quốc gia thành viên sẽ ban hành những
biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc pháp lý của họ, để xác định
trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc tham gia các tội phạm nghiêm
trọng liên quan đến nhóm tội phạm có tổ chức và trong việc thực hiện những
hành vi phạm tội được xác định tại điều 5, 6, 8 và 23 của Công ước này.2. Tuỳ
theo những nguyên tắc pháp lý của Quốc gia thành viên, trách nhiệm pháp lý
của pháp nhân có thể là hình sự, dân sự hay hành chính.3. Trách nhiệm pháp
lý này không ảnh hưởng đến TNHS của các cá nhân thực hiện các hành vi
phạm tội.4. Cụ thể, mỗi Quốc gia thành viên sẽ đảm bảo rằng các pháp nhân
chịu trách nhiệm pháp lý theo điều này phải chịu các hình phạt hình sự hay
phi hình sự có tính hiệu quả, tương xứng và có tác dụng ngăn ngừa, bao gồm
cả những hình phạt bằng tiền”.
Theo đánh giá sơ bộ, về cơ bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa
đáp ứng được yêu cầu của công ước. Công ước chỉ quy định những vấn đề
chung nhất về tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Trong khi đó ở mỗi quốc
gia với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau, tội phạm có tổ chức ngoài
những nét chung còn có những đặc thù riêng, tội phạm có tổ chức gây ảnh
hưởng tới từng quốc gia cũng khác nhau. Vì vậy, việc tổ chức nghiên cứu, các
quy định trong phòng chống tội phạm có tổ chức phải căn cứ vào đặc điểm
riêng cũng như quy mô tổ chức, thủ đoạn hoạt động, tính chất nguy hiểm của
loại tội phạm tội phạm này ở mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, trong những
năm gần đây, thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh tế nước ta đã từng bước
ổn định và không ngừng phát triển. Các lĩnh vực hành chính, văn hoá… đã
từng bước được cải cách, đổi mới, đời sống xã hội không ngừng được cải
thiện, thu nhập và đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên. Bên cạnh
những thành tựu to lớn đã đạt được thì mặt trái của nền kinh tế thị trường
cũng ngày càng bộc lộ và tác động không nhỏ tới đời sống xã hội, làm cho
tình hình an ninh, chính trị có những diễn biến phức tạp. Tình hình tội phạm
có nhiều diễn biến phức tạp, sự xuất hiện của loại tội phạm có tổ chức với
phương thức, thủ đoạn hoạt động mới, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới trật
tự, kỷ cương xã hội, đến tư tưởng và niềm tin của quần chúng nhân dân với
đường lối chính sách của Đảng. Tội phạm có tổ chức đang có chiều hướng gia
tăng, có những dấu hiệu chuyển hoá từ những vấn đề tội phạm hình sự, kinh
tế thông thường ảnh hưởng đến an ninh chính trị. Chính vì vậy kiến nghị được
đưa ra là cần xây dựng các quy định về TNHS của pháp nhân đối với các tội
phạm tham nhũng. Việt Nam cần coi đây là nội dung ưu tiên để tránh vấn đề
miễn trừ đối với pháp nhân tham gia tội phạm tham nhũng.
1.2. Những đòi hỏi của việc hội nhập quốc tế theo kinh nghiệm lập
pháp của một số quốc gia trên thế giới
1.2.1. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về
chức vụ trong Luật hình sự Anh
Trước cách mạng Pháp năm 1789, TNHS của pháp nhân đã được thừa
nhận và lan tỏa khắp châu Âu, sau đó, do các nước xác lập nguyên tắc lỗi và
cá thể hóa hình phạt trong luật hình sự nên dẫn tới hệ quả không chỉ xóa bỏ
nguyên tắc TNHS đối với hành vi của người khác mà còn xóa bỏ cả nguyên
tắc TNHS của pháp nhân. Tuy nhiên, ngay giữa thế kỷ XIX, các Tòa án Anh
xuất phát từ chính sách hình sự mềm dẻo và những lý do khá thực dụng đã tái
thiết lập TNHS của pháp nhân. Và kể từ sau cách mạng Pháp năm 1789, Anh
là nước đầu tiên xác lập chế định TNHS của pháp nhân trong luật hình sự trên
cơ sở các án lệ của tòa án, sau đó TNHS của pháp nhân lan tỏa ra toàn bộ các
nước theo truyền thống Common Law như Hoa Kỳ, Canada, ôxtrâylia, Niu
Dilân…
Tại nước Anh, vào giữa thế kỷ XIX các công ty, tập đoàn kinh tế lớn đã
được thành lập và phát triển cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Vai
trò của các tổ chức này ngày càng lớn mạnh và nó đã khống chế các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội. Chủ nghĩa tư bản độc quyền hình thành, những
khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường bộc lộ sâu sắc. Lợi nhuận đã khiến
các tổ chức kinh tế nói trên đưa ra những quyết định và thực hiện nhiều vụ án
lớn mà hậu quả của nó là hàng loạt các quan hệ xã hội quan trọng bị xâm
phạm, các lợi ích căn bản của xã hội và của người tiêu dùng bị chà đạp trong
khi việc áp dụng các chế tài hành chính, dân sự đã không đủ sức ngăn chặn.
Bởi vậy, xuất phát từ chính sách hình sự và những lý do khá thực dụng, các
tòa án Common Law của Anh đã áp dụng chế định TNHS của pháp nhân. [18.
Tr. 156, 157]
Trong thực tiễn xét xử của Tòa án Anh thì pháp nhân có thể bị truy cứu
TNHS về hầu hết các tội phạm được quy định trong “Common Law” và luật
thành văn, chỉ trừ một số tội nghiêm trọng bị trừng trị bởi hình phạt tù hoặc
hình phạt tử hình và không phải là hình phạt tiền; một số tội khác do bản chất
của nó nên pháp nhân không thể thực hiện được như tội vi phạm chế độ một
vợ một chồng; tội cưỡng dâm…Vương quốc Anh cũng thừa nhận TNHS của
pháp nhân bên cạnh việc truy cứu TNHS đối với thể nhân phạm tội hối lộ
theo những nguyên tắc được xác lập trong luật án lệ. [29, tr. 67]
Nghiên cứu pháp luật của Anh cho thấy thực thể có tư cách pháp nhân
phạm tội hối lộ trong luật hình sự Anh có thể là những thực thể tổ chức hoặc
thực thể cá thể có tư cách pháp nhân nhưng cũng có thể là các nhóm, hội, hiệp
hội…không có tư cách pháp nhân. Thực thể cá thể chỉ có một thành viên và
những người kế thừa thành viên đó. Thực thể tổ chức liên kết là các công ty
đăng ký theo luật công ty năm 1895, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn cổ
phần; công ty bảo chứng; công ty trách nhiệm vô hạn. Hầu hết các công ty
này là theo hình thức hợp nhất và vì thế có tư cách pháp nhân khác với tư
cách pháp nhân của các thành viên công ty. Một công ty có thể được thành lập
theo hai hình thức công ty tư nhân hoặc công ty công. Theo luật hình sự Anh,
tất cả các công ty nêu trên đều có thể là chủ thể của tội phạm hối lộ và phải
chịu TNHS. Với luật giải thích các đạo luật năm 1978 của Anh, mà theo đó,
khái niệm cá thể bao gồm cả tổng thể những cá nhân liên kết với nhau mặc dù
những nhóm, hội hoặc hiệp hội đó trong thực tế không có tư cách pháp nhân,
tức là nó không có khả năng hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ pháp
lý nhất định. Những nhóm, hiệp hội này theo luật hình sự Anh vẫn có thể coi
là chủ thể của TNHS nếu phạm tội hối lộ.
Để quy kết tội phạm cho pháp nhân nói chung và tội phạm hối lộ cho
pháp nhân nói riêng, các Tòa án Anh đã vận dụng nguyên tắc đồng nhất hóa.
Theo nguyên tắc này, các pháp nhân phải chịu TNHS về những hành vi phạm
tội được thực hiện bởi những người có vị trị lãnh đạo trong pháp nhân, vì lợi
ích hoặc trong khuôn khổ các hoạt động của pháp nhân đó. Hay nói cách
khác, hành vi của pháp nhân bị coi là tội phạm, nếu nó được thực hiện thông
qua người có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc pháp nhân thực hiện các
quyền của họ như thế nào và chính người này có các hoạt động để thực hiện
các quyền ấy. Điều này được lý giải ở chỗ: ý chí cũng như những dự định của
cơ quan điều hành, hội đồng quản trị, ban giám đốc hoặc của giám đốc, cũng
chính là những người kiểm tra hoạt động của pháp nhân, nên pháp nhân phải
chịu trách nhiệm trực tiếp về hành vi của những người này. Cũng cần nhấn
mạnh là pháp nhân chỉ chịu TNHS về hành vi phạm tội của những người này
nếu họ hành động hoặc không hành động trong khuôn khổ các quyền hạn
hoặc chức năng của mình và vì lợi ích của pháp nhân. Và tất nhiên, trong
trường hợp này, cá nhân trực tiếp thực hiện tội phạm cũng phải chịu TNHS
đồng thời với pháp nhân về cùng một loại tội phạm. Pháp nhân sẽ không phải
chịu TNHS nếu cá nhân đó đã hành động hoặc không hành động phạm tội gây
thiệt hại cho pháp nhân.
Về hình phạt, do sự phát triển của hình phạt tiền, nên pháp luật hình sự
Anh chỉ quy định phạt tiền là hình phạt duy nhất được áp dụng đối với pháp
nhân phạm tội hối lộ. Luật hình sự Anh cũng không quy định căn cứ quyết
định hình phạt cũng như mức phạt tiền cụ thể cho từng tội phạm do tòa án
xem xét quyết định trong các trường hợp cụ thể; nhưng thông thường, trong
những trường hợp tổ chức và thể nhân cùng phải chịu TNHS, thì mức phạt
đối với tổ chức cao hơn đối với thể nhân.
1.3.2. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về
chức vụ trong Luật hình sự Pháp
Nếu như ở các nước theo truyền thống Common Law thì chế định
TNHS của pháp nhân được áp dụng từ giữa thế kỷ XIX thì ở các nước Châu
Âu lục địa đến cuối thế kỷ XX mới thiết lập chế định này trong luật thực định.
Một trong các nước đó là nước Cộng hòa Pháp. TNHS của pháp nhân đã được
thừa nhận ở Pháp trong dụ của vua I’ordonnance de Colbert năm 1960 và tiếp
theo được mở rộng ra các nước khác. Sau cách mạng Pháp năm 1789, dưới
ảnh hưởng của trường phái khai sáng – nhân văn và phong trào cải cách luật
hình sự cùng với sự ghi nhận nguyên tắc lỗi và nguyên tắc cá thể hóa hình
phạt dẫn đến không chỉ xóa bỏ nguyên tắc TNHS đối với hành vi của người
khác mà còn không chấp nhận cả nguyên tắc TNHS của pháp nhân trong luật
hình sự. Sang thế kỷ XVIII – XIX, cùng với cuộc cách mạng công nghiệp và
sự phát triển kinh tế nhanh chóng ở châu Âu, châu Mỹ, các công ty thương
mại đầu tiên xuất hiện ở một số thành phố của các nước châu Âu, nơi có điều
kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán, sau đó các công ty cổ phần cũng đã
xuất hiện hàng loạt để đáp ứng nhu cầu cần tập trung nguồn vốn của các nhà
đầu tư. Trong khoảng 100 năm trở lại đây, các công ty, tập đoàn, tổ chức kinh
tế khác nhau ngày càng khằng định vị trí của mình trong đời sống kinh tế.
TNHS của pháp nhân chính thức được quy định một cách có hệ thống đồng
bộ trong BLHS 1994 của Pháp. [18, tr. 58]
Liên quan đến các tội phạm mà pháp nhân phải chịu TNHS thì BLHS
Pháp năm 1994 đã liệt kê cụ thể các tội phạm mà pháp nhân có thể thực hiện
trong phần các tội phạm của BLHS hoặc trong các Nghị định hoặc các luật
riêng biệt (điều 112-2 khoản 2 BLHS Pháp năm 1994). Quy định này đòi hỏi
khi quy kết TNHS đối với pháp nhân, Tòa án Pháp cần phải nghiên cứu các
luật hoặc các nghị định chuyên biệt có quy định TNHS của pháp nhân hay
không. Điều này đã hạn chế phạm vi áp dụng TNHS đối với nhiều pháp nhân
bên đã bị nhiều nhà khoa học luật hình sự phê phán gay gắt và thực tế xét xử
của tòa án sau 10 năm áp dụng quy định này cũng đã chỉ ra sự bất hợp lý của
nó. Vì vậy khoản 2 Điều 121-2 BLHS đã được xóa bỏ bởi Điều 54 luật ngày
9/2/2004. Điều đó có nghĩa là TNHS của pháp nhân được áp dụng hầu như
mọi tội phạm do pháp nhân thực hiện.
Điều 433-25 BLHS Pháp năm 1994 quy định TNHS của pháp nhân
phạm tội đưa hối lộ. Theo đó pháp nhân sẽ phải chịu TNHS về hành vi đưa
hối lộ được thực hiện bởi người đại diện hợp của pháp nhân vì lợi ích của
pháp nhân. Điều 121-2 còn nhấn mạnh TNHS của pháp nhân không loại trừ
TNHS của bất kì cá nhân nào là người thực hiện tội phạm hoặc đồng phạm về
cùng một hành vi.
Chủ thể của TNHS của pháp nhân phạm tội đưa hối lộ rất rộng. Nó bao
gồm cả các tổ chức theo luật tư và cả các tổ chức theo luật công. Các pháp
nhân theo luật tư là những pháp nhân được thành lập theo quy định của luật tư
(chủ yếu là luật dân sự hoặc luật thương mại) nhằm mục đích kinh doanh sinh
lời hoặc phục vụ lợi ích khác không nhằm thực thi quyền lực công, như: các
hiệp hội đã đăng ký hợp lệ, các giáo đoàn, các công đoàn, các đảng phái và
các nhóm chính trị…Các pháp nhân theo luật công là những pháp nhân được
nhà nước thành lập nhằm thực hiện các hoạt động phục vụ lợi ích chung cho
xã hội. Hoạt động của các tổ chức này thuộc sự chi phối của luật công (chủ
yếu là luật hành chính). Tuy nhiên luật hình sự Pháp cũng quy định nhà nước
và các tập thể lãnh thổ, các tổ chức của nó không phải chịu TNHS. Các pháp
nhân này khi là chủ thể TNHS của tội đưa hối lộ sẽ phải có tư cách pháp
nhân.
Về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân phạm tội đưa hối lộ thì theo
quy định tại Điều 432-11 và Điều 433-1 BLHS Pháp 1994 khi pháp nhân
phạm tội đưa hối lộ sẽ bị phạt tiền 150000 euro. Bên cạnh hình phạt tiền,
BLHS Pháp còn quy định một số hình phạt bổ sung áp dụng đối với pháp
nhân phạm tội đưa hối lộ như tịch thu tài sản, bồi thường thiệt hại…
1.3.3. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về
chức vụ trong Luật hình sự Trung Quốc
Trong lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Trung Quốc kể từ khi
được thành lập đều không thừa nhận TNHS của pháp nhân. Sau hơn 20 năm
cải cách, kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, tình hình tội phạm do các
thực thể kinh tế diễn ra ngày càng nhiều và diễn biến vô cùng phức tạp. Để
tăng cường hiệu quả trong phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tội phạm
thì BLHS Trung Quốc năm 1997 đã chính thức thiết lập chế định TNHS của
pháp nhân với tư cách là một nguyên tắc chung của pháp luật hình sự.
Điều 31 BLHS Trung Quốc hiện hành quy định rõ ràng là các công ty,
xí nghiệp, đơn vị sự nghiệp, cơ quan, đoàn thể chỉ chịu TNHS về những tội
phạm mà phần riêng của BLHS hoặc trong các đạo luật chuyên ngành có quy
định dạng TNHS này. Như vậy, BLHS Trung Quốc chấp nhận một hệ thống
liệt kê cụ thể các tội phạm mà các thực thể trên có thể trên có thể thực hiện
trong Phần riêng BLHS mới hoặc trong các đạo luật chuyên biệt.
Cùng với công cuộc cải cách kinh tế đang ngày càng đi vào chiều sâu,
đấu tranh chống tham nhũngở Trung Quốc cũng ngày càng quyết liệt. Pháp
luật hình sự chống tham nhũng của Trung Quốc không ngừng phát triển, hoàn
thiện và đã có những tác động tích cực, cũng như thể hiện được những bản
sắc riêng trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước này. Điều 387
BLHS Trung Quốc quy định TNHS của pháp nhân phạm tội nhận hối lộ: “Cơ
quan nhà nước, công ty, xí nghiệp quốc doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp,
đoàn thể nhân dân đòi tiền hoặc nhận tiền một cách phi pháp của người khác
để làm lợi cho họ, có tình tiết nghiêm trọng, thì sẽ bị phạt tiền; đối với những
người phụ trách trực tiếp và những nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác,
sẽ bị xử phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động. Các đơn vị được nên trên
đây, trong trao đổi kinh tế, nhận tiền hoa hồng, phí thủ tục nằm ngoài sổ sách
dưới bất kỳ danh nghĩa nào đều bị coi là tội nhận hối lộ và sẽ bị xử phạt theo
quy định trên”. Hay như Điều 396 BLHS Trung Quốc quy định TNHS của
pháp nhân phạm tội tham ô tài sản: “Cơ quan nhà nước, công ty, xí nghiệp
quốc doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp, đoàn thể nhân dân vi phạm quy
định của Nhà nước, tập thể tự ý lấy danh nghĩa đơn vị đem tài sản nhà nước
để phân chia các cá nhân, với số lượng tương đối lớn, thì người phụ trách trực
tiếp và những người chịu trách nhiệm trực tiếp khác sẽ bị phạt tù đến 3 năm
hoặc cải tạo lao động, kèm phạt tiền hoặc chỉ bị phạt tiền. Nếu số lượng lớn sẽ
bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm và bị phạt tiền. Cơ quan tư pháp, cơ quan hành
chính vi phạm quy định của Nhà nước, không nộp tài sản tịch thu được cho
Nhà nước mà lấy danh nghĩa là đơn vị chia cho các cá nhân, sẽ bị xử phạt
theo quy định trên”.
Pháp nhân là chủ thể của tội phạm nhận hối lộ trên là cơ quan nhà
nước, công ty, xí nghiệp quốc doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp, đoàn thể
nhân dân. Cơ quan nhà nước là chỉ các tổ chức thực hiện chức năng lãnh đạo,
quản lý và bảo vệ an toàn quốc gia của Nhà nước như cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp và cơ quan quân sự. Công ty là tổ chức kinh
tế tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh vì mục đích doanh lợi, bao
gồm cả công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế xã hội mang tính doanh lợi với nội dung hoạt
động là sản xuất, lưu thông, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhằm
mục đích thu lợi, tăng thêm tích lũy, làm giàu cho xã hội. Công ty cũng là một
loại hình doanh nghiệp nhưng các doanh nghiệp nói ở đây chỉ là các doanh
nghiệp ngoài các công ty đã nêu. Đoàn thể chỉ là các tổ chức mang tính quần
chúng như công đoàn, đoàn thanh niên, hội liên hiệp phụ nữ, hiệp hội, hội
khoa học…Như vậy, với các quy định của Điều luật về tội phạm chức vụ trên,
cho thấy chủ thể chịu TNHS là rất rộng, nó bao gồm các pháp nhân theo luật
tư và các pháp nhân theo luật công và chủ thể chịu TNHS của pháp nhân bao
gồm các thực thể có tư cách pháp nhân và các thực thể không có tư cách pháp
nhân.
Về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân phạm các tội về chức vụ thì
BLHS Trung Quốc chỉ quy định hình phạt tiền là hình phạt duy nhất được áp
dụng đối với pháp nhân.
Do đặc điểm chính trị, kinh tế -xã hội của Trung Quốc có phần giống
với Việt Nam, hơn nữa cũng là nước đang trong quá trình chuyển đổi, nên
việc nghiên cứu những kinh nghiệm của nước này về việc nghiên cứu để có
thể xây dựng và áp dụng TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm về chức
vụ trong tương lai là việc làm nên được xúc tiến để nếu có thể thì tiếp thu có
chọn lọc nhằm bổ sung, hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam.
2.3. Những đòi hỏi từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về
chức vụ ở nƣớc ta hiện nay
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (10)

TS. BÙI QUANG XUÂN BÀI GIẢNG LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TS. BÙI QUANG XUÂN          BÀI GIẢNG LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNGTS. BÙI QUANG XUÂN          BÀI GIẢNG LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TS. BÙI QUANG XUÂN BÀI GIẢNG LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Quận 7, TPHCM
Luận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Quận 7, TPHCMLuận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Quận 7, TPHCM
Luận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Quận 7, TPHCM
 
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp luận văn ...
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp  luận văn ...Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp  luận văn ...
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp luận văn ...
 
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Bắc Ninh
 
Luận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOT
Luận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOTLuận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOT
Luận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOT
 

Similar to Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT

Similar to Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT (20)

Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tếLuận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm
Luận văn: Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạmLuận văn: Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm
Luận văn: Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng, chống tội phạm
 
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHSLuận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
 
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa ánPháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân tại Tp Đà Nẵng, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân tại Tp Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOTLuận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAYLuận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYĐề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ, 9 ĐIỂMBÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đLuận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
levanthu03031984
 
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnhC.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
BookoTime
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 

Recently uploaded (20)

TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnhC.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy PhươngLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng HàLuận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 

Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT

  • 1. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt BïI LAN ANH H×NH Sù HãA TR¸CH NHIÖM CñA PH¸P NH¢N §èi víi c¸c téi ph¹m vÒ chøc vô trong luËt h×nh sù viÖt nam luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2015
  • 2. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt bïi lan anh H×nh sù hãa tr¸ch nhiÖm cña ph¸p nh©n ®èi víi c¸c téi ph¹m vÒ chøc vô trong luËt h×nh sù viÖt nam Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù vµ tè tông h×nh sù M· sè : 60 38 01 04 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. §µo LÖ Thu Hµ néi - 2015
  • 3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết Bộ luật hình sự(BLHS) là một đạo luật lớn, quan trọng, có tính đặc thù trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Sau 15 năm thi hành, BLHS năm 1999 đã có những đóng góp quan trọng, thể hiện khá toàn diện chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, trước yêu cầu thượng tôn pháp luật, đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhất là để phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013 thì việc phải sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 là rất cần thiết. Năm định hướng lớn trong sửa đổi BLHS lần này là thể chế hóa chủ trương của Đảng về hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân; thể chế hóa về mặt hình sự chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy sự phát triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường hợp tác quốc tế; hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự; đổi mới tư duy về tội phạm và hình phạt, về cơ sở trách nhiệm hình sự (TNHS), khắc phục những hạn chế trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Trong đó, đáng chú ý là sẽ sửa đổi theo hướng hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân. TNHS của pháp nhân không phải là vấn đề mới mà đây là vấn đề đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự quốc gia cũng như các văn bản pháp luật quốc tế. Xét ở góc độ pháp luật quốc gia, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được quy định trong pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới, như Anh,
  • 4. Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha và gần đây, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu như Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia, Croatia, v.v.... Trong khu vực Châu Á, một số quốc gia cũng đã ghi nhận TNHS của pháp nhân như Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Trung Quốc… Dưới góc độ pháp luật quốc tế, TNHS pháp nhân đã được khẳng định và nhấn mạnh trong nhiều Công ước của Liên Hợp quốcnhư Công ước về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố, Công ước quốc về chống tham nhũng, Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia… Ở Việt Nam, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được đưa ra thảo luận và nghiên cứu chính thức trong quá trình xây dựng BLHS năm 1999. Tuy nhiên, tại thời điểm này, vấn đề TNHS của pháp nhân chưa được nghiên cứu sâu về mặt lý luận và thực tiễn, do vậy, vấn đề này vẫn tiếp tục được nghiên cứu. Năm 2009, khi sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, vấn đề TNHS của pháp nhân một lần nữa được đưa ra nghiên cứu, thảo luận để quy định bổ sung vào BLHS. Nhưng do đây là lần sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung một số vấn đề thật sự cấp bách nhất, bức xúc nhất của thực tiễn tại thời điểm đó để tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạmnên vấn đề TNHS của pháp nhân được thống nhất để lại tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng cả về mặt lý luận và thực tiễn cho lần sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện BLHS. Đến thời điểm hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đã đến lúc cần bổ sung chế định TNHS của pháp nhân để xử lý đối với các trường hợp tổ chức kinh tế (pháp nhân) vì chạy theo lợi ích cục bộ, đã thực hiện nhiều hành vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, gây hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội, cho nền kinh tế nhưng chỉ xử lý hình sự đối với cá nhân mà trong nhiều trường hợp việc xác định trách nhiệm
  • 5. cá nhân là rất khó khăn. Trong khi đó, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp chỉ bị xử lý bằng các chế tài hành chính, kinh tế, dân sự, không đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa. Vì vậy, cần nghiên cứu khả năng bổ sung quy định TNHS của pháp nhân vào BLHS. Trong những năm gần đây ở nước ta thì các tội phạm về chức vụ cũng có những diễn biến phức tạp. Để khắc phục và đẩy lùi tình trạng tham nhũng đang diễn ra trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, các cán bộ, công chức và mỗi công dân về công tác phòng, chống tham nhũng; để đấu tranh chống những biểu biện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức cũng như những hành vi tiếp tay cho tiêu cực là điều kiện tiên quyết để duy trì sự trong sạch, vững mạnh của bộ máy nhà nước; để đảm bảo hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, Nhà nước Việt Nam thì việc bổ sung quy định TNHS của pháp nhân đối với một số loại tội trong đó có các tội phạm về chức vụ là cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn các pháp nhân ngày càng thực hiện những hành vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm và vì vấn đề TNHS của pháp nhân là một vấn đề không mới và đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề này trên nhiều bình diện chung nên tác giả luận văn quyết định lựa chọn nghiên cứu vấn đề đối với một nhóm tội phạm cụ thể. Và đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu là: “Hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu Có thể nói việc nghiên cứu vấn đề TNHS của pháp nhân trong thời gian gần đây đã được các tác giả đặc biệt quan tâm. Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học, các bài viết đề cập và nghiên cứu đến vấn đề TNHS của pháp nhân.
  • 6. Năm 2011, Tiến sỹ Cao Thị Oanh đã chủ nhiệm công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ với đề tài “Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng TNHS đối với tổ chức” (Viện khoa học pháp lý); trong công trình nghiên cứu này có một số bài viết của các tác giả như: “Quy định về TNHS của tổ chức ở Trung Quốc” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà; “TNHS của pháp nhân tại Mỹ” của tác giả Nguyễn Khắc Hải; “Cơ sở thực tiễn của việc thiết lập chế định TNHS đơn vị pháp nhân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn; “TNHS của pháp nhân trong luật hình sự một số nước theo truyền thống Common Law”; “TNHS của pháp nhân theo luật hình sự một số nước theo truyền thống châu Âu lục địa” của tác giả Trịnh Quốc Toản… Một số bài viết về vấn đề TNHS của pháp nhân được đăng trên các báo, tạp chí như bài viết: “TNHS của pháp nhân theo pháp luật hình sự một số nước trên thế giới và lựa chọn cho Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tất Thành trên tạp chí Tòa án nhân dân số 9/2013; “TNHS của pháp nhân theo luật hình sự một số nước trên thế giới và sự cần thiết phải quy định TNHS pháp nhân trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Lực trên tạp chí Khoa học pháp lý; “TNHS của pháp nhân và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam tương lai” của tác giả Trịnh Quốc Toản trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2006; “Vấn đề TNHS của pháp nhân”của tác giả Nguyễn Quý Công trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2010, “Đề xuất, kiến nghị, sửa đổi, bổ sung một số quy định tại phần chung của BLHS” của tác giả Dương Văn Thắng trên tạp chí Kiểm sát số 16/2014… Ngoài ra còn có một số cuốn sách tham khảo cũng nghiên cứu vấn đề này như cuốn:”TNHS của pháp nhân trong Pháp luật hình sự” của tác giả Trịnh Quốc Toản - nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật; “chuyên đề về Luật hình sự (kỷ yếu hội thảo khoa học do nhà pháp luật Việt – Pháp phối hợp
  • 7. với vụ pháp luật hình sự - hành chính, tổ chức từ ngày 5-7 tháng 10 năm 1995 tại Hà Nội)” – Bộ tư pháp, viện nghiên cứu khoa học pháp lý; “Báo cáo đánh giá quốc gia của Việt Nam (2012), “Đánh giá thực hiện Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng của Việt Nam trong chu trình đánh giá 2011 – 2012 đối với các Điều từ 15-42, chương III “Hình sự hóa và thực thi pháp luật” và các Điều từ 44-50, chương IV “Hợp tác quốc tế” do Li-băng và Italia thực hiện”” – nhà xuất bản Lao động xã hội (2012); Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hải Anh với đề tài “TNHS của pháp nhân – những vẫn đề lý luận và thực tiễn” (2010)… Những công trình nghiên cứu khoa học, những bài viết nói trên đã giới thiệu được các quy định về TNHS pháp nhân ở một số nước, phân tích, so sánh các quy định về TNHS của pháp nhân trong pháp luật hình sự một số nước đại diện cho các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới để từ đó đưa ra những quan điểm về việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân tại Việt Nam. Tuy nhiên mỗi công trình chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định nhưng chủ yếu là nghiên cứu vấn đề lý luận TNHS của pháp nhân mà chưa có một công trình nghiên cứu nào tập trung phân tích và chỉ ra sự cần thiết phải quy định TNHS của pháp nhân đối với nhóm tội phạm cụ thể. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra những ý kiến đề xuất để hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về các tội phạm chức vụ, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Với mục đích nêu trên, đề tài nghiên cứu sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất: Đưa ra các quan điểm, cơ sở quy định TNHS của pháp nhân; những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của các tội phạm về chức vụ để từ đó
  • 8. chỉ ra sự cần thiết việc hình sự hóa TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ. Thứ hai: Trình bày nội dung của một số công ước quốc tế mà Việt Nam là quốc gia thành viên và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới có quy định vấn đề TNHS của pháp nhân nói chung và TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm tham nhũng nói riêng để từ đó tổng kết kinh nghiệm cho quá trình lập pháp của Việt Nam. Cuối cùng:Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của luật cũng như những vướng mắc trong quá trình áp dụng luật hình sự Việt Nam đồng thời nghiên cứu lý luận TNHS của pháp nhân, kinh nghiệm lập pháp và kinh nghiệm áp dụng luật hình sự về vấn đề TNHS của pháp nhân đối với các tội về chức vụ của một số quốc gia trên thế giới đưa ra một số kiến nghị cụ thể về TNHS của pháp nhân đối với tội phạm về chức vụ trong luật hình sự Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học và những quy định của luật hình sự Việt Nam, các quy định của luật hình sự một số nước trên thế giới về vấn đề TNHS của pháp nhân đối các tội đưa hối hộ và nhận hối lộ, các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc phê chuẩn có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Hiện nay vấn đề liên quan đến TNHS của pháp nhân nói chung và TNHS của pháp nhân đối với các tội đưa hối lộ và nhận hối lộ nói riêng đang được quan tâm. Tuy nhiên tác giả chỉ thực hiện luận văn trong phạm vi những vấn đề được nhìn nhận từ góc độ luật hình sự. Đề tài được tiếp cận và được thực hiện dưới góc độ luật hình sự và so sánh luật, chủ yếu trên cơ sở những quy định hiện hành của luật hình sự Việt Nam và một số công ước quốc tế cũng như luật pháp của một số quốc gia có quy định vấn đề TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm đưa hối lộ và nhận hối lộ.
  • 9. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về vấn đề nâng cao chất lượng THQCT trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học điều tra hình sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm ba chương: - Chương 1:Những vấn đề về TNHS của pháp nhân và cáctội phạm về chức vụtrong Luật hình sự Việt Nam. - Chương 2:Những đòi hỏi của việc quy địnhTNHS của pháp nhân đối với các tội phạm chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam. - Chương 3: Kiến nghị hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam.
  • 10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰCỦA PHÁP NHÂN VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀVỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN 1.1.1. Các quan điểm về trách nhiệm hình sự của pháp nhân TNHS của pháp nhân là một vấn đề không mới trong khoa học pháp lý hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm pháp lý của pháp nhân mới chỉ được quy định trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, hành chính. Trong lĩnh vực hình sự, trách nhiệm của pháp nhân vẫn chưa được quy định. Từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, khoa học hình sự nước ta mới đưa ra những luận chứng chủ yếu cho sự điều chỉnh về mặt luật pháp chế định TNHS của pháp nhân. Tuy chỉ có một số tác giả nghiên cứu về vấn đề này song đã xuất hiện những quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này mà tựu chung lại là hai luồng quan điểm cơ bản. Đó là quan điểm ủng hộ việc thiết lập chế định TNHS nhiệm hình sự của pháp nhân và quan điểm phản đối việc thiết lập chế định này. Tất cả đều đưa ra những lập luận và lý lẽ riêng để chứng minh và bảo vệ quan điểm của mình. Quan điểm cho rằng chủ thể của tội phạm chỉ có thể là thể nhân chiếm ưu thế và tồn tại trong một thời gian dài. Những nhà hình sự học theo quan điểm này cho rằng việc thiết lập TNHS của pháp nhân đã vi phạm một nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự là nguyên tắc lỗi. Theo cách hiểu truyền thống từ trước đến nay, lỗi được hiểu là thái độ tâm lý của người đó đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị Luật hình sự cấm và thái độ đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Do đó lỗi trong pháp luật hình sự về cơ bản chỉ có ở cá nhân người phạm tội. Ngay cả trong trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng
  • 11. phạm thì mỗi người tham gia với một vai trò khác nhau, họ có thể là người tổ chức, người giúp sức, người thực hành, người xúi giục nên tính chất, mức độ tham gia của mỗi người là khác nhau vì vậy lỗi của họ là khác nhau. Lỗi trong trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng phạm chỉ đặt ra đối với mỗi người phạm tội chứ không thể quy lỗi chung đối với nhóm đồng phạm đó[1, tr.7]. Không thể có lỗi của tập thể con người mặc dù có thể tập thể con người đó có những quan điểm chung về một số vấn đề như trường hợp đồng phạm hay đồng phạm có tổ chức[8, tr. 26]. Còn pháp nhân là do con người lập ra và hoạt động của nó chỉ có thể được thực hiện thông qua những con người cụ thể nên nó không thể và không bao giờ có lỗi. Pháp nhân chỉ là một thực thể giả tưởng của pháp luật, nó chỉ là cấu trúc pháp lý được thiết lập nhằm phục vụ các lợi ích cá nhân của những thành viên pháp nhân. Các nghị quyết, các quyết định của pháp nhân chỉ là kết quả của con số cộng các ý chí cá nhân của các thành viên pháp nhân chứ không phải tự sự mong muốn của chính pháp nhân đó [30, tr. 52].Do vậy không có lỗi nào có thể quy kết cho pháp nhân và theo logic của sự vật và phép biện chứng của triết học - không có lỗi hình sự thì không có TNHS. Trái lại những quan điểm của những nhà hình sự học theo học thuyết truyền thống phản đối việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân, nhưng người ủng hộ thiết lập chế định TNHS của pháp nhân đã đưa ra lập luận phản bác lại những quan điểm trên. Họ cho rằng pháp nhân không phải là một trìu tượng pháp lý thuần túy mà nó có những đặc tính không đổi được thừa nhận chung, nó có sự tồn tại thực tế trong mối quan hệ với các thành viên của pháp nhân và tổ chức trên thực tế. Ý chí của pháp nhân hoàn toàn độc lập với ý chí của các thành viên trong pháp nhân. Trong điều lệ cũng như trong các văn bản của pháp nhân luôn có các quy định về tổ chức, về hoạt động của pháp nhân và pháp nhân có thể tự do tìm kiếm lợi ích riêng của bản thân độc lập với lợi ích cá nhân tạo lên nó [30, tr. 54]. Pháp nhân bao gồm các cá nhân
  • 12. được hình thành bởi những lợi ích tập trung và được tổ chức thông qua các cấu trúc pháp lý xác định. Trong mỗi pháp nhân, những định hướng chủ đạo thể hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn toàn giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên pháp nhân mà pháp nhân hoàn toàn có ý chí riêng của mình, có mong muốn riêng của mình, được xử sự tự do và hưởng các quyền tự chủ của chủ thể và vì vậy, nó cũng có điều kiện để có lỗi khi thực hiện tội phạm. Pháp nhân có thể được so sánh với con người. Denning LJ, một thẩm phán nổi tiếng người Anh trong một phiên tòa xét xử tranh chấp giữa hai công ty tại Anh năm 1957 đã có một nhận định mà sau này thường được dẫn chứng để nói về tư cách pháp nhân: “Một công ty dưới góc độ nào đó giống như cơ thể con người. Nó có bộ não, có hệ thần kinh trung ương kiểm tra những gì nó làm. Nó cũng có tay để cầm công cụ và hành động theo mệnh lệnh của hệ thần kinh trung ương” [40, tr. 2]. Nếu lỗi của thể nhân là sự tự do ý chí của chủ thể, tự do lựa chọn hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho quan hệ xã hội trong khi có tự do và khả năng lựa chọn hành vi của mình thì pháp nhân cũng vậy, nó cũng có tự do khi lựa chọn hành vi của nó. Do đó những người theo quan điểm ủng hộ TNHS của pháp nhân khẳng định lại việc quy kết TNHS của pháp nhân là trên cơ sở lỗi chứ không phải quy tội khách quan. Những người theo học thuyết truyền thống chống lại TNHS của pháp nhân ngoài việc đưa ra quan điểm việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân vi phạm nguyên tắc lỗi trong luật hình sự thì theo họ, nó còn vi phạm một nguyên tắc nữa của luật hình sự đó là nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi khi tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội thì trong từng vụ án cụ thể phải căn cứ vào hành vi, sự tham gia cụ thể của họ vào tội phạm bị truy cứu, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, các yếu tố nhân thân của người phạm tội để đưa ra một bản án phù
  • 13. hợp đối với từng người phạm tội. Mỗi người phạm tội sẽ có hình phạt thỏa đáng. Trong khi một tội phạm được thực hiện trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân, thì hoặc là toàn bộ các thành viên của pháp nhân đã phạm tội cần phải bị trừng trị có sự phân biệt và tương xứng với lỗi của từng người hoặc là chỉ trừng trị một hoặc một số người trong pháp nhân đã liên hiệp hành động phạm tội. Sẽ là đúng, công bằng nếu trừng trị những người đó; sẽ là không công bằng nếu lại trừng trị tất cả những thành viên khác trong pháp nhân chỉ vì lý do họ thuộc về một tập thể hoặc là họ phụ thuộc vào nó [18, tr. 12]. Như vậy, rõ ràng trong cả hai trường hợp đều không có nhu cầu trừng trị vào pháp nhân. Theo Thomas Hobbes, cái giá thực sự khi áp dụng TNHS, xét đến cùng, chính các pháp nhân không phải chịu mà là những cá nhân cụ thể trong pháp nhân như người góp cổ phần, cổ đông, người lao động… phải chịu. Như vậy chế định TNHS của pháp nhân không thể chấp nhận được về phương diện pháp lý cũng như đạo đức [30, tr. 53] Về quan điểm cho rằng việc quy kết TNHS và áp dụng hình phạt với pháp nhân sẽ không công bằng và gây hại cho nguyên tắc cá thể hóa hình phạt thì theo quan điểm của hình sự học hiện đại, những người ủng hộ việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân lý giả rằng: Chế tài hình sự buộc phải áp dụng trực tiếp và chỉ đối với chính bản thân chủ thể phạm tội, tức là đòi hỏi việc trừng trị nhằm trực tiếp vào những pháp nhân khi các thực thể này phạm tội. Công bằng không có nghĩa là phải trừng trị các cá nhân này hay cá nhân khác mà công bằng chính là buộc chủ thể thực hiện tội phạm phải chịu hình phạt. Không có lý lẽ công bằng nào lại buộc cá nhân những người cấp dưới vốn chẳng có quyền hành gì và các nhà quản lý có trách nhiệm thành những người phải hứng chịu hậu quả thay cho pháp nhân phạm tội [18, tr. 18]. Cũng không có sự công bằng nào về cùng một hành vi phạm tội lại có những cách đối xử khác nhau. Đối với pháp nhân phạm tội cùng loại thì xử lý bằng các biện pháp trách nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm
  • 14. hành chính. Còn đối với cá nhân những người lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân phạm tội vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân lại bị trừng trị bằng biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn nhiều. Như vậy bằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân là thể hiện nguyên tắc công bằng và bình đẳng. Pháp nhân phạm tội thì pháp nhân phải là chủ thể đứng ra chịu TNHS. Nếu pháp nhân phạm tội mà bắt thành viên của pháp nhân phạm tội chịu TNHS còn pháp nhân chỉ bị xử lý chế tài phi hình sự là sự không công bằng. Bản án kết tội đối với một pháp nhân khác với bản án có thể xảy ra của các thành viên pháp nhân, nó không nhằm vào cá nhân các thành viên của pháp nhân mà chính là pháp nhân – chủ thể chịu TNHS. Tiếp nữa những người theo học thuyết truyền thống không chỉ chống lại TNHS của pháp nhân bằng lý lẽ là pháp nhân không có khả năng phạm tội mà họ còn cho rằng các chế tài hình sự nói chung không thể áp dụng được cho pháp nhân và nếu có hình phạt nào áp dụng thì cũng không cần thiết và cũng không có hiệu quả. Những hình phạt đặc trưng, truyền thống và mang lại hiệu quả trong luật hình sự như tử hình, phạt tù…thị lại không thể áp dụng được cho pháp nhân. “Người ta có thể bắt giam như thế nào đối với một thực thể mà bản chất của nó là vô hình?” [18. Tr. 13]. Làm thể nào có thể tước mạng sống của một chủ thể giả tưởng mà bản thân của nó là thiếu sự tồn tại của thực thể hữu hình Như vậy một khi hình phạt không thể được áp dụng thì tất nhiên mục đích của hình phạt cũng không được đặt ra. Một số hình phạt khác mặc dù có khả năng áp dụng được cho pháp nhân như phạt tiền, tịch thu tài sản, tước một số quyền… song nếu áp dụng những hình phạt này sẽ tác động cả những cá nhân là thành viên của pháp nhân không có lỗi, không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều này là sự bất công bằng giữa các thành viên trong pháp nhân, gây phá sản cho pháp nhân, làm ảnh hưởng thu nhập, đời sống của họ,
  • 15. dẫn đến bất bình đối với pháp luật, ảnh hưởng xã hội. Lúc này mặc dù có thể áp dụng hình phạt đối với pháp nhân song mục đích của hình phạt không đạt được. Mặt khác trong hệ thống pháp luật, trong từng ngành luật tương ứng như luật hành chính, luật dân sự… đã có chế tài pháp lý phi hình sự như chế tài phạt tiền, cấm hoạt động nhất định, giải thể pháp nhân… vì vậy họ cho rằng nếu các chế tài ấy được xây dựng lại một cách khoa học và phù hợp với thực tiễn thì cũng có thể áp dụng đối với pháp nhân chứ không nhất thiết phải ghi nhận các chế tài ấy trong pháp luật hình sự. Quan điểm cho rằng các pháp nhân về bản chất là những thực thể vô hình nên không thể áp dụng hình phạt đối với nó, một số hình phạt trong hệ thống hình phạt nước ta rất đa dạng, một số hình phạt như tử hình hay các hình phạt tước hoặc hạn chế quyền tự do thân thể không thể áp dụng được với pháp nhân song với sự đa dạng trong hệ thống hình phạt rất nhiều hình phạt có thể áp dụng đối với pháp nhân mà tác động đến những quyền và tài sản mà pháp nhân có. Những hình phạt này đang dần dần phát triển phù hợp với bản chất pháp nhân phạm tội và mục đích của hình phạt đã đạt được. Mặc dù đúng là những hình phạt này đã có trong các chế tài pháp lý phi hình sự song do tính chất phi hình sự mà những chế tài này không đạt được hiệu quả cao khi áp dụng. Trên thực tế đã chứng minh điều đó khi các vụ việc do pháp nhân thực hiện gây thiệt hại cho xã hội tăng nhanh cả về số lượng lẫn mức độ nghiêm trọng. Tóm lại trong khoa học pháp lý hiện nay vấn đề có nên quy định TNHS của pháp nhân hay không còn là vấn đề đang được tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu pháp lý. Đặc biệt là trong thời gian vừa qua khi mà Ban soạn thảo Dựa án BLHS sửa đổi đã tiến hành phiên họp và nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Tuy nhiên đa số các ý kiến đều tán thành việc quy định TNHS của pháp nhân đối với một nhóm tội, trong đó có các tội phạm về chức vụ. Tác giả cũng ủng hộ quan điểm thiết lập chế độ TNHS của pháp nhân đối với một nhóm tội
  • 16. phạm trong đó có các tội phạm về chức vụ bởi vì việc thiết lập TNHS của pháp nhân không vướng bất kỳ nguyên tác nào của luật hình sự, đồng thời còn góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về chức vụ trong giai đoạn hiện nay. 1.1.2. Cơ sởcủa việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân *Cơ sở lý luận của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân Như chúng ta đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Dựa vào khái niêm tội phạm này chúng ta có thể đưa ra những cơ sở lý giải đối với chủ thể của tội phạm là pháp nhân giống như những người ủng hộ quan điểm thiết lập chế định TNHS của pháp nhân lập luận. Trước hết có thể khẳng định pháp nhân là một thực thể có thật. Pháp nhân có những đặc tính không đổi được thừa nhận chung, có sự tồn tại thực tế của nó trong mối quan hệ với các thành viên của pháp nhân. Thực tế pháp luật đã ghi nhận nó trên phương diện pháp lý. Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam quy định pháp nhân được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh chính mình tham gia vào quan hệ xã hội một cách độc lập. Cũng như thể nhân, pháp nhân cũng có hành vi của mình. Tuy nhiên hành vi của pháp nhân khác với thể nhân, hành vi của pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện, người lãnh đạo của pháp nhân. Trong các điều lệ, văn bản về pháp nhân luôn có các quy định về tổ chức, hoạt động của pháp nhân và đó chính là hành vi của pháp nhân. Theo quy định của pháp luật, quy chế, điều lệ của pháp nhân thì người lãnh đạo, đại diện được thay mặt pháp nhân ra các quyết định, thực hiện các hành vi thuộc thẩm quyền của pháp
  • 17. nhân, vì lợi ích của pháp nhân. Với hậu quả có lợi cũng như bất lợi phát sinh từ hành vi theo sự lựa chọn trên cơ sở ý chí của người đại diện, người lãnh đạo đều do pháp nhân thụ hưởng hoặc gánh chịu. Những hoạt động của pháp nhân thường là những hành vi có lợi cho pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân, lợi ích của xã hội nhưng cá biệt cũng có những hoạt động vì lợi ích của mình mà pháp nhân có thể gây thiệt hại cho xã hội ở những mức độ khác nhau và việc gây thiệt hại ở mức độ đáng kể là rất có thể xảy ra. Vì vậy pháp nhân có thể có hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Mặt khác, các pháp nhân mặc dù bao gồm các cá nhân nhưng được hình thành bởi những lợi ích tập trung và được pháp luật thông qua các cấu trúc pháp lý xác định. Pháp nhân có thể tự quyết định một cách tự do và theo đuổi những mục tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá nhân tạo nên pháp nhân đó. Trong các pháp nhân, những định hướng chủ đạo thể hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn toàn giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên tập đoàn. Pháp nhân hoàn toàn có ý chí của riêng mình bởi vì nó sinh ra, tồn tại và phát triển bằng sự gặp gỡ giữa các ý chí cá nhân của thành viên của mình. Vì vậy pháp nhân là một thực thể có ý chí, có mong muốn riêng, được xử sự tự do và hưởng quyền tự chủ của chủ thể và có thể so sánh với quyền tự chủ của cá nhân. Vì vậy nó có năng lực thực hiện tội phạm một cách có lỗi và đương nhiên có thể bị xử lý về hình sự. Như đã phân tích ở trên, lỗi trong luật hình sự là thể hiện tự do ý chí của chủ thể (Tự do lựa chọn hành vi trái pháp luật, gây thiêt hại cho quan hệ xã hội trong khi có tự do và khả năng lựa chọn hành vi hợp pháp) thì pháp nhân cũng hoàn toàn tự do khi lựa chọn hành vi của mình. Vì vậy việc quy kết TNHS cho pháp nhân là hoàn toàn hợp lý trên cơ sở lỗi chứ không phải quy tội khách quan. Như vậy hành vi của pháp nhân hoàn toàn có
  • 18. thể đáp ứng các đặc điểm của tội phạm theo quy định của BLHS Việt Nam hiện hành. Cuối cùng, việc áp dụng hình phạt cho pháp nhân hoàn toàn có khả năng thực thi. Hình phạt là biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội và pháp nhân cũng có quyền và lợi ích nhất định, nên về lý thuyết, việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp nhân phạm tội là điều có thể. Và khi chúng ta tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp nhân tức là chúng ta đã đạt được mục đích trừng trị, răn đe cũng như phòng ngừa của hình phạt. Do đó có thể khẳng định hoàn toàn có thể quy kết TNHS đối với pháp nhân. Như vậy có thể khẳng định về mặt lý luận, khoa học pháp lý hình sự hiện đại đã giải quyết cơ bản TNHS của pháp nhân. Việc thiết lập chế định TNHS của pháp nhân không vi phạm bất kỳ dấu hiệu nào của tội phạm cũng như nguyên tắc của Luật hình sự. Ngày nay, việc thừa nhận TNHS của pháp nhân là xu hướng phát triển chung trong pháp luật hình sự của nhiều nước và chúng ta hoàn toàn có thể quy định chế định này trong luật hình sự Việt Nam. *Cơ sở thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân Qua thực tế thấy rằng, quan điểm coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm đã có từ lâu và hiện nay nó đã được chính thức thừa nhận ở một số quốc gia trong đó có những quốc gia từ trước tới nay không thừa nhận mà thậm chí còn phê phán. TNHS của pháp nhân đã được ghi nhận và trở thành nguyên tắc cơ bản trong Luật hình sự của mỗi nước theo truyền thống Án lệnhư Anh, Mỹ, Canada, Australia, New Zealand…Ở châu Âu lục địa, chế định TNHS cũng đã được thừa nhận trong pháp luật hình sự nhiều quốc gia như Pháp, Hà Lan, Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha… Vấn đề TNHS của pháp nhân đã được điều chỉnh về
  • 19. mặt lập pháp không chỉ ở các nước theo truyền thống Common Law, châu Âu lục địa mà còn được thừa nhận ở một số nước châu Á như Nhật Bản, Singapo, đặc biệt là Trung Quốc – một nước láng giềng của Việt Nam trong thời gian trước còn phản đối việc chấp nhận TNHS của pháp nhân. Không chỉ được ghi nhận trong pháp luật hình sự các quốc gia mà vấn đề TNHS của pháp nhân đã chính thức được khuyến nghị trong nhiều văn bản quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Công ước của liên hiệp quốc về chống tham nhũng 2003, Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia… Mặc dù quy định thiết lập TNHS của pháp nhân chỉ là quy định mang tính chất khuyến nghị song trong quyết định phê duyệt thực hiện các Công ước này, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu nghiên cứu bổ sung pháp nhân là chủ thể của hành vi tham nhũng. Có thể thấy xu hướng thừa nhận TNHS của pháp nhân đã ngày càng phổ biến trong pháp luật các quốc gia và là một xu hướng hợp thời đại. Việt Nam cần nghiên cứu, xem xét, bổ sung chế định này trong pháp luật quốc gia. Ở Việt Nam, nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự cho thấy trước khi ban hành BLHS, vấn đề TNHS của pháp nhân đã được thiết lập.Trong thời kỳ phong kiến, vấn đề TNHS của pháp nhân cũng được đề cập trong Quốc triều hình luật, Điều 62 chương Tạp luật có quy định: “Những trang trại ven biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hóa lên bờ, thì bị xử biếm 3 tư, phải phạt gấp ba tang vật để sung công, lấy một phần thưởng cho người tố giác. Người chủ trang trại ấy mất chức giám trang”. Trước các mạng tháng Tám năm 1945, vấn đề TNHS của pháp nhân cũng được quy định trong pháp luật của chế độ thực dân phong kiến thời kỳ trước cách mạng tháng Tám như Điều 12 Dụ số 45.1088 ngày 03/5/1945 về trừng trị các vi phạm luật lệ hối đoái, quy định: “Đối với trường hợp vi phạm luật lệ hối đoái thì không những giám đốc, quản trị viên, quản lý của pháp nhân bị truy tố mà chính bản thân
  • 20. pháp nhân cũng có thể bị truy tố và bị phạt bạc”. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền chế độ cũ ở vùng tạm chiến của thực dân Pháp và ở miền Nam Việt Nam dưới chế độ Sài Gòn sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 cũng đã ban hành một số văn bản quy định TNHS của pháp nhân như: Điều 33 Dụ số 10 ngày 23/6/1950, Điều 26 Dụ số 33 ngày 16/11/1952… đặc biệt trong BLHS ngày 20/12/1972 của chính quyền Sài Gòn cũ chính thức quy định TNHS của pháp nhân là nguyên tắc chung trong luật hình sự. Điều 8 bộ luật này quy định “Luật hình chi phối mọi cá nhân và pháp nhân cứ trú trên lãnh thổ Việt Nam và mọi sự kiện xảy ra trên lãnh thổ này, kể cả không phận và hải phận”. Điều 69 quy định “Cá nhân và pháp nhân đều có thể bị truy cứu TNHS” và Điều 71 quy định “Pháp nhân có thể bị xử phạt giải tán, phạt vạ và tịch thu tài sản”. Trong hai lần pháp điển hóa BLHS năm 1985 và 1999, mặc dù trong kiến giải lập pháp của các tác giả được đưa ra tại Điều 2 BLHS 1985 quy định “Cơ sở của TNHS” với nội dung “Cơ quan, tổ chức, đơn vị (sau đây gọi là tổ chức) phải chịu TNHS về hành vi phạm tội do đại diện của mình thực hiện vì lợi ích của tổ chức đó”. Nhưng sau đó trong dự thảo luật lần thứ XI (10/1998) thì kiến giải lập pháp này bị các nhà làm luật Việt Nam loại bỏ. Và BLHS hiện hành vẫn chưa chấp nhận nguyên tắc TNHS pháp nhân bên cạnh nguyên tắc TNHS cá nhân. Một thực tiễn đáng buồn là các vi phạm pháp luật có tính chất tội phạm do pháp nhân thực hiện ở nước ta trong những năm gần đây tăng rất nhanh. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vấn đề trên nhưng nguyên nhân căn bản và sâu sa nhất đó là sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường. Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những chính sách kinh tế thông thoáng, hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO nhằm mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của nhà nước ta đã tạo điều kiện phát triển mọi mặt, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế. Tuy
  • 21. nhiên bên cạnh những yếu tố tích cực đó đã xuất hiện những hành vi có tính chất tội phạm ngày càng gia tăng cả về quy mô và mức độ nguy hiểm không chỉ do cá nhân mà còn do tổ chức, pháp nhân thực hiện. Những vụ gây thiệt hại đáng kể do pháp nhân gây ra không còn là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến. Với chế tài pháp lý hiện nay thì việc chỉ xử lý TNHS đối với người đại diện của pháp nhân còn bản thân pháp nhân sẽ chỉ chịu trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hành chính. Chính điều này là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng các pháp nhân ngày càng phạm tội nhiều hơn. Việc áp dụng trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hành chính đối với pháp nhân phạm tội không còn đạt hiệu quả trong việc ngăn chặn pháp nhân có những hành vi gây thiệt hại, hậu quả pháp lý mà pháp nhân phải gánh chịu không đủ nghiêm khắc để phòng ngừa tái phạm. Thêm vào đó việc chỉ truy cứu TNHS đối với cá nhân những người lãnh đạo, người đại diện trong những trường hợp này là thiếu công bằng và không hợp lý. Các cá nhân được đó chỉ sử dụng các biện pháp điều hành cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ được giao, họ không được làm trái các quyết định đó. Một khi những biện pháp đó mà đem lại lợi ích cho pháp nhân thì tất cả những thành viên của pháp nhân được hưởng còn khi những biện pháp mà họ áp dụng vi phạm pháp luật thì chỉ mình bản thân họ gánh chịu trách nhiệm. Mặt khác việc truy cứu TNHS cá nhân trong trường hợp này không thể ngăn chặn được pháp nhân tiếp tục thực hiện hành vi trái pháp luật bởi bị khi cá nhân những người đại diện của pháp nhân này bị truy cứu TNHSthì sẽ có cá nhân khác thay thế và tiếp tục thực hiện hành vi tương tự vì mục đích của pháp nhân. Từ những cơ sở trên đòi hỏi phải quy định TNHS của pháp nhân. Chỉ có TNHS với tính nghiêm khắc của các chế tài mới đủ sức răn đe và có khả năng phòng ngừa hành vi tiếp tục phạm tội của pháp nhân đồng thời, việc áp dụng TNHS đối với pháp nhân mới tương xứng và phù hợp với mức độ nguy
  • 22. hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại do pháp nhân thực hiện. Và một lần nữa khẳng định rằng trong điều kiện xã hội hiện nay thật sự cần thiết phải quy định TNHS đối với pháp nhân. 1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ HÌNH SỰ CƠ BẢN CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.2.1.Sơ lƣợc lịch sử lập pháp hình sự nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về các tội phạm chức vụ Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự về các tội phạm chức vụ. Năm 1946, Sắc lệnh số 223/SL được ban hành ngày 17/11 quy định đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ hoặc phù lạm, biển thủ công quỹ. Sắc lệnh này tuy chưa mô tả hành vi phạm tội và quy định hình phạt còn cứng nhắc nhưng đã thể hiện sự phân hóa trong xử lý đối với người tự thú, tố giác đồng bọn. Sắc lệnh là văn bản quy phạm pháp luật hình sự đầu tiên của nhà nước ta quy định tội phạm về chức vụ. Năm 1948, Sắc lệnh số 200/SL ngày 7/8 về trưng tập công chức có quy định tội đào nhiệm. Năm 1956, Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6 quy định trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch nhà nước quy định các tội phạm về chức vụ gồm: tội không làm hoặc làm sai công vụ mình phụ trách và tội thiếu tinh thần trách nhiệm làm thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân. Năm 1976, Sắc lệnh số 03 được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành ngày 15 tháng 3 quy định thêm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn và quy định tội đưa và nhận hối lộ. Năm 1981, pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ được ban hành ngày 20 tháng 5. Pháp lệnh này thay thế các văn bản pháp luật hình sự trước đó về các tội hối lộ. Lần đầu tiên trong pháp lệnh, tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ được quy định tại điều
  • 23. luật độc lập, các dấu hiệu pháp lí được điều luật mô tả, các tình tiết tăng nặng và tăng nặng đặc biệt được quy định trong những điều khoản riêng. Pháp lệnh này loại bỏ được những hạn chế của những văn bản pháp luật hình sự trước đây và giúp cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt được thuận lợi, chính xác. [32, tr. 358-360] Năm 1985, BLHS đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành ngày 27 tháng 6. Kế thừa kinh nghiệm lập pháp hình sự và kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm những năm trước đây, BLHS năm 1985 đã dành một chương quy định tội phạm chức vụ. Tuy nhiên, do những quy định của BLHS năm 1985 về các tội phạm về chức vụ còn nhiều điểm chưa được hướng dẫn và thực tiễn xét xử nhiều trường hợp phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng BLHS để truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Các quy định của BLHS năm 1999 đối với các tội phạm về tham nhũng, các tội phạm khác về chức vụ đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản ánh được thực trạng công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong thời gian qua, giúp cho việc điều tra, truy tố mà đặc biệt là việc xét xử loại tội phạm này sẽ thuận lợi hơn trước đây. BLHS năm 1999 đi vào cuộc sống đã phát huy vai trò, tác dụng tích cực và trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, qua đó góp phần bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; từng bước đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức; thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, phục vụ công cuộc đổi mới đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ chương, biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên cuộc
  • 24. đấu tranh chống tham nhũng chưa đem lại hiệu quả, tình trạng tham nhũng vẫn rất nghiêm trọng, vẫn là một trong những nguy cơ làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa, trực tiếp làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Ngoài những hành vi tham nhũng thì đi liền với nó là những hành vi có liên quan đến tham nhũng hoặc có liên quan đến chức vụ, quyền hạn. 1.2.2.Khái niệm các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành Khái niệm tội phạm về chức vụ được các nhà làm luật quy định tại một điều riêng biệt trong BLHS năm 1999. Điều 277 quy định: “Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do những người có chức vụ thực hiện khi thực hiện công vụ”. Ngoài ra điều luật cũng giải thích thêm: “Những người có chức vụ nói trên đây là những người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”. Nếu căn cứ vào những quy định trên thì các tội phạm về chức vụ quy định từ Điều 278 đến Điều 291 BLHS có một số trường hợp không thỏa mãn khái niệm mà Điều 277 quy định như: tội đưa hối lộ quy định tại Điều 289, tội làm môi giới hối lộ quy định tại Điều 290 BLHS, không chỉ người có chức vụ thực hiện mà còn bao gồm cả những người không có chức vụ thực hiện, mặc dù hành vi của họ cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Ngoài các tội phạm quy định tại Chương XXI BLHS ra, còn nhiều tội phạm khác quy định ở các Chương khác cũng do người có chức vụ thực hiện và cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, nhưng lại không phải là tội phạm về chức vụ. Việc đưa ta một khái niệm về các tội phạm về chức vụ thật chính xác, thật đặc trưng cho loại tội phạm này về lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều vấn
  • 25. đề phải tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên chúng ta không nên quá câu lệ vào khái niệm hay định nghĩa về loại tội phạm này, vi khi đã là luật thì trước hết mọi cơ quan, tổ chức và mọi người phải tuân theo. Vấn đề quan trọng là cần hiểu và nắm chắc các dấu hiệu pháp lý đối với các tội phạm quy định tại chương XXI BLHS. [36, tr. 50] BLHS hiện hành nước ta quy định tội phạm về chức vụ tại chương XXI, trong đó mục A quy định các tội phạm về tham nhũng (từ điều 278 đến Điều 284), mục B quy định các tội khác về chức vụ (từ Điều 285 đến Điều 291). Ngoài các tội phạm được quy định tại chương XXI, các chương khác của BLHS 1999 cũng quy định các tội phạm khác về chức vụ, như tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144), tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165). 1.2.3. Những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của tội đƣa hối lộ và nhận hối lộ trong Luật hình sự Việt Nam Các tội phạm về chức vụ được quy định từ Điều 278 đến Điều 291 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi nghiên cứu vun đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, tác giả sẽ nghiên cứu và đề xuất vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với hai tội đưa hối lộ và nhận hối lộ.Chính vì vậy tác giả sẽ chỉ ra những đặc điểm pháp lý hình sự cơ bản của hai tội đưa hối lộ và nhận hối lộ (gọi chung là các tội phạm về hối lộ) như sau: Trước hết về chủ thể của tộinhận hối lộ: Theo quan điểm truyền thống của luật hình sự Việt Nam, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể là chủ thể của tội này. Cũng theo các hiểu được thừa nhận chung trong Luật hình sự Việt Nam, người có chức vụ, quyền hạn là người được giao phụ trách một công vụ nhất định trong các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức và khi thi hành công vụ đó người này có một quyền năng nhất định trong mối quan hệ
  • 26. với những người khác.Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, phạm vi những chủ thể có thể nhận hối lộ khá rộng. Ngoài những người đang giữ chức vụ hoặc có quyền hạn nhất định, một số chủ thể khác cũng có khả năng trở thành đối tượng của hành vi đưa hối lộ. Đó có thể là những người có khả năng gây ảnh hưởng tới một hoạt động ban hành quyết định cụ thể trong khi chức vụ chính thức của họ lại hoàn toàn độc lập với hoạt động đó. Đó còn có thể là những người tuy không còn nắm giữ cương vị công tác nữa song vẫn có khả năng gây ảnh hưởng tới hoạt động ra quyết định của một cơ quan nhất định. Tác giả đồng tình với quan điểm hiểu khái niệm người có chức vụ, quyền hạn ở các tội phạm về hối lộ theo nghĩa rộng. Nhờ đó luật hình sự có thể bao quát được tất cả những đối tượng có nguy cơ lợi dụng chức trách của mình nhận lợi ích để thực thi chức trách theo hướng có lợi cho người đưa lợi ích. Tiếp theo, về vấn đề các dạng hành vi của tội đưa hối lộ và nhận hối lộ không được bàn luận nhiều trong khoa học luật hình sự. Nhìn chung các quan điểm đều thống nhất cho rằng các tội phạm về hối lộ là những tội chỉ cần có một dấu hiệu trong mặt khách quan được phản ánh là hành vi khách quan. Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ là một trong ba dạng: hành vi nhận lời mời hối lộ, hành vi nhận của hối lộ và hành vi đòi hối lộ. “Nhận lời mời hối lộ” là hành vi đồng ý với lời đề nghị hối lộ của người đưa hối lộ. Khi người có chức vụ nhận lời mời hối lộ là lúc thỏa thuận giữa người đưa và người hối lộ đã đạt được. “Nhận của hối lộ” là hành vi thực tế tiếp nhận lợi ích từ phía người đưa hối lộ. “Đòi hối lộ” là hành vi của người có chức vụ chủ động yêu cầu người khác phải đưa lợi ích cho mình để đổi lấy việc mình thực hiện chức trách theo hướng có lợi cho người đưa lợi ích. Tội phạm hoàn thành khi chủ thể thực tế nhận của hối lộ hoặc đạt được sự thỏa thuận với người đưa về việc nhận của hối lộ và chịu ảnh hưởng của người đưa hối lộ trong khi thực hiện
  • 27. nhiệm vụ của mình. Các hành vi hối lộ có thể được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào, có thể kín đáo hoặc công khai [29, tr. 48]. Cuối cùng về lỗi của người phạm tội về hối lộ là lỗi cố ý. Cả người đưa và người nhận hối lộ đều nhận thức đầy đủ về tính chất sai trái của hành vi mình thực hiện, hơn nữa còn nhận thức được tính không chính đáng của hành vi mình thực hiện, hơn nữa còn nhận thức được tính không chính đáng của hành vi của những bên còn lại trong quan hệ hối lộ. Việc họ vẫn quyết định thực hiện hành vi cho thấy họ đã mong muốn cho những hành vi nguy hiểm cho xã hội đó xảy ra. Dù hành vi là hối lộ chủ động hay hối lộ bị động thì việc chủ thể đồng ý thực hiện hành vi đã thể hiện sự tự nguyện trong ý chí của chủ thể.
  • 28. Chương 2 NHỮNG ĐÕI HỎI CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. NHỮNG ĐỒI HỎI CỦA VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ THEO CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM LÀ QUỐC GIA THÀNH VIÊN 2.1.1. Công ƣớc Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 Tham nhũng là hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng đến các nguồn lực công, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý, công bằng xã hội, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển bền vững, làm xói mòn lòng tin của người dân vào nhà nước và pháp luật. Tham nhũng thường liên kết một cách tinh vi, chặt chẽ với các tội phạm khác, đặc biệt là tội phạm có tổ chức và tội phạm kinh tế, gây ra những hậu quả nguy hại, khó lường, mang tính chất dây chuyền. Không nằm ngoài tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc trên mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, tham nhũng đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới của mỗi quốc gia và đang trở thành một hiện tượng mang tính khu vực và quốc tế, với tốc độ lây lan nhanh chóng cùng mức độ tàn phá ngày một nặng nề. Vì vậy chống tham nhũng đang trở thành một nhiệm vụ quan trọng, cần thiết, đòi hỏi các nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. Trong đó, yêu cầu trước tiên và cơ bản nhất là phải thiết lập được một số công cụ pháp lý toàn diện, có hiệu lực pháp lý cao làm cơ sở cho việc đẩy mạnh hoạt động phòng, chống tham nhũng tại mỗi quốc gia, trong mỗi khu vực và trên thế giới. [25, tr. 7] Trước tình hình đó, việc hình thành một khuôn khổ pháp lý quốc tế để phòng chống tham nhũng giữa các quốc gia trên thế giới là một yêu cầu cấp
  • 29. thiết đặt ra. Ngày 04/12/2000, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ra Nghị quyết số 55/61 xác định cần phải có một văn kiện pháp lý quốc tế hữu hiệu chống tham nhũng. Theo Nghị quyết này, Ủy ban soạn thảo Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng được thành lập. Ngày 01/10/2003, tại phiên họp thứ 7, với tinh thần khẩn trương và xây dựng, Công ước đã được thông qua với 8 chương và 71 điều. Từ ngày 09 đến ngày 11/12/2003, đã có 95 nước ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, trong đó có Việt Nam. Hiện tại số thành viên tham gia Công ước tăng lên 173 thành viên. Công ước gồm có: Lời nói đầu, 8 Chương, 71 Điều đã thể hiện rõ tính chất nguy hiểm, mức độ nghiêm trọng và những hậu quả tiêu cực của tham nhũng đối với các giá trị dân chủ, đạo đức, công lý, nguyên tắc pháp quyền và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế; đồng thời, khuyến cáo các quốc gia cần quyết tâm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng bằng hệ thống các biện pháp toàn diện, đa dạng và hữu hiệu. Như vậy, ý chí xóa bỏ tham nhũng đã trở thành trách nhiệm của các quốc gia và các quốc gia thành viên nhằm tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng thông qua hợp tác điều tra, truy tố, trao đổi thông tin, thu hồi tài sản, trợ giúp kỹ thuật, hỗ trợ tăng cường năng lực xây dựng thể chế. Phạm vi áp dụng của Công ước bao trùm tất cả các lĩnh vực của công tác chống tham nhũng, gồm: phòng ngừa, điều tra, truy tố tham nhũng và việc phong toả, tạm giữ, tịch thu và hoàn trả tài sản có được do phạm các tội quy định trong Công ước. Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng đã được Việt Nam ký kết vào ngày 10 tháng 12 năm 2003, được Chủ tịch nước phê chuẩn vào ngày 30 tháng 6 năm 2009 và trở thành thành viên chính thức kể từ ngày 18 tháng 9 năm 2009. Đây được coi là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng thể hiện quyết tâm và cam kết của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Vị trí của Công ước trong hệ thống pháp
  • 30. luật của Việt Nam là thấp hơn một bậc so với Hiến pháp và cao hơn một bậc so với các nguồn luật khác. Giống như các điều ước quốc tế khác, Công ước có thể được áp dụng trực tiếp, toàn bộ hoặc một phần, hoặc thông qua các quy định và pháp luật trong nước. Việt Nam đã có tuyên bố khi phê chuẩn rằng các điều khoản của Công ước không được áp dụng trực tiếp. (35) Khi phê chuẩn Công ước, Việt Nam tuyên bốkhông bị ràng buộc bởi các quy định TNHS của pháp nhân (Điều 26) do pháp luật Việt Nam chưa đáp ứng hoàn toàn quy định này. Điều 26 Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng quy định các quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp cần thiết, trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia, quy định trách nhiệm của pháp nhân khi thực hiện hoặc tham gia thực hiện các tội phạm quy định tại Công ước. Hình thức trách nhiệm cụ thể do các quốc gia tự quyết định, có thể là TNHS, hành chính hoặc dân sự, miễn là ở mức độ tương xứng, thích đáng và có tác dụng ngăn ngừa. Cần lưu ý rằng trách nhiệm của pháp nhân không loại trừ TNHS của cá nhân có liên quan. Mặc dù pháp nhân phải chịu trách nhiệm hành chính và dân sự (không phải TNHS) theo quy định của các văn bản pháp luật có liên quan (Điều 93 Bộ luật dân sự và Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính), nhưng trách nhiệm này không áp dụng đối với các tội được quy định trong Công ước. Pháp nhân có thể phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc dân sự theo quy định của luật xử lý vi phạm hành chính hoặc Bộ luật dân sự hiện hành. Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định “tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi hành vi hành chính do mình gây ra”. Tuy nhiên, các hành vi tham nhũng của pháp nhân theo quy định của Công ước chưa được coi là hành vi vi phạm hành chính. Về trách nhiệm dân sự, theo quy định của Điều 622 Bộ luật Dân sự, thì pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi
  • 31. thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao. Tuy nhiên, cũng giống trách nhiệm hành chính, pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa quy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự đối với hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng. Do đó, pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu này của Công ước. Các chuyên gia Việt Nam cho rằng những khó khăn gặp phải về mặt lý luận dẫn đến Việt Nam chưa chấp nhận việc quy định TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm tham nhũng nói riêng và với một số tội khác trong BLHS hiện hành nói chung là: Thứ nhất, trong pháp luật hình sự Việt Nam, quan niệm về lỗi là lỗi của cá nhân người phạm tội. Pháp nhân là một thực thể giả tưởng của pháp luật. Chỉ có các cá nhân cụ thể mà thông qua nó, pháp nhân hành động mới hội tụ đủ các yếu tố cần thiết để quy kết tội phạm và mới có thể bị trừng trị. Thứ hai là hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam không dễ áp dụng được với pháp nhân (đặc biệt là đối với một số hình thức xử phạt như tử hình, tù, cải tạo không giam giữ) và nếu có hình phạt nào áp dụng được thì cũng không cần thiết hoặc cũng không có hiệu quả đối với pháp nhân – một thực thể trìu tượng có bản chất nhân tạo và vô hình. Thứ ba là nếu trừng trị pháp nhân về mặt hình sự sẽ vi phạm nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và không đạt được mục đích giáo dục, cải tạo của hình phạt. Nguyên tắc TNHS của pháp nhân đã được áp dụng ở các nước theo truyền thống pháp luật chung (Common Law) và châu Âu lục địa (Continental), trong đó có một số nước châu Á. Về thực tiễn, đứng trước tình hình tội phạm do pháp nhân thực hiện ngày càng gia tăng và ngày càng nguy hiểm, dư luận xã hội ủng hộ mạnh mẽ việc truy cứu TNHS của pháp nhân. Số các vụ việc tham nhũng có sự dính líu của pháp nhân chiếm một tỷ lệ tương đối cao, đặc biệt là các vụ việc có liên quan đến các giao dịch thương mại hoặc các hoạt động cấp phép… Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế
  • 32. giới đã quy định TNHS đối với cá nhân phạm các tội về tham nhũng hoặc các tội phạm liên quan. Tuy nhiên, việc phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử các vụ việc tham nhũng liên quan đến pháp nhân vẫn gặp nhiều khó khăn, nhiều lúc dẫn đến tình trạng xử lý thiếu triệt để, không hiệu quả. Không phải lúc nào cơ quan có thẩm quyền cũng có thể xác định chính xác người phải chịu TNHS, nhất là trong những tập đoàn lớn, đa quốc gia, có cơ cấu tổ chức phức tạp, hoặc khi việc đưa ra quyết định của pháp nhân mang tính chất tập thể chứ không phải mang tính chất riêng lẻ, cá thể. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, pháp nhân vẫn tiếp tục dính líu tới các vụ việc tham nhũng, dù các nhân của pháp nhân đó, thậm chí người lãnh đạo, điều hành pháp nhân đã bị truy tố hoặc đưa ra xét xử. Điều này đòi hỏi pháp nhân cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý khi tham gia hoặc dính líu tới các vụ việc tham nhũng [24. Tr. 45].Chính vì vậy nếu chỉ xử lý về mặt hình sự đối với thể nhân rõ ràng đã bỏ lọt tội phạm, trái với nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự, dẫn đến khó khăn trong cuộc chiến chống tội phạm vì thiếu hiệu quả ngăn ngừa. Khi đó nhà nước sẽ gặp khó khăn trong việc trấn áp và kiểm soát tình hình tội phạm. Trước tình hình tội phạm do pháp nhân thực hiện ngày càng gia tăng và phức tạp và do Việt Nam mới bắt đầu bước vào thực hiện nền kinh tế thị trường, rất khó có thể biết cách khắc phục tốt nhất các tồn tại của nền kinh tế thị trường, và Việt Nam cần phải có những quy định phù hợp. Do vậy, để hoàn thành nghĩa vụ của quốc gia thành viên đối với Công ước, kiến nghị được đưa ra là cần xây dựng các quy định về TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm về tham nhũng. Việt Nam cần coi đây là nội dung ưu tiên để tránh vấn đề miễn trừ đối với pháp nhân tham gia tội phạm tham nhũng. Có như vậy mới cho phép trừng trị tội phạm hiệu quả hơn, bổ sung lỗ hổng trong chính sách pháp luật về hình sự qua đó cũng giúp bảo đảm công bằng hơn trong việc chia trách nhiệm giữa các pháp nhân, tổ chức và cá nhân
  • 33. người phạm tội đã hành động vì lợi ích của các thực thể này. Việt Nam đã nỗ lực nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các tội tham nhũng trong BLHS vào lần sửa đổi, bổ sung tiếp theo. Dự án BLHS (sửa đổi) đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII và hiện dự thảo BLHS sửa đổi này đang được lấy ý kiến. 2.1.2. Công ƣớc của Liên Hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia Trong những năm qua, cộng đồng quốc tế đã chứng kiến sự gia tăng của những hành vi phạm tội do các nhóm tội phạm có tổ chức thực hiện như: khủng bố quốc tế, buôn lậu ma tuý, mua bán người..., gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cả về tài chính và con người ở hầu hết các nước trên thế giới. Một trong những thách thức toàn cầu, đe doạ đến an ninh, sự ổn định của hầu hết các quốc gia trên thế giới là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Loại tội phạm này hoành hành khắp thế giới với nhiều loại hình hoạt động. Khu vực Đông Nam Á là địa bàn hoạt động khá sôi nổi của các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia. Để đấu tranh hiệu quả đối với loại tội phạm nguy hiểm này thì một hoặc vài quốc gia không thể gặt hái thành công mà cần có sự hỗ trợ, hợp tác của cả cộng đồng quốc tế. Liên hợp quốc đã xây dựng được công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (công ước TOC) và 3 nghị định thư bổ sung cho Công ước, bao gồm: Nghị định thư về chống buôn bán người, đặc biệt là PNTE; Nghị định thư về chống đưa người di cư bất hợp pháp và Nghị định thư về chống mua bán bất hợp pháp vũ khí, đạn dược. Đây là những cơ sở pháp lý cho các quốc gia trong việc phòng và chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Năm 2000, tại Italia, Việt Nam cùng 123 quốc gia khác đã ký chính thức Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và 3 Nghị định thư bổ sung Công ước. Tại Việt Nam vào năm 2013, Chủ
  • 34. tịch nước và Thủ tướng Chính phủ đã ký các Quyết định số 605/QĐ-Ttg ngày 18 tháng 4 năm 2013 phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Công ước phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Đối với nước ta, việc tham gia Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia là một yêu cầu thực tế khi tình hình tội phạm ở nước ta có xu hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất nguy hiểm, đặc biệt là sự phát triển đáng lo ngại của tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Hệ thống pháp luật của nước ta (Hiến pháp, pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng, phòng chống tham nhũng…) về đấu tranh chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đã khá đủ điều kiện để vận hành và thực hiện Công ước. Bên cạnh đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cùng với văn phòng cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol và Aseanpol) của nước ta đã có những hợp tác hiệu quả trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có nhận tố nước ngoài. Chính phủ nhận thấy rằng tham nhũng hiện đang là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã áp dụng một loạt chính sách và các công cụ pháp lý có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các nỗ lực phòng chống tham nhũng. Cụ thể là Luật Phòng chống tham nhũng được thông qua năm 2005 và có hiệu lực vào tháng 7/2006 (sửa đổi bổ sung năm 2007 và 2012). Năm 2009, Chiến lược Quốc gia về Phòng chống Tham nhũng đến năm 2020 đã được xây dựng và ban hành. Hơn nữa, việc Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng và Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đã mang lại lực đẩy mới cho những nỗ lực phòng chống tham nhũng. Điều 10 Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia quy định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân thực hiện hành vi tham nhũng như sau:“Điều 10: Trách nhiệm pháp lý của pháp nhân: 1. Mỗi Quốc gia thành viên sẽ ban hành những
  • 35. biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc pháp lý của họ, để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc tham gia các tội phạm nghiêm trọng liên quan đến nhóm tội phạm có tổ chức và trong việc thực hiện những hành vi phạm tội được xác định tại điều 5, 6, 8 và 23 của Công ước này.2. Tuỳ theo những nguyên tắc pháp lý của Quốc gia thành viên, trách nhiệm pháp lý của pháp nhân có thể là hình sự, dân sự hay hành chính.3. Trách nhiệm pháp lý này không ảnh hưởng đến TNHS của các cá nhân thực hiện các hành vi phạm tội.4. Cụ thể, mỗi Quốc gia thành viên sẽ đảm bảo rằng các pháp nhân chịu trách nhiệm pháp lý theo điều này phải chịu các hình phạt hình sự hay phi hình sự có tính hiệu quả, tương xứng và có tác dụng ngăn ngừa, bao gồm cả những hình phạt bằng tiền”. Theo đánh giá sơ bộ, về cơ bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của công ước. Công ước chỉ quy định những vấn đề chung nhất về tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Trong khi đó ở mỗi quốc gia với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau, tội phạm có tổ chức ngoài những nét chung còn có những đặc thù riêng, tội phạm có tổ chức gây ảnh hưởng tới từng quốc gia cũng khác nhau. Vì vậy, việc tổ chức nghiên cứu, các quy định trong phòng chống tội phạm có tổ chức phải căn cứ vào đặc điểm riêng cũng như quy mô tổ chức, thủ đoạn hoạt động, tính chất nguy hiểm của loại tội phạm tội phạm này ở mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, trong những năm gần đây, thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh tế nước ta đã từng bước ổn định và không ngừng phát triển. Các lĩnh vực hành chính, văn hoá… đã từng bước được cải cách, đổi mới, đời sống xã hội không ngừng được cải thiện, thu nhập và đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được thì mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng ngày càng bộc lộ và tác động không nhỏ tới đời sống xã hội, làm cho tình hình an ninh, chính trị có những diễn biến phức tạp. Tình hình tội phạm
  • 36. có nhiều diễn biến phức tạp, sự xuất hiện của loại tội phạm có tổ chức với phương thức, thủ đoạn hoạt động mới, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới trật tự, kỷ cương xã hội, đến tư tưởng và niềm tin của quần chúng nhân dân với đường lối chính sách của Đảng. Tội phạm có tổ chức đang có chiều hướng gia tăng, có những dấu hiệu chuyển hoá từ những vấn đề tội phạm hình sự, kinh tế thông thường ảnh hưởng đến an ninh chính trị. Chính vì vậy kiến nghị được đưa ra là cần xây dựng các quy định về TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm tham nhũng. Việt Nam cần coi đây là nội dung ưu tiên để tránh vấn đề miễn trừ đối với pháp nhân tham gia tội phạm tham nhũng. 1.2. Những đòi hỏi của việc hội nhập quốc tế theo kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới 1.2.1. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Anh Trước cách mạng Pháp năm 1789, TNHS của pháp nhân đã được thừa nhận và lan tỏa khắp châu Âu, sau đó, do các nước xác lập nguyên tắc lỗi và cá thể hóa hình phạt trong luật hình sự nên dẫn tới hệ quả không chỉ xóa bỏ nguyên tắc TNHS đối với hành vi của người khác mà còn xóa bỏ cả nguyên tắc TNHS của pháp nhân. Tuy nhiên, ngay giữa thế kỷ XIX, các Tòa án Anh xuất phát từ chính sách hình sự mềm dẻo và những lý do khá thực dụng đã tái thiết lập TNHS của pháp nhân. Và kể từ sau cách mạng Pháp năm 1789, Anh là nước đầu tiên xác lập chế định TNHS của pháp nhân trong luật hình sự trên cơ sở các án lệ của tòa án, sau đó TNHS của pháp nhân lan tỏa ra toàn bộ các nước theo truyền thống Common Law như Hoa Kỳ, Canada, ôxtrâylia, Niu Dilân… Tại nước Anh, vào giữa thế kỷ XIX các công ty, tập đoàn kinh tế lớn đã được thành lập và phát triển cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Vai trò của các tổ chức này ngày càng lớn mạnh và nó đã khống chế các lĩnh vực
  • 37. kinh tế, chính trị, xã hội. Chủ nghĩa tư bản độc quyền hình thành, những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường bộc lộ sâu sắc. Lợi nhuận đã khiến các tổ chức kinh tế nói trên đưa ra những quyết định và thực hiện nhiều vụ án lớn mà hậu quả của nó là hàng loạt các quan hệ xã hội quan trọng bị xâm phạm, các lợi ích căn bản của xã hội và của người tiêu dùng bị chà đạp trong khi việc áp dụng các chế tài hành chính, dân sự đã không đủ sức ngăn chặn. Bởi vậy, xuất phát từ chính sách hình sự và những lý do khá thực dụng, các tòa án Common Law của Anh đã áp dụng chế định TNHS của pháp nhân. [18. Tr. 156, 157] Trong thực tiễn xét xử của Tòa án Anh thì pháp nhân có thể bị truy cứu TNHS về hầu hết các tội phạm được quy định trong “Common Law” và luật thành văn, chỉ trừ một số tội nghiêm trọng bị trừng trị bởi hình phạt tù hoặc hình phạt tử hình và không phải là hình phạt tiền; một số tội khác do bản chất của nó nên pháp nhân không thể thực hiện được như tội vi phạm chế độ một vợ một chồng; tội cưỡng dâm…Vương quốc Anh cũng thừa nhận TNHS của pháp nhân bên cạnh việc truy cứu TNHS đối với thể nhân phạm tội hối lộ theo những nguyên tắc được xác lập trong luật án lệ. [29, tr. 67] Nghiên cứu pháp luật của Anh cho thấy thực thể có tư cách pháp nhân phạm tội hối lộ trong luật hình sự Anh có thể là những thực thể tổ chức hoặc thực thể cá thể có tư cách pháp nhân nhưng cũng có thể là các nhóm, hội, hiệp hội…không có tư cách pháp nhân. Thực thể cá thể chỉ có một thành viên và những người kế thừa thành viên đó. Thực thể tổ chức liên kết là các công ty đăng ký theo luật công ty năm 1895, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn cổ phần; công ty bảo chứng; công ty trách nhiệm vô hạn. Hầu hết các công ty này là theo hình thức hợp nhất và vì thế có tư cách pháp nhân khác với tư cách pháp nhân của các thành viên công ty. Một công ty có thể được thành lập theo hai hình thức công ty tư nhân hoặc công ty công. Theo luật hình sự Anh,
  • 38. tất cả các công ty nêu trên đều có thể là chủ thể của tội phạm hối lộ và phải chịu TNHS. Với luật giải thích các đạo luật năm 1978 của Anh, mà theo đó, khái niệm cá thể bao gồm cả tổng thể những cá nhân liên kết với nhau mặc dù những nhóm, hội hoặc hiệp hội đó trong thực tế không có tư cách pháp nhân, tức là nó không có khả năng hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ pháp lý nhất định. Những nhóm, hiệp hội này theo luật hình sự Anh vẫn có thể coi là chủ thể của TNHS nếu phạm tội hối lộ. Để quy kết tội phạm cho pháp nhân nói chung và tội phạm hối lộ cho pháp nhân nói riêng, các Tòa án Anh đã vận dụng nguyên tắc đồng nhất hóa. Theo nguyên tắc này, các pháp nhân phải chịu TNHS về những hành vi phạm tội được thực hiện bởi những người có vị trị lãnh đạo trong pháp nhân, vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ các hoạt động của pháp nhân đó. Hay nói cách khác, hành vi của pháp nhân bị coi là tội phạm, nếu nó được thực hiện thông qua người có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc pháp nhân thực hiện các quyền của họ như thế nào và chính người này có các hoạt động để thực hiện các quyền ấy. Điều này được lý giải ở chỗ: ý chí cũng như những dự định của cơ quan điều hành, hội đồng quản trị, ban giám đốc hoặc của giám đốc, cũng chính là những người kiểm tra hoạt động của pháp nhân, nên pháp nhân phải chịu trách nhiệm trực tiếp về hành vi của những người này. Cũng cần nhấn mạnh là pháp nhân chỉ chịu TNHS về hành vi phạm tội của những người này nếu họ hành động hoặc không hành động trong khuôn khổ các quyền hạn hoặc chức năng của mình và vì lợi ích của pháp nhân. Và tất nhiên, trong trường hợp này, cá nhân trực tiếp thực hiện tội phạm cũng phải chịu TNHS đồng thời với pháp nhân về cùng một loại tội phạm. Pháp nhân sẽ không phải chịu TNHS nếu cá nhân đó đã hành động hoặc không hành động phạm tội gây thiệt hại cho pháp nhân.
  • 39. Về hình phạt, do sự phát triển của hình phạt tiền, nên pháp luật hình sự Anh chỉ quy định phạt tiền là hình phạt duy nhất được áp dụng đối với pháp nhân phạm tội hối lộ. Luật hình sự Anh cũng không quy định căn cứ quyết định hình phạt cũng như mức phạt tiền cụ thể cho từng tội phạm do tòa án xem xét quyết định trong các trường hợp cụ thể; nhưng thông thường, trong những trường hợp tổ chức và thể nhân cùng phải chịu TNHS, thì mức phạt đối với tổ chức cao hơn đối với thể nhân. 1.3.2. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Pháp Nếu như ở các nước theo truyền thống Common Law thì chế định TNHS của pháp nhân được áp dụng từ giữa thế kỷ XIX thì ở các nước Châu Âu lục địa đến cuối thế kỷ XX mới thiết lập chế định này trong luật thực định. Một trong các nước đó là nước Cộng hòa Pháp. TNHS của pháp nhân đã được thừa nhận ở Pháp trong dụ của vua I’ordonnance de Colbert năm 1960 và tiếp theo được mở rộng ra các nước khác. Sau cách mạng Pháp năm 1789, dưới ảnh hưởng của trường phái khai sáng – nhân văn và phong trào cải cách luật hình sự cùng với sự ghi nhận nguyên tắc lỗi và nguyên tắc cá thể hóa hình phạt dẫn đến không chỉ xóa bỏ nguyên tắc TNHS đối với hành vi của người khác mà còn không chấp nhận cả nguyên tắc TNHS của pháp nhân trong luật hình sự. Sang thế kỷ XVIII – XIX, cùng với cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển kinh tế nhanh chóng ở châu Âu, châu Mỹ, các công ty thương mại đầu tiên xuất hiện ở một số thành phố của các nước châu Âu, nơi có điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán, sau đó các công ty cổ phần cũng đã xuất hiện hàng loạt để đáp ứng nhu cầu cần tập trung nguồn vốn của các nhà đầu tư. Trong khoảng 100 năm trở lại đây, các công ty, tập đoàn, tổ chức kinh tế khác nhau ngày càng khằng định vị trí của mình trong đời sống kinh tế.
  • 40. TNHS của pháp nhân chính thức được quy định một cách có hệ thống đồng bộ trong BLHS 1994 của Pháp. [18, tr. 58] Liên quan đến các tội phạm mà pháp nhân phải chịu TNHS thì BLHS Pháp năm 1994 đã liệt kê cụ thể các tội phạm mà pháp nhân có thể thực hiện trong phần các tội phạm của BLHS hoặc trong các Nghị định hoặc các luật riêng biệt (điều 112-2 khoản 2 BLHS Pháp năm 1994). Quy định này đòi hỏi khi quy kết TNHS đối với pháp nhân, Tòa án Pháp cần phải nghiên cứu các luật hoặc các nghị định chuyên biệt có quy định TNHS của pháp nhân hay không. Điều này đã hạn chế phạm vi áp dụng TNHS đối với nhiều pháp nhân bên đã bị nhiều nhà khoa học luật hình sự phê phán gay gắt và thực tế xét xử của tòa án sau 10 năm áp dụng quy định này cũng đã chỉ ra sự bất hợp lý của nó. Vì vậy khoản 2 Điều 121-2 BLHS đã được xóa bỏ bởi Điều 54 luật ngày 9/2/2004. Điều đó có nghĩa là TNHS của pháp nhân được áp dụng hầu như mọi tội phạm do pháp nhân thực hiện. Điều 433-25 BLHS Pháp năm 1994 quy định TNHS của pháp nhân phạm tội đưa hối lộ. Theo đó pháp nhân sẽ phải chịu TNHS về hành vi đưa hối lộ được thực hiện bởi người đại diện hợp của pháp nhân vì lợi ích của pháp nhân. Điều 121-2 còn nhấn mạnh TNHS của pháp nhân không loại trừ TNHS của bất kì cá nhân nào là người thực hiện tội phạm hoặc đồng phạm về cùng một hành vi. Chủ thể của TNHS của pháp nhân phạm tội đưa hối lộ rất rộng. Nó bao gồm cả các tổ chức theo luật tư và cả các tổ chức theo luật công. Các pháp nhân theo luật tư là những pháp nhân được thành lập theo quy định của luật tư (chủ yếu là luật dân sự hoặc luật thương mại) nhằm mục đích kinh doanh sinh lời hoặc phục vụ lợi ích khác không nhằm thực thi quyền lực công, như: các hiệp hội đã đăng ký hợp lệ, các giáo đoàn, các công đoàn, các đảng phái và các nhóm chính trị…Các pháp nhân theo luật công là những pháp nhân được
  • 41. nhà nước thành lập nhằm thực hiện các hoạt động phục vụ lợi ích chung cho xã hội. Hoạt động của các tổ chức này thuộc sự chi phối của luật công (chủ yếu là luật hành chính). Tuy nhiên luật hình sự Pháp cũng quy định nhà nước và các tập thể lãnh thổ, các tổ chức của nó không phải chịu TNHS. Các pháp nhân này khi là chủ thể TNHS của tội đưa hối lộ sẽ phải có tư cách pháp nhân. Về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân phạm tội đưa hối lộ thì theo quy định tại Điều 432-11 và Điều 433-1 BLHS Pháp 1994 khi pháp nhân phạm tội đưa hối lộ sẽ bị phạt tiền 150000 euro. Bên cạnh hình phạt tiền, BLHS Pháp còn quy định một số hình phạt bổ sung áp dụng đối với pháp nhân phạm tội đưa hối lộ như tịch thu tài sản, bồi thường thiệt hại… 1.3.3. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong Luật hình sự Trung Quốc Trong lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Trung Quốc kể từ khi được thành lập đều không thừa nhận TNHS của pháp nhân. Sau hơn 20 năm cải cách, kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, tình hình tội phạm do các thực thể kinh tế diễn ra ngày càng nhiều và diễn biến vô cùng phức tạp. Để tăng cường hiệu quả trong phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tội phạm thì BLHS Trung Quốc năm 1997 đã chính thức thiết lập chế định TNHS của pháp nhân với tư cách là một nguyên tắc chung của pháp luật hình sự. Điều 31 BLHS Trung Quốc hiện hành quy định rõ ràng là các công ty, xí nghiệp, đơn vị sự nghiệp, cơ quan, đoàn thể chỉ chịu TNHS về những tội phạm mà phần riêng của BLHS hoặc trong các đạo luật chuyên ngành có quy định dạng TNHS này. Như vậy, BLHS Trung Quốc chấp nhận một hệ thống liệt kê cụ thể các tội phạm mà các thực thể trên có thể trên có thể thực hiện trong Phần riêng BLHS mới hoặc trong các đạo luật chuyên biệt.
  • 42. Cùng với công cuộc cải cách kinh tế đang ngày càng đi vào chiều sâu, đấu tranh chống tham nhũngở Trung Quốc cũng ngày càng quyết liệt. Pháp luật hình sự chống tham nhũng của Trung Quốc không ngừng phát triển, hoàn thiện và đã có những tác động tích cực, cũng như thể hiện được những bản sắc riêng trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước này. Điều 387 BLHS Trung Quốc quy định TNHS của pháp nhân phạm tội nhận hối lộ: “Cơ quan nhà nước, công ty, xí nghiệp quốc doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp, đoàn thể nhân dân đòi tiền hoặc nhận tiền một cách phi pháp của người khác để làm lợi cho họ, có tình tiết nghiêm trọng, thì sẽ bị phạt tiền; đối với những người phụ trách trực tiếp và những nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác, sẽ bị xử phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động. Các đơn vị được nên trên đây, trong trao đổi kinh tế, nhận tiền hoa hồng, phí thủ tục nằm ngoài sổ sách dưới bất kỳ danh nghĩa nào đều bị coi là tội nhận hối lộ và sẽ bị xử phạt theo quy định trên”. Hay như Điều 396 BLHS Trung Quốc quy định TNHS của pháp nhân phạm tội tham ô tài sản: “Cơ quan nhà nước, công ty, xí nghiệp quốc doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp, đoàn thể nhân dân vi phạm quy định của Nhà nước, tập thể tự ý lấy danh nghĩa đơn vị đem tài sản nhà nước để phân chia các cá nhân, với số lượng tương đối lớn, thì người phụ trách trực tiếp và những người chịu trách nhiệm trực tiếp khác sẽ bị phạt tù đến 3 năm hoặc cải tạo lao động, kèm phạt tiền hoặc chỉ bị phạt tiền. Nếu số lượng lớn sẽ bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm và bị phạt tiền. Cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính vi phạm quy định của Nhà nước, không nộp tài sản tịch thu được cho Nhà nước mà lấy danh nghĩa là đơn vị chia cho các cá nhân, sẽ bị xử phạt theo quy định trên”. Pháp nhân là chủ thể của tội phạm nhận hối lộ trên là cơ quan nhà nước, công ty, xí nghiệp quốc doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp, đoàn thể nhân dân. Cơ quan nhà nước là chỉ các tổ chức thực hiện chức năng lãnh đạo,
  • 43. quản lý và bảo vệ an toàn quốc gia của Nhà nước như cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp và cơ quan quân sự. Công ty là tổ chức kinh tế tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh vì mục đích doanh lợi, bao gồm cả công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế xã hội mang tính doanh lợi với nội dung hoạt động là sản xuất, lưu thông, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhằm mục đích thu lợi, tăng thêm tích lũy, làm giàu cho xã hội. Công ty cũng là một loại hình doanh nghiệp nhưng các doanh nghiệp nói ở đây chỉ là các doanh nghiệp ngoài các công ty đã nêu. Đoàn thể chỉ là các tổ chức mang tính quần chúng như công đoàn, đoàn thanh niên, hội liên hiệp phụ nữ, hiệp hội, hội khoa học…Như vậy, với các quy định của Điều luật về tội phạm chức vụ trên, cho thấy chủ thể chịu TNHS là rất rộng, nó bao gồm các pháp nhân theo luật tư và các pháp nhân theo luật công và chủ thể chịu TNHS của pháp nhân bao gồm các thực thể có tư cách pháp nhân và các thực thể không có tư cách pháp nhân. Về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân phạm các tội về chức vụ thì BLHS Trung Quốc chỉ quy định hình phạt tiền là hình phạt duy nhất được áp dụng đối với pháp nhân. Do đặc điểm chính trị, kinh tế -xã hội của Trung Quốc có phần giống với Việt Nam, hơn nữa cũng là nước đang trong quá trình chuyển đổi, nên việc nghiên cứu những kinh nghiệm của nước này về việc nghiên cứu để có thể xây dựng và áp dụng TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ trong tương lai là việc làm nên được xúc tiến để nếu có thể thì tiếp thu có chọn lọc nhằm bổ sung, hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam. 2.3. Những đòi hỏi từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về chức vụ ở nƣớc ta hiện nay