Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Những vấn đề lý luận về hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cho các bạn tham khảo
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
Hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN QUỐC VIỆT
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG HÔN NHÂN
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2017
2. 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN QUỐC VIỆT
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG HÔN NHÂN VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRỌNG ĐIỆP
Hà Nội - 2017
3. 3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Quốc Việt
4. 4
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hợp đồng hôn nhân
1.1. Bản chất pháp lý của hôn nhân ........................................................ 11
1.1.1. Một số quan niệm về hôn nhân................................................................. 11
1.1.2. Bản chất của hôn nhân .............................................................................. 18
1.1.3. Hệ quả của việc xác định bản chất pháp lý của hôn nhân ........................ 31
1.2. Một số vấn đề lý luận về Hợp đồng hôn nhân................................. 32
1.2.1. Khái niệm.................................................................................................. 32
1.2.2. Đặc điểm ................................................................................................... 33
1.2.3. Chủ thể ...................................................................................................... 39
1.2.4. Đối tượng .................................................................................................. 40
1.2.5. Hiệu lực..................................................................................................... 41
1.2.6. Nội dung.................................................................................................... 48
1.2.7. Phân loại.................................................................................................... 51
Chương 2. Hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng hợp đồng hôn nhân
tại Việt Nam....................................................................................................... 56
2.1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 56
2.1.2. Cơ sở thực tiễn .......................................................................................... 61
2.2. Hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ............. 80
2.2.1. Thừa nhận Hôn nhân là một hợp đồng...................................................... 81
2.2.2. Định nghĩa về hợp đồng hôn nhân............................................................ 81
5. 5
2.2.3. Cho phép xác lập tư cách vợ chồng bằng hợp đồng hôn nhân ................. 82
2.2.4. Quy định hợp đồng hôn nhân là một lựa chọn không bắt buộc................ 82
2.2.5. Bổ sung các quy định về nội dung của hợp đồng hôn nhân ..................... 82
2.2.6. Bổ sung các quy định về đăng ký hợp đồng hôn nhân ............................. 83
2.2.7. Quy định các chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận...................... 84
2.2.8. Cho phép vợ chồng chọn luật áp dụng...................................................... 87
2.2.9. Thừa nhận ly thân...................................................................................... 87
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
6. 6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
xã hội loài người. Cũng giống như các hiện tượng xã hội khác, hôn nhân cũng
có quá trình hình thành và phát triển từ thấp đến cao. Sự vận động và phát
triển của hôn nhân gắn liền với sự vận động và phát triển của xã hội. Trong xã
hội Việt Nam hiện đại, sự phát triển của kinh tế kéo theo sự thay đổi và phát
triển mạnh mẽ của các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ hôn nhân. Do đó,
nhận thức về hôn nhân cũng cần phải thay đổi. Nhiệm vụ của khoa học pháp
lý là phải tìm ra cơ sở lý luận cho sự thay đổi đó. Hơn nữa, khoa học pháp lý
phải đi trước thực tiễn của xã hội một bước để dự báo xu hướng vận động và
phát triển của các quan hệ xã hội.
Mục tiêu của tác giả khi tham gia khóa học này là bổ sung cho mình tư
duy, kỹ năng nghiên cứu khoa học pháp lý và kiến thức khoa học pháp lý.
Theo tác giả, con đường chân chính để đạt được mục tiêu này là nghiên cứu
một vấn đề mới, một vấn đề chưa được nghiên cứu tại Việt Nam. Cách đặt
vấn đề nghiên cứu như vậy giúp tác giả định hình cho mình một phong cách
nghiên cứu khoa học pháp lý riêng, tạo nên những quan điểm riêng về vấn đề
được nghiên cứu, tránh đi vào lối mòn trong nghiên cứu khoa học đồng thời
chủ động phát hiện ra những hướng nghiên cứu mới, những cách tiếp cận mới
về một vấn đề pháp lý. Chính vì lẽ đó, tác giả lựa chọn đề tài “Những vấn đề
lý luận về hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014” để tiến hành nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về hôn nhân.
Tuy nhiên, tựu chung lại, tồn tại luồng quan điểm chính đó là: (1) Quan niệm
7. 7
cho rằng hôn nhân là một thiết chế pháp luật; (2) Quan niệm cho rằng hôn
nhân là một hợp đồng. Quan niệm hôn nhân là một hợp đồng được thừa nhận
rộng rãi và phổ biến tại nhiều nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Đức, Pháp,
Bỉ, tỉnh bang Québec (Canada). Về mặt học liệu, đã có nhiều cuốn sách, bài
viết của các nhà lập pháp, luật gia, luật sư và các nhà nghiên cứu về hợp đồng
hôn nhân như: Contrats de mariage et régimes matrimoniaux của tác giả
Lucie Guchet do nhà xuất bản Puits Fleuri phát hành năm 2000, Régimes
matrimoniaux et contrats de mariage của tác giả Jean Champion (tái bản lần
thứ 10 do nhà xuất bản Delmas phát hành), Le contrat de mariage réinventé
perspectives socio-juridiques pour une réforme xuất bản năm 2002 của tác giả
Alain Roy (khoa Luật, Đại học Montréal, Québec), Trait Du Contrat de
Mariage: Livre III, Titre V, Du Code Civil, Volume 3 của Louis Guillouard do
Nabu Press phát hành năm 2010, The Islamic Marriage Contract: Case
Studies in Islamic Family Law (Harvard Series in Islamic Law) do chương
trình nghiên cứu pháp lý hồi giáo của Đại học luật Havard phát hành năm
2009, The Marriage Contract: Spouses, Lovers, and the Law ( 1982) của
Linda S. Mullenix (Trường Luật - Đại học Texas). Tuy nhiên, đa số các cuốn
sách, bài viết trên chỉ tập trung phân tích các quy định của pháp luật một số
nước về hợp đồng hôn nhân mà chưa đưa ra một hệ thống lý luận chung về
hợp đồng hôn nhân.
Tại Việt Nam, quan niệm hôn nhân là một thiết chế pháp luật được thừa
nhận bởi đa số. Quan niệm hôn nhân là một hợp đồng được thừa nhận bởi một
số ít các nhà nghiên cứu, luật gia. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam không
công nhận hôn nhân là một hợp đồng. Thay vào đó, pháp luật Việt Nam cho
rằng hôn nhân là một thiết chế xã hội, là một liên kết đặc biệt. Tuy nhiên, vào
năm 2014, trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế
giới, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bổ sung quy
8. 8
định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. Điều đó cho thấy, các nhà nghiên cứu, nhà lập pháp cũng
đang từng bước tiếp cận hôn nhân dưới góc độ hợp đồng. Về mặt học liệu, rất
tiếc, hiện tại ở Việt Nam, số lượng các tác phẩm, các công trình nghiên cứu về
hợp đồng hôn nhân còn khá hạn chế. Trong những năm gần đây, sau một số
vụ việc kiện tụng, tranh chấp liên quan đến “hợp đồng tình cảm” được đăng
tải trên báo chí thì vấn đề hôn ước (hợp đồng tiền hôn nhân) được đặt ra và
bàn luận. Lúc này, các nhà lập pháp, nhà nghiên cứu, luật gia, luật sư mới đề
cập nhiều hơn về hợp đồng hôn nhân và cho rằng đã đến lúc pháp luật Việt
Nam cần thừa nhận hợp đồng hôn nhân. Trong giới khoa học pháp lý Việt
Nam, có một số bài viết đề cập đến những vấn đề liên quan đến hợp đồng hôn
nhân như: Một số vấn đề về hôn ước và quan điểm áp dụng ở Việt Nam hiện
nay của TS. Nguyễn Văn Cừ đăng trên Tạp chí Luật học (Trường Đại học
Luật Hà Nội) số 10/2012; Chế định hôn ước trong pháp luật của một số nước
trên thế giới của tác giả Trương Hồng Quang đăng trên Tạp chí Kiểm sát
(Viện Kiểm sát nhân dân tối cao) số 21 năm 2013. Tuy nhiên, các bài viết trên
vẫn né tránh chất hợp đồng của quan hệ hôn nhân. Mặt khác, do ảnh hưởng
của truyền thống văn hóa Việt Nam nên hợp đồng hôn nhân chưa được nghiên
cứu sâu và là một khái niệm còn xa lạ với đại bộ phận người dân.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu tác giả đặt ra cho luận văn này là làm sáng tỏ bản chất pháp lý
của hôn nhân là một hợp đồng, xây dựng khái niệm và chỉ ra các đặc trưng
của hợp đồng hôn nhân. Nhiệm vụ của đề tài là xây dựng được một khái niệm
cơ bản về hợp đồng hôn nhân và phân tích những lý luận chung nhất về hợp
đồng hôn nhân đồng thời đưa ra một số kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014.
9. 9
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu bản chất pháp lý của hôn nhân, khái
niệm, đặc trưng, nội dung và phân loại hợp đồng hôn nhân. Do đây là một vấn
đề pháp lý mới ở Việt Nam nên tác giả nghiên cứu các quy định về hợp đồng
hôn nhân của một số nước trên thế giới để khái quát hóa, trừu tượng hóa
thành hệ thống lý luận về hợp đồng hôn nhân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã vận dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý chuyên ngành
khác để giải quyết những vấn đề lý luận liên quan đến hợp đồng hôn nhân.
Trong đó chú trọng sử dụng phương pháp logic pháp lý, phương pháp lịch sử,
phương pháp phân loại pháp lý và phương pháp tự biện pháp lý.
Tác giả tiếp cận vấn đề nghiên cứu từ góc độ hợp đồng và góc độ hôn
nhân. Bên cạnh việc phân tích làm rõ hôn nhân mang các yếu tố đặc trưng của
một hợp đồng, tác giả cũng phân tích hôn nhân theo các tiêu chí như cách
thức hình thành, các yếu tố tác động, xác lập, duy trì, chấm dứt, các hệ quả...
6. Ý nghĩa khoa học
Luận văn đã xây dựng hệ thống lý luận cơ bản về hợp đồng hôn nhân,
làm sáng tỏ bản chất pháp lý của hôn nhân, đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc xây dựng chế định hợp đồng hôn nhân trong pháp luật Việt Nam.
Với ý nghĩa khoa học như vậy, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hôn
nhân và gia đình trong các cơ sở đào tạo ngành luật.
7. Những điểm mới của luận văn
10. 10
- Một là, làm sáng tỏ bản chất pháp lý của hôn nhân là một hợp đồng;
phân tích làm rõ nội hàm và xây dựng khái niệm “hợp đồng hôn nhân”. Xây
dựng được hệ thống lý luận cơ bản về hợp đồng hôn nhân.
- Hai là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định hợp đồng
hôn nhân trong pháp luật Việt Nam.
- Ba là, đưa ra được các giải pháp cụ thể để áp dụng hợp đồng hôn nhân
tại Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 2 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng hôn nhân.
- Chương 2: Hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Mọi ý kiến góp ý, phản biện và trao đổi về các nội dung có liên quan
đến luận văn xin liên hệ tác giả theo Số điện thoại 0888.11.22.15 hoặc
Email: viettranhp86@gmail.com.
11. 11
Chương 1
Những vấn đề lý luận về Hợp đồng hôn nhân
Hôn nhân, thành tố cơ bản tạo thành nền văn minh của một xã hội, là
một cơ chế tự nhiên có trước khi nhà nước ra đời. Các nhà nước công nhận
hôn nhân chứ không tạo ra hôn nhân. Hôn nhân là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học xã hội như luật học, nhân chủng học, xã hội học, văn
hóa học, thần học...Do đó, trong Chương này, tác giả sẽ nghiên cứu một cách
khái quát nhất về bản chất của hôn nhân nói chung và bản chất pháp lý của
hôn nhân nói riêng. Từ đó, tác giải tiếp cận và giải quyết các vấn đề lý luận
chung nhất về hợp đồng hôn nhân.
1.1. Bản chất pháp lý của hôn nhân
1.1.1. Một số quan niệm về hôn nhân
1.1.1.1. Một số quan niệm pháp lý về hôn nhân
- Hệ thống Common Law
Ở các nước theo hệ thống Common law, định nghĩa về hôn nhân được
đưa ra trong phán quyết về vụ án Hyde & Hyde. Đây là một trường hợp mang
tính bước ngoặt của Tòa di chúc và ly hôn Anh. Trường hợp này được chấp
nhận vào 20/3/1866 bởi thẩm phán Lord Penzance và thiết lập nên định nghĩa
của Common law về hôn nhân.
John Hyde (một Mormon người Anh) đã yêu cầu ly hôn với vợ của ông
ấy là Lavinia vì tội ngoại tình. Sau đó, ông ấy đã rời khỏi Giáo hội và bắt đầu
viết và xuất bản Anti-Mormon material (một tài liệu chống lại Mormon). Đó
là một động thái khiến ông bị Giáo hội trừng phạt. Vợ ông ấy đã rời bỏ ông ấy
và sau đó tái hôn ở Utah Territory. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự
kiện tụng của John Hyde [16].
12. 12
Trích dẫn Warrender v. Warrender, Lord Penzance đã thấy rằng: các
thiết chế ở nước ngoài (bao gồm hôn nhân) không được xem là có hiệu lực
theo English Law trừ phi chúng giống với các thiết chế của Anh. Về hôn
nhân, English Law có thể không thừa nhận chế độ nhiều vợ nhiều chồng hoặc
việc lấy vợ lẽ như là hôn nhân. Bởi vậy, ông ấy thấy rằng: theo truyền thống
văn hóa, Tòa án không có đủ kiến thức để hình thành cơ sở cho các quyết
định của Tòa án. Tòa án đã bác bỏ yêu cầu của Hyde [16].
Thẩm phán Lord Penzance đã tuyên bố: Tôi quan niệm rằng, hôn nhân,
được hiểu theo đạo Cơ đốc, với mục đích này, có thể được định nghĩa như là
sự liên kết tự nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà
[16]. Sau này, định nghĩa trên đã được thừa nhận rộng rãi trong hệ thống
Common Law. Tuy nhiên, theo thời gian, nhận thức về “tính suốt đời” của
hôn nhân có nhiều thay đổi. Ngày nay, vợ chồng có thể ly hôn nếu không
muốn tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân.
Dưới góc độ của người vợ, người chồng, hôn nhân được hiểu là sự liên
kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà để thiết lập một cam kết lâu
dài và riêng biệt cùng nhau được hoàn thành một cách tự nhiên bằng việc sinh
đẻ và nuôi nấng con cái. Nhiều người cho rằng, hôn nhân gồm sự liên kết toàn
diện giữa vợ chồng, mối liên kết đặc biệt với con cái, tiêu chuẩn về tính bền
vững lâu dài, chế độ một vợ một chồng và riêng biệt [15, tr246].
Đối với một số người theo quan điểm xét lại, hôn nhân là sự liên kết giữa
hai người (không phân biệt giới tính) cùng cam kết một tình yêu lãng mạn,
chăm sóc lẫn nhau và chia sẻ gánh nặng cũng như lợi ích trong cuộc sống gia
đình. Bản chất hôn nhân là sự liên kết giữa trái tim và lý chí [15, tr246].
Luật Hôn nhân của New Zealand định nghĩa hôn nhân là sự liên kết giữa
hai người không phân biệt giới tính, thiên hướng tình dục và đặc điểm giới
13. 13
tính của họ [17]. Luật Hôn nhân của Australia quy định: Hôn nhân là sự liên
kết giữa người đàn ông và người đàn bà, tự nguyện ràng buộc suốt đời [25].
Hôn nhân tại Fiji là sự liên kết tự nguyện giữa một người đàn ông và một
người đàn bà [18].
“Notes and Queries on Anthropology” định nghĩa: Hôn nhân là sự liên
kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà, khi đó đứa trẻ sinh ra từ
người đàn bà được thừa nhận là con hợp pháp của hai vợ chồng [23].
Tại Mỹ, quan niệm phổ biến cho rằng: Hôn nhân là một hợp đồng dân sự
giữa hai người [22, RCW 26.04.010] [28]. U. S Code định nghĩa về hôn nhân
như sau: Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa người đàn ông và người đàn bà
(hiện nay Mỹ đã công nhân hôn nhân đồng tính) với tư cách là vợ, chồng
(Sec. 7, Chapter 1, Title 1). California Family Code (Art 300a) định nghĩa:
Hôn nhân là mối quan hệ cá nhân nảy sinh bằng một hợp đồng dân sự giữa
hai người.
- Hệ thống Civil law
Hệ thống Civil law tồn tại quan niệm phổ biến cho rằng hôn nhân là một
hợp đồng. Louisiana Civil Code định nghĩa: Hôn nhân là một mối quan hệ
pháp lý giữa một người đàn ông và một người đàn bà được tạo bởi một hợp
đồng dân sự [34, Art 86]. Các nước như Pháp, Đức, Bỉ và tỉnh bang Québec,
không đưa ra một định nghĩa về hôn nhân trong Bộ luật Dân sự nhưng dành
hẳn một chương quy định về hợp đồng hôn nhân và hợp đồng hôn nhân phải
tuân theo các quy định như đối với hợp đồng.
Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp quy định: Hợp đồng hôn nhân chứa
đựng các thỏa thuận về hôn nhân, điều chỉnh các mối quan hệ vợ chồng, các
thỏa thuận về tài sản mà vợ chồng xác lập khi họ thấy cần thiết (ngoại trừ
những quy định trái với phong tục tốt đẹp và trật tự công). Vợ chồng không
14. 14
thể có bất kỳ thỏa thuận hay từ chối nào làm thay đổi trật tự luật định về thừa
kế. Vợ chồng có thể chỉ rõ luật áp dụng đối với chế độ hôn nhân của họ [32].
Tại Bỉ, hợp đồng hôn nhân được hiểu là một giấy tờ cho phép các cặp vợ
chồng tương lai lựa chọn chế độ hôn nhân đặc biệt. Văn bản này phải được
soạn thảo bởi một công chứng viên. Hợp đồng này cho phép các bên quy định
các mối quan hệ về kinh tế và tài chính giữa vợ chồng, chứng minh sở hữu về
tài sản, xác định cách thức quản lý tài sản của vợ chồng, nghĩa vụ tài chính
của người này với người khác, thiết lập các quy tắc về chia sẻ kinh tế, sự tham
gia của mỗi vợ chồng đối với các khoản nợ do một trong hai bên vợ chồng ký
hợp đồng, thiết lập các quy tắc về số phận tài sản khi chấm dứt hôn nhân hoặc
tặng cho giữa vợ chồng. Vợ chồng không bắt buộc phải ký kết một hợp đồng
hôn nhân [31].
Bộ luật Dân sự tỉnh bang Québec (Canada) quy định: Hợp đồng hôn
nhân cho phép thiết lập tất cả các quy định, ngoại trừ các quy định trái với các
quy định bắt buộc của pháp luật và trật tự công [33].
Bộ luật Dân sự Cộng hòa liên bang Đức quy định: Với việc ký một hợp
đồng hôn nhân, vợ chồng không những có thể quyết định về một chế độ hôn
nhân thỏa thuận mà còn thay đổi những quy định cá nhân về chế độ hôn nhân
riêng biệt [30].
- Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa
Luật Hôn nhân Trung Quốc không đưa ra một định nghĩa về hôn nhân
nhưng quy định hôn nhân được hình thành trên cơ sở sự tự do lựa chọn, bình
đẳng, không bị ép buộc giữa một người đàn ông và một người đàn bà [19].
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đã có các quy định về thỏa thuận tài sản của
vợ chồng (Điều 19 Luật Hôn nhân năm 1980 sửa đổi bổ sung năm 2001).
15. 15
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 quy định: “Hôn nhân là
quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập
quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn
và đăng ký kết hôn”. Pháp luật Việt Nam không thừa nhận hôn nhân là một
hợp đồng dân sự.
Qua việc tìm hiểu một số quan niệm pháp lý về hôn nhân, có thể thấy
rằng, quan niệm pháp lý về hôn nhân rất đa dạng và phong phú. Mỗi hệ thống
pháp luật, trường phái pháp luật có quan niệm khác nhau về hôn nhân. Nhưng
tựu chung lại, các quan niệm về hôn nhân đều thừa nhận hôn nhân có các đặc
trưng sau: (1) Sự liên kết đặc biệt giữa hai người; (2) Sự đồng thuận, thỏa
thuận, ý chí chung của hai bên; (3) Sự tự nguyện, tự do, bình đẳng bày tỏ ý
chí, nguyện vọng; (4) Làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự. Về cơ
bản, các quan niệm đều đề cao sự thiêng liêng, ý nghĩa đặc biệt và vai trò
quan trọng của hôn nhân trong xã hội. Sự khác biệt trong các quan niệm về
hôn nhân nằm ở việc xác định hôn nhân là một hợp đồng hay không phải là
một hợp đồng.
1.1.1.2. Hôn nhân trong Kitô giáo
Trong đời sống hôn nhân, hai người nam và nữ hợp nhất với nhau kiến
tạo mái ấm vững bền, đáp ứng cho nhau nhu cầu sinh lý trong yêu thương, từ
đó sinh ra con cái. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho
nhau, cũng như lợi ích của con cái buộc vợ chồng phải trung tín và đòi hỏi kết
hợp với nhau bất khả phân ly. Chính mục đích này mà trong đời sống hôn
nhân đã được Thánh Kinh trong Sáng Thế Ký xác định và thuật lại, nó xảy ra
trong vườn địa đàng. Lý do tại sao Thiên Chúa phú ban một người nội trợ và
cũng là bạn đường cho người đàn ông, là để nâng đỡ lẫn nhau và để trở nên
bạn đồng hành. "Người nam ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một
16. 16
người trợ tá tương xứng với nó". Vì vậy, Thiên Chúa đã dựng nên một người
nữ. Nhìn thấy người phụ nữ, Adam đã nói: "Phen này, đây là xương bởi
xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" Và Thánh Kinh đã kết luận: "Bởi thế, người đàn
ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt".
Điều đó ngụ ý rằng hôn nhân không chỉ là một sự ràng buộc, nhưng nó là một
thực thể mới, hay là một đời sống mới, một cuộc sống chung với nhau, đã
được cấu tạo và trong thực tế chúng ta không bao giờ có thể tháo gỡ. Sự giúp
đỡ lẫn nhau giữa vợ chồng trong đời sống hôn nhân, không chỉ trong những
khi vui tươi phấn khởi hay là hạnh phúc ngập tràn, mà ngay cả những khi gặp
khốn khó, hoạn nạn hay ưu sầu [12]. Nhìn chung, trong Kitô giáo, hôn nhân
do Chúa sắp đặt, là sự cam kết giữa hai người trước Chúa.
1.1.1.3. Hôn nhân trong Phật giáo
Hôn nhân và gia đình cũng là một vấn đề lớn được Phật Thích Ca giảng
dạy trong kinh điển. Phật giáo không xem hôn nhân như là một bổn phận tôn
giáo mà cũng không phải một lễ ban phước được an bài nơi cõi Trời. Hôn
nhân là một bổn phận cá nhân và xã hội, nó không phải là bắt buộc. Người
đàn ông hoặc người phụ nữ có quyền tự do kết hôn hoặc ở độc thân. Ðiều này
không có nghĩa là Phật giáo chống lại hôn nhân.
Một xã hội phát triển qua một mạng lưới của những mối quan hệ có mối
liên kết và hỗ tương lẫn nhau. Mỗi mối quan hệ là một sự cam kết chân thành
để hỗ trợ và bảo vệ những người khác trong một nhóm hoặc một cộng đồng.
Hôn nhân đóng một vai trò quan trọng trong mạng lưới của những mối quan
hệ đem lại sự hỗ trợ và bảo vệ. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp cần phải nuôi
dưỡng và phát huy dần dần từ sự hiểu biết chứ không phải bốc đồng, từ lòng
chân thành thật sự chứ không phải là sự thỏa mãn nhất thời. Tập quán hôn
nhân mang lại một nền tảng tốt đẹp cho sự phát triển văn hóa, một sự kết hợp
17. 17
đầy thú vị giữa hai cá nhân được chăm sóc và thoát khỏi cô đơn, mất mát và
sợ hãi. Trong hôn nhân, người này phát huy một vai trò kết hợp hài hòa, đem
lại sức mạnh và dũng khí cho người kia, mỗi người thể hiện sự nhận thức đầy
thông cảm và giúp đỡ người khác trong việc chăm sóc và cung cấp cho gia
đình. Ðừng có ý tưởng cho là đàn ông hoặc đàn bà là kẻ cả - người này kết
hợp hài hòa với người kia, hôn nhân là một sự kết hợp bình đẳng, dịu dàng,
bao dung, và an vui [24].
1.1.1.4. Hôn nhân trong Hồi giáo
Hôn nhân trong Hồi giáo được gọi là Fâtiha hay Nikâh tùy thuộc vào
mỗi cộng đồng Hồi giáo trên thế giới. Hôn nhân, theo pháp luật Hồi giáo, là
một hợp đồng song phương, theo đó, hai người thỏa thuận quyền và nghĩa vụ
của họ đối với nhau. Sự tương hợp và giống nhau về ý nghĩ và nhu cầu của
người chồng và người vợ là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công
của hôn nhân [26]. Trong thế giới Ả Rập, quan niệm về hôn nhân đã có bước
ngoặt quan trọng, theo đó, đề cao uy tín, sự thừa nhận và chấp thuận giữa hai
người, đặc biệt là cô dâu. Hôn nhân được xem như là hợp đồng xã hội và kinh
tế giữa hai gia đình [21].
Ngày nay, quan niệm về hôn nhân và bản chất của hôn nhân có sự thay
đổi mạnh mẽ. Hôn nhân ngày nay không còn chỉ được hiểu theo nghĩa truyền
thống như trước đây. Ví dụ như: Nếu như trước kia hôn nhân chỉ được công
nhận giữa những người khác nhau về giới tính thì nay hôn nhân giữa những
người cùng giới tính cũng được công nhận. Đồng thời, hôn nhân không chỉ
được hiểu như là một thiết chế pháp luật mà còn được xem xét dưới góc độ
một hợp đồng. Việc thay đổi quan niệm về hôn nhân đã đem lại cho hôn nhân
sự sáng tạo, đa dạng và khả năng thích nghi. Theo quan điểm cá nhân của tác
giả, hôn nhân là một hợp đồng được giao kết trên cơ sở sự tự do, tự nguyện,
18. 18
đồng thuận, bình đẳng giữa hai người, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
dân sự.
Cũng xin lưu ý thêm rằng, hôn nhân là một hiện tượng xã hội chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của chính trị, kinh tế - xã hội, lịch sử. Quan niệm về hôn
nhân vận động và phát triển qua từng thời kỳ của lịch sử loài người và phải
phù hợp với xu thế tiến bộ của xã hội. Những quan điểm, quan niệm lỗi thời
về hôn nhân sẽ được xem xét loại bỏ (như quan niệm “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy” trong xã hội phong kiến, chế độ hôn nhân đa phu đa thê của một số
nước Hồi giáo…). Trong phạm vi của đề tài này, tác giả không đi sâu nghiên
cứu lịch sử hình thành và phát triển của hôn nhân (đây là đối tượng nghiên
cứu của các đề tài khác về hôn nhân) cũng như không đề cập đến các quan
điểm hôn nhân đã lỗi thời mà nghiên cứu, phân tích các quan niệm hôn nhân
phù hợp với xu thế tiến bộ của xã hội. Có nghĩa là, tập quán “cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy” hay chế độ hôn nhân “đa phu đa thê” không được xem là những
đặc trưng của hôn nhân.
1.1.2. Bản chất của hôn nhân
Hôn nhân là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học thuộc lĩnh
vực xã hội - nhân văn. Chính vì lẽ đó, bản chất của hôn nhân được tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau. Với mỗi cách tiếp cận ta sẽ có cái nhìn khác
nhau về hôn nhân. Sau đây, tác giả sẽ tìm hiểu về bản chất hôn nhân dưới góc
độ nhân học, triết học và pháp lý.
1.1.2.1. Bản chất hôn nhân dưới góc nhìn nhân học
TS. Đặng Thị Kim Oanh, trong bài viết “Đặc tính của hôn nhân từ
những dữ liệu nhân học” đăng trên Tạp chí phát triển Khoa học & Công
nghệ, tập 9, số 3-2006, cho rằng: Hôn nhân là việc kết hợp tính giao giữa nam
và nữ, nhưng không ở đâu, bất kỳ quốc gia nào, dù là khác nhau về chế độ
19. 19
chính trị xã hội, lại đồng nhất hôn nhân với quan hệ tính giao. Hôn nhân đáp
ứng một trong những yêu cầu cơ bản của nhân lọai là tái sản xuất con người.
Khi cơ thể trưởng thành, bản năng tình dục của con người sẽ thúc dục hai
giống tính khác nhau xích lại gần nhau để sinh sản, bảo tồn nòi giống và, do
đó, hình thành mối giây tử hệ (filiation) mà trong đó con cháu được thừa
hưởng (di truyền) di sản sinh lý của cả cha và mẹ. Không ai thay đổi được
điều tự nhiên ấy. Đứng trước tử hệ những yếu tố nhân văn-xã hội của con
người phải nhường ưu thế định đọat cho sinh lý tự nhiên. Nhưng quan hệ giới
tính (mating) để sinh sản ra con người theo nghĩa sinh vật thì không cần có
hôn nhân cũng vẫn thực hiện được. Hôn nhân không đồng nghĩa với quan hệ
giới tính ở chỗ hôn nhân đem lại ý nghĩa xã hội - văn hóa cho quan hệ giới
tính. Trong hôn nhân, không phải với bất kỳ ai cũng có thể xích lại gần. Hôn
nhân giới hạn và xác định những người đàn ông, đàn bà nào được phép hay
không được phép lấy nhau làm vợ hay chồng. Sự giới hạn ấy hoàn toàn do
yếu tố văn hóa chi phối, không phụ thuộc vào yếu tố sinh lý tự nhiên.
Trong “Nhân học, một quan điểm về tình trạng nhân sinh”của Emily A.
Schultz và Robert H. Lavenda, do nhà xuất bản Mayfield (USA) phát hành
năm 2001, thì viết: “Một hôn nhân mẫu đòi hỏi phải có một người nam và
một người nữ và quy định mức độ quan hệ tính giao các thành viên trong hôn
nhân có thể có với nhau, xếp từ quan hệ độc quyền đến quan hệ ưu tiên. Hôn
nhân cũng tạo nên tính hợp pháp của con cái do người vợ sinh ra và thiết lập
các mối quan hệ giữa họ hàng bên vợ và họ hàng bên chồng”.
E. Adamson Hoebel, trong công trình Nhân chủng học khoa học về con
người, do nhà xuất bản Mc Graw.Hill (USA) phát hành năm 2007 cho rằng:
“Hôn nhân là một phức hợp của các tiêu chuẩn xã hội, nó định nghĩa và kiểm
soát những quan hệ của một cặp vợ chồng đối với nhau, đối với thân quyến,
con cái, và với xã hội nói chung”.
20. 20
Như vậy, dưới góc độ nhân học, bản chất của hôn nhân là quan hệ tính
giao mang ý nghĩa văn hóa - xã hội. Hôn nhân được hình thành trên cơ sở bản
năng giới tính của con người và chịu sự chi phối của các yếu tố văn hóa - xã
hội. Hôn nhân tạo ra sự ràng buộc giữa hai cá thể và hình thành nên một hệ
thống các mối quan hệ xã hội mới. Mục đích của hôn nhân là sinh sản và duy
trì nòi giống. Việc lựa chọn người kết hôn do thiên hướng tình dục và giá trị
văn hóa và xã hội của mỗi người quyết định.
1.1.2.2. Bản chất hôn nhân dưới góc nhìn triết học
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước”, Ăngghen cho rằng: Khi chế độ tư hữu xuất hiện, mẫu quyền bị sụp đổ
và cùng với đó là bước chuyển sang chế độ thừa kế theo hệ cha. Thông qua
hình thức trung gian của hình thái gia đình gia trưởng, chế độ hôn nhân cá thể
và gia đình một vợ một chồng đã xuất hiện và duy trì cho đến tận ngày nay.
Tuy nhiên, khi chế độ hôn nhân cá thể mới xuất hiện, theo Ph.Ăngghen, nó
tuyệt nhiên không phải là “kết quả của tình yêu cá nhân giữa trai và gái” và
cũng tuyệt nhiên “không dính dáng gì đến thứ tình yêu này cả”, không phải là
“sự liên kết hoà hợp giữa đàn ông và đàn bà, và càng không phải là hình thức
liên kết cao nhất” mà trái lại, “nó thể hiện ra là một sự nô dịch của giới này
đối với giới kia, là việc tuyên bố sự xung đột giữa hai giới, sự xung đột mà
người ta chưa từng thấy trong suốt thời kỳ tiền sử”. Trong xã hội tư sản, trong
các giai cấp bị áp bức, trước hết là giai cấp vô sản, đang hình thành những
cuộc hôn nhân mà trong đó, tình cảm yêu thương và kính trọng lẫn nhau giữ
vai trò quyết định. Đó là sự liên kết tự nguyện của những con người bình
đẳng. Ph.Ăngghen khẳng định: Trong lý thuyết đạo đức cũng như trong thơ
ca, không một quan niệm nào được xác lập bất di bất dịch và vững chắc bằng
quan niệm cho rằng bất cứ cuộc hôn nhân nào không dựa trên tình thương
21. 21
yêu lẫn nhau và trên sự thỏa thuận thật sự tự do giữa hai vợ chồng đều là vô
đạo đức cả.
Ăngghen cho rằng, khi các tư liệu sản xuất được chuyển thành tài sản xã
hội thì “gia đình cá thể sẽ không còn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa” và
“nền kinh tế gia đình tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội”, “việc
nuôi dạy con cái trở thành công việc của xã hội”. Khi đó, “một thế hệ mới sẽ
lớn lên: một thế hệ đàn ông không bao giờ phải dùng tiền hoặc dùng những
phương tiện quyền lực xã hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà, và
một thế hệ đàn bà không bao giờ phải hiến mình cho đàn ông vì một lý do nào
khác ngoài tình yêu chân chính, hoặc phải từ chối không dám hiến mình cho
người yêu vì sợ những hậu quả kinh tế của sự hiến thân đó” [3]. Như vậy,
Ăng ghen khẳng định hôn nhân là những giá trị cao quý của con người, nền
tảng của hôn nhân là tình yêu, tình thương thực sự giữa hai người.
Hôn nhân là sự tạo lập cuộc sống chung giữa hai người, cuộc sống chung
này bao gồm những thành phần vật chất: ở chung trong một ngôi nhà, cùng
hưởng thụ những giá trị vật chất, cùng đóng góp những vật chất để duy trì
cuộc sống chung, cùng nhau tạo ra những vật chất. Hôn nhân hình thành trên
cơ sở tình yêu do một sự ngẫu hợp của hoàn cảnh, họ ngẫu nhiên gặp nhau và
khi cảm thấy hợp nhau, yêu nhau và lấy nhau. Từ hai người xa lạ, họ hợp lại
thành một gia đình. Từ một tình yêu mạnh mẽ, họ đối xử với nhau như đối xử
với chính bản thân mình, chia vui sẻ buồn cùng nhau, chăm sóc nhau những
lúc ốm đau, che trở và bảo vệ nhau. Từ sự kết hợp của hai tâm hồn dẫn đến sự
kết hợp của hai thể xác. Hôn nhân không phải là một hình thức thoả mãn sự
khoái cảm của xác thịt mà là tình yêu thương nồng nhiệt, sự kết hợp hoàn hảo
và đầy đủ của lí trí lẫn trái tim.
22. 22
Đối với loài người, hôn nhân là một tất yếu khách quan được hình thành
từ bản chất tự nhiên của con người. Đó là sự kết hợp ngẫu nhiên giữa hai cá
thể người. Hôn nhân cũng có quá trình vận động và phát triển từ thấp đến cao,
từ chế độ quần hôn đến chế độ hôn nhân “một vợ một chồng”. Hôn nhân là
một quá trình biến đổi về chất và lượng giữa hai cá thể. Đời sống hôn nhân
đem lại cho các cá thể những nhận thức mới và sự thay đổi. Hôn nhân không
chỉ có mối quan hệ giữa vợ và chồng mà nó còn là một phức hợp các quan hệ
xã hội. Sự hình thành, duy trì và chấm dứt hôn nhân luôn được đặt trong mối
liên hệ phổ biến với các hiện tượng xã hội khác.
1.1.2.3. Hôn nhân dưới góc nhìn pháp lý
Nhìn từ góc độ pháp lý, cuộc sống của con người trong xã hội được tạo
lập nên bởi các hợp đồng. Hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong quá trình
vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản của sự trao đổi
hàng hóa trong xã hội. Xã hội càng phát triển, hợp đồng ngày càng được sử
dụng như là một chuẩn mực ứng xử phổ biến. Một trong những quan niệm về
hợp đồng phổ biến được nhiều người thừa nhận đó là: Hợp đồng là thỏa thuận
tạo ra nghĩa vụ trên cơ sở trao đổi và thống nhất ý chí giữa ít nhất hai bên [6].
Hôn nhân, dưới góc độ pháp lý, cũng là một loại hợp đồng.
- Hôn nhân là một thỏa thuận
Trong khoa học pháp lý, thỏa thuận là sự hòa hợp ý chí giữa hai bên (cá
nhân hoặc tổ chức) và dẫn đến các hậu quả pháp lý [35]. Có bốn điều kiện để
một thỏa thuận có hiệu lực: sự ưng thuận của các bên, năng lực giao kết, có
một đối tượng cụ thể và có nguyên nhân hợp pháp hình thành nghĩa vụ. Có
thể thấy, hôn nhân mang trong nó đầy đủ các yếu tố của một thỏa thuận.
Ngay từ thuở sơ khai của loài người, hôn nhân được hình thành trên cơ
sở bản năng giới tính và nhu cầu sinh sản, duy trì nòi giống. Lúc này, sự ưng
23. 23
thuận bị che giấu bởi bản năng giới tính của con người. Khi đó, một hoặc
nhiều cá thể người chung sống với một hoặc nhiều cá thể người khác giới tính
để săn bắt chung, hái lượm chung và bảo vệ nhau trước tự nhiên. Hôn nhân là
một hình thức tập hợp, đoàn kết giữa các cá thể người để cùng giải quyết
những vấn đề của cuộc sống.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giữa người với người hình thành nên
một thứ gọi là “tình cảm”, “tình yêu”. Theo thời gian, hai cá thể người không
chỉ chung sống với nhau vì quan hệ tính giao hay đối phó với tự nhiên mà còn
vì tình yêu. Bản chất của tình yêu là hấp dẫn về giới tính và sự tương hợp về
các nhận thức và nhu cầu xã hội. Tình yêu mang tính tự nguyện. Một tình yêu
chỉ có thể được xây dựng khi hai cá thể tự nguyện, tự do tìm hiểu. Khi đó,
hôn nhân không chỉ hướng tới mục đích quan hệ tính giao mà còn là nhu cầu
chăm sóc, bảo vệ và che chở cho nhau cũng như hưởng thụ các giá trị của
cuộc sống. Trong xã hội hiện đại, hôn nhân không chỉ được hình thành trên cơ
sở bản năng giới tính, tình yêu mà còn được hình thành trên cơ sở các yếu tố
kinh tế. Với những cuộc hôn nhân không được hình thành trên cơ sở tình yêu,
hai bên đều nhận thức được rằng họ không có tình cảm với nhau và họ nhất trí
rằng cuộc hôn nhân chỉ mang tính tạm thời và là “bình phong” che giấu cho
mục đích thực sự của các bên.
Như vậy, dù hình thành trên cơ sở nào thì hôn nhân, trước hết, phải là sự
thống nhất, hòa hợp ý chí giữa hai bên. Giữa hai cá thể người chỉ hình thành
hôn nhân nếu có những nhu cầu chung, những điểm tương đồng và khi họ
muốn kết hôn với nhau.
Ngày nay, trước khi kết hôn các bên đã trải qua một quá trình tìm hiểu
và đi đến thống nhất về các vấn đề như: thời điểm kết hôn, cách thức tổ chức
hôn lễ, nơi ở chung của hai người sau khi kết hôn; việc sinh sản, chăm sóc và
24. 24
giáo dục con cái; tài sản chung và tài sản riêng của mỗi người, chuẩn bị các
điều kiện kinh tế để lo cho cuộc sống chung sau này…Những điều này chắc
chắn không thể do ý chí đơn phương của một bên quyết định. Việc họ đồng ý
lấy nhau, đó cũng là kết quả của một quá trình thỏa thuận. Họ tìm hiểu lẫn
nhau và trao đổi với nhau về những vấn đề mình quan tâm để tìm kiếm sự phù
hợp và tương thích về nhu cầu. Quá trình đó cứ lặp đi lặp lại cho đến khi cả
hai bên tìm thấy được đối tượng mà mình mong muốn và họ cảm thấy hòa
hợp với nhau trong các vấn đề quan trọng. Theo phong tục tại nhiều nước,
trước khi kết hôn thường sẽ có một bên cầu hôn bên kia (đây được xem như là
một đề nghị giao kết hợp đồng). Nếu bên còn lại đồng ý thì tức là họ đã thiết
lập nên một thỏa thuận chấp nhận các ưu nhược điểm của nhau, đáp ứng các
nhu cầu về tinh thần và vật chất cho nhau, chấp nhận là vợ là chồng của nhau.
Hôn nhân là tất yếu khách quan đối với loài người nhưng không phải là
bắt buộc đối với mỗi cá thể người và không phải cá thể người nào cũng có thể
kết hôn. Chỉ những cá thể người phát triển “con người sinh học” đến một giai
đoạn nhất định mới hình thành những xúc cảm về giới tính và “con người xã
hội” phát triển đến một giai đoạn nhất định mới hình thành nên tình yêu. Đó
gọi là khả năng kết hôn. Do vậy, để xảy ra hôn nhân, các bên phải có năng lực
kết hôn.
Cơ sở hình thành hôn nhân cũng chính là các điều kiện duy trì hoặc
chấm dứt hôn nhân. Bên cạnh đó, việc duy trì và chấm dứt hôn nhân còn chịu
ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa - xã hội. Đó là: nhu cầu tình dục, nhu cầu
tình cảm, nhu cầu về kinh tế và các nhu cầu xã hội. Muốn duy trì hôn nhân
các bên phải giữ gìn sự tương hợp trong các nhu cầu trên. Đó là quá trình học
hỏi, trao đổi lẫn nhau. Khi hai người không thể tìm được tiếng nói chung
trong một hoặc tất cả các nhu cầu trên thì hôn nhân có thể chấm dứt.
25. 25
Trong quá trình chung sống, giữa vợ và chồng có rất nhiều các thỏa
thuận về quản lý, chăm sóc và giáo dục con cái; về tham gia vào các giao dịch
dân sự phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày; về kinh tế gia đình. Mọi
việc trong gia đình phải có sự bàn bạc, thỏa thuận giữa vợ và chồng (kể cả
việc giao cho một trong hai người tự ý quyết định thì đó cũng là một thỏa
thuận). Khi không đạt được sự thống nhất giữa vợ và chồng thì vợ chồng sẽ
gặp khó khăn trong duy trì và vận hành gia đình chung. Nói đơn giản như việc
sinh con, nếu không có sự nhất trí của hai vợ chồng thì không thể có những
đứa con chung. Đến một thời điểm nào đó, khi sự bất đồng lớn lên và trở
thành mâu thuẫn đến mức không thể giải quyết được thì hôn nhân sẽ chấm
dứt bằng việc ly hôn. Như vậy, nếu không có sự hòa hợp ý chí, sự thỏa thuận
thống nhất thì hôn nhân không thể tồn tại. Hôn nhân là một chuỗi các thỏa
thuận từ trước khi kết hôn cho đến khi kết thúc.
Quan niệm hôn nhân là một thỏa thuận được pháp luật của nhiều quốc
gia thừa nhận: Bộ luật Dân sự Pháp, Đức, Bỉ và Québec (Canada) dùng từ
giao kết (Contracter) chỉ việc kết hôn [32, Art. 148] [31, Art. 143] [33, Art.
365] và việc thiết lập một thỏa thuận [32, Art. 1108], một hợp đồng [32, Art.
1123]. Bộ luật Dân sự Pháp dùng khái niệm “les conventions matrimoniales”
để chỉ về các thỏa thuận hôn nhân [32, Art. 1394]. Đồng thời quy định Hợp
đồng hôn nhân điều chỉnh các mối quan hệ vợ chồng, các thỏa thuận về tài
sản mà vợ chồng xác lập khi họ thấy cần thiết, ngoại trừ những quy định trái
với phong tục tốt đẹp và trật tự công [32, Art. 1387].
Đặc điểm này của hôn nhân cũng được Ph.Ăngghen khẳng định: “Trong
lý thuyết đạo đức cũng như trong thơ ca, không một quan niệm nào được xác
lập bất di bất dịch và vững chắc bằng quan niệm cho rằng bất cứ cuộc hôn
nhân nào không dựa trên sự thoả thuận thật sự tự do giữa hai vợ chồng, đều
là vô đạo đức cả” [2, tr. 126]. Ông cũng viết: “Hệ thống pháp luật của các
26. 26
nước văn minh hiện đại ngày càng thừa nhận rằng, một là, hôn nhân muốn có
giá trị, phải là một giao kèo do hai bên tự nguyện ký kết, và hai là, suốt trong
thời gian kết hôn với nhau, cả hai bên đều phải có những quyền lợi, những
nghĩa vụ như nhau đối với nhau” [2, tr. 114].
Từ sự phân tích trên có thể thấy, hôn nhân là một thỏa thuận. Tính thỏa
thuận được thể hiện qua nguồn gốc, cơ sở hình thành, các điều kiện duy trì và
chấm dứt hôn nhân.
- Hôn nhân được thiết lập trên nguyên tắc tự nguyện, tự do, bình đẳng,
sự ưng thuận của cả hai bên.
Về cơ bản, hôn nhân được hình thành trên cơ sở tình yêu mặc dù trong
xã hội hiện đại, cơ sở hình thành hôn nhân còn có thể là các yếu tố khác như:
nhu cầu sinh lý, tiền bạc. Chính vì nhu cầu yêu thương, chia sẻ, chăm sóc lẫn
nhau, hưởng các lợi ích hoặc nhu cầu đạt được các mục đích khác nên họ mới
xuất hiện nhu cầu thiết lập một hôn nhân. Và nhu cầu đó phải xuất phát từ cả
hai bên, tức là hai bên phải có nhu cầu giống nhau, nhận thấy bên kia có thể
đáp ứng được nhu cầu của mình. Khi đó các bên có thể kết hôn với nhau. Nếu
chỉ có nhu cầu của một phía thì không thể có hôn nhân. Bởi lẽ, hôn nhân
không phải là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các cá nhân. Cá nhân có thể kết
hôn và cũng có thể sống độc thân. Do đó, trước hết, cả hai bên phải tự
nguyện, ưng thuận thì hôn nhân mới xảy ra. Tức là, mỗi cá nhân tự mình
muốn kết hôn, tự do lựa chọn người phối ngẫu theo mong muốn của mình và
đồng ý thiết lập hôn nhân với người đó. Vì thế họ bình đẳng với nhau. Tuy
nhiên, sự tự do, tự nguyện không được đi đi quá giới hạn mà nhà nước đặt ra
đó là: trật tự công cộng và phong tục tốt đẹp. Bởi vì, sự vi phạm giới hạn này
có thể phá vỡ sự ổn định của xã hội.
27. 27
Vậy, đối với các trường hợp kết hôn giả tạo thì nguyên tắc này có đúng
hay không khi về mặt pháp lý, hôn nhân đó vẫn là hôn nhân hợp pháp nếu
không chứng minh được sự giả tạo? Theo tác giả, suy cho cùng đó vẫn là sự
tự nguyện, tự do và ưng thuận. Vì họ tự nguyện chấp nhận sự giả tạo này.
Mục đích họ mong muốn đạt được từ hôn nhân không phải là tình yêu, tình
cảm, xây dựng gia đình chung mà là lợi ích vật chất hoặc các lợi ích khác,
nhu cầu khác. Và rõ ràng rằng đây không phải là hôn nhân theo đúng nghĩa tự
nhiên của nó.
Cần nói thêm rằng, nguyên tắc này là phù hợp với lẽ tự nhiên của con
người. Tuy nhiên, nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố như chính trị,
kinh tế - xã hội, tôn giáo và nhận thức cá nhân. Đặc biệt là trong chế độ chiếm
hữu nô lệ và chế độ phong kiến. Theo đó, nhà nước phong kiến không cho
người phụ nữ có quyền tự do kết hôn vì vậy người phụ nữ và người đàn ông
phải chấp nhận những gì mà cha mẹ sắp đặt. Và trong nhận thức của họ, họ
cho rằng làm như vậy là hợp đạo lý.
Loài người đã trải qua rất nhiều hình thái kinh tế - xã hội và hôn nhân
cũng vận động và phát triển theo sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội. Hegel từng nói: “Cái gì tồn tại thì hợp lý, cái gì hợp lý thì tồn tại”. Ngày
nay, sự ép buộc theo kiểu cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đã không được thừa
nhận rộng rãi và không được pháp luật quy định (nó chỉ còn tồn tại trong tư
tưởng có một số nhóm người). Sự ép buộc trong hôn nhân mất đi bởi đó là xu
thế tất yếu của xã hội và nó không còn phù hợp với hôn nhân. Xã hội hiện đại
đòi hỏi hôn nhân phải tự nguyện, tự do, bình đẳng. Và có thể đến một thời kỳ
nào đó của xã hội loài người, chúng ta lại đặt ra một nguyên tắc khác cho hôn
nhân. Theo tác giả, đến một lúc nào đó chúng ta có thể sẽ phải xem xét đến
việc hôn nhân giữa một thể nhân với một robot hoặc búp bê.
28. 28
Trở lại với vấn đề, nguyên tắc về sự ưng thuận trong hôn nhân đã được
ghi nhận trong pháp luật La Mã cổ đại: Vào giai đoạn cuối của nền Cộng hòa,
theo sự phát triển của tục lệ, hôn nhân cum manu dần bị thay thế bằng sine
manu, một hình thức hôn nhân dựa trên sự ưng thuận, dễ thiết lập mà cũng dễ
chấm dứt [8]. Các nguyên tắc này trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới
như: Trung Quốc [19, Art. 2- Art. 5], Việt Nam [11, Điều 2], Pháp [32,
Art.148-Art.164], Bỉ [31, Art .146-Art. 148].
Ph.Ăngghen viết: “Kết hôn vì tình yêu đã được tuyên bố là quyền của
con người; hơn nữa, không những là droit de l’homme (quyền của người đàn
ông), mà còn là - đây là ngoại lệ - droit de la femme (quyền của người đàn
bà)” [2, tr 126]. Phân tích tình trạng hôn nhân và quan niệm về tình yêu trong
xã hội tư bản, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, để có được tình yêu và hôn nhân thực sự
tự do, trước hết cần phải xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xoá bỏ mọi
sự áp bức, bóc lột, bởi đây chính là cơ sở dẫn đến sự mất tự do trong tình yêu
và hôn nhân. Ông cho rằng, trong một xã hội mà tình yêu và hôn nhân còn “bị
chi phối bởi những ảnh hưởng kinh tế” thì không thể có được tình yêu và hôn
nhân thực sự tự do, nếu có chăng thì đó cũng chỉ là những trường hợp ngoại
lệ. Do vậy, theo ông, để “cho quyền hoàn toàn tự do kết hôn được thực hiện
đầy đủ và phổ biến” thì cần phải “xoá bỏ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và
các quan hệ tài sản do nền sản xuất ấy tạo ra, phải gạt bỏ được tất cả những
lý do kinh tế, - những lý do phụ - hiện vẫn ảnh hưởng rất lớn đến việc chọn vợ
kén chồng”. Chỉ đến lúc ấy, theo ông “mới không còn động cơ nào khác,
ngoài tình thương yêu lẫn nhau” [3].
Từ năm 1888 Tòa án tối cao Mỹ đã xác định hôn nhân là quyền cơ bản
của mỗi cá nhân thông qua một số án lệ, đó là: Skinner v. Oklahoma ex rel.
Williamson (1942), Griswold v. Connecticut (1965), Loving v. Virginia
(1967), Boddie v. Connecticut (1971), Cleveland Board of Education v.
29. 29
LaFleur (1974), Moore v. City of East Cleveland (1977), Carey v. Population
Services International (1977), Zablocki v. Redhail (1978), Turner v. Safley
(1987), Planned Parenthood of Southeastern Pennsylvania v. Casey (1992),
M.L.B. v. S.L.J (1996), Lawrence v. Texas (2003). Những án lệ này đã khẳng
định quyền tự do lựa chọn của cá nhân về hôn nhân, hôn nhân là một quyền
dân sự cơ bản của con người.
Điều 16 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền cũng ghi nhận: Nam và nữ
trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn
chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình
đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn. Hôn nhân chỉ có thể
tiến hành khi cả hai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự.
- Hôn nhân tạo ra các quyền và nghĩa vụ dân sự
Dưới góc độ kinh tế-xã hội, hôn nhân là một quá trình mà trong đó hai
bên liên quan phải thực hiện một chuỗi các quyền lợi và nghĩa vụ với nhau.
Khi hôn nhân được thiết lập, hai người sẽ tham gia vào một quan hệ mới là
quan hệ giữa vợ và chồng. Lúc này, hai chủ thể mới được hình thành sẽ có
các quyền và nghĩa vụ ràng buộc lẫn nhau để đảm bảo đáp ứng được mục đích
của hôn nhân. Trước tiên họ sẽ phải chung thủy, tôn trọng lẫn nhau, yêu cầu
nhau phải giữ gìn tình yêu giữa hai người (đây là các nghĩa vụ đạo đức).
Đồng thời họ phải thiết lập các quy tắc cho cuộc sống chung như cách ứng xử
giữa vợ và chồng; giữa vợ, chồng với gia đình nhà vợ hoặc nhà chồng. Cũng
từ hôn nhân họ có các quyền và nghĩa vụ đối với nhau như quyền hưởng thừa
kế, nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, đáp ứng nhu cầu tình dục.
Trong quá trình chung sống họ phải cùng nhau duy trì, vận hành cuộc
sống chung. Điều đó buộc họ phải tạo lập nên các tài sản cùng nhau (dù ít
hoặc nhiều) và thiết lập các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản đó. Để duy trì
30. 30
và vận hành gia đình, họ có thể sẽ phải kinh doanh hoặc vay nợ, khi đó sẽ
hình thành nên nghĩa vụ và quyền của họ đối với bên thứ ba như quyền hưởng
cổ tức từ vốn góp hay nghĩa vụ trả nợ. Khi hai vợ chồng sống chung họ phải
cùng nhau chịu trách nhiệm về thuế đối với nhà nước. Ngoài ra, hôn nhân còn
tạo nên hệ thống các mối quan hệ mới, đó là quan hệ giữa chồng với họ hàng
của vợ và ngược lại. Từ đó tạo nên cơ sở để xác định tư cách pháp lý của các
thành viên trong dòng họ đối với việc thừa kế. Do vậy, tác giả cho rằng, hôn
nhân là cách thức liên minh xã hội hoàn hảo nhất. Nhờ hôn nhân mà một gia
đình có thể xây dựng mối liên hệ với một gia đình khác.
Hôn nhân còn tạo ra những đứa trẻ. Một đứa trẻ được sinh ra là kết quả
của quan hệ giới tính nhưng chế độ hôn nhân sẽ xác định cụ thể quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ trong việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ đứa trẻ đó cũng
như quyền thừa kế những quyền lợi về kinh tế và xã hội. Trong mối quan hệ
giữa cha mẹ và con cái, hai bên có quyền đòi hỏi lẫn nhau về quyền lợi, nghĩa
vụ và trách nhiệm liên quan đến địa vị xã hội, tài sản.
Pháp luật các nước đều có các chương riêng để quy định về những nghĩa
vụ sinh ra từ hôn nhân cũng như các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
nhau. Điều đó cho thấy, hôn nhân là tạo ra các quyền và nghĩa vụ dân sự. Có
một số quan điểm cho rằng: Quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng không phải
sinh ra từ hôn nhân mà do pháp luật quy định. Theo tác giả, quan niệm trên là
không chính xác. Bởi lẽ: Hôn nhân tồn tại trước khi nhà nước và pháp luật ra
đời. Hơn nữa, pháp luật được xây dựng trên cơ sở thực tiễn, dù có hay không
có pháp luật thì những quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng vẫn tồn tại một
cách tự nhiên. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, hôn nhân là một hợp đồng. Kết
luận này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tiếp cận nghiên cứu về hợp đồng
hôn nhân. Đây là cơ sở để đặt ra vấn đề hợp đồng hôn nhân.
31. 31
1.1.3. Hệ quả của việc xác định bản chất pháp lý của hôn nhân
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, bản chất của hôn nhân là một hợp đồng.
Từ kết luận trên, tác giả xin rút ra một số hệ quả pháp lý sau: (1) Hôn nhân có
thể được xác lập, thay đổi bằng một hợp đồng dân sự; (2) Nội dung của hợp
đồng hôn nhân do các bên thỏa thuận miễn là không trái với trật tự công cộng
và đạo đức xã hội; (3) Các quy định về hợp đồng hôn nhân có thể được pháp
điển hóa trong Bộ luật Dân sự; (4) Những người có nhu cầu kết hôn với nhau
hoặc những người đã là vợ, chồng của nhau có thể là chủ thể của hợp đồng;
(5) Lời cầu hôn được xem như một đề nghị giao kết hợp đồng; (6) Lời chấp
nhận kết hôn được xem như là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ này, tác giả không thể giải quyết hết
được những vấn đề pháp lý nêu trên. Sau đây, tác giả chỉ trình bày sơ lược về
hai vấn đề chính là: lời cầu hôn và lời chấp nhận lời cầu hôn.
Về lời cầu hôn: Các học thuyết pháp lý trên thế giới có nhiều quan điểm
khác nhau về hiệu lực của đề nghị. Nhìn chung, theo quan niệm của đa số các
học giả trên thế giới, đề nghị có thể bị hủy bỏ nếu hủy bỏ được đưa tới người
được đề nghị trước khi người được đề nghị chấp nhận [6, trang 249]. Quan
niệm khác lại cho rằng: Đề nghị giao kết hợp đồng chỉ cho người được đề
nghị khả năng ký kết hợp đồng bằng cách chấp nhận nó đồng thời cho phép
bên đề nghị thay đổi, hủy ngang hay thu hồi đề nghị trong mọi thời điểm mà
không phải chịu trách nhiệm gì [6, trang 254].
Theo tác giả, lời cầu hôn có thể rút lại bất kỳ lúc nào trước khi hai bên
giao kết hợp đồng. Bởi lẽ, theo học thuyết “consideration”, các thành tố của
thỏa thuận bao gồm: đề nghị, chấp nhận, “something in return”. Consideration
là sự trao đổi hoặc thỏa thuận. Là vấn đề trung tâm trong Luật Hợp đồng của
Common Law. Theo lý thuyết “Consideration” là yêu cầu đề một hợp đồng có
32. 32
hiệu lực. Có hai học thuyết chính về vấn đề này: Thuyết “Benefit-Detriment”
và thuyết “Bargain”. Trong lý thuyết hợp đồng hiện đại, thuyết Bargain đã
thay thế thuyết “Benefit-Detriment”.
Theo lý thuyết “Consideration”: Khi một bên có thỏa thuận hứa hẹn làm
một việc gì đó , người đó phải kiếm lại được một điều gì đó. “Something in
return”. Là những gì một người hứa đòi hỏi như là cái giá cho lời hứa của anh
ta. Hiểu một cách đơn giản, đó là lợi ích nhận được từ một bên của hợp đồng
được kiếm lại từ lời hứa của bên kia. Một lời hứa mà không có
“Consideration” được xem là một lời hứa suông không có giá trị pháp lý. Do
đó, không có nghĩa vụ được thiết lập giữa hai bên. Một hợp đồng phải là sự
gặp gỡ giữa các “Consideration”. Trong hôn nhân bao giờ cũng tồn tại một
người biểu lộ ý chí về một đối tượng nhất định mà chỉ có thể được đáp ứng
bởi một người khác. Tức là, một người biểu lộ tình cảm, nhu cầu kết hôn với
một người khác và sự biểu lộ đó có thể được chấp nhận hay từ chối. Hôn nhân
là kết quả của sự gặp gỡ giữa các ý chí.
Với lập luận tương tự trên cơ sở học thuyết “Consideration”, lời chấp
nhận lời cầu hôn có thể được thay đổi, hủy ngang hay thu hồi trong mọi thời
điểm mà không phải chịu trách nhiệm gì.
1.2. Một số vấn đề lý luận về Hợp đồng hôn nhân
1.2.1. Khái niệm
Trên thế giới, hợp đồng hôn nhân còn được biết đến với những tên gọi
như hôn ước, thỏa thuận trước hôn nhân, thỏa thuận hôn nhân hoặc thỏa thuận
sau hôn nhân. Ngay từ thời La Mã cổ đại đã xuất hiện những dạng thức đầu
tiên của hợp đồng hôn nhân. Đó là việc hoàn trả tài sản hồi môn theo thỏa
thuận: Từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, người ta bắt đầu thấy những người
lập khối tài sản hồi môn yêu cầu người chồng chấp nhận một điều khoản
33. 33
trong chứng thư lập khối tài sản hồi môn, theo đó người chồng cam kết hoàn
trả tài sản hồi môn cho người vợ trong tất cả các trường hợp chấm dứt hôn
nhân hoặc ít nhất trong trường hợp ly hôn [8, tr.93]. Đối với các bất động sản
tọa lạc trên lãnh thổ Italia, người chồng chỉ có thể chuyển nhượng khi có sự
đồng ý của người vợ. Nếu người chồng tự ý chuyển nhượng các tài sản ấy,
người vợ có thể yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu [8, tr.95].
Dưới thời kỳ Hạ Đế quốc, người chồng tiếp tục có quyền chuyển nhượng
các động sản hồi môn; trái lại, người chồng không có quyền tự ý chuyển
nhượng bất động sản hồi môn nào, kể cả bất động sản nằm ngoài phạm vi
lãnh thổ Italia. Từ năm 537, luật còn quy định rằng việc chuyển nhượng một
bất động sản hồi môn với sự đồng ý của người vợ chỉ có giá trị nếu người này
khẳng định lại sự ưng thuận của mình trong vòng hai năm sau đó [8, tr.96].
Sau này hợp đồng hôn nhân đã được các nước phương Tây kế thừa và
hoàn thiện. Trên cơ sở phân tích tại Mục 1.1, hợp đồng hôn nhân được định
nghĩa như sau: Hợp đồng hôn nhân là một thỏa thuận pháp lý giữa vợ và
chồng hoặc giữa hai người có nhu cầu kết hôn với nhau nhằm xác định vị trí
và số phận các tài sản trước, trong thời kỳ hôn nhân cũng như khi chấm dứt
hôn nhân đồng thời cho phép thiết lập các quy định về chế độ hôn nhân của
vợ chồng cũng như các vấn đề khác liên quan đến tài sản và trách nhiệm phát
sinh từ hôn nhân.
1.2.2. Đặc điểm
1.2.2.1. Hợp đồng hôn nhân là một hợp đồng song vụ
Hợp đồng song vụ là hợp đồng làm phát sinh hiệu lực với tất cả các bên
đối ước, tức là họ có quyền và nghĩa vụ đối với nhau [6, Mục 2]. Hợp đồng
hôn nhân làm phát sinh nghĩa vụ đối với cả hai bên trong hợp đồng. Theo đó,
vợ và chồng đều có các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Do vậy, hợp đồng
34. 34
hôn nhân là một hợp đồng song vụ. Xuất phát từ đặc điểm trên, các bên trong
hợp đồng hôn nhân vừa là trái chủ vừa là người thụ trái của nhau. Do tính
chất song vụ nên khi nghiên cứu về hợp đồng hôn nhân, tác giả thấy xuất hiện
một số vấn đề pháp lý sau:
- Một bên có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ nếu bên kia không thực
hiện nghĩa vụ?
Đối với hợp đồng hôn nhân được ký kết giữa vợ và chồng, khi một bên
không thực hiện nghĩa vụ thì bên còn lại cũng có quyền không thực hiện
nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, các bên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với
bên thứ ba như: con chung, các chủ nợ chung, nghĩa vụ thuế với nhà nước.
Đối với hợp đồng tiền hôn nhân, rõ ràng là khi hai bên chưa đăng ký kết
hôn tại cơ quan có thẩm quyền thì hợp đồng này chưa phát sinh hiệu lực. Vậy,
có thể xảy ra sự vi phạm nghĩa vụ hay không? Theo tác giả, tại giai đoạn này,
chưa có nghĩa vụ nào khác ngoài nghĩa vụ các bên phải đăng ký kết hôn với
nhau để làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng này. Và nếu xảy ra sự vi phạm
nghĩa vụ đó thì hợp đồng trên sẽ bị vô hiệu.
- Một bên có thể hủy bỏ hợp đồng khi bên kia không thực hiện nghĩa vụ?
Người vợ hoặc người chồng có thể hủy bỏ hợp đồng hôn nhân trong
trường hợp bên kia không thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, việc hủy bỏ hợp
đồng hôn nhân không giống như những hợp đồng song vụ khác. Đối với các
hợp đồng song vụ thông thường, các bên có thể hủy bỏ hợp đồng mà không
cần sự đồng ý hoặc công nhận của Tòa án. Nhưng với hợp đồng hôn nhân,
việc hủy bỏ hợp đồng phải được sự đồng ý của Tòa án. Bởi lẽ, hôn nhân
không chỉ là mối quan hệ dân sự đơn thuần mà nó còn là cơ sở hình thành nên
gia đình, nền tảng cơ bản của xã hội. Sự tự do ý chí của các bên cần phải được
35. 35
giới hạn để đảm bảo một xã hội ổn định và phát triển trong trật tự. Sự tùy tiện
hủy bỏ hợp đồng hôn nhân sẽ làm xã hội trở lên rối loạn.
Dưới góc độ xã hội học và tâm lý học chúng ta thấy nhiều mối quan hệ
hôn nhân vẫn được duy trì mặc dù có sự không thực hiện nghĩa vụ của một
trong các bên. Sự duy trì hôn nhân không chỉ nằm ở việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ mà còn nằm ở tâm lý, tình cảm của mỗi người và những giá trị
văn hóa của cộng đồng nơi người đó sinh sống.
Đối với các hợp đồng tiền hôn nhân, đây cùng là một dạng của hợp đồng
hôn nhân, chủ yếu thỏa thuận các vấn đề về tài sản, theo đó các bên xác định
khối tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của mỗi người. Một trong hai
bên có thể hủy bỏ hợp đồng hay không? Việc hủy hợp đồng này có cần sự
đồng ý hoặc công nhận của Tòa án? Khi nào một bên bị coi là vi phạm nghĩa
vụ? Về vấn đề này, tác giả cho rằng: Một bên vi phạm nghĩa vụ khi kết hôn
với một người khác không phải là người đã ký hợp đồng tiền hôn nhân với
mình. Khi đó, hợp đồng này đương nhiên bị hủy bỏ mà không cần sự đồng ý
hoặc công nhận của Tòa án.
- Một bên không còn bị ràng buộc bởi hợp đồng nếu bên kia do gặp phải
trường hợp bất khả kháng mà không thực hiện nghĩa vụ?
Với hợp đồng hôn nhân, điều này không hoàn toàn chính xác. Một bên
không còn bị ràng buộc bởi hợp đồng hôn nhân khi xảy ra một trong các
trường hợp sau đây: (1) Một trong hai bên chết; (2) Các bên thỏa thuận chấm
dứt hôn nhân và được sự công nhận của Tòa án; (3) Quyết định ly hôn của
Tòa án trong trường hợp các bên có mâu thuẫn không thể giải quyết được; (4)
Các bên không đăng ký kết hôn (đối với hợp đồng tiền hôn nhân); (5) Khi các
bên kết thúc việc ly thân (đối với hợp đồng hôn nhân khi ly thân sẽ chấm dứt).
Do đó, nếu một bên chỉ vi phạm các nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng
36. 36
và không xảy ra một trong các trường hợp đã nêu trên thì hợp đồng hôn nhân
vẫn có giá trị ràng buộc đối với các bên.
1.2.2.2. Hợp đồng hôn nhân là một hợp đồng xã hội
Hợp đồng xã hội là một học thuyết cơ bản trong các xã hội phương Tây.
Về cơ bản, theo John Locke, Jean-Jacques Rousseau, hợp đồng xã hội là một
thỏa thuận thực tế hoặc giả định giữa các thành viên của một xã hội có tổ
chức hoặc giữa các thành viên của một cộng đồng để xác định và giới hạn các
quyền và nghĩa vụ của mỗi người.
Khi chúng ta tồn tại trong một nhà nước, chúng ta tồn tại như là một sinh
vật đơn độc. Sau đó, hôn nhân trở thành sự lựa chọn có lý trí đầu tiên trong
xây dựng một xã hội, là yếu tố thiết yếu trong sự ổn định của xã hội. Hôn
nhân không yêu cầu tất cả các cá nhân trong xã hội. Hôn nhân còn có vai trò
thúc đẩy, bảo vệ xã hội. Trong Quyển thứ 4 về Hợp đồng xã hội, Rousseau
nói: Hôn nhân là một hợp đồng dân sự với các hậu quả dân sự mà nếu thiếu
nó không một xã hội nào có thể tồn tại. Quan điểm của Rousseau hướng tới
việc coi hôn nhân là một hợp đồng xã hội. Hôn nhân là một phần của hợp
đồng xã hội và đó là phần đầu tiên của hợp đồng xã hội. Tahar Ben Jelloun
(một nhà văn, nhà thờ, họa sĩ người Ma Rốc) cũng nói rằng: Hôn nhân là một
họp đồng xã hội thường không phù hợp với các tình yêu lớn.
1.2.2.3.Mục đích cơ bản của hợp đồng hôn nhân là hướng tới hạnh phúc
Hợp đồng hôn nhân làm phát sinh các vấn đề về tài sản, có thể làm tăng
thêm, giảm đi hoặc giữ nguyên tài sản của các bên. Tuy nhiên, đó không phải
là mục đích chính yếu. Bao trùm lên toàn bộ hợp đồng hôn nhân đó là nhu cầu
hướng tới hạnh phúc. Chính vì nhu cầu đó mà người ta kết hôn với nhau. Việc
giữ nguyên, tăng thêm hay bớt đi một phần tài sản khi kết hôn là những hệ
37. 37
quả của nhu cầu đó. Về cơ bản, nếu không có nhu cầu hướng tới hạnh phúc,
không có tình yêu thì hôn nhân không xảy ra.
1.2.2.4. Là một hợp đồng pháp lý với các nghĩa vụ đạo đức
Bên cạnh những nghĩa vụ pháp lý thì hợp đồng hôn nhân còn chứa đựng
những nghĩa vụ đạo đức, tức là những nghĩa vụ thuộc về lương tâm của vợ và
chồng. Những nghĩa vụ này tuy pháp luật không điều chỉnh nhưng vì yếu tố
tình cảm nên các bên phải thực hiện. Những nghĩa vụ này được điều chỉnh
bằng dư luận xã hội và đạo đức như vợ và chồng phải có trách nhiệm chăm
sóc, phụng dưỡng bố mẹ vợ (chồng), quan tâm đến sức khỏe, tâm trạng và
cảm xúc của nhau, động viên nhau những lúc mệt mỏi…Nghĩa vụ đạo đức
không thể là sự ép buộc từ bên ngoài, mà gắn bó chặt chẽ với ý thức của con
người về lẽ sống, lý tưởng về hạnh phúc và về những quan niệm mang tính
triết lý của cuộc sống. Những quan niệm đúng đắn giúp con người trước hết là
nhận thức được sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích gia đình.
1.2.2.5. Hợp đồng hôn nhân mang tính kinh tế
Hôn nhân đem lại lợi ích kinh tế cho những người kết hôn so với việc
độc thân và việc sống chung như vợ chồng. Bởi lẽ, khi kết hôn họ sẽ cùng tiết
kiệm và đầu tư trong thời gian sống cùng nhau. Khi kết hôn, họ sẽ bị ràng
buộc bởi quyền và nghĩa vụ với nhau và phải có nghĩa vụ đối với con cái. Với
hôn nhân, các cặp vợ chồng có điều kiện và ý thức tiết kiệm để chăm lo cho
con cái hơn là việc sống chung với nhau như vợ chồng. Hôn nhân tạo ra động
lực để vợ, chồng phấn đấu và phát triển sự nghiệp. Vợ, chồng sẽ phải tính
toán để tăng thu nhập cho gia đình, lo đời sống sinh hoạt hàng ngày, tiết kiệm
cho tuổi già và phục vụ cho các nhu cầu khác của mình. Ở khía cạnh khác, khi
kết hôn, vợ chồng có thể có tư cách để hưởng tài sản do gia đình vợ hoặc
chồng cho hoặc hưởng thừa kế từ gia đình nhà vợ (chồng). Hơn nữa, khi kết
38. 38
hôn, vợ chồng sẽ cùng nhau chia sẻ những chi phí để duy trì và vận hành gia
đình như bảo hiểm, cư trú, phương tiện đi lại, thức ăn, đồ dùng sinh hoạt.
Hôn nhân khuyến khích phân công lao động giữa các bên nhằm tạo ra
các sản phẩm và những gì tốt nhất cho gia đình. Cho dù một trong hai người
không đi làm thì họ vẫn có thể thực hiện một hoạt động mang tính nghề
nghiệp như là nội trợ và góp phần tiết kiệm cho gia đình. Trong khi những
người sống với nhau như vợ chồng thì ít có sự gắn bó và thống nhất hơn về
kinh tế. Mối quan hệ sống với nhau như vợ chồng chỉ mang tính tạm bợ chứ
không mang tính bền vững lâu dài. Những người độc thân hoặc những ông bố
đơn thân hoặc bà mẹ đơn thân sẽ khó khăn hơn trong việc duy trì gia đình và
thực hiện hoạt động nghề nghiệp. Bên cạnh đó nội dung của hợp đồng hôn
nhân còn bao gồm các vấn đề về tài sản. Chính vì vậy, hợp đồng hôn nhân
mang tính kinh tế.
1.2.2.6. Hợp đồng hôn nhân là một hợp đồng dài hạn
Tính dài hạn của hợp đồng hôn nhân xuất phát từ mục đích của hôn nhân
là che chở, bảo vệ, giúp đỡ, chia sẻ với nhau, nương tựa vào nhau giữa vợ và
chồng, chăm sóc và giáo dục con cái. Các cặp vợ chồng luôn có xu hướng và
mong muốn xây dựng một gia đình bền vững và lâu dài. Việc ly hôn được
xem như là một điều ngoài ý muốn ban đầu của các bên khi xác lập hôn nhân.
Khi cuộc sống chung bế tắc đến mức không thể giải quyết được thì họ mới
tìm đến giải pháp ly hôn. Thời gian sống chung của các cặp vợ chồng thường
tính bằng năm, có thể là hàng chục năm và cũng có thể là cho đến lúc một
trong hai người chết. Trong khi đó, với những hợp đồng khác, thời hạn của
hợp đồng thường ngắn và xác định rõ được thời điểm kết thúc. Tính dài hạn
của hợp đồng hôn nhân được xem xét trong mối tương quan với các loại hợp
đồng khác. Những lợi ích mà các bên đạt được trong hôn nhân cũng là sợi dây
39. 39
liên kết, ràng buộc họ với nhau. Ví dụ: Người phụ nữ phụ thuộc chồng về
kinh tế thường ít yêu cầu ly hôn và muốn duy trì hôn nhân lâu dài.
1.2.3. Chủ thể
Với tính chất đặc biệt của hôn nhân nên chủ thể của hợp đồng hôn nhân,
chỉ có thể là hai thể nhân. Đó có thể là những người có nhu cầu kết hôn với
nhau hoặc những người đã là vợ, chồng của nhau muốn thay đổi chế độ hôn
nhân của họ. Bởi vì, hợp đồng hôn nhân có thể được xác lập trước khi kết hôn
cũng như trong thời kỳ hôn nhân.
Hiện nay, trên thế giới, đa số các nước quy định hôn nhân chỉ có thể diễn
ra giữa hai người khác nhau về giới tính. Tuy nhiên, một số nước còn cho
phép kết hôn giữa những người cùng giới tính như Mỹ, Pháp, Đức…Theo
quan niệm của cá nhân, tác giả ủng hộ quan điểm cho phép kết hôn giữa hai
thể nhân có cùng giới tính. Bởi lẽ, khái niệm “vợ”, “chồng” là những khái
niệm mang tính quy ước chứ không phải được xác định theo các yếu tố mang
tính di truyền, tự nhiên. Hơn nữa, bất kỳ ai cũng có quyền có nhu cầu lập gia
đình, hưởng hạnh phúc còn vấn đề họ chọn ai làm người bạn đời thì đó lại
càng là quyền tự do của họ. Nếu trước đây ta hiểu “vợ” phải là người mang
giới tính nữ, “chồng” phải là người mang giới tính nam thì bây giờ điều đó
nên được thay đổi. Đối với những người cùng giới tính, ai là vợ ai là chồng sẽ
do họ tự quy ước với nhau. Giới tính của họ chẳng hề ảnh hưởng đến quyền
và nghĩa vụ của chồng và vợ. Vì quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng mang
tính chất giao hoán, đối xứng với nhau.
Chủ thể của hợp đồng phải đảm bảo nguyên tắc “một vợ một chồng”. Ở
Thời đại của chúng ta, chúng ta đều ước muốn tham gia vào một chế độ hôn
nhân một vợ một chồng và thấy rằng những quy định của pháp luật có vẻ như
không cần thiết. Tuy nhiên, pháp luật Hồi giáo đã ban bố cách đây 1400 năm,
40. 40
và được điều chỉnh phù hợp hơn với nhu cầu hiện tại. Chế độ đa thế là không
bắt buộc trong pháp Hồi giáo, nó được duy trì vì người phụ nữ Hồi giáo đồng
ý với điều đó. Tất cả những người phụ nữ có thể đòi hỏi người chồng tương
lai của mình duy trì chế độ một vợ một chồng trong hợp đồng hôn nhân trong
suốt thời kỳ sống chung của họ bởi vì hôn nhân không thể xảy ra nếu không
có sự đồng ý của họ.
1.2.4. Đối tượng
Bất kỳ một hợp đồng nào cũng phải có một đối tượng nhất định hoặc là
về tài sản hoặc là một công việc phải làm hoặc là một công việc không phải
làm. Hợp đồng hôn nhân cũng vậy, nó cũng có đối tượng riêng của mình.
Không giống như các loại hợp đồng thông thường, đối tượng của hợp đồng
hôn nhân khá trừu tượng và khó tách bạch. Nó bao gồm cả tài sản, công việc
không được làm cũng như công việc phải làm. Ví dụ như công việc chăm sóc,
giáo dục con cái là đối tượng điều chỉnh của hợp đồng hôn nhân. Tuy nhiên,
việc chăm sóc, giáo dục con như thế nào, trách nhiệm của vợ, chồng đối với
việc này ra sao lại thuộc về nội dung của hợp đồng. Trong hợp đồng hôn
nhân, có sự dịch chuyển lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
Tựu chung lại ta có thể tóm tắt đối tượng của hợp đồng hôn nhân gồm:
các thỏa thuận về tài sản (tài sản riêng của vợ, chồng; tài sản chung của vợ
chồng); cuộc sống chung, gia đình chung. Khái niệm cuộc sống chung, gia
đình chung bao hàm rất nhiều đối tượng của hợp đồng hôn nhân như việc xác
lập và thanh toán các khoản nợ chung; chăm sóc, giáo dục con cái; duy trì
cuộc sống chung; quan hệ giữa vợ và chồng với nhau và với bên thứ ba…
Về đối tượng của hợp đồng hôn nhân, trong Luận án tiến sĩ luật học
“Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình - Vấn đề lý luận và thực
tiễn” (Đại học Luật Hà Nội, năm 2015), tác giả Bùi Thị Mừng cho rằng:
41. 41
không thể coi hôn nhân là một hợp đồng vì không xác định được đối tượng.
Theo đó, tác giả Bùi Thị Mừng lập luận rằng không thể xác định được đối
tượng của hợp đồng theo Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2005. Tác giả cho
rằng, quan điểm trên là rất thiếu chính xác bởi lẽ tác giả đã lấy một quy định
cụ thể để chứng minh cho một vấn đề khoa học, lập luận của tác giả chưa đủ
căn cứ khoa học.
1.2.5. Hiệu lực
Hiệu lực của hợp đồng hôn nhân là một trong những vấn đề quan trọng
khi nghiên cứu về hợp đồng hôn nhân. Các quan niệm hiện hay về hiệu lực
của hợp đồng đều dựa trên nền tảng học thuyết tự do ý chí mà có hạt nhân là
lý luận là con người chỉ bị ràng buộc bởi ý chí của mình. Vì vậy, các vấn đề
căn bản của hợp đồng đều được giải thích trên căn bản tự do ý chí và phải
được xem xét trên các phương diện triết học, đạo đức và kinh tế [6, tr 368].
Hiệu lực của hợp đồng là một vấn đề pháp lý rộng và phức tạp. Các quy tắc
liên quan tới nó được tìm kiếm không chỉ dừng lại ở các quy định của văn bản
pháp luật mà còn trong cả án lệ, tập quán, học thuyết pháp lý và lẽ công bằng
[6, tr 367].
1.2.5.1. Hiệu lực tương đối và hiệu lực ràng buộc
Hợp đồng hôn nhân là luật tự trị giữa các bên nếu hợp đồng được giao
kết đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của nó do pháp luật đặt ra nhằm mục
đích bảo vệ trật tự công cộng, đạo đức xã hội, tính trung thực, thiện chí, bên
thứ ba. Các bên giao kết tự nguyện khoác lên mình gánh nặng và mong muốn
bi ràng buộc vào gánh nặng ấy với mục đích nhất định. Mọi hợp đồng hôn
nhân bắt buộc phải được thi hành một cách tận tâm, thiện chí. Nếu hợp đồng
không được thực thi hoặc thực thi không đúng thì có thể dẫn đến các bên phải
chịu những trách nhiệm pháp lý. Hợp đồng hôn nhân làm phát sinh hậu quả
42. 42
pháp lý với toàn bộ tài sản và các vấn đề được quy định trong hợp đồng. Đối
với những tài sản và vấn đề không được quy định trong hợp đồng thì thực
hiện theo các quy định có sẵn của pháp luật. Khi hợp đồng hôn nhân được
giao kết hợp pháp thì các bên không thể đơn phương rút khỏi hợp đồng hoặc
đơn phương từ chối thực hiện nghĩa vụ. Việc chấm dứt hợp đồng hôn nhân
phải tuân theo các quy định chặt chẽ của pháp luật.
Tuy nhiên, hợp đồng hôn nhân không thể giao kết thông qua người được
ủy quyền như hợp đồng thông thường. Có nghĩa là, một người không thể ủy
quyền cho người khác tiến hành giao kết hợp đồng hôn nhân thay mình. Hợp
đồng hôn nhân cần phải được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Hợp đồng hôn
nhân có thể phát sinh hiệu lực đối với bên thứ ba nếu nó không thể xâm phạm
đến lợi ích của bên thứ ba. Ví dụ: Hợp đồng hôn nhân có thể có hiệu lực đối
với những người thừa kế, những chủ nợ hoặc con nợ.
Sự vô hiệu của hợp đồng hôn nhân vì một lý do nào đó không lấy đi
những lợi ích mà đứa con được đảm bảo bởi pháp luật hoặc bởi hợp đồng hôn
nhân. Nó vẫn giữ nguyên các quyền và nghĩa vụ của bố, mẹ với con cái.
1.2.5.2. Về thời điểm có hiệu lực
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được hiểu là thời điểm bắt đầu sự
ràng buộc pháp lý giữa các bên, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng. Hầu hết các bộ luật dân sự trên thế giới đều quy định về một
loại thời điểm là thời điểm giao kết hợp đồng, đây cũng là thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng. Tuy nhiên, đối với hợp đồng hôn nhân, thời điểm có hiệu
lực có một số điểm khác biệt như sau:
Hợp đồng hôn nhân là một hợp đồng cần được chứng thực, công chứng
để có hiệu lực pháp lý. Hơn nữa, vì nguyên tắc “một vợ một chồng” nên một
người không thể đồng thời ký kết hợp đồng hôn nhân với hai người khác
43. 43
nhau. Chính vì lẽ đó, sau khi hợp đồng hôn nhân được công chứng, chứng
thực, hợp đồng hôn nhân phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quản lý về công tác kết hôn. Do đó, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
hôn nhân là thời điểm hợp đồng hôn nhân được đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Về thời điểm giao kết hợp đồng hôn nhân, pháp luật các nước có quy
định không giống nhau. Về vấn đề này, một số nơi cho rằng, hợp đồng hôn
nhân có hiệu lực sau khi các bên tổ chức lễ cưới hoặc ngay khi ký kết hoặc
sau khi được công chứng, chứng thực.
Tại Đức, các bên có thể ký hợp đồng hôn nhân trước lễ cưới hoặc khi
giữa hai người đã tồn tại quan hệ hôn nhân và hợp đồng hôn nhân sẽ có hiệu
lực tại thời điểm ký hợp đồng hôn nhân [30].
Tại Québec, trước lễ cưới, các cặp vợ chồng tương lai có thể thay đổi
thỏa thuận hôn nhân với sự có mặt và đồng thuận của hai người là các bên của
hợp đồng miễn là sự thay đổi đó được thực hiện bằng một hợp đồng hôn
nhân. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể thay đổi chế độ hôn nhân cũng
như tất cả các quy định trong hợp đồng hôn nhân của họ miễn là sự thay đổi
đó được thực hiện bằng một hợp đồng hôn nhân [33]. Tại Pháp, một hợp đồng
hôn nhân được ký trước lễ cưới có hiệu lực từ thời điểm đó. Chế độ hôn nhân
theo thỏa thuận có hiệu lực khi tổ chức lễ cưới [32].
1.2.5.3. Điều kiện có hiệu lực
- Hợp đồng hôn nhân dân sự
Là một hợp đồng, trước tiên nó phải thỏa mãn các điều kiện chung để
một hợp đồng có hiệu lực như: Là sự bày tỏ ý chí rõ ràng của các bên; các bên
tự nguyện, tự do ý chí, không bị lừa dối, ép buộc, nhầm lẫn; nội dung thỏa
thuận không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, không xâm
44. 44
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba; các bên có năng lực hành
vi dân sự; có năng lực chủ thể để giao kết hợp đồng; các bên phải có ý định
thực sự muốn giao kết hợp đồng, không giả tạo; có một đối tượng hợp pháp
làm nguyên nhân sinh ra nghĩa vụ. Ngoài ra, hôn nhân không chỉ là liên kết về
mặt pháp lý mà còn là liên kết về mặt sinh học do đó các chủ thể còn phải đáp
ứng các điều kiện về độ tuổi và huyết thống.
Pháp luật đại đa số các nước (dù thuộc Common law hay Civil law) đều
thừa nhận các nguyên tắc trên. Bộ Luật Dân sự Vương Quốc Bỉ quy định:
Không có hôn nhân nếu hôn nhân đó được giao kết mà không có sự tự do ưng
thuận giữa hai người phối ngẫu hoặc sự ưng thuận của một trong hai người
được đưa ra do bạo lực hoặc sự đe dọa [31, Điều 146]. Bộ Luật Dân sự Cộng
hòa Pháp bản sửa đổi, bổ sung ngày 10/8/2016 quy định: Không có hôn nhân
nếu không có sự ưng thuận (Điều 146). Người chưa thành niên không thể giao
kết hôn nhân nếu không có sự ưng thuận của cha và mẹ; trong trường hợp có
sự bất đồng giữa cha và mẹ thì sự bất đồng này mang nghĩa ưng thuận (Điều
146-1). Đối với người chưa thành niên, nếu cha hoặc mẹ chết hoặc không có
khả năng biểu đạt ý chí của họ thì chỉ cần sự ưng thuận của người còn lại là
đủ (Điều 149). Nếu cả cha và mẹ đều đã chết hoặc trong tình trạng không thể
biểu đạt được ý chí của họ thì người ông, người bà của họ sẽ thay thế cha mẹ
họ. Nếu có sự bất đồng ý kiến giữa những người ông, người bà trong cùng
một hàng hoặc ở hai hàng khác nhau thì sự bất đồng đó mang nghĩa ưng thuận
(Điều 150).
Một số nước có quy định thêm điều kiện để hợp đồng có hiệu lực là các
bên phải tổ chức lễ cưới. Theo đó, nếu sau khi ký kết hợp đồng hôn nhân mà
các bên không tổ chức lễ cưới thì hợp đồng hôn nhân đó không có hiệu lực.
Bên cạnh đó, một trong những điều kiện quan trọng đó là hình thức của hợp
45. 45
đồng. Pháp luật của đa số các nước tiên tiến trên thế giới đều quy định hợp
đồng hôn nhân phải được lập thành văn bản có công chứng.
Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp: Tất cả những thỏa thuận về hôn nhân
phải được soạn thảo bằng một văn bản được công chứng với sự có mặt và
đồng ý của các bên trong hợp đồng hoặc những người đại diện của họ. Hợp
đồng hôn nhân phải được thiết lập bởi Công chứng viên. Những thay đổi áp
dụng với các thỏa thuận hôn nhân trước lễ cưới phải được thực hiện bằng một
văn bản với hình thức tương tự.
Bộ luật dân sự Vương quốc Bỉ: Hợp đồng hôn nhân phải được soạn thảo
bởi một công chứng viên. Khi ký kết một hợp đồng hôn nhân hoặc một văn
bản sửa đổi chế độ hôn nhân, Công chứng viên sẽ đăng ký tại Trung tâm đăng
ký hôn nhân. Tất cả những người đã ký kết một hợp đồng hôn nhân phải
thông báo hợp đồng đó với Văn phòng hộ tịch dân sự. Những cặp vợ chồng
tương lai phải xuất trình giấy chứng thực của công chứng viên người đã soạn
thảo hợp đồng. Cuối cùng công chức hộ tịch sẽ ghi chú vào sổ đăng ký hôn
nhân. Hợp đồng hôn nhân là một hợp đồng yêu cầu sự hoàn thành về hình
thức để có hiệu lực. Yêu cầu bắt buộc là soạn bằng văn bản và phải được công
chứng. Và tất cả sự thay đổi về chế độ hôn nhân được theo lựa chọn phải
được thiết lập bởi một văn bản được công chứng. Các bên vợ chồng có thể
thay đổi thỏa thuận về chế độ hôn nhân chung của họ trong thời kỳ hôn nhân
bằng một văn bản được công chứng.
Bộ luật dân sự Cộng hòa liên bang Đức: Hợp đồng phải được thực hiện
bằng văn bản được công chứng với sự có mặt của hai bên vợ chồng tương lai
hoặc hai bên vợ chồng. Tại mọi thời điểm, vợ chồng có thể thay đổi các quy
định đang tồn tại của hợp đồng hôn nhân theo các quy định về hình thức có
hiệu lực.