SlideShare a Scribd company logo
1 of 85
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯƠNG TUẤN ANH
CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TUNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯƠNG TUẤN ANH
CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tung hình sự
Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lương Tuấn Anh, Học viên cao học đợt 2 -2017 chuyên ngành
Luật Hình sự và Tố tụng hình sự tại Học viện Khoa học xã hội, xin cam đoan
luận văn “Các tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hà Nội ” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
cá nhân tôi. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tác giả thực hiện.
Các tài liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân khác
được tham khảo, sử dụng, trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ nguồn
gốc một cách trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung đã cam
đoan ở trên.
Tác giả luận văn
Lương Tuấn Anh
MỤC LỤC
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
........................................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm tội phạm về mại dâm............................................................ 7
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về mại dâm .......................14
1.3. Đường lối xử lý các hành vi về mại dâm ........................................29
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM34
VỀ MẠI DÂM...............................................................................................34
2.1. Khái quát lịch sử các tội phạm về mại dâm........................................34
2.2. Quy định về tội phạm mại dâm trong bộ luật hình sự 2015 ................43
Chương 3 THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM MẠI DÂM Ở HÀ
NỘI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI
DÂM ...............................................................................................................51
3.1. Thực tiễn xét xử các tội phạm mại dâm ở Hà Nội...............................51
3.2. Các giải pháp bảo đảm xét xử các tội phạm về mại dâm.....................64
KẾT LUẬN....................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................77
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TNHS Trách nhiện hình sự
VNĐ Việt nam đồng
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm tội phạm về mại dâm tại
Hà Nội (2014-2018) .................................................................................53
Bảng 3.2 Kết quả xét xử tội chứa mại dâm trên địa bàn thành phố Hà Nội
trong thời gian (2014-2018).....................................................................55
Bảng 3.3 Kết quả xét xử tội môi giới mại dâm trên địa bàn thành phố Hà
Nội trong thời gian (2014-2018)..............................................................56
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mại dâm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, xuất hiện trong mọi xã
hội, mọi quốc gia. Nạn mại dâm một căn bệnh kinh niên của tất cả các
nước, các xã hội khác nhau, luôn là một vấn đề đau đầu của tất cả các hệ
thống pháp luật và ngày càng có xu hướng gia tăng trầm trọng hơn.
Ở Việt Nam, mại dâm là một hiện tượng trái với quan điểm đạo đức
của xã hội. Con người không chấp nhận sự tồn tại của hiện tượng này và
luôn tìm mọi biện pháp để loại trừ nó ra khỏi đời sống xã hội. Tệ nạn mại
dâm đã và đang làm xói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống văn hóa và trật tự an ninh xã hội.
Nghiêm trọng hơn, nó còn là một trong những nguyên nhân lây lan căn
bệnh thế kỷ HIV ra cộng đồng, chứa đựng những nguy cơ có thể làm hủy
diệt sự sống của con người và gây hậu quả nghiệm trọng khác đến sự phát
triển của giống nòi.
Điều đáng nói là, bên cạnh những chủ thể tự nguyện hành nghề,
những chủ thể do sa cơ lỡ bước vào con đường mại dâm thì hằng năm cũng
có rất nhiều các cô gái, thâm chí là trẻ em bị bắt cóc, bị bán, bị giam nhốt
trong các động mại dâm. Mại dâm vô hình đã trở thành một thứ kỹ nghệ
kinh doanh trên thân xác phụ nữ và trẻ em, phá vỡ biết bao mái ấm gia đình
và làm lụi tàn cuộc đời của biết bao con người, cả người bán và người mua.
Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường, giao lưu quốc tế rộng rãi như
hiện nay, nạn mại dâm đã xâm nhập vào nước ta qua nhiều con đường và
bằng nhiều hình thức khác nhau, khiến cho số lượng gái mại dâm, người
mua dâm, các chủ chứa và các môi giới mại dâm ngày càng tăng cao, hình
thành nên những đường dây mại dâm có tính chất quốc tế và nạn buôn bán
phụ nữ nhằm kinh doanh mại dâm ngày càng nghiêm trọng. Hiện nay có
2
nhiều hình thức hoạt động mại dâm mới: Gái gọi, du lịch tình dục, người
nước ngoài bán dâm, mại dâm nam, mại dâm đồng tính, người chuyển giới
bán dâm, môi giới mại dâm thông qua mạng internet, facebook, Zalo…
Tình trạng hoạt động mại dâm ngày càng tinh vi phức tạp, đối tượng mua
dâm thuộc nhiều lứa tuổi, thành phần khác nhau.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách, cũng như hệ thống pháp luật để phòng ngừa và đấu tranh với tệ
nạn này. Bộ luật hình sự năm 2015 ra đời trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện
các tội phạm về mại dâm, là công cụ góp phần đẩy lùi hiện tượng mại dâm,
nhưng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế.
Trước thực tế đó, vấn đề đặt ra là phải có một hệ thống pháp luật
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận về tội phạm
mại dâm, phân tích các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này,
đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật để có các giải pháp
hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm mại dâm trong bối cảnh của
đất nước.
Xuất phát từ những thực trạng trên, tác giả nhận thấy việc chọn Đề tài:
“Các tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Hà Nội ” làm luận văn thạc sỹ là hết sức cần thiết, việc nghiên
cứu thành công Đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các tội phạm về mại dâm là đề tài được các nhà hình sự học trên thế
giới và trong nước quan tâm và nghiên cứu. Đặc biệt trong thời gian qua,
trong nước đã có những công trình nghiên cứu ở mức độ khác nhau. Đó là
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Tệ nạn mại dâm - Thực trạng và các giải pháp
nâng cao hiệu quả phòng ngừa” của Trần Hải Âu năm 2004. Tác giả đã đề
cập những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tệ nạn mại dâm, quan điểm
3
một số nước trên thế giới và Việt Nam, phân tích làm rõ vấn đề lý luận về
hoạt động phòng ngừa tệ nạn mại dâm, tác giả đã làm rõ thực trạng, tình
hình tệ nạn mại dâm, đặc điểm nhân thân người chứa mại dâm. Đây là công
trình khoa học đã đi sâu nghiên cứu về tệ nạn mại dâm và hoạt động phòng
ngừa mại dâm. [2];
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Điều tra tội phạm về mại dâm có tổ chức” của
Nguyễn Hoàng Minh 2010 [15]. Tác giả đi sâu làm rõ khái niệm tội phạm
về mại dâm và tội phạm về mại dâm có tổ chức, phân tích làm rõ thực trạng
của loại tội phạm này và đưa ra dự báo cũng như các giải pháp nâng cao
hoạt động điều tra loại tội phạm nay.
- Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Trường An với đề tài “Các tội
phạm về mại dâm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam - thực tiễn xét
xử trên địa bàn tỉnh Hoà Bình” bảo vệ năm 2014 [1]. Tác giả làm rõ vấn đề
lý luận các tội phạm về mại dâm và ý nghĩa của việc quy định các loại tội
này trong BLHS cũng đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiệt pháp luật
cũng như luật hóa một số tội mới trong BLHS đối với nhóm tội này.
Ngoài ra còn một số giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công
trình sau: GS. TSKH. Lê Cảm (Chủ biên) [4], Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2003; Ths. Đinh
Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm),
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 2000 [17]; GS.TS.Võ Khánh Vinh, Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) [26], Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2001; "Tệ nạn xã hội ở Việt Nam: Thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp" do TS. Lê Thế Tiệm và Phạm Thị Phả chủ biên [22], Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 1994; “Mại dâm, ma túy, cờ bạc- Tội phạm thời hiện
đại” năm 2003 của PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm cùng tập thể tác giả [27].
Ngoài ra còn một số các bài báo, tạp chí như “Thực tiễn áp dụng các quy
4
định của Bộ luật hình sự về tội phạm liên quan đến mại dâm và những vấn
đề hoàn thiện” (Tạp chí Tòa án nhân dân số 24/2007, Đỗ Đức Hồng Hà);
“Tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm: Lý luận và thực tiễn” (Tạp chí
nghiên cứu lập pháp số 22/2010) [10];
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu nêu trên hầu hết là dưới góc độ
điều tra tội phạm học hoặc phân tích từng tội phạm cụ thể riêng rẽ trên một
số các vụ án thực tế điển hình mà chưa có một công trình khoa học nào cấp
luận văn thạc sỹ giải quyết một cách tổng thể các vấn đề về các tội phạm
về mại dâm, đồng thời tổng kết thực tiễn xét xử qua đó đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật. Do vậy, việc nghiên cứu một cách tổng
quát về các tội phạm về mại dâm trong giai đoạn hiện nay là một công việc
cần thiết và có ý nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài trên cơ sở nhận thức toàn diện, có hệ thống về các tội phạm
mại dâm và đánh giá thực tiền áp dụng, đề xuất những kiến nghị cho việc
hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định về tội phạm mại dâm trong thực tiễn.
- Để đạt được những mục đích trên,luận văn cần giải quyết những
nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu lý luận về các tội phạm về mại dâm như khái niệm, ý
nghĩa của việc quy định các tội phạm mại dâm.
+ Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội
phạm về mại dâm.
+ Đánh giá thực tiễn xét xử loại tội này tại các Tòa án nhân dân Hà
Nội.
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp
luật về các tội phạm mại dâm.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chế định các tội phạm
về mại dâm trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy phạm
thuộc chế định này trong công tác xét xử.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến các tội
phạm về mại dâm dưới góc độ luật hình sự, chủ yếu dựa trên cơ sở cac quy
định của BLHS 2015. Đề tài nghiên cứu thực tiễn xét xử các Tòa án hai cấp
Thành phố Hà Nội thời gian trong 05 năm từ 2014-2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chính
Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về pháp luật, về
phòng chống tội phạm.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: so sánh, phân
tích, tổng hợp, lịch sử, vụ việc điển hình... các phương pháp này được sử
dụng đan xen lẫn nhau để có thể xem xét một cách toàn diện các vấn đề lý
luận và thực tiễn. Đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu thống kê
về các vụ án mại dâm tại địa bàn thành phố Hà Nội và những thông tin
được khai thác trên các tạp chí, trên mạng Internet nhằm phân tích tổng
hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề cần nghiên
cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Những phân tích, đánh giá và kiến nghị nêu trong luận văn có ý
nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng,
chống các tội phạm về mại dâm, góp phần xây dựng nhận thức đầy đủ và
đúng đắn về chế định các tội phạm về mại dâm, góp phần đổi mới nội dung
6
và phương pháp đấu tranh phòng, chống các tội phạm này trong tình hình
mới.
Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công
tác nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm có ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận các tội phạm về mại dâm
Chương 2: Thực trạng pháp luật quy định các tội phạm về mại dâm
Chương 3: Thực tiễn xét xử các tội phạm về mại dâm ở Hà Nội và
các giải pháp bảo đảm xét xử các tội phạm về mại dâm
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
1.1. Khái niệm tội phạm về mại dâm
1.1.1. Khái niệm mại dâm
Mại dâm là một tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng tiêu cực đến lối sống,
đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Bên cạnh đó, nó còn là biểu
hiện của một xã hội rối loạn kỷ cương, hệ thống pháp luật chưa hoàn
thiện, và là nguyên nhân lây lan các căn bệnh nguy hiểm khác, các tệ nạn
xã hội khác làm suy đồi sự phát triển của loài người. Tuy nhiên, nó lại đã
và đang tồn tại trong các thời kỳ lịch sử của hầu hết các Nhà nước và xã
hội, thường được gọi dưới cái tên- nghề buôn phấn bán hương. Chính vì
vậy, trong đại bộ phận pháp luật hình sự các quốc gia, trong đó có Việt
Nam, đã có những quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
về mại dâm, coi đó là một trong những hành vi nguy hiểm cho xã hội và
cần phải được xử lý nghiêm minh.
Trước hết, mại dâm có nghĩa là gì? Thuật ngữ “ mại dâm” hay “ mãi
dâm” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “ Prostiuere” có nghĩa ban đầu là “
bày ra để bán”, chỉ việc bán thân một cách tùy tiện, không thích thú, mại
dâm đã tồn tại hàng nghìn năm trước. Theo lý thuyết xã hội học thì mại
dâm có thể được dịch nghĩa là việc trao đổi sự thỏa mãn tình dục để lấy
tiền hoặc bất cứ một giá trị vật chất nào [15].
Có rất nhiều cách hiểu thế nào là mại dâm? Trước khi BLHS 1985,
1999, 2015 ra đời, đã có định nghĩa cho rằng, mại dâm là hoạt động nhằm
cung cấp sự thảo mãn tình dục cho người khác ngoài phạm vi quan hệ vợ
chồng và bạn bè. Mại dâm cung cấp tình dục mang tính đồi trụy và tạo ra
không khí vô đạo đức và nguy hiểm, tác dụng như thuốc kích thích đối
8
với một loại người nhất định [9]. Quan điểm này chủ yếu nhìn mại dâm là
một hành vi suy đồi đạo đức. Trong Luận án thạc sỹ Luật học của mình,
tác giả Phạm Duy Quang lại nhận diện đâu là một hành vi mại dâm qua
các dấu hiệu:
Thứ nhất, có sự thỏa thuận giữa hai bên là nam và nữ (ở đây không
đề cập đến dạng mại dâm cùng nam giới) về việc đáp ứng và thỏa mãn
dịch vụ quan hệ tình dục thông qua giao hợp hoặc các hình thức khác như
thủ dâm…
Thứ hai, việc trao đổi tình dục được thực hiện trên cơ sở người bán
dâm- tức là người đáp ứng nhu cầu tình dục (thường là phụ nữ) được
người mua dâm- người cần được đáp ứng nhu cầu tình dục (thường là nam
giới) trả hoặc hứa trả một giá trị vật chất nhất định như tiền, đồ trang sức
hoặc các vật có giá trị khác…
Thứ ba, hành vi trao đổi tình dục đó xảy ra ngoài phạm vi hôn nhân.
Như vậy, theo tác giả Phạm Duy Quang, thì hành vi mại dâm bắt
buộc phải xảy ra giữa những người không có quan hệ hôn nhân (giữa vợ
và chồng), và mục đích của người bán dâm hướng đến phải là tiền hoặc
giá trị vật chất nào đó. Nếu mục đích không phải là giá trị vật chất mà do
nhu cầu, sở thích…thì chỉ được coi là hành vi thông dâm.
Trong quá trình nghiên cứu các lĩnh vực phòng ngừa tệ nạn mại dâm,
đấu tranh với tội phạm về mại dâm, các nhà khoa học, nhà hoạt động thực
tiễn đã đưa ra khái niệm mại dâm, nhưng các khái niệm đó còn có những
điểm khác nhau, thiếu thống nhất. Nghiên cứu các văn bản pháp luật
chúng tôi nhận thấy, tuy chưa có khái niệm cụ thể về mại dâm, nhưng
Pháp lệnh Phòng chống mại dâm số 10/2003/PL UBTVQH11 ngày 17
tháng 3 năm 2003 có những quy định liên quan đến mại dâm. Cụ thể:
– Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm (khoản 3 Điều 3).
9
+ Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác
trả cho người bán dâm để được giao cấu (khoản 2 Điều 3).
+ Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để
được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác (khoản 1 Điều 3) [25]. Như vậy,
mua dâm hoặc bán dâm đều là mại dâm. Hành vi mua dâm là nhằm thỏa
mãn nhu cầu tình dục còn hành vi bán dâm nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
chất. Sẽ không phải là mại dâm nếu hai người giao cấu với nhau chỉ nhằm
thỏa mãn nhu cầu tình dục. Do đó, có thể nói, mua dâm và bán dâm là hai
mặt của mại dâm.
Cũng theo Pháp lệnh, việc thoả mãn tình dục của người mua chỉ bằng
hình thức giao cấu. Cho nên việc mua bán dâm để thoả mãn nhu cầu tình
dục bằng các hành vi quan hệ tình dục khác sẽ không cấu thành tội phạm
mại dâm. Quy định này đã trở nên lạc hậu cần được xem xét lại đảm bảo
sự thống nhất của hệ thống pháp luật (BLHS 2015 trong các tội phạm về
tình dục như hiếp dâm, cưỡng dâm… ngoài giao cấu còn bổ sung hành vi
quan hệ tình dục khác) và phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay (ngoài
mau bán dâm truyền thống, cò có mua bán dâm đồng giới).
Trong thực tiễn, hành vi giao cấu có thể xảy ra giữa hai người trong
hoặc ngoài quan hệ hôn nhân. Trong đó, họ có thể cùng thỏa mãn nhu cầu
tình dục cho nhau hoặc có người thỏa mãn nhu cầu tình dục, có người
nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất. Theo quy định của Pháp lệnh Phòng
chống tệ nạn mại dâm thì chỉ những quan hệ tình dục thông qua giao cấu
để nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc để thỏa mãn tình dục
phải trả tiền hoặc vật chất thì mới bị coi là mại dâm, nếu chỉ nhằm thỏa
mãn nhu cầu tình dục của nhau, không nhằm mục đích vật chất thì không
bị coi là mại dâm.
10
Từ những khái niệm về mại dâm theo các quan niệm khác nhau, trên
cơ sở đó ta có thể đưa khái niệm về về mại dâm. “Mại dâm là hành vi
quan hệ tình dục ngoài hôn nhân của người nhằm thỏa mãn dục vọng cho
mình và phải trả tiền hoặc lợi ích vật chất cho người khác hoặc nhằm
thỏa mãn cho người khác để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất”.
1.1.2 Khái niệm tội phạm về mại dâm
Theo tác giả Trần Hải Âu: Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội về mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình sự
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm
phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội
chủ nghĩa, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, ảnh hưởng đến
an ninh trật tự [2]. Tương tự như trên, theo PGS.TS Nguyễn Huy Thuật:
Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội liên quan đến
mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm hại đến trật tự công
cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, đến sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm con người, ảnh hưởng đến an ninh xã hội [33, tr.
409].
Theo tác giả Nguyễn Hoàng Minh:
Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội trong hoạt
động mua bán tình dục được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm tới trật
tự công cộng, an toàn công cộng, đến nếp sống văn minh, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm con người, cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật
hình sự [14, tr. 33].
Chúng tôi đồng ý với các quan điểm trên khi nói tội phạm về mại
dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc lĩnh vực mua bán tình dục do
11
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý. Tuy
nhiên qua nghiên cứu cụ thể cho thấy tội phạm về mại dâm bao gồm nhiều
hành vi khác nhau nên không thể dùng "tội phạm mại dâm" mà phải dùng
"tội phạm về mại dâm" mới bao hàm hết hành vi thuộc nhóm tội này, vì
vậy để chính xác về thuật ngữ chúng tôi hoàn toàn đồng ý như tác giả
Nguyễn Hoàng Minh đã sử dụng cụm từ "tội phạm về mại dâm".
Từ những phân tích trên, khái niệm tội phạm về mại dâm theo chúng
tôi được hiểu như sau: “Tội phạm về mại dâm là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội trong hoạt động mua bán tình dục (quan hệ tình dục khác)
được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm trật tự xã hội, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người được thể hiện qua các hành vi chứa mại
dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên”.
1.1.3. Ý nghĩa việc quy định các tội phạm về mại dâm
Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế của đất nước, bên cạnh
các mặt tích cực của nền kinh tế thị trường cũng nảy sinh nhiều vấn đề
tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp. Trong
tình hình mới, Bộ luật hình sự 1985 mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung bốn
lần; Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 vẫn bộc lộ nhiều hạn
chế như kết cấu một số chương, điều chưa hợp lý, một số tội danh quy
định chưa cụ thể; khung hình phạt trong một số điều luật quá rộng, dễ dẫn
đến việc áp dụng tùy tiện. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1999 là một đòi hỏi
khách quan. Vì những lẽ đó, ngày 27/11/2015, Quốc hồi nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua,nhưng vì
một số lý do nên đã sửa đổi bổ sung năm 2017 và chính thức có hiệu lực
ngày 1/1/2018 thay thế Bộ luật hình sự 1999.
12
Theo Bộ luật hình sự năm 2015, tội phạm về mại dâm được quy định
tại các Điều 327- Tội chứa mại dâm, Điều 328- Tội môi giới mại dâm,
Điều 329- Tội mua dâm người dưới 18 tuổi của Chương XXI Các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng.
Việc quy định các tội phạm về mại dâm trong pháp luật hình sự có
một ý nghĩa quan trọng và to lớn trong nhiều phương diện, thể hiện:
Thứ nhất, quy định về các tội phạm mại dâm thể hiện sự tôn trọng
các chuẩn mực đạo đức xã hội của pháp luật. Pháp luật và đạo đức luôn có
mối quan hệ gắn bó mật thiết và biện chứng, không thể tách rời. Trong
những giới hạn nhất định, pháp luật là sự thể hiện của các chuẩn mực đạo
đức, chỉ khi tôn trọng chuẩn mực đạo đức thì pháp luật nói chung và pháp
luật hình sự nói riêng mới gần gũi với đời sống nhân dân, bộc lộ được
hiệu quả áp dụng trong thực tiễn của mình và khiến cho người dân nghiêm
minh chấp hành pháp luật. Bên cạnh đó, mại dâm là một hiện tượng phi
đạo đức, trái với nếp sống lành mạnh và luôn luôn không được thừa nhận
trong xã hội Việt Nam, bị xã hội “ruồng bỏ”, vì vậy, việc pháp luật hình
sự điều chỉnh về hiện tượng này là điều tất yếu và phù hợp với đạo đức xã
hội.
Thứ hai, việc quy định về các tội phạm mại dâm là sự cụ thể hóa
nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp- đạo luật cao nhất của nước Việt Nam và
nhiệm vụ của Bộ luật hình sự 2015. Trong Hiến pháp 2013 đã xác định về
quyền con người là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo đảm thực
hiện: “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [20].
Điều này được cụ thể hóa trong nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự như sau:
“Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
13
chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội;
đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm” [19]. Hiến pháp và pháp luật suy cho cùng cũng
là sự thể hiện ý chí của con người, do đó quyền con người luôn được coi
trọng và bảo vệ. Muốn như vậy thì chế độ xã hội chủ nghĩa phải được bảo
vệ, trật tự xã hội phải được giữ vững, do đó mà công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm để giúp loài người được sống trong môi trường an
ninh và trong sạch luôn luôn có vai trò và ý nghĩa quan trọng.
Thứ ba, quy định các tội phạm về mại dâm cũng là sự thể chế hóa
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Đây được coi là một nhiệm vụ trọng
tâm của các cấp ban ngành cũng như toàn thể nhân dân trên cả nước
trong, Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XI nêu rõ : “Tập trung giải quyết
một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội,
trật tự, kỷ cương xã hội)” [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền tại Việt Nam, là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, người
lao động và lấy chủ nghĩa Mac-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, do vậy những chủ trương và đường
lối, chỉ dẫn của Đảng luôn là định hướng trong tất cả các lĩnh vực chính
trị - kinh tế - xã hội. Vì thế, những quy định của pháp luật không được
phép đi ngược lại tinh thần của Đảng, đó chính pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
Thứ tư, quy định về các tội phạm mại dâm trong Bộ luật hình sự là
cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm
trật tự công cộng, an toàn công cộng cũng như các hành vi suy đồi đạo
đức, tác động tiêu cực đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các tội phạm
14
về tệ nạn xã hội nói chung và mại dâm nói riêng luôn là một vấn đề gây
nhức nhối và tồn tại dai dẳng trong đời sống xã hội, đe dọa sự phát triển
lành mạnh và bền vững của đất nước. Từ xưa đến nay, nạn mại dâm có
những thời kỳ được hoạt động một cách công khai và tràn lan, gây nên
những ảnh hưởng tiêu cực đến nếp sống văn minh của xã hội và hạnh
phúc gia đình. Điều đó là do không có cơ sở pháp luật nào để xử lý những
hành vi phạm tội như vậy. Chính vì vậy, việc quy định các tội phạm về
mại dâm là nguy hiểm cho xã hội và phải được trừng trị nghiêm minh của
pháp luật, dưới sự bảo đảm thực thi của nhà nước là nền tảng pháp lý
vững chắc để đấu tranh và phòng chống nan mại dâm.
Thứ năm, quy định về các tội phạm mại dâm, đặc biệt khi người
bán dâm là người dưới 18 tuổi, thể hiện sự bảo vệ của pháp luật đối với
đối tượng là người dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên là đối tượng mà
tâm sinh lý vẫn còn non nớt và chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của
mình thực hiện. Ngoài ra, người dưới 18 tuổi là đối tượng dễ bị dụ dỗ, lôi
kéo vào con đường phạm tội nên dù người bán dâm có tự nguyện nhưng
nếu đã là người dưới 18 tuổi thì đối tượng mua dâm cũng đều có hành vi
phạm tội. Vì thế, pháp luật quy định như vậy nhằm bảo vệ tốt nhất quyền
và lợi ích, cũng như nhằm tạo môi trường sinh sống lành mạnh cho sự
phát triển của đối tượng đặc biệt này.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về mại dâm
Khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS 2015 theo đó,
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
15
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý
hình sự”[21].
Tội phạm theo nghĩa hình sự, đó là hành vi có đủ những yếu tố cấu
thành tội phạm do pháp luật hình sự quy định. Dấu hiệu pháp lý của tội
phạm hay dấu hiệu cấu thành của một loại tội phạm có tính chất đặc trưng
và điển hình cho loại tội phạm ấy, nó phản ánh đầy đủ bản chất và dùng
để phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác. Do đó việc làm rõ khái
niệm và phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của các tội phạm về mại
dâm qua bốn yếu tố cấu thành tội phạm- khách thể của tội phạm, mặt
khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội
phạm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, góp phần giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng định tội danh và xét xử chính xác.
1.2.1. Tội chứa mại dâm
1.2.1.1. Khách thể của tội chứa mại dâm
Khách thể của tội phạm dược hiểu là các quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [ 24, tr.86].
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề bảo vệ trật tự
công cộng, đồng thời không ngừng đổi mới, hoàn thiện việc tổ chức, quản
lý lĩnh vực này. Tội chứa mại dâm trực tiếp xâm hại đến trật tự công
cộng, xâm phạm đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, trật
tự trị an xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội
cũng như lây lan các căn bệnh nguy hiểm cho xã hội.
1.2.1.2. Mặt khách quan của tội chứa mại dâm
Mặt khách quan là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu
hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [4,
16
tr.99]. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy
hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các biểu hiện khác bên ngoài của việc
thực hiện tội phạm (công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm…)
Hành vi khách quan: Điều 427 BLHS 2015 chỉ nêu tội danh chứa mại dâm
mà không mô tả về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này, do
đó tại khoản 4 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định: Hành vi
chứa mại dâm “là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn
địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm”. Điều này
được hướng dẫn chi tiết hơn tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐ-
CP: “Cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để hoạt động mại dâm”
quy đinh tại khoản 4 Điều 3 của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm là hành
vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định
đoạt tài sản mà cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm” [8].
Theo quy định tại mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP
ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLHS thì: “Trong trường hợp chủ hoặc người quản
lý khách sạn, nhà trọ... gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán
dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc
quản lý của người gọi gái mại dâm thì người đó chỉ phải chịu TNHS về
“tội chứa mại dâm”. Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách
sạn, nhà trọ... vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm
ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản
lý của người gọi gái mại dâm vừa còn gọi gái mại dâm khác cho khách
mua dâm khác để họ thực hiện việc mua bán dâm tại nơi khác thì người
đó phải chịu TNHS về “tội chứa mại dâm” và “tội môi giới mại dâm”[13]
17
Khi xác định hành vi chứa mại dâm, cần lưu ý những điều sau:
Chứa mại dâm là việc mua bán dâm, tức là phải có cả người mua lẫn
người bán và hai người phải thực hiện hành vi giao cấu, bởi vì bán dâm là
hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi
ích vật chất khác, còn mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi
ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu [25]. Nếu chỉ
có hành vi chứa người bán dâm mà hành vi bán dâm được thực hiện ở địa
điểm khác thì không được coi là tội chứa mại dâm.
Trường hợp dùng tiền thuê địa điểm, trả tiền cho ngưới bán dâm
nhưng để người khác giao cấu với người bán dâm thì cũng bị coi là hành
vi chứa mại dâm.
Theo Pháp lệnh phòng chống mại dâm thì trường hợp chứa hai
người đồng giới để họ làm tình với nhau thì không có hành vi giao cấu và
không bị coi là hành vi chứa mại dâm. Quy định này của Pháp lênh là bất
cập hiện nay, khi mà Bộ luật hình sự đã có cách nhìn khác về giao cấu và
hành vi quan hệ tình dục, khi thực tiễn mại dâm đồng tính đang phát triển
mạnh ở nước ta.
Trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ…gọi gái
mại dâm đến cho khách để họ mua dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ thuộc
quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì
người đó phải chịu TNHS về tội chứa mại dâm.
Trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ… vừa gọi
gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà
trọ của mình vừa gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ
thực hiện hành vi mua bán dâm tại địa điểm khác thì người đó phải chịu
TNHS về tội chứa mại dâm và tội môi giới mại dâm[25].
18
Hậu quả: Đối với tội chứa mại dâm, hậu quả không phải là dấu hiệu
bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên nếu gây ra hậu quả nghiệm
trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội
phải bị truy cứu TNHS theo các khung hình phạt nặng hơn của điều luật
này.
1.2.1.3. Mặt chủ quan của tội chứa mại dâm
Bao gồm các yếu tố: Lỗi, mục đích, động cơ phạm tội.
Lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [24, tr.136]. Hành vi chứa mại dâm
được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội đã biết rõ việc
sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện là
nhằm thực hiện hành vi mua bán dâm. Người phạm tội cũng nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công
cộng được pháp luật hình sự bảo vệ nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi.
Nếu người cho thuê, cho mượn địa điểm không hề biết mục đích của
người thuê, mượn địa điểm là để thực hiện hành vi mua bán dâm thì
không bị truy cứu TNHS về tội chứa mại dâm.
Động cơ và mục đích phạm tội: Đây không phải là dấu hiệu định tội
bắt buộc, nhưng khi quyết định hình phạt và xem xét tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi thì những yếu tố này là cần thiết. Động cơ của
người phạm tội chứa mại dâm chủ yếu là do tư lợi, muốn kiếm được nhiều
tiền hoặc giá trị vật chất khác, ngoài ra cũng có thể là các động cơ cá nhân
khác như làm vui lòng bạn bè, lấy lòng sếp, hay cũng chỉ để thỏa mãn thú
vui bệnh hoạn của mình…
1.2.1.4. Chủ thể của tội chứa mại dâm
19
Chủ thể của tội phạm là người không ở trong tình trạng không có
năng lực TNHS khi phạm tội, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi
phạm tội chứa mại dâm. Để xác định một người có đủ điều kiện về chủ
thể của tội phạm hay không thì phải xem xét đến tình trạng năng lực
TNHS và độ tuổi của người đó.
Tình trạng không có Năng lực TNHS: là người không ở trong tình
trạng không có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người
bị bênh tâm thần hay bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều
khiển hành vi của mình khi phạm tội thì không phải là chủ thể của tội
phạm. Người thực hiện hành vi chứa mại dâm, nhận thức được tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển
được hành vi đó, chính là khả năng kiềm chế được hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã thực hiện và khả năng lựa chọn xử sự khác không nguy hiểm
cho xã hội.
Độ tuổi cũng là một dấu hiệu quan trọng xác định năng lực chủ thể.
Chủ thể của tội chứa mại dâm không phải là chủ thể đặc biệt mà có thể là
bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên. Theo quy định tại điều 12 BLHS
2015 Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Cũng theo
khoản 2 điều 12 BLHS 2015 thì Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa
đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa mại dâm. Đây
cũng là một trong những điều khác biệt của BLHS 2015 so với BLHS
1999, theo BLHS 1999 thì tội chứa mại dâm độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự là đủ 14 tuổi trở lên.
1.2.2. Tội môi giới mại dâm
1.2.2.1. Khách thể của tội môi giới mại dâm
20
Tương tự như tội chứa mại dâm, hành vi môi giới mại dâm xâm hại
nghiêm trọng đến trật tự công cộng, an ninh xã hội, đạo đức, thuần phong
mỹ tục, truyền thống của dân tộc, lối sống văn minh lành mạnh của đất
nước.
1.2.2.2. Mặt khách quan của tội môi giới mại dâm
Hành vi khách quan: Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt
của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm
[25]. Hành vi khách quan của tội môi giới mại dâm thường được biểu hiện
theo nhiều hình thức khác nhau, phổ biên như:
- Người phạm tội có hành vi dụ dỗ: dụ dỗ là mánh khóe dùng lời
hay hứa hẹn quyền lợi để thúc đẩy người khác theo ý của mình; dụ dỗ có
thể được thực hiện bừng mọi thủ đoạn, nhiều hình thức khác nhau nhằm
đạt được tối đa mục đích của mình. Dụ dỗ có thể được tiến hành với
người mua dâm hoặc người bán dâm.
- Người phạm tội có hành vi dẫn dắt người bán dâm, người mua
dâm đến một địa điểm nào đó để việc bán dâm và mua dâm được thực
hiện. Hành vi dẫn dắt thể hiện ở hành vi đưa đường dẫn lối sao cho đối
tượng mua dâm và bán dâm gặp nhau. Người phạm tội trở thành kẻ liên
lạc, làm trung gian giữa cuộc mua bán dâm. Người phạm tội là trung gian
có thể biết nhưng không nhất thiết phải biết cụ thể người bán dâm cho
người nào hoặc người mua dâm với ai [11].
Qua nghiên cứu thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm cho thấy hành vi môi giới mại dâm được thực hiện rất đa dạng, trực
tiếp hoặc thông qua trung gian để dụ dỗ, dẫn dắt mại dâm, bọn tội phạm
còn sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi như nhắn tin qua điện thoại, quảng cáo
trên các diễn đàn, trang web đen với các mật khẩu nhận dạng để tránh sự
phát hiện của các cơ quan chức năng; người có hành vi môi giới mại dâm
21
cũng có thể đồng thời đứng ra tổ chức, chứa chấp mại dâm, nhưng cũng
có thể chỉ làm công việc môi giới, dẫn dắt cho người mua dâm, bán dâm
gặp gỡ thỏa thuận, tùy từng trường hợp cụ thể họ có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự theo nguyên tắc phạm nhiều tội.
Khi xác định hành vi môi giới mại dâm cần phân biệt với hành vi của
người đồng phạm trong vụ án chứa mại dâm có tổ chức, nếu tách riêng
hành vi của người đồng phạm thì chỉ có thể xác định là hành vi môi giới
mại dâm nhưng vì hành vi này là hành vi giúp sức cho việc chứa mại dâm
nên phải xác định là tội chứa mại dâm. Ví dụ: Nguyễn Thu A là chủ tiệm
gội đầu. A được Phạm Thanh B giao nhiệm vụ nếu có khách đến tiệm gội
đầu thì gợi ý cho khách để khách mua dâm, khi khách mua dâm đồng ý thì
chỉ cho khách đến nhà nghỉ của Phạm Thanh B để mua dâm, B sẽ trả cho
A 100.000 đồng một khách mua dâm do A dắt mối. Hành vi của A nếu
tách ra để xem xét một cách độc lập thì chỉ phạm tội môi giới mại dâm
nhưng nếu xét trong mối quan hệ giữa B và T thì hành vi của T là hành vi
chứa mại dâm với vai trò là người giúp sức cho B.
Hậu quả: Đây không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội
phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã
thực hiện một trong các hành vi: dụ dỗ, móc nối, dẫn dắt người mại dâm
và người mại dâm đã có sự nhận lời, thỏa thuận.
Các dấu hiệu khách quan khác: Thủ đoạn và phương pháp phạm tội
là cách thức, thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng nhằm đạt được mục
đích của hành vi phạm tội cũng như che giấu tội phạm. Các thủ đoạn mà
tội phạm sử dụng thường được ngụy trang bằng một vỏ bọc bên ngoài
như: bán nước vỉa hè, kinh doanh quán hát karaoke, nhà nghỉ, khách sạn,
xe ôm…Họ cũng thường xuyên thay đổi địa điểm, phương pháp phạm tội
để qua mặt các cơ quan chức năng, lẩn trốn pháp luật. Những dấu hiệu
22
này cần được chú ý khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi.
1.2.2.3. Mặt chủ quan của tội môi giới mại dâm
Lỗi: Theo Điều 328 BLHS 2015 thì tội môi giới mại dâm được thực
hiện với lỗi cố ý. Ở đây, người phạm tội nhận thức rõ được hành vi dụ dỗ,
dẫn dắt người mua dâm hoặc người bán dâm để họ mua dâm, bán dâm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự nghiêm cấm và là hành
vi phạm tội trái với thuần phong mỹ tục, nếp sống văn hóa đạo đức của
dân tộc nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong muốn hành vi được diễn ra
thuận lợi. Bên cạnh đó, tội môi giới mại dâm có cấu thành tội phạm hình
thức, do đó hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc. Tuy nhiên, khi thực
hiện hành vi phạm tội, người phạm tội hoàn toàn có thể thấy được hậu quả
xảy ra: gây ra tệ nạn xã hội, là nguyên nhân để lây truyền các căn bệnh
nguy hiểm như HIV, lậu, giang mai… và người phạm tội bằng mọi cách
thực hiện hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra nhằm thu lợi bất
chính cho bản thân. Do đó, ở đây là lỗi cố ý trực tiếp. Nếu vì một lý do
nào đó mà họ không biết hoặc không thể biết việc mua bán dâm thì không
thể coi là phạm tội môi giới mại dâm.
Động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội
phạm nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt đối
với người phạm tội, động cơ, mục đích càng xấu thì mức hình phạt sẽ
càng nặng và ngược lại. Mục đích và động cơ luôn đi liền, không tách rời
nhau. Trong tội môi giới mại dâm, động cơ của người phạm tội chủ yếu là
do tư lợi hoặc động cơ cá nhân khác, và thực tiễn xét xử cho thấy, hầu hết
các vụ môi giới mại dâm chủ yếu do động lực kinh tế thúc đẩy. Vì muốn
kiếm tiền, làm giàu nhanh chóng mà không cần vất vả bỏ sức lao động mà
những người như: chủ quán nước, xe ôm, chủ nhà nghỉ, khách sạn, quán
23
hát karaoke… sẵn sàng thực hiện hành vi trái với pháp luật và đạo đức xã
hội.
1.2.2.4. Chủ thể của tội môi giới mại dâm
Cũng như các tội phạm khác, chủ thể của tội phạm là người không ở
trong tình trạng không có năng lực TNHS khi phạm tội, đạt độ tuổi luật
định và đã thực hiện hành vi phạm tội môi giới mại dâm. Để xác định một
người có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm hay không thì phải xem xét
đến tình trạng năng lực TNHS và độ tuổi của người đó.
Tình trạng không có Năng lực TNHS: là người không ở trong tình
trạng không có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người
bị bênh tâm thần hay bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều
khiển hành vi của mình khi phạm tội thì không phải là chủ thể của tội
phạm..
Trong tội môi giới mại dâm, người thực hiện hành vi phạm tội hoàn
toàn có đủ năng lực TNHS, tức là người đó nhận thức rõ được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, trái với đạo đức và pháp luật hình sự, trái
với lối sống văn minh dân chủ quốc gia nhưng vẫn mong muốn thực hiện
hành vi và bằng khả năng của mình thực hiện hành vi mặc dù có thể lựa
chọn không thực hiện hành vi phạm tội.
Độ tuổi cũng là một dấu hiệu quan trọng xác định năng lực chủ thể.
Chủ thể của tội môi giới mại dâm không phải là chủ thể đặc biệt mà có
thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên. Theo quy định tại điều 12
BLHS 2015 Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Cũng
theo khoản 2 điều 12 BLHS 2015 thì Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội môi giới mại
dâm [21]. Đây cũng là một trong những điều khác biệt của BLHS 2015 so
24
với BLHS 1999, theo BLHS 1999 thì tội môi giới mại dâm độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự là đủ 14 tuổi trở lên.
1.2.3. Tội mua dâm người dưới 18 tuổi
1.2.3.1. Khách thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại. Xuất phát từ khái niệm khách thể của tội phạm nói
chung, có thể xác đinh khách thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi là
trật tự công cộng. Hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi tác động tiêu cực
đến nếp sống văn minh, huỷ hoại nhân cách con người, gây thiệt hại về
vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình, nhất là gia đình người bị hại, là
nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác.
Đối tượng tác động của tội phạm này là người dưới 18 tuổi nhưng
phải đủ từ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi và những người này phải là người thực
hiện hành vi bán dâm. Việc xác định độ tuổi trong tội phạm này là một
vấn đề hết sức quan trọng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Trường
hợp người bán dâm là người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) hoặc
chưa đủ 13 tuổi thì hành vi này không cấu thành tội mua dâm người dưới
18 tuổi mà cấu thành tội phạm khác. Đối với các trường hợp đã áp dụng
các biện pháp điều tra hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác
ngày, tháng, năm sinh của người bán dâm thì được quy định như sau:
a. Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày
nào trong tháng đó thì lấy ngày mồng một của tháng đó làm ngày sinh của
người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
b. Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định
được ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mồng một của tháng đầu
của quý đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự
đối với bị can, bị cáo;
25
c. Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng
không xác định được ngày, tháng nào của nửa đầu năm hay nửa cuối năm
thì lấy ngày mồng một tháng giêng hoặc ngày mồng một tháng 7 tương
ứng của năm đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm
hình sự đối với bị can, bị cáo;
d. Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong
năm, thì lấy ngày mồng một tháng giêng của năm đó làm ngày sinh của
người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
Nếu họ không phải là những người bán dâm thì cũng không bị truy
cứu TNHS theo Điều 329 BLHS 2015 mà tùy từng trường hợp người
phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội Tội giao cấu hoặc thực hiện hành
vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo
điều 145 BLHS 2015. Hoặc người đó chưa đủ 13 tuổi thì có thể bị truy
cứu TNHS về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo điểm b Điều 142
BLHS 2015.
1.2.3.2. Mặt khách quan của tội mua dâm người dưới 18 tuổi
Hành vi khách quan: Theo Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm
thì “Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác
trả cho người bán dâm để được giao cấu”[25]. Như vậy mua dâm người
dưới 18 tuổi được biểu hiện qua hành vi: Dùng tiền bạc hoặc lợi ích vật
chất khác để dụ dỗ, thuyết phục, mua chuộc người dưới 18 tuổi bán dâm
cho mình: Đây là trường hợp người phạm tội sư dụng tiền (VNĐ hoặc
ngoại tệ) hoặc các lợi ích vật chất khác (đá quý, kim khí quý, tặng chức
vụ, mua cho quần áo, đồ đạc đắt tiền…) nhằm dụ dỗ, thuyết phục người
dưới 18 tuổi vì ham tiền bạc, lợi ích vật chất mà tình nguyện thực hiện
hành vi giao cấu với mình. Việc xác định có hành vi dùng tiền bạc hoặc
lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm được coi là yếu tố quan trọng
26
khi quyết định tội danh. Nếu việc giao cấu với người dưới 18 tuổi từ đủ
13 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng không có hành vi dùng tiền bạc hoặc lợi
ích vật chất khác trả cho họ thì sẽ không cấu thành tội danh này mà có thể
cấu thành tội danh khác. Như vậy, hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất
khác là hành vi không thể thiếu khi xem xét định tội danh cho tội mua
dâm người dưới 18 tuổi
Khi xác định hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi cần chú ý:
Bản chất của hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi là việc chủ thể của
tội phạm đã dùng tiền bạc hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người dưới 18
tuổi để họ giao cấu với mình. Như vậy, ở đây đã có sự thỏa thuận giữa hai
bên, bên mua và bên bán. Sự thỏa thuận này có thể là trực tiếp với người
dưới 18 tuổi, bao gồm cả hành vi lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người
dưới 18 tuổi hoặc gia đình họ, cũng có thể là gián tiếp thông qua người
thứ ba trung gian là chủ chứa mại dâm hoặc người chuyên môi giới mại
dâm.
Xét về hành vi giao cấu, hành vi giao cấu ở tội mua dâm người dưới
18 tuổi được hiểu giống như các hành vi giao cấu ở các tội xâm phạm tình
dục khác như tội loạn luân,“giao cấu là sự cọ xát trực tiếp dương vật vào
bộ phận sinh dục của người phụ nữ…” [17, tr.390]. Tội mua dâm người
dưới 18 tuổi là tội phạm có cấu thành hình thức, do đó không đòi hỏi phải
gây ra hậu quả cho người dưới 18 tuổi, vì vậy, tội phạm được coi là hoàn
thành khi người mua dâm có hành vi thỏa thuận trả tiền hoặc lợi ích vật
chất khác cho người bán dâm và được người bán dâm dưới 18 tuổi đồng ý
thực hiện hành vi giao cấu với họ, hành vi giao cấu không nhất thiết phải
kết thúc về mặt sinh lý.
Hành vi giao cấu trong tội mua dâm người dưới 18 tuổi đòi hỏi phải
có sự thuận tình. Đây được xem là yếu tố bắt buộc. Người bán dâm có thể
27
bị cưỡng bức, bị mua chuộc, dụ dỗ nên mới bán dâm. Vì vậy, nếu trong
quá trình giao cấu, người dưới 18 tuổi có biểu hiện của sự không đồng ý,
chống cự, van xin hoặc miễn cưỡng để người phạm tội giao cấu thì tùy
trường hợp mà người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội hiếp dâm,
cưỡng dâm.
Hậu quả: Tội mua dâm người dưới 18 tuổi có thể gây ra những hậu
quả nghiêm trọng, không những ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển thể
chất bình thường của dưới 18 tuổi mà trong nhiều trường hợp cũng gây
ám ảnh lên tinh thần, tâm lý, đặc biệt là trẻ em. Bởi lẽ, ở độ tuổi này, họ
chưa nhận thức được hoàn toàn đầy đủ hành vi của mình, chưa có sự nhìn
nhận đúng đắn về pháp luật và đạo đức xã hội, cũng có khi chỉ vì sa chân
lầm lỡ hoặc bị dụ dỗ, lôi kéo đi vào con đường này. Do đó, dù họ có tình
nguyện, ưng thuận bán dâm thì vẫn sẽ để lại hậu quả cả về thể xác và tinh
thần sau này. Tuy nhiên, khi xem xét tội phạm này, hậu quả không phải là
dấu hiệu bắt buộc nên không có ý nghĩa khi định tội danh.
Các dấu hiệu khách quan khác: Phương tiện và thủ đoạn phạm tội
cũng như các dấu hiệu khách quan khác không phải là dấu hiệu bắt buộc
khi định tội danh, nhưng sẽ có ý nghĩa quan trọng khi quyết định hình
phạt. Thủ đoạn phạm tội là yếu tố nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội. Thủ đoạn xấu có thể là người phạm tội
cố tình tạo ra hoàn cảnh khó khăn cho người dưới 18 tuổi hoặc gia đình
của họ để buộc họ phải giao cấu với mình.
1.2.3.3. Mặt chủ quan của tội mua dâm ngươi dưới 18 tuổi
Lỗi : Như đã phân tích ở trên, hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi
được diễn ra giữa người mua với người bán sau khi đã trải qua quá trình
thỏa thuận, trao đổi về giá cả, lợi ích mà các bên mong muốn đạt được.
Trên thực tế không phải trường hợp nào cũng do người mua dâm chủ
28
động gạ gẫm, tìm gái bán dâm mà nhiều trường hợp, chính gái bán dâm
lại cố tình lôi kéo, dụ dỗ khách. Tuy nhiên, dù có chủ động hay bị động để
gái bán dâm lôi kéo thì hành vi mua dâm dưới 18 tuổi ở đây đều được
thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Khi người mua dâm chủ động gạ gẫm
người dưới 18 tuổi bán dâm cho mình thì rõ ràng đã thể hiện sự cố ý,
mong muốn thực hiện hành vi giao cấu . Còn khi người bán dâm lại chủ
động gạ gẫm, lôi kéo khách đến mua dâm thì tuy rằng ban đầu người mua
dâm chưa có ý định mua dâm nhưng họ có thời gian cân nhắc, tự mình lựa
chọn nên hay không nên đồng ý với lời mời chào đó. Tuy nhiên, dù biết
hành vi mua dâm người chưa thành niên là trái với pháp luật và đạo đức
xã hội, trái với nếp sống văn minh dân tộc thì người phạm tội cũng đã lựa
chọn thực hiện hành vi mua dâm, mặc dù có thể tự mình lựa chọn cách xử
sự khác. Vì vậy, ở cả hai trường hợp, người phạm tội đều nhận thức được
hành vi của mình không được pháp luật, xã hội cho phép những vẫn cố
tình lựa chọn thực hiện và mong muốn hành vi được diễn ra, Như vậy, lỗi
ở đây là lỗi cố ý trực tiếp.
Mục đích, động cơ phạm tội: Động cơ của người phạm tội chủ yếu là
để thỏa mãn dục vọng của mình.
1.2.3.4. Chủ thể của tội mua dâm ngươi dưới 18 tuổi
Căn cứ theo điều 329 BLHS 2015 “Người nào đủ 18 tuổi trở lên
mua dâm người dưới 18 tuổi…”.Như vây, ngoài các điều kiện chung về
điều kiện chủ thể, thì chủ thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi phải là
người đủ 18 tuổi. Bên cạnh đó, vấn đề giới tính của chủ thể cũng là vấn đề
gây nhiều tranh cãi. Theo quy định của Điều luật thì cũng không ám chỉ
bất kỳ một giới tính nào mà chỉ chung cho cả nam lẫn nữ. Do đó, kể cả
người mua dâm là nữ và người bàn dâm là nam giới chưa thành niên thì
vẫn bị coi là phạm tội mua dâm người dưới 18 tuổi.
29
Như vậy, chủ thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi là chủ thể
người đủ 18 tuổi và không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS
khi phạm tội. Chủ thể này không phân biệt giới tính.
1.3. Đường lối xử lý các hành vi về mại dâm
Tệ nạn mại dâm hiện nay là một trong những vấn đề nhức nhối của
xã hội, Đảng và Nhà nước ta có thái độ kiên quyết và dứt khoát là không
chấp nhận sự tồn tại của tệ nạn mại dâm dưới bất kỳ một hình thức nào,
kiên quyết đấu tranh và loại trừ tệ nạn xã hội này ra khỏi đời sống xã hội.
Quan điểm của Nhà nước là đấu tranh không khoan nhượng với loại tệ
nạn mại dâm. Huy động lực lượng của các ngành, các cấp, các đoàn thể,
các tổ chức xã hội và mọi công dân sử dụng mọi biện pháp chung của toàn
xã hội bao gồm các biện pháp kinh tế - hành chính - pháp luật và các biện
pháp của cơ quan chuyên môn. Sử dụng đồng bộ các lực lượng, biện pháp
để từng bước hạn chế đẩy lùi và loại trừ tệ nạn mại dâm ra khỏi đời sống
xã hội.
Tội phạm hay vi phạm hành chính đều là vi phạm pháp luật, do đó
giữa tội phạm và vi phạm có những nét tương đồng, rất khó để xác định
ranh giới. Vấn đề cần đặt ra đó là cần phải phân biệt và xác định ranh giới
giữa tội phạm và vi phạm hành chính, vì nó không chỉ có ý nghĩa trong
việc áp dụng luật mà còn có ý nghĩa trong việc xây dựng và giải thích
pháp luật.
Trước tiên cần xác định về khái niệm giữa tội phạm và vi phạm hành
chính.
Theo điều 8 Bộ luật hình sự 2015 thì: “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
30
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”[21]. Tổng
quát lại, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật
hình sự và phải chịu hình phạt.
Theo điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính thì “vi phạm
hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm
hình sự và theo quy định của pháp luật về xử phạt hành chính”.
Một hành vi chỉ cho dù đã cấu thành một hay nhiều tội đã quy định
trong Bộ luật hình sự mà vẫn chưa bị xét xử thì hành vi đó vẫn chưa bị coi
là tội phạm. Chỉ khi nào hành vi đó bị tòa án tuyên án là tội phạm thì bắt
đầu từ thời điểm đó, hành vi đó mới gọi là tội phạm. Như vậy, một hành
vi bị coi là tội phạm khi hành vi đó phải chịu hình phạt - tòa tuyên án.
Vi phạm hành chính thì khác, một hành vi đã thõa mãn: do cá nhân,
tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý; xâm phạm các quy tắc quản lý
nhà nước; không phải tội phạm hình sự thì hành vi đó đã là hành vi vi
phạm hành chính. Dấu hiệu “theo quy định pháp luật phải bị xử phạt
hành chính” nói lên rằng bị xử phạt không phải là dấu hiệu để coi một
hành vi đã bị coi là hành vi vi phạm hành chính hay chưa mà chỉ là biện
pháp cưỡng chế nhà nước nhằm trừng phạt hành vi vi phạm đó.
Tội phạm là loại vi phạm pháp luật nặng nhất và được quy định trong
Bộ luật hình sự và chỉ có Quốc hội mới có quyền đặt ra các quy định về
tôi phạm và hình phạt. Ngay từ điều 2 Bộ luật hình sự đã quy định về cơ
sở của trách nhiệm hình sự: “Chỉ người nào phạm một tội được Bộ luật
31
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy Bộ luật
hình sự là căn cứ pháp lý duy nhất để xem xét xem một hành vi vi phạm
có bị coi là tội phạm hay không - không có trong luật thì không có tội,
“vô luật bất hình”.
Vi phạm hành chính không được quy định trong một bộ luật cụ thể
nào mà được quy định trong nhiều văn bản khác nhau như luật, pháp lệnh,
nghị định, nghị quyết, thông tư… Luật ở đây là các bộ luật là nguồn của
luật hành chính chứ không phải là bộ luật hành chính, ví dụ: hiến pháp,
luật tổ chức chính phủ… nguyên nhân mà chúng ta không có riêng một bộ
luật hành chính đơn giản vì nó quá rộng, quá nhiều lĩnh vực với quá nhiều
các văn bản pháp luật và chúng ta không thể pháp điển hóa thành bộ luật.
Các văn bản dưới luật ở đây có thể là nghị quyết của Quốc hội, Chính
phủ, ủy ban thường vụ Quốc hội, hội đồng nhân dân; pháp lệnh của ủy
ban thường vụ quốc hội; nghị định của Chính phủ; các quyết định, chỉ thị,
thông tư.
Tội phạm và vi phạm hành chính về hành vi mại dâm cũng vậy,
những hành vi về mại nào nào bị coi là tội phạm thì phải được quy định
trong Bộ luật hình sự còn nhưng hành vi mại dâm khác không quy định
trong bộ luật hình sự thì chỉ bị chế tài là xử phạt hành chính về các hành
vi đó.
Ngày 15/4/2003, Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm đã được công bố,
trong pháp lệnh phòng chống mại dâm đã quy định những biện pháp
phòng chống mại dâm và trong đó quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm
cấm như: “ Mua dâm; Bán dâm; Chứa mại dâm; Tổ chức hoạt động mại
dâm; Cưỡng bức bán dâm; Môi giới mại dâm; Bảo kê mại dâm; Lợi dụng
kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm và các hành vi khác liên quan
đến hoạt động mại dâm theo quy định của pháp luật như các hành vi tiếp
32
tay che giấu, dung túng để tạo điều kiện, khuyến khích các hoạt động mại
dâm”[25]. Các hành vi trên, củ thể hóa thành tội phạm được quy định
trong Bộ luật hình sự năm 2015 chỉ có những hành vi Chứa mại dâm, môi
giới mại dâm và mua dâm người dưới 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, còn lại các hành vi mại dâm khác chỉ bị xử phạt hành chính. Trong
thực tế việc mại dâm diễn ra rất nhiều, ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội
nó làm phát sinh nhiều các tệ nạn khác, nhưng những chế tài xử lý còn rất
nhẹ, chưa đủ tính răn đe và nhiều hành vi khác tiếp tay cho mại dâm có
tính chất rất nguy hiểm nhưng lại không được cụ thể hóa trong Bộ luật
hình sự như: Cưỡng bức mại dâm, bảo kê mại dâm… như vậy các hành vi
này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự là một trong những điểm bất
cập của pháp luật hình sự hiện nay.
Chế tài là một hình thức cưỡng chế của nhà nước và do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng. Chế tài xử lý các hành vi về mại dâm có hai
loại, một là chế tài hình sự hai là chế tài xử phạt hành chính. Chế tài hình
sự được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự và được áp dụng với
người thực hiện hành vi phạm tội. Chế tài xử phạt hành chính được quyết
định và thi hành bởi các chủ thể trong lĩnh vực quản lý hành chính. Thủ
tục áp dụng với chế tài hành chính hoàn toàn khác với chế tài hình sự bởi
quyền lực áp dụng không thuộc về tòa án, tuy nhiên trong một vài trường
hợp, thủ tục nửa tư pháp có thể được áp dụng.
Hình phạt được quy định đối với các tội phạm về mại dâm được quy
định khá nghiêm khắc. Mặc dù các tội phạm này được quy định tại khoản
1 các điều luật tương ứng là tội ít nghiệm trọng (Tội môi giới mại dâm)
hoặc tội nghiêm trọng (Tội chứa mại dâm, Tội mua dâm người dưới 18
tuổi), nhưng chế tài được quy định chỉ là hình phạt tù; mà không phải là
chế tài lựa chọn với các hình phạt khác. Và hình phạt cao nhất được quy
33
định có thể lên đến Tù chung thân (Tội chứa mại dâm) hoặc 15 năm tù
(Tội môi giới mại dâm, Tội mua dâm người dưới 18 tuổi).
Thông thường, các tội phạm được thực hiện do động cơ vụ lợi, vì lợi
ích vật chất hoặc dùng tiền làm phương tiện phạm tội, cho nên người làm
luật quy định phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các tội phạm này.
Quy định hình phạt trong các chế tài tội phạm về mại dâm thể hiện
đường lối xử lý kiên quyết, nghiêm khắc; đồng thời coi trọng tính phòng
ngừa của Đảng và Nhà nước ta đối với tệ nạn mại dâm nói chung, với các
tội phạm về mại dâm nói riêng.
Tiểu kết chương
Nội dung Chương 1 đã nêu được một cách khái quát khái niệm về
mại dâm. Dù không đưa ra được một khái niệm cụ thể nào nhưng các khái
niệm hoàn toàn thống nhất với nhau, hành vi mại dâm phải có tình dục
ngoài hôn nhân của người nhằm thỏa mãn dục vọng cho mình và phải trả
tiền hoặc lợi ích vật chất cho người khác hoặc nhằm thỏa mãn cho người
khác để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất đó là những đặc điểm nổi bật cốt
lõi để nhận biết hành vi mai dâm.
Trong Chương 1 cũng đã làm rõ được các dấu hiệu pháp lý của các
tội phạm về mại dâm, quy định các tội phạm về mại dâm trong Bộ luật
hình sự, đường lối xử lý đối với các loại tội phạm này.
Tội phạm về mại dâm là đối tượng đặc biệt được Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm. Hệ thống pháp luật nước ta và đặc biệt là Bộ luật
hình sự đã quy định khá chi tiết và chặt chẽ, các hình phạt về tội mại dâm
có tính dăn đe giúp họ nhận thức được những sai lầm của mình mà còn
tác động đến ý thức tuân thủ pháp luật. Ý nghĩa của việc quy định các tội
phạm về mại dâm là hết sức quan trọng, cần thiết, để từng bước hạn chế
đẩy lùi và loại trừ tệ nạn mại dâm ra khỏi đời sống xã hội.
34
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM
VỀ MẠI DÂM
2.1. Khái quát lịch sử các tội phạm về mại dâm
2.1.1. Quy định về tội phạm mại dâm giai đoạn 1945 đến 1985
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn
đồng bào Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm
thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Từ khi nhà nước ta ra đời phải dốc toàn lực cho cuộc kháng
chiến thực dân Pháp, nên trong giai đoạn này hệ thống pháp luật của nước ta
còn sơ sài vẫn còn bị ảnh hưởng của pháp luật chế độ cũ và thời Phong kiến
nên pháp luật hình sự thời đó chưa có một văn bản nào điều chỉnh các hành vi
mại dâm vi tệ nạn mại dâm chưa phát triển mạnh, tỉnh tổ chức còn hạn chế mà
chủ yếu hoạt đông mang tính chất đơn lẻ.
Thời kỳ 1954-1975 đất nước ta bị chia thành hai miền Nam, Bắc. Ở miền
Nam, giai đoạn đầu chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn cho duy trì một số đạo
luật của chế độ thuộc Pháp trước đây về vấn đề mại dâm. Các nhà chứa và gái
mại dâm được cấp phép là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho tệ
nạn mại dâm bùng phát nhanh chóng. Ngày 17/10/1955, Chính quyền Sài Gòn
đã ban hành Dụ số 64 về bài trừ nạn mại dâm và quy định các hành vi bán
dâm, môi giới mại dâm và chứa mại dâm đều bị coi là tội phạm. Tiếp theo đó
Luật số 12/62 ngày 22/5/1962 còn bổ sung hành vi mua dâm cũng là phạm
tội, đặc biệt luật này coi các tình tiết mua dâm người dưới 16 tuổi; người mua
dâm là người đảm nhiệm chức vụ bài trừ tệ nạn mại dâm hoặc có phận sự giữ
gìn sức khỏe cho dân chúng là các tình tiết định khung. Dưới thời chế độ cũ ở
miền Nam, chính quyền Sài Gòn đã ban hành Bộ hình luật theo Sắc luật số
35
026/TT/SLU ngày 20/12/1972. Theo Bộ luật này hành vi mua dâm, bán dâm
không bị coi là tội phạm, các hành vi chứa mại dâm, tổ chức mại dâm, môi
giới, dẫn dắt gái mại dâm và các hành vi đồng phạm đều bị trừng trị (Điều
357 đến Điều 364). Bộ luật này còn tách hành vi cưỡng bức mại dâm thành
một tội độc lập và có hình phạt nghiêm khắc. Điều 359 quy định: "Kẻ nào
giam giữ hoặc dùng bạo hành để cưỡng bách người khác mại dâm sẽ bị phạt
tử hình. Những đồ vật trang trí trong nhà chứa sẽ bị tịch thâu, kể luân cả nhà
chứa, nếu nhà này thuộc quyền sở hữu của kẻ phạm pháp"
Tại miền Bắc, kể từ năm 1954, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã ban hành nhiều chính sách để bài trừ tệ nạn, như Nghị quyết số 49-TVQH
ngày 20/06/1961 về tập trung giáo dục, cải tạo những phần tử có hoạt động
nguy hiểm cho xã hội; Thông tư 121/CP ngày 09/08/1961 của Hội đồng
Chính phủ hướng dẫn cụ thể việc thi hành Nghị quyết 49/TVQH đã nêu rõ các
đối tượng cần tập trung cải tạo trong đó có những tên chủ chứa và bọn gái
điếm: "Những tên lưu manh trộm cắp đã tái phạm nhiều lần và không có nghề
nghiệp, hoặc chỉ có nghề ngụy trang chuyên sống bằng trộm cắp, lừa đảo và
những tên chủ chứa bọn gái điếm hiện đang hoạt động" [13]
Tại miền Nam Việt Nam chính quyện ngụy quyền Sài Gòn sụp đổ nhưng
những tàn dư tệ nan của chế độ là một trong những vấn đề nhức nhối của xã
hội mà đặc biệt là tệ nạn mại dâm.Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng Hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày
15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự
công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân. Tại Điều 9 của Sắc
luật này có quy định “tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng
và sức khoẻ của nhân dân”[23]. Trong đó có quy định về các tồi “cờ bạc, tổ
chức mại dâm, buôn bán, tàng chữ ma túy và các chất độc khác” quy định
mức cao nhất là 15 năm tù.
36
Như vậy sau khi đất nước hoàn toàn được thống nhất, do chính quyền
còn non trẻ, hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế nên sắc luật 03/SL ngày 15-
03-1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam
Việt Nam có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng cường tính pháp chế xã hội chủ
nghĩa, góp phần bài trừ tệ nạn mại dâm trong ra khỏi đời sống xã hội.
Qua nghiên cứu có thể nhận thấy, tệ nạn mại dâm trong từng giai đoạn
lịch sử, thời kỳ nào cũng có tùy từng mức độ phát triển ảnh hưởng đến đời
sống xã hội nhiều hay ít. Đa số trong các thời kỳ đều coi nạn mại dâm là một
tệ nạn xã hội, cần phải loại bỏ, tùy từng thời kỳ mà quy định về tội phạm về
mại dâm cũng khác nhau.
2.1.2. Quy định về tội phạm mại dâm trong Bộ luật hình sự 1985
Trong giai đoạn 1985 đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế - xã
hội, quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế, quy định chung chung không
điều chỉnh hết được các mối quan hê xã hội vì những lý do đó sự ra đời của
Bộ luật hình sự 1985 là rất cần thiết, qua một thời gian nghiên cứu, soạn thảo,
thảo luận, lấy ý kiến từ kỳ hợp thứ 9 Quốc hội khóa VII Bộ luật hình sự được
Quốc hội thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực ngày 01/01/1986. Trong
Bộ luật hình sự 1985 có quy định hoạt động mại dâm tại:
Điều 202. Tội chứa mãi dâm, tội môi giới mãi dâm.
1- Người nào chứa mãi dâm, dụ dỗ hoặc dẫn dắt người mãi dâm thì bị
phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc tái phạm nguy hiểm thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười năm [18].
Trong Bộ luật hình sự 1985 quy định là tội chứa mãi dâm, tội môi giới
mãi dâm chứ không dùng khái niệm mại dâm. Mãi dâm, hay mua dâm, là
hành động dùng tiền bạc, vật chất hay quyền lợi để đổi lấy các hoạt động tình
37
dục ngoài hôn nhân. Trong pháp luật hình sự hiện hành bây giờ, không còn
quy định về mãi dâm.
Ngoài hình phạt chính, Trong bộ luật còn quy định các hình phạt bổ sung
tại:
Điều 218. Hình phạt bổ sung
….
2- Người nào phạm một trong các tội quy định ở các Điều từ 199 đến
203, thì có thể bị quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
3- Người nào phạm một trong các tội quy định ở các Điều từ 199 đến
203, thì bị phạt tiền từ một nghìn đồng (1.000) đến năm mươi nghìn đồng
(50.000 đồng) và có thể bị tịch thu một phần tài sản [18].
Quy định về các tội phạm mại dâm trong Bộ luật hình năm 1985 sự là cơ
sở pháp lý quan trọng để đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm trật tự
công cộng, an toàn công cộng cũng như các hành vi suy đồi đạo đức, tác động
tiêu cực đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, đe dọa sự phát triển lành mạnh
và bền vững của đất nước. Trong quá trình thi hành Bộ luật hình sự đã có
nhiều điểm bất cập và sự thay đổi của xã hội nên Bộ luật hình sự năm 1985 đã
được sửa đổi năm 1997. Tại kỳ họp thứ 11 từ ngày 02/4/1997 đến 10/5/1997,
Quốc hội khóa IX đã quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự, trong đó có Điều 202, nâng mức hình phạt đối với tội phạm này (mức
hình phạt thấp nhất là một năm tù và cao nhất là tù chung thân), đồng thời bổ
sung một số tội danh mới (tội mua dâm người chưa thành niên - Điều 202a).
Ngoài ra Điều 218 còn quy định người phạm tội chứa mại dâm, tội môi giới
mại còn phải chấp hành hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 5
triệu đồng và có thể bị tịch thu một phần tài sản, bị phạt quản chế hoặc cấm
cư trú từ 1 năm đến 5 năm. Bộ luật hình sự năm 1985 bên cạnh những ưu
điểm còn tồn tại một số nhược điểm nhất định chưa đáp ứng được nhu cầu
38
thực tiễn, chưa chính xác về mặt khoa học, nhất quán về mặt logic pháp lý,
chưa chặt chẽ về mặt kỹ thuật lập pháp. Để đấu tranh phòng chống tội phạm,
xử lý nghiêm minh người phạm tội góp phần tăng cường tính pháp chế, củng
cố trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của nhân
dân cũng như bảo vệ hòa bình và an ninh nhân loại trong xu hướng hợp tác
quốc tế thì đòi hỏi phải sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1985 cho phù hợp với
quan hệ xã hội mới phát sinh.
Bên cạnh Bộ luật hình sự 1985 vào thời điểm đó còn có rất nhiều các văn
bản pháp luật phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn mại dâm.
Nhằm cụ thể hơn về tội phạm mại dâm như :
Chỉ thị 14/CP ngày 16/01/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về các
biện pháp giải quyết vấn đề cứu tế xã hội và tệ nạn xã hội trong đó có nêu rõ
phải đưa ra truy tố hoặc tập trung cải tạo các chủ chứa gái mại dâm;
Nghị định 141/HĐBT ngày 25/04/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về xử
phạt vi phạm hành chính trong đó có quy định phạt tiền từ 10.000 đồng đến
20.000 đồng hoặc có thể phạt tiền đến 50.000 đồng nếu có hành vi làm tình
hoặc có hành động khiêu dâm ở nơi công cộng;
Đặc biệt là Nghị quyết 05/CP ngày 29/01/1993 của Chính phủ về ngăn
chặn và phòng chống tệ nạn mại dâm, Nghị quyết nêu rõ: 1. Kiên quyết xóa
bỏ tệ nạn mại dâm (kể cả mua, bán dâm) dưới bất kỳ hình thức nào... 2. Xây
dựng chương trình liên ngành phòng chống nạn mại dâm. Nội dung chính là:
a) Điều tra phân loại người mại dâm. Đối với số thường xuyên mại dâm, cần
tập trung bắt buộc để chữa bệnh, giáo dục... b) Xử phạt thật nghiêm người
chứa chấp, dụ dỗ, dẫn dắt gái mại dâm dưới mọi hình thức...[5]
Chỉ thị số 136/NCPL ngày 11/03/1993 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ về phòng chống và kiểm
soát ma túy và chống tệ nạn mại dâm;
39
Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 01/03/1994 của Ban Chấp hành Trung ương
về lãnh đạo phòng chống tệ nạn xã hội trong đó nhấn mạnh điều kiện quyết
định để phòng, chống các tệ nạn xã hội có kết quả là đẩy mạnh phát triển kinh
tế - xã hội, phát huy được phong trào nhân dân, tăng cường sự quản lý của
nhà nước. Để thực hiện và cụ thể hóa chỉ thị số 33-CT/TW ngày 01/03/1994
thì ngày 22/04/1994 Bộ Nội vụ ban hành chỉ thị số 05/BNV về phòng ngừa,
ngăn chặn và chống tệ nạn mại dâm. Bên cạnh đó Chính phủ còn ban hành
Nghị định 53/CP ngày 26/6/1994 quy định các biện pháp xử lý với cán bộ,
viên chức nhà nước và những người có liên quan: Người mua dâm là cán bộ
viên chức nhà nước thì bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng và
thông báo về cơ quan nơi người đó làm việc để kỷ luật cảnh cáo, hạ lương
hoặc thôi việc. Để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
ngày 15/8/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 49/CP quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự trong đó quy định xử phạt
hành chính đối với các hành vi mại dâm tại Điều 23 như sau:
1. Phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành
vi. a. Bán dâm; b. Lạm dụng tình dục;
2. Phạt tiền từ 500.000đồng đến 2.000.000đồng đối với một trong các
hành vi sau:
a) Mua dâm;
b) Cung cấp địa điểm cho hoạt động mại dâm.
3. Phạt tiền từ 2.000.000đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau:
a) Dẫn dắt hoạt động mại dâm;
b) Che giấu bảo vệ cho các hành vi mua dâm, bán dâm;
c) Vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 điều này đã bị xử phạt hành
chính mà còn tái phạm.
40
4. Phạt tiền từ 30.000.000đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong
những hành vi sau:
a) Sử dụng việc mua dâm, bán dâm và các hoạt động tình dục khác làm
phương thức kinh doanh.
b) Dùng các thủ đoạn khống chế, đe dọa người mua dâm, bán dâm để
đổi tiền, cưỡng đoạt tài sản [6].
2.1.3. Quy định về tội phạm mại dâm trong bộ luật hình sự 1999
Để đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ mới, cũng như giảm thiểu những bất cập
trong các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, ngày 21/12/1999 Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự năm
1999, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2000. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ
luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung toàn diện, thể hiện chính sách
hình sự mới của nhà nước ta với tội phạm nói chung và với tội phạm về mại
dâm nói riêng. Tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm, tội mua dâm người
chưa thành niên được quy định tại Điều 254, 255, 256 Bộ luật hình sự năm
1999 khoa học, chính xác và đầy đủ hơn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác xét xử đối với loại tội phạm nguy hiểm này.
Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định cụ thể về tội chứa mại dâm, môi
giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên tại ba điều luật khác nhau. Các
điều khoản được sắp xếp một cách khoa học, cụ thể với khoản 1 là cấu thành
tội phạm cơ bản, các khoản tiếp theo là cấu thành tội phạm tăng năng với các
tình tiết tăng nặng định khung có mức độ tăng dần, khoản 5 quy định về hình
phạt bổ sung. So với Bộ luật hình sự năm 1985, quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999 về tội phạm mại dâm đã có sửa đổi, bổ sung quan trọng, đáng chú ý:
- Về kỹ thuật lập pháp: Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định các tội về
mại dâm một cách độc lập; việc quy này của pháp luật đã thể hiện được bản
chất của các tội về mại dâm.
41
Điều 254, 255, 256 Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định về tội chứa
mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên với một cấu
thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng, cùng với đó là một
khoản riêng biệt quy định về hình phạt bổ sung. Việc quy định như vậy là hợp
lý, đã góp phần phân hóa trách nhiệm hình sự và áp dụng các hình phạt được
chính xác hơn.
- Về chính sách: Bộ luật hình sự năm 1999 đã có thêm quy định bổ sung
các tình tiết định khung tăng nặng.Điều 254, 255 Bộ luật hình sự năm 1999
bổ sung thêm trường hợp phạm tội "có tổ chức" và "có tính chất chuyên
nghiệp" là yếu tố định khung hình phạt, cùng với đó là một khoản riêng biệt
quy định về hình phạt bổ sung. Việc quy định như vậy là hợp lý, đã góp phần
phân hóa trách nhiệm hình sự và áp dụng các hình phạt được chính xác hơn.
Điều 256 quy định về tội mua dâm người chưa thành niên, Về cơ cấu, Bộ
luật Hình sự 1999 quy định 4 khoản (so với 3 khoản của Bộ luật Hình sự
1985), các điều khoản được sắp xếp khá tương đồng với các khoản của Điều
202a Bộ luật Hình sự 1985, khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung. Như vậy,
so với Bộ luật Hình sự 1985, Bộ luật Hình sự 1999 còn có quy định thêm về
một số tình tiết tăng nặng định khung và hình phạt bổ sung.
- Khung hình phạt cơ bản được giữ lại như Bộ luật Hình sự 1985 tuy
nhiên có sửa đổi cho phù hợp. Khoản 1 Điều 202a Bộ luật Hình sự 1985 quy
định mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm tù tiếp tục được quy định tại
Khoản 1 Điều 256 Bộ luật Hình sự 1999. Khoản 2 Điều 202a quy định mức
cao nhất của khung hình phạt là 10 năm tù trong khi đó khoản 2 Điều 256 quy
định mức cao nhất của khung hình phạt là 8 năm tù, việc điều chỉnh quy định
này nhằm phù hợp với mức độ nguy hiểm của tội phạm. Khoản 3 Điều 256
vẫn giữ nguyên mức cao nhất của khung hình phạt tại khoản 3 Điều 202a là
15 năm tù.
42
Các tình tiết tăng nặng định khung trong Bộ luật Hình sự 1999 được quy
định cụ thể hơn, dễ áp dụng hơn. Ví dụ: tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng"
(điểm b khoản 2) hoặc tình tiết "gây hậu quả rất nghiêm trọng" (điểm c khoản
3) Điều 202a Bộ luật Hình sự 1985 đã được sửa đổi với việc định lượng chi
tiết hơn, tương ứng là "gây tổn hại cho sức khỏe nạn nhân mà tỷ lệ thương tật
từ 31% đến 60%" (điểm c khoản 2), "gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân
mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên" (điểm c khoản 3) Điều 256 Bộ luật Hình
sự 1999.
- Ngoài ra, còn bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng mới đáp
ứng nhu cầu của thực tiễn xét xử và đánh giá đúng mức độ gây nguy hiểm của
các tình tiết đó như: Chuyển tình tiết "mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi" tại điểm c khoản 3 Điều 202a lên điểm b khoản 2 Điều 256; bổ sung
tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi"
(điểm a khoản 3), "biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội" (điểm b
khoản3).
Để góp phần bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, danh dự
nhân phẩm của con người, hạnh phúc của gia đình, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ sức khỏe của nhân dân, xây dựng và phát triển con người Việt
Nam, ngày 14/3/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số
10/2003/PL-UBTVQH về Phòng, chống mại dâm; trong đó quy định những
biện pháp phòng, chống mại dâm, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân và gia đình trong phòng, chống mại dâm. Theo đó, môi giới mại dâm
thuộc một trong các hành vi bị nghiêm cấm (khoản 6 Điều 4 của Pháp lệnh
phòng, chống mại dâm); các đối tượng vi phạm sẽ bị xử lý vi phạm theo quy
định tại Chương III của Pháp lệnh. Để cụ thể hóa hơn nữa việc thi hành Pháp
lệnh, ngày 15/10/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/NĐ-CP
nhằm quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam

More Related Content

What's hot

Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Quyền của người chuyển giới ở Việt Nam hiện nay, 9đ - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyền của người chuyển giới ở Việt Nam hiện nay, 9đ - Gửi miễn phí ...Luận văn: Quyền của người chuyển giới ở Việt Nam hiện nay, 9đ - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyền của người chuyển giới ở Việt Nam hiện nay, 9đ - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngườiLuận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
 
Luận văn: Tội chứa mại dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Tội chứa mại dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Tội chứa mại dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Tội chứa mại dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAYHành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAYLuận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Luận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đìnhLuận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đình
 
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOTLuận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Quyền của người chuyển giới ở Việt Nam hiện nay, 9đ - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyền của người chuyển giới ở Việt Nam hiện nay, 9đ - Gửi miễn phí ...Luận văn: Quyền của người chuyển giới ở Việt Nam hiện nay, 9đ - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyền của người chuyển giới ở Việt Nam hiện nay, 9đ - Gửi miễn phí ...
 

Similar to Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam

LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019PinkHandmade
 

Similar to Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam (20)

Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOTĐề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tội về mại dâm tại thành phố Hồ Chí Minh, HAY
Luận văn: Các tội về mại dâm tại thành phố Hồ Chí Minh, HAYLuận văn: Các tội về mại dâm tại thành phố Hồ Chí Minh, HAY
Luận văn: Các tội về mại dâm tại thành phố Hồ Chí Minh, HAY
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Tội loạn luân trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Tội loạn luân trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Tội loạn luân trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Tội loạn luân trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
Luận văn: Điều kiện của tội chứa mại dâm tại TPHCM, HAY
Luận văn: Điều kiện của tội chứa mại dâm tại TPHCM, HAYLuận văn: Điều kiện của tội chứa mại dâm tại TPHCM, HAY
Luận văn: Điều kiện của tội chứa mại dâm tại TPHCM, HAY
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.docluanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
 
Luận văn: Chính sách hình sự đối với tội phạm tình dục, HAY
Luận văn: Chính sách hình sự đối với tội phạm tình dục, HAYLuận văn: Chính sách hình sự đối với tội phạm tình dục, HAY
Luận văn: Chính sách hình sự đối với tội phạm tình dục, HAY
 
Nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền Giang
Nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền GiangNguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền Giang
Nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền Giang
 
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long AnLuận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 

Recently uploaded (20)

Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 

Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯƠNG TUẤN ANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TUNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯƠNG TUẤN ANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tung hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI, 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi là Lương Tuấn Anh, Học viên cao học đợt 2 -2017 chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự tại Học viện Khoa học xã hội, xin cam đoan luận văn “Các tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội ” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của cá nhân tôi. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tác giả thực hiện. Các tài liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân khác được tham khảo, sử dụng, trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ nguồn gốc một cách trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung đã cam đoan ở trên. Tác giả luận văn Lương Tuấn Anh
  • 4. MỤC LỤC Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM ........................................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm tội phạm về mại dâm............................................................ 7 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về mại dâm .......................14 1.3. Đường lối xử lý các hành vi về mại dâm ........................................29 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM34 VỀ MẠI DÂM...............................................................................................34 2.1. Khái quát lịch sử các tội phạm về mại dâm........................................34 2.2. Quy định về tội phạm mại dâm trong bộ luật hình sự 2015 ................43 Chương 3 THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM MẠI DÂM Ở HÀ NỘI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM ...............................................................................................................51 3.1. Thực tiễn xét xử các tội phạm mại dâm ở Hà Nội...............................51 3.2. Các giải pháp bảo đảm xét xử các tội phạm về mại dâm.....................64 KẾT LUẬN....................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................77
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TNHS Trách nhiện hình sự VNĐ Việt nam đồng
  • 6. DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm tội phạm về mại dâm tại Hà Nội (2014-2018) .................................................................................53 Bảng 3.2 Kết quả xét xử tội chứa mại dâm trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian (2014-2018).....................................................................55 Bảng 3.3 Kết quả xét xử tội môi giới mại dâm trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian (2014-2018)..............................................................56
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Mại dâm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, xuất hiện trong mọi xã hội, mọi quốc gia. Nạn mại dâm một căn bệnh kinh niên của tất cả các nước, các xã hội khác nhau, luôn là một vấn đề đau đầu của tất cả các hệ thống pháp luật và ngày càng có xu hướng gia tăng trầm trọng hơn. Ở Việt Nam, mại dâm là một hiện tượng trái với quan điểm đạo đức của xã hội. Con người không chấp nhận sự tồn tại của hiện tượng này và luôn tìm mọi biện pháp để loại trừ nó ra khỏi đời sống xã hội. Tệ nạn mại dâm đã và đang làm xói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống văn hóa và trật tự an ninh xã hội. Nghiêm trọng hơn, nó còn là một trong những nguyên nhân lây lan căn bệnh thế kỷ HIV ra cộng đồng, chứa đựng những nguy cơ có thể làm hủy diệt sự sống của con người và gây hậu quả nghiệm trọng khác đến sự phát triển của giống nòi. Điều đáng nói là, bên cạnh những chủ thể tự nguyện hành nghề, những chủ thể do sa cơ lỡ bước vào con đường mại dâm thì hằng năm cũng có rất nhiều các cô gái, thâm chí là trẻ em bị bắt cóc, bị bán, bị giam nhốt trong các động mại dâm. Mại dâm vô hình đã trở thành một thứ kỹ nghệ kinh doanh trên thân xác phụ nữ và trẻ em, phá vỡ biết bao mái ấm gia đình và làm lụi tàn cuộc đời của biết bao con người, cả người bán và người mua. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường, giao lưu quốc tế rộng rãi như hiện nay, nạn mại dâm đã xâm nhập vào nước ta qua nhiều con đường và bằng nhiều hình thức khác nhau, khiến cho số lượng gái mại dâm, người mua dâm, các chủ chứa và các môi giới mại dâm ngày càng tăng cao, hình thành nên những đường dây mại dâm có tính chất quốc tế và nạn buôn bán phụ nữ nhằm kinh doanh mại dâm ngày càng nghiêm trọng. Hiện nay có
  • 8. 2 nhiều hình thức hoạt động mại dâm mới: Gái gọi, du lịch tình dục, người nước ngoài bán dâm, mại dâm nam, mại dâm đồng tính, người chuyển giới bán dâm, môi giới mại dâm thông qua mạng internet, facebook, Zalo… Tình trạng hoạt động mại dâm ngày càng tinh vi phức tạp, đối tượng mua dâm thuộc nhiều lứa tuổi, thành phần khác nhau. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, cũng như hệ thống pháp luật để phòng ngừa và đấu tranh với tệ nạn này. Bộ luật hình sự năm 2015 ra đời trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện các tội phạm về mại dâm, là công cụ góp phần đẩy lùi hiện tượng mại dâm, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Trước thực tế đó, vấn đề đặt ra là phải có một hệ thống pháp luật nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận về tội phạm mại dâm, phân tích các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật để có các giải pháp hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm mại dâm trong bối cảnh của đất nước. Xuất phát từ những thực trạng trên, tác giả nhận thấy việc chọn Đề tài: “Các tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội ” làm luận văn thạc sỹ là hết sức cần thiết, việc nghiên cứu thành công Đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các tội phạm về mại dâm là đề tài được các nhà hình sự học trên thế giới và trong nước quan tâm và nghiên cứu. Đặc biệt trong thời gian qua, trong nước đã có những công trình nghiên cứu ở mức độ khác nhau. Đó là - Luận án Tiến sĩ Luật học “Tệ nạn mại dâm - Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa” của Trần Hải Âu năm 2004. Tác giả đã đề cập những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tệ nạn mại dâm, quan điểm
  • 9. 3 một số nước trên thế giới và Việt Nam, phân tích làm rõ vấn đề lý luận về hoạt động phòng ngừa tệ nạn mại dâm, tác giả đã làm rõ thực trạng, tình hình tệ nạn mại dâm, đặc điểm nhân thân người chứa mại dâm. Đây là công trình khoa học đã đi sâu nghiên cứu về tệ nạn mại dâm và hoạt động phòng ngừa mại dâm. [2]; - Luận án Tiến sĩ Luật học “Điều tra tội phạm về mại dâm có tổ chức” của Nguyễn Hoàng Minh 2010 [15]. Tác giả đi sâu làm rõ khái niệm tội phạm về mại dâm và tội phạm về mại dâm có tổ chức, phân tích làm rõ thực trạng của loại tội phạm này và đưa ra dự báo cũng như các giải pháp nâng cao hoạt động điều tra loại tội phạm nay. - Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Trường An với đề tài “Các tội phạm về mại dâm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam - thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hoà Bình” bảo vệ năm 2014 [1]. Tác giả làm rõ vấn đề lý luận các tội phạm về mại dâm và ý nghĩa của việc quy định các loại tội này trong BLHS cũng đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiệt pháp luật cũng như luật hóa một số tội mới trong BLHS đối với nhóm tội này. Ngoài ra còn một số giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: GS. TSKH. Lê Cảm (Chủ biên) [4], Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2003; Ths. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 2000 [17]; GS.TS.Võ Khánh Vinh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) [26], Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001; "Tệ nạn xã hội ở Việt Nam: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp" do TS. Lê Thế Tiệm và Phạm Thị Phả chủ biên [22], Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1994; “Mại dâm, ma túy, cờ bạc- Tội phạm thời hiện đại” năm 2003 của PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm cùng tập thể tác giả [27]. Ngoài ra còn một số các bài báo, tạp chí như “Thực tiễn áp dụng các quy
  • 10. 4 định của Bộ luật hình sự về tội phạm liên quan đến mại dâm và những vấn đề hoàn thiện” (Tạp chí Tòa án nhân dân số 24/2007, Đỗ Đức Hồng Hà); “Tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm: Lý luận và thực tiễn” (Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 22/2010) [10]; Tuy nhiên các công trình nghiên cứu nêu trên hầu hết là dưới góc độ điều tra tội phạm học hoặc phân tích từng tội phạm cụ thể riêng rẽ trên một số các vụ án thực tế điển hình mà chưa có một công trình khoa học nào cấp luận văn thạc sỹ giải quyết một cách tổng thể các vấn đề về các tội phạm về mại dâm, đồng thời tổng kết thực tiễn xét xử qua đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật. Do vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quát về các tội phạm về mại dâm trong giai đoạn hiện nay là một công việc cần thiết và có ý nghĩa. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Đề tài trên cơ sở nhận thức toàn diện, có hệ thống về các tội phạm mại dâm và đánh giá thực tiền áp dụng, đề xuất những kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội phạm mại dâm trong thực tiễn. - Để đạt được những mục đích trên,luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ: + Nghiên cứu lý luận về các tội phạm về mại dâm như khái niệm, ý nghĩa của việc quy định các tội phạm mại dâm. + Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội phạm về mại dâm. + Đánh giá thực tiễn xét xử loại tội này tại các Tòa án nhân dân Hà Nội. + Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật về các tội phạm mại dâm.
  • 11. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chế định các tội phạm về mại dâm trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy phạm thuộc chế định này trong công tác xét xử. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến các tội phạm về mại dâm dưới góc độ luật hình sự, chủ yếu dựa trên cơ sở cac quy định của BLHS 2015. Đề tài nghiên cứu thực tiễn xét xử các Tòa án hai cấp Thành phố Hà Nội thời gian trong 05 năm từ 2014-2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chính Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về pháp luật, về phòng chống tội phạm. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: so sánh, phân tích, tổng hợp, lịch sử, vụ việc điển hình... các phương pháp này được sử dụng đan xen lẫn nhau để có thể xem xét một cách toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn. Đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu thống kê về các vụ án mại dâm tại địa bàn thành phố Hà Nội và những thông tin được khai thác trên các tạp chí, trên mạng Internet nhằm phân tích tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề cần nghiên cứu của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Những phân tích, đánh giá và kiến nghị nêu trong luận văn có ý nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về mại dâm, góp phần xây dựng nhận thức đầy đủ và đúng đắn về chế định các tội phạm về mại dâm, góp phần đổi mới nội dung
  • 12. 6 và phương pháp đấu tranh phòng, chống các tội phạm này trong tình hình mới. Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu luận văn gồm có ba chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận các tội phạm về mại dâm Chương 2: Thực trạng pháp luật quy định các tội phạm về mại dâm Chương 3: Thực tiễn xét xử các tội phạm về mại dâm ở Hà Nội và các giải pháp bảo đảm xét xử các tội phạm về mại dâm
  • 13. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM 1.1. Khái niệm tội phạm về mại dâm 1.1.1. Khái niệm mại dâm Mại dâm là một tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng tiêu cực đến lối sống, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Bên cạnh đó, nó còn là biểu hiện của một xã hội rối loạn kỷ cương, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, và là nguyên nhân lây lan các căn bệnh nguy hiểm khác, các tệ nạn xã hội khác làm suy đồi sự phát triển của loài người. Tuy nhiên, nó lại đã và đang tồn tại trong các thời kỳ lịch sử của hầu hết các Nhà nước và xã hội, thường được gọi dưới cái tên- nghề buôn phấn bán hương. Chính vì vậy, trong đại bộ phận pháp luật hình sự các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã có những quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về mại dâm, coi đó là một trong những hành vi nguy hiểm cho xã hội và cần phải được xử lý nghiêm minh. Trước hết, mại dâm có nghĩa là gì? Thuật ngữ “ mại dâm” hay “ mãi dâm” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “ Prostiuere” có nghĩa ban đầu là “ bày ra để bán”, chỉ việc bán thân một cách tùy tiện, không thích thú, mại dâm đã tồn tại hàng nghìn năm trước. Theo lý thuyết xã hội học thì mại dâm có thể được dịch nghĩa là việc trao đổi sự thỏa mãn tình dục để lấy tiền hoặc bất cứ một giá trị vật chất nào [15]. Có rất nhiều cách hiểu thế nào là mại dâm? Trước khi BLHS 1985, 1999, 2015 ra đời, đã có định nghĩa cho rằng, mại dâm là hoạt động nhằm cung cấp sự thảo mãn tình dục cho người khác ngoài phạm vi quan hệ vợ chồng và bạn bè. Mại dâm cung cấp tình dục mang tính đồi trụy và tạo ra không khí vô đạo đức và nguy hiểm, tác dụng như thuốc kích thích đối
  • 14. 8 với một loại người nhất định [9]. Quan điểm này chủ yếu nhìn mại dâm là một hành vi suy đồi đạo đức. Trong Luận án thạc sỹ Luật học của mình, tác giả Phạm Duy Quang lại nhận diện đâu là một hành vi mại dâm qua các dấu hiệu: Thứ nhất, có sự thỏa thuận giữa hai bên là nam và nữ (ở đây không đề cập đến dạng mại dâm cùng nam giới) về việc đáp ứng và thỏa mãn dịch vụ quan hệ tình dục thông qua giao hợp hoặc các hình thức khác như thủ dâm… Thứ hai, việc trao đổi tình dục được thực hiện trên cơ sở người bán dâm- tức là người đáp ứng nhu cầu tình dục (thường là phụ nữ) được người mua dâm- người cần được đáp ứng nhu cầu tình dục (thường là nam giới) trả hoặc hứa trả một giá trị vật chất nhất định như tiền, đồ trang sức hoặc các vật có giá trị khác… Thứ ba, hành vi trao đổi tình dục đó xảy ra ngoài phạm vi hôn nhân. Như vậy, theo tác giả Phạm Duy Quang, thì hành vi mại dâm bắt buộc phải xảy ra giữa những người không có quan hệ hôn nhân (giữa vợ và chồng), và mục đích của người bán dâm hướng đến phải là tiền hoặc giá trị vật chất nào đó. Nếu mục đích không phải là giá trị vật chất mà do nhu cầu, sở thích…thì chỉ được coi là hành vi thông dâm. Trong quá trình nghiên cứu các lĩnh vực phòng ngừa tệ nạn mại dâm, đấu tranh với tội phạm về mại dâm, các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn đã đưa ra khái niệm mại dâm, nhưng các khái niệm đó còn có những điểm khác nhau, thiếu thống nhất. Nghiên cứu các văn bản pháp luật chúng tôi nhận thấy, tuy chưa có khái niệm cụ thể về mại dâm, nhưng Pháp lệnh Phòng chống mại dâm số 10/2003/PL UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 có những quy định liên quan đến mại dâm. Cụ thể: – Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm (khoản 3 Điều 3).
  • 15. 9 + Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu (khoản 2 Điều 3). + Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác (khoản 1 Điều 3) [25]. Như vậy, mua dâm hoặc bán dâm đều là mại dâm. Hành vi mua dâm là nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục còn hành vi bán dâm nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất. Sẽ không phải là mại dâm nếu hai người giao cấu với nhau chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục. Do đó, có thể nói, mua dâm và bán dâm là hai mặt của mại dâm. Cũng theo Pháp lệnh, việc thoả mãn tình dục của người mua chỉ bằng hình thức giao cấu. Cho nên việc mua bán dâm để thoả mãn nhu cầu tình dục bằng các hành vi quan hệ tình dục khác sẽ không cấu thành tội phạm mại dâm. Quy định này đã trở nên lạc hậu cần được xem xét lại đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật (BLHS 2015 trong các tội phạm về tình dục như hiếp dâm, cưỡng dâm… ngoài giao cấu còn bổ sung hành vi quan hệ tình dục khác) và phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay (ngoài mau bán dâm truyền thống, cò có mua bán dâm đồng giới). Trong thực tiễn, hành vi giao cấu có thể xảy ra giữa hai người trong hoặc ngoài quan hệ hôn nhân. Trong đó, họ có thể cùng thỏa mãn nhu cầu tình dục cho nhau hoặc có người thỏa mãn nhu cầu tình dục, có người nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất. Theo quy định của Pháp lệnh Phòng chống tệ nạn mại dâm thì chỉ những quan hệ tình dục thông qua giao cấu để nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc để thỏa mãn tình dục phải trả tiền hoặc vật chất thì mới bị coi là mại dâm, nếu chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của nhau, không nhằm mục đích vật chất thì không bị coi là mại dâm.
  • 16. 10 Từ những khái niệm về mại dâm theo các quan niệm khác nhau, trên cơ sở đó ta có thể đưa khái niệm về về mại dâm. “Mại dâm là hành vi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân của người nhằm thỏa mãn dục vọng cho mình và phải trả tiền hoặc lợi ích vật chất cho người khác hoặc nhằm thỏa mãn cho người khác để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất”. 1.1.2 Khái niệm tội phạm về mại dâm Theo tác giả Trần Hải Âu: Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội về mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, ảnh hưởng đến an ninh trật tự [2]. Tương tự như trên, theo PGS.TS Nguyễn Huy Thuật: Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội liên quan đến mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm hại đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, ảnh hưởng đến an ninh xã hội [33, tr. 409]. Theo tác giả Nguyễn Hoàng Minh: Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội trong hoạt động mua bán tình dục được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm tới trật tự công cộng, an toàn công cộng, đến nếp sống văn minh, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự [14, tr. 33]. Chúng tôi đồng ý với các quan điểm trên khi nói tội phạm về mại dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc lĩnh vực mua bán tình dục do
  • 17. 11 người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý. Tuy nhiên qua nghiên cứu cụ thể cho thấy tội phạm về mại dâm bao gồm nhiều hành vi khác nhau nên không thể dùng "tội phạm mại dâm" mà phải dùng "tội phạm về mại dâm" mới bao hàm hết hành vi thuộc nhóm tội này, vì vậy để chính xác về thuật ngữ chúng tôi hoàn toàn đồng ý như tác giả Nguyễn Hoàng Minh đã sử dụng cụm từ "tội phạm về mại dâm". Từ những phân tích trên, khái niệm tội phạm về mại dâm theo chúng tôi được hiểu như sau: “Tội phạm về mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội trong hoạt động mua bán tình dục (quan hệ tình dục khác) được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm trật tự xã hội, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được thể hiện qua các hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên”. 1.1.3. Ý nghĩa việc quy định các tội phạm về mại dâm Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế của đất nước, bên cạnh các mặt tích cực của nền kinh tế thị trường cũng nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp. Trong tình hình mới, Bộ luật hình sự 1985 mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần; Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như kết cấu một số chương, điều chưa hợp lý, một số tội danh quy định chưa cụ thể; khung hình phạt trong một số điều luật quá rộng, dễ dẫn đến việc áp dụng tùy tiện. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1999 là một đòi hỏi khách quan. Vì những lẽ đó, ngày 27/11/2015, Quốc hồi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua,nhưng vì một số lý do nên đã sửa đổi bổ sung năm 2017 và chính thức có hiệu lực ngày 1/1/2018 thay thế Bộ luật hình sự 1999.
  • 18. 12 Theo Bộ luật hình sự năm 2015, tội phạm về mại dâm được quy định tại các Điều 327- Tội chứa mại dâm, Điều 328- Tội môi giới mại dâm, Điều 329- Tội mua dâm người dưới 18 tuổi của Chương XXI Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Việc quy định các tội phạm về mại dâm trong pháp luật hình sự có một ý nghĩa quan trọng và to lớn trong nhiều phương diện, thể hiện: Thứ nhất, quy định về các tội phạm mại dâm thể hiện sự tôn trọng các chuẩn mực đạo đức xã hội của pháp luật. Pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết và biện chứng, không thể tách rời. Trong những giới hạn nhất định, pháp luật là sự thể hiện của các chuẩn mực đạo đức, chỉ khi tôn trọng chuẩn mực đạo đức thì pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng mới gần gũi với đời sống nhân dân, bộc lộ được hiệu quả áp dụng trong thực tiễn của mình và khiến cho người dân nghiêm minh chấp hành pháp luật. Bên cạnh đó, mại dâm là một hiện tượng phi đạo đức, trái với nếp sống lành mạnh và luôn luôn không được thừa nhận trong xã hội Việt Nam, bị xã hội “ruồng bỏ”, vì vậy, việc pháp luật hình sự điều chỉnh về hiện tượng này là điều tất yếu và phù hợp với đạo đức xã hội. Thứ hai, việc quy định về các tội phạm mại dâm là sự cụ thể hóa nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp- đạo luật cao nhất của nước Việt Nam và nhiệm vụ của Bộ luật hình sự 2015. Trong Hiến pháp 2013 đã xác định về quyền con người là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo đảm thực hiện: “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [20]. Điều này được cụ thể hóa trong nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự như sau: “Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
  • 19. 13 chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [19]. Hiến pháp và pháp luật suy cho cùng cũng là sự thể hiện ý chí của con người, do đó quyền con người luôn được coi trọng và bảo vệ. Muốn như vậy thì chế độ xã hội chủ nghĩa phải được bảo vệ, trật tự xã hội phải được giữ vững, do đó mà công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm để giúp loài người được sống trong môi trường an ninh và trong sạch luôn luôn có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Thứ ba, quy định các tội phạm về mại dâm cũng là sự thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Đây được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ban ngành cũng như toàn thể nhân dân trên cả nước trong, Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XI nêu rõ : “Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội)” [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam, là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, người lao động và lấy chủ nghĩa Mac-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, do vậy những chủ trương và đường lối, chỉ dẫn của Đảng luôn là định hướng trong tất cả các lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội. Vì thế, những quy định của pháp luật không được phép đi ngược lại tinh thần của Đảng, đó chính pháp luật xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, quy định về các tội phạm mại dâm trong Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng cũng như các hành vi suy đồi đạo đức, tác động tiêu cực đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các tội phạm
  • 20. 14 về tệ nạn xã hội nói chung và mại dâm nói riêng luôn là một vấn đề gây nhức nhối và tồn tại dai dẳng trong đời sống xã hội, đe dọa sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước. Từ xưa đến nay, nạn mại dâm có những thời kỳ được hoạt động một cách công khai và tràn lan, gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đến nếp sống văn minh của xã hội và hạnh phúc gia đình. Điều đó là do không có cơ sở pháp luật nào để xử lý những hành vi phạm tội như vậy. Chính vì vậy, việc quy định các tội phạm về mại dâm là nguy hiểm cho xã hội và phải được trừng trị nghiêm minh của pháp luật, dưới sự bảo đảm thực thi của nhà nước là nền tảng pháp lý vững chắc để đấu tranh và phòng chống nan mại dâm. Thứ năm, quy định về các tội phạm mại dâm, đặc biệt khi người bán dâm là người dưới 18 tuổi, thể hiện sự bảo vệ của pháp luật đối với đối tượng là người dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên là đối tượng mà tâm sinh lý vẫn còn non nớt và chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình thực hiện. Ngoài ra, người dưới 18 tuổi là đối tượng dễ bị dụ dỗ, lôi kéo vào con đường phạm tội nên dù người bán dâm có tự nguyện nhưng nếu đã là người dưới 18 tuổi thì đối tượng mua dâm cũng đều có hành vi phạm tội. Vì thế, pháp luật quy định như vậy nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích, cũng như nhằm tạo môi trường sinh sống lành mạnh cho sự phát triển của đối tượng đặc biệt này. 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về mại dâm Khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS 2015 theo đó, “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
  • 21. 15 quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”[21]. Tội phạm theo nghĩa hình sự, đó là hành vi có đủ những yếu tố cấu thành tội phạm do pháp luật hình sự quy định. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm hay dấu hiệu cấu thành của một loại tội phạm có tính chất đặc trưng và điển hình cho loại tội phạm ấy, nó phản ánh đầy đủ bản chất và dùng để phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác. Do đó việc làm rõ khái niệm và phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của các tội phạm về mại dâm qua bốn yếu tố cấu thành tội phạm- khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh và xét xử chính xác. 1.2.1. Tội chứa mại dâm 1.2.1.1. Khách thể của tội chứa mại dâm Khách thể của tội phạm dược hiểu là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [ 24, tr.86]. Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề bảo vệ trật tự công cộng, đồng thời không ngừng đổi mới, hoàn thiện việc tổ chức, quản lý lĩnh vực này. Tội chứa mại dâm trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, xâm phạm đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, trật tự trị an xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội cũng như lây lan các căn bệnh nguy hiểm cho xã hội. 1.2.1.2. Mặt khách quan của tội chứa mại dâm Mặt khách quan là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [4,
  • 22. 16 tr.99]. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các biểu hiện khác bên ngoài của việc thực hiện tội phạm (công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm…) Hành vi khách quan: Điều 427 BLHS 2015 chỉ nêu tội danh chứa mại dâm mà không mô tả về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này, do đó tại khoản 4 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định: Hành vi chứa mại dâm “là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm”. Điều này được hướng dẫn chi tiết hơn tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐ- CP: “Cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để hoạt động mại dâm” quy đinh tại khoản 4 Điều 3 của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm là hành vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mà cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm” [8]. Theo quy định tại mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì: “Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ... gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì người đó chỉ phải chịu TNHS về “tội chứa mại dâm”. Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ... vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm vừa còn gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ thực hiện việc mua bán dâm tại nơi khác thì người đó phải chịu TNHS về “tội chứa mại dâm” và “tội môi giới mại dâm”[13]
  • 23. 17 Khi xác định hành vi chứa mại dâm, cần lưu ý những điều sau: Chứa mại dâm là việc mua bán dâm, tức là phải có cả người mua lẫn người bán và hai người phải thực hiện hành vi giao cấu, bởi vì bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác, còn mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu [25]. Nếu chỉ có hành vi chứa người bán dâm mà hành vi bán dâm được thực hiện ở địa điểm khác thì không được coi là tội chứa mại dâm. Trường hợp dùng tiền thuê địa điểm, trả tiền cho ngưới bán dâm nhưng để người khác giao cấu với người bán dâm thì cũng bị coi là hành vi chứa mại dâm. Theo Pháp lệnh phòng chống mại dâm thì trường hợp chứa hai người đồng giới để họ làm tình với nhau thì không có hành vi giao cấu và không bị coi là hành vi chứa mại dâm. Quy định này của Pháp lênh là bất cập hiện nay, khi mà Bộ luật hình sự đã có cách nhìn khác về giao cấu và hành vi quan hệ tình dục, khi thực tiễn mại dâm đồng tính đang phát triển mạnh ở nước ta. Trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ…gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì người đó phải chịu TNHS về tội chứa mại dâm. Trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ… vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ của mình vừa gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ thực hiện hành vi mua bán dâm tại địa điểm khác thì người đó phải chịu TNHS về tội chứa mại dâm và tội môi giới mại dâm[25].
  • 24. 18 Hậu quả: Đối với tội chứa mại dâm, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên nếu gây ra hậu quả nghiệm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội phải bị truy cứu TNHS theo các khung hình phạt nặng hơn của điều luật này. 1.2.1.3. Mặt chủ quan của tội chứa mại dâm Bao gồm các yếu tố: Lỗi, mục đích, động cơ phạm tội. Lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [24, tr.136]. Hành vi chứa mại dâm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội đã biết rõ việc sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện là nhằm thực hiện hành vi mua bán dâm. Người phạm tội cũng nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật hình sự bảo vệ nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi. Nếu người cho thuê, cho mượn địa điểm không hề biết mục đích của người thuê, mượn địa điểm là để thực hiện hành vi mua bán dâm thì không bị truy cứu TNHS về tội chứa mại dâm. Động cơ và mục đích phạm tội: Đây không phải là dấu hiệu định tội bắt buộc, nhưng khi quyết định hình phạt và xem xét tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi thì những yếu tố này là cần thiết. Động cơ của người phạm tội chứa mại dâm chủ yếu là do tư lợi, muốn kiếm được nhiều tiền hoặc giá trị vật chất khác, ngoài ra cũng có thể là các động cơ cá nhân khác như làm vui lòng bạn bè, lấy lòng sếp, hay cũng chỉ để thỏa mãn thú vui bệnh hoạn của mình… 1.2.1.4. Chủ thể của tội chứa mại dâm
  • 25. 19 Chủ thể của tội phạm là người không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS khi phạm tội, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội chứa mại dâm. Để xác định một người có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm hay không thì phải xem xét đến tình trạng năng lực TNHS và độ tuổi của người đó. Tình trạng không có Năng lực TNHS: là người không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người bị bênh tâm thần hay bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình khi phạm tội thì không phải là chủ thể của tội phạm. Người thực hiện hành vi chứa mại dâm, nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi đó, chính là khả năng kiềm chế được hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện và khả năng lựa chọn xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội. Độ tuổi cũng là một dấu hiệu quan trọng xác định năng lực chủ thể. Chủ thể của tội chứa mại dâm không phải là chủ thể đặc biệt mà có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên. Theo quy định tại điều 12 BLHS 2015 Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Cũng theo khoản 2 điều 12 BLHS 2015 thì Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa mại dâm. Đây cũng là một trong những điều khác biệt của BLHS 2015 so với BLHS 1999, theo BLHS 1999 thì tội chứa mại dâm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là đủ 14 tuổi trở lên. 1.2.2. Tội môi giới mại dâm 1.2.2.1. Khách thể của tội môi giới mại dâm
  • 26. 20 Tương tự như tội chứa mại dâm, hành vi môi giới mại dâm xâm hại nghiêm trọng đến trật tự công cộng, an ninh xã hội, đạo đức, thuần phong mỹ tục, truyền thống của dân tộc, lối sống văn minh lành mạnh của đất nước. 1.2.2.2. Mặt khách quan của tội môi giới mại dâm Hành vi khách quan: Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm [25]. Hành vi khách quan của tội môi giới mại dâm thường được biểu hiện theo nhiều hình thức khác nhau, phổ biên như: - Người phạm tội có hành vi dụ dỗ: dụ dỗ là mánh khóe dùng lời hay hứa hẹn quyền lợi để thúc đẩy người khác theo ý của mình; dụ dỗ có thể được thực hiện bừng mọi thủ đoạn, nhiều hình thức khác nhau nhằm đạt được tối đa mục đích của mình. Dụ dỗ có thể được tiến hành với người mua dâm hoặc người bán dâm. - Người phạm tội có hành vi dẫn dắt người bán dâm, người mua dâm đến một địa điểm nào đó để việc bán dâm và mua dâm được thực hiện. Hành vi dẫn dắt thể hiện ở hành vi đưa đường dẫn lối sao cho đối tượng mua dâm và bán dâm gặp nhau. Người phạm tội trở thành kẻ liên lạc, làm trung gian giữa cuộc mua bán dâm. Người phạm tội là trung gian có thể biết nhưng không nhất thiết phải biết cụ thể người bán dâm cho người nào hoặc người mua dâm với ai [11]. Qua nghiên cứu thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy hành vi môi giới mại dâm được thực hiện rất đa dạng, trực tiếp hoặc thông qua trung gian để dụ dỗ, dẫn dắt mại dâm, bọn tội phạm còn sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi như nhắn tin qua điện thoại, quảng cáo trên các diễn đàn, trang web đen với các mật khẩu nhận dạng để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng; người có hành vi môi giới mại dâm
  • 27. 21 cũng có thể đồng thời đứng ra tổ chức, chứa chấp mại dâm, nhưng cũng có thể chỉ làm công việc môi giới, dẫn dắt cho người mua dâm, bán dâm gặp gỡ thỏa thuận, tùy từng trường hợp cụ thể họ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc phạm nhiều tội. Khi xác định hành vi môi giới mại dâm cần phân biệt với hành vi của người đồng phạm trong vụ án chứa mại dâm có tổ chức, nếu tách riêng hành vi của người đồng phạm thì chỉ có thể xác định là hành vi môi giới mại dâm nhưng vì hành vi này là hành vi giúp sức cho việc chứa mại dâm nên phải xác định là tội chứa mại dâm. Ví dụ: Nguyễn Thu A là chủ tiệm gội đầu. A được Phạm Thanh B giao nhiệm vụ nếu có khách đến tiệm gội đầu thì gợi ý cho khách để khách mua dâm, khi khách mua dâm đồng ý thì chỉ cho khách đến nhà nghỉ của Phạm Thanh B để mua dâm, B sẽ trả cho A 100.000 đồng một khách mua dâm do A dắt mối. Hành vi của A nếu tách ra để xem xét một cách độc lập thì chỉ phạm tội môi giới mại dâm nhưng nếu xét trong mối quan hệ giữa B và T thì hành vi của T là hành vi chứa mại dâm với vai trò là người giúp sức cho B. Hậu quả: Đây không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi: dụ dỗ, móc nối, dẫn dắt người mại dâm và người mại dâm đã có sự nhận lời, thỏa thuận. Các dấu hiệu khách quan khác: Thủ đoạn và phương pháp phạm tội là cách thức, thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng nhằm đạt được mục đích của hành vi phạm tội cũng như che giấu tội phạm. Các thủ đoạn mà tội phạm sử dụng thường được ngụy trang bằng một vỏ bọc bên ngoài như: bán nước vỉa hè, kinh doanh quán hát karaoke, nhà nghỉ, khách sạn, xe ôm…Họ cũng thường xuyên thay đổi địa điểm, phương pháp phạm tội để qua mặt các cơ quan chức năng, lẩn trốn pháp luật. Những dấu hiệu
  • 28. 22 này cần được chú ý khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. 1.2.2.3. Mặt chủ quan của tội môi giới mại dâm Lỗi: Theo Điều 328 BLHS 2015 thì tội môi giới mại dâm được thực hiện với lỗi cố ý. Ở đây, người phạm tội nhận thức rõ được hành vi dụ dỗ, dẫn dắt người mua dâm hoặc người bán dâm để họ mua dâm, bán dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự nghiêm cấm và là hành vi phạm tội trái với thuần phong mỹ tục, nếp sống văn hóa đạo đức của dân tộc nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong muốn hành vi được diễn ra thuận lợi. Bên cạnh đó, tội môi giới mại dâm có cấu thành tội phạm hình thức, do đó hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội hoàn toàn có thể thấy được hậu quả xảy ra: gây ra tệ nạn xã hội, là nguyên nhân để lây truyền các căn bệnh nguy hiểm như HIV, lậu, giang mai… và người phạm tội bằng mọi cách thực hiện hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra nhằm thu lợi bất chính cho bản thân. Do đó, ở đây là lỗi cố ý trực tiếp. Nếu vì một lý do nào đó mà họ không biết hoặc không thể biết việc mua bán dâm thì không thể coi là phạm tội môi giới mại dâm. Động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội, động cơ, mục đích càng xấu thì mức hình phạt sẽ càng nặng và ngược lại. Mục đích và động cơ luôn đi liền, không tách rời nhau. Trong tội môi giới mại dâm, động cơ của người phạm tội chủ yếu là do tư lợi hoặc động cơ cá nhân khác, và thực tiễn xét xử cho thấy, hầu hết các vụ môi giới mại dâm chủ yếu do động lực kinh tế thúc đẩy. Vì muốn kiếm tiền, làm giàu nhanh chóng mà không cần vất vả bỏ sức lao động mà những người như: chủ quán nước, xe ôm, chủ nhà nghỉ, khách sạn, quán
  • 29. 23 hát karaoke… sẵn sàng thực hiện hành vi trái với pháp luật và đạo đức xã hội. 1.2.2.4. Chủ thể của tội môi giới mại dâm Cũng như các tội phạm khác, chủ thể của tội phạm là người không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS khi phạm tội, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội môi giới mại dâm. Để xác định một người có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm hay không thì phải xem xét đến tình trạng năng lực TNHS và độ tuổi của người đó. Tình trạng không có Năng lực TNHS: là người không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người bị bênh tâm thần hay bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình khi phạm tội thì không phải là chủ thể của tội phạm.. Trong tội môi giới mại dâm, người thực hiện hành vi phạm tội hoàn toàn có đủ năng lực TNHS, tức là người đó nhận thức rõ được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, trái với đạo đức và pháp luật hình sự, trái với lối sống văn minh dân chủ quốc gia nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi và bằng khả năng của mình thực hiện hành vi mặc dù có thể lựa chọn không thực hiện hành vi phạm tội. Độ tuổi cũng là một dấu hiệu quan trọng xác định năng lực chủ thể. Chủ thể của tội môi giới mại dâm không phải là chủ thể đặc biệt mà có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên. Theo quy định tại điều 12 BLHS 2015 Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Cũng theo khoản 2 điều 12 BLHS 2015 thì Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội môi giới mại dâm [21]. Đây cũng là một trong những điều khác biệt của BLHS 2015 so
  • 30. 24 với BLHS 1999, theo BLHS 1999 thì tội môi giới mại dâm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là đủ 14 tuổi trở lên. 1.2.3. Tội mua dâm người dưới 18 tuổi 1.2.3.1. Khách thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Xuất phát từ khái niệm khách thể của tội phạm nói chung, có thể xác đinh khách thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi là trật tự công cộng. Hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi tác động tiêu cực đến nếp sống văn minh, huỷ hoại nhân cách con người, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình, nhất là gia đình người bị hại, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Đối tượng tác động của tội phạm này là người dưới 18 tuổi nhưng phải đủ từ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi và những người này phải là người thực hiện hành vi bán dâm. Việc xác định độ tuổi trong tội phạm này là một vấn đề hết sức quan trọng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Trường hợp người bán dâm là người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) hoặc chưa đủ 13 tuổi thì hành vi này không cấu thành tội mua dâm người dưới 18 tuổi mà cấu thành tội phạm khác. Đối với các trường hợp đã áp dụng các biện pháp điều tra hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của người bán dâm thì được quy định như sau: a. Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày mồng một của tháng đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo; b. Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mồng một của tháng đầu của quý đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
  • 31. 25 c. Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào của nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày mồng một tháng giêng hoặc ngày mồng một tháng 7 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo; d. Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm, thì lấy ngày mồng một tháng giêng của năm đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo. Nếu họ không phải là những người bán dâm thì cũng không bị truy cứu TNHS theo Điều 329 BLHS 2015 mà tùy từng trường hợp người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo điều 145 BLHS 2015. Hoặc người đó chưa đủ 13 tuổi thì có thể bị truy cứu TNHS về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo điểm b Điều 142 BLHS 2015. 1.2.3.2. Mặt khách quan của tội mua dâm người dưới 18 tuổi Hành vi khách quan: Theo Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm thì “Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu”[25]. Như vậy mua dâm người dưới 18 tuổi được biểu hiện qua hành vi: Dùng tiền bạc hoặc lợi ích vật chất khác để dụ dỗ, thuyết phục, mua chuộc người dưới 18 tuổi bán dâm cho mình: Đây là trường hợp người phạm tội sư dụng tiền (VNĐ hoặc ngoại tệ) hoặc các lợi ích vật chất khác (đá quý, kim khí quý, tặng chức vụ, mua cho quần áo, đồ đạc đắt tiền…) nhằm dụ dỗ, thuyết phục người dưới 18 tuổi vì ham tiền bạc, lợi ích vật chất mà tình nguyện thực hiện hành vi giao cấu với mình. Việc xác định có hành vi dùng tiền bạc hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm được coi là yếu tố quan trọng
  • 32. 26 khi quyết định tội danh. Nếu việc giao cấu với người dưới 18 tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng không có hành vi dùng tiền bạc hoặc lợi ích vật chất khác trả cho họ thì sẽ không cấu thành tội danh này mà có thể cấu thành tội danh khác. Như vậy, hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác là hành vi không thể thiếu khi xem xét định tội danh cho tội mua dâm người dưới 18 tuổi Khi xác định hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi cần chú ý: Bản chất của hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi là việc chủ thể của tội phạm đã dùng tiền bạc hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người dưới 18 tuổi để họ giao cấu với mình. Như vậy, ở đây đã có sự thỏa thuận giữa hai bên, bên mua và bên bán. Sự thỏa thuận này có thể là trực tiếp với người dưới 18 tuổi, bao gồm cả hành vi lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người dưới 18 tuổi hoặc gia đình họ, cũng có thể là gián tiếp thông qua người thứ ba trung gian là chủ chứa mại dâm hoặc người chuyên môi giới mại dâm. Xét về hành vi giao cấu, hành vi giao cấu ở tội mua dâm người dưới 18 tuổi được hiểu giống như các hành vi giao cấu ở các tội xâm phạm tình dục khác như tội loạn luân,“giao cấu là sự cọ xát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ…” [17, tr.390]. Tội mua dâm người dưới 18 tuổi là tội phạm có cấu thành hình thức, do đó không đòi hỏi phải gây ra hậu quả cho người dưới 18 tuổi, vì vậy, tội phạm được coi là hoàn thành khi người mua dâm có hành vi thỏa thuận trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác cho người bán dâm và được người bán dâm dưới 18 tuổi đồng ý thực hiện hành vi giao cấu với họ, hành vi giao cấu không nhất thiết phải kết thúc về mặt sinh lý. Hành vi giao cấu trong tội mua dâm người dưới 18 tuổi đòi hỏi phải có sự thuận tình. Đây được xem là yếu tố bắt buộc. Người bán dâm có thể
  • 33. 27 bị cưỡng bức, bị mua chuộc, dụ dỗ nên mới bán dâm. Vì vậy, nếu trong quá trình giao cấu, người dưới 18 tuổi có biểu hiện của sự không đồng ý, chống cự, van xin hoặc miễn cưỡng để người phạm tội giao cấu thì tùy trường hợp mà người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội hiếp dâm, cưỡng dâm. Hậu quả: Tội mua dâm người dưới 18 tuổi có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, không những ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển thể chất bình thường của dưới 18 tuổi mà trong nhiều trường hợp cũng gây ám ảnh lên tinh thần, tâm lý, đặc biệt là trẻ em. Bởi lẽ, ở độ tuổi này, họ chưa nhận thức được hoàn toàn đầy đủ hành vi của mình, chưa có sự nhìn nhận đúng đắn về pháp luật và đạo đức xã hội, cũng có khi chỉ vì sa chân lầm lỡ hoặc bị dụ dỗ, lôi kéo đi vào con đường này. Do đó, dù họ có tình nguyện, ưng thuận bán dâm thì vẫn sẽ để lại hậu quả cả về thể xác và tinh thần sau này. Tuy nhiên, khi xem xét tội phạm này, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc nên không có ý nghĩa khi định tội danh. Các dấu hiệu khách quan khác: Phương tiện và thủ đoạn phạm tội cũng như các dấu hiệu khách quan khác không phải là dấu hiệu bắt buộc khi định tội danh, nhưng sẽ có ý nghĩa quan trọng khi quyết định hình phạt. Thủ đoạn phạm tội là yếu tố nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Thủ đoạn xấu có thể là người phạm tội cố tình tạo ra hoàn cảnh khó khăn cho người dưới 18 tuổi hoặc gia đình của họ để buộc họ phải giao cấu với mình. 1.2.3.3. Mặt chủ quan của tội mua dâm ngươi dưới 18 tuổi Lỗi : Như đã phân tích ở trên, hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi được diễn ra giữa người mua với người bán sau khi đã trải qua quá trình thỏa thuận, trao đổi về giá cả, lợi ích mà các bên mong muốn đạt được. Trên thực tế không phải trường hợp nào cũng do người mua dâm chủ
  • 34. 28 động gạ gẫm, tìm gái bán dâm mà nhiều trường hợp, chính gái bán dâm lại cố tình lôi kéo, dụ dỗ khách. Tuy nhiên, dù có chủ động hay bị động để gái bán dâm lôi kéo thì hành vi mua dâm dưới 18 tuổi ở đây đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Khi người mua dâm chủ động gạ gẫm người dưới 18 tuổi bán dâm cho mình thì rõ ràng đã thể hiện sự cố ý, mong muốn thực hiện hành vi giao cấu . Còn khi người bán dâm lại chủ động gạ gẫm, lôi kéo khách đến mua dâm thì tuy rằng ban đầu người mua dâm chưa có ý định mua dâm nhưng họ có thời gian cân nhắc, tự mình lựa chọn nên hay không nên đồng ý với lời mời chào đó. Tuy nhiên, dù biết hành vi mua dâm người chưa thành niên là trái với pháp luật và đạo đức xã hội, trái với nếp sống văn minh dân tộc thì người phạm tội cũng đã lựa chọn thực hiện hành vi mua dâm, mặc dù có thể tự mình lựa chọn cách xử sự khác. Vì vậy, ở cả hai trường hợp, người phạm tội đều nhận thức được hành vi của mình không được pháp luật, xã hội cho phép những vẫn cố tình lựa chọn thực hiện và mong muốn hành vi được diễn ra, Như vậy, lỗi ở đây là lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích, động cơ phạm tội: Động cơ của người phạm tội chủ yếu là để thỏa mãn dục vọng của mình. 1.2.3.4. Chủ thể của tội mua dâm ngươi dưới 18 tuổi Căn cứ theo điều 329 BLHS 2015 “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mua dâm người dưới 18 tuổi…”.Như vây, ngoài các điều kiện chung về điều kiện chủ thể, thì chủ thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi phải là người đủ 18 tuổi. Bên cạnh đó, vấn đề giới tính của chủ thể cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Theo quy định của Điều luật thì cũng không ám chỉ bất kỳ một giới tính nào mà chỉ chung cho cả nam lẫn nữ. Do đó, kể cả người mua dâm là nữ và người bàn dâm là nam giới chưa thành niên thì vẫn bị coi là phạm tội mua dâm người dưới 18 tuổi.
  • 35. 29 Như vậy, chủ thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi là chủ thể người đủ 18 tuổi và không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS khi phạm tội. Chủ thể này không phân biệt giới tính. 1.3. Đường lối xử lý các hành vi về mại dâm Tệ nạn mại dâm hiện nay là một trong những vấn đề nhức nhối của xã hội, Đảng và Nhà nước ta có thái độ kiên quyết và dứt khoát là không chấp nhận sự tồn tại của tệ nạn mại dâm dưới bất kỳ một hình thức nào, kiên quyết đấu tranh và loại trừ tệ nạn xã hội này ra khỏi đời sống xã hội. Quan điểm của Nhà nước là đấu tranh không khoan nhượng với loại tệ nạn mại dâm. Huy động lực lượng của các ngành, các cấp, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và mọi công dân sử dụng mọi biện pháp chung của toàn xã hội bao gồm các biện pháp kinh tế - hành chính - pháp luật và các biện pháp của cơ quan chuyên môn. Sử dụng đồng bộ các lực lượng, biện pháp để từng bước hạn chế đẩy lùi và loại trừ tệ nạn mại dâm ra khỏi đời sống xã hội. Tội phạm hay vi phạm hành chính đều là vi phạm pháp luật, do đó giữa tội phạm và vi phạm có những nét tương đồng, rất khó để xác định ranh giới. Vấn đề cần đặt ra đó là cần phải phân biệt và xác định ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính, vì nó không chỉ có ý nghĩa trong việc áp dụng luật mà còn có ý nghĩa trong việc xây dựng và giải thích pháp luật. Trước tiên cần xác định về khái niệm giữa tội phạm và vi phạm hành chính. Theo điều 8 Bộ luật hình sự 2015 thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
  • 36. 30 thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”[21]. Tổng quát lại, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Theo điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính thì “vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật về xử phạt hành chính”. Một hành vi chỉ cho dù đã cấu thành một hay nhiều tội đã quy định trong Bộ luật hình sự mà vẫn chưa bị xét xử thì hành vi đó vẫn chưa bị coi là tội phạm. Chỉ khi nào hành vi đó bị tòa án tuyên án là tội phạm thì bắt đầu từ thời điểm đó, hành vi đó mới gọi là tội phạm. Như vậy, một hành vi bị coi là tội phạm khi hành vi đó phải chịu hình phạt - tòa tuyên án. Vi phạm hành chính thì khác, một hành vi đã thõa mãn: do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý; xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước; không phải tội phạm hình sự thì hành vi đó đã là hành vi vi phạm hành chính. Dấu hiệu “theo quy định pháp luật phải bị xử phạt hành chính” nói lên rằng bị xử phạt không phải là dấu hiệu để coi một hành vi đã bị coi là hành vi vi phạm hành chính hay chưa mà chỉ là biện pháp cưỡng chế nhà nước nhằm trừng phạt hành vi vi phạm đó. Tội phạm là loại vi phạm pháp luật nặng nhất và được quy định trong Bộ luật hình sự và chỉ có Quốc hội mới có quyền đặt ra các quy định về tôi phạm và hình phạt. Ngay từ điều 2 Bộ luật hình sự đã quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự: “Chỉ người nào phạm một tội được Bộ luật
  • 37. 31 hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy Bộ luật hình sự là căn cứ pháp lý duy nhất để xem xét xem một hành vi vi phạm có bị coi là tội phạm hay không - không có trong luật thì không có tội, “vô luật bất hình”. Vi phạm hành chính không được quy định trong một bộ luật cụ thể nào mà được quy định trong nhiều văn bản khác nhau như luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tư… Luật ở đây là các bộ luật là nguồn của luật hành chính chứ không phải là bộ luật hành chính, ví dụ: hiến pháp, luật tổ chức chính phủ… nguyên nhân mà chúng ta không có riêng một bộ luật hành chính đơn giản vì nó quá rộng, quá nhiều lĩnh vực với quá nhiều các văn bản pháp luật và chúng ta không thể pháp điển hóa thành bộ luật. Các văn bản dưới luật ở đây có thể là nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, ủy ban thường vụ Quốc hội, hội đồng nhân dân; pháp lệnh của ủy ban thường vụ quốc hội; nghị định của Chính phủ; các quyết định, chỉ thị, thông tư. Tội phạm và vi phạm hành chính về hành vi mại dâm cũng vậy, những hành vi về mại nào nào bị coi là tội phạm thì phải được quy định trong Bộ luật hình sự còn nhưng hành vi mại dâm khác không quy định trong bộ luật hình sự thì chỉ bị chế tài là xử phạt hành chính về các hành vi đó. Ngày 15/4/2003, Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm đã được công bố, trong pháp lệnh phòng chống mại dâm đã quy định những biện pháp phòng chống mại dâm và trong đó quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm như: “ Mua dâm; Bán dâm; Chứa mại dâm; Tổ chức hoạt động mại dâm; Cưỡng bức bán dâm; Môi giới mại dâm; Bảo kê mại dâm; Lợi dụng kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm và các hành vi khác liên quan đến hoạt động mại dâm theo quy định của pháp luật như các hành vi tiếp
  • 38. 32 tay che giấu, dung túng để tạo điều kiện, khuyến khích các hoạt động mại dâm”[25]. Các hành vi trên, củ thể hóa thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 chỉ có những hành vi Chứa mại dâm, môi giới mại dâm và mua dâm người dưới 18 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn lại các hành vi mại dâm khác chỉ bị xử phạt hành chính. Trong thực tế việc mại dâm diễn ra rất nhiều, ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội nó làm phát sinh nhiều các tệ nạn khác, nhưng những chế tài xử lý còn rất nhẹ, chưa đủ tính răn đe và nhiều hành vi khác tiếp tay cho mại dâm có tính chất rất nguy hiểm nhưng lại không được cụ thể hóa trong Bộ luật hình sự như: Cưỡng bức mại dâm, bảo kê mại dâm… như vậy các hành vi này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự là một trong những điểm bất cập của pháp luật hình sự hiện nay. Chế tài là một hình thức cưỡng chế của nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Chế tài xử lý các hành vi về mại dâm có hai loại, một là chế tài hình sự hai là chế tài xử phạt hành chính. Chế tài hình sự được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự và được áp dụng với người thực hiện hành vi phạm tội. Chế tài xử phạt hành chính được quyết định và thi hành bởi các chủ thể trong lĩnh vực quản lý hành chính. Thủ tục áp dụng với chế tài hành chính hoàn toàn khác với chế tài hình sự bởi quyền lực áp dụng không thuộc về tòa án, tuy nhiên trong một vài trường hợp, thủ tục nửa tư pháp có thể được áp dụng. Hình phạt được quy định đối với các tội phạm về mại dâm được quy định khá nghiêm khắc. Mặc dù các tội phạm này được quy định tại khoản 1 các điều luật tương ứng là tội ít nghiệm trọng (Tội môi giới mại dâm) hoặc tội nghiêm trọng (Tội chứa mại dâm, Tội mua dâm người dưới 18 tuổi), nhưng chế tài được quy định chỉ là hình phạt tù; mà không phải là chế tài lựa chọn với các hình phạt khác. Và hình phạt cao nhất được quy
  • 39. 33 định có thể lên đến Tù chung thân (Tội chứa mại dâm) hoặc 15 năm tù (Tội môi giới mại dâm, Tội mua dâm người dưới 18 tuổi). Thông thường, các tội phạm được thực hiện do động cơ vụ lợi, vì lợi ích vật chất hoặc dùng tiền làm phương tiện phạm tội, cho nên người làm luật quy định phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các tội phạm này. Quy định hình phạt trong các chế tài tội phạm về mại dâm thể hiện đường lối xử lý kiên quyết, nghiêm khắc; đồng thời coi trọng tính phòng ngừa của Đảng và Nhà nước ta đối với tệ nạn mại dâm nói chung, với các tội phạm về mại dâm nói riêng. Tiểu kết chương Nội dung Chương 1 đã nêu được một cách khái quát khái niệm về mại dâm. Dù không đưa ra được một khái niệm cụ thể nào nhưng các khái niệm hoàn toàn thống nhất với nhau, hành vi mại dâm phải có tình dục ngoài hôn nhân của người nhằm thỏa mãn dục vọng cho mình và phải trả tiền hoặc lợi ích vật chất cho người khác hoặc nhằm thỏa mãn cho người khác để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất đó là những đặc điểm nổi bật cốt lõi để nhận biết hành vi mai dâm. Trong Chương 1 cũng đã làm rõ được các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về mại dâm, quy định các tội phạm về mại dâm trong Bộ luật hình sự, đường lối xử lý đối với các loại tội phạm này. Tội phạm về mại dâm là đối tượng đặc biệt được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Hệ thống pháp luật nước ta và đặc biệt là Bộ luật hình sự đã quy định khá chi tiết và chặt chẽ, các hình phạt về tội mại dâm có tính dăn đe giúp họ nhận thức được những sai lầm của mình mà còn tác động đến ý thức tuân thủ pháp luật. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm về mại dâm là hết sức quan trọng, cần thiết, để từng bước hạn chế đẩy lùi và loại trừ tệ nạn mại dâm ra khỏi đời sống xã hội.
  • 40. 34 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM 2.1. Khái quát lịch sử các tội phạm về mại dâm 2.1.1. Quy định về tội phạm mại dâm giai đoạn 1945 đến 1985 Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ khi nhà nước ta ra đời phải dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến thực dân Pháp, nên trong giai đoạn này hệ thống pháp luật của nước ta còn sơ sài vẫn còn bị ảnh hưởng của pháp luật chế độ cũ và thời Phong kiến nên pháp luật hình sự thời đó chưa có một văn bản nào điều chỉnh các hành vi mại dâm vi tệ nạn mại dâm chưa phát triển mạnh, tỉnh tổ chức còn hạn chế mà chủ yếu hoạt đông mang tính chất đơn lẻ. Thời kỳ 1954-1975 đất nước ta bị chia thành hai miền Nam, Bắc. Ở miền Nam, giai đoạn đầu chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn cho duy trì một số đạo luật của chế độ thuộc Pháp trước đây về vấn đề mại dâm. Các nhà chứa và gái mại dâm được cấp phép là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho tệ nạn mại dâm bùng phát nhanh chóng. Ngày 17/10/1955, Chính quyền Sài Gòn đã ban hành Dụ số 64 về bài trừ nạn mại dâm và quy định các hành vi bán dâm, môi giới mại dâm và chứa mại dâm đều bị coi là tội phạm. Tiếp theo đó Luật số 12/62 ngày 22/5/1962 còn bổ sung hành vi mua dâm cũng là phạm tội, đặc biệt luật này coi các tình tiết mua dâm người dưới 16 tuổi; người mua dâm là người đảm nhiệm chức vụ bài trừ tệ nạn mại dâm hoặc có phận sự giữ gìn sức khỏe cho dân chúng là các tình tiết định khung. Dưới thời chế độ cũ ở miền Nam, chính quyền Sài Gòn đã ban hành Bộ hình luật theo Sắc luật số
  • 41. 35 026/TT/SLU ngày 20/12/1972. Theo Bộ luật này hành vi mua dâm, bán dâm không bị coi là tội phạm, các hành vi chứa mại dâm, tổ chức mại dâm, môi giới, dẫn dắt gái mại dâm và các hành vi đồng phạm đều bị trừng trị (Điều 357 đến Điều 364). Bộ luật này còn tách hành vi cưỡng bức mại dâm thành một tội độc lập và có hình phạt nghiêm khắc. Điều 359 quy định: "Kẻ nào giam giữ hoặc dùng bạo hành để cưỡng bách người khác mại dâm sẽ bị phạt tử hình. Những đồ vật trang trí trong nhà chứa sẽ bị tịch thâu, kể luân cả nhà chứa, nếu nhà này thuộc quyền sở hữu của kẻ phạm pháp" Tại miền Bắc, kể từ năm 1954, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành nhiều chính sách để bài trừ tệ nạn, như Nghị quyết số 49-TVQH ngày 20/06/1961 về tập trung giáo dục, cải tạo những phần tử có hoạt động nguy hiểm cho xã hội; Thông tư 121/CP ngày 09/08/1961 của Hội đồng Chính phủ hướng dẫn cụ thể việc thi hành Nghị quyết 49/TVQH đã nêu rõ các đối tượng cần tập trung cải tạo trong đó có những tên chủ chứa và bọn gái điếm: "Những tên lưu manh trộm cắp đã tái phạm nhiều lần và không có nghề nghiệp, hoặc chỉ có nghề ngụy trang chuyên sống bằng trộm cắp, lừa đảo và những tên chủ chứa bọn gái điếm hiện đang hoạt động" [13] Tại miền Nam Việt Nam chính quyện ngụy quyền Sài Gòn sụp đổ nhưng những tàn dư tệ nan của chế độ là một trong những vấn đề nhức nhối của xã hội mà đặc biệt là tệ nạn mại dâm.Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân. Tại Điều 9 của Sắc luật này có quy định “tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân”[23]. Trong đó có quy định về các tồi “cờ bạc, tổ chức mại dâm, buôn bán, tàng chữ ma túy và các chất độc khác” quy định mức cao nhất là 15 năm tù.
  • 42. 36 Như vậy sau khi đất nước hoàn toàn được thống nhất, do chính quyền còn non trẻ, hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế nên sắc luật 03/SL ngày 15- 03-1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng cường tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần bài trừ tệ nạn mại dâm trong ra khỏi đời sống xã hội. Qua nghiên cứu có thể nhận thấy, tệ nạn mại dâm trong từng giai đoạn lịch sử, thời kỳ nào cũng có tùy từng mức độ phát triển ảnh hưởng đến đời sống xã hội nhiều hay ít. Đa số trong các thời kỳ đều coi nạn mại dâm là một tệ nạn xã hội, cần phải loại bỏ, tùy từng thời kỳ mà quy định về tội phạm về mại dâm cũng khác nhau. 2.1.2. Quy định về tội phạm mại dâm trong Bộ luật hình sự 1985 Trong giai đoạn 1985 đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế, quy định chung chung không điều chỉnh hết được các mối quan hê xã hội vì những lý do đó sự ra đời của Bộ luật hình sự 1985 là rất cần thiết, qua một thời gian nghiên cứu, soạn thảo, thảo luận, lấy ý kiến từ kỳ hợp thứ 9 Quốc hội khóa VII Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực ngày 01/01/1986. Trong Bộ luật hình sự 1985 có quy định hoạt động mại dâm tại: Điều 202. Tội chứa mãi dâm, tội môi giới mãi dâm. 1- Người nào chứa mãi dâm, dụ dỗ hoặc dẫn dắt người mãi dâm thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm [18]. Trong Bộ luật hình sự 1985 quy định là tội chứa mãi dâm, tội môi giới mãi dâm chứ không dùng khái niệm mại dâm. Mãi dâm, hay mua dâm, là hành động dùng tiền bạc, vật chất hay quyền lợi để đổi lấy các hoạt động tình
  • 43. 37 dục ngoài hôn nhân. Trong pháp luật hình sự hiện hành bây giờ, không còn quy định về mãi dâm. Ngoài hình phạt chính, Trong bộ luật còn quy định các hình phạt bổ sung tại: Điều 218. Hình phạt bổ sung …. 2- Người nào phạm một trong các tội quy định ở các Điều từ 199 đến 203, thì có thể bị quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. 3- Người nào phạm một trong các tội quy định ở các Điều từ 199 đến 203, thì bị phạt tiền từ một nghìn đồng (1.000) đến năm mươi nghìn đồng (50.000 đồng) và có thể bị tịch thu một phần tài sản [18]. Quy định về các tội phạm mại dâm trong Bộ luật hình năm 1985 sự là cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng cũng như các hành vi suy đồi đạo đức, tác động tiêu cực đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, đe dọa sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước. Trong quá trình thi hành Bộ luật hình sự đã có nhiều điểm bất cập và sự thay đổi của xã hội nên Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi năm 1997. Tại kỳ họp thứ 11 từ ngày 02/4/1997 đến 10/5/1997, Quốc hội khóa IX đã quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, trong đó có Điều 202, nâng mức hình phạt đối với tội phạm này (mức hình phạt thấp nhất là một năm tù và cao nhất là tù chung thân), đồng thời bổ sung một số tội danh mới (tội mua dâm người chưa thành niên - Điều 202a). Ngoài ra Điều 218 còn quy định người phạm tội chứa mại dâm, tội môi giới mại còn phải chấp hành hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 5 triệu đồng và có thể bị tịch thu một phần tài sản, bị phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm. Bộ luật hình sự năm 1985 bên cạnh những ưu điểm còn tồn tại một số nhược điểm nhất định chưa đáp ứng được nhu cầu
  • 44. 38 thực tiễn, chưa chính xác về mặt khoa học, nhất quán về mặt logic pháp lý, chưa chặt chẽ về mặt kỹ thuật lập pháp. Để đấu tranh phòng chống tội phạm, xử lý nghiêm minh người phạm tội góp phần tăng cường tính pháp chế, củng cố trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân cũng như bảo vệ hòa bình và an ninh nhân loại trong xu hướng hợp tác quốc tế thì đòi hỏi phải sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1985 cho phù hợp với quan hệ xã hội mới phát sinh. Bên cạnh Bộ luật hình sự 1985 vào thời điểm đó còn có rất nhiều các văn bản pháp luật phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn mại dâm. Nhằm cụ thể hơn về tội phạm mại dâm như : Chỉ thị 14/CP ngày 16/01/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về các biện pháp giải quyết vấn đề cứu tế xã hội và tệ nạn xã hội trong đó có nêu rõ phải đưa ra truy tố hoặc tập trung cải tạo các chủ chứa gái mại dâm; Nghị định 141/HĐBT ngày 25/04/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về xử phạt vi phạm hành chính trong đó có quy định phạt tiền từ 10.000 đồng đến 20.000 đồng hoặc có thể phạt tiền đến 50.000 đồng nếu có hành vi làm tình hoặc có hành động khiêu dâm ở nơi công cộng; Đặc biệt là Nghị quyết 05/CP ngày 29/01/1993 của Chính phủ về ngăn chặn và phòng chống tệ nạn mại dâm, Nghị quyết nêu rõ: 1. Kiên quyết xóa bỏ tệ nạn mại dâm (kể cả mua, bán dâm) dưới bất kỳ hình thức nào... 2. Xây dựng chương trình liên ngành phòng chống nạn mại dâm. Nội dung chính là: a) Điều tra phân loại người mại dâm. Đối với số thường xuyên mại dâm, cần tập trung bắt buộc để chữa bệnh, giáo dục... b) Xử phạt thật nghiêm người chứa chấp, dụ dỗ, dẫn dắt gái mại dâm dưới mọi hình thức...[5] Chỉ thị số 136/NCPL ngày 11/03/1993 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ về phòng chống và kiểm soát ma túy và chống tệ nạn mại dâm;
  • 45. 39 Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 01/03/1994 của Ban Chấp hành Trung ương về lãnh đạo phòng chống tệ nạn xã hội trong đó nhấn mạnh điều kiện quyết định để phòng, chống các tệ nạn xã hội có kết quả là đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, phát huy được phong trào nhân dân, tăng cường sự quản lý của nhà nước. Để thực hiện và cụ thể hóa chỉ thị số 33-CT/TW ngày 01/03/1994 thì ngày 22/04/1994 Bộ Nội vụ ban hành chỉ thị số 05/BNV về phòng ngừa, ngăn chặn và chống tệ nạn mại dâm. Bên cạnh đó Chính phủ còn ban hành Nghị định 53/CP ngày 26/6/1994 quy định các biện pháp xử lý với cán bộ, viên chức nhà nước và những người có liên quan: Người mua dâm là cán bộ viên chức nhà nước thì bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thông báo về cơ quan nơi người đó làm việc để kỷ luật cảnh cáo, hạ lương hoặc thôi việc. Để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 15/8/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 49/CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự trong đó quy định xử phạt hành chính đối với các hành vi mại dâm tại Điều 23 như sau: 1. Phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi. a. Bán dâm; b. Lạm dụng tình dục; 2. Phạt tiền từ 500.000đồng đến 2.000.000đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Mua dâm; b) Cung cấp địa điểm cho hoạt động mại dâm. 3. Phạt tiền từ 2.000.000đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Dẫn dắt hoạt động mại dâm; b) Che giấu bảo vệ cho các hành vi mua dâm, bán dâm; c) Vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 điều này đã bị xử phạt hành chính mà còn tái phạm.
  • 46. 40 4. Phạt tiền từ 30.000.000đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau: a) Sử dụng việc mua dâm, bán dâm và các hoạt động tình dục khác làm phương thức kinh doanh. b) Dùng các thủ đoạn khống chế, đe dọa người mua dâm, bán dâm để đổi tiền, cưỡng đoạt tài sản [6]. 2.1.3. Quy định về tội phạm mại dâm trong bộ luật hình sự 1999 Để đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ mới, cũng như giảm thiểu những bất cập trong các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, ngày 21/12/1999 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2000. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung toàn diện, thể hiện chính sách hình sự mới của nhà nước ta với tội phạm nói chung và với tội phạm về mại dâm nói riêng. Tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm, tội mua dâm người chưa thành niên được quy định tại Điều 254, 255, 256 Bộ luật hình sự năm 1999 khoa học, chính xác và đầy đủ hơn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xét xử đối với loại tội phạm nguy hiểm này. Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định cụ thể về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên tại ba điều luật khác nhau. Các điều khoản được sắp xếp một cách khoa học, cụ thể với khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ bản, các khoản tiếp theo là cấu thành tội phạm tăng năng với các tình tiết tăng nặng định khung có mức độ tăng dần, khoản 5 quy định về hình phạt bổ sung. So với Bộ luật hình sự năm 1985, quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm mại dâm đã có sửa đổi, bổ sung quan trọng, đáng chú ý: - Về kỹ thuật lập pháp: Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định các tội về mại dâm một cách độc lập; việc quy này của pháp luật đã thể hiện được bản chất của các tội về mại dâm.
  • 47. 41 Điều 254, 255, 256 Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên với một cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng, cùng với đó là một khoản riêng biệt quy định về hình phạt bổ sung. Việc quy định như vậy là hợp lý, đã góp phần phân hóa trách nhiệm hình sự và áp dụng các hình phạt được chính xác hơn. - Về chính sách: Bộ luật hình sự năm 1999 đã có thêm quy định bổ sung các tình tiết định khung tăng nặng.Điều 254, 255 Bộ luật hình sự năm 1999 bổ sung thêm trường hợp phạm tội "có tổ chức" và "có tính chất chuyên nghiệp" là yếu tố định khung hình phạt, cùng với đó là một khoản riêng biệt quy định về hình phạt bổ sung. Việc quy định như vậy là hợp lý, đã góp phần phân hóa trách nhiệm hình sự và áp dụng các hình phạt được chính xác hơn. Điều 256 quy định về tội mua dâm người chưa thành niên, Về cơ cấu, Bộ luật Hình sự 1999 quy định 4 khoản (so với 3 khoản của Bộ luật Hình sự 1985), các điều khoản được sắp xếp khá tương đồng với các khoản của Điều 202a Bộ luật Hình sự 1985, khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung. Như vậy, so với Bộ luật Hình sự 1985, Bộ luật Hình sự 1999 còn có quy định thêm về một số tình tiết tăng nặng định khung và hình phạt bổ sung. - Khung hình phạt cơ bản được giữ lại như Bộ luật Hình sự 1985 tuy nhiên có sửa đổi cho phù hợp. Khoản 1 Điều 202a Bộ luật Hình sự 1985 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm tù tiếp tục được quy định tại Khoản 1 Điều 256 Bộ luật Hình sự 1999. Khoản 2 Điều 202a quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 10 năm tù trong khi đó khoản 2 Điều 256 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 8 năm tù, việc điều chỉnh quy định này nhằm phù hợp với mức độ nguy hiểm của tội phạm. Khoản 3 Điều 256 vẫn giữ nguyên mức cao nhất của khung hình phạt tại khoản 3 Điều 202a là 15 năm tù.
  • 48. 42 Các tình tiết tăng nặng định khung trong Bộ luật Hình sự 1999 được quy định cụ thể hơn, dễ áp dụng hơn. Ví dụ: tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" (điểm b khoản 2) hoặc tình tiết "gây hậu quả rất nghiêm trọng" (điểm c khoản 3) Điều 202a Bộ luật Hình sự 1985 đã được sửa đổi với việc định lượng chi tiết hơn, tương ứng là "gây tổn hại cho sức khỏe nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%" (điểm c khoản 2), "gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên" (điểm c khoản 3) Điều 256 Bộ luật Hình sự 1999. - Ngoài ra, còn bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng mới đáp ứng nhu cầu của thực tiễn xét xử và đánh giá đúng mức độ gây nguy hiểm của các tình tiết đó như: Chuyển tình tiết "mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" tại điểm c khoản 3 Điều 202a lên điểm b khoản 2 Điều 256; bổ sung tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" (điểm a khoản 3), "biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội" (điểm b khoản3). Để góp phần bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, danh dự nhân phẩm của con người, hạnh phúc của gia đình, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ sức khỏe của nhân dân, xây dựng và phát triển con người Việt Nam, ngày 14/3/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 10/2003/PL-UBTVQH về Phòng, chống mại dâm; trong đó quy định những biện pháp phòng, chống mại dâm, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình trong phòng, chống mại dâm. Theo đó, môi giới mại dâm thuộc một trong các hành vi bị nghiêm cấm (khoản 6 Điều 4 của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm); các đối tượng vi phạm sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định tại Chương III của Pháp lệnh. Để cụ thể hóa hơn nữa việc thi hành Pháp lệnh, ngày 15/10/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/NĐ-CP nhằm quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại