SlideShare a Scribd company logo
1 of 123
Download to read offline
1
Luận văn
Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục
người khác ở nước ta hiện nay
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được
pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết
là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là
những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 71 Hiến
pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung,
bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam
khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền
vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn
đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, tất cả vì con người và cho con người. Nhà nước Việt Nam không chỉ
khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung, nhân phẩm,
danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết sức mình để bảo đảm thực
hiện trên thực tế.
3
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt được,
trong thời gian qua, cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có nhiều
vấn đề mới phát sinh có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó tình hình tội làm nhục người khác, xúc phạm nhân phẩm, danh dự
của người khác đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, được dư luận rất quan
tâm, theo dõi. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác đã
đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu,
giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội
làm nhục người khác, nguyên nhân, điều kiện của tội làm nhục người khác...
Về mặt lý luận, xung quan vấn đề đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người
khác, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, “Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục
người khác ở nước ta hiện nay”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận,
mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội làm nhục người khác là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp,
đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, tội làm nhục người
khác được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu như
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học
quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật
hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm
1992, 1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục
4
vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa
học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998…
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, tội làm nhục người
khác được đề cập trong công trình: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.
Th.S. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S
Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học
Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S
Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002…
Các công trình nói trên đã đề cập tội làm nhục người khác dưới góc độ
pháp lý hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
và có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và
tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội làm nhục người khác, đề xuất những giải pháp mang tính hệ
thống, đồng bộ để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
này.
Nhiệm vụ của luận văn
5
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của
tội làm nhục người khác; phân tích những quy định của pháp luật hình sự một
số nước trên thế giới về tội phạm này.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người
khác, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này; dự báo tình tội làm nhục
người khác trong những thời gian tới.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội làm nhục người khác.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác dưới góc độ pháp lý
hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ năm 1997 đến năm
2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội làm
nhục người khác nói riêng.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án
về tội làm nhục người khác; các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án
nhân dân tối cao về tội làm nhục người khác.
6
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: lịch sử,
lôgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều tra xã
hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội
phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về
khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội làm nhục người khác;
những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này trong pháp luật
hình sự hiện hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về tội làm nhục người khác trong
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về
lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải
pháp được đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá thực đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác ở
Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân, điều kiện của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
7
chống tội làm nhục người khác ở nước ta. Thông qua công trình nghiên cứu
này, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm làm nhục người khác là loại tội phạm có tính nhạy cảm
rất cao hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
cơ quan bảo vệ pháp luật...
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 114 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, mục.
8
Chương 1
TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY
ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ phong kiến và Pháp
thuộc
Tội làm nhục người khác là một trong những tội phạm được đề cập rất
sớm trong luật hình sự Việt Nam.
Thời kỳ phong kiến, trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) là
“Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê”, cũng là “Bộ
luật xưa nhất còn được lưu giữ đầy đủ ở nước ta” đã đề cập tội làm nhục người
khác tại các điều 489, 491 492, 496. Điều 489 quy định: “Học trò mà đánh và
lăng mạ thầy học, thì xử nặng hơn tội (đánh, lăng mạ) người thường ba bậc;
đánh chết thì phải tội chém "[10, tr. 178]. Đây là quy định mang tính nhân
văn, thể hiện truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, để cho quy tắc đạo
đức “thầy ra thầy, trò ra trò” được thực hiện nghiêm chỉnh. Điều 495 Bộ luật
còn quy định: “Lăng mạ vợ của quan tại chức, thì bị tội cùng tiền tạ, đều xử
giảm tội lăng mạ người chồng ba bậc; lăng mạ đối với con thì tội lại xử giảm
một bậc nữa” [10, tr. 180].
Trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) được biên soạn trong một
thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 được khắc in lần đầu ở
Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc, tội làm nhục
người khác được đề cập tại các điều 293, 294, 295, 296, 297, 298, 299, 300.
9
Điều 293 quy định: “Phàm mắng người thì bị phạt 10 roi. Cùng mắng nhau, thì
mỗi người bị phạt 10 roi” [9, tr. 810].
Đáng lưu ý, hành vi làm nhục người khác những người thuộc giai cấp
bị trị thực hiện, bị trừng phạt rất nặng trong Hoàng Việt luật lệ. Điều đó cho
thấy, pháp luật hình sự bao giờ cũng mang tính giai cấp, được sử dụng để bảo
vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Điều 296 Bộ luật quy định: “Phàm nô tì
mắng gia trưởng thì bị phạt treo cổ (giam chờ), mắng hàng kỳ thân của gia
trưởng và ông bà ngoại của gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ hai năm, đại
công thì bị phạt 80 trượng, hàng tiểu công thì bị phạt 70 trượng, hàng ti ma thì
bị phạt 60 trượng. Nếu kẻ làm công mắng gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ
hai năm. Mắng hàng kỳ thân và ông bà ngoại gia trưởng thì phạt trăm trượng,
mắng hàng đại công thì phạt 60 trượng, mắng hàng tiểu công thì phạt 50 roi,
mắng hàng ti ma bị phạt 40 roi, bị thưa lên là bị tội. (Đó là nói cho rõ, trong
qua lại e có sự nghe lầm, cho nên phải chính người ấy nghe, có thể vì tình mà
bỏ qua, hay có ý giấu đi, cho nên phải chính người ấy thưa lên” [9, tr. 812 –
813].
Dưới thời Pháp thuộc, để bảo đảm thực hiện mục tiêu kinh tế thực dân,
thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thực hành chính sách chuyên chế về chính
trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho dân
ta bất cứ quyền tự do, dân chủ nào. Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự do
thực dân Pháp đặt ra là để bảo vệ chế độ thực dân, phong kiến. Tội làm nhục
người khác cũng được đề cập trong pháp luật hình sự thời gian này, nhưng là
để bảo vệ nhân phẩm, danh dự của giai cấp thống trị, bóc lột. Trên tinh thần
đó, Điều 154 Luật hình An Nam quy định: "Trong khi quan lại đương làm
chức vụ, người nào lấy văn từ, ngôn ngữ, thư chỉ và làm việc gì hay là dọa
điều gì, để cho mất danh dự, thể diện của các viên quan lại ấy, phải phạt giam
từ một tháng đến hai năm, và phạt bạc từ hai mươi đồng đến hai trăm đồng"
10
[46, tr. 25]. Tương tự như vậy, Điều 222 Hình luật canh cải quy định: "Người
nào xỉ mạ quan bên chánh trị, bên Tòa hội đồng thẩm án, trong lúc mấy vị ấy
làm việc bổn phận hoặc dùng lời nói mà xỉ mạ, hoặc viết chữ hoặc vẽ hình mà
không có truyền ra ngoài, trong các cách ấy hoặc nói xấu cho danh giá, cho sự
liêm sỉ của các vị ấy, thì phải bị phạt tù từ 15 ngày cho tới 2 năm" [17, tr.54];
Điều 320 Hoàng Việt hình luật quy định: "Dùng lời nói, hoặc giấy má, viết tay
hay giấy in, bức vẽ hoặc những phương pháp khác mà lỵ mạ một người viên
chức đương khi làm chức vụ hay là nhân khi làm chức vụ, bất kỳ là công việc
hay không cũng gọi là lỵ mạ và chiếu theo Điều 145 chương thứ 12 mà nghĩ
xử" [18, tr. 445].
1.1.2. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự năm
1985 ra đời
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, đã ban
hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, nhằm bảo vệ chính
quyền nhân dân, chống thực dân Pháp, trừng trị bọn việt gian phản động.
Do tình hình kháng chiến diễn ra hết sức khẩn trương, không thể ban
hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp
luật hình sự cần thiết nói riêng, ngày 10-10-1945, Nhà nước ta đã ban hành
Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình
An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với
điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể
dân chủ cộng hòa" [34, tr. 190]. Trong bối cảnh này, việc đấu tranh chống
tội làm nhục người khác chưa được đặt ra.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
11
sai thống trị. Ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở
miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong thời kỳ này, đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân
phầm, danh dự của con người, pháp luật hình sự chủ yếu đề cập các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe như giết người, gây thương tích, làm chết người
trong Thông tư số 442-TTg ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ, mà
chưa có văn bản pháp luật hình sự nào quy định về các tội xâm phạm danh dự,
nhân phẩm nói chung, về tội làm nhục người khác nói riêng. Ngày 15-06-
1960, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 có đề cập tội hiếp dâm,
nhưng chưa đề cập tội làm nhục người khác. Trên cơ sở các kinh nghiệm mà
thực tiễn xét xử đã đúc kết được trong thời gian trước đó, ngày 11-05-1967,
Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối
xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục, đề cập một cách
toàn diện 4 hình thức phạm tội: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với người dưới
16 tuổi, dâm ô, nhưng vẫn chưa đề cập tội làm nhục người khác [39, tr. 389].
Sau khi miền Nam được giải phóng, trong khi chờ đợi thống nhất nước
nhà về mặt Nhà nước, trên thực tế về hình thức, tạm thời tồn tại hai Nhà nước:
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt
Nam; mỗi Nhà nước có pháp luật riêng [20, tr.35]. Nhà nước Cộng hòa miền
Nam Việt Nam đã ban hành ngay một số chính sách, văn bản quy phạm pháp
luật hình sự nhằm phục vụ thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững chắc
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở nửa đất nước mới được giải phóng.
Cùng với việc ban hành Sắc luật về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện
Kiểm sát nhân dân, Sắc luật quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở,
12
đồ vật của Người phạm tội, Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban
hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15-3-1976 quy định các tội phạm và hình
phạt. Sắc luật này được áp dụng trong phạm vi toàn quốc trước khi Bộ luật
hình sự được ban hành.
Sắc luật số 03-SL/76 có quy định về các tội xâm phạm đến thân thể và
nhân phẩm của công dân một cách đầy đủ hơn so với Thông tư số 442-TTg
ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ Điểm d Điều 5 Sắc luật quy định:
“Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của công dân thì bị phạt
tù từ 3 tháng đến 5 năm những kẻ lập công chuộc tội" [40, tr. 236]. Trên cơ sở
quy định này, các Tòa án đã vận dụng xử lý một số trường hợp phạm tội làm
nhục người khác.
1.1.3. Tội làm nhục người khác thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985 đến nay
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành được một số thành tựu nhất định
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự
phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều
khó khăn và khuyết điểm do duy trì quá lâu cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp,
nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình
hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Về mặt lập pháp hình sự, các văn
bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy
đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc ban
hành Bộ luật hình sự là vấn đề mang tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý
nghĩa góp phần phục vụ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 27-6-1985,
tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
13
VII, đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi
tắt là Bộ luật hình sự năm 1985).
Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu lập
pháp hình sự Việt Nam, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong
thời gian tới.
Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tiếp theo việc quy định các tội xâm
phạm an ninh quốc gia ở chương 1, nhà làm luật đã quy định các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự ở chương 2 và quy định các
tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân ở chương 3. Đây là hai
chương của Bộ luật hình sự bao gồm những quy phạm pháp luật trực tiếp bảo
vệ con người với tính chất là chủ thể của các quan hệ xã hội. Bộ luật hình sự
năm 1985 quy định tội làm nhục người khác tại Điều 116, tội làm nhục người
chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 253, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 254, tội làm
nhục đồng đội tại Điều 255. Việc Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính
thức ghi nhận về mặt pháp lý tội làm nhục người khác, tội làm nhục người chỉ
huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới, tội làm nhục đồng đội, đánh dấu sự
trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ
nhân phẩm, danh dự của con người
Bộ luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội làm nhục người
khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác
và quy định hai khung hình phạt. Khung cơ bản có mức phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Khung tăng
nặng có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ
3 tháng đến 2 năm. Đây là những trường hợp người phạm tội đã có hành vi
làm nhục người thi hành công vụ để cản trở người đó thi hành công vụ hoặc để
14
trả thù người đó vi đã thi hành công vụ, ảnh hưởng tới lợi ích của người phạm
tội hay người thân hoặc gia đình họ.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên
cạnh những mặt tích cực, mặt trái nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh
nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Bộ luật
hình sự năm 1985 được ban hành trong thời kỳ của cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp, cho nên tuy đã phản ánh được nhu cầu bức xúc của cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm thời kỳ đó, nhưng ở một mức độ nhất định vẫn chịu
ảnh hưởng nhất định của cơ chế đó. Vì vậy, Bộ luật này không phù hợp cho
việc bảo vệ các quan hệ phát sinh trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1985 còn có những hạn chế
nhất định về kỹ thuật lập pháp hình sự nhiều tội danh được quy định quá
chung chung; một số hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội khác nhau nhưng lại được quy định trong một điều luật với cùng một
chế tài; khung hình phạt trong nhiều điều luật quá rộng, dễ dẫn đến tiêu cực...
Hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự năm 1985 là qua bốn lần sửa đổi, bổ
sung, Bộ luật này đã không còn là một chỉnh thể thống nhất.
Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi
toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985 là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách
quan. Ngày 21-12-1999, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa X, đã thông qua Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ
luật hình sự năm 1999), thay thế cho Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình
sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 1-7-2000. Bộ luật hình sự năm 1999 quy
15
định tội làm nhục người khác tại Điều 121, tội làm nhục người chỉ huy hoặc
cấp trên tại Điều 319, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 320, tội làm nhục đồng
đội tại Điều 321.
So với Bộ luật hình sự năm 1985, những quy định về tội làm nhục
người khác trong Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm mới cơ bản như
sau:
Thứ nhất, quán triệt chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc xử
lý hình sự đối với những người thực hiện các hành vi xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người là nghiêm khắc hơn,
khung cơ bản Điều 121 quy định tội làm nhục người khác có mức phạt cảnh
cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 là
một năm).
Thứ hai, khung tăng nặng có mức phạt tù từ một năm đến ba năm
(trong Bộ luật hình sự năm 1985 là cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc
bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm).
Thứ ba, bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng hình phạt như
phạm tội nhiều lần, đối với nhiều người, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, đối với
người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.
Thứ tư, quy định thêm hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một
năm đến năm năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 không có quy định này).
1.2. TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM
1999
1.2.1. Khái niệm tội làm nhục người khác
Tội làm nhục người khác có mối quan hệ chặt chẽ với danh dự và nhân
phẩm con người. Cho nên, để có thể làm sáng tỏ khái niệm tội làm nhục người
16
khác, cần làm rõ khái niệm danh dự, nhân phẩm con người.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người là vốn quý nhất. Đối với con
người, chẳng những tính mạng, sức khỏe là vô giá mà danh dự, nhân phẩm
cũng không kém phần quan trọng. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người đều rất thân thiết đối với con người và là
những quyền quan trọng nhất trong các quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp ghi nhận và bảo hộ. Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân
có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân
phẩm”.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “danh dự là phạm trù đạo đức chỉ
lòng tôn trọng của con người trong mọi cử chỉ, hành vi của mình” [50, tr.
647]. Người có danh dự biết tôn trọng lời mình đã hứa và có ý thức bảo vệ
danh dự của mình, của dòng họ, của đoàn thể, Tổ quốc mình. Mất danh dự có
nghĩa là mất sự tin yêu, mến phục của người khác và đối với người có danh
dự, thì đó là tổn thất lớn nhất.
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm nhân phẩm. Theo Đại từ
điển tiếng Việt, "nhân phẩm là phẩm chất và giá trị con người" [29, tr. 1762 –
1323].
Nhân phẩm và danh dự là những giá trị nội tại, vốn có được hình thành
và phát triển cùng với sự phát triển và hoàn thiện của con người về mặt nhân
tính. Đây là thuộc tính chung của tất cả các cá nhân trong cộng đồng nhân
loại, không dựa trên bất kỳ sự phân biệt hay khác biệt nào về địa vị xã hội,
kinh tế, chính trị, chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, … Nhân phẩm và
danh dự của con người chính là những cái làm nên sự khác biệt và cũng là
bước tiến vượt bậc của con người với phần còn lại của giới tự nhiên. Vì chúng
là những giá trị chỉ thuộc tính chung của con người, do vậy, tôn trọng nhân
phẩm, danh dự của mỗi cá nhân con người là sự tôn trọng đối với chính mình,
17
đối với đồng loại. Tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tôn trọng
những giá trị của con người, nhờ đó con người thực hiện được sự công bằng
và bình đẳng.
Tội làm nhục người khác phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội
phạm, mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc
điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình
sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi
[37, tr. 105].
Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái
niệm tội làm nhục người khác.
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng, “Tội làm nhục người khác là
hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.” [38, tr.
158].
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật
- Hà Nội cũng cho rằng, “Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác” [49, tr. 335].
Từ sự phân tích các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa
ra khái niệm tội làm nhục người khác như sau: Tội làm nhục người khác là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình
thức lỗi cố ý, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
1.2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng và hình phạt
được áp dụng đối với tội làm nhục người khác
18
1.2.2.1. Khách thể của tội phạm.
Là một loại hoạt động của con người, nên cũng như các loại hoạt động
khác, tội phạm cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức,
độc lập với ý thức của chủ thể, nhưng không phải để cải biến mà gây thiệt hại
cho chính những khách thể đó.
Trong hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị, các quan hệ xã hội có ý nghĩa khác nhau đối với sự phát triển của xã
hội được Nhà nước bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật khác nhau. Khách thể
bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định cần
được bảo vệ bằng những quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội
đó sẽ là khách thể của tội phạm trong trường hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc
bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định. Như vậy, khách thể của tội phạm
là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [49, tr.
61].
Công dân Việt Nam có quyền bát khả xâm phạm về thân thể và được
pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Tôn trọng và
bảo vệ danh dự, nhân phẩm của mỗi công dân là trách nhiệm của mọi người.
Đối với tội làm nhục người khác, khách thể của tội phạm là nhân
phẩm, danh dự của con người.
1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm.
Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra
hoặc tồn tại bền ngoài, mà con người có thể trực tiếp nhận biết được. Đó là:
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cũng như mối quan hệ giữa hành vi
khách quan và hậu quả.
19
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công
cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...).
Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội
phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội làm nhục người khác là mặt bên ngoài
của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên
ngoài thé giới khách quan. Mặt khách quan của tội làm nhục người khác là
một trong bốn yếu tố của tội phạm. Không có mặt khách quan thì cũng không
có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm.
Trong mặt khách quan của tội làm nhục người khác, hành vi khách
quan là biểu hiện cơ bản. Những biểu hiện khác của mặt khách quan của tội
làm nhục người khác chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan.
Hành vi khách quan của tội làm nhục người khác luôn luôn được thể
hiện dưới hình thức hành động phạm tội – là hình thức của hành vi phạm tội
làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho
nhân phẩm,, danh dự con người quan việc chủ thể làm một việc bị pháp luật
cấm như bằng lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự của người khác như xỉ nhục, nhạo báng, chửi rủa thậm tệ, lột trần
truồng người bị hại trước đám đông, dùng phân lợn đổ vào người bị hại… Ví
dụ: tại Bản án hình sự phúc thẩm số 3888/HSPT ngày 29-10-2004, Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội kết luận: do nghi ngờ ông Nguyễn Ngọc Ninh xúi
giục bà Trần Thị Vượng tranh chấp đất với gia đình Phạm Thanh Bình, nên
sáng này 04-03-2004, trong lúc Bình cãi nhau với gia đình bà Vượng, thấy ông
Ninh, Bình lên tiếng: “thằng nào đi vào lối tranh chấp Bình sẽ chặt chân”, ông
Ninh thấy vậy đi ra khỏi cổng gia đình bà Vượng. Bình lấy xô nước đựng sẵn
phân lợn ở cổng đến chỗ ông Ninh, dùng hai tay hất xô nước phân lợn vào
đầu, người ông Ninh. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng, hành vi
phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến
20
danh dự, nhân phẩm của công dân. Phạm Thanh Bình đã phạm tội làm nhục
người khác được quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999.
Hành vi làm nhục người khác có thể được thực hiện công khai trước
mặt người đó hoặc vắng mặt người bị hại, nhưng người phạm tội có ý thức để
cho người bị hại biết việc lăng nhục đó vì động cơ cá nhân. Sự xúc phạm nhân
phẩm, danh dự của người khác phải đến mức nghiêm trọng thì mới truy cứu
trách nhiệm hình sự. Đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phải căn cứ
vào thái độ, nhận thức của người phạm tội, cường độ và thời gian kéo dài của
hành vi; vị thế, vai trò của người bị hại trong gia đình, tổ chức hoặc trong xã
hội; dư luận xã hội về hành vi lăng nhục đó.
Nếu hành vi làm nhục người khác dẫn đến người bị hại tự sát, thì phải
coi đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm K
khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tội làm nhục người khác là tội phạm mà pháp luật hình sự quy định có
cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội
có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của
người khác. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm của tội làm nhục người khác.
Tuy pháp luật hình sự không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc
của tội làm nhục người khác, nhưng điều đó không có nghĩa là hậu quả không
xảy ra. Thực tế cho thấy, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự
của người khác có thể gây ra thiệt hại to lớn về mặt tinh thần đối với người bị
hại, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Hậu quả không có ý nghĩa trong
việc định tội, nhưng việc xác định hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
làm nhục người khác với thiệt hại xảy ra, có ý nghĩa quan trọng đối với việc
giải quyết trách nhiệm hình sự và hình phạt.
21
Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan đã được trình bày
ở trên, thuộc mặt khách quan của tội làm nhục người khác còn có những nội
dung biểu hiện khác. Đó là công cụ, phương tiện, phuơng thức, thủ đoạn phạm
tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội.
Đối với tội làm nhục người khác, phương tiện, công cụ, phuơng thức,
thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội không phải là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, đây là những yếu tố có thể
ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, do vậy chúng được
coi là những tình tiết cần được xem xét khi quyết định hình phạt.
1.2.2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội làm nhục người khác phải là người có năng lực trách
nhiệm hình sự. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi đó.
Đối với làm nhục người khác, người có năng lực trách nhiệm hình sự được
hiểu là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm danh dự của người khác và có khả
năng điều khiển hành vi đó.
Tội làm nhục người khác có mức tối đa của khung hình phạt là ba năm
tù, cho nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, đây là
tội phạm ít nghiêm trọng. Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định: “1.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”.
22
Như vậy, chủ thể của tội làm nhục người khác phải từ đủ 16 tuổi trở
lên.
1.2.2.4.Mặt chủ quancủa tội phạm
Nếu mặt khách quan của tội làm nhục người khác là mặt bên ngoài, thì
mặt chủ quan là mặt bên trong, là hoạt động tâm lý của người phạm tội. Mặt
chủ quan của tội làm nhục người khác gồm ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và
mục đích phạm tôi.
Tội làm nhục người khác được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xúc phạm nhân
phẩm, danh dự của người khác nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó.
Trong khoa học luật hình sự, động cơ phạm tội được hiểu là động lực
bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý, còn mục
đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải
đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.
Động cơ phạm tội, mục đích phạm tội của người phạm tội làm nhục
người khác không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Thực tiễn
điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, người thực hiện hành vi làm nhục người khác
có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau như ghen tuông, thù oán, trả
thù... và nhằm những mục đích khác nhau như làm nhục người khác vì vụ lợi,
gây đau khổ cho người bị hại... Người phạm tội làm nhục người khác, cho dù
xuất phát từ bất cứ động cơ, mục đích gì, cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, phải xem xét động cơ phạm tội, mục đích
phạm tội của người phạm tội làm nhục người khác.
1.2.2.5. Hình phạt được áp dụng đối với tội làm nhục người khác
Trong pháp luật hình sự hiện hành, hình phạt chính được quy định đối
với tội làm nhục người khác bao gồm: hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
23
giữ và hình phạt tù có mức tối đa là ba năm tù. Khoản 1, khoản 2 Điều 121 Bộ
luật hình sự năm 1999 quy định: “1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân
phẩm, danh dự của người khác thì, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
một năm đến ba năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn:
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.
Phạm tội nhiều lần là trường hợp thực hiện tội làm nhục người khác
mà trước đó người phạm tội đã phạm tội này ít nhất một lần và chưa bị xét xử.
Hành vi phạm tội trong trường hợp này là sự lập lại tội làm nhục người khác
đã thực hiện trước đó, cho nên có mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình
thường.
Phạm tội đối với nhiều người là trường hợp xúc phạm nghiêm trọng
nhân phẩm, danh dự của hai người trở lên, có thể cùng một lần hoặc nhiều lần
khác nhau.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là trường hợp người phạm
tội làm nhục người khác đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để dễ dàng
thực hiện tội phạm. Tính nguy hiểm của những trường hợp lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội làm nhục người khác là ở chỗ, chúng không những
xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, mà còn xâm
phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước.
24
Phạm tội đối với người đang thi hành công vụ là trường hợp xúc phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự mà người bị hại là người đang thi hành
công vụ.
Công vụ ở đây được hiểu là những công việc vì lợi ích chung mà việc
thực hiện công việc đòi hỏi người thi hành phải có những quyền nhất định đối
với công dân khác. Tính nguy hiểm của những trường hợp làm nhục người
khác đối với người đang thi hành công vụ là ở chỗ chúng không chỉ xâm phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người, mà còn xâm phạm nghiêm
trọng đến trật tự công cộng, cản trở hoạt động chung của xã hội, gây ảnh
hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự, bởi lẽ khi thi hành công vụ, người bị
hại thay mặt Nhà nước, chứ không phải nhân danh cá nhân họ.
Phạm tội đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho
mình là trường hợp làm nhục người khác mà người bị hại là người có quan hệ
đặc biệt đối với người phạm tội.
Người dạy dỗ người phạm tội là thầy, cô giáo trong hệ thống các
trường đào tạo, giáo dục của Nhà nước hoặc của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị – xã hội, cũng có thể chỉ là người dạy dỗ theo một hợp đồng dân sự
như gia sư, huấn luyện viên… Người nuôi dưỡng người phạm tội là người có
trách nhiệm nuôi dưỡng người phạm tội do quan hệ huyết thống như bố mẹ
đối với con cái, ông bà đối với cháu, anh chị đối với em; do quan hệ hôn nhân
như người vợ hoặc người chồng không còn khả năng lao động phải sống nhờ
vào người vợ hoặc chồng; có thể do quan hệ xã hội mà phát sinh mối quan hệ
giữa người có trách nhiệm nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng như nuôi
dưỡng trẻ mồ côi, nuôi dưỡng thương bệnh binh, nuôi dưỡng người cao tuổi
cô đơn, nuôi dưỡng bệnh nhân… Người chăm sóc người phạm tội là những
người theo nghĩa vụ hoặc hợp đồng có trách nhiệm chăm sóc người phạm tội.
Nói chung, người có trách nhiệm nuôi dưỡng, đồng thời có trách nhiệm chăm
25
sóc, nhưng cũng có trường hợp người có trách nhiệm chăm sóc, nhưng không
có trách nhiệm nuôi dưỡng. Người chữa bệnh cho người phạm tội là những
người thầy thuốc như bác sĩ, y tá, nhân viên y tế; họ có thể đồng thời là người
nuôi dưỡng, chăm sóc cho người phạm tội, nhưng có thể chỉ chữa bệnh cho
người phạm tội, còn chăm sóc, nuôi dưỡng người phạm tội là người khác.
Trong mối quan hệ đặc biệt với những người kể trên, người phạm tội
hơn ai hết phải biết ơn và kính trọng người bị hại. Với hành vi phạm tội của
mình, người phạm tội làm nhục người khác không chỉ vi phạm pháp luật hình
sự, mà còn vi phạm nghiêm trọng đạo lý làm con, cháu, làm học trò, làm
người được nuôi dưỡng. Đây là trường hợp phạm tội vừa bị pháp luật hình sự
trừng trị, vừa bị dư luận xã hội lên án về mặt đạo đức.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 121, người phạm tội làm nhục người
khác còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
1.2.3. So sánh tội làm nhục người khác với một số tội phạm khác có
liên quan
1.2.3.1. So sánh tội làm nhục người khác với các tội: tội làm nhục
người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội.
Trước hết, cần phân biệt khách thể của tội làm nhục người khác với
khách thể của các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục
cấp dưới và tội làm nhục đồng đội.
Đối với tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên: trong quân đội, các
quân nhân phải giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng và nghiêm chỉnh tuân
theo những yêu cầu về sinh hoạt xã hội. Trong quan hệ cấp trên, cấp dưới, mọi
quân nhân phải kính trọng và tuyệt đối phục tùng người chỉ huy hoặc cấp trên.
Hành vi làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên xâm phạm nghiêm trọng mối
26
quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người
chỉ huy hoặc cấp trên.
Đối với tội làm nhục cấp dưới: trong quan hệ chỉ huy, phục tùng, cấp
trên, cấp dưới, một mặt cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng lãnh đạo, chỉ huy,
chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh, mặt khác, cấp trên cũng phải tôn trọng
danh dự, nhân phẩm, thương yêu, giúp đỡ cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Khi
thực hiện nhiệm vụ, người chỉ huy hoặc cấp trên phải căn cứ vào chức trách,
quyền hạn được giao để tổ chức, giáo dục, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ thuộc
đơn vị mình. Pháp luật nghiêm cấm người chỉ huy hoặc cấp trên dùng các biện
pháp quân phiệt đối với cấp dưới. Hành vi làm nhục cấp dưới là trái với truyền
thống, bản chất tốt đẹp của quân đội ta. Hành vi làm nhục cấp dưới xâm phạm
nghiêm trọng mối quan hệ giữa chỉ huy với cấp dưới, xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của cấp dưới.
Đối với tội làm nhục đồng đội: hành vi làm nhục đồng đội xâm phạm
nghiêm trọng mối quan hệ đoàn kết giữa các quân nhân trong nội bộ quân đội,
xâm phạm danh dự, nhân phẩm của đồng đội.
Mặt khác, cần phân biệt chủ thể của tội làm nhục người khác với chủ
thể của các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp
dưới và tội làm nhục đồng đội.
Đối với tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên: chủ thể của tội
phạm là những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, bao gồm: quân nhân tại ngũ, quân nhân
dự bị, dân quân, tự vệ và công dân được trưng tập vào phục vụ quân đội: khi
giữa họ với chỉ huy hoặc cấp trên đang ở trong hoàn cảnh có mối quan hệ
công tác.
27
Trường hợp nhiều người thuộc diện nêu trên cố ý cùng thực hiện hành
vi làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, thì trên cơ sở mối quan hệ chỉ huy,
phục tùng để quyết định tội danh với từng người phạm tội. Nếu giữa người
phạm tội và người bị hại không có mối quan hệ chỉ huy, phục tùng, thì người
đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục đồng đội được quy định
tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 1999.
Đối với tội làm nhục cấp dưới: chủ thể của tội phạm này phải là người
chỉ huy hay cấp trên của người bị hại trong quan hệ công tác.
Đối với tội làm nhục đồng đội: chủ thể của tội phạm này là những
người được quy định tại Điều 315 Bộ luật hình sự năm 1999. Đó là quân nhân
tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân được
trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội
trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nếu giữa họ và người bị hại không có
quan hệ chỉ huy, phục tùng. Do vậy, người phạm tội và người bị hại có thể là
những người cùng cấp bậc, cùng chức vụ hoặc không cùng cấp bậc, chức vụ.
1.2.3.2. So sánh tội làm nhục người khác với tội bức tử.
Trong quy định về các hành vi của tội bức tử có hành vi "làm nhục
người khác" dẫn đến hậu quả "người đó tự sát". Như vậy, trong dấu hiệu hành
vi của tội bức tử có một loại hành vi tương tự được quy định trong tội làm
nhục người khác. Tuy nhiên, trong cấu thành tội phạm tội bức tử, ngoài hành
vi "làm nhục người khác" còn có các dấu hiệu bắt buộc khác, đó là nhân thân
(là người phụ thuộc người phạm tội) và hậu quả (tự sát). Hành vi làm nhục
người khác theo Điều 100 có thể hiểu đó là hành vi "xúc phạm nghiêm trọng
danh dự, nhân phẩm", và nếu hành vi đó có kèm theo hai dấu hiệu: "là người
lệ thuộc người phạm tội" và hậu quả làm người đó "tự sát" thì sẽ bị khởi tố về
tội bức tử.
28
Đường lối xử lý hình sự với tội bức tử nghiêm khắc hơn tội làm nhục
người khác. Người phạm tội tại khoản 1 Điều 100 có khung hình phạt "tù từ
hai năm đến bảy năm", khoản 1 Điều 121 có khung hình phạt "cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm".
Khoản 2 Điều 100 có khung hình phạt "tù từ năm năm đến mười hai năm",
khoản 2 Điều 121 có khung hình phạt "tù từ một năm đến ba năm".
1.2.3.3. So sánh tội làm nhục người khác với tội hành hạ người khác.
Việc quy định thế nào là "đối xử tàn ác" trong tội hành hạ người khác
rất quan trọng đối với việc định tội danh. Bởi lẽ, tuy trong phần hành vi của tội
hành hạ người khác chỉ quy định hành vi "đối xử tàn ác", khác với các hành vi
trong tội bức tử "đối xử tàn ác, làm nhục, ức hiếp, ngược đãi" và hành vi trong
tội làm nhục người khác "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người
khác", nhưng theo tinh thần của các điều luật, hành vi "đối xử tàn ác" về mặt
tinh thần cũng được coi là dấu hiệu cấu thành tội hành hạ người khác, đồng
thời đó cũng là những hành vi đặc trưng của tội làm nhục người khác. Do vậy,
nếu hành vi "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người lệ thuộc
mình" và không có hậu quả tự sát xảy ra thì người phạm tội có thể bị truy cứu
theo Điều 110 Bộ luật hình sự.
1.2.3.4. So sánh tội làm nhục người khác với tội vu khống.
Tội vu khống giống tội làm nhục người khác ở dấu hiệu: xâm hại đến
danh dự, nhân phẩm người khác. Hành vi đặc trưng của tội vu khống "bịa đặt,
loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt" cũng là một trong những hành vi đặc
trưng của tội làm nhục người khác.
Tuy nhiên, tội vu khống phân biệt với tội làm nhục người khác ở những
điểm sau:
Thứ nhất, hành vi cấu thành tội vu khống không đa dạng như tội làm
nhục người khác. Ngoài ra, tội vu khống có một loại hành vi đặc trưng khác,
đó là "bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan nhà nước có
29
thẩm quyền", nếu có hành vi trên thì người phạm tội sẽ bị truy cứu theo Điều
122 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tội làm nhục người khác và tội vu khống đều dẫn đến hậu quả làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác, nhưng hành vi
khách quan khác nhau. Hành vi khách quan của tội làm nhục người khác thể
hiện bằng lời nói, xỉ nhục ở nơi đông người hoặc hành động có tính chất bỉ ổi,
còn hành vi khách quan của tội vu khống thể hiện ở việc bịa đặt, loan truyền
những điều biết rõ là bịa đặt, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ với cơ quan có
thẩm quyền.
Thứ hai, mục đích tội vu khống hướng tới bao gồm: xúc phạm danh dự
hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, mục đích của
tội làm nhục người khác chỉ nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Như vậy,
hành vi bịa đặt, loan truyền tin tức thất thiệt nhằm gây thiệt hại đến danh dự,
nhân phẩm là dấu hiệu có trong cả hai cấu thành tội phạm tội làm nhục người
khác và tội vu khống. Tuy nhiên, thông thường hành vi cấu thành tội vu khống
thường kèm theo mục đích nhằm bôi nhọ danh dự và gây thiệt hại đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác trước các cơ quan, tổ chức hoặc cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
1.2.4. Ý nghĩa của việc quy định tội làm nhục người khác trong Bộ
luật hình sự 1999
Tội làm nhục người khác lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật
hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta, có ý nghĩa về mặt
lập pháp hình sự hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập
pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung,
bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng. Việc chính thức ghi nhận
về mặt pháp lý hình sự tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự Việt
30
Nam hiện hành là một biểu hiện cụ thể của việc tôn trọng và bảo vệ quyền con
người được ghi nhận tại Điều 50 Hiến pháp năm 1992: "Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, những quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy
định trong Hiến pháp và luật" [7, tr.139].
Việc quy định tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự năm
1985, cũng như trong Bộ luật hình sự năm 1999 có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, biểu hiện cụ thể mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo đức và pháp
luật hình sự.
Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội, có mối quan hệ
hữu cơ, tác động qua lại, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình điều chỉnh
hành vi của con người. Pháp luật lấy đạo đức làm cơ sở, nhiều quy tắc, chuẩn
mực đạo đức được Nhà nước thừa nhận đã trở thành quy phạm pháp luật và
Nhà nước cũng sử dụng pháp luật để bảo vệ đạo đức. Bộ luật hình sự năm
1985, cũng như Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội làm nhục người khác,
điều đó có nghĩa, các giá trị đạo đức như nhân phẩm, danh dự của con người
được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Thông qua việc quy định hành
vi xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tội phạm và
phải chịu hình phạt – biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước,
pháp luật hình sự đóng vai trò tác động mạnh mẽ đến sự hình thành, phát triển
nền đạo đức mới, đạo đức hướng tới con người, tôn trọng con người và vì con
người.
Đạo đức nói chung, các giá trị đạo đức như nhân phẩm, danh dự của
con người nói riêng, một mặt kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống, phản
ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội, nhưng mặt khác, nó phải
bảo đảm phù hợp với những yêu cầu của pháp luật nói chung, pháp luật hình
31
sự nói riêng, khuyến khích công dân tuân thủ pháp luật, trong đó có pháp luật
hình sự.
Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các hành
vi xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh sự của người khác.
Đạo luật hình sự giữ vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng, bởi vì chỉ văn
bản này mới quy định hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự
của người khác là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người đã gây
ra hành vi đó. Việc Nhà nước quy định tội làm nhục người khác và hình phạt
được áp dụng đối với người phạm tội là nhân danh ý chí của nhân dân, là sự
thể hiện thái độ của nhân dân (thông qua Nhà nước đối với tội phạm). Quy
phạm pháp luật hình sự về tội làm nhục người khác vừa có tính chất cấm chỉ,
vừa có tính chất bắt buộc. Quy phạm này, một mặt cấm người ta không được
thực hiện hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác bằng sự răn
đe áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, mặt khác, quy phạm pháp luật
hình sự này cũng buộc các cơ quan có trách nhiệm khi phát hiện có dấu hiệu
của tội làm nhục người khác, thì phải điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm
minh, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ và
phát triển quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói
riêng.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta luôn xác định con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước
ta khẳng định, con nguời là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của
con người nói riêng, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo
đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hiện đại hóa đất
32
nước. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội làm nhục người khác,
cũng như các quy định khác về quyền con người trong hệ thống pháp luật Việt
Nam chứng tỏ, mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
ta đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người.
Thứ tư, bảo vệ danh dự, nhân phẩm của công dân, góp phần tích cực
vào việc thực hiện nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội làm nhục người khác
góp phần quan trọng trong việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người,
đồng thời góp phần tích cực vào nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan
có thẩm quyền phải áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật hình sự
về tội phạm nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng trong hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử. Việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội
làm nhục người khác một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi nó không những xâm hại hoạt
động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà còn làm giảm sút lòng tin
của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy,
việc quy định một cách chặt chẽ tội làm nhục người khác trong pháp luật hình
sự và việc áp dụng đúng đắn nó trong thực tiễn, thể hiện sự tôn trọng quyền
con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong
hoạt động điều tra truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét xử về tội
làm nhục người khác nói riêng.
Việc quy định tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự hiện
hành, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự, còn có ý nghĩa nâng cao nhận
33
thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về
sự cần thiết phải tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người.
Mặt khác, việc quy định cụ thể về tội làm nhục người khác trong pháp
luật hình sự, còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản
chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn quy phạm pháp luật hình sự này, góp
phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác,
động viên quần chúng nhân dân tham gia tích vào cuộc đấu tranh này.
1.3. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Nghiên cứu những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp
luật hình sự của Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Nga, Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào cho thấy, các nước quy định rất khác nhau về tội phạm
này.
Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định các tội xâm phạm danh dự tại
chương XXXIV, gồm hai tội nói xấu người và sỉ nhục người khác. Điều 231
Bộ luật quy định: “Người nào công khai sỉ nhục người khác thì bị phạt giam
hình sự hoặc bị phạt tiền về tội hình sự nhỏ, thậm chí nếu người đó thực hiện
hành vi sỉ nhục mà không đưa ra sự kiện” [12, tr. 64]. Điều 232 Bộ luật này
còn quy định: “1. Các tội phạm quy định tại chương này chỉ bị khởi tố căn cứ
vào đơn yêu cầu.
2. Khi người làm đơn yêu cầu là Hoàng đế, Nữ hoàng, Hoàng hậu góa,
Hoàng thái hậu góa hoặc người thừa kế ngôi hoàng đế và Thủ tướng Chính
phủ thì những người đó đều nhân danh cá nhân hoặc khi người làm đơn yêu
cầu là Vua hoặc Tổng thống của một nước ngoài, là người đại diện của nước
ngoài hữu quan thì những người đó cũng đều nhân danh cá nhân” [12, tr. 64].
34
Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định về tội làm nhục
người khác tại Điều 2 chương 5– Các tội xúc phạm nhân phẩm, danh dự của
người khác: “Người nào xỉ vả người khác bằng lời lẽ lăng mạ hoặc có hành
động khác mang tính chất sỉ nhục đối với người đó, thì bị kết án về tội làm
nhục người khác và bị phạt tiền nếu hành vi này không bị xử phạt theo Điều 1
hoặc Điều 2.
Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tiền hoặc bị phạt tù
đến 6 tháng” [32, tr. 13].
Điều 5 của Bộ luật còn quy định: “Các tội nói từ Điều 1 đến Điều 3 có
thể không bị truy tố trừ trường hợp có đơn yêu cầu của người bị hại. Tuy
nhiên, nếu người bị hại không có đơn yêu cầu truy tố nhưng vì lợi ích công
cộng thì công tố viên có thể truy tố các tội:
1. Vu khống và vu khống người khác trong trường hợp nghiêm trọng;
2. Làm nhục nhà chức trách hoặc lăng mạ nhà chức trách khi thi hành
công vụ;
3. Làm nhục người khác vì lý do sắc tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc
hoặc tôn giáo của người đó;
4. Làm nhục người khác vì lý do bệnh đồng tình luyến ái của người đó.
Hành vi xúc phạm danh dự và nhân phẩm người đã chết có thể bị truy
tố theo yêu cầu của người vợ hoặc chồng còn sống, những người thừa kế trực
tiếp, cha, mẹ hoặc anh chị em ruột của người chết. Công tố viên phải truy tố
hành vi nói trên; việc truy tố là vì lợi ích công cộng do nhũng lý do đặc biệt.
Hành vi xúc phạm nguyên thủ quốc gia của một nước ngoài hiện đang
ở Thụy Điển hoặc đại diện của một nước ngoài tại Thụy Điển có thể bị truy tố
theo các Điều 1 – 3 nói trên” [32, tr. 14].
35
Như vậy, tương tự như pháp luật hình sự Nhật Bản, pháp luật hình sự
Vương quốc Thụy Điển quy định tội làm nhục người khác có thể không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự trừ trường hợp có đơn yêu cầu của người bị hại.
Tuy nhiên, khác với pháp luật hình sự Nhật Bản, pháp luật hình sự Vương
quốc Thụy Điển quy định cụ thể các trường hợp vì lợi ích công cộng, công tố
viên phải truy tố về tội làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật hình sự
Vương quốc Thụy Điển còn quy định hành vi xúc phạm danh dự và nhân
phẩm người đã chết có thể bị truy tố theo yêu cầu của người vợ hoặc chồng
còn sống, những người thừa kế trực tiếp, cha, mẹ hoặc anh chị em ruột của
người chết. Đây là những quy định mang tính nhân bản sâu sắc trong pháp luật
hình sự của nước này.
Trong Bộ luật hình sự năm 1996 của Liên bang Nga, tội làm nhục
người khác được quy định tại Điều 131: “1. Làm nhục, nghĩa là hạ thấp danh
dự và nhân phẩm của người khác, bằng hình thức thô tục.
- Thì bị phạt tiền đến 100 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương
hay thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian đến 1 tháng, hoặc bị
phạt lao động bắt buộc đến 120 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 6 tháng.
2. Làm nhục trên diễn đàn công cộng, trong tác phẩm được công bố
công khai hay trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Thì bị phạt tiền đến 200 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương
hay thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian đến 2 tháng, hoặc bị
phạt lao động bắt buộc đến 180 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 1 năm” [33, tr.
84 –85].
Điều 328 Bộ luật này còn quy định tội xúc phạm quân nhân: “1. Quân
nhân nào xúc phạm đồng đội trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội
hoặc liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ đó thì phạt hạn chế phục vụ
36
quân đội đến 6 tháng hoặc bị phạt giữ ở đơn vị kỷ luật của quân đội đến 6
tháng.
2. Cấp dưới xúc phạm người chỉ huy hoặc người chỉ huy xúc phạm cấp
dưới trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội hoặc liên quan đến việc
thực hiện các nghĩa vụ đó, thì bị phạt hạn chế phục vụ quân đội đến 1 năm
hoặc bị phạt giữ ở đơn vị kỷ luật của quân đội đến 1 năm” [33, tr. 136]
Như vậy, khác với pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển, pháp luật
hình sự Nhật Bản, pháp luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga có quy
phạm định nghĩa về khái niệm làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật hình
sự Liên bang Nga còn có quy định về tội xúc phạm quân nhân. Tội xúc phạm
quân nhân trong pháp luật hình sư Liên bang Nga có nhiều điểm tương tự như
tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm
nhục đồng đội trong pháp luật hình sự của nước ta.
Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định tội xúc
phạm danh dự người khác tại Điều 87, tội chửi rủa lăng nhục người khác tại
Điều 88, tội xúc phạm mồ mả và thanh danh của người đã chết tại Điều 89.
Điều 87 Bộ luật quy định: “Người nào xúc phạm danh dự của người
khác bằng lời nói, viết hoặc những hình thức khác thì bị phạt tước quyền tự do
từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ
5.000 đến 10.000 kíp.
Người nào đặt ra những điều không có thực bằng lời nói, viết hoặc
bằng các hình thức khác xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự của người khác
thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc bị phạt tiền từ 5000 kíp
đến 10.000 kíp” [11, tr. 46].
Như vậy, theo pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành
vi xúc phạm danh dự của người khác và hành vi vu khống người khác được
37
quy định chung trong một điều luật quy định về tội xúc phạm danh dự của
người khác.
Điều 88 Bộ luật còn quy định về tội chửi rủa lăng nhục người khác:
“Người nào dùng lời nói, viết hoặc thực hiện hành vi xấu xa, trụy lạc xúc
phạm nghiêm trọng danh dự của người khác thi bị phạt tước quyền tự do từ 3
tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000
kíp đến 10.000 kíp” [11, tr. 28 – 29].
Ngoài ra, Điều 89 Bộ luật này còn quy định về tội xúc phạm mồ mả và
thanh danh của người đã chết: “Người nào có hành động hoặc dùng lời nói xấu
xa đối với hài cốt, thanh danh của người đã chết, ảnh hưởng xấu tới sự tôn
trọng của quần chúng nhân dân với người đã chết thì bị phạt tước quyền tự do
từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ
5.000 kíp đến 10.000 kíp” [11, tr. 29].
Như vậy, tương tự với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự
Vương quốc Thụy Điển, trong pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người đã chết
cũng bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu hình phạt. Đây
là điểm khác biệt so với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự của nước
ta.
Từ sự phân tích ở trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật
hình sự của các nước: Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Nga,
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào rất khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước.
Thứ hai, pháp luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga có quy phạm
định nghĩa về khái niệm làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật hình sự
38
Liên bang Nga còn có quy định về tội xúc phạm quân nhân. Tội xúc phạm
quân nhân trong pháp luật hình sư Liên bang Nga có nhiều điểm tương tự như
tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm
nhục đồng đội trong pháp luật hình sự của nước ta.
Thứ ba, tương tự với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự
Vương quốc Thụy Điển, trong pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người đã chết
cũng bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu hình phạt. Đây
là điểm khác biệt so với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự của nước
ta.
Ngoài ra, trong pháp luật hình sự hiện hành của Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, hành vi xúc phạm danh dự của người khác và hành vi vu khống
người khác được quy định chung trong một điều luật quy định về tội xúc phạm
danh dự của người khác. Đây cũng là điểm khác biệt so với quy định tương
ứng trong pháp luật hình sự của nước ta.
Chương 2
TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA
TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 TÌNH HÌNH TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC Ở VIỆT NAM TỪ NĂM
1997 ĐẾN NĂM 2005
39
2.1.1. Thực trạng và động thái của tình hình tội làm nhục người
khác
Danh dự, nhân phẩm là tài sản quý giá, là phần bất khả xâm phạm của
con người. Trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, cơ quan
và tổ chức đã thể hiện sự quan tâm của mình qua hàng loạt các quy định và
các biện pháp chế tài áp dụng đối với các hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến
danh dự, nhân phẩm của con người. Tuy nhiên, các hành vi “làm nhục người
khác” đang có những diễn biến phức tạp.
Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao, từ năm 1997 đến
năm 2005, số vụ án xét xử về tội làm nhục người khác có xu hướng giảm
nhưng không đáng kể, cụ thể năm 1997: 115 vụ với 177 bị cáo ; năm 1998:
162 vụ với 241 bị cáo; năm 1999: 144 vụ với 228 bị cáo, năm 2000: 106 vụ
với 164 bị cáo; năm 2001: 86 vụ với 125 bị cáo; năm 2002: 89 vụ với 133 bị
cáo; năm 2003: 96 vụ với 149 bị cáo; năm 2004: 56 vụ với 84 bị cáo; năm
2005: 61 vụ với 78 bị cáo. Để có cái nhìn tổng quan hơn về số vụ án về tội làm
nhục người khác đã xét xử so với tổng số các vụ án hình sự, ta có thể nhìn vào
bảng số liệu sau:
Bảng 2.1: Số vụ án về tội làm nhục người khác/ Tổng số các vụ án hình
sự:
Năm Tội làm nhục
người khác
Tổng số các vụ
án hình sự
Tỷ lệ %
40
Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo
1997 115 177 42 440 61 962 0.3% 0.3%
1998 162 241 48 670 62 136 0.3% 0.4%
1999 144 228 50 461 76 302 0.3% 0.3%
2000 106 164 41 942 61 491 0.3% 0.3%
2001 86 125 49 712 58 222 0.2% 0.2%
2002 89 133 44 196 61 256 0.2% 0.2%
2003 96 149 49 373 66 232 0.2% 0.2%
2004 56 84 52 999 75 453 0.1% 0.1%
2005 61 78 49 845 79 193 0.1% 0.1%
Tổng 915 1 379 429 638 602 247 0.2% 0.2%
Nguồn: TANDTC
Nhìn vào bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy qua 9 năm qua, số vụ
án và bị cáo của tội làm nhục người khác diễn biến theo xu hướng giảm, tuy
nhiên từ năm 1997 đến năm 2000, số vụ án và bị cáo bị xét xử về tội phạm này
vẫn ở mức cao. Tội làm nhục người khác là một tội phạm ít nghiêm trọng nên
phần lớn thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp huyện, chỉ có một số ít các
vụ án được toà án cấp tỉnh xét lại bản án theo thủ tục phúc thẩm, tuy nhiên số
lượng này không nhiều. Theo thống kê của Toà án nhân dân thành phố Hà
Nội, các vụ án về tội làm nhục người khác được xét xử theo thủ tục phúc thẩm
trong các năm 1997 là 2 vụ, 1998: 2 vụ; 1999: 1 vụ; 2000: 0 vụ; 2001: 0 vụ;
2002: 2 vụ; 2003: 2 vụ; 2004: 2 vụ. Như vậy, trong vòng 8 năm, số vụ án về
tội làm nhục người khác được xét xử theo thủ tục phúc thẩm tại Toà án nhân
dân thành phố Hà Nội chỉ có 11 vụ, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các
vụ án đã giải quyết. Trong các năm 1997, 1998, 1999, 2000 tội làm nhục
người khác chỉ chiếm 0,3% tổng số vụ án hình sự và 0,4% tổng số các bị cáo
bị đưa ra xét xử.
41
Từ năm 2001 đến năm 2003, số vụ án về tội làm nhục người khác giảm
xuống dưới 100 vụ/ năm nhưng vẫn ở mức cao, năm 2001 có 86 vụ bị đưa ra
xét xử, số vụ án bị đưa ra xét xử năm 2002 là 89 vụ và năm 2003 là 93 vụ.
Như vậy, trong 3 năm này, số vụ án về tội làm nhục người khác có chiều
hướng tăng. Tuy nhiên, các vụ án và bị cáo về tội làm nhục người khác chỉ
chiếm 0,2% so với tổng số các vụ án và bị cáo hình sự, giảm 0,1% so với
những năm trước.
Trong hai năm 2004, 2005, số vụ án về tội làm nhục người khác giảm
xuống rõ rệt. Cụ thể năm 2004, chỉ còn 56 vụ với 84 bị cáo, năm 2005, dù số
vụ án tăng lên 61 vụ nhưng số bị cáo thấp hơn, chỉ còn 78 bị cáo. So với tổng
số các vụ án và bị cáo bị xét xử, tỷ lệ các vụ án và bị cáo được đưa ra xét xử
về tội làm nhục người khác chỉ chiếm 0,1%. Đây là một chỉ số đáng chú ý của
tình hình tội phạm này. Tuy nhiên, các số liệu thống kê của Toà án chưa hẳn
đã phản ánh chính xác thực trạng tội phạm trên, bởi lẽ trên thực tế nhận thức
của người dân về tội làm nhục người khác còn thấp, cũng như giữa người bị
hại và người vi phạm thường có mối quan hệ thân thuộc, cho nên tỷ lệ tội
phạm ẩn tương đối cao.
Để có sự đánh giá khách quan về sự quan tâm giải quyết của Toà án
các cấp trong việc xử lý tội phạm trên, ta có thể nhìn vào bảng số liệu sau:
Bảng 2.2. Số vụ án đã xét xử/ tổng số án phải giải quyết:
Năm
Số vụ án phải giải
quyết
Số vụ án đã xét xử Tỷ lệ % số vụ án phải
giải quyết/ số vụ án đã
42
xét xử
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
1997 130 201 115 177 88% 88%
1998 173 259 162 241 94% 93%
1999 155 247 144 228 93% 92%
2000 138 201 106 164 77% 82%
2001 100 151 86 125 86% 83%
2002 103 157 89 133 86% 85%
2003 117 184 96 149 82% 81%
2004 69 109 56 84 81% 77%
2005 76 101 61 78 80% 77%
Tổng 1 061 1 610 915 1 379 86% 86%
Nguồn: TANDTC
Như vậy, tổng số vụ án thụ lý qua các năm đều chiếm ở mức tương đối
cao, qua bảng số liệu của 9 năm, ta có thể chia làm ba giai đoạn:
Từ năm 1997 đến năm 2000:
Trong 4 năm này, các vụ án về tội làm nhục người khác xảy ra ở mức
cao, tuy nhiên Toà án các cấp rất quan tâm giải quyết và xét xử hầu hết các vụ
án đã thụ lý. Năm 1997, trong tổng số 130 vụ án và 201 bị cáo, Toà án các cấp
đã đình chỉ 5 vụ với 6 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 12 vụ với 25 bị cáo, đưa
ra xét xử 115 vụ với 177 bị cáo, chiếm 88% tổng số vụ án thụ lý. Năm 1998,
trong tổng số 173 vụ với 259 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 10 vụ với 17
bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 12 vụ với 18 bị cáo, đưa ra xét xử 162 vụ với
241 bị cáo, chiếm 94% tổng số án thụ lý. Năm 1999, trong tổng số 155 vụ với
247 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 5 vụ với 7 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm
sát 20 vụ với 13 bị cáo, đưa ra xét xử 144 vụ với 228 bị cáo, chiếm 93% tổng
43
số án thụ lý. Năm 1998 và 1999 là hai năm có tỷ lệ các vụ án đưa ra xét xử/
tổng số các vụ án thụ lý cao nhất trong vòng 9 năm. Năm 2000, dù số vụ án và
bị cáo vẫn ở mức cao: 138 vụ với 201 bị cáo, nhưng chỉ có 104 vụ án với 164
bị cáo được đưa ra xét xử, chiếm 77% tổng số án thụ lý, đây là năm có tỷ lệ
các vụ án đưa ra xét xử thấp nhất trong vòng 9 năm.
Từ năm 2001 đến năm 2003:
Tuy số án thụ lý vẫn ở mức trên 100 vụ, nhưng có chiều hướng giảm so
với 4 năm trước. Cụ thể: Năm 2001: trong tổng số 100 vụ với 151 bị cáo, Toà
án các cấp đã đình chỉ 4 vụ với 8 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 6 vụ với 11 bị
cáo, đưa ra xét xử 86 vụ với 125 bị cáo, chiếm 86% tổng số án thụ lý. Năm
2002: trong tổng số 103 vụ với 157 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 3 vụ với
6 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 10 vụ với 16 bị cáo, đưa ra xét xử 89 vụ với
133 bị cáo, chiếm 86% tổng số án thụ lý. Năm 2003: trong tổng số 117 vụ với
184 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 3 vụ với 9 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm
sát 13 vụ với 17 bị cáo, đưa ra xét xử 96 vụ với 149 bị cáo, chiếm 82% tổng số
án thụ lý. Năm 2003, tỷ lệ các vụ án đưa ra xét xử/ tổng số án thụ lý giảm đi
đáng kể so với các năm trước, một phần do số lượng các vụ án về tội làm
nhục người khác giảm, một phần do đã bước đầu áp dụng thành công công tác
hoà giải cơ sở.
Từ năm 2004 và 2005:
Số lượng các vụ án thụ lý về tội làm nhục người khác giảm rõ nét. Năm
2004: trong tổng số 69 vụ với 109 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 2 vụ với
2 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 4 vụ với 10 bị cáo, đưa ra xét xử 56 vụ với 84
bị cáo, chiếm 81% tổng số án thụ lý. Năm 2005: Trong tổng số 76 vụ với 101
bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 2 vụ với 4 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 10
vụ với 14 bị cáo, đưa ra xét xử 61 vụ với 78 bị cáo, chiếm 80% tổng số án thụ
44
lý. Có thể nói, năm 2005 là năm có tỷ lệ các bị cáo được đưa ra xét xử thấp
nhất trong vòng 9 năm.
Tuy nhiên, cần thấy rõ là tội làm nhục người khác có diễn biến rất phức
tạp, trong đó tình hình tội phạm ẩn tương đối cao, theo thống kê chưa đầy đủ
hàng năm tỷ lệ tội phạm bị phát hiện chỉ chiếm khoảng 70- 75% tội phạm xảy
ra trên thực tế. Bên cạnh đó, việc không phân biệt rõ ràng ranh giới giữa xử lý
hình sự với hành chính, dân sự cũng là một nguyên nhân khiến tình hình tội
phạm ẩn càng thêm phức tạp. Nhiều vi phạm mang tính hình sự nhưng chỉ bị
xử lý hành chính, dân sự. Ngoài ra, do đặc thù của các tội xâm phạm đến
"danh dự, nhân phẩm" - một loại đối tượng phi vật thể, cho nên căn cứ để xác
định tội phạm phụ thuộc rất nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. So
với các tội phạm có cấu thành vật chất như tội cố ý gây thương tích (căn cứ
giấy xác nhận tỷ lệ thương tật để xác định có hay không hành vi phạm tội và
định khung hình phạt), các tội xâm phạm sở hữu (căn cứ vào giá trị tài sản bị
xâm hại để định tội và định khung hình phạt), …. thì căn cứ định tội của tội
làm nhục người khác là "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm", chính
vì vậy có nhiều trường hợp có tội phạm xảy ra trên thực tế nhưng do thời gian
đã qua lâu hoặc không có người làm chứng, vật chứng nên các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền không có đủ cơ sở để khởi tố vụ án và bị can.
45
Biểu đồ 1: Các vụ án về tội làm nhục người khác qua 9 năm.
Biểu đồ 2. Các bị cáo về tội làm nhục người khác qua 9 năm:
Trên đường biểu đồ về diễn biến tình hình tội phạm qua 9 năm, ta có thể
nhận thấy tình hình các vụ án và bị cáo của tội làm nhục người khác có xu
hướng giảm, đây là dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, tội phạm này có tính chất
tương đối phức tạp nên để đánh giá đúng mức độ nghiêm trọng của thực trạng
tội phạm này chúng ta không chỉ căn cứ vào các số liệu thống kê mà còn thông
qua nhiều kênh thông tin khác như các phương tiện thông tin đại chúng, các
tài liệu báo cáo của các cơ quan ban ngành hữu quan như hành chính, dân sự,
vv …
46
Để xem xét mối tương quan và tỷ lệ tội làm nhục người khác với các tội
phạm trong chương Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con người, chúng ta có bảng 2.3
Bảng 2.3. So sánh tỷ lệ tội làm nhục người khác với nhóm tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm (Chương XII)
Năm
Tội làm nhục
người khác
Nhóm tội xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ,
danh dự nhân phẩm
Tỷ lệ tội làm nhục
người khác/ Nhóm tội
xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
1997 115 177 6 814 9 524 2% 2%
1998 162 241 7 973 10 973 2% 2%
1999 144 228 7 416 10 129 2% 2%
2000 106 164 6 195 9 703 2% 2%
2001 86 125 6 795 8 823 1% 1%
2002 89 133 6 802 8 802 1% 2%
2003 96 149 7 323 9 685 1% 2%
2004 56 84 8 282 11 927 1% 1%
2005 61 78 7 794 11 251 1% 1%
Tổng số 915 1 379 65 394 90 817
Nguồn: TANDTC
Tội làm nhục người khác so với nhóm tội trong Chương XII chiếm số
lượng thấp, từ năm 1997 đến 2000 số vụ án và bị cáo chiếm tỷ lệ 2% so với
tổng số vụ án và bị cáo của nhóm tội chương XII. Từ năm 2001 đến năm
2005, số vụ án và bị cáo dao động trong khoảng từ 1% đến 2%, tuy nhiên,
trong khoảng từ năm 2001 đến 2005, tổng số vụ án được xét xử về tội làm
nhục người khác có xu hướng giảm đi rõ rệt, chỉ chiếm 1% trên tổng số vụ án
của các tội trong Chương XII.
47
Biểu đồ 3: Số vụ án tội làm nhục người khác và số vụ án của Chương XII qua 9
năm
48
Biểu đồ 4: Bị cáo về tội làm nhục người khác và tổng số các bị cáo của Chương XII
qua 9 năm
49
Để làm rõ thêm cơ cấu, tính chất của tình hình tội làm nhục người khác,
chúng ta xem xét mối tương quan và tỷ lệ tội làm nhục người khác với một số
loại tội phạm trong chương Các tội xâm phạm tính mạnh, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người như tội bức tử, tội hành hạ người khác, tội vu
khống.
Bảng 2.4: So sánh tội làm nhục người khác với các tội bức tử; hành hạ
người khác và tội vu khống.
Năm
Tội làm nhục
người khác
Tội vu khống Tội hành hạ
người khác
Tội bức tử
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
1997 115 177 17 20 6 9 15 16
1998 162 241 20 32 0 0 17 19
1999 144 228 18 21 7 7 10 10
2000 106 164 7 7 6 7 10 10
2001 86 125 15 17 1 1 15 15
2002 89 133 16 20 0 0 7 7
2003 96 149 9 11 2 2 15 20
2004 56 84 14 18 5 8 1 1
2005 61 78 15 19 1 1 7 7
Tổng
số 915 1 379 131 165 28 35 97 105
Nguồn: TANDTC
Dựa vào bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy tội làm nhục người khác
chiếm một tỷ trọng khá cao trong số các tội trên .
Số liệu thống kê về tình hình tội vu khống qua 9 năm từ 1997 đến 2005
không có biến động nhiều, năm 1997 xét xử 17 vụ với 20 bị cáo; năm 1998 xét
xử 20 vụ với 32 bị cáo (cao nhất trong vòng 9 năm); năm 1999 xét xử 18 vụ
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac

More Related Content

What's hot

Chương 8 luật hình sự
Chương 8   luật hình sựChương 8   luật hình sự
Chương 8 luật hình sự
Tử Long
 

What's hot (17)

Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dânLuận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
 
Luận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Thực trạng về hình phạt trong pháp luật hình sự VN
Thực trạng về hình phạt trong pháp luật hình sự VNThực trạng về hình phạt trong pháp luật hình sự VN
Thực trạng về hình phạt trong pháp luật hình sự VN
 
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sựĐề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
 
Luận văn: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
 
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niênThi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
 
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luậtLuận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
 
Chương 8 luật hình sự
Chương 8   luật hình sựChương 8   luật hình sự
Chương 8 luật hình sự
 
Luận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đ
Luận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đLuận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đ
Luận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đ
 
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Pháp luật về hoà giải cơ sở ở các tỉnh đồng bằng Sông Hồng
Pháp luật về hoà giải cơ sở ở các tỉnh đồng bằng Sông HồngPháp luật về hoà giải cơ sở ở các tỉnh đồng bằng Sông Hồng
Pháp luật về hoà giải cơ sở ở các tỉnh đồng bằng Sông Hồng
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 

Viewers also liked

Viewers also liked (17)

Bài giảng Marketing Thương mại Điện tử
Bài giảng Marketing Thương mại Điện tửBài giảng Marketing Thương mại Điện tử
Bài giảng Marketing Thương mại Điện tử
 
Luat tai nguyen moi truong bien va hai dao 2015
Luat tai nguyen moi truong bien va hai dao 2015Luat tai nguyen moi truong bien va hai dao 2015
Luat tai nguyen moi truong bien va hai dao 2015
 
Nhung luan cuong lien bang (hamilton madison - jay)
Nhung luan cuong lien bang (hamilton   madison - jay)Nhung luan cuong lien bang (hamilton   madison - jay)
Nhung luan cuong lien bang (hamilton madison - jay)
 
Nd 30 2015 ve dau thau dau tu
Nd 30 2015 ve dau thau dau tuNd 30 2015 ve dau thau dau tu
Nd 30 2015 ve dau thau dau tu
 
Dau hieu phan biet hang hoa dich vu bao ho quyen so huu cong nghiep
Dau hieu phan biet hang hoa dich vu bao ho quyen so huu cong nghiepDau hieu phan biet hang hoa dich vu bao ho quyen so huu cong nghiep
Dau hieu phan biet hang hoa dich vu bao ho quyen so huu cong nghiep
 
Chung cu va chung minh trong to tung dan su viet nam
Chung cu va chung minh trong to tung dan su viet namChung cu va chung minh trong to tung dan su viet nam
Chung cu va chung minh trong to tung dan su viet nam
 
Ky nang giai quyet vu an hanh chinh (chuong trinh dao tao tham phan)
Ky nang giai quyet vu an hanh chinh (chuong trinh dao tao tham phan)Ky nang giai quyet vu an hanh chinh (chuong trinh dao tao tham phan)
Ky nang giai quyet vu an hanh chinh (chuong trinh dao tao tham phan)
 
Principles of criminal_law__principles_of_law_series_
Principles of criminal_law__principles_of_law_series_Principles of criminal_law__principles_of_law_series_
Principles of criminal_law__principles_of_law_series_
 
Giao trinh luat la ma
Giao trinh luat la maGiao trinh luat la ma
Giao trinh luat la ma
 
120 cau hoi thuong mai quoc te
120 cau hoi thuong mai quoc te120 cau hoi thuong mai quoc te
120 cau hoi thuong mai quoc te
 
Tong hop nhung diem moi cua luat bao hiem xa hoi 2014 (nguyenanh1292 danluat)
Tong hop nhung diem moi cua luat bao hiem xa hoi 2014 (nguyenanh1292 danluat)Tong hop nhung diem moi cua luat bao hiem xa hoi 2014 (nguyenanh1292 danluat)
Tong hop nhung diem moi cua luat bao hiem xa hoi 2014 (nguyenanh1292 danluat)
 
Phap luat ve hop dong mua ban nha o
Phap luat ve hop dong mua ban nha oPhap luat ve hop dong mua ban nha o
Phap luat ve hop dong mua ban nha o
 
Xoa an tich theo quy dinh cua phap luat
Xoa an tich theo quy dinh cua phap luatXoa an tich theo quy dinh cua phap luat
Xoa an tich theo quy dinh cua phap luat
 
Phap luat viet nam ve lai suat trong hop dong vay tien
Phap luat viet nam ve lai suat trong hop dong vay tienPhap luat viet nam ve lai suat trong hop dong vay tien
Phap luat viet nam ve lai suat trong hop dong vay tien
 
Giao trinh luat to tung hanh chinh (dh can tho)
Giao trinh luat to tung hanh chinh (dh can tho)Giao trinh luat to tung hanh chinh (dh can tho)
Giao trinh luat to tung hanh chinh (dh can tho)
 
Thông tư 123.2015.tt.btc
Thông tư 123.2015.tt.btcThông tư 123.2015.tt.btc
Thông tư 123.2015.tt.btc
 
Giay phep va dieu kien kinh doanh o viet nam
Giay phep va dieu kien kinh doanh o viet namGiay phep va dieu kien kinh doanh o viet nam
Giay phep va dieu kien kinh doanh o viet nam
 

Similar to Ve toi la nhuc nguoi khac

Similar to Ve toi la nhuc nguoi khac (20)

Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
 
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hành hạ người khác trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, 9đLuận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, 9đ
 
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đLuận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
 
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHSLuận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
 
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đLuận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
 
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tungLuan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
 
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáoBảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
 
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
 
Khóa luận Pháp luật tố tụng phong kiến việt nam từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix s...
Khóa luận Pháp luật tố tụng phong kiến việt nam từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix s...Khóa luận Pháp luật tố tụng phong kiến việt nam từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix s...
Khóa luận Pháp luật tố tụng phong kiến việt nam từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix s...
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn TâyTuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 

Ve toi la nhuc nguoi khac

  • 1. 1 Luận văn Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay
  • 2. 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Nhà nước Việt Nam không chỉ khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết sức mình để bảo đảm thực hiện trên thực tế.
  • 3. 3 Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt được, trong thời gian qua, cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có nhiều vấn đề mới phát sinh có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tình hình tội làm nhục người khác, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, được dư luận rất quan tâm, theo dõi. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội làm nhục người khác, nguyên nhân, điều kiện của tội làm nhục người khác... Về mặt lý luận, xung quan vấn đề đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, “Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội làm nhục người khác là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, tội làm nhục người khác được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu như Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992, 1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục
  • 4. 4 vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998… Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, tội làm nhục người khác được đề cập trong công trình: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. Th.S. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002… Các công trình nói trên đã đề cập tội làm nhục người khác dưới góc độ pháp lý hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác, đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Nhiệm vụ của luận văn
  • 5. 5 Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội làm nhục người khác; phân tích những quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm này. - Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này; dự báo tình tội làm nhục người khác trong những thời gian tới. - Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác dưới góc độ pháp lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2005. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng. Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội làm nhục người khác; các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao về tội làm nhục người khác.
  • 6. 6 Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: lịch sử, lôgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều tra xã hội... 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội làm nhục người khác; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Đánh giá thực đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân, điều kiện của thực trạng đó. - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
  • 7. 7 chống tội làm nhục người khác ở nước ta. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm làm nhục người khác là loại tội phạm có tính nhạy cảm rất cao hiện nay. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật... 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 114 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, mục.
  • 8. 8 Chương 1 TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc Tội làm nhục người khác là một trong những tội phạm được đề cập rất sớm trong luật hình sự Việt Nam. Thời kỳ phong kiến, trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) là “Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê”, cũng là “Bộ luật xưa nhất còn được lưu giữ đầy đủ ở nước ta” đã đề cập tội làm nhục người khác tại các điều 489, 491 492, 496. Điều 489 quy định: “Học trò mà đánh và lăng mạ thầy học, thì xử nặng hơn tội (đánh, lăng mạ) người thường ba bậc; đánh chết thì phải tội chém "[10, tr. 178]. Đây là quy định mang tính nhân văn, thể hiện truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, để cho quy tắc đạo đức “thầy ra thầy, trò ra trò” được thực hiện nghiêm chỉnh. Điều 495 Bộ luật còn quy định: “Lăng mạ vợ của quan tại chức, thì bị tội cùng tiền tạ, đều xử giảm tội lăng mạ người chồng ba bậc; lăng mạ đối với con thì tội lại xử giảm một bậc nữa” [10, tr. 180]. Trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) được biên soạn trong một thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 được khắc in lần đầu ở Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc, tội làm nhục người khác được đề cập tại các điều 293, 294, 295, 296, 297, 298, 299, 300.
  • 9. 9 Điều 293 quy định: “Phàm mắng người thì bị phạt 10 roi. Cùng mắng nhau, thì mỗi người bị phạt 10 roi” [9, tr. 810]. Đáng lưu ý, hành vi làm nhục người khác những người thuộc giai cấp bị trị thực hiện, bị trừng phạt rất nặng trong Hoàng Việt luật lệ. Điều đó cho thấy, pháp luật hình sự bao giờ cũng mang tính giai cấp, được sử dụng để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Điều 296 Bộ luật quy định: “Phàm nô tì mắng gia trưởng thì bị phạt treo cổ (giam chờ), mắng hàng kỳ thân của gia trưởng và ông bà ngoại của gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ hai năm, đại công thì bị phạt 80 trượng, hàng tiểu công thì bị phạt 70 trượng, hàng ti ma thì bị phạt 60 trượng. Nếu kẻ làm công mắng gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ hai năm. Mắng hàng kỳ thân và ông bà ngoại gia trưởng thì phạt trăm trượng, mắng hàng đại công thì phạt 60 trượng, mắng hàng tiểu công thì phạt 50 roi, mắng hàng ti ma bị phạt 40 roi, bị thưa lên là bị tội. (Đó là nói cho rõ, trong qua lại e có sự nghe lầm, cho nên phải chính người ấy nghe, có thể vì tình mà bỏ qua, hay có ý giấu đi, cho nên phải chính người ấy thưa lên” [9, tr. 812 – 813]. Dưới thời Pháp thuộc, để bảo đảm thực hiện mục tiêu kinh tế thực dân, thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thực hành chính sách chuyên chế về chính trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho dân ta bất cứ quyền tự do, dân chủ nào. Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự do thực dân Pháp đặt ra là để bảo vệ chế độ thực dân, phong kiến. Tội làm nhục người khác cũng được đề cập trong pháp luật hình sự thời gian này, nhưng là để bảo vệ nhân phẩm, danh dự của giai cấp thống trị, bóc lột. Trên tinh thần đó, Điều 154 Luật hình An Nam quy định: "Trong khi quan lại đương làm chức vụ, người nào lấy văn từ, ngôn ngữ, thư chỉ và làm việc gì hay là dọa điều gì, để cho mất danh dự, thể diện của các viên quan lại ấy, phải phạt giam từ một tháng đến hai năm, và phạt bạc từ hai mươi đồng đến hai trăm đồng"
  • 10. 10 [46, tr. 25]. Tương tự như vậy, Điều 222 Hình luật canh cải quy định: "Người nào xỉ mạ quan bên chánh trị, bên Tòa hội đồng thẩm án, trong lúc mấy vị ấy làm việc bổn phận hoặc dùng lời nói mà xỉ mạ, hoặc viết chữ hoặc vẽ hình mà không có truyền ra ngoài, trong các cách ấy hoặc nói xấu cho danh giá, cho sự liêm sỉ của các vị ấy, thì phải bị phạt tù từ 15 ngày cho tới 2 năm" [17, tr.54]; Điều 320 Hoàng Việt hình luật quy định: "Dùng lời nói, hoặc giấy má, viết tay hay giấy in, bức vẽ hoặc những phương pháp khác mà lỵ mạ một người viên chức đương khi làm chức vụ hay là nhân khi làm chức vụ, bất kỳ là công việc hay không cũng gọi là lỵ mạ và chiếu theo Điều 145 chương thứ 12 mà nghĩ xử" [18, tr. 445]. 1.1.2. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, đã ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, nhằm bảo vệ chính quyền nhân dân, chống thực dân Pháp, trừng trị bọn việt gian phản động. Do tình hình kháng chiến diễn ra hết sức khẩn trương, không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết nói riêng, ngày 10-10-1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa" [34, tr. 190]. Trong bối cảnh này, việc đấu tranh chống tội làm nhục người khác chưa được đặt ra. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
  • 11. 11 sai thống trị. Ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Trong thời kỳ này, đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phầm, danh dự của con người, pháp luật hình sự chủ yếu đề cập các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe như giết người, gây thương tích, làm chết người trong Thông tư số 442-TTg ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ, mà chưa có văn bản pháp luật hình sự nào quy định về các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm nói chung, về tội làm nhục người khác nói riêng. Ngày 15-06- 1960, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 có đề cập tội hiếp dâm, nhưng chưa đề cập tội làm nhục người khác. Trên cơ sở các kinh nghiệm mà thực tiễn xét xử đã đúc kết được trong thời gian trước đó, ngày 11-05-1967, Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục, đề cập một cách toàn diện 4 hình thức phạm tội: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với người dưới 16 tuổi, dâm ô, nhưng vẫn chưa đề cập tội làm nhục người khác [39, tr. 389]. Sau khi miền Nam được giải phóng, trong khi chờ đợi thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, trên thực tế về hình thức, tạm thời tồn tại hai Nhà nước: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam; mỗi Nhà nước có pháp luật riêng [20, tr.35]. Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành ngay một số chính sách, văn bản quy phạm pháp luật hình sự nhằm phục vụ thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở nửa đất nước mới được giải phóng. Cùng với việc ban hành Sắc luật về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân, Sắc luật quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở,
  • 12. 12 đồ vật của Người phạm tội, Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15-3-1976 quy định các tội phạm và hình phạt. Sắc luật này được áp dụng trong phạm vi toàn quốc trước khi Bộ luật hình sự được ban hành. Sắc luật số 03-SL/76 có quy định về các tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân một cách đầy đủ hơn so với Thông tư số 442-TTg ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ Điểm d Điều 5 Sắc luật quy định: “Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm những kẻ lập công chuộc tội" [40, tr. 236]. Trên cơ sở quy định này, các Tòa án đã vận dụng xử lý một số trường hợp phạm tội làm nhục người khác. 1.1.3. Tội làm nhục người khác thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều khó khăn và khuyết điểm do duy trì quá lâu cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Về mặt lập pháp hình sự, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc ban hành Bộ luật hình sự là vấn đề mang tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần phục vụ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
  • 13. 13 VII, đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1985). Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu lập pháp hình sự Việt Nam, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tiếp theo việc quy định các tội xâm phạm an ninh quốc gia ở chương 1, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự ở chương 2 và quy định các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân ở chương 3. Đây là hai chương của Bộ luật hình sự bao gồm những quy phạm pháp luật trực tiếp bảo vệ con người với tính chất là chủ thể của các quan hệ xã hội. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội làm nhục người khác tại Điều 116, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 253, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 254, tội làm nhục đồng đội tại Điều 255. Việc Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính thức ghi nhận về mặt pháp lý tội làm nhục người khác, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới, tội làm nhục đồng đội, đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người Bộ luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác và quy định hai khung hình phạt. Khung cơ bản có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Khung tăng nặng có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Đây là những trường hợp người phạm tội đã có hành vi làm nhục người thi hành công vụ để cản trở người đó thi hành công vụ hoặc để
  • 14. 14 trả thù người đó vi đã thi hành công vụ, ảnh hưởng tới lợi ích của người phạm tội hay người thân hoặc gia đình họ. Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành trong thời kỳ của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, cho nên tuy đã phản ánh được nhu cầu bức xúc của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thời kỳ đó, nhưng ở một mức độ nhất định vẫn chịu ảnh hưởng nhất định của cơ chế đó. Vì vậy, Bộ luật này không phù hợp cho việc bảo vệ các quan hệ phát sinh trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1985 còn có những hạn chế nhất định về kỹ thuật lập pháp hình sự nhiều tội danh được quy định quá chung chung; một số hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nhưng lại được quy định trong một điều luật với cùng một chế tài; khung hình phạt trong nhiều điều luật quá rộng, dễ dẫn đến tiêu cực... Hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự năm 1985 là qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật này đã không còn là một chỉnh thể thống nhất. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985 là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan. Ngày 21-12-1999, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, đã thông qua Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999), thay thế cho Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 1-7-2000. Bộ luật hình sự năm 1999 quy
  • 15. 15 định tội làm nhục người khác tại Điều 121, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 319, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 320, tội làm nhục đồng đội tại Điều 321. So với Bộ luật hình sự năm 1985, những quy định về tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm mới cơ bản như sau: Thứ nhất, quán triệt chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc xử lý hình sự đối với những người thực hiện các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người là nghiêm khắc hơn, khung cơ bản Điều 121 quy định tội làm nhục người khác có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 là một năm). Thứ hai, khung tăng nặng có mức phạt tù từ một năm đến ba năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 là cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm). Thứ ba, bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng hình phạt như phạm tội nhiều lần, đối với nhiều người, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình. Thứ tư, quy định thêm hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 không có quy định này). 1.2. TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 1.2.1. Khái niệm tội làm nhục người khác Tội làm nhục người khác có mối quan hệ chặt chẽ với danh dự và nhân phẩm con người. Cho nên, để có thể làm sáng tỏ khái niệm tội làm nhục người
  • 16. 16 khác, cần làm rõ khái niệm danh dự, nhân phẩm con người. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người là vốn quý nhất. Đối với con người, chẳng những tính mạng, sức khỏe là vô giá mà danh dự, nhân phẩm cũng không kém phần quan trọng. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người đều rất thân thiết đối với con người và là những quyền quan trọng nhất trong các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “danh dự là phạm trù đạo đức chỉ lòng tôn trọng của con người trong mọi cử chỉ, hành vi của mình” [50, tr. 647]. Người có danh dự biết tôn trọng lời mình đã hứa và có ý thức bảo vệ danh dự của mình, của dòng họ, của đoàn thể, Tổ quốc mình. Mất danh dự có nghĩa là mất sự tin yêu, mến phục của người khác và đối với người có danh dự, thì đó là tổn thất lớn nhất. Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm nhân phẩm. Theo Đại từ điển tiếng Việt, "nhân phẩm là phẩm chất và giá trị con người" [29, tr. 1762 – 1323]. Nhân phẩm và danh dự là những giá trị nội tại, vốn có được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển và hoàn thiện của con người về mặt nhân tính. Đây là thuộc tính chung của tất cả các cá nhân trong cộng đồng nhân loại, không dựa trên bất kỳ sự phân biệt hay khác biệt nào về địa vị xã hội, kinh tế, chính trị, chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, … Nhân phẩm và danh dự của con người chính là những cái làm nên sự khác biệt và cũng là bước tiến vượt bậc của con người với phần còn lại của giới tự nhiên. Vì chúng là những giá trị chỉ thuộc tính chung của con người, do vậy, tôn trọng nhân phẩm, danh dự của mỗi cá nhân con người là sự tôn trọng đối với chính mình,
  • 17. 17 đối với đồng loại. Tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tôn trọng những giá trị của con người, nhờ đó con người thực hiện được sự công bằng và bình đẳng. Tội làm nhục người khác phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [37, tr. 105]. Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái niệm tội làm nhục người khác. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng, “Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.” [38, tr. 158]. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật - Hà Nội cũng cho rằng, “Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác” [49, tr. 335]. Từ sự phân tích các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm tội làm nhục người khác như sau: Tội làm nhục người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. 1.2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng và hình phạt được áp dụng đối với tội làm nhục người khác
  • 18. 18 1.2.2.1. Khách thể của tội phạm. Là một loại hoạt động của con người, nên cũng như các loại hoạt động khác, tội phạm cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức, độc lập với ý thức của chủ thể, nhưng không phải để cải biến mà gây thiệt hại cho chính những khách thể đó. Trong hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, các quan hệ xã hội có ý nghĩa khác nhau đối với sự phát triển của xã hội được Nhà nước bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật khác nhau. Khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định cần được bảo vệ bằng những quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội đó sẽ là khách thể của tội phạm trong trường hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định. Như vậy, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [49, tr. 61]. Công dân Việt Nam có quyền bát khả xâm phạm về thân thể và được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Tôn trọng và bảo vệ danh dự, nhân phẩm của mỗi công dân là trách nhiệm của mọi người. Đối với tội làm nhục người khác, khách thể của tội phạm là nhân phẩm, danh dự của con người. 1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm. Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bền ngoài, mà con người có thể trực tiếp nhận biết được. Đó là: - Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; - Hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cũng như mối quan hệ giữa hành vi khách quan và hậu quả.
  • 19. 19 - Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...). Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội làm nhục người khác là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thé giới khách quan. Mặt khách quan của tội làm nhục người khác là một trong bốn yếu tố của tội phạm. Không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm. Trong mặt khách quan của tội làm nhục người khác, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản. Những biểu hiện khác của mặt khách quan của tội làm nhục người khác chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan. Hành vi khách quan của tội làm nhục người khác luôn luôn được thể hiện dưới hình thức hành động phạm tội – là hình thức của hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho nhân phẩm,, danh dự con người quan việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm như bằng lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác như xỉ nhục, nhạo báng, chửi rủa thậm tệ, lột trần truồng người bị hại trước đám đông, dùng phân lợn đổ vào người bị hại… Ví dụ: tại Bản án hình sự phúc thẩm số 3888/HSPT ngày 29-10-2004, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội kết luận: do nghi ngờ ông Nguyễn Ngọc Ninh xúi giục bà Trần Thị Vượng tranh chấp đất với gia đình Phạm Thanh Bình, nên sáng này 04-03-2004, trong lúc Bình cãi nhau với gia đình bà Vượng, thấy ông Ninh, Bình lên tiếng: “thằng nào đi vào lối tranh chấp Bình sẽ chặt chân”, ông Ninh thấy vậy đi ra khỏi cổng gia đình bà Vượng. Bình lấy xô nước đựng sẵn phân lợn ở cổng đến chỗ ông Ninh, dùng hai tay hất xô nước phân lợn vào đầu, người ông Ninh. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến
  • 20. 20 danh dự, nhân phẩm của công dân. Phạm Thanh Bình đã phạm tội làm nhục người khác được quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi làm nhục người khác có thể được thực hiện công khai trước mặt người đó hoặc vắng mặt người bị hại, nhưng người phạm tội có ý thức để cho người bị hại biết việc lăng nhục đó vì động cơ cá nhân. Sự xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác phải đến mức nghiêm trọng thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự. Đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phải căn cứ vào thái độ, nhận thức của người phạm tội, cường độ và thời gian kéo dài của hành vi; vị thế, vai trò của người bị hại trong gia đình, tổ chức hoặc trong xã hội; dư luận xã hội về hành vi lăng nhục đó. Nếu hành vi làm nhục người khác dẫn đến người bị hại tự sát, thì phải coi đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm K khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999. Tội làm nhục người khác là tội phạm mà pháp luật hình sự quy định có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội làm nhục người khác. Tuy pháp luật hình sự không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội làm nhục người khác, nhưng điều đó không có nghĩa là hậu quả không xảy ra. Thực tế cho thấy, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác có thể gây ra thiệt hại to lớn về mặt tinh thần đối với người bị hại, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Hậu quả không có ý nghĩa trong việc định tội, nhưng việc xác định hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi làm nhục người khác với thiệt hại xảy ra, có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết trách nhiệm hình sự và hình phạt.
  • 21. 21 Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan đã được trình bày ở trên, thuộc mặt khách quan của tội làm nhục người khác còn có những nội dung biểu hiện khác. Đó là công cụ, phương tiện, phuơng thức, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. Đối với tội làm nhục người khác, phương tiện, công cụ, phuơng thức, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, đây là những yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, do vậy chúng được coi là những tình tiết cần được xem xét khi quyết định hình phạt. 1.2.2.3. Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội làm nhục người khác phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi đó. Đối với làm nhục người khác, người có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm danh dự của người khác và có khả năng điều khiển hành vi đó. Tội làm nhục người khác có mức tối đa của khung hình phạt là ba năm tù, cho nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, đây là tội phạm ít nghiêm trọng. Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
  • 22. 22 Như vậy, chủ thể của tội làm nhục người khác phải từ đủ 16 tuổi trở lên. 1.2.2.4.Mặt chủ quancủa tội phạm Nếu mặt khách quan của tội làm nhục người khác là mặt bên ngoài, thì mặt chủ quan là mặt bên trong, là hoạt động tâm lý của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội làm nhục người khác gồm ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tôi. Tội làm nhục người khác được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó. Trong khoa học luật hình sự, động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý, còn mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ phạm tội, mục đích phạm tội của người phạm tội làm nhục người khác không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, người thực hiện hành vi làm nhục người khác có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau như ghen tuông, thù oán, trả thù... và nhằm những mục đích khác nhau như làm nhục người khác vì vụ lợi, gây đau khổ cho người bị hại... Người phạm tội làm nhục người khác, cho dù xuất phát từ bất cứ động cơ, mục đích gì, cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, phải xem xét động cơ phạm tội, mục đích phạm tội của người phạm tội làm nhục người khác. 1.2.2.5. Hình phạt được áp dụng đối với tội làm nhục người khác Trong pháp luật hình sự hiện hành, hình phạt chính được quy định đối với tội làm nhục người khác bao gồm: hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
  • 23. 23 giữ và hình phạt tù có mức tối đa là ba năm tù. Khoản 1, khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm: a) Phạm tội nhiều lần; b) Đối với nhiều người; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: d) Đối với người đang thi hành công vụ; đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình. Phạm tội nhiều lần là trường hợp thực hiện tội làm nhục người khác mà trước đó người phạm tội đã phạm tội này ít nhất một lần và chưa bị xét xử. Hành vi phạm tội trong trường hợp này là sự lập lại tội làm nhục người khác đã thực hiện trước đó, cho nên có mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình thường. Phạm tội đối với nhiều người là trường hợp xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của hai người trở lên, có thể cùng một lần hoặc nhiều lần khác nhau. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là trường hợp người phạm tội làm nhục người khác đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để dễ dàng thực hiện tội phạm. Tính nguy hiểm của những trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội làm nhục người khác là ở chỗ, chúng không những xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, mà còn xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước.
  • 24. 24 Phạm tội đối với người đang thi hành công vụ là trường hợp xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự mà người bị hại là người đang thi hành công vụ. Công vụ ở đây được hiểu là những công việc vì lợi ích chung mà việc thực hiện công việc đòi hỏi người thi hành phải có những quyền nhất định đối với công dân khác. Tính nguy hiểm của những trường hợp làm nhục người khác đối với người đang thi hành công vụ là ở chỗ chúng không chỉ xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người, mà còn xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự công cộng, cản trở hoạt động chung của xã hội, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự, bởi lẽ khi thi hành công vụ, người bị hại thay mặt Nhà nước, chứ không phải nhân danh cá nhân họ. Phạm tội đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình là trường hợp làm nhục người khác mà người bị hại là người có quan hệ đặc biệt đối với người phạm tội. Người dạy dỗ người phạm tội là thầy, cô giáo trong hệ thống các trường đào tạo, giáo dục của Nhà nước hoặc của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, cũng có thể chỉ là người dạy dỗ theo một hợp đồng dân sự như gia sư, huấn luyện viên… Người nuôi dưỡng người phạm tội là người có trách nhiệm nuôi dưỡng người phạm tội do quan hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, ông bà đối với cháu, anh chị đối với em; do quan hệ hôn nhân như người vợ hoặc người chồng không còn khả năng lao động phải sống nhờ vào người vợ hoặc chồng; có thể do quan hệ xã hội mà phát sinh mối quan hệ giữa người có trách nhiệm nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng như nuôi dưỡng trẻ mồ côi, nuôi dưỡng thương bệnh binh, nuôi dưỡng người cao tuổi cô đơn, nuôi dưỡng bệnh nhân… Người chăm sóc người phạm tội là những người theo nghĩa vụ hoặc hợp đồng có trách nhiệm chăm sóc người phạm tội. Nói chung, người có trách nhiệm nuôi dưỡng, đồng thời có trách nhiệm chăm
  • 25. 25 sóc, nhưng cũng có trường hợp người có trách nhiệm chăm sóc, nhưng không có trách nhiệm nuôi dưỡng. Người chữa bệnh cho người phạm tội là những người thầy thuốc như bác sĩ, y tá, nhân viên y tế; họ có thể đồng thời là người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người phạm tội, nhưng có thể chỉ chữa bệnh cho người phạm tội, còn chăm sóc, nuôi dưỡng người phạm tội là người khác. Trong mối quan hệ đặc biệt với những người kể trên, người phạm tội hơn ai hết phải biết ơn và kính trọng người bị hại. Với hành vi phạm tội của mình, người phạm tội làm nhục người khác không chỉ vi phạm pháp luật hình sự, mà còn vi phạm nghiêm trọng đạo lý làm con, cháu, làm học trò, làm người được nuôi dưỡng. Đây là trường hợp phạm tội vừa bị pháp luật hình sự trừng trị, vừa bị dư luận xã hội lên án về mặt đạo đức. Theo quy định tại khoản 3 Điều 121, người phạm tội làm nhục người khác còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. 1.2.3. So sánh tội làm nhục người khác với một số tội phạm khác có liên quan 1.2.3.1. So sánh tội làm nhục người khác với các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội. Trước hết, cần phân biệt khách thể của tội làm nhục người khác với khách thể của các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội. Đối với tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên: trong quân đội, các quân nhân phải giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng và nghiêm chỉnh tuân theo những yêu cầu về sinh hoạt xã hội. Trong quan hệ cấp trên, cấp dưới, mọi quân nhân phải kính trọng và tuyệt đối phục tùng người chỉ huy hoặc cấp trên. Hành vi làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên xâm phạm nghiêm trọng mối
  • 26. 26 quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người chỉ huy hoặc cấp trên. Đối với tội làm nhục cấp dưới: trong quan hệ chỉ huy, phục tùng, cấp trên, cấp dưới, một mặt cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng lãnh đạo, chỉ huy, chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh, mặt khác, cấp trên cũng phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm, thương yêu, giúp đỡ cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Khi thực hiện nhiệm vụ, người chỉ huy hoặc cấp trên phải căn cứ vào chức trách, quyền hạn được giao để tổ chức, giáo dục, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ thuộc đơn vị mình. Pháp luật nghiêm cấm người chỉ huy hoặc cấp trên dùng các biện pháp quân phiệt đối với cấp dưới. Hành vi làm nhục cấp dưới là trái với truyền thống, bản chất tốt đẹp của quân đội ta. Hành vi làm nhục cấp dưới xâm phạm nghiêm trọng mối quan hệ giữa chỉ huy với cấp dưới, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của cấp dưới. Đối với tội làm nhục đồng đội: hành vi làm nhục đồng đội xâm phạm nghiêm trọng mối quan hệ đoàn kết giữa các quân nhân trong nội bộ quân đội, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của đồng đội. Mặt khác, cần phân biệt chủ thể của tội làm nhục người khác với chủ thể của các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội. Đối với tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên: chủ thể của tội phạm là những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, bao gồm: quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị, dân quân, tự vệ và công dân được trưng tập vào phục vụ quân đội: khi giữa họ với chỉ huy hoặc cấp trên đang ở trong hoàn cảnh có mối quan hệ công tác.
  • 27. 27 Trường hợp nhiều người thuộc diện nêu trên cố ý cùng thực hiện hành vi làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, thì trên cơ sở mối quan hệ chỉ huy, phục tùng để quyết định tội danh với từng người phạm tội. Nếu giữa người phạm tội và người bị hại không có mối quan hệ chỉ huy, phục tùng, thì người đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục đồng đội được quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 1999. Đối với tội làm nhục cấp dưới: chủ thể của tội phạm này phải là người chỉ huy hay cấp trên của người bị hại trong quan hệ công tác. Đối với tội làm nhục đồng đội: chủ thể của tội phạm này là những người được quy định tại Điều 315 Bộ luật hình sự năm 1999. Đó là quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nếu giữa họ và người bị hại không có quan hệ chỉ huy, phục tùng. Do vậy, người phạm tội và người bị hại có thể là những người cùng cấp bậc, cùng chức vụ hoặc không cùng cấp bậc, chức vụ. 1.2.3.2. So sánh tội làm nhục người khác với tội bức tử. Trong quy định về các hành vi của tội bức tử có hành vi "làm nhục người khác" dẫn đến hậu quả "người đó tự sát". Như vậy, trong dấu hiệu hành vi của tội bức tử có một loại hành vi tương tự được quy định trong tội làm nhục người khác. Tuy nhiên, trong cấu thành tội phạm tội bức tử, ngoài hành vi "làm nhục người khác" còn có các dấu hiệu bắt buộc khác, đó là nhân thân (là người phụ thuộc người phạm tội) và hậu quả (tự sát). Hành vi làm nhục người khác theo Điều 100 có thể hiểu đó là hành vi "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm", và nếu hành vi đó có kèm theo hai dấu hiệu: "là người lệ thuộc người phạm tội" và hậu quả làm người đó "tự sát" thì sẽ bị khởi tố về tội bức tử.
  • 28. 28 Đường lối xử lý hình sự với tội bức tử nghiêm khắc hơn tội làm nhục người khác. Người phạm tội tại khoản 1 Điều 100 có khung hình phạt "tù từ hai năm đến bảy năm", khoản 1 Điều 121 có khung hình phạt "cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm". Khoản 2 Điều 100 có khung hình phạt "tù từ năm năm đến mười hai năm", khoản 2 Điều 121 có khung hình phạt "tù từ một năm đến ba năm". 1.2.3.3. So sánh tội làm nhục người khác với tội hành hạ người khác. Việc quy định thế nào là "đối xử tàn ác" trong tội hành hạ người khác rất quan trọng đối với việc định tội danh. Bởi lẽ, tuy trong phần hành vi của tội hành hạ người khác chỉ quy định hành vi "đối xử tàn ác", khác với các hành vi trong tội bức tử "đối xử tàn ác, làm nhục, ức hiếp, ngược đãi" và hành vi trong tội làm nhục người khác "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người khác", nhưng theo tinh thần của các điều luật, hành vi "đối xử tàn ác" về mặt tinh thần cũng được coi là dấu hiệu cấu thành tội hành hạ người khác, đồng thời đó cũng là những hành vi đặc trưng của tội làm nhục người khác. Do vậy, nếu hành vi "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người lệ thuộc mình" và không có hậu quả tự sát xảy ra thì người phạm tội có thể bị truy cứu theo Điều 110 Bộ luật hình sự. 1.2.3.4. So sánh tội làm nhục người khác với tội vu khống. Tội vu khống giống tội làm nhục người khác ở dấu hiệu: xâm hại đến danh dự, nhân phẩm người khác. Hành vi đặc trưng của tội vu khống "bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt" cũng là một trong những hành vi đặc trưng của tội làm nhục người khác. Tuy nhiên, tội vu khống phân biệt với tội làm nhục người khác ở những điểm sau: Thứ nhất, hành vi cấu thành tội vu khống không đa dạng như tội làm nhục người khác. Ngoài ra, tội vu khống có một loại hành vi đặc trưng khác, đó là "bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan nhà nước có
  • 29. 29 thẩm quyền", nếu có hành vi trên thì người phạm tội sẽ bị truy cứu theo Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999. Tội làm nhục người khác và tội vu khống đều dẫn đến hậu quả làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác, nhưng hành vi khách quan khác nhau. Hành vi khách quan của tội làm nhục người khác thể hiện bằng lời nói, xỉ nhục ở nơi đông người hoặc hành động có tính chất bỉ ổi, còn hành vi khách quan của tội vu khống thể hiện ở việc bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ với cơ quan có thẩm quyền. Thứ hai, mục đích tội vu khống hướng tới bao gồm: xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, mục đích của tội làm nhục người khác chỉ nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Như vậy, hành vi bịa đặt, loan truyền tin tức thất thiệt nhằm gây thiệt hại đến danh dự, nhân phẩm là dấu hiệu có trong cả hai cấu thành tội phạm tội làm nhục người khác và tội vu khống. Tuy nhiên, thông thường hành vi cấu thành tội vu khống thường kèm theo mục đích nhằm bôi nhọ danh dự và gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác trước các cơ quan, tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. 1.2.4. Ý nghĩa của việc quy định tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự 1999 Tội làm nhục người khác lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng. Việc chính thức ghi nhận về mặt pháp lý hình sự tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự Việt
  • 30. 30 Nam hiện hành là một biểu hiện cụ thể của việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người được ghi nhận tại Điều 50 Hiến pháp năm 1992: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật" [7, tr.139]. Việc quy định tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự năm 1985, cũng như trong Bộ luật hình sự năm 1999 có những ý nghĩa sau đây: Thứ nhất, biểu hiện cụ thể mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo đức và pháp luật hình sự. Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội, có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người. Pháp luật lấy đạo đức làm cơ sở, nhiều quy tắc, chuẩn mực đạo đức được Nhà nước thừa nhận đã trở thành quy phạm pháp luật và Nhà nước cũng sử dụng pháp luật để bảo vệ đạo đức. Bộ luật hình sự năm 1985, cũng như Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội làm nhục người khác, điều đó có nghĩa, các giá trị đạo đức như nhân phẩm, danh dự của con người được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Thông qua việc quy định hành vi xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tội phạm và phải chịu hình phạt – biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, pháp luật hình sự đóng vai trò tác động mạnh mẽ đến sự hình thành, phát triển nền đạo đức mới, đạo đức hướng tới con người, tôn trọng con người và vì con người. Đạo đức nói chung, các giá trị đạo đức như nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, một mặt kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống, phản ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội, nhưng mặt khác, nó phải bảo đảm phù hợp với những yêu cầu của pháp luật nói chung, pháp luật hình
  • 31. 31 sự nói riêng, khuyến khích công dân tuân thủ pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự. Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh sự của người khác. Đạo luật hình sự giữ vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng, bởi vì chỉ văn bản này mới quy định hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người đã gây ra hành vi đó. Việc Nhà nước quy định tội làm nhục người khác và hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội là nhân danh ý chí của nhân dân, là sự thể hiện thái độ của nhân dân (thông qua Nhà nước đối với tội phạm). Quy phạm pháp luật hình sự về tội làm nhục người khác vừa có tính chất cấm chỉ, vừa có tính chất bắt buộc. Quy phạm này, một mặt cấm người ta không được thực hiện hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác bằng sự răn đe áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, mặt khác, quy phạm pháp luật hình sự này cũng buộc các cơ quan có trách nhiệm khi phát hiện có dấu hiệu của tội làm nhục người khác, thì phải điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ ba, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ và phát triển quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước ta khẳng định, con nguời là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hiện đại hóa đất
  • 32. 32 nước. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội làm nhục người khác, cũng như các quy định khác về quyền con người trong hệ thống pháp luật Việt Nam chứng tỏ, mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Thứ tư, bảo vệ danh dự, nhân phẩm của công dân, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội làm nhục người khác góp phần quan trọng trong việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người, đồng thời góp phần tích cực vào nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội làm nhục người khác một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi nó không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự và việc áp dụng đúng đắn nó trong thực tiễn, thể hiện sự tôn trọng quyền con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động điều tra truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét xử về tội làm nhục người khác nói riêng. Việc quy định tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự hiện hành, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự, còn có ý nghĩa nâng cao nhận
  • 33. 33 thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người. Mặt khác, việc quy định cụ thể về tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự, còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn quy phạm pháp luật hình sự này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác, động viên quần chúng nhân dân tham gia tích vào cuộc đấu tranh này. 1.3. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Nghiên cứu những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự của Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Nga, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cho thấy, các nước quy định rất khác nhau về tội phạm này. Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định các tội xâm phạm danh dự tại chương XXXIV, gồm hai tội nói xấu người và sỉ nhục người khác. Điều 231 Bộ luật quy định: “Người nào công khai sỉ nhục người khác thì bị phạt giam hình sự hoặc bị phạt tiền về tội hình sự nhỏ, thậm chí nếu người đó thực hiện hành vi sỉ nhục mà không đưa ra sự kiện” [12, tr. 64]. Điều 232 Bộ luật này còn quy định: “1. Các tội phạm quy định tại chương này chỉ bị khởi tố căn cứ vào đơn yêu cầu. 2. Khi người làm đơn yêu cầu là Hoàng đế, Nữ hoàng, Hoàng hậu góa, Hoàng thái hậu góa hoặc người thừa kế ngôi hoàng đế và Thủ tướng Chính phủ thì những người đó đều nhân danh cá nhân hoặc khi người làm đơn yêu cầu là Vua hoặc Tổng thống của một nước ngoài, là người đại diện của nước ngoài hữu quan thì những người đó cũng đều nhân danh cá nhân” [12, tr. 64].
  • 34. 34 Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định về tội làm nhục người khác tại Điều 2 chương 5– Các tội xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác: “Người nào xỉ vả người khác bằng lời lẽ lăng mạ hoặc có hành động khác mang tính chất sỉ nhục đối với người đó, thì bị kết án về tội làm nhục người khác và bị phạt tiền nếu hành vi này không bị xử phạt theo Điều 1 hoặc Điều 2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tiền hoặc bị phạt tù đến 6 tháng” [32, tr. 13]. Điều 5 của Bộ luật còn quy định: “Các tội nói từ Điều 1 đến Điều 3 có thể không bị truy tố trừ trường hợp có đơn yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, nếu người bị hại không có đơn yêu cầu truy tố nhưng vì lợi ích công cộng thì công tố viên có thể truy tố các tội: 1. Vu khống và vu khống người khác trong trường hợp nghiêm trọng; 2. Làm nhục nhà chức trách hoặc lăng mạ nhà chức trách khi thi hành công vụ; 3. Làm nhục người khác vì lý do sắc tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc hoặc tôn giáo của người đó; 4. Làm nhục người khác vì lý do bệnh đồng tình luyến ái của người đó. Hành vi xúc phạm danh dự và nhân phẩm người đã chết có thể bị truy tố theo yêu cầu của người vợ hoặc chồng còn sống, những người thừa kế trực tiếp, cha, mẹ hoặc anh chị em ruột của người chết. Công tố viên phải truy tố hành vi nói trên; việc truy tố là vì lợi ích công cộng do nhũng lý do đặc biệt. Hành vi xúc phạm nguyên thủ quốc gia của một nước ngoài hiện đang ở Thụy Điển hoặc đại diện của một nước ngoài tại Thụy Điển có thể bị truy tố theo các Điều 1 – 3 nói trên” [32, tr. 14].
  • 35. 35 Như vậy, tương tự như pháp luật hình sự Nhật Bản, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định tội làm nhục người khác có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trừ trường hợp có đơn yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, khác với pháp luật hình sự Nhật Bản, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định cụ thể các trường hợp vì lợi ích công cộng, công tố viên phải truy tố về tội làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển còn quy định hành vi xúc phạm danh dự và nhân phẩm người đã chết có thể bị truy tố theo yêu cầu của người vợ hoặc chồng còn sống, những người thừa kế trực tiếp, cha, mẹ hoặc anh chị em ruột của người chết. Đây là những quy định mang tính nhân bản sâu sắc trong pháp luật hình sự của nước này. Trong Bộ luật hình sự năm 1996 của Liên bang Nga, tội làm nhục người khác được quy định tại Điều 131: “1. Làm nhục, nghĩa là hạ thấp danh dự và nhân phẩm của người khác, bằng hình thức thô tục. - Thì bị phạt tiền đến 100 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian đến 1 tháng, hoặc bị phạt lao động bắt buộc đến 120 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 6 tháng. 2. Làm nhục trên diễn đàn công cộng, trong tác phẩm được công bố công khai hay trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Thì bị phạt tiền đến 200 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian đến 2 tháng, hoặc bị phạt lao động bắt buộc đến 180 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 1 năm” [33, tr. 84 –85]. Điều 328 Bộ luật này còn quy định tội xúc phạm quân nhân: “1. Quân nhân nào xúc phạm đồng đội trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội hoặc liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ đó thì phạt hạn chế phục vụ
  • 36. 36 quân đội đến 6 tháng hoặc bị phạt giữ ở đơn vị kỷ luật của quân đội đến 6 tháng. 2. Cấp dưới xúc phạm người chỉ huy hoặc người chỉ huy xúc phạm cấp dưới trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội hoặc liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ đó, thì bị phạt hạn chế phục vụ quân đội đến 1 năm hoặc bị phạt giữ ở đơn vị kỷ luật của quân đội đến 1 năm” [33, tr. 136] Như vậy, khác với pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển, pháp luật hình sự Nhật Bản, pháp luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga có quy phạm định nghĩa về khái niệm làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật hình sự Liên bang Nga còn có quy định về tội xúc phạm quân nhân. Tội xúc phạm quân nhân trong pháp luật hình sư Liên bang Nga có nhiều điểm tương tự như tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội trong pháp luật hình sự của nước ta. Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định tội xúc phạm danh dự người khác tại Điều 87, tội chửi rủa lăng nhục người khác tại Điều 88, tội xúc phạm mồ mả và thanh danh của người đã chết tại Điều 89. Điều 87 Bộ luật quy định: “Người nào xúc phạm danh dự của người khác bằng lời nói, viết hoặc những hình thức khác thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000 đến 10.000 kíp. Người nào đặt ra những điều không có thực bằng lời nói, viết hoặc bằng các hình thức khác xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự của người khác thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc bị phạt tiền từ 5000 kíp đến 10.000 kíp” [11, tr. 46]. Như vậy, theo pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi xúc phạm danh dự của người khác và hành vi vu khống người khác được
  • 37. 37 quy định chung trong một điều luật quy định về tội xúc phạm danh dự của người khác. Điều 88 Bộ luật còn quy định về tội chửi rủa lăng nhục người khác: “Người nào dùng lời nói, viết hoặc thực hiện hành vi xấu xa, trụy lạc xúc phạm nghiêm trọng danh dự của người khác thi bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000 kíp đến 10.000 kíp” [11, tr. 28 – 29]. Ngoài ra, Điều 89 Bộ luật này còn quy định về tội xúc phạm mồ mả và thanh danh của người đã chết: “Người nào có hành động hoặc dùng lời nói xấu xa đối với hài cốt, thanh danh của người đã chết, ảnh hưởng xấu tới sự tôn trọng của quần chúng nhân dân với người đã chết thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000 kíp đến 10.000 kíp” [11, tr. 29]. Như vậy, tương tự với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển, trong pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người đã chết cũng bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu hình phạt. Đây là điểm khác biệt so với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự của nước ta. Từ sự phân tích ở trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự của các nước: Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Nga, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào rất khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước. Thứ hai, pháp luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga có quy phạm định nghĩa về khái niệm làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật hình sự
  • 38. 38 Liên bang Nga còn có quy định về tội xúc phạm quân nhân. Tội xúc phạm quân nhân trong pháp luật hình sư Liên bang Nga có nhiều điểm tương tự như tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội trong pháp luật hình sự của nước ta. Thứ ba, tương tự với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển, trong pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người đã chết cũng bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu hình phạt. Đây là điểm khác biệt so với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự của nước ta. Ngoài ra, trong pháp luật hình sự hiện hành của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi xúc phạm danh dự của người khác và hành vi vu khống người khác được quy định chung trong một điều luật quy định về tội xúc phạm danh dự của người khác. Đây cũng là điểm khác biệt so với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự của nước ta. Chương 2 TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1 TÌNH HÌNH TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
  • 39. 39 2.1.1. Thực trạng và động thái của tình hình tội làm nhục người khác Danh dự, nhân phẩm là tài sản quý giá, là phần bất khả xâm phạm của con người. Trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, cơ quan và tổ chức đã thể hiện sự quan tâm của mình qua hàng loạt các quy định và các biện pháp chế tài áp dụng đối với các hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của con người. Tuy nhiên, các hành vi “làm nhục người khác” đang có những diễn biến phức tạp. Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao, từ năm 1997 đến năm 2005, số vụ án xét xử về tội làm nhục người khác có xu hướng giảm nhưng không đáng kể, cụ thể năm 1997: 115 vụ với 177 bị cáo ; năm 1998: 162 vụ với 241 bị cáo; năm 1999: 144 vụ với 228 bị cáo, năm 2000: 106 vụ với 164 bị cáo; năm 2001: 86 vụ với 125 bị cáo; năm 2002: 89 vụ với 133 bị cáo; năm 2003: 96 vụ với 149 bị cáo; năm 2004: 56 vụ với 84 bị cáo; năm 2005: 61 vụ với 78 bị cáo. Để có cái nhìn tổng quan hơn về số vụ án về tội làm nhục người khác đã xét xử so với tổng số các vụ án hình sự, ta có thể nhìn vào bảng số liệu sau: Bảng 2.1: Số vụ án về tội làm nhục người khác/ Tổng số các vụ án hình sự: Năm Tội làm nhục người khác Tổng số các vụ án hình sự Tỷ lệ %
  • 40. 40 Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo 1997 115 177 42 440 61 962 0.3% 0.3% 1998 162 241 48 670 62 136 0.3% 0.4% 1999 144 228 50 461 76 302 0.3% 0.3% 2000 106 164 41 942 61 491 0.3% 0.3% 2001 86 125 49 712 58 222 0.2% 0.2% 2002 89 133 44 196 61 256 0.2% 0.2% 2003 96 149 49 373 66 232 0.2% 0.2% 2004 56 84 52 999 75 453 0.1% 0.1% 2005 61 78 49 845 79 193 0.1% 0.1% Tổng 915 1 379 429 638 602 247 0.2% 0.2% Nguồn: TANDTC Nhìn vào bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy qua 9 năm qua, số vụ án và bị cáo của tội làm nhục người khác diễn biến theo xu hướng giảm, tuy nhiên từ năm 1997 đến năm 2000, số vụ án và bị cáo bị xét xử về tội phạm này vẫn ở mức cao. Tội làm nhục người khác là một tội phạm ít nghiêm trọng nên phần lớn thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp huyện, chỉ có một số ít các vụ án được toà án cấp tỉnh xét lại bản án theo thủ tục phúc thẩm, tuy nhiên số lượng này không nhiều. Theo thống kê của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, các vụ án về tội làm nhục người khác được xét xử theo thủ tục phúc thẩm trong các năm 1997 là 2 vụ, 1998: 2 vụ; 1999: 1 vụ; 2000: 0 vụ; 2001: 0 vụ; 2002: 2 vụ; 2003: 2 vụ; 2004: 2 vụ. Như vậy, trong vòng 8 năm, số vụ án về tội làm nhục người khác được xét xử theo thủ tục phúc thẩm tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội chỉ có 11 vụ, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các vụ án đã giải quyết. Trong các năm 1997, 1998, 1999, 2000 tội làm nhục người khác chỉ chiếm 0,3% tổng số vụ án hình sự và 0,4% tổng số các bị cáo bị đưa ra xét xử.
  • 41. 41 Từ năm 2001 đến năm 2003, số vụ án về tội làm nhục người khác giảm xuống dưới 100 vụ/ năm nhưng vẫn ở mức cao, năm 2001 có 86 vụ bị đưa ra xét xử, số vụ án bị đưa ra xét xử năm 2002 là 89 vụ và năm 2003 là 93 vụ. Như vậy, trong 3 năm này, số vụ án về tội làm nhục người khác có chiều hướng tăng. Tuy nhiên, các vụ án và bị cáo về tội làm nhục người khác chỉ chiếm 0,2% so với tổng số các vụ án và bị cáo hình sự, giảm 0,1% so với những năm trước. Trong hai năm 2004, 2005, số vụ án về tội làm nhục người khác giảm xuống rõ rệt. Cụ thể năm 2004, chỉ còn 56 vụ với 84 bị cáo, năm 2005, dù số vụ án tăng lên 61 vụ nhưng số bị cáo thấp hơn, chỉ còn 78 bị cáo. So với tổng số các vụ án và bị cáo bị xét xử, tỷ lệ các vụ án và bị cáo được đưa ra xét xử về tội làm nhục người khác chỉ chiếm 0,1%. Đây là một chỉ số đáng chú ý của tình hình tội phạm này. Tuy nhiên, các số liệu thống kê của Toà án chưa hẳn đã phản ánh chính xác thực trạng tội phạm trên, bởi lẽ trên thực tế nhận thức của người dân về tội làm nhục người khác còn thấp, cũng như giữa người bị hại và người vi phạm thường có mối quan hệ thân thuộc, cho nên tỷ lệ tội phạm ẩn tương đối cao. Để có sự đánh giá khách quan về sự quan tâm giải quyết của Toà án các cấp trong việc xử lý tội phạm trên, ta có thể nhìn vào bảng số liệu sau: Bảng 2.2. Số vụ án đã xét xử/ tổng số án phải giải quyết: Năm Số vụ án phải giải quyết Số vụ án đã xét xử Tỷ lệ % số vụ án phải giải quyết/ số vụ án đã
  • 42. 42 xét xử Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 1997 130 201 115 177 88% 88% 1998 173 259 162 241 94% 93% 1999 155 247 144 228 93% 92% 2000 138 201 106 164 77% 82% 2001 100 151 86 125 86% 83% 2002 103 157 89 133 86% 85% 2003 117 184 96 149 82% 81% 2004 69 109 56 84 81% 77% 2005 76 101 61 78 80% 77% Tổng 1 061 1 610 915 1 379 86% 86% Nguồn: TANDTC Như vậy, tổng số vụ án thụ lý qua các năm đều chiếm ở mức tương đối cao, qua bảng số liệu của 9 năm, ta có thể chia làm ba giai đoạn: Từ năm 1997 đến năm 2000: Trong 4 năm này, các vụ án về tội làm nhục người khác xảy ra ở mức cao, tuy nhiên Toà án các cấp rất quan tâm giải quyết và xét xử hầu hết các vụ án đã thụ lý. Năm 1997, trong tổng số 130 vụ án và 201 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 5 vụ với 6 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 12 vụ với 25 bị cáo, đưa ra xét xử 115 vụ với 177 bị cáo, chiếm 88% tổng số vụ án thụ lý. Năm 1998, trong tổng số 173 vụ với 259 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 10 vụ với 17 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 12 vụ với 18 bị cáo, đưa ra xét xử 162 vụ với 241 bị cáo, chiếm 94% tổng số án thụ lý. Năm 1999, trong tổng số 155 vụ với 247 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 5 vụ với 7 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 20 vụ với 13 bị cáo, đưa ra xét xử 144 vụ với 228 bị cáo, chiếm 93% tổng
  • 43. 43 số án thụ lý. Năm 1998 và 1999 là hai năm có tỷ lệ các vụ án đưa ra xét xử/ tổng số các vụ án thụ lý cao nhất trong vòng 9 năm. Năm 2000, dù số vụ án và bị cáo vẫn ở mức cao: 138 vụ với 201 bị cáo, nhưng chỉ có 104 vụ án với 164 bị cáo được đưa ra xét xử, chiếm 77% tổng số án thụ lý, đây là năm có tỷ lệ các vụ án đưa ra xét xử thấp nhất trong vòng 9 năm. Từ năm 2001 đến năm 2003: Tuy số án thụ lý vẫn ở mức trên 100 vụ, nhưng có chiều hướng giảm so với 4 năm trước. Cụ thể: Năm 2001: trong tổng số 100 vụ với 151 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 4 vụ với 8 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 6 vụ với 11 bị cáo, đưa ra xét xử 86 vụ với 125 bị cáo, chiếm 86% tổng số án thụ lý. Năm 2002: trong tổng số 103 vụ với 157 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 3 vụ với 6 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 10 vụ với 16 bị cáo, đưa ra xét xử 89 vụ với 133 bị cáo, chiếm 86% tổng số án thụ lý. Năm 2003: trong tổng số 117 vụ với 184 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 3 vụ với 9 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 13 vụ với 17 bị cáo, đưa ra xét xử 96 vụ với 149 bị cáo, chiếm 82% tổng số án thụ lý. Năm 2003, tỷ lệ các vụ án đưa ra xét xử/ tổng số án thụ lý giảm đi đáng kể so với các năm trước, một phần do số lượng các vụ án về tội làm nhục người khác giảm, một phần do đã bước đầu áp dụng thành công công tác hoà giải cơ sở. Từ năm 2004 và 2005: Số lượng các vụ án thụ lý về tội làm nhục người khác giảm rõ nét. Năm 2004: trong tổng số 69 vụ với 109 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 2 vụ với 2 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 4 vụ với 10 bị cáo, đưa ra xét xử 56 vụ với 84 bị cáo, chiếm 81% tổng số án thụ lý. Năm 2005: Trong tổng số 76 vụ với 101 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 2 vụ với 4 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 10 vụ với 14 bị cáo, đưa ra xét xử 61 vụ với 78 bị cáo, chiếm 80% tổng số án thụ
  • 44. 44 lý. Có thể nói, năm 2005 là năm có tỷ lệ các bị cáo được đưa ra xét xử thấp nhất trong vòng 9 năm. Tuy nhiên, cần thấy rõ là tội làm nhục người khác có diễn biến rất phức tạp, trong đó tình hình tội phạm ẩn tương đối cao, theo thống kê chưa đầy đủ hàng năm tỷ lệ tội phạm bị phát hiện chỉ chiếm khoảng 70- 75% tội phạm xảy ra trên thực tế. Bên cạnh đó, việc không phân biệt rõ ràng ranh giới giữa xử lý hình sự với hành chính, dân sự cũng là một nguyên nhân khiến tình hình tội phạm ẩn càng thêm phức tạp. Nhiều vi phạm mang tính hình sự nhưng chỉ bị xử lý hành chính, dân sự. Ngoài ra, do đặc thù của các tội xâm phạm đến "danh dự, nhân phẩm" - một loại đối tượng phi vật thể, cho nên căn cứ để xác định tội phạm phụ thuộc rất nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. So với các tội phạm có cấu thành vật chất như tội cố ý gây thương tích (căn cứ giấy xác nhận tỷ lệ thương tật để xác định có hay không hành vi phạm tội và định khung hình phạt), các tội xâm phạm sở hữu (căn cứ vào giá trị tài sản bị xâm hại để định tội và định khung hình phạt), …. thì căn cứ định tội của tội làm nhục người khác là "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm", chính vì vậy có nhiều trường hợp có tội phạm xảy ra trên thực tế nhưng do thời gian đã qua lâu hoặc không có người làm chứng, vật chứng nên các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không có đủ cơ sở để khởi tố vụ án và bị can.
  • 45. 45 Biểu đồ 1: Các vụ án về tội làm nhục người khác qua 9 năm. Biểu đồ 2. Các bị cáo về tội làm nhục người khác qua 9 năm: Trên đường biểu đồ về diễn biến tình hình tội phạm qua 9 năm, ta có thể nhận thấy tình hình các vụ án và bị cáo của tội làm nhục người khác có xu hướng giảm, đây là dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, tội phạm này có tính chất tương đối phức tạp nên để đánh giá đúng mức độ nghiêm trọng của thực trạng tội phạm này chúng ta không chỉ căn cứ vào các số liệu thống kê mà còn thông qua nhiều kênh thông tin khác như các phương tiện thông tin đại chúng, các tài liệu báo cáo của các cơ quan ban ngành hữu quan như hành chính, dân sự, vv …
  • 46. 46 Để xem xét mối tương quan và tỷ lệ tội làm nhục người khác với các tội phạm trong chương Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, chúng ta có bảng 2.3 Bảng 2.3. So sánh tỷ lệ tội làm nhục người khác với nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm (Chương XII) Năm Tội làm nhục người khác Nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm Tỷ lệ tội làm nhục người khác/ Nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 1997 115 177 6 814 9 524 2% 2% 1998 162 241 7 973 10 973 2% 2% 1999 144 228 7 416 10 129 2% 2% 2000 106 164 6 195 9 703 2% 2% 2001 86 125 6 795 8 823 1% 1% 2002 89 133 6 802 8 802 1% 2% 2003 96 149 7 323 9 685 1% 2% 2004 56 84 8 282 11 927 1% 1% 2005 61 78 7 794 11 251 1% 1% Tổng số 915 1 379 65 394 90 817 Nguồn: TANDTC Tội làm nhục người khác so với nhóm tội trong Chương XII chiếm số lượng thấp, từ năm 1997 đến 2000 số vụ án và bị cáo chiếm tỷ lệ 2% so với tổng số vụ án và bị cáo của nhóm tội chương XII. Từ năm 2001 đến năm 2005, số vụ án và bị cáo dao động trong khoảng từ 1% đến 2%, tuy nhiên, trong khoảng từ năm 2001 đến 2005, tổng số vụ án được xét xử về tội làm nhục người khác có xu hướng giảm đi rõ rệt, chỉ chiếm 1% trên tổng số vụ án của các tội trong Chương XII.
  • 47. 47 Biểu đồ 3: Số vụ án tội làm nhục người khác và số vụ án của Chương XII qua 9 năm
  • 48. 48 Biểu đồ 4: Bị cáo về tội làm nhục người khác và tổng số các bị cáo của Chương XII qua 9 năm
  • 49. 49 Để làm rõ thêm cơ cấu, tính chất của tình hình tội làm nhục người khác, chúng ta xem xét mối tương quan và tỷ lệ tội làm nhục người khác với một số loại tội phạm trong chương Các tội xâm phạm tính mạnh, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người như tội bức tử, tội hành hạ người khác, tội vu khống. Bảng 2.4: So sánh tội làm nhục người khác với các tội bức tử; hành hạ người khác và tội vu khống. Năm Tội làm nhục người khác Tội vu khống Tội hành hạ người khác Tội bức tử Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 1997 115 177 17 20 6 9 15 16 1998 162 241 20 32 0 0 17 19 1999 144 228 18 21 7 7 10 10 2000 106 164 7 7 6 7 10 10 2001 86 125 15 17 1 1 15 15 2002 89 133 16 20 0 0 7 7 2003 96 149 9 11 2 2 15 20 2004 56 84 14 18 5 8 1 1 2005 61 78 15 19 1 1 7 7 Tổng số 915 1 379 131 165 28 35 97 105 Nguồn: TANDTC Dựa vào bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy tội làm nhục người khác chiếm một tỷ trọng khá cao trong số các tội trên . Số liệu thống kê về tình hình tội vu khống qua 9 năm từ 1997 đến 2005 không có biến động nhiều, năm 1997 xét xử 17 vụ với 20 bị cáo; năm 1998 xét xử 20 vụ với 32 bị cáo (cao nhất trong vòng 9 năm); năm 1999 xét xử 18 vụ