SlideShare a Scribd company logo
1 of 178
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG THỊ MINH TUẤN
I
NGHỆ THUẬT VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG THỊ MINH TUẤN
I
NGHỆ THUẬT VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Ngành: Mỹ học
Mã số: 9 22 90 07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Thu Nghĩa
2. GS. TS. Đỗ Huy Hùng
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
NCS Đặng Thị Minh Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI ..............................................................................................................6
1.1 Những nghiên cứu lý luận cơ bản về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ,
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ......................................................................................................6
1.2. Những nghiên cứu về thực trạng thị hiếu thẩm mỹ và thực trạng vận
dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta
hiện nay ............................................................................................................24
1.3. Những nghiên cứu về nguyên tắc và giải pháp vận dụng nghệ thuật
trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay .................28
1.4. Những vấn đề luận án cần nghiên cứu ......................................................33
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT,
THỊ HIẾU THẨM MỸ VÀ VAI TRÒ CỦA NGHỆ THUẬT TRONG
GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ.............................................................36
2.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về nghệ thuật ..............................................36
2.2. Những vấn đề lý luận cơ bản về thị hiếu thẩm mỹ và giáo dục thị hiếu
thẩm mỹ............................................................................................................51
2.3. Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ...........................73
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT VỚI GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO
SINH VIÊN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY: THỰC TR NG VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA...........................................................................................87
3.1. Những nhân tố tác động đến thị hiếu thẩm mỹ và vận dụng nghệ thuật
trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay .................87
3.2. Thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên ở nước ta hiện nay.............................................................................96
3.3. Một số vấn đề đặt ra khi vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu
thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay.....................................................113
Chƣơng 4: NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG NGHỆ THUẬT
TRONG GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN Ở
NƢỚC TA HIỆN NAY.................................................................................123
4.1. Nguyên tắc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên..........................................................................................................123
4.2. Giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên..........................................................................................................133
KẾT LUẬN............................................................................................................148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................152
PHỤ LỤC...............................................................................................................161
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghệ thuật là thế giới của cái đẹp. Ở đó, cái đẹp hiện ra với tất cả vẻ lung linh,
diệu kỳ của nó qua tài năng sáng tạo tuyệt vời của người nghệ sĩ. Trong nghệ thuật,
cái đẹp được điển hình hoá. Bất kỳ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng hướng đến việc
xây dựng và biểu hiện một hình tượng đẹp. Nghệ thuật chân chính được xem như là
một trong những yếu tố cơ bản góp phần định hướng tốt đẹp cho hoạt động của con
người, xây dựng tâm hồn của mỗi con người, làm cho mỹ cảm phong phú hơn, nhân
văn hơn.
Ở nước ta hiện nay, sự phát triển, mở rộng các quan hệ giao lưu, hội nhập
trên mọi lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục… đã có tác động không
nhỏ đến hệ thống các giá trị của xã hội trong đó có các giá trị thẩm mỹ. Trước tình
hình đó, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã
khẳng định: hiện nay vấn đề xây dựng, giữ gìn và phát huy hệ giá trị tốt đẹp về thị
hiếu thẩm mỹ trong quá trình xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện và
nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trở nên cấp bách. Nghiên cứu sự
biến đổi của hệ thống giá trị trong văn hóa Việt Nam thông qua nghiên cứu về nghệ
thuật, về thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa
thực tiễn.
Giáo dục đại học là hình thành đội ngũ nhân lực toàn diện đáp ứng được yêu
cầu phát triển của xã hội trong tương lai. Công tác giáo dục ở bậc đại học không chỉ
chú trọng đến chuyên môn nghề nghiệp mà còn phải chú trọng đến giáo dục phẩm
chất đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ, tạo nền tảng xác lập thế giới quan và xây dựng lý
tưởng sống để sinh viên trở thành những con người có ích cho xã hội. Những cơ hội
và thách thức mới của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế càng đòi hỏi công
tác giáo dục đại học phải đảm nhận sứ mệnh đào tạo nên những con người phát triển
toàn diện “đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng
sáng tạo, khỏe về thể chất” [19, tr.29] cho xã hội. Do đó, giáo dục đại học không thể
bỏ qua đời sống tinh thần của sinh viên, trong đó thị hiếu thẩm mỹ là một yếu tố
quan trọng.
2
Đời sống thẩm mỹ của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng ở nước ta
hiện nay đang có nhiều diễn biến phức tạp. Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên
nhiều lĩnh vực, giao lưu văn hoá diễn ra với nhiều hình thức đã có những tác động
tích cực lẫn tiêu cực đến nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên. Có những
kiểu thị hiếu thẩm mỹ mới lạ, thậm chí là lệch lạc phát triển trong đời sống thẩm mỹ
của các bạn trẻ. Nhiều sinh viên đã không tạo cho mình khả năng tự phòng ngừa,
"miễn dịch" hiệu quả trước những sản phẩm phản nghệ thuật, độc hại. Một bộ phận
sinh viên chạy theo thị hiếu thấp hèn, lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ, có quan
niệm lệch lạc về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài... Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên ở nước ta hiện nay là một yêu cầu cần thiết nhằm góp phần tạo ra sự cân
bằng giữa đào tạo chuyên môn và giáo dục lối sống, xây dựng lý tưởng trong sinh
viên, giúp cho công tác giáo dục ở các trường đại học và cao đẳng ngày càng hoàn
thiện về mọi mặt đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực toàn diện cho xã hội.
Có nhiều cách để giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên nhưng với tính
cách là biểu hiện đặc trưng của quan hệ thẩm mỹ, nghệ thuật là cầu nối giữa con
người với thế giới cái đẹp, giúp sinh viên phát triển năng lực cảm thụ và sáng tạo
thẩm mỹ đồng thời xác lập môi trường văn hoá cho thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên,
là nền tảng cơ bản định hướng thị hiếu thẩm mỹ, xây dựng nhân cách của sinh viên.
Nhận thức rõ vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
mang ý nghĩa quan trọng của việc xây dựng con người phát triển toàn diện đối với
quá trình phát triển của đất nước, Đảng ta luôn “khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm
những phương thức thể hiện và phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh
thần lành mạnh đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng
đặc biệt là thế hệ trẻ” [18, tr.224].
Từ thực tiễn đời sống thẩm mỹ và yêu cầu của công tác giáo dục đại học,
trên cơ sở định hướng của Đảng về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho thế hệ trẻ, tác giả
chọn vấn đề: “Nghệ thuật với vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở
nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của yêu cầu xây dựng con người phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Mục đích của luận án là làm rõ mối quan hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ, chỉ ra vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên, góp phần xây dựng và phát triển thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên ở nước ta
hiện nay trước yêu cầu xây dựng con người phát triển toàn diện.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận án là:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ và vai trò
của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ.
- Nghiên cứu và trình bày những vấn đề lý luận cơ bản của nghệ thuật và thị
hiếu thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, làm rõ mối quan hệ giữa nghệ thuật với
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ thông qua việc phân tích vai trò của nghệ thuật đối với
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ.
- Nghiên cứu, điều tra, tổng hợp và phân tích thực trạng vận dụng nghệ thuật
trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở
Việt Nam hiện nay trên bình diện triết học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài đã chọn, về mặt lý luận, luận án nghiên cứu khía cạnh
triết học của nghệ thuật và một số nội dung cơ bản của vấn đề giáo dục thị hiếu
thẩm mỹ chủ yếu trên lập trường của thẩm mỹ học mácxít; phân tích mối liên hệ
giữa nghệ thuật với quá trình giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nhằm chỉ ra vai trò của
nghệ thuật trong xây dựng thị hiếu thẩm mỹ của con người; về mặt thực tiễn, luận
án nghiên cứu thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
4
sinh viên ở Việt Nam trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI và đề xuất những giải
pháp đối với việc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh
viên nhằm phát huy thị hiếu thẩm mỹ tốt trong sinh viên phù hợp với quá trình phát
triển đang diễn ra ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là những nguyên lý triết học và mỹ học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về giáo dục, giáo dục thẩm mỹ, văn hóa và nghệ thuật, đồng thời, có kế thừa
những kết quả của một số công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến chủ đề
luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời, với từng phần cụ thể, luận
án sử dụng những phương pháp tương ứng:
- Phần trình bày về những vấn đề lý luận cơ bản của nghệ thuật, thị hiếu
thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, luận án sử
dụng phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, hệ
thống hóa...
- Phần trình bày về thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay, luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội
học, điều tra giáo dục, so sánh - đối chiếu, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa...
- Phần trình bày về nguyên tắc và giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên, luận án sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, tham khảo, nghiên cứu tài liệu, phương pháp giả thuyết ...
5. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần hệ thống hóa lý luận về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ với tư cách
là đối tượng của triết học - mỹ học, phân tích vai trò của nghệ thuật đối với vấn đề
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ theo quan điểm mácxít nhằm bổ sung một cách nhìn toàn
diện hơn về triết học duy vật biện chứng cũng như chức năng giá trị của hệ thống
triết học này.
5
- Nghiên cứu thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay, góp phần làm rõ vai trò của nghệ thuật đối
với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên.
- Đề xuất những giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho sinh viên, góp phần định hướng thị hiếu thẩm mỹ trong sinh viên, phát huy
những thị hiếu thẩm mỹ tốt, xây dựng chuẩn mực thẩm mỹ cho sáng tạo nghệ thuật
và hoạt động sống của cá nhân cũng như góp phần bảo tồn, xây dựng và phát huy hệ
giá trị tốt đẹp của xã hội ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: luận án phân tích vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ cho sinh viên.
- Về mặt thực tiễn: thông qua việc phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp
vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên, luận án có thể
dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và học tập các môn triết học, mỹ học ở
các trường đại học hoặc làm tài liệu tham khảo phục vụ vào đánh giá, dự báo, định
hướng thị hiếu thẩm mỹ cho các hoạt động thưởng thức, sáng tạo nghệ thuật và lối
sống lành mạnh trong xã hội hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 12 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Những nghiên cứu lý luận cơ bản về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
1.1.1. Những nghiên cứu về nghệ thuật
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nghệ thuật là một hoạt động nhận
thức của con người bằng phương tiện hình tượng. Thế giới hình tượng nghệ thuật và
các quy luật phát triển của thế giới nghệ thuật là nguồn cảm hứng vô tận cho các
nghệ sĩ tự do sáng tạo, đồng thời là đề tài nghiên cứu của các học giả, các nhà khoa
học quan tâm phân tích với nhiều khía cạnh khác nhau.
Từ thời cổ đại, các nhà triết học Hy Lạp đã thể hiện sự quan tâm của mình
đối với nghệ thuật. Tiêu biểu ở thời kỳ cổ đại Hy Lạp về nghệ thuật phải kể đến
Nghệ thuật thi ca của Aristotle được dịch ra tiếng Việt lần đầu tiên vào năm 1964,
Nxb Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội. Mặc dù chủ yếu bàn về bi kịch trong thơ ca,
nhưng trong tác phẩm này, Aristotle đã chỉ ra cốt lõi của nghệ thuật là thực hiện mô
phỏng tự nhiên từ đối tượng đến phương thức và mục đích. Có thể nói, Nghệ thuật
thi ca là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của mỹ học duy vật và
nghệ thuật trong lịch sử khoa học thế giới.
Từ đó đến nay, các nhà mỹ học lớn như Diderot, Immanuel Kant, G.W.F.Hegel,
C.Mác, Denis Huisman... đã có những nghiên cứu sâu sắc về nguồn gốc, bản chất của
nghệ thuật, về các loại hình nghệ thuật và cả lịch sử phát triển của nghệ thuật. Đến
Hegel, vấn đề bản chất của nghệ thuật được trình bày vô cùng sâu sắc cùng với quan
niệm về cái đẹp và những luận giải về các ngành nghệ thuật riêng biệt trong các bài
giảng của ông về mỹ học ở trường đại học Heisenberg và trường đại học Berlin từ năm
1817 đến năm 1829. Các bài giảng này sau đó đã được học trò của ông tập hợp lại và
xuất bản thành cuốn Mỹ học. Cuốn sách này được Phan Ngọc dịch sang tiếng Việt và
chia thành hai tập do nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1999.
Tiếp thu các thành quả nghiên cứu của các nhà mỹ học trong lịch sử, C.Mác
và Ph.Ăngghen coi nghệ thuật là một hình thái của ý thức xã hội. Trong các tác
7
phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra nhiều suy nghĩ về nghệ thuật và mỹ
học quanh câu hỏi: “cái gì biến nghệ thuật thành một giá trị vĩnh cửu bất chấp tính
lịch sử của nó?” mà Mác đặt ra trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị
(1858). Những suy nghĩ của C.Mác và Ph.Ăngghen về nghệ thuật sau này được các
nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác tập hợp lại trong cuốn Về văn học nghệ thuật, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1977. Công trình này là một trong những tư liệu lý luận cơ bản cho
việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mỹ học và nghệ thuật.
Trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, công trình Mỹ học cơ bản và
nâng cao do M.F.Ốpxiannhicốp chủ biên, Phạm Văn Bích dịch, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 2001 phân tích một cách đầy đủ và chi tiết lý luận về nghệ thuật
theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Liên bang Xôviết. Đây là giáo trình dành cho
sinh viên các trường đại học khoa học xã hội và các trường nghệ thuật trong toàn
Liên bang Xôviết trước đây. Trong công trình đồ sộ này, lý luận về nghệ thuật được
trình bày với ba phần: đặc trưng của nghệ thuật, các loại hình nghệ thuật và bản chất
xã hội của nghệ thuật.
Ở đây, đặc trưng của nghệ thuật được các tác giả phân tích thông qua hình
tượng nghệ thuật, quá trình sáng tạo nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật, nội dung và
hình thức trong nghệ thuật và cảm thụ thẩm mỹ tác phẩm nghệ thuật. Theo các tác
giả, hình tượng nghệ thuật là một biến thể của tư duy hình tượng và nó là biểu hiện
cho đặc trưng của nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là nơi mà đặc trưng của nghệ
thuật được bộc lộ thông qua sự thống nhất và tác động qua lại giữa nội dung và hình
thức trong nghệ thuật. Nội dung nghệ thuật đóng vai trò chủ đạo, quyết định đối với
hình thức nghệ thuật, đồng thời hình thức nghệ thuật có tính độc lập tương đối và
tích cực. Nội dung nghệ thuật phản ánh, tái tạo các lĩnh vực khác nhau của thực tại
tự nhiên và xã hội qua hình tượng nghệ thuật. Còn hình thức nghệ thuật là phương
thức biểu hiện và tồn tại về vật chất của nội dung theo những quy luật của một loại
hình và thể loại nghệ thuật nhất định. Sau khi ra đời, tác phẩm nghệ thuật có quá
trình tác động nhiều mặt đến con người và xã hội. Vì vậy, đặc trưng của nghệ thuật
còn được thể hiện qua việc con người cảm thụ thẩm mỹ các tác phẩm nghệ thuật.
Cảm thụ thẩm mỹ là một hình thức hoạt động tâm lý đặc biệt của con người. Chính
8
trong quá trình này, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm nghệ thuật đi vào ý thức của
con người cụ thể một cách tự nhiên như nó vốn có.
Từ việc phân tích đặc trưng của nghệ thuật, các tác giả đi đến phân chia các
loại hình nghệ thuật. Bắt nguồn từ bản chất của hoạt động nghệ thuật, ông chia các
loại hình nghệ thuật thành nhiều nhóm: nhóm các nghệ thuật ứng dụng với kiến trúc
và nghệ thuật trang trí; nhóm các nghệ thuật tạo hình bao gồm điêu khắc, hội hoạ,
đồ hoạ, nghệ thuật nhiếp ảnh; nhóm nghệ thuật ngôn từ với văn học; nhóm nghệ
thuật âm thanh với âm nhạc; nhóm các nghệ thuật biểu diễn gồm ca vũ tổng hợp,
điện ảnh, vô tuyến truyền hình, nghệ thuật tạp kỹ và xiếc.
Trên cơ sở những phân tích về đặc trưng của nghệ thuật và sự trình bày về
các loại hình nghệ thuật, các tác giả bày tỏ quan điểm của mình về bản chất của
nghệ thuật. Đó là, nghệ thuật mang bản chất xã hội. Nghệ thuật trước hết là một
hiện tượng xã hội và bản chất xã hội của nghệ thuật thể hiện rõ nhất qua các chức
năng xã hội của nghệ thuật (cụ thể là chức năng nhận thức và chức năng giáo dục).
Đồng thời, các tác giả cũng khẳng định nghệ thuật thực hiện các chức năng của
mình trong quá trình thống nhất phản ánh, nhận thức đời sống xã hội và chỉ có thể
xem xét các chức năng của nghệ thuật trong tương quan của quá trình khái quát hoá
lý luận. Vì vậy, bản chất xã hội của nghệ thuật còn được thể hiện qua mối quan hệ
biện chứng giữa nghệ thuật với các hình thái ý thức xã hội khác như triết học, khoa
học, đạo đức, tôn giáo. nhấn mạnh bản chất xã hội của nghệ thuật còn được thể hiện
qua tính nhân dân, tính giai cấp, tính đảng của nghệ thuật.
Những lý luận về nghệ thuật của các tác giả trong Mỹ học cơ bản và nâng
cao là cơ sở cho luận án khi khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm,
bản chất và chức năng của nghệ thuật.
Ở Việt Nam, vấn đề nguồn gốc và bản chất của nghệ thuật cũng được nhiều
tác giả dày công nghiên cứu. Các công trình: Mỹ học với tư cách là một khoa học
của Đỗ Huy, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Mỹ học đại cương của Đỗ Văn
Khang, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2002; Giáo trình mỹ học Mác - Lênin của
hai tác giả Đỗ Huy - Vũ Trọng Dung, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003... mặc
dù cách thức triển khai khác nhau nhưng đều có các chương trình bày các quan
9
điểm mỹ học Mác - Lênin với tư cách là một khoa học hoàn chỉnh và hệ thống,
khẳng định quan điểm thẩm mỹ, quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa Mác - Lênin
dưới dạng giáo trình khoa học.
Nổi bật là công trình Mỹ học Mác – Lênin cho trình độ sau đại học ngành
văn hoá nghệ thuật của Đỗ Huy, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2006. Trong công
trình này, tác giả đã phân tích ba vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của nghệ thuật
là: khái niệm và nguồn gốc của nghệ thuật, bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật và bản
chất xã hội của nghệ thuật. Ba vấn đề này được trình bày trong chương năm của
cuốn sách. Ở đó, tác giả đã dựa vào cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về
nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh về tính nhân
dân, tính dân tộc của nghệ thuật để phân tích sâu sắc tính bất đồng của nghệ thuật
với phát triển kinh tế và làm rõ bản chất xã hội của nghệ thuật qua những phân tích
về tính dân tộc, tính nhân dân và tính thời đại của mọi nghệ thuật hiện thực. Trong
chương sách này, tác giả cũng đã trình bày nghiên cứu của mình về nghệ thuật với
tư cách là sản phẩm của sáng tạo, mô hình hoá tình cảm thẩm mỹ. Theo tác giả,
nghệ thuật có lịch sử lâu đời, có bản chất xã hội, có đặc trưng thẩm mỹ, có công
chúng và có đánh giá. Chương sách cũng trình bày các vấn đề về đánh giá, hưởng
thụ và sáng tạo nghệ thuật. Những nghiên cứu này là một trong các cơ sở lý luận để
luận án trình bày những vấn đề cơ bản về nghệ thuật.
Nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của mỹ học. Thế giới nghệ thuật là thế
giới của cái đẹp. Các quy luật phát triển của thế giới nghệ thuật cũng chính là hệ
quy chiếu cho các quy luật phát triển trong mỹ học. Vì vậy, không chỉ dừng lại ở
nguồn gốc và bản chất của nghệ thuật, các nhà mỹ học còn quan tâm đến việc tìm
hiểu các quy luật phát triển của thế giới nghệ thuật qua các loại hình của nó. Ở góc
độ này, công trình nghiên cứu đầy đủ nhất, công phu nhất có thể kể đến là: Hình
thái học của nghệ thuật của tác giả M. Cagan, (bản dịch của Phan Ngọc), Nxb. Hội
Nhà văn, Hà Nội, 2004. Đây là tác phẩm chuyên khảo đầu tiên một cách có hệ
thống theo quan điểm mácxít về cơ cấu nội tại của thế giới nghệ thuật. Trong công
trình này, thế giới nghệ thuật được xem xét với tính cách là một chỉnh thể thống
nhất chứ không phải là một bộ phận riêng biệt nào đó. Ở đây, tác giả nghiên cứu
10
toàn bộ cơ cấu bên trong của thế giới nghệ thuật, phát hiện tất cả những cấp độ căn
bản của sự phân chia hoạt động sáng tạo nghệ thuật, làm sáng tỏ những quy luật tổ
chức bên trong của thế giới nghệ thuật qua một hệ thống những lớp, những nhóm,
những loại hình và loại thể của nó. Trong sự trình bày của mình, tác giả chia cuốn
sách thành ba phần lớn: phần thứ nhất, đề xuất các vấn đề phương pháp luận để
nghiên cứu hệ thống các loại hình nghệ thuật, trình bày một cách khái quát lịch sử
nghiên cứu hình thái học nghệ thuật và các khuynh hướng cơ bản của nó; phần thứ
hai, tập trung phân tích hình thái học nghệ thuật trong lịch sử tư tưởng mỹ học
mácxít; phần thứ ba, đi sâu nghiên cứu các lớp và các nhóm nghệ thuật.
Trên quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, M. Cagan cho rằng,
hoạt động nghệ thuật xuất phát từ nhu cầu nghệ thuật của xã hội và gắn liền với
thực tiễn thưởng thức, đánh giá, sáng tạo của con người. Trong sự hình thành của
phân công lao động xã hội, tình trạng lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay đã
dẫn đến sự tách biệt của nghệ thuật ra khỏi cái cơ sở vụ lợi của nó để tồn tại độc lập,
trở thành một ngành đặc biệt của văn hoá. Tuy nhiên, nghệ thuật không tách khỏi
hoạt động thực tiễn một cách tuyệt đối mà ngược lại “thế giới nghệ thuật vẫn gắn
liền với cái thế giới chung quanh của thực tiễn xã hội bởi một vùng gồm những hiện
tượng hai mặt, hai chức năng vẫn giữ tính hỗn đồng đầu tiên của yếu tố nghệ thuật
và yếu tố vụ lợi” [6, tr.286]. Chính vì xuất phát từ nhu cầu nghệ thuật của xã hội ấy
mà sự phát triển của nghệ thuật có tính khu biệt và đặc thù. Điều này đặt cơ sở cho
sự phân chia các loại hình nghệ thuật khác nhau và hình thành nên cơ cấu của toàn
bộ thế giới nghệ thuật.
Nguyên tắc để phân chia thế giới nghệ thuật thành các nhóm, lớp, các biến
thể và loại hình khác nhau được M. Cagan đề xuất là: thứ nhất, thừa nhận xuất phát
và quyết định của sự tồn tại thực tế của tác phẩm nghệ thuật; thứ hai, dựa vào cấu
trúc của nghệ thuật và thứ ba, dựa vào chức năng của nghệ thuật. Từ đó, ông cho
rằng, người ta có thể so sánh và phân biệt các loại hình nghệ thuật căn cứ vào nhiều
tiêu chí như từ ngữ, âm thanh, vận động thân hình ... , hoặc căn cứ vào phương thức
tri giác các tác phẩm nghệ thuật (thị giác, thính giác ...), hoặc căn cứ vào sự sáng tạo
tác phẩm nghệ thuật (khởi tạo, trình diễn), hoặc căn cứ vào phương thức phản ánh
11
thực tế (miêu tả, không miêu tả), hoặc căn cứ vào hình thức tồn tại của hình tượng
nghệ thuật v.v... có nghĩa là, tất cả mọi các sự phân loại đều mang tính tương đối.
Trên cơ sở những nguyên tắc đã đề xuất, với quan điểm biện chứng, M.
Cagan đi xây dựng một mô hình cấu trúc hệ thống của thế giới nghệ thuật bằng việc
phân xuất các nhóm nghệ thuật chính là nghệ thuật ngôn ngữ, nghệ thuật âm nhạc,
nghệ thuật miêu tả ... và phân tích sự đa dạng của mỗi nhóm với các loại hình nghệ
thuật và các biến thể con của nó. Qua đó, ông đã nêu bật được những quy luật khách
quan của sự hình thành thế giới nghệ thuật và mang lại một cách nhìn mới mẻ trong
nghiên cứu về nghệ thuật.
Cũng nghiên cứu nghệ thuật với tính cách là một chỉnh thể, ở Việt Nam, có
công trình: Nghệ thuật học của Đỗ Văn Khang, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
2004. Với công trình này, Đỗ Văn Khang đã khái quát sự phát triển của nghệ thuật
qua các thời đại lịch sử với các tác giả, tác phẩm tiêu biểu và điển hình để rút ra
những đường nét lớn mà toàn bộ nghệ thuật chịu ảnh hưởng, cung cấp cho người
đọc cơ sở cần thiết để hiểu và vận dụng trong sáng tạo khoa học cũng như trong
thưởng thức, đánh giá các tác giả, tác phẩm và thời đại nghệ thuật.
Nghệ thuật còn được nghiên cứu với tư cách là một môn lịch sử. Ở góc độ
này, tác giả Xavier Barral Ialtet đã có một công trình khảo cứu đầy đủ trong Lịch sử
nghệ thuật được dịch sang tiếng Việt bởi Nguyễn Văn Quảng, Nxb. Thế giới, Hà
Nội, 2003. Theo Xavier Barral Ialtet, lịch sử nghệ thuật là một môn khoa học độc
lập được hình thành dần dần qua các trường phát tư tưởng nghệ thuật khác nhau.
Lịch sử nghệ thuật khác với các bộ môn khác như Khảo cổ học, Dân tộc học, Triết
học, Xã hội học, Lịch sử kinh tế ... nhưng lại có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với
chúng. Lịch sử nghệ thuật không có giới hạn về mặt địa lý. Phạm vi của lịch sử
nghệ thuật được chia thành hai nhóm lớn: một là các bộ phận hợp thành của nghệ
thuật như kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật màu sắc, nghệ thuật tạo hình..., hai là lịch
sử các hoạt động sáng tạo nghệ thuật động như sân khấu, múa, thơ ca, âm nhạc, điện
ảnh... Trong cuốn sách của mình, tác giả phân chia nghệ thuật thành các giai đoạn
theo tiến trình lịch sử và các phạm vi của nó thông qua các tác phẩm nghệ thuật và
các nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật. Theo tác giả, nghệ thuật được phân chia thành
12
bốn giai đoạn chính là thời Tiền sử và văn minh Cổ đại; thời Trung cổ, thời Phục
hưng, Barốc và chủ nghĩa Cổ điển; thế kỷ XIX và thời hiện đại. Trong mỗi giai
đoạn có các phạm vi nghệ thuật của nó. Chẳng hạn, thời tiền sử và văn minh cổ đại
có nghệ thuật Ai Cập, nghệ thuật Mésopotamie; thời trung cổ có nghệ thuật phương
Tây trung cổ với nghệ thuật Roman, nghệ thuật Gôtích và nghệ thuật không phải
phương Tây với Byzance, nghệ thuật đạo Hồi, nghệ thuật Á Đông, nghệ thuật châu
Mỹ, châu Phi và châu Đại Dương... Với cuốn sách này, Xavier Barral Ialtet đã vừa
làm công việc của một nhà phê bình nghệ thuật vừa làm công việc của một nhà sử
học: nhận ra các tác phẩm và tính xác thực của chúng, đưa ra nhận xét có tính phê
bình về các giá trị lịch sử và thời sự của chúng, định vị chúng trong khung cảnh lịch
sử của mỗi giai đoạn, tìm ra sự gần gũi của các tác phẩm về mặt khảo cổ nhằm khôi
phục các bước kỹ thuật của việc thực hiện chúng, tìm tòi các tài liệu viết liên quan
đến chúng và giới thiệu các tác phẩm ấy đến với công chúng rộng rãi.
Nghệ thuật không chỉ được nghiên cứu dưới góc độ lịch sử mà còn được
nghiên cứu dưới góc độ xã hội học. Tác giả Bùi Quang Thắng trong cuốn Xã hội
học nghệ thuật, Viện Văn hoá và Nxb. Văn hoá Thông tin, 1998 cho rằng cần thiết
phải nghiên cứu nghệ thuật dưới góc độ xã hội học với lý do: thứ nhất, xuất phát từ
thực tiễn nghệ thuật của các xã hội phát triển đa dạng, đột biến đến mức các nhà
nghiên cứu phải xét lại các lý thuyết nghệ thuật truyền thống; thứ hai, sự phân tầng
xã hội của các tầng lớp công chúng ngày càng phức tạp dẫn đến những phân tầng
trong nhu cầu, thị hiếu và thói quen tiêu dùng nghệ thuật. Vì vậy, vấn đề đặt ra là
phải có những phương tiện lý thuyết và thực nghiệm để nghiên cứu và định hướng
nghệ thuật trong công chúng. Từ những lý do đó, Xã hội học nghệ thuật của Bùi
Quang Thắng đã đi vào phân tích những quan điểm khác nhau về nghệ thuật trên
bình diện xã hội học, chỉ ra chức năng xã hội của nghệ thuật, nêu bật vị trí xã hội
học của nghệ thuật trong mối quan hệ với các khoa học khác có cùng đối tượng là
nghệ thuật. Đặc biệt, bằng cách tiếp cận xã hội học về nghệ thuật, trên cơ sở trình
bày phương diện lý thuyết của xã hội học thực nghiệm về nghệ thuật, dựa vào việc
phân tích một số loại hình nghệ thuật như âm nhạc, điện ảnh, sân khấu... tác giả đã
chỉ ra sự phân hoá của nghệ thuật, sự thay đổi của các quan hệ nghệ thuật gắn chặt
13
với sự phát triển của quan hệ tiền - hàng trong nền kinh tế tư bản. Tác giả cũng đề
cập đến sự gắn kết giữa các yếu tố nghệ sĩ - tác phẩm - công chúng với vấn đề nhu
cầu nghệ thuật đồng thời khẳng định rằng sự hiểu biết về nhu cầu, sở thích, kiểu
ứng xử của công chúng là cơ sở để thiết lập kế hoạch quản lý, tác động vào quá
trình hoạt động nghệ thuật.
Bên cạnh cách tiếp cận xã hội học, còn có một cách tiếp cận khác khi nghiên
cứu về nghệ thuật, đó là cách tiếp cận mang tính nhân học mà Cynthia Freeland đã
thực hiện trong cuốn Thế mà là nghệ thuật ư (But is it art) được dịch bởi Như Huy,
Nxb. Tri thức, năm 2009. Cuốn sách là một đề dẫn lý thuyết về nghệ thuật với mục
đích phổ cập nghệ thuật dành riêng cho công chúng phương Tây nhưng lại thể hiện
một sự minh triết, sâu sắc và gọn gàng của một nỗ lực đại chúng hoá triết học về
nghệ thuật. Cuốn sách đưa ra những phân tích về khái niệm nghệ thuật và tác phẩm
nghệ thuật đồng thời giúp người đọc tiếp cận với những lý thuyết mới nhất về nghệ
thuật hiện đang chi phối mặt bằng phê bình nghệ thuật phương tây, qua đó, có thể
nắm bắt được phần nào phương cách mà nghệ thuật đương đại thế giới đang quan
niệm. Đề dẫn lý thuyết về nghệ thuật này cũng phân tích sự phát triển của nghệ
thuật với tính cách là một hệ thống mở, đặt nghệ thuật trong mối liên hệ với các yếu
tố ngoại vi mà nó cho là có tác động tương tác tới những cuộc chuyển hoá của chính
khái niệm nghệ thuật. Với cách trình bày của mình, Cynthia Freeland đã “tìm ra
cách để chắt lọc các lý thuyết nghệ thuật, lịch sử mỹ học và cả một chuyến du hành
về lịch sử nghệ thuật vào một văn bản ngắn gọn với những thông tin phong nhiêu
một cách siêu hạng” (như Carolyn W. Korsmeyer ở đại học New York đã nhận xét).
Vì vậy, cuốn sách là một trong những tài liệu đối với luận án trong việc nghiên cứu
khái niệm nghệ thuật, sự phát triển của nghệ thuật và vấn đề những tác nhân làm
biến đổi đánh giá, thưởng thức, sáng tạo nghệ thuật.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, cũng có nhiều tác giả, nhiều nhà khoa
học quan tâm đến những vấn đề khác nhau của nghệ thuật như đời sống nghệ thuật,
hoạt động nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật, hay ý nghĩa thực tiễn của nghệ thuật
trong việc định hướng hoạt động của con người cũng như xây dựng hệ giá trị trong
xã hội... Sự quan tâm đó thể hiện qua rất nhiều các công trình như: Bàn về văn hoá
14
nghệ thuật của Trường Chinh, Nxb. Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, 1993; Văn hóa
thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam trong thế kỷ mới do tác giả Nguyễn
Văn Huyên chủ biên, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997; Văn
hóa thẩm mỹ và sự phát triển năng lực sáng tạo của con người của Nguyễn Ngọc
Thu, Nxb. Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh; Vai trò của nghệ thuật trong
giáo dục thẩm mỹ của Trần Tuý, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005; các luận
văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ như: Vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần của
con người của Đào Duy Thanh, Luận án tiến sĩ năm 1999; các bài viết trên các tạp chí
như: “Mấy suy nghĩ về vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện
nay”, Tạp chí Mỹ thuật thời nay, số 12 năm 1996 và “Văn hóa nghệ thuật với vấn đề
xây dựng và phát triển nhân cách trong tiến trình đổi mới ở nước ta hiện nay”, Tạp chí
Triết học, số 1 năm 2001 của Đỗ Huy; “Cái đẹp nghệ thuật và đời sống xã hội”, Tạp
chí Triết học, số 2 năm 1993 của Vũ Minh Tâm; “Đánh giá nghệ thuật - hệ chuẩn phổ
biến của hoạt động đánh giá thẩm mỹ”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 2000 của Đào Duy
Thanh; “Cội nguồn của ý thức thẩm mỹ và sự thức tỉnh những năng lực sáng tạo nghệ
thuật”, Tạp chí Triết học, số 2 năm 2002 của Đỗ Thị Minh Thảo ...
Tóm lại, nghệ thuật được nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có
công trình tiếp cận ở góc độ bản thể luận, có công trình tiếp cận ở góc độ giá trị
luận, có công trình phân tích các loại hình của nghệ thuật, có công trình lại phân
tích mối quan hệ giữa nghệ thuật với hoạt động thực tiễn của con người, v.v... Tuy
nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu nghệ thuật dưới góc độ cụ thể,
chẳng hạn, nghiên cứu vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên hiện nay. Đây là hướng nghiên cứu mới của luận án, làm rõ khía cạnh triết
học của mối liên hệ giữa nghệ thuật với quá trình giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nhằm
nhận thức rõ vai trò của nghệ thuật trong xây dựng chuẩn mực thẩm mỹ và hệ giá trị
thẩm mỹ ở một đối tượng cụ thể là sinh viên ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Những nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ
Thị hiếu thẩm mỹ cũng không phải là vấn đề mới mẻ trong lịch sử mỹ học. Từ
thế kỷ XVII - XVIII, đã có một số nhà triết học ở phương Tây... bắt đầu quan tâm
15
nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ. Người nghiên cứu thị hiếu thẩm mỹ rất công phu và
đầy đủ phải kể đến đầu tiên là I. Kant - nhà triết học của nền triết học cổ điển Đức thế
kỷ XVIII - XIX với tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán (được Bùi Văn Nam Sơn
dịch và chú giải, Nxb. Tri thức, 2007). Trong tác phẩm này, I. Kant đã trình bày toàn
bộ tư tưởng mỹ học của mình bằng việc tiến hành phân tích các dạng phán đoán phản
tư nhằm trả lời cho câu hỏi: tôi có thể cảm nhận và suy tưởng như thế nào về bản thân
mình và thế giới xung quanh? Có thể gọi Phê phán năng lực phán đoán là “viên đá
đỉnh vòm” trong toàn bộ toà nhà triết học Kant với vai trò là kết thúc của công cuộc
phê phán lý tính đồng thời tự đặt cho mình nhiệm vụ bàn về điều kiện khả thể cho hai
lĩnh vực khác xa nhau là năng lực phán đoán thẩm mỹ trong thế giới của cái đẹp, của
nghệ thuật, của tài năng thiên bẩm và năng lực phán đoán mục đích luận trong thế
giới hữu cơ cũng như trong sự thống nhất có hệ thống của toàn bộ giới tự nhiên. Vì
vậy, tác phẩm được chia thành hai phần rõ rệt, trong đó Kant dành toàn bộ phần một
để bàn về bản chất và hiệu lực của phán đoán thẩm mỹ.
Kant gọi thị hiếu thẩm mỹ là phán đoán thẩm mỹ hay phán đoán sở thích. Về
mặt chất, phán đoán sở thích là có tính thẩm mỹ mang tính chủ quan. Nó biểu hiện
cảm giác thích thú một cách độc lập, không phải tuân theo trình tự thông thường của
nhận thức. Theo Kant, phán đoán sở thích diễn tả sự thích thú, sự hài lòng của con
người về đối tượng. Sự thích thú, sự hài lòng đó không diễn tả tính chất nào ở đối
tượng mà chỉ là cách thức đối tượng tác động lên chúng ta; nó diễn ra trong chúng
ta mà chúng ta không cần quan tâm đến sự hiện hữu của vật. Vì vậy, Kant khẳng
định rằng, phán đoán thẩm mỹ về bản chất mang tính vô tư, không mục đích, không
khái niệm. Về mặt lượng, phán đoán sở thích mang tính phổ quát. Bởi vì, phán đoán
thẩm mỹ là sự vui sướng thuần tuý, không bị ràng buộc bởi bất kỳ ai hay bất kỳ
nguyên tắc nào. Kant lập luận rằng, sở dĩ phán đoán thẩm mỹ mang tính phổ quát vì
nó không đến từ cảm giác mà phát sinh từ trạng thái tâm lý con người đã thoát ra
mọi sự ràng buộc của những điều kiện riêng tư và đối tượng đến với ta một cách tự
do; khi đó, phán đoán thẩm mỹ tạo ra tín hiệu lan truyền của “tính giá trị hiệu lực
phổ biến”. Vì vậy, sở thích (thị hiếu) thẩm mỹ không dựa trên bất cứ một khái niệm
nào mà dựa trên tình cảm. Nói cách khác, phán đoán thẩm mỹ là phán đoán sở thích
16
thuần tuý chứ không phải là các loại phán đoán mang tính khái niệm hay mục đích.
Từ sự phân biệt ấy, Kant vạch ra đặc điểm của phán đoán thẩm mỹ là sự hài lòng do
cách thức cảm nhận của chủ thể về đối tượng quyết định và bao giờ cũng là một
phán đoán cá biệt về đối tượng. Cho nên, “không thể có một nguyên tắc khách quan
nào về sở thích” [57, tr.219] và “nguyên tắc của sở thích là nguyên tắc chủ quan của
năng lực phán đoán nói chung” [57, tr.221]. Như vậy, quan niệm của Kant về nguồn
gốc và bản chất của thị hiếu thẩm mỹ mang đậm tính duy tâm chủ quan. Đồng thời,
sự trình bày của Kant về phán đoán thẩm mỹ cũng cho thấy ông đã không giải quyết
được mối quan hệ giữa tính cá biệt và tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ. Trong lập
luận của mình, Kant đưa ra phương thức để xác lập tính tất yếu về sự hài lòng đối
với cái đẹp là bằng sự suy tưởng. Vì là suy tưởng nên Kant cho rằng tính tất yếu về
cái đẹp thông qua phán đoán thẩm mỹ là một tất yếu đặc biệt còn được gọi là tất
yếu điển hình. Một sự tất yếu của việc mọi người nhất trí với một phán đoán được
coi là mẫu mực cho một qui tắc phổ quát về cái đẹp. Qui tắc phổ quát này, theo
Kant, ta không nêu rõ được nhưng vẫn tồn tại. Sở dĩ không nêu rõ ra được vì đây là
nguyên tắc hoàn toàn chủ quan trong sự xác định cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp
bằng cảm giác mà thôi chứ không bằng khái niệm nhưng vẫn có giá trị phổ quát.
Ông đi đến giả thiết rằng: trong phán đoán về sự hài lòng có sự tồn tại của sự cảm
quan chung. Chính cảm quan chung này quy định tính tất yếu phổ quát của phán
đoán thẩm mỹ. Tuy nhiên, thực tế vẫn xảy ra là khi đứng trước một bức tranh thì có
người say mê chiêm ngưỡng nhưng vẫn có kẻ thờ ơ. Rõ ràng ở mỗi người có quy
phạm hay chuẩn mực thẩm mỹ riêng của bản thân. Trong phán đoán sở thích thì
những quy phạm, chuẩn mực này không thể là khách quan. Vậy thì làm sao có cảm
quan chung về cái đẹp? Kant đành phải biện minh rằng: “... kinh nghiệm không thể
được lấy làm cơ sở cho cảm quan chung này được, bởi vì cảm quan chung là nhằm
biện minh cho những phán đoán có chứa đựng một cái “nên là” (ein Sollen); nó
không nói rằng bất cứ ai cũng sẽ đồng ý với phán đoán của ta, trái lại, nên đồng ý
với ta. (...) nên cảm quan chung chỉ là một quy phạm hay chuẩn mực đơn thuần có
tính lý tưởng mà thôi” [57, tr.133]. Như vậy, bản thân Kant đã tự mâu thuẫn với
chính mình khi xem xét về tính cá biệt và tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ.
17
Tóm lại, dù có những phức tạp trong tư tưởng nhưng Phê phán năng lực
phán đoán của Kant mà đặc biệt là phần một của tác phẩm đã thể hiện một sự
nghiên cứu công phu về thị hiếu thẩm mỹ. Đây là một tư liệu quan trọng để luận án
khái quát, so sánh những quan điểm khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ trong lịch sử mỹ
học khi phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về thị hiếu thẩm mỹ.
Sau Kant, các nhà mỹ học dân chủ Nga như N. Khasenco, N. Tsécnưsépxki,
G. Plêkhanốp... cũng có những công trình nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ. Một đại
diện trong số họ là G. Pơlêkhanốp. Những nghiên cứu về mỹ học và nghệ thuật của
ông được trình bày trong tác phẩm Nghệ thuật và đời sống xã hội (Từ Lâm dịch),
Nxb. Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, 1963, trong đó, những vấn đề về thị hiếu thẩm
mỹ được trình bày chủ yếu ở phần Bàn về nghệ thuật (từ trang 126 đến 164). Trên
quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ông đã chứng minh mọi thị hiếu thẩm mỹ
đều có nguồn gốc xã hội của chúng. Ông cho rằng, sự phát triển của nghệ thuật
không thể tách rời sự phát triển của những điều kiện vật chất xã hội, do đó sự thay
đổi các thị hiếu thẩm mỹ qua các thời kỳ hoàn toàn phụ thuộc vào quá trình đấu
tranh giai cấp cũng như chịu sự quyết định của các điều kiện lịch sử và xã hội của
chúng. Theo ông, bản chất, thị hiếu, ước vọng, tập quán của con người đều thay đổi
theo những điều kiện sinh hoạt của họ. Vì vậy, “phải căn cứ vào tình trạng lực
lượng sản xuất của họ, nghĩa là vào phương thức sản xuất của họ, để tìm ra nguyên
nhân tại sao họ lại có những thị hiếu và quan niệm thẩm mỹ này, chứ không phải là
những thị hiếu và quan niệm khác” [97, tr.163]
Ở Việt Nam, các công trình của các tác giả Đỗ Huy, Đỗ Văn Khang, Nguyễn
Văn Huyên, Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh, ... đều có đề cập đến thị hiếu thẩm mỹ. Trong
số đó, tác giả Đỗ Huy là người có nhiều công trình nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ
khá công phu và cặn kẽ.
Trong công trình Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996, Đỗ Huy đã dành toàn bộ chương X để bàn về bản chất của thị
hiếu thẩm mỹ. Coi thị hiếu thẩm mỹ là một biểu hiện quan trọng của năng lực thẩm
mỹ, là phong vũ biểu thẩm mỹ của con người trong thưởng thức, đánh giá và sáng
tạo nghệ thuật, tác giả đã giới thiệu một cách tỉ mỉ các quan điểm của mỹ học Mác –
18
Lênin về cơ sở hình thành của thị hiếu thẩm mỹ, bản chất xã hội và các đặc trưng
chủ yếu của thị hiếu thẩm mỹ thể hiện ở tính phản ứng mau lẹ, sự hào hứng, tính cá
biệt, tính hệ thống hình tượng, tính giai cấp, tính dân tộc. Tác giả còn có những
phân tích cặn kẽ hơn về thị hiếu thẩm mỹ trên quan điểm của mỹ học Mác – Lênin
trong công trình Mỹ học – Khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2001. Trên lập trường của mỹ học Mác – Lênin, tác giả phân tích các
quan điểm khác nhau về các quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực từ tri
giác, biểu tượng, phán đoán, nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng đến cái đẹp, cái cao cả, cái
bi, cái hài, hưởng thụ, đáng giá và sáng tạo nghệ thuật, ... Đặc biệt, khi nghiên cứu
mặt chủ thể của các quan hệ thẩm mỹ, tác giả trình bày vai trò to lớn của chủ thể
trong quan hệ thẩm mỹ, trong đó nhấn mạnh vai trò của thị hiếu thẩm mỹ đồng thời
nêu bật quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về yêu
cầu nâng cao và phát huy vai trò của thị hiếu thẩm mỹ trong hưởng thụ, đánh giá và
sáng tạo nghệ thuật cho xã hội.
Cũng nghiên cứu về vấn đề thị hiếu thẩm mỹ, còn có công trình Thoả mãn
nhu cầu văn hoá và nâng cao thị hiếu nghệ thuật của tập thể tác giả Viện Văn hoá,
Nxb Văn hoá nghệ thuật – Hà Nội, 1987. Công trình này gồm tập hợp các bài viết
về các góc độ của nhu cầu văn hoá và thị hiếu nghệ thuật. Các tác giả qua các bài
viết của mình đều thể hiện quan điểm thống nhất giữa thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu
nghệ thuật, coi thị hiếu nghệ thuật là biểu hiện của thị hiếu thẩm mỹ trong lĩnh vực
nghệ thuật và thị hiếu thẩm mỹ là bộ phận quan trọng nhất của nhu cầu văn hoá, nhu
cầu sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật. Tác giả Dương Viết Á trong bài Thưởng
thức nghệ thuật cho rằng, thị hiếu thẩm mỹ có tác động trực tiếp đến thưởng thức
nghệ thuật của từng con người cụ thể. Theo ông, thị hiếu là cái “gu”, cái khiếu, cái
sở thích riêng của từng người. Thị hiếu tuy mang sắc thái phán đoán nhưng là phán
đoán cảm tính, trực quan, là sự đánh giá thẩm mỹ nhưng chưa phải là sự đánh giá lý
tính. Xét về quá trình nhận thức, thị hiếu thẩm mỹ thuộc giai đoạn trực quan sinh
động và có tác động sâu sắc đến quá trình thưởng thức nghệ thuật của con người.
Thị hiếu thẩm mỹ là nơi bộc lộ cái riêng của con người trong thưởng thức nghệ
thuật. Cái riêng của thị hiếu thẩm mỹ của một người là một hình thức cụ thể biểu
19
hiện và phản ánh trong một mức độ nhất định trình độ, xu hướng nói chung của một
xã hội, một thời đại. Vì vậy, nếu xoá bỏ thị hiếu thì không còn cái riêng của con
người nữa, lúc đó, xã hội sẽ mất hết ý nghĩa. Cùng chung quan điểm với tác giả
Dương Viết Á, tác giả Lê Anh Trà trong bài Vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ đã
phân tích cơ chế hình thành của thị hiếu thẩm mỹ trên cơ sở gắn liền thị hiếu thẩm
mỹ với nhân sinh quan, thế giới quan, trình độ văn hoá, lý tưởng, trí tuệ và toàn bộ
nhân cách, lối sống của chủ thể nhất định.
Tác giả Lâm Vinh trong Mỹ học: về cái đẹp – về nghệ thuật – về con người,
Nxb. Đại học Sư phạm – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 1997 cho rằng,
thị hiếu thẩm mỹ là một hiện tượng của sự thống nhất giữa tình cảm và lý trí trong
con người. Theo tác giả, thị hiếu thẩm mỹ cũng như mọi loại hiện tượng khác đều
mang tính chất quy luật. Có nhiều loại quy luật chi phối nhưng có ba loại quy luật
thường xuyên tác động đến sự hình thành và phát triển của thị hiếu thẩm mỹ. Đó là,
quy luật xã hội học, quy luật tâm lý và quy luật thẩm mỹ học. Trên cơ sở đó, ông đã
có những phân tích ngắn gọn nhưng sâu sắc về vai trò của từng loại quy luật khi tác
động đến sự hình thành và phát triển của thị hiếu thẩm mỹ.
Đặc biệt, những năm đầu của thế kỷ XXI, nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ có
công trình Luận án tiến sĩ Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống thẩm
mỹ của Nguyễn Chương Nhiếp, Viện Triết học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân
văn, Hà Nội, 2000. Trong luận án này, tác giả trình bày một cách có hệ thống các
phương diện khác nhau của thị hiếu thẩm mỹ và đời sống thẩm mỹ, phân tích sâu
sắc về vai trò của thị hiếu thẩm mỹ đối với đời sống thẩm mỹ, đồng thời đề xuất
một số nguyên tắc và giải pháp nhằm nâng cao và phát huy vai trò của thị hiếu thẩm
mỹ trong đời sống thẩm mỹ ở nước ta những năm đầu của thế kỷ XXI. Sau đó, trên
cơ sở kết quả của luận án, Nguyễn Chương Nhiếp đã cho xuất bản cuốn Thị hiếu
thẩm mỹ trong đời sống, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Cuốn sách góp
phần làm sáng tỏ bản chất và vai trò của thị hiếu thẩm mỹ nhằm thực hiện yêu
cầu nâng cao và phát huy vai trò thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, tạo điều kiện
cho công chúng hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo ngày càng nhiều giá trị thẩm mỹ
cho xã hội.
20
Từ những nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ, các nhà nghiên cứu đã bày tỏ sự
quan tâm đến vai trò của giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thị hiếu thẩm mỹ. Nếu
không kể đến các giáo trình mỹ học hay các tập bài giảng mỹ học vì trong đó phần
giáo dục thẩm mỹ là phần không thể thiếu thì nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ đầu
tiên phải kể đến là cuốn Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới Việt Nam
của tác giả Lê Anh Trà, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982. Cuốn sách trình bày về vai trò
của giáo dục thẩm mỹ và yêu cầu xây dựng con người mới Việt Nam trước thời kỳ
đất nước đổi mới, trong đó, tác giả xác định nội dung cốt lõi của giáo dục thẩm mỹ
đối với việc xây dựng con người mới Việt Nam là cái đẹp mới xã hội chủ nghĩa –
cái đẹp bắt nguồn từ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc kết hợp với lối
sống xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những lĩnh
vực của giáo dục thẩm mỹ, đó là giáo dục thẩm mỹ trong lĩnh vực thiên nhiên, giáo
dục thẩm mỹ qua lĩnh vực đời sống xã hội với môi trường gia đình, trường học, lĩnh
vực lao động sản xuất và bảo vệ tổ quốc, các nếp sống ngoài lao động và giáo dục
thẩm mỹ qua lĩnh vực nghệ thuật.
Tiếp theo là công trình Giáo dục thẩm mỹ - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
của Đỗ Huy, Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1987. Cuốn sách trình bày những vấn
đề phương pháp luận trong việc giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới; Vai
trò của mỹ học Mác - Lênin trong việc định hướng sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ;
Bản chất của giáo dục thẩm mỹ trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta
xung quanh các chủ đề: Giáo dục thẩm mỹ và việc định hướng các nhu cầu thẩm
mỹ, giáo dục thẩm mỹ và việc xây dựng các thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, giáo dục
thẩm mỹ và sự hình thành các khả năng sáng tạo. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra
các hình thức và các biện pháp giáo dục thẩm mỹ hiệu quả, đó là: giáo dục thẩm mỹ
bằng và thông qua lao động; giáo dục thẩm mỹ thông qua những tấm gương người
tốt, việc tốt; giáo dục thẩm mỹ thông qua hệ thống thông tin đại chúng và giáo dục
thẩm mỹ bằng nghệ thuật và trong nghệ thuật.
Trong vấn đề giáo dục thẩm mỹ, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến
đối tượng là thế hệ trẻ. Đỗ Xuân Hà trong công trình Giáo dục thẩm mỹ, món nợ lớn
đối với thế hệ trẻ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997 đã chỉ ra rằng, nhiệm vụ giáo dục
21
thẩm mỹ cho thế hệ trẻ nói chung và học sinh phổ thông nói riêng là nhiệm vụ cấp
bách của những người làm giáo dục. Xuất phát từ việc nghiên cứu một số vấn đề
giáo dục thẩm mỹ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức sâu sắc về vai trò của
giáo dục thẩm mỹ đối với thế hệ trẻ, cuốn sách khái quát quá trình thực hiện hoạt
động giáo dục thẩm mỹ cho học sinh trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam và
một số kinh nghiệm giáo dục thẩm mỹ cho học sinh trong nhà trường ở Liên Xô
trước đây. Qua đó, tác giả phân tích mối liên hệ giữa vai trò của giáo dục thẩm mỹ
trong việc xây dựng mô hình nhân cách con người trước những yêu cầu của xã hội
Việt Nam đang đổi mới với việc thực hiện hoạt động giáo dục thẩm mỹ cho học
sinh ở bậc phổ thông. Đồng thời, tác giả đề xuất các hình thức giáo dục thẩm mỹ
cho các em học sinh trong các môn học cụ thể như Văn học, Toán học và khoa học
tự nhiên hay các môn nghệ thuật như âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sân
khấu, nghệ thuật điện ảnh ...
Ngoài ra, còn có những công trình như: Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ của Vũ
Minh Tâm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998; Về giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay
của Nguyễn Vĩnh Lê, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Cái đẹp với vấn đề
giáo dục thẩm mỹ trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam của Nguyễn Thị
Nga, Luận văn Thạc sĩ, 1999; những bài viết trên các tạp chí như “Tiếp cận giáo
dục thẩm mỹ từ phương diện không gian và thời gian của hình tượng nghệ thuật”
của Trần Tuý đăng trên tạp chí Triết học số 3 năm 1996; “Vài khía cạnh phương
pháp luận của vấn đề giáo dục thẩm mỹ với sự hình thành con người mới” của Tạ
Văn Thành, “Giáo dục thẩm mỹ và vấn đề hình thành các khả năng sáng tạo” của
Đỗ Huy, “Giáo dục thẩm mỹ và việc định hướng nhu cầu thẩm mỹ” của Hồng Mai
đều đăng trên tạp chí Triết học, số 3 năm 1983; ba bài của Đỗ Xuân Hà: Về giáo
dục thẩm mỹ cho học sinh bằng nghệ thuật tạo hình, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục,
số 5, 1992, Giáo dục đạo đức - thẩm mỹ cho thanh niên, thiếu niên bằng nghệ thuật
sân khấu, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 6, 1993, Giáo dục thẩm mỹ - món nợ
lớn đối với thế hệ trẻ, Tạp chí Thế giới mới, số 98, 1994;... đều có những phân tích
sâu sắc về các khía cạnh của giáo dục thẩm mỹ.
22
Thị hiếu thẩm mỹ là biểu hiện tập trung nhất của ý thức thẩm mỹ. Do đó, về
cơ bản, các công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ nói trên đều đề
cập đến giáo dục thị hiếu thẩm mỹ với tính cách là một bộ phận cơ bản của giáo dục
thẩm mỹ. Tuy nhiên, cũng cần có một công trình khoa học nghiên cứu giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ với tính cách là một đối tượng riêng biệt thật sự. Đây là hướng nghiên
cứu mới của luận án, làm rõ các nội dung của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ và vai trò
của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ đối với việc phát triển con người toàn diện, đáp ứng
yêu cầu xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
1.1.3. Những nghiên cứu về vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
Trong các công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ như Giáo
dục thẩm mỹ - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn của Đỗ Huy, Về giáo dục thẩm mỹ ở
nước ta hiện nay của Nguyễn Vĩnh Lê, Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ của Vũ Minh
Tâm... hay trong các Giáo trình mỹ học của các tác giả Đỗ Huy, Đỗ Văn Khang, Lê
Đình Lục... đều có bàn về vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
và việc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ với tính cách là biểu
hiện cơ bản của giáo dục thẩm mỹ. Nổi bật là công trình Luận án tiến sĩ Vai trò của
nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ của Trần Tuý, Viện Triết học – Trung tâm khoa
học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội, 1998. Luận án này phân tích vai trò của
nghệ thuật trong việc phát triển nhân cách; đồng thời phân tích sự tác động của nghệ
thuật tới công chúng và tìm hiểu cơ chế tiếp nhận của công chúng trong các quan hệ
nghệ thuật cụ thể; qua đó vạch ra các giải giáp nâng cao vai trò của nghệ thuật trong
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ. Trên cơ sở kết quả của luận án, Trần Tuý đã cho xuất
bản cuốn Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2005. Cuốn sách góp phần làm sáng tỏ những khả năng tiềm ẩn của nghệ
thuật trong giáo dục thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật trong việc phát triển khía
cạnh thẩm mỹ của nhân cách, đặc biệt nhấn mạnh vai trò định hướng của nghệ thuật
đối với sự phát triển nhu cầu thẩm mỹ và xây dựng thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh
trong giáo dục thẩm mỹ cho con người.
Liên quan đến vấn đề vai trò của nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ, luận án
tiến sĩ Vai trò của văn học trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay của Lê
23
Quang Vinh bảo vệ năm 1996 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã
phân tích vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thẩm mỹ trong phạm vi của một bộ
môn nghệ thuật cụ thể là văn học. Bằng việc khảo sát bản chất của giáo dục thẩm
mỹ và vai trò của văn học trong việc giáo dục thẩm mỹ, luận án này đã tìm ra mối
liên hệ nội tại giữa văn học với giáo dục thẩm mỹ để lý giải những khía cạnh tác
động đặc biệt của văn học với quá trình giáo dục thẩm mỹ. Đồng thời, luận án này
cũng đã khảo sát thực trạng tình hình văn học trong những năm đầu của quá trình
đổi mới đất nước đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho công chúng và đề xuất các giải
pháp có ý nghĩa khả thi trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của văn học
trong giáo dục thẩm mỹ.
Nếu coi thị hiếu thẩm mỹ là biểu hiện đặc trưng của đời sống tinh thần của
con người và giáo dục thẩm mỹ là nâng cao năng lực thẩm mỹ của chủ thể trong
hoạt động nhận thức, hoạt động đánh giá và hoạt động sáng tạo thẩm mỹ thì mối
quan hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ cũng được phân tích trong luận án
tiến sĩ Vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người của Đào Duy
Thanh (Viện Triết học – Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà
Nội, 1999). Trong luận án này, tác giả chỉ ra rằng, “với tính cách là một bộ phận của
đời sống tinh thần, sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật không chỉ góp phần nâng
cao và làm phong phú thế giới tinh thần mà còn tác động độc đáo tới sự phát triển
những năng lực nhận thức, đánh giá và sáng tạo của con người. Bởi vì, nghệ thuật
với sức mạnh tiềm ẩn của mình, nó có khả năng bộc lộ một cách sâu xa, sinh động
và tổng hợp nhất nơi tâm hồn con người cái chỉnh thể toàn vẹn của những khát
vọng, những giá trị: chân - thiện - mỹ ...” [105, tr.1]
Ngoài ra, trên các tạp chí Triết học, tạp chí Mỹ thuật thời nay, tạp chí Thông
tin Khoa học xã hội, tạp chí Nghiên cứu lý luận... cũng có những bài viết như:
“Mấy suy nghĩ về vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện
nay” của Đỗ Huy, “Cội nguồn của ý thức thẩm mỹ và sự thức tỉnh những năng lực
sáng tạo nghệ thuật” của Đỗ Thị Minh Thảo, “Tiếp cận giáo dục thẩm mỹ từ
phương diện không gian và thời gian của hình tượng nghệ thuật” của Trần Tuý,
“Nghệ thuật và vấn đề giáo dục thị hiếu” của Nguyễn Chương Nhiếp, “Vài khía
24
cạnh phương pháp luận của vấn đề giáo dục thẩm mỹ với sự hình thành con người
mới” của Tạ Văn Thành, “Giáo dục thẩm mỹ và vấn đề hình thành các khả năng
sáng tạo” của Đỗ Huy, “Giáo dục thẩm mỹ và việc định hướng nhu cầu thẩm mỹ
của Hồng Mai... phân tích các mặt, các góc độ khác nhau của nghệ thuật, của giáo
dục thẩm mỹ và mối liên hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ thể hiện sự quan
tâm sâu sắc của các nhà khoa học đối với nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ ngày
càng nhiều hơn, phong phú hơn.
Các công trình trên chủ yếu bàn về vai trò của nghệ thuật với giáo dục thẩm
mỹ nói chung, tuy nhiên, cần có một công trình nghiên cứu đi sâu phân tích mối
quan hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, đặc biệt là vấn đề nghệ
thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên - một đối tượng có ảnh hưởng lớn
đối với sự phát triển của xã hội. Đây là hướng nghiên cứu mới của luận án, làm rõ
vai trò của nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện
nay. Đồng thời, luận án kế thừa những lý luận cơ bản về vai trò của nghệ thuật đối với
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, sự cần thiết của nghệ thuật trong xây dựng thị hiếu thẩm mỹ
tốt, lành mạnh cho sinh viên giúp họ hình thành một hệ chuẩn giá trị trong nhân cách,
lối sống nhằm phát triển hoàn thiện trước yêu cầu mới của xã hội hiện đại.
1.2. Những nghiên cứu về thực trạng thị hiếu thẩm mỹ và thực trạng vận dụng
nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nƣớc ta hiện nay
Thực trạng thị hiếu thẩm mỹ của quần chúng nhân dân nói chung và của sinh
viên nói riêng đang là một vấn đề bức xúc trong toàn xã hội. Nhiều tác giả, nhiều
nhà nghiên cứu và nhiều công trình khoa học đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối
với vấn đề này. Trong công trình nghiên cứu khoa học Thoả mãn nhu cầu văn hoá
và nâng cao thị hiếu nghệ thuật, Viện Văn hoá, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1987, các
tác giả đã nhận thấy sự biến đổi trong thị hiếu thẩm mỹ có tác động không nhỏ đến
đời sống tinh thần, đặc biệt là với nhu cầu văn hoá của con người. Trong đó, Hoàng
Thanh với bài viết “Nhu cầu sinh hoạt điện ảnh trong đời sống văn hoá ở cơ sở” và
Đinh Kim Long với bài viết “Một số vấn đề về thị hiếu và trình độ lĩnh hội giá trị
tác phẩm của khán giả điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh” đã thống kê số liệu từ các
cuộc khảo sát về loại hình nghệ thuật điện ảnh trong đời sống văn hoá nói chung và
25
của khán giả thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, qua đó, rút ra những kết luận về sự
biến đổi trong thị hiếu thẩm mỹ của công chúng thuộc lĩnh vực điện ảnh vào những
năm đầu của thời kỳ đổi mới.
Thị hiếu thẩm mỹ còn được coi là biểu hiện của năng lực cảm thụ thẩm mỹ.
Liên quan đến thực trạng thị hiếu thẩm mỹ với tính cách là biểu hiện của năng lực
cảm thụ thẩm mỹ, Hồ Sĩ Vịnh đã có những nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về vấn đề
này của một đối tượng đặc trưng là người Hà Nội trong công trình Cảm thụ thẩm
mỹ và người Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007. Trong công trình này,
tác giả đã công bố kết quả khảo sát đánh giá thực trạng cảm thụ thẩm mỹ của người
Hà Nội trên tám lĩnh vực: trong sinh hoạt ăn, ở, mặc, đi lại; trong sử dụng thời gian
rỗi; thông qua mức tiêu dùng, hưởng thụ văn hoá – thông tin nghệ thuật; qua hoạt
động nghệ thuật; trong ứng xử với môi trường thiên nhiên; trong ứng xử với bản
thân mình; trong ứng xử với gia đình, họ tộc, bạn bè, đồng nghiệp...; trong ứng xử
nơi công cộng.
Gần đây, Viện Nghiên cứu Phát triển thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội
thảo khoa học: Định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh
với sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh. Các bài viết tại Hội thảo được tập hợp lại trong cuốn: Thị hiếu thẩm mỹ của
giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hoá văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh,
2013. Cuốn sách bàn về thực trạng thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí
Minh qua việc phân tích tác động của các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, điện
ảnh, thời trang, văn hoá đọc... và nêu lên các kiến nghị nhằm xây dựng hệ thống
chuẩn mực trong thị hiếu thẩm mỹ cho giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh trên một số
lĩnh vực hoạt động nghệ thuật cụ thể. Trong sách này, Ngô Hoài Sơn với bài “Thị
hiếu thẩm mỹ và những biến đổi trong thanh niên thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”
đã lập ra một bảng khảo sát khá chi tiết về những biến đổi trong thị hiếu thẩm mỹ
của thanh niên ở thành phố Hồ Chí Minh từ trong lĩnh vực nghệ thuật đến cách thể
hiện bản thân, từ trong ứng xử giữa người với người, đến trong đối xử với môi
trường tự nhiên xung quanh. Vũ Thị Thu Hương với bài “Ảnh hưởng của văn hoá
nước ngoài đến thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ từ góc nhìn thời trang Cosplay” thì
26
chỉ ra biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ trong lĩnh vực thời trang của giới trẻ thành phố
Hồ Chí Minh dưới ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài như truyện tranh Nhật Bản,
lễ hội Hallowen của phương Tây... Mai Thị Quế với bài “Thị hiếu thẩm mỹ đối với
trang phục của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” cũng chỉ ra những biểu
hiện của sự biến đổi thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh trong
việc lựa chọn trang phục v.v...
Cũng bàn về thực trạng của thị hiếu thẩm mỹ, trên trang điện tử
tapchicuaviet.com.vn của Diễn đàn văn hoá – văn học nghệ thuật của tỉnh Quảng
Trị, Đinh Xuân Dũng trong bài viết Thị hiếu thẩm mỹ - thực trạng, sự biến đổi và
vấn đề giáo dục thẩm mỹ đã chỉ ra rằng, sự biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ của công
chúng hiện nay đang diễn ra theo bốn chiều hướng: đa dạng hoá, cá thể hoá, phân
nhóm và phân hoá. Sự hình thành các thị hiếu thẩm mỹ mới ngày càng bộc lộ rõ sự
khác nhau, đối chọi nhau trong tiếp nhận, đánh giá, cảm thụ tác phẩm nghệ thuật.
Đối với chủ thể tiếp nhận, những biến đổi trong thị hiếu thẩm mỹ còn thể hiện rất
phong phú trong xu hướng khác nhau khi tiếp cận các loại hình nghệ thuật và cả các
thể loại cụ thể trong từng loại hình nghệ thuật. Với những phân tích về sự biến đổi
của thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, tác giả đưa ra nhận định rằng, thị hiếu thẩm
mỹ ở nước ta đang diễn ra một quá trình giao thời, chuyển tiếp, chưa định hình. Và
đây là quy luật tất yếu khách quan của sự phát triển thị hiếu thẩm mỹ trước sự tác
động của nền kinh tế - xã hội và hoạt động nghệ thuật.
Trong lĩnh vực âm nhạc, phát biểu tại Hội thảo khoa học Lý luận phê bình âm
nhạc - Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương năm 2012, tiến sĩ Phạm
Trọng Toàn đã nêu lên sự khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ trong thưởng thức âm nhạc
của những người ở lứa tuổi trung niên (từ 40 tuổi trở lên) và những người trẻ tuổi
(dưới 40 tuổi), đồng thời đưa ra nhận định: đang có tình trạng thị hiếu thẩm mỹ lệch
lạc trong một bộ phận công chúng trẻ hiện nay. Còn Thuỵ Du trong bài “Thị hiếu của
công chúng trẻ và âm nhạc thị trường” đăng trên báo Nhân dân (trang điện tử
nhandan.com.vn ngày 29/8/2014) thì đặt ra vấn đề: phải chăng thị hiếu thẩm mỹ của
giới trẻ hiện nay đang thay đổi theo chiều hướng tiêu cực sau khi phân tích những
biểu hiện của giới trẻ trong sáng tạo và thưởng thức âm nhạc qua các tác phẩm âm
nhạc đang lưu hành trên thị trường hiện nay.
27
Không chỉ tìm hiểu thực trạng, các công trình nghiên cứu còn đi đến phân
tích nguyên nhân biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ. Tác giả Dương Viết Á trong bài
“Thưởng thức nghệ thuật” (sách Thoả mãn nhu cầu văn hoá và nâng cao thị hiếu
nghệ thuật) khẳng định rằng “không thể đơn giản trong việc giải thích nguyên nhân hình
thành một thị hiếu thẩm mỹ” [22, tr.170]. Bởi vì, “thị hiếu không phải là một cái gì mang
tính chất tiên thiên, “trời phú”, nó là sản phẩm của một quá trình. Điều kiện xã hội, quan
hệ chung và riêng, cuộc đời, hoàn cảnh sinh hoạt, sinh lý, tâm lý, giới tính, lứa tuổi, nghề
nghiệp, trình độ văn hoá, những bước thăng trầm, may rủi trong cuộc sống riêng... Thậm
chí kể cả những sự kiện, những biến động ngẫu nhiên trong cuộc đời đều là những
nguyên nhân tạo nên một thị hiếu nhất định” [22, tr.170], “thị hiếu thẩm mỹ hình thành là
sản phẩm của một quá trình; quá trình này lại là một sự phản ứng trước cuộc sống và
tổng hoà những quan hệ xã hội” [22, tr.169]. Do đó, phân tích nguyên nhân biến đổi của
thị hiếu thẩm mỹ cần phải có cái nhìn biện chứng.
Trong công trình Cảm thụ thẩm mỹ và người Hà Nội, Hồ Sĩ Vịnh cũng chỉ ra
nguyên nhân của quá trình biến đổi cảm thụ thẩm mỹ (trong đó thị hiếu thẩm mỹ là
một biểu hiện) của người Hà Nội là sự tác động của nhân tố kinh tế - xã hội, sự tác
động của quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá và sự tác động của xu thế toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, cùng quan điểm với Hồ Sĩ Vịnh, Hà
Thanh Vân trong bài “Tác động của Internet lên thị hiếu thẩm mỹ về văn hoá nghệ
thuật của thanh niên” (sách Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh,
Nxb. Văn hoá văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2013) nhấn mạnh tác động của
Internet là một trong những nguyên nhân nổi bật làm biến đổi thị hiếu thẩm mỹ của
thanh niên nói chung và thanh niên thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Cũng nghiên cứu về nguyên nhân biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ, Luận án
Phó tiến sĩ Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh niên qua hệ thống thiết chế nhà
văn hoá (Đại học Sư phạm Hà Nội, 1996) của Trần Quốc Bảng phân tích ảnh hưởng
của các giá trị văn hoá tinh thần truyền thống của dân tộc và thực tiễn sinh hoạt văn
hoá, nghệ thuật đa dạng, phong phú, phức tạp với những tác động tích cực và tiêu
cực lên thị hiếu thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ của thanh niên. Trong khi đó, Nguyễn
Minh Hạnh trong bài Thị hiếu âm nhạc của sinh viên đại học thành phố Hà Nội hiện
28
nay trên trang điện tử spnttw.edu.vn ngày 18/7/2014 của Trường Đại học Sư phạm
Nghệ thuật Trung ương thì nêu ra sự bất cập và thiếu hụt của môi trường giáo dục
đối với thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên trong lĩnh vực cụ thể là âm nhạc.
Gần đây nhất, Đỗ Huy trong bài “Giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thế hệ trẻ ở
nước ta hiện nay” đăng trên tạp chí Triết học số 12 năm 2014 cũng chỉ ra rằng, có rất
nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan trong sự biến đổi của thị hiếu
thẩm mỹ của giới trẻ dẫn đến sự thành công và không thành công trong hoạt động
nghệ thuật của họ, và một trong những nguyên nhân ấy là vấn đề nhận thức về lĩnh
vực thị hiếu nghệ thuật.
Các công trình trên đã có những nghiên cứu đa dạng về các mặt, các lĩnh vực
của thực trạng thị hiếu thẩm mỹ. Tuy nhiên, các kết quả chỉ dừng lại ở việc khảo sát
đối tượng chung là quần chúng nhân dân, và nếu sâu hơn thì cũng chỉ dừng lại ở
khảo sát giới trẻ nói chung mà chưa đi vào khảo sát thực trạng vận dụng nghệ thuật
trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên – đối tượng sẽ gia nhập vào lực
lượng lao động để trở thành động lực phát triển cho xã hội. Kết quả khảo sát của các
công trình trên đây là tư liệu quý giá cho luận án tiến hành khảo sát thực trạng vận
dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay.
Những kết quả đó là cơ sở để luận án phân tích những vấn đề đặt ra với vận dụng
nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay và đề
xuất những phương hướng, giải pháp vận dụng nghệ thuật vào giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho sinh viên.
1.3. Những nghiên cứu về nguyên tắc và giải pháp vận dụng nghệ thuật trong
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nƣớc ta hiện nay
1.3.1. Những nghiên cứu về nguyên tắc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Quan điểm vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ đã có từ trong các
tác phẩm của các nhà tư tưởng thời cổ đại, thời Phục hưng và thời Khai sáng cho
đến chủ nghĩa Mác – Lênin, I. Kant đã cho rằng, nghệ thuật tuy không có quy luật
nhưng tác động một cách có quy luật, không có dụng ý nhưng tác động một cách có
dụng ý. Còn Hegel thì cho rằng nghệ thuật không nhằm giáo huấn, tu thiện, thanh
29
khiết hoá tâm hồn mà nhằm bộc lộ chân lý qua các hình thức cảm tính, qua cách bố
trí nghệ thuật. Đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng nghệ thuật trong giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ là một trong những hình thức giáo dục thẩm mỹ có hiệu quả cao.
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong các công trình khoa học của
mình như Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Mỹ học với tư
cách là một khoa học, Mỹ học – khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Giáo trình mỹ
học Mác – Lênin... Đỗ Huy đã nêu lên những nguyên tắc của giáo dục thẩm mỹ nói
chung trong đó có vận dụng nghệ thuật với tính cách là hình thức giáo dục thẩm mỹ
có hiệu quả nhất. Nổi bật là trong công trình Mỹ học – khoa học về các quan hệ
thẩm mỹ, tác giả khẳng định rằng, giáo dục thẩm mỹ cần phải tuân thủ các nguyên
tắc sau: một là lấy con người làm trung tâm, hai là phải mang tính dân tộc, ba là gắn
lý luận với thực tiễn, bốn là thống nhất mà đa dạng.
Trong luận án tiến sĩ Vai trò của truyền thông đại chúng trong việc giáo dục
thẩm mỹ cho nhân dân ở nước ta hiện nay (Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999), Trần Ngọc Tăng đưa ra nhận định: tuỳ theo lập trường giai cấp, thế giới quan
quan niệm về bản chất, đặc trưng của giáo dục thẩm mỹ mà hệ thống giáo dục thẩm
mỹ được xây dựng với những nguyên tắc khác nhau. Từ đó, tác giả xác định hệ
thống giáo dục thẩm mỹ của nước ta có lập trường của giai cấp công nhân, thế giới
quan duy vật biện chứng; đồng thời nêu ra các nguyên tắc của hệ thống giáo dục
thẩm mỹ là nguyên tắc tính tư tưởng và tính đảng, nguyên tắc xã hội hoá, nguyên
tắc gắn liền lý luận với thực tiễn, nguyên tắc đa dạng về hình thức.
Trong luận án tiến sĩ Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, (Viện
Triết học – Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội, 1998), Trần
Tuý nhấn mạnh nguyên tắc toàn diện trong giáo dục thẩm mỹ. Luận án tiến sĩ Thị
hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống thẩm mỹ của Nguyễn Chương Nhiếp
(Viện Triết học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2000) phân tích
một số nguyên tắc về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ như tuân theo định hướng tiên tiến
và mang bản sắc Việt Nam, tôn trọng và bảo vệ tính đa dạng của thị hiếu thẩm mỹ,
thống nhất giữa giáo dục thẩm mỹ, giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức, bảo đảm
tính đa dạng của các hình thức giáo dục thị hiếu thẩm mỹ.
30
Các bài viết của các tác giả trong công trình Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ
thành phố Hồ Chí Minh thì dựa trên nhiều nguyên tắc khác nhau để đưa ra những
giải pháp cho việc giáo dục thị hiếu thẩm mỹ đối với giới trẻ thành phố Hồ Chí
Minh ở các lĩnh vực của thị hiếu thẩm mỹ như trong trang phục, trong âm nhạc,
trong điện ảnh...
Nhìn chung, các công trình của các nhà khoa học được công bố đều thừa
nhận vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ và đã nêu ra hệ thống các
nguyên tắc cho việc giáo dục thẩm mỹ. Hệ thống các nguyên tắc này dừng lại ở giáo
dục thẩm mỹ nói chung, giúp tác giả có những hiểu biết bao quát và sâu sắc hơn,
cung cấp cho đề tài những kiến thức khái quát và gợi mở để luận án nghiên cứu, xây
dựng các nguyên tắc cho việc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
1.3.2. Những nghiên cứu về giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Khi nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ, các tác giả cũng rất quan tâm đến việc
đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực thẩm mỹ của chủ thể. Lê Anh Trà
trong công trình Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới Việt Nam (Nxb. Sự
thật, Hà nội, 1982) trình bày một hệ thống giáo dục thẩm mỹ có sự tổng hợp tất cả
các yếu tố đối tượng, phương pháp, phương thức của giáo dục thẩm mỹ với các
khâu chủ yếu móc xích lẫn nhau được sắp xếp trong ba lĩnh vực: giáo dục thẩm mỹ
về cái đẹp của thiên nhiên, giáo dục thẩm mỹ trong đời sống xã hội, giáo dục thẩm
mỹ trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật. Trong đó, đối với giáo dục thẩm mỹ trong
lĩnh vực hoạt động nghệ thuật, tác giả nêu lên một số biện pháp cụ thể để đẩy mạnh
việc sử dụng nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ như: coi trọng vai trò của các tác
giả và các nhà lý luận nghệ thuật, mỹ học, các nhà phê bình cũng như ý kiến quảng
đại của quần chúng để có nhiều tác phẩm có chất lượng, có tác dụng thẩm mỹ tốt;
coi trọng việc phổ biến các tác phẩm nghệ thuật tốt vào trong quần chúng nhân dân;
coi trọng phát triển nghệ thuật nghiệp dư bên cạnh nghệ thuật chuyên nghiệp, chủ
động xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng rộng rãi để mọi người có thể tham
gia nghệ thuật bằng nhiều hình thức nhằm phát huy tính tự do sáng tạo...
31
Các công trình của Đỗ Huy đều có đề xuất những giải pháp để thực hiện giáo
dục thẩm mỹ. Trong công trình Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, (Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1987), tác giả nêu lên bốn hình thức giáo
dục thẩm mỹ cơ bản là giáo dục thẩm mỹ bằng văn hoá – nghệ thuật, giáo dục thẩm
mỹ bằng cách nêu gương, giáo dục thẩm mỹ bằng lao động và thông qua lao động,
giáo dục thẩm mỹ bằng mỹ học Mác – Lênin. Trong công trình Mỹ học – khoa học
về các quan hệ thẩm mỹ, (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001) tác giả bổ sung giải
pháp sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng trong giáo dục thẩm mỹ.
Nguyễn Chương Nhiếp trong luận án tiến sĩ Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của
nó trong đời sống thẩm mỹ (Viện Triết học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân
văn, Hà Nội, 2000), đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường giáo dục thị hiếu
thẩm mỹ, nâng cao và phát huy vai trò của nó trong đời sống thẩm mỹ như: xây
dựng chương trình giáo dục thẩm mỹ toàn dân, xã hội hoá các hoạt động văn hoá
nghệ thuật; sáng tạo ngày càng nhiều và phổ biến rộng rãi các tác phẩm nghệ thuật
có chất lượng cao; loại trừ các văn hoá phẩm độc hại, thẩm mỹ hoá môi trường và
làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Cùng quan điểm với Nguyễn Chương Nhiếp, trong luận án tiến sĩ Vai trò của
nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, (Viện Triết học – Trung tâm khoa học xã hội và
Nhân văn quốc gia, Hà Nội, 1998), Trần Tuý đề xuất các giải pháp tăng cường vai
trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ như: cần sáng tác những tác phẩm nghệ
thuật có nội dung trong sáng, hình thức vui tươi; cần có một chiến lược giáo dục
tổng thể trong đó giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của giáo dục quốc
gia; thống nhất các hình thức giáo dục thẩm mỹ với mục tiêu phát triển thể, đức, trí,
mỹ cho con người, phổ biến các kiến thức mỹ học toàn diện, hoàn thiện các phương
tiện giáo dục và tác động thẩm mỹ; quan tâm đến tính dân tộc của nghệ thuật đồng
thời phải quan tâm đến tính giai cấp và tính nhân loại phổ biến của nó.
Thống nhất với Trần Tuý, luận án phó tiến sĩ Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho
thanh niên qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá của Trần Quốc Bảng (Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 1996) nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng thẩm
mỹ cho thanh niên thông qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá với: xây dựng chương
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên

More Related Content

What's hot

Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_trietNgan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_trietrobodientu
 
Tài liệu giảng dạy môn hoạt náo trong du lịch
Tài liệu giảng dạy môn hoạt náo trong du lịchTài liệu giảng dạy môn hoạt náo trong du lịch
Tài liệu giảng dạy môn hoạt náo trong du lịchnataliej4
 
Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít
Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclítTư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít
Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclítnguyenthanh141
 
Giáo trình pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nguyễn Minh Thu, Nguyễ...
Giáo trình pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nguyễn Minh Thu, Nguyễ...Giáo trình pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nguyễn Minh Thu, Nguyễ...
Giáo trình pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nguyễn Minh Thu, Nguyễ...Man_Ebook
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX nataliej4
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ nataliej4
 
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thanh Đỗ
 

What's hot (20)

Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_trietNgan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
Ngan_hang_cau_hoi_on_thi_triet
 
Van hoc 1
Van hoc 1Van hoc 1
Van hoc 1
 
Đề tài: Quản lý di tích chùa Đậu huyện Thường Tín, Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý di tích chùa Đậu huyện Thường Tín, Hà Nội, HOTĐề tài: Quản lý di tích chùa Đậu huyện Thường Tín, Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý di tích chùa Đậu huyện Thường Tín, Hà Nội, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh ViênLuận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
 
Tài liệu giảng dạy môn hoạt náo trong du lịch
Tài liệu giảng dạy môn hoạt náo trong du lịchTài liệu giảng dạy môn hoạt náo trong du lịch
Tài liệu giảng dạy môn hoạt náo trong du lịch
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Luận án: Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam thế kỷ XX
Luận án: Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam thế kỷ XXLuận án: Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam thế kỷ XX
Luận án: Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam thế kỷ XX
 
BÀI MẪU Khóa luận xóa đói giảm nghèo bền vững, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận xóa đói giảm nghèo bền vững, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận xóa đói giảm nghèo bền vững, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận xóa đói giảm nghèo bền vững, 9 ĐIỂM
 
Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít
Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclítTư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít
Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít
 
Giáo trình pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nguyễn Minh Thu, Nguyễ...
Giáo trình pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nguyễn Minh Thu, Nguyễ...Giáo trình pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nguyễn Minh Thu, Nguyễ...
Giáo trình pháp luật đại cương - Nguyễn Thị Tuyết Mai, Nguyễn Minh Thu, Nguyễ...
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOT
 
Luận Văn Phát Triển Làng nghề Truyền Thống Huyện Triệu Phong
Luận Văn Phát Triển Làng nghề Truyền Thống Huyện Triệu PhongLuận Văn Phát Triển Làng nghề Truyền Thống Huyện Triệu Phong
Luận Văn Phát Triển Làng nghề Truyền Thống Huyện Triệu Phong
 
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn QuốcLuận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở...
Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở...Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở...
Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở...
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
 
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
 
Luận văn: Định hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên, HAY
Luận văn: Định hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên, HAYLuận văn: Định hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên, HAY
Luận văn: Định hướng giá trị trong tình yêu của sinh viên, HAY
 
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCMĐề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
 
Luận văn: Đánh giá dự án và lập lịch quản lý dự án tự động, HAY
Luận văn: Đánh giá dự án và lập lịch quản lý dự án tự động, HAYLuận văn: Đánh giá dự án và lập lịch quản lý dự án tự động, HAY
Luận văn: Đánh giá dự án và lập lịch quản lý dự án tự động, HAY
 

Similar to Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên

Vấn Đề Giáo Dục Thẩm Mỹ Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Ở Tỉnh Quảng Nam Hiệ...
Vấn Đề Giáo Dục Thẩm Mỹ Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Ở Tỉnh Quảng Nam Hiệ...Vấn Đề Giáo Dục Thẩm Mỹ Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Ở Tỉnh Quảng Nam Hiệ...
Vấn Đề Giáo Dục Thẩm Mỹ Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Ở Tỉnh Quảng Nam Hiệ...dịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 
Giáo dục đạo đức nghề ngiệp cho sinh viên trường đại học sư phạm TDTT hà nội
Giáo dục đạo đức nghề ngiệp cho sinh viên trường đại học sư phạm TDTT hà nộiGiáo dục đạo đức nghề ngiệp cho sinh viên trường đại học sư phạm TDTT hà nội
Giáo dục đạo đức nghề ngiệp cho sinh viên trường đại học sư phạm TDTT hà nộinataliej4
 
Biện pháp tổ chức công tác giáo dục truyền thống đạo đức cho sinh viên Viện Đ...
Biện pháp tổ chức công tác giáo dục truyền thống đạo đức cho sinh viên Viện Đ...Biện pháp tổ chức công tác giáo dục truyền thống đạo đức cho sinh viên Viện Đ...
Biện pháp tổ chức công tác giáo dục truyền thống đạo đức cho sinh viên Viện Đ...HanaTiti
 
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nayđạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nayMan_Ebook
 
Quản lý hoạt đông giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường Trung học phổ th...
Quản lý hoạt đông giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường Trung học phổ th...Quản lý hoạt đông giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường Trung học phổ th...
Quản lý hoạt đông giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường Trung học phổ th...NuioKila
 
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...jackjohn45
 

Similar to Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên (20)

Luận án: Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
Luận án: Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viênLuận án: Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
Luận án: Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
 
Vấn Đề Giáo Dục Thẩm Mỹ Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Ở Tỉnh Quảng Nam Hiệ...
Vấn Đề Giáo Dục Thẩm Mỹ Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Ở Tỉnh Quảng Nam Hiệ...Vấn Đề Giáo Dục Thẩm Mỹ Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Ở Tỉnh Quảng Nam Hiệ...
Vấn Đề Giáo Dục Thẩm Mỹ Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Ở Tỉnh Quảng Nam Hiệ...
 
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT quận Tân Bình
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT quận Tân BìnhLuận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT quận Tân Bình
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT quận Tân Bình
 
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở huyện Ứng Hòa, HAY
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở huyện Ứng Hòa, HAYLuận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở huyện Ứng Hòa, HAY
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh ở huyện Ứng Hòa, HAY
 
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Ứng Hòa
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Ứng HòaLuận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Ứng Hòa
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Ứng Hòa
 
Giáo dục đạo đức nghề ngiệp cho sinh viên trường đại học sư phạm TDTT hà nội
Giáo dục đạo đức nghề ngiệp cho sinh viên trường đại học sư phạm TDTT hà nộiGiáo dục đạo đức nghề ngiệp cho sinh viên trường đại học sư phạm TDTT hà nội
Giáo dục đạo đức nghề ngiệp cho sinh viên trường đại học sư phạm TDTT hà nội
 
Biện pháp tổ chức công tác giáo dục truyền thống đạo đức cho sinh viên Viện Đ...
Biện pháp tổ chức công tác giáo dục truyền thống đạo đức cho sinh viên Viện Đ...Biện pháp tổ chức công tác giáo dục truyền thống đạo đức cho sinh viên Viện Đ...
Biện pháp tổ chức công tác giáo dục truyền thống đạo đức cho sinh viên Viện Đ...
 
Luận án: Giáo dục ý thức dân tộc cho sinh viên ĐH ở Hà Nội
Luận án: Giáo dục ý thức dân tộc cho sinh viên ĐH ở Hà NộiLuận án: Giáo dục ý thức dân tộc cho sinh viên ĐH ở Hà Nội
Luận án: Giáo dục ý thức dân tộc cho sinh viên ĐH ở Hà Nội
 
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
 
Cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh ở Việt Nam từ năm 2000, 9đ
Cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh ở Việt Nam từ năm 2000, 9đCái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh ở Việt Nam từ năm 2000, 9đ
Cái đẹp trong nghệ thuật nhiếp ảnh ở Việt Nam từ năm 2000, 9đ
 
Tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong hội nhập quốc tế
Tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong hội nhập quốc tế Tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong hội nhập quốc tế
Tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong hội nhập quốc tế
 
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nayđạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
đạO đức phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người việt nam hiện nay
 
Quản lý hoạt đông giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường Trung học phổ th...
Quản lý hoạt đông giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường Trung học phổ th...Quản lý hoạt đông giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường Trung học phổ th...
Quản lý hoạt đông giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường Trung học phổ th...
 
Đề tài: Dạy mỹ thuật theo hướng tiếp cận phát triển năng lực, HOT
Đề tài: Dạy mỹ thuật theo hướng tiếp cận phát triển năng lực, HOTĐề tài: Dạy mỹ thuật theo hướng tiếp cận phát triển năng lực, HOT
Đề tài: Dạy mỹ thuật theo hướng tiếp cận phát triển năng lực, HOT
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Luận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt Nam
Luận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt NamLuận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt Nam
Luận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt Nam
 
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
 
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viênLuận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
 
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCD
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCDĐề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCD
Đề tài: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua môn GDCD
 
Luận văn: Nhận thức của sinh viên về giá trị sống theo UNESCO
Luận văn: Nhận thức của sinh viên về giá trị sống theo UNESCOLuận văn: Nhận thức của sinh viên về giá trị sống theo UNESCO
Luận văn: Nhận thức của sinh viên về giá trị sống theo UNESCO
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 

Luận án: Nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ MINH TUẤN I NGHỆ THUẬT VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2018
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ MINH TUẤN I NGHỆ THUẬT VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY Ngành: Mỹ học Mã số: 9 22 90 07 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Thu Nghĩa 2. GS. TS. Đỗ Huy Hùng HÀ NỘI - 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án NCS Đặng Thị Minh Tuấn
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..............................................................................................................6 1.1 Những nghiên cứu lý luận cơ bản về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ......................................................................................................6 1.2. Những nghiên cứu về thực trạng thị hiếu thẩm mỹ và thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay ............................................................................................................24 1.3. Những nghiên cứu về nguyên tắc và giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay .................28 1.4. Những vấn đề luận án cần nghiên cứu ......................................................33 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT, THỊ HIẾU THẨM MỸ VÀ VAI TRÒ CỦA NGHỆ THUẬT TRONG GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ.............................................................36 2.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về nghệ thuật ..............................................36 2.2. Những vấn đề lý luận cơ bản về thị hiếu thẩm mỹ và giáo dục thị hiếu thẩm mỹ............................................................................................................51 2.3. Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ...........................73 Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT VỚI GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY: THỰC TR NG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...........................................................................................87 3.1. Những nhân tố tác động đến thị hiếu thẩm mỹ và vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay .................87 3.2. Thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay.............................................................................96 3.3. Một số vấn đề đặt ra khi vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay.....................................................113
  • 5. Chƣơng 4: NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG NGHỆ THUẬT TRONG GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY.................................................................................123 4.1. Nguyên tắc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên..........................................................................................................123 4.2. Giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên..........................................................................................................133 KẾT LUẬN............................................................................................................148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ................................151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................152 PHỤ LỤC...............................................................................................................161
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghệ thuật là thế giới của cái đẹp. Ở đó, cái đẹp hiện ra với tất cả vẻ lung linh, diệu kỳ của nó qua tài năng sáng tạo tuyệt vời của người nghệ sĩ. Trong nghệ thuật, cái đẹp được điển hình hoá. Bất kỳ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng hướng đến việc xây dựng và biểu hiện một hình tượng đẹp. Nghệ thuật chân chính được xem như là một trong những yếu tố cơ bản góp phần định hướng tốt đẹp cho hoạt động của con người, xây dựng tâm hồn của mỗi con người, làm cho mỹ cảm phong phú hơn, nhân văn hơn. Ở nước ta hiện nay, sự phát triển, mở rộng các quan hệ giao lưu, hội nhập trên mọi lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục… đã có tác động không nhỏ đến hệ thống các giá trị của xã hội trong đó có các giá trị thẩm mỹ. Trước tình hình đó, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã khẳng định: hiện nay vấn đề xây dựng, giữ gìn và phát huy hệ giá trị tốt đẹp về thị hiếu thẩm mỹ trong quá trình xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện và nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trở nên cấp bách. Nghiên cứu sự biến đổi của hệ thống giá trị trong văn hóa Việt Nam thông qua nghiên cứu về nghệ thuật, về thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn. Giáo dục đại học là hình thành đội ngũ nhân lực toàn diện đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội trong tương lai. Công tác giáo dục ở bậc đại học không chỉ chú trọng đến chuyên môn nghề nghiệp mà còn phải chú trọng đến giáo dục phẩm chất đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ, tạo nền tảng xác lập thế giới quan và xây dựng lý tưởng sống để sinh viên trở thành những con người có ích cho xã hội. Những cơ hội và thách thức mới của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế càng đòi hỏi công tác giáo dục đại học phải đảm nhận sứ mệnh đào tạo nên những con người phát triển toàn diện “đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo, khỏe về thể chất” [19, tr.29] cho xã hội. Do đó, giáo dục đại học không thể bỏ qua đời sống tinh thần của sinh viên, trong đó thị hiếu thẩm mỹ là một yếu tố quan trọng.
  • 7. 2 Đời sống thẩm mỹ của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng ở nước ta hiện nay đang có nhiều diễn biến phức tạp. Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, giao lưu văn hoá diễn ra với nhiều hình thức đã có những tác động tích cực lẫn tiêu cực đến nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên. Có những kiểu thị hiếu thẩm mỹ mới lạ, thậm chí là lệch lạc phát triển trong đời sống thẩm mỹ của các bạn trẻ. Nhiều sinh viên đã không tạo cho mình khả năng tự phòng ngừa, "miễn dịch" hiệu quả trước những sản phẩm phản nghệ thuật, độc hại. Một bộ phận sinh viên chạy theo thị hiếu thấp hèn, lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ, có quan niệm lệch lạc về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài... Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay là một yêu cầu cần thiết nhằm góp phần tạo ra sự cân bằng giữa đào tạo chuyên môn và giáo dục lối sống, xây dựng lý tưởng trong sinh viên, giúp cho công tác giáo dục ở các trường đại học và cao đẳng ngày càng hoàn thiện về mọi mặt đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực toàn diện cho xã hội. Có nhiều cách để giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên nhưng với tính cách là biểu hiện đặc trưng của quan hệ thẩm mỹ, nghệ thuật là cầu nối giữa con người với thế giới cái đẹp, giúp sinh viên phát triển năng lực cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ đồng thời xác lập môi trường văn hoá cho thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên, là nền tảng cơ bản định hướng thị hiếu thẩm mỹ, xây dựng nhân cách của sinh viên. Nhận thức rõ vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên mang ý nghĩa quan trọng của việc xây dựng con người phát triển toàn diện đối với quá trình phát triển của đất nước, Đảng ta luôn “khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng đặc biệt là thế hệ trẻ” [18, tr.224]. Từ thực tiễn đời sống thẩm mỹ và yêu cầu của công tác giáo dục đại học, trên cơ sở định hướng của Đảng về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho thế hệ trẻ, tác giả chọn vấn đề: “Nghệ thuật với vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của yêu cầu xây dựng con người phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.
  • 8. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Mục đích của luận án là làm rõ mối quan hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, chỉ ra vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên, góp phần xây dựng và phát triển thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên ở nước ta hiện nay trước yêu cầu xây dựng con người phát triển toàn diện. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận án là: - Tổng quan tình hình nghiên cứu về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ. - Nghiên cứu và trình bày những vấn đề lý luận cơ bản của nghệ thuật và thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, làm rõ mối quan hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ thông qua việc phân tích vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ. - Nghiên cứu, điều tra, tổng hợp và phân tích thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay. - Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay trên bình diện triết học. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi đề tài đã chọn, về mặt lý luận, luận án nghiên cứu khía cạnh triết học của nghệ thuật và một số nội dung cơ bản của vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ chủ yếu trên lập trường của thẩm mỹ học mácxít; phân tích mối liên hệ giữa nghệ thuật với quá trình giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nhằm chỉ ra vai trò của nghệ thuật trong xây dựng thị hiếu thẩm mỹ của con người; về mặt thực tiễn, luận án nghiên cứu thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
  • 9. 4 sinh viên ở Việt Nam trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI và đề xuất những giải pháp đối với việc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên nhằm phát huy thị hiếu thẩm mỹ tốt trong sinh viên phù hợp với quá trình phát triển đang diễn ra ở nước ta hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là những nguyên lý triết học và mỹ học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, giáo dục thẩm mỹ, văn hóa và nghệ thuật, đồng thời, có kế thừa những kết quả của một số công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến chủ đề luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời, với từng phần cụ thể, luận án sử dụng những phương pháp tương ứng: - Phần trình bày về những vấn đề lý luận cơ bản của nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, luận án sử dụng phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, hệ thống hóa... - Phần trình bày về thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay, luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, điều tra giáo dục, so sánh - đối chiếu, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa... - Phần trình bày về nguyên tắc và giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên, luận án sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, tham khảo, nghiên cứu tài liệu, phương pháp giả thuyết ... 5. Đóng góp mới của luận án - Góp phần hệ thống hóa lý luận về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ với tư cách là đối tượng của triết học - mỹ học, phân tích vai trò của nghệ thuật đối với vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ theo quan điểm mácxít nhằm bổ sung một cách nhìn toàn diện hơn về triết học duy vật biện chứng cũng như chức năng giá trị của hệ thống triết học này.
  • 10. 5 - Nghiên cứu thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay, góp phần làm rõ vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên. - Đề xuất những giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên, góp phần định hướng thị hiếu thẩm mỹ trong sinh viên, phát huy những thị hiếu thẩm mỹ tốt, xây dựng chuẩn mực thẩm mỹ cho sáng tạo nghệ thuật và hoạt động sống của cá nhân cũng như góp phần bảo tồn, xây dựng và phát huy hệ giá trị tốt đẹp của xã hội ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án - Về mặt lý luận: luận án phân tích vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên. - Về mặt thực tiễn: thông qua việc phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và học tập các môn triết học, mỹ học ở các trường đại học hoặc làm tài liệu tham khảo phục vụ vào đánh giá, dự báo, định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho các hoạt động thưởng thức, sáng tạo nghệ thuật và lối sống lành mạnh trong xã hội hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
  • 11. 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1 Những nghiên cứu lý luận cơ bản về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ 1.1.1. Những nghiên cứu về nghệ thuật Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nghệ thuật là một hoạt động nhận thức của con người bằng phương tiện hình tượng. Thế giới hình tượng nghệ thuật và các quy luật phát triển của thế giới nghệ thuật là nguồn cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ tự do sáng tạo, đồng thời là đề tài nghiên cứu của các học giả, các nhà khoa học quan tâm phân tích với nhiều khía cạnh khác nhau. Từ thời cổ đại, các nhà triết học Hy Lạp đã thể hiện sự quan tâm của mình đối với nghệ thuật. Tiêu biểu ở thời kỳ cổ đại Hy Lạp về nghệ thuật phải kể đến Nghệ thuật thi ca của Aristotle được dịch ra tiếng Việt lần đầu tiên vào năm 1964, Nxb Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội. Mặc dù chủ yếu bàn về bi kịch trong thơ ca, nhưng trong tác phẩm này, Aristotle đã chỉ ra cốt lõi của nghệ thuật là thực hiện mô phỏng tự nhiên từ đối tượng đến phương thức và mục đích. Có thể nói, Nghệ thuật thi ca là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của mỹ học duy vật và nghệ thuật trong lịch sử khoa học thế giới. Từ đó đến nay, các nhà mỹ học lớn như Diderot, Immanuel Kant, G.W.F.Hegel, C.Mác, Denis Huisman... đã có những nghiên cứu sâu sắc về nguồn gốc, bản chất của nghệ thuật, về các loại hình nghệ thuật và cả lịch sử phát triển của nghệ thuật. Đến Hegel, vấn đề bản chất của nghệ thuật được trình bày vô cùng sâu sắc cùng với quan niệm về cái đẹp và những luận giải về các ngành nghệ thuật riêng biệt trong các bài giảng của ông về mỹ học ở trường đại học Heisenberg và trường đại học Berlin từ năm 1817 đến năm 1829. Các bài giảng này sau đó đã được học trò của ông tập hợp lại và xuất bản thành cuốn Mỹ học. Cuốn sách này được Phan Ngọc dịch sang tiếng Việt và chia thành hai tập do nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1999. Tiếp thu các thành quả nghiên cứu của các nhà mỹ học trong lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen coi nghệ thuật là một hình thái của ý thức xã hội. Trong các tác
  • 12. 7 phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra nhiều suy nghĩ về nghệ thuật và mỹ học quanh câu hỏi: “cái gì biến nghệ thuật thành một giá trị vĩnh cửu bất chấp tính lịch sử của nó?” mà Mác đặt ra trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị (1858). Những suy nghĩ của C.Mác và Ph.Ăngghen về nghệ thuật sau này được các nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác tập hợp lại trong cuốn Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977. Công trình này là một trong những tư liệu lý luận cơ bản cho việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mỹ học và nghệ thuật. Trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, công trình Mỹ học cơ bản và nâng cao do M.F.Ốpxiannhicốp chủ biên, Phạm Văn Bích dịch, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001 phân tích một cách đầy đủ và chi tiết lý luận về nghệ thuật theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Liên bang Xôviết. Đây là giáo trình dành cho sinh viên các trường đại học khoa học xã hội và các trường nghệ thuật trong toàn Liên bang Xôviết trước đây. Trong công trình đồ sộ này, lý luận về nghệ thuật được trình bày với ba phần: đặc trưng của nghệ thuật, các loại hình nghệ thuật và bản chất xã hội của nghệ thuật. Ở đây, đặc trưng của nghệ thuật được các tác giả phân tích thông qua hình tượng nghệ thuật, quá trình sáng tạo nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật, nội dung và hình thức trong nghệ thuật và cảm thụ thẩm mỹ tác phẩm nghệ thuật. Theo các tác giả, hình tượng nghệ thuật là một biến thể của tư duy hình tượng và nó là biểu hiện cho đặc trưng của nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là nơi mà đặc trưng của nghệ thuật được bộc lộ thông qua sự thống nhất và tác động qua lại giữa nội dung và hình thức trong nghệ thuật. Nội dung nghệ thuật đóng vai trò chủ đạo, quyết định đối với hình thức nghệ thuật, đồng thời hình thức nghệ thuật có tính độc lập tương đối và tích cực. Nội dung nghệ thuật phản ánh, tái tạo các lĩnh vực khác nhau của thực tại tự nhiên và xã hội qua hình tượng nghệ thuật. Còn hình thức nghệ thuật là phương thức biểu hiện và tồn tại về vật chất của nội dung theo những quy luật của một loại hình và thể loại nghệ thuật nhất định. Sau khi ra đời, tác phẩm nghệ thuật có quá trình tác động nhiều mặt đến con người và xã hội. Vì vậy, đặc trưng của nghệ thuật còn được thể hiện qua việc con người cảm thụ thẩm mỹ các tác phẩm nghệ thuật. Cảm thụ thẩm mỹ là một hình thức hoạt động tâm lý đặc biệt của con người. Chính
  • 13. 8 trong quá trình này, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm nghệ thuật đi vào ý thức của con người cụ thể một cách tự nhiên như nó vốn có. Từ việc phân tích đặc trưng của nghệ thuật, các tác giả đi đến phân chia các loại hình nghệ thuật. Bắt nguồn từ bản chất của hoạt động nghệ thuật, ông chia các loại hình nghệ thuật thành nhiều nhóm: nhóm các nghệ thuật ứng dụng với kiến trúc và nghệ thuật trang trí; nhóm các nghệ thuật tạo hình bao gồm điêu khắc, hội hoạ, đồ hoạ, nghệ thuật nhiếp ảnh; nhóm nghệ thuật ngôn từ với văn học; nhóm nghệ thuật âm thanh với âm nhạc; nhóm các nghệ thuật biểu diễn gồm ca vũ tổng hợp, điện ảnh, vô tuyến truyền hình, nghệ thuật tạp kỹ và xiếc. Trên cơ sở những phân tích về đặc trưng của nghệ thuật và sự trình bày về các loại hình nghệ thuật, các tác giả bày tỏ quan điểm của mình về bản chất của nghệ thuật. Đó là, nghệ thuật mang bản chất xã hội. Nghệ thuật trước hết là một hiện tượng xã hội và bản chất xã hội của nghệ thuật thể hiện rõ nhất qua các chức năng xã hội của nghệ thuật (cụ thể là chức năng nhận thức và chức năng giáo dục). Đồng thời, các tác giả cũng khẳng định nghệ thuật thực hiện các chức năng của mình trong quá trình thống nhất phản ánh, nhận thức đời sống xã hội và chỉ có thể xem xét các chức năng của nghệ thuật trong tương quan của quá trình khái quát hoá lý luận. Vì vậy, bản chất xã hội của nghệ thuật còn được thể hiện qua mối quan hệ biện chứng giữa nghệ thuật với các hình thái ý thức xã hội khác như triết học, khoa học, đạo đức, tôn giáo. nhấn mạnh bản chất xã hội của nghệ thuật còn được thể hiện qua tính nhân dân, tính giai cấp, tính đảng của nghệ thuật. Những lý luận về nghệ thuật của các tác giả trong Mỹ học cơ bản và nâng cao là cơ sở cho luận án khi khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm, bản chất và chức năng của nghệ thuật. Ở Việt Nam, vấn đề nguồn gốc và bản chất của nghệ thuật cũng được nhiều tác giả dày công nghiên cứu. Các công trình: Mỹ học với tư cách là một khoa học của Đỗ Huy, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Mỹ học đại cương của Đỗ Văn Khang, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2002; Giáo trình mỹ học Mác - Lênin của hai tác giả Đỗ Huy - Vũ Trọng Dung, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003... mặc dù cách thức triển khai khác nhau nhưng đều có các chương trình bày các quan
  • 14. 9 điểm mỹ học Mác - Lênin với tư cách là một khoa học hoàn chỉnh và hệ thống, khẳng định quan điểm thẩm mỹ, quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa Mác - Lênin dưới dạng giáo trình khoa học. Nổi bật là công trình Mỹ học Mác – Lênin cho trình độ sau đại học ngành văn hoá nghệ thuật của Đỗ Huy, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2006. Trong công trình này, tác giả đã phân tích ba vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của nghệ thuật là: khái niệm và nguồn gốc của nghệ thuật, bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật và bản chất xã hội của nghệ thuật. Ba vấn đề này được trình bày trong chương năm của cuốn sách. Ở đó, tác giả đã dựa vào cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh về tính nhân dân, tính dân tộc của nghệ thuật để phân tích sâu sắc tính bất đồng của nghệ thuật với phát triển kinh tế và làm rõ bản chất xã hội của nghệ thuật qua những phân tích về tính dân tộc, tính nhân dân và tính thời đại của mọi nghệ thuật hiện thực. Trong chương sách này, tác giả cũng đã trình bày nghiên cứu của mình về nghệ thuật với tư cách là sản phẩm của sáng tạo, mô hình hoá tình cảm thẩm mỹ. Theo tác giả, nghệ thuật có lịch sử lâu đời, có bản chất xã hội, có đặc trưng thẩm mỹ, có công chúng và có đánh giá. Chương sách cũng trình bày các vấn đề về đánh giá, hưởng thụ và sáng tạo nghệ thuật. Những nghiên cứu này là một trong các cơ sở lý luận để luận án trình bày những vấn đề cơ bản về nghệ thuật. Nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của mỹ học. Thế giới nghệ thuật là thế giới của cái đẹp. Các quy luật phát triển của thế giới nghệ thuật cũng chính là hệ quy chiếu cho các quy luật phát triển trong mỹ học. Vì vậy, không chỉ dừng lại ở nguồn gốc và bản chất của nghệ thuật, các nhà mỹ học còn quan tâm đến việc tìm hiểu các quy luật phát triển của thế giới nghệ thuật qua các loại hình của nó. Ở góc độ này, công trình nghiên cứu đầy đủ nhất, công phu nhất có thể kể đến là: Hình thái học của nghệ thuật của tác giả M. Cagan, (bản dịch của Phan Ngọc), Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004. Đây là tác phẩm chuyên khảo đầu tiên một cách có hệ thống theo quan điểm mácxít về cơ cấu nội tại của thế giới nghệ thuật. Trong công trình này, thế giới nghệ thuật được xem xét với tính cách là một chỉnh thể thống nhất chứ không phải là một bộ phận riêng biệt nào đó. Ở đây, tác giả nghiên cứu
  • 15. 10 toàn bộ cơ cấu bên trong của thế giới nghệ thuật, phát hiện tất cả những cấp độ căn bản của sự phân chia hoạt động sáng tạo nghệ thuật, làm sáng tỏ những quy luật tổ chức bên trong của thế giới nghệ thuật qua một hệ thống những lớp, những nhóm, những loại hình và loại thể của nó. Trong sự trình bày của mình, tác giả chia cuốn sách thành ba phần lớn: phần thứ nhất, đề xuất các vấn đề phương pháp luận để nghiên cứu hệ thống các loại hình nghệ thuật, trình bày một cách khái quát lịch sử nghiên cứu hình thái học nghệ thuật và các khuynh hướng cơ bản của nó; phần thứ hai, tập trung phân tích hình thái học nghệ thuật trong lịch sử tư tưởng mỹ học mácxít; phần thứ ba, đi sâu nghiên cứu các lớp và các nhóm nghệ thuật. Trên quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, M. Cagan cho rằng, hoạt động nghệ thuật xuất phát từ nhu cầu nghệ thuật của xã hội và gắn liền với thực tiễn thưởng thức, đánh giá, sáng tạo của con người. Trong sự hình thành của phân công lao động xã hội, tình trạng lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay đã dẫn đến sự tách biệt của nghệ thuật ra khỏi cái cơ sở vụ lợi của nó để tồn tại độc lập, trở thành một ngành đặc biệt của văn hoá. Tuy nhiên, nghệ thuật không tách khỏi hoạt động thực tiễn một cách tuyệt đối mà ngược lại “thế giới nghệ thuật vẫn gắn liền với cái thế giới chung quanh của thực tiễn xã hội bởi một vùng gồm những hiện tượng hai mặt, hai chức năng vẫn giữ tính hỗn đồng đầu tiên của yếu tố nghệ thuật và yếu tố vụ lợi” [6, tr.286]. Chính vì xuất phát từ nhu cầu nghệ thuật của xã hội ấy mà sự phát triển của nghệ thuật có tính khu biệt và đặc thù. Điều này đặt cơ sở cho sự phân chia các loại hình nghệ thuật khác nhau và hình thành nên cơ cấu của toàn bộ thế giới nghệ thuật. Nguyên tắc để phân chia thế giới nghệ thuật thành các nhóm, lớp, các biến thể và loại hình khác nhau được M. Cagan đề xuất là: thứ nhất, thừa nhận xuất phát và quyết định của sự tồn tại thực tế của tác phẩm nghệ thuật; thứ hai, dựa vào cấu trúc của nghệ thuật và thứ ba, dựa vào chức năng của nghệ thuật. Từ đó, ông cho rằng, người ta có thể so sánh và phân biệt các loại hình nghệ thuật căn cứ vào nhiều tiêu chí như từ ngữ, âm thanh, vận động thân hình ... , hoặc căn cứ vào phương thức tri giác các tác phẩm nghệ thuật (thị giác, thính giác ...), hoặc căn cứ vào sự sáng tạo tác phẩm nghệ thuật (khởi tạo, trình diễn), hoặc căn cứ vào phương thức phản ánh
  • 16. 11 thực tế (miêu tả, không miêu tả), hoặc căn cứ vào hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật v.v... có nghĩa là, tất cả mọi các sự phân loại đều mang tính tương đối. Trên cơ sở những nguyên tắc đã đề xuất, với quan điểm biện chứng, M. Cagan đi xây dựng một mô hình cấu trúc hệ thống của thế giới nghệ thuật bằng việc phân xuất các nhóm nghệ thuật chính là nghệ thuật ngôn ngữ, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật miêu tả ... và phân tích sự đa dạng của mỗi nhóm với các loại hình nghệ thuật và các biến thể con của nó. Qua đó, ông đã nêu bật được những quy luật khách quan của sự hình thành thế giới nghệ thuật và mang lại một cách nhìn mới mẻ trong nghiên cứu về nghệ thuật. Cũng nghiên cứu nghệ thuật với tính cách là một chỉnh thể, ở Việt Nam, có công trình: Nghệ thuật học của Đỗ Văn Khang, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004. Với công trình này, Đỗ Văn Khang đã khái quát sự phát triển của nghệ thuật qua các thời đại lịch sử với các tác giả, tác phẩm tiêu biểu và điển hình để rút ra những đường nét lớn mà toàn bộ nghệ thuật chịu ảnh hưởng, cung cấp cho người đọc cơ sở cần thiết để hiểu và vận dụng trong sáng tạo khoa học cũng như trong thưởng thức, đánh giá các tác giả, tác phẩm và thời đại nghệ thuật. Nghệ thuật còn được nghiên cứu với tư cách là một môn lịch sử. Ở góc độ này, tác giả Xavier Barral Ialtet đã có một công trình khảo cứu đầy đủ trong Lịch sử nghệ thuật được dịch sang tiếng Việt bởi Nguyễn Văn Quảng, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2003. Theo Xavier Barral Ialtet, lịch sử nghệ thuật là một môn khoa học độc lập được hình thành dần dần qua các trường phát tư tưởng nghệ thuật khác nhau. Lịch sử nghệ thuật khác với các bộ môn khác như Khảo cổ học, Dân tộc học, Triết học, Xã hội học, Lịch sử kinh tế ... nhưng lại có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với chúng. Lịch sử nghệ thuật không có giới hạn về mặt địa lý. Phạm vi của lịch sử nghệ thuật được chia thành hai nhóm lớn: một là các bộ phận hợp thành của nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật màu sắc, nghệ thuật tạo hình..., hai là lịch sử các hoạt động sáng tạo nghệ thuật động như sân khấu, múa, thơ ca, âm nhạc, điện ảnh... Trong cuốn sách của mình, tác giả phân chia nghệ thuật thành các giai đoạn theo tiến trình lịch sử và các phạm vi của nó thông qua các tác phẩm nghệ thuật và các nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật. Theo tác giả, nghệ thuật được phân chia thành
  • 17. 12 bốn giai đoạn chính là thời Tiền sử và văn minh Cổ đại; thời Trung cổ, thời Phục hưng, Barốc và chủ nghĩa Cổ điển; thế kỷ XIX và thời hiện đại. Trong mỗi giai đoạn có các phạm vi nghệ thuật của nó. Chẳng hạn, thời tiền sử và văn minh cổ đại có nghệ thuật Ai Cập, nghệ thuật Mésopotamie; thời trung cổ có nghệ thuật phương Tây trung cổ với nghệ thuật Roman, nghệ thuật Gôtích và nghệ thuật không phải phương Tây với Byzance, nghệ thuật đạo Hồi, nghệ thuật Á Đông, nghệ thuật châu Mỹ, châu Phi và châu Đại Dương... Với cuốn sách này, Xavier Barral Ialtet đã vừa làm công việc của một nhà phê bình nghệ thuật vừa làm công việc của một nhà sử học: nhận ra các tác phẩm và tính xác thực của chúng, đưa ra nhận xét có tính phê bình về các giá trị lịch sử và thời sự của chúng, định vị chúng trong khung cảnh lịch sử của mỗi giai đoạn, tìm ra sự gần gũi của các tác phẩm về mặt khảo cổ nhằm khôi phục các bước kỹ thuật của việc thực hiện chúng, tìm tòi các tài liệu viết liên quan đến chúng và giới thiệu các tác phẩm ấy đến với công chúng rộng rãi. Nghệ thuật không chỉ được nghiên cứu dưới góc độ lịch sử mà còn được nghiên cứu dưới góc độ xã hội học. Tác giả Bùi Quang Thắng trong cuốn Xã hội học nghệ thuật, Viện Văn hoá và Nxb. Văn hoá Thông tin, 1998 cho rằng cần thiết phải nghiên cứu nghệ thuật dưới góc độ xã hội học với lý do: thứ nhất, xuất phát từ thực tiễn nghệ thuật của các xã hội phát triển đa dạng, đột biến đến mức các nhà nghiên cứu phải xét lại các lý thuyết nghệ thuật truyền thống; thứ hai, sự phân tầng xã hội của các tầng lớp công chúng ngày càng phức tạp dẫn đến những phân tầng trong nhu cầu, thị hiếu và thói quen tiêu dùng nghệ thuật. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải có những phương tiện lý thuyết và thực nghiệm để nghiên cứu và định hướng nghệ thuật trong công chúng. Từ những lý do đó, Xã hội học nghệ thuật của Bùi Quang Thắng đã đi vào phân tích những quan điểm khác nhau về nghệ thuật trên bình diện xã hội học, chỉ ra chức năng xã hội của nghệ thuật, nêu bật vị trí xã hội học của nghệ thuật trong mối quan hệ với các khoa học khác có cùng đối tượng là nghệ thuật. Đặc biệt, bằng cách tiếp cận xã hội học về nghệ thuật, trên cơ sở trình bày phương diện lý thuyết của xã hội học thực nghiệm về nghệ thuật, dựa vào việc phân tích một số loại hình nghệ thuật như âm nhạc, điện ảnh, sân khấu... tác giả đã chỉ ra sự phân hoá của nghệ thuật, sự thay đổi của các quan hệ nghệ thuật gắn chặt
  • 18. 13 với sự phát triển của quan hệ tiền - hàng trong nền kinh tế tư bản. Tác giả cũng đề cập đến sự gắn kết giữa các yếu tố nghệ sĩ - tác phẩm - công chúng với vấn đề nhu cầu nghệ thuật đồng thời khẳng định rằng sự hiểu biết về nhu cầu, sở thích, kiểu ứng xử của công chúng là cơ sở để thiết lập kế hoạch quản lý, tác động vào quá trình hoạt động nghệ thuật. Bên cạnh cách tiếp cận xã hội học, còn có một cách tiếp cận khác khi nghiên cứu về nghệ thuật, đó là cách tiếp cận mang tính nhân học mà Cynthia Freeland đã thực hiện trong cuốn Thế mà là nghệ thuật ư (But is it art) được dịch bởi Như Huy, Nxb. Tri thức, năm 2009. Cuốn sách là một đề dẫn lý thuyết về nghệ thuật với mục đích phổ cập nghệ thuật dành riêng cho công chúng phương Tây nhưng lại thể hiện một sự minh triết, sâu sắc và gọn gàng của một nỗ lực đại chúng hoá triết học về nghệ thuật. Cuốn sách đưa ra những phân tích về khái niệm nghệ thuật và tác phẩm nghệ thuật đồng thời giúp người đọc tiếp cận với những lý thuyết mới nhất về nghệ thuật hiện đang chi phối mặt bằng phê bình nghệ thuật phương tây, qua đó, có thể nắm bắt được phần nào phương cách mà nghệ thuật đương đại thế giới đang quan niệm. Đề dẫn lý thuyết về nghệ thuật này cũng phân tích sự phát triển của nghệ thuật với tính cách là một hệ thống mở, đặt nghệ thuật trong mối liên hệ với các yếu tố ngoại vi mà nó cho là có tác động tương tác tới những cuộc chuyển hoá của chính khái niệm nghệ thuật. Với cách trình bày của mình, Cynthia Freeland đã “tìm ra cách để chắt lọc các lý thuyết nghệ thuật, lịch sử mỹ học và cả một chuyến du hành về lịch sử nghệ thuật vào một văn bản ngắn gọn với những thông tin phong nhiêu một cách siêu hạng” (như Carolyn W. Korsmeyer ở đại học New York đã nhận xét). Vì vậy, cuốn sách là một trong những tài liệu đối với luận án trong việc nghiên cứu khái niệm nghệ thuật, sự phát triển của nghệ thuật và vấn đề những tác nhân làm biến đổi đánh giá, thưởng thức, sáng tạo nghệ thuật. Ngoài ra, trong những năm gần đây, cũng có nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học quan tâm đến những vấn đề khác nhau của nghệ thuật như đời sống nghệ thuật, hoạt động nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật, hay ý nghĩa thực tiễn của nghệ thuật trong việc định hướng hoạt động của con người cũng như xây dựng hệ giá trị trong xã hội... Sự quan tâm đó thể hiện qua rất nhiều các công trình như: Bàn về văn hoá
  • 19. 14 nghệ thuật của Trường Chinh, Nxb. Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, 1993; Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam trong thế kỷ mới do tác giả Nguyễn Văn Huyên chủ biên, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997; Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển năng lực sáng tạo của con người của Nguyễn Ngọc Thu, Nxb. Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh; Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ của Trần Tuý, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005; các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ như: Vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người của Đào Duy Thanh, Luận án tiến sĩ năm 1999; các bài viết trên các tạp chí như: “Mấy suy nghĩ về vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Mỹ thuật thời nay, số 12 năm 1996 và “Văn hóa nghệ thuật với vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách trong tiến trình đổi mới ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 1 năm 2001 của Đỗ Huy; “Cái đẹp nghệ thuật và đời sống xã hội”, Tạp chí Triết học, số 2 năm 1993 của Vũ Minh Tâm; “Đánh giá nghệ thuật - hệ chuẩn phổ biến của hoạt động đánh giá thẩm mỹ”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 2000 của Đào Duy Thanh; “Cội nguồn của ý thức thẩm mỹ và sự thức tỉnh những năng lực sáng tạo nghệ thuật”, Tạp chí Triết học, số 2 năm 2002 của Đỗ Thị Minh Thảo ... Tóm lại, nghệ thuật được nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có công trình tiếp cận ở góc độ bản thể luận, có công trình tiếp cận ở góc độ giá trị luận, có công trình phân tích các loại hình của nghệ thuật, có công trình lại phân tích mối quan hệ giữa nghệ thuật với hoạt động thực tiễn của con người, v.v... Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu nghệ thuật dưới góc độ cụ thể, chẳng hạn, nghiên cứu vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên hiện nay. Đây là hướng nghiên cứu mới của luận án, làm rõ khía cạnh triết học của mối liên hệ giữa nghệ thuật với quá trình giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nhằm nhận thức rõ vai trò của nghệ thuật trong xây dựng chuẩn mực thẩm mỹ và hệ giá trị thẩm mỹ ở một đối tượng cụ thể là sinh viên ở nước ta hiện nay. 1.1.2. Những nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thị hiếu thẩm mỹ Thị hiếu thẩm mỹ cũng không phải là vấn đề mới mẻ trong lịch sử mỹ học. Từ thế kỷ XVII - XVIII, đã có một số nhà triết học ở phương Tây... bắt đầu quan tâm
  • 20. 15 nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ. Người nghiên cứu thị hiếu thẩm mỹ rất công phu và đầy đủ phải kể đến đầu tiên là I. Kant - nhà triết học của nền triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII - XIX với tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán (được Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Nxb. Tri thức, 2007). Trong tác phẩm này, I. Kant đã trình bày toàn bộ tư tưởng mỹ học của mình bằng việc tiến hành phân tích các dạng phán đoán phản tư nhằm trả lời cho câu hỏi: tôi có thể cảm nhận và suy tưởng như thế nào về bản thân mình và thế giới xung quanh? Có thể gọi Phê phán năng lực phán đoán là “viên đá đỉnh vòm” trong toàn bộ toà nhà triết học Kant với vai trò là kết thúc của công cuộc phê phán lý tính đồng thời tự đặt cho mình nhiệm vụ bàn về điều kiện khả thể cho hai lĩnh vực khác xa nhau là năng lực phán đoán thẩm mỹ trong thế giới của cái đẹp, của nghệ thuật, của tài năng thiên bẩm và năng lực phán đoán mục đích luận trong thế giới hữu cơ cũng như trong sự thống nhất có hệ thống của toàn bộ giới tự nhiên. Vì vậy, tác phẩm được chia thành hai phần rõ rệt, trong đó Kant dành toàn bộ phần một để bàn về bản chất và hiệu lực của phán đoán thẩm mỹ. Kant gọi thị hiếu thẩm mỹ là phán đoán thẩm mỹ hay phán đoán sở thích. Về mặt chất, phán đoán sở thích là có tính thẩm mỹ mang tính chủ quan. Nó biểu hiện cảm giác thích thú một cách độc lập, không phải tuân theo trình tự thông thường của nhận thức. Theo Kant, phán đoán sở thích diễn tả sự thích thú, sự hài lòng của con người về đối tượng. Sự thích thú, sự hài lòng đó không diễn tả tính chất nào ở đối tượng mà chỉ là cách thức đối tượng tác động lên chúng ta; nó diễn ra trong chúng ta mà chúng ta không cần quan tâm đến sự hiện hữu của vật. Vì vậy, Kant khẳng định rằng, phán đoán thẩm mỹ về bản chất mang tính vô tư, không mục đích, không khái niệm. Về mặt lượng, phán đoán sở thích mang tính phổ quát. Bởi vì, phán đoán thẩm mỹ là sự vui sướng thuần tuý, không bị ràng buộc bởi bất kỳ ai hay bất kỳ nguyên tắc nào. Kant lập luận rằng, sở dĩ phán đoán thẩm mỹ mang tính phổ quát vì nó không đến từ cảm giác mà phát sinh từ trạng thái tâm lý con người đã thoát ra mọi sự ràng buộc của những điều kiện riêng tư và đối tượng đến với ta một cách tự do; khi đó, phán đoán thẩm mỹ tạo ra tín hiệu lan truyền của “tính giá trị hiệu lực phổ biến”. Vì vậy, sở thích (thị hiếu) thẩm mỹ không dựa trên bất cứ một khái niệm nào mà dựa trên tình cảm. Nói cách khác, phán đoán thẩm mỹ là phán đoán sở thích
  • 21. 16 thuần tuý chứ không phải là các loại phán đoán mang tính khái niệm hay mục đích. Từ sự phân biệt ấy, Kant vạch ra đặc điểm của phán đoán thẩm mỹ là sự hài lòng do cách thức cảm nhận của chủ thể về đối tượng quyết định và bao giờ cũng là một phán đoán cá biệt về đối tượng. Cho nên, “không thể có một nguyên tắc khách quan nào về sở thích” [57, tr.219] và “nguyên tắc của sở thích là nguyên tắc chủ quan của năng lực phán đoán nói chung” [57, tr.221]. Như vậy, quan niệm của Kant về nguồn gốc và bản chất của thị hiếu thẩm mỹ mang đậm tính duy tâm chủ quan. Đồng thời, sự trình bày của Kant về phán đoán thẩm mỹ cũng cho thấy ông đã không giải quyết được mối quan hệ giữa tính cá biệt và tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ. Trong lập luận của mình, Kant đưa ra phương thức để xác lập tính tất yếu về sự hài lòng đối với cái đẹp là bằng sự suy tưởng. Vì là suy tưởng nên Kant cho rằng tính tất yếu về cái đẹp thông qua phán đoán thẩm mỹ là một tất yếu đặc biệt còn được gọi là tất yếu điển hình. Một sự tất yếu của việc mọi người nhất trí với một phán đoán được coi là mẫu mực cho một qui tắc phổ quát về cái đẹp. Qui tắc phổ quát này, theo Kant, ta không nêu rõ được nhưng vẫn tồn tại. Sở dĩ không nêu rõ ra được vì đây là nguyên tắc hoàn toàn chủ quan trong sự xác định cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp bằng cảm giác mà thôi chứ không bằng khái niệm nhưng vẫn có giá trị phổ quát. Ông đi đến giả thiết rằng: trong phán đoán về sự hài lòng có sự tồn tại của sự cảm quan chung. Chính cảm quan chung này quy định tính tất yếu phổ quát của phán đoán thẩm mỹ. Tuy nhiên, thực tế vẫn xảy ra là khi đứng trước một bức tranh thì có người say mê chiêm ngưỡng nhưng vẫn có kẻ thờ ơ. Rõ ràng ở mỗi người có quy phạm hay chuẩn mực thẩm mỹ riêng của bản thân. Trong phán đoán sở thích thì những quy phạm, chuẩn mực này không thể là khách quan. Vậy thì làm sao có cảm quan chung về cái đẹp? Kant đành phải biện minh rằng: “... kinh nghiệm không thể được lấy làm cơ sở cho cảm quan chung này được, bởi vì cảm quan chung là nhằm biện minh cho những phán đoán có chứa đựng một cái “nên là” (ein Sollen); nó không nói rằng bất cứ ai cũng sẽ đồng ý với phán đoán của ta, trái lại, nên đồng ý với ta. (...) nên cảm quan chung chỉ là một quy phạm hay chuẩn mực đơn thuần có tính lý tưởng mà thôi” [57, tr.133]. Như vậy, bản thân Kant đã tự mâu thuẫn với chính mình khi xem xét về tính cá biệt và tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ.
  • 22. 17 Tóm lại, dù có những phức tạp trong tư tưởng nhưng Phê phán năng lực phán đoán của Kant mà đặc biệt là phần một của tác phẩm đã thể hiện một sự nghiên cứu công phu về thị hiếu thẩm mỹ. Đây là một tư liệu quan trọng để luận án khái quát, so sánh những quan điểm khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ trong lịch sử mỹ học khi phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về thị hiếu thẩm mỹ. Sau Kant, các nhà mỹ học dân chủ Nga như N. Khasenco, N. Tsécnưsépxki, G. Plêkhanốp... cũng có những công trình nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ. Một đại diện trong số họ là G. Pơlêkhanốp. Những nghiên cứu về mỹ học và nghệ thuật của ông được trình bày trong tác phẩm Nghệ thuật và đời sống xã hội (Từ Lâm dịch), Nxb. Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, 1963, trong đó, những vấn đề về thị hiếu thẩm mỹ được trình bày chủ yếu ở phần Bàn về nghệ thuật (từ trang 126 đến 164). Trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ông đã chứng minh mọi thị hiếu thẩm mỹ đều có nguồn gốc xã hội của chúng. Ông cho rằng, sự phát triển của nghệ thuật không thể tách rời sự phát triển của những điều kiện vật chất xã hội, do đó sự thay đổi các thị hiếu thẩm mỹ qua các thời kỳ hoàn toàn phụ thuộc vào quá trình đấu tranh giai cấp cũng như chịu sự quyết định của các điều kiện lịch sử và xã hội của chúng. Theo ông, bản chất, thị hiếu, ước vọng, tập quán của con người đều thay đổi theo những điều kiện sinh hoạt của họ. Vì vậy, “phải căn cứ vào tình trạng lực lượng sản xuất của họ, nghĩa là vào phương thức sản xuất của họ, để tìm ra nguyên nhân tại sao họ lại có những thị hiếu và quan niệm thẩm mỹ này, chứ không phải là những thị hiếu và quan niệm khác” [97, tr.163] Ở Việt Nam, các công trình của các tác giả Đỗ Huy, Đỗ Văn Khang, Nguyễn Văn Huyên, Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh, ... đều có đề cập đến thị hiếu thẩm mỹ. Trong số đó, tác giả Đỗ Huy là người có nhiều công trình nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ khá công phu và cặn kẽ. Trong công trình Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, Đỗ Huy đã dành toàn bộ chương X để bàn về bản chất của thị hiếu thẩm mỹ. Coi thị hiếu thẩm mỹ là một biểu hiện quan trọng của năng lực thẩm mỹ, là phong vũ biểu thẩm mỹ của con người trong thưởng thức, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật, tác giả đã giới thiệu một cách tỉ mỉ các quan điểm của mỹ học Mác –
  • 23. 18 Lênin về cơ sở hình thành của thị hiếu thẩm mỹ, bản chất xã hội và các đặc trưng chủ yếu của thị hiếu thẩm mỹ thể hiện ở tính phản ứng mau lẹ, sự hào hứng, tính cá biệt, tính hệ thống hình tượng, tính giai cấp, tính dân tộc. Tác giả còn có những phân tích cặn kẽ hơn về thị hiếu thẩm mỹ trên quan điểm của mỹ học Mác – Lênin trong công trình Mỹ học – Khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001. Trên lập trường của mỹ học Mác – Lênin, tác giả phân tích các quan điểm khác nhau về các quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực từ tri giác, biểu tượng, phán đoán, nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng đến cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài, hưởng thụ, đáng giá và sáng tạo nghệ thuật, ... Đặc biệt, khi nghiên cứu mặt chủ thể của các quan hệ thẩm mỹ, tác giả trình bày vai trò to lớn của chủ thể trong quan hệ thẩm mỹ, trong đó nhấn mạnh vai trò của thị hiếu thẩm mỹ đồng thời nêu bật quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về yêu cầu nâng cao và phát huy vai trò của thị hiếu thẩm mỹ trong hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật cho xã hội. Cũng nghiên cứu về vấn đề thị hiếu thẩm mỹ, còn có công trình Thoả mãn nhu cầu văn hoá và nâng cao thị hiếu nghệ thuật của tập thể tác giả Viện Văn hoá, Nxb Văn hoá nghệ thuật – Hà Nội, 1987. Công trình này gồm tập hợp các bài viết về các góc độ của nhu cầu văn hoá và thị hiếu nghệ thuật. Các tác giả qua các bài viết của mình đều thể hiện quan điểm thống nhất giữa thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật, coi thị hiếu nghệ thuật là biểu hiện của thị hiếu thẩm mỹ trong lĩnh vực nghệ thuật và thị hiếu thẩm mỹ là bộ phận quan trọng nhất của nhu cầu văn hoá, nhu cầu sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật. Tác giả Dương Viết Á trong bài Thưởng thức nghệ thuật cho rằng, thị hiếu thẩm mỹ có tác động trực tiếp đến thưởng thức nghệ thuật của từng con người cụ thể. Theo ông, thị hiếu là cái “gu”, cái khiếu, cái sở thích riêng của từng người. Thị hiếu tuy mang sắc thái phán đoán nhưng là phán đoán cảm tính, trực quan, là sự đánh giá thẩm mỹ nhưng chưa phải là sự đánh giá lý tính. Xét về quá trình nhận thức, thị hiếu thẩm mỹ thuộc giai đoạn trực quan sinh động và có tác động sâu sắc đến quá trình thưởng thức nghệ thuật của con người. Thị hiếu thẩm mỹ là nơi bộc lộ cái riêng của con người trong thưởng thức nghệ thuật. Cái riêng của thị hiếu thẩm mỹ của một người là một hình thức cụ thể biểu
  • 24. 19 hiện và phản ánh trong một mức độ nhất định trình độ, xu hướng nói chung của một xã hội, một thời đại. Vì vậy, nếu xoá bỏ thị hiếu thì không còn cái riêng của con người nữa, lúc đó, xã hội sẽ mất hết ý nghĩa. Cùng chung quan điểm với tác giả Dương Viết Á, tác giả Lê Anh Trà trong bài Vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ đã phân tích cơ chế hình thành của thị hiếu thẩm mỹ trên cơ sở gắn liền thị hiếu thẩm mỹ với nhân sinh quan, thế giới quan, trình độ văn hoá, lý tưởng, trí tuệ và toàn bộ nhân cách, lối sống của chủ thể nhất định. Tác giả Lâm Vinh trong Mỹ học: về cái đẹp – về nghệ thuật – về con người, Nxb. Đại học Sư phạm – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 1997 cho rằng, thị hiếu thẩm mỹ là một hiện tượng của sự thống nhất giữa tình cảm và lý trí trong con người. Theo tác giả, thị hiếu thẩm mỹ cũng như mọi loại hiện tượng khác đều mang tính chất quy luật. Có nhiều loại quy luật chi phối nhưng có ba loại quy luật thường xuyên tác động đến sự hình thành và phát triển của thị hiếu thẩm mỹ. Đó là, quy luật xã hội học, quy luật tâm lý và quy luật thẩm mỹ học. Trên cơ sở đó, ông đã có những phân tích ngắn gọn nhưng sâu sắc về vai trò của từng loại quy luật khi tác động đến sự hình thành và phát triển của thị hiếu thẩm mỹ. Đặc biệt, những năm đầu của thế kỷ XXI, nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ có công trình Luận án tiến sĩ Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống thẩm mỹ của Nguyễn Chương Nhiếp, Viện Triết học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2000. Trong luận án này, tác giả trình bày một cách có hệ thống các phương diện khác nhau của thị hiếu thẩm mỹ và đời sống thẩm mỹ, phân tích sâu sắc về vai trò của thị hiếu thẩm mỹ đối với đời sống thẩm mỹ, đồng thời đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp nhằm nâng cao và phát huy vai trò của thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống thẩm mỹ ở nước ta những năm đầu của thế kỷ XXI. Sau đó, trên cơ sở kết quả của luận án, Nguyễn Chương Nhiếp đã cho xuất bản cuốn Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Cuốn sách góp phần làm sáng tỏ bản chất và vai trò của thị hiếu thẩm mỹ nhằm thực hiện yêu cầu nâng cao và phát huy vai trò thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, tạo điều kiện cho công chúng hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo ngày càng nhiều giá trị thẩm mỹ cho xã hội.
  • 25. 20 Từ những nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ, các nhà nghiên cứu đã bày tỏ sự quan tâm đến vai trò của giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thị hiếu thẩm mỹ. Nếu không kể đến các giáo trình mỹ học hay các tập bài giảng mỹ học vì trong đó phần giáo dục thẩm mỹ là phần không thể thiếu thì nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ đầu tiên phải kể đến là cuốn Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới Việt Nam của tác giả Lê Anh Trà, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982. Cuốn sách trình bày về vai trò của giáo dục thẩm mỹ và yêu cầu xây dựng con người mới Việt Nam trước thời kỳ đất nước đổi mới, trong đó, tác giả xác định nội dung cốt lõi của giáo dục thẩm mỹ đối với việc xây dựng con người mới Việt Nam là cái đẹp mới xã hội chủ nghĩa – cái đẹp bắt nguồn từ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc kết hợp với lối sống xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những lĩnh vực của giáo dục thẩm mỹ, đó là giáo dục thẩm mỹ trong lĩnh vực thiên nhiên, giáo dục thẩm mỹ qua lĩnh vực đời sống xã hội với môi trường gia đình, trường học, lĩnh vực lao động sản xuất và bảo vệ tổ quốc, các nếp sống ngoài lao động và giáo dục thẩm mỹ qua lĩnh vực nghệ thuật. Tiếp theo là công trình Giáo dục thẩm mỹ - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn của Đỗ Huy, Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1987. Cuốn sách trình bày những vấn đề phương pháp luận trong việc giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới; Vai trò của mỹ học Mác - Lênin trong việc định hướng sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ; Bản chất của giáo dục thẩm mỹ trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta xung quanh các chủ đề: Giáo dục thẩm mỹ và việc định hướng các nhu cầu thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ và việc xây dựng các thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, giáo dục thẩm mỹ và sự hình thành các khả năng sáng tạo. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra các hình thức và các biện pháp giáo dục thẩm mỹ hiệu quả, đó là: giáo dục thẩm mỹ bằng và thông qua lao động; giáo dục thẩm mỹ thông qua những tấm gương người tốt, việc tốt; giáo dục thẩm mỹ thông qua hệ thống thông tin đại chúng và giáo dục thẩm mỹ bằng nghệ thuật và trong nghệ thuật. Trong vấn đề giáo dục thẩm mỹ, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến đối tượng là thế hệ trẻ. Đỗ Xuân Hà trong công trình Giáo dục thẩm mỹ, món nợ lớn đối với thế hệ trẻ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997 đã chỉ ra rằng, nhiệm vụ giáo dục
  • 26. 21 thẩm mỹ cho thế hệ trẻ nói chung và học sinh phổ thông nói riêng là nhiệm vụ cấp bách của những người làm giáo dục. Xuất phát từ việc nghiên cứu một số vấn đề giáo dục thẩm mỹ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục thẩm mỹ đối với thế hệ trẻ, cuốn sách khái quát quá trình thực hiện hoạt động giáo dục thẩm mỹ cho học sinh trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam và một số kinh nghiệm giáo dục thẩm mỹ cho học sinh trong nhà trường ở Liên Xô trước đây. Qua đó, tác giả phân tích mối liên hệ giữa vai trò của giáo dục thẩm mỹ trong việc xây dựng mô hình nhân cách con người trước những yêu cầu của xã hội Việt Nam đang đổi mới với việc thực hiện hoạt động giáo dục thẩm mỹ cho học sinh ở bậc phổ thông. Đồng thời, tác giả đề xuất các hình thức giáo dục thẩm mỹ cho các em học sinh trong các môn học cụ thể như Văn học, Toán học và khoa học tự nhiên hay các môn nghệ thuật như âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sân khấu, nghệ thuật điện ảnh ... Ngoài ra, còn có những công trình như: Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ của Vũ Minh Tâm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998; Về giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay của Nguyễn Vĩnh Lê, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Cái đẹp với vấn đề giáo dục thẩm mỹ trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam của Nguyễn Thị Nga, Luận văn Thạc sĩ, 1999; những bài viết trên các tạp chí như “Tiếp cận giáo dục thẩm mỹ từ phương diện không gian và thời gian của hình tượng nghệ thuật” của Trần Tuý đăng trên tạp chí Triết học số 3 năm 1996; “Vài khía cạnh phương pháp luận của vấn đề giáo dục thẩm mỹ với sự hình thành con người mới” của Tạ Văn Thành, “Giáo dục thẩm mỹ và vấn đề hình thành các khả năng sáng tạo” của Đỗ Huy, “Giáo dục thẩm mỹ và việc định hướng nhu cầu thẩm mỹ” của Hồng Mai đều đăng trên tạp chí Triết học, số 3 năm 1983; ba bài của Đỗ Xuân Hà: Về giáo dục thẩm mỹ cho học sinh bằng nghệ thuật tạo hình, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 5, 1992, Giáo dục đạo đức - thẩm mỹ cho thanh niên, thiếu niên bằng nghệ thuật sân khấu, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 6, 1993, Giáo dục thẩm mỹ - món nợ lớn đối với thế hệ trẻ, Tạp chí Thế giới mới, số 98, 1994;... đều có những phân tích sâu sắc về các khía cạnh của giáo dục thẩm mỹ.
  • 27. 22 Thị hiếu thẩm mỹ là biểu hiện tập trung nhất của ý thức thẩm mỹ. Do đó, về cơ bản, các công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ nói trên đều đề cập đến giáo dục thị hiếu thẩm mỹ với tính cách là một bộ phận cơ bản của giáo dục thẩm mỹ. Tuy nhiên, cũng cần có một công trình khoa học nghiên cứu giáo dục thị hiếu thẩm mỹ với tính cách là một đối tượng riêng biệt thật sự. Đây là hướng nghiên cứu mới của luận án, làm rõ các nội dung của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ đối với việc phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới hiện nay. 1.1.3. Những nghiên cứu về vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ Trong các công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ như Giáo dục thẩm mỹ - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn của Đỗ Huy, Về giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay của Nguyễn Vĩnh Lê, Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ của Vũ Minh Tâm... hay trong các Giáo trình mỹ học của các tác giả Đỗ Huy, Đỗ Văn Khang, Lê Đình Lục... đều có bàn về vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ và việc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ với tính cách là biểu hiện cơ bản của giáo dục thẩm mỹ. Nổi bật là công trình Luận án tiến sĩ Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ của Trần Tuý, Viện Triết học – Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội, 1998. Luận án này phân tích vai trò của nghệ thuật trong việc phát triển nhân cách; đồng thời phân tích sự tác động của nghệ thuật tới công chúng và tìm hiểu cơ chế tiếp nhận của công chúng trong các quan hệ nghệ thuật cụ thể; qua đó vạch ra các giải giáp nâng cao vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ. Trên cơ sở kết quả của luận án, Trần Tuý đã cho xuất bản cuốn Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. Cuốn sách góp phần làm sáng tỏ những khả năng tiềm ẩn của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật trong việc phát triển khía cạnh thẩm mỹ của nhân cách, đặc biệt nhấn mạnh vai trò định hướng của nghệ thuật đối với sự phát triển nhu cầu thẩm mỹ và xây dựng thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh trong giáo dục thẩm mỹ cho con người. Liên quan đến vấn đề vai trò của nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ, luận án tiến sĩ Vai trò của văn học trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay của Lê
  • 28. 23 Quang Vinh bảo vệ năm 1996 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã phân tích vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thẩm mỹ trong phạm vi của một bộ môn nghệ thuật cụ thể là văn học. Bằng việc khảo sát bản chất của giáo dục thẩm mỹ và vai trò của văn học trong việc giáo dục thẩm mỹ, luận án này đã tìm ra mối liên hệ nội tại giữa văn học với giáo dục thẩm mỹ để lý giải những khía cạnh tác động đặc biệt của văn học với quá trình giáo dục thẩm mỹ. Đồng thời, luận án này cũng đã khảo sát thực trạng tình hình văn học trong những năm đầu của quá trình đổi mới đất nước đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho công chúng và đề xuất các giải pháp có ý nghĩa khả thi trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của văn học trong giáo dục thẩm mỹ. Nếu coi thị hiếu thẩm mỹ là biểu hiện đặc trưng của đời sống tinh thần của con người và giáo dục thẩm mỹ là nâng cao năng lực thẩm mỹ của chủ thể trong hoạt động nhận thức, hoạt động đánh giá và hoạt động sáng tạo thẩm mỹ thì mối quan hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ cũng được phân tích trong luận án tiến sĩ Vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người của Đào Duy Thanh (Viện Triết học – Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội, 1999). Trong luận án này, tác giả chỉ ra rằng, “với tính cách là một bộ phận của đời sống tinh thần, sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật không chỉ góp phần nâng cao và làm phong phú thế giới tinh thần mà còn tác động độc đáo tới sự phát triển những năng lực nhận thức, đánh giá và sáng tạo của con người. Bởi vì, nghệ thuật với sức mạnh tiềm ẩn của mình, nó có khả năng bộc lộ một cách sâu xa, sinh động và tổng hợp nhất nơi tâm hồn con người cái chỉnh thể toàn vẹn của những khát vọng, những giá trị: chân - thiện - mỹ ...” [105, tr.1] Ngoài ra, trên các tạp chí Triết học, tạp chí Mỹ thuật thời nay, tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, tạp chí Nghiên cứu lý luận... cũng có những bài viết như: “Mấy suy nghĩ về vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay” của Đỗ Huy, “Cội nguồn của ý thức thẩm mỹ và sự thức tỉnh những năng lực sáng tạo nghệ thuật” của Đỗ Thị Minh Thảo, “Tiếp cận giáo dục thẩm mỹ từ phương diện không gian và thời gian của hình tượng nghệ thuật” của Trần Tuý, “Nghệ thuật và vấn đề giáo dục thị hiếu” của Nguyễn Chương Nhiếp, “Vài khía
  • 29. 24 cạnh phương pháp luận của vấn đề giáo dục thẩm mỹ với sự hình thành con người mới” của Tạ Văn Thành, “Giáo dục thẩm mỹ và vấn đề hình thành các khả năng sáng tạo” của Đỗ Huy, “Giáo dục thẩm mỹ và việc định hướng nhu cầu thẩm mỹ của Hồng Mai... phân tích các mặt, các góc độ khác nhau của nghệ thuật, của giáo dục thẩm mỹ và mối liên hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ thể hiện sự quan tâm sâu sắc của các nhà khoa học đối với nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn. Các công trình trên chủ yếu bàn về vai trò của nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ nói chung, tuy nhiên, cần có một công trình nghiên cứu đi sâu phân tích mối quan hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, đặc biệt là vấn đề nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên - một đối tượng có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của xã hội. Đây là hướng nghiên cứu mới của luận án, làm rõ vai trò của nghệ thuật với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay. Đồng thời, luận án kế thừa những lý luận cơ bản về vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, sự cần thiết của nghệ thuật trong xây dựng thị hiếu thẩm mỹ tốt, lành mạnh cho sinh viên giúp họ hình thành một hệ chuẩn giá trị trong nhân cách, lối sống nhằm phát triển hoàn thiện trước yêu cầu mới của xã hội hiện đại. 1.2. Những nghiên cứu về thực trạng thị hiếu thẩm mỹ và thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nƣớc ta hiện nay Thực trạng thị hiếu thẩm mỹ của quần chúng nhân dân nói chung và của sinh viên nói riêng đang là một vấn đề bức xúc trong toàn xã hội. Nhiều tác giả, nhiều nhà nghiên cứu và nhiều công trình khoa học đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với vấn đề này. Trong công trình nghiên cứu khoa học Thoả mãn nhu cầu văn hoá và nâng cao thị hiếu nghệ thuật, Viện Văn hoá, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1987, các tác giả đã nhận thấy sự biến đổi trong thị hiếu thẩm mỹ có tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần, đặc biệt là với nhu cầu văn hoá của con người. Trong đó, Hoàng Thanh với bài viết “Nhu cầu sinh hoạt điện ảnh trong đời sống văn hoá ở cơ sở” và Đinh Kim Long với bài viết “Một số vấn đề về thị hiếu và trình độ lĩnh hội giá trị tác phẩm của khán giả điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh” đã thống kê số liệu từ các cuộc khảo sát về loại hình nghệ thuật điện ảnh trong đời sống văn hoá nói chung và
  • 30. 25 của khán giả thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, qua đó, rút ra những kết luận về sự biến đổi trong thị hiếu thẩm mỹ của công chúng thuộc lĩnh vực điện ảnh vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Thị hiếu thẩm mỹ còn được coi là biểu hiện của năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Liên quan đến thực trạng thị hiếu thẩm mỹ với tính cách là biểu hiện của năng lực cảm thụ thẩm mỹ, Hồ Sĩ Vịnh đã có những nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về vấn đề này của một đối tượng đặc trưng là người Hà Nội trong công trình Cảm thụ thẩm mỹ và người Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007. Trong công trình này, tác giả đã công bố kết quả khảo sát đánh giá thực trạng cảm thụ thẩm mỹ của người Hà Nội trên tám lĩnh vực: trong sinh hoạt ăn, ở, mặc, đi lại; trong sử dụng thời gian rỗi; thông qua mức tiêu dùng, hưởng thụ văn hoá – thông tin nghệ thuật; qua hoạt động nghệ thuật; trong ứng xử với môi trường thiên nhiên; trong ứng xử với bản thân mình; trong ứng xử với gia đình, họ tộc, bạn bè, đồng nghiệp...; trong ứng xử nơi công cộng. Gần đây, Viện Nghiên cứu Phát triển thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học: Định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Các bài viết tại Hội thảo được tập hợp lại trong cuốn: Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hoá văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2013. Cuốn sách bàn về thực trạng thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh qua việc phân tích tác động của các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, điện ảnh, thời trang, văn hoá đọc... và nêu lên các kiến nghị nhằm xây dựng hệ thống chuẩn mực trong thị hiếu thẩm mỹ cho giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh trên một số lĩnh vực hoạt động nghệ thuật cụ thể. Trong sách này, Ngô Hoài Sơn với bài “Thị hiếu thẩm mỹ và những biến đổi trong thanh niên thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” đã lập ra một bảng khảo sát khá chi tiết về những biến đổi trong thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên ở thành phố Hồ Chí Minh từ trong lĩnh vực nghệ thuật đến cách thể hiện bản thân, từ trong ứng xử giữa người với người, đến trong đối xử với môi trường tự nhiên xung quanh. Vũ Thị Thu Hương với bài “Ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài đến thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ từ góc nhìn thời trang Cosplay” thì
  • 31. 26 chỉ ra biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ trong lĩnh vực thời trang của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh dưới ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài như truyện tranh Nhật Bản, lễ hội Hallowen của phương Tây... Mai Thị Quế với bài “Thị hiếu thẩm mỹ đối với trang phục của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” cũng chỉ ra những biểu hiện của sự biến đổi thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn trang phục v.v... Cũng bàn về thực trạng của thị hiếu thẩm mỹ, trên trang điện tử tapchicuaviet.com.vn của Diễn đàn văn hoá – văn học nghệ thuật của tỉnh Quảng Trị, Đinh Xuân Dũng trong bài viết Thị hiếu thẩm mỹ - thực trạng, sự biến đổi và vấn đề giáo dục thẩm mỹ đã chỉ ra rằng, sự biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ của công chúng hiện nay đang diễn ra theo bốn chiều hướng: đa dạng hoá, cá thể hoá, phân nhóm và phân hoá. Sự hình thành các thị hiếu thẩm mỹ mới ngày càng bộc lộ rõ sự khác nhau, đối chọi nhau trong tiếp nhận, đánh giá, cảm thụ tác phẩm nghệ thuật. Đối với chủ thể tiếp nhận, những biến đổi trong thị hiếu thẩm mỹ còn thể hiện rất phong phú trong xu hướng khác nhau khi tiếp cận các loại hình nghệ thuật và cả các thể loại cụ thể trong từng loại hình nghệ thuật. Với những phân tích về sự biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, tác giả đưa ra nhận định rằng, thị hiếu thẩm mỹ ở nước ta đang diễn ra một quá trình giao thời, chuyển tiếp, chưa định hình. Và đây là quy luật tất yếu khách quan của sự phát triển thị hiếu thẩm mỹ trước sự tác động của nền kinh tế - xã hội và hoạt động nghệ thuật. Trong lĩnh vực âm nhạc, phát biểu tại Hội thảo khoa học Lý luận phê bình âm nhạc - Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương năm 2012, tiến sĩ Phạm Trọng Toàn đã nêu lên sự khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ trong thưởng thức âm nhạc của những người ở lứa tuổi trung niên (từ 40 tuổi trở lên) và những người trẻ tuổi (dưới 40 tuổi), đồng thời đưa ra nhận định: đang có tình trạng thị hiếu thẩm mỹ lệch lạc trong một bộ phận công chúng trẻ hiện nay. Còn Thuỵ Du trong bài “Thị hiếu của công chúng trẻ và âm nhạc thị trường” đăng trên báo Nhân dân (trang điện tử nhandan.com.vn ngày 29/8/2014) thì đặt ra vấn đề: phải chăng thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ hiện nay đang thay đổi theo chiều hướng tiêu cực sau khi phân tích những biểu hiện của giới trẻ trong sáng tạo và thưởng thức âm nhạc qua các tác phẩm âm nhạc đang lưu hành trên thị trường hiện nay.
  • 32. 27 Không chỉ tìm hiểu thực trạng, các công trình nghiên cứu còn đi đến phân tích nguyên nhân biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ. Tác giả Dương Viết Á trong bài “Thưởng thức nghệ thuật” (sách Thoả mãn nhu cầu văn hoá và nâng cao thị hiếu nghệ thuật) khẳng định rằng “không thể đơn giản trong việc giải thích nguyên nhân hình thành một thị hiếu thẩm mỹ” [22, tr.170]. Bởi vì, “thị hiếu không phải là một cái gì mang tính chất tiên thiên, “trời phú”, nó là sản phẩm của một quá trình. Điều kiện xã hội, quan hệ chung và riêng, cuộc đời, hoàn cảnh sinh hoạt, sinh lý, tâm lý, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, những bước thăng trầm, may rủi trong cuộc sống riêng... Thậm chí kể cả những sự kiện, những biến động ngẫu nhiên trong cuộc đời đều là những nguyên nhân tạo nên một thị hiếu nhất định” [22, tr.170], “thị hiếu thẩm mỹ hình thành là sản phẩm của một quá trình; quá trình này lại là một sự phản ứng trước cuộc sống và tổng hoà những quan hệ xã hội” [22, tr.169]. Do đó, phân tích nguyên nhân biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ cần phải có cái nhìn biện chứng. Trong công trình Cảm thụ thẩm mỹ và người Hà Nội, Hồ Sĩ Vịnh cũng chỉ ra nguyên nhân của quá trình biến đổi cảm thụ thẩm mỹ (trong đó thị hiếu thẩm mỹ là một biểu hiện) của người Hà Nội là sự tác động của nhân tố kinh tế - xã hội, sự tác động của quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá và sự tác động của xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, cùng quan điểm với Hồ Sĩ Vịnh, Hà Thanh Vân trong bài “Tác động của Internet lên thị hiếu thẩm mỹ về văn hoá nghệ thuật của thanh niên” (sách Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hoá văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2013) nhấn mạnh tác động của Internet là một trong những nguyên nhân nổi bật làm biến đổi thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên nói chung và thanh niên thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Cũng nghiên cứu về nguyên nhân biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ, Luận án Phó tiến sĩ Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh niên qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá (Đại học Sư phạm Hà Nội, 1996) của Trần Quốc Bảng phân tích ảnh hưởng của các giá trị văn hoá tinh thần truyền thống của dân tộc và thực tiễn sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật đa dạng, phong phú, phức tạp với những tác động tích cực và tiêu cực lên thị hiếu thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ của thanh niên. Trong khi đó, Nguyễn Minh Hạnh trong bài Thị hiếu âm nhạc của sinh viên đại học thành phố Hà Nội hiện
  • 33. 28 nay trên trang điện tử spnttw.edu.vn ngày 18/7/2014 của Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương thì nêu ra sự bất cập và thiếu hụt của môi trường giáo dục đối với thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên trong lĩnh vực cụ thể là âm nhạc. Gần đây nhất, Đỗ Huy trong bài “Giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” đăng trên tạp chí Triết học số 12 năm 2014 cũng chỉ ra rằng, có rất nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan trong sự biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ dẫn đến sự thành công và không thành công trong hoạt động nghệ thuật của họ, và một trong những nguyên nhân ấy là vấn đề nhận thức về lĩnh vực thị hiếu nghệ thuật. Các công trình trên đã có những nghiên cứu đa dạng về các mặt, các lĩnh vực của thực trạng thị hiếu thẩm mỹ. Tuy nhiên, các kết quả chỉ dừng lại ở việc khảo sát đối tượng chung là quần chúng nhân dân, và nếu sâu hơn thì cũng chỉ dừng lại ở khảo sát giới trẻ nói chung mà chưa đi vào khảo sát thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên – đối tượng sẽ gia nhập vào lực lượng lao động để trở thành động lực phát triển cho xã hội. Kết quả khảo sát của các công trình trên đây là tư liệu quý giá cho luận án tiến hành khảo sát thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay. Những kết quả đó là cơ sở để luận án phân tích những vấn đề đặt ra với vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay và đề xuất những phương hướng, giải pháp vận dụng nghệ thuật vào giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên. 1.3. Những nghiên cứu về nguyên tắc và giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nƣớc ta hiện nay 1.3.1. Những nghiên cứu về nguyên tắc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Quan điểm vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ đã có từ trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng thời cổ đại, thời Phục hưng và thời Khai sáng cho đến chủ nghĩa Mác – Lênin, I. Kant đã cho rằng, nghệ thuật tuy không có quy luật nhưng tác động một cách có quy luật, không có dụng ý nhưng tác động một cách có dụng ý. Còn Hegel thì cho rằng nghệ thuật không nhằm giáo huấn, tu thiện, thanh
  • 34. 29 khiết hoá tâm hồn mà nhằm bộc lộ chân lý qua các hình thức cảm tính, qua cách bố trí nghệ thuật. Đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là một trong những hình thức giáo dục thẩm mỹ có hiệu quả cao. Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong các công trình khoa học của mình như Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Mỹ học với tư cách là một khoa học, Mỹ học – khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Giáo trình mỹ học Mác – Lênin... Đỗ Huy đã nêu lên những nguyên tắc của giáo dục thẩm mỹ nói chung trong đó có vận dụng nghệ thuật với tính cách là hình thức giáo dục thẩm mỹ có hiệu quả nhất. Nổi bật là trong công trình Mỹ học – khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, tác giả khẳng định rằng, giáo dục thẩm mỹ cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau: một là lấy con người làm trung tâm, hai là phải mang tính dân tộc, ba là gắn lý luận với thực tiễn, bốn là thống nhất mà đa dạng. Trong luận án tiến sĩ Vai trò của truyền thông đại chúng trong việc giáo dục thẩm mỹ cho nhân dân ở nước ta hiện nay (Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999), Trần Ngọc Tăng đưa ra nhận định: tuỳ theo lập trường giai cấp, thế giới quan quan niệm về bản chất, đặc trưng của giáo dục thẩm mỹ mà hệ thống giáo dục thẩm mỹ được xây dựng với những nguyên tắc khác nhau. Từ đó, tác giả xác định hệ thống giáo dục thẩm mỹ của nước ta có lập trường của giai cấp công nhân, thế giới quan duy vật biện chứng; đồng thời nêu ra các nguyên tắc của hệ thống giáo dục thẩm mỹ là nguyên tắc tính tư tưởng và tính đảng, nguyên tắc xã hội hoá, nguyên tắc gắn liền lý luận với thực tiễn, nguyên tắc đa dạng về hình thức. Trong luận án tiến sĩ Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, (Viện Triết học – Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội, 1998), Trần Tuý nhấn mạnh nguyên tắc toàn diện trong giáo dục thẩm mỹ. Luận án tiến sĩ Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống thẩm mỹ của Nguyễn Chương Nhiếp (Viện Triết học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2000) phân tích một số nguyên tắc về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ như tuân theo định hướng tiên tiến và mang bản sắc Việt Nam, tôn trọng và bảo vệ tính đa dạng của thị hiếu thẩm mỹ, thống nhất giữa giáo dục thẩm mỹ, giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức, bảo đảm tính đa dạng của các hình thức giáo dục thị hiếu thẩm mỹ.
  • 35. 30 Các bài viết của các tác giả trong công trình Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh thì dựa trên nhiều nguyên tắc khác nhau để đưa ra những giải pháp cho việc giáo dục thị hiếu thẩm mỹ đối với giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh ở các lĩnh vực của thị hiếu thẩm mỹ như trong trang phục, trong âm nhạc, trong điện ảnh... Nhìn chung, các công trình của các nhà khoa học được công bố đều thừa nhận vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ và đã nêu ra hệ thống các nguyên tắc cho việc giáo dục thẩm mỹ. Hệ thống các nguyên tắc này dừng lại ở giáo dục thẩm mỹ nói chung, giúp tác giả có những hiểu biết bao quát và sâu sắc hơn, cung cấp cho đề tài những kiến thức khái quát và gợi mở để luận án nghiên cứu, xây dựng các nguyên tắc cho việc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. 1.3.2. Những nghiên cứu về giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Khi nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ, các tác giả cũng rất quan tâm đến việc đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực thẩm mỹ của chủ thể. Lê Anh Trà trong công trình Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới Việt Nam (Nxb. Sự thật, Hà nội, 1982) trình bày một hệ thống giáo dục thẩm mỹ có sự tổng hợp tất cả các yếu tố đối tượng, phương pháp, phương thức của giáo dục thẩm mỹ với các khâu chủ yếu móc xích lẫn nhau được sắp xếp trong ba lĩnh vực: giáo dục thẩm mỹ về cái đẹp của thiên nhiên, giáo dục thẩm mỹ trong đời sống xã hội, giáo dục thẩm mỹ trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật. Trong đó, đối với giáo dục thẩm mỹ trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật, tác giả nêu lên một số biện pháp cụ thể để đẩy mạnh việc sử dụng nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ như: coi trọng vai trò của các tác giả và các nhà lý luận nghệ thuật, mỹ học, các nhà phê bình cũng như ý kiến quảng đại của quần chúng để có nhiều tác phẩm có chất lượng, có tác dụng thẩm mỹ tốt; coi trọng việc phổ biến các tác phẩm nghệ thuật tốt vào trong quần chúng nhân dân; coi trọng phát triển nghệ thuật nghiệp dư bên cạnh nghệ thuật chuyên nghiệp, chủ động xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng rộng rãi để mọi người có thể tham gia nghệ thuật bằng nhiều hình thức nhằm phát huy tính tự do sáng tạo...
  • 36. 31 Các công trình của Đỗ Huy đều có đề xuất những giải pháp để thực hiện giáo dục thẩm mỹ. Trong công trình Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, (Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1987), tác giả nêu lên bốn hình thức giáo dục thẩm mỹ cơ bản là giáo dục thẩm mỹ bằng văn hoá – nghệ thuật, giáo dục thẩm mỹ bằng cách nêu gương, giáo dục thẩm mỹ bằng lao động và thông qua lao động, giáo dục thẩm mỹ bằng mỹ học Mác – Lênin. Trong công trình Mỹ học – khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001) tác giả bổ sung giải pháp sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng trong giáo dục thẩm mỹ. Nguyễn Chương Nhiếp trong luận án tiến sĩ Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống thẩm mỹ (Viện Triết học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2000), đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, nâng cao và phát huy vai trò của nó trong đời sống thẩm mỹ như: xây dựng chương trình giáo dục thẩm mỹ toàn dân, xã hội hoá các hoạt động văn hoá nghệ thuật; sáng tạo ngày càng nhiều và phổ biến rộng rãi các tác phẩm nghệ thuật có chất lượng cao; loại trừ các văn hoá phẩm độc hại, thẩm mỹ hoá môi trường và làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Cùng quan điểm với Nguyễn Chương Nhiếp, trong luận án tiến sĩ Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, (Viện Triết học – Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội, 1998), Trần Tuý đề xuất các giải pháp tăng cường vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ như: cần sáng tác những tác phẩm nghệ thuật có nội dung trong sáng, hình thức vui tươi; cần có một chiến lược giáo dục tổng thể trong đó giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của giáo dục quốc gia; thống nhất các hình thức giáo dục thẩm mỹ với mục tiêu phát triển thể, đức, trí, mỹ cho con người, phổ biến các kiến thức mỹ học toàn diện, hoàn thiện các phương tiện giáo dục và tác động thẩm mỹ; quan tâm đến tính dân tộc của nghệ thuật đồng thời phải quan tâm đến tính giai cấp và tính nhân loại phổ biến của nó. Thống nhất với Trần Tuý, luận án phó tiến sĩ Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh niên qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá của Trần Quốc Bảng (Đại học Sư phạm, Hà Nội, 1996) nêu ra các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh niên thông qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá với: xây dựng chương