SlideShare a Scribd company logo
1 of 172
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THÚY HOA
NH÷NG VÊN §Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN
vÒ QUèC HéI - C¥ QUAN §¹I DIÖN CAO NHÊT
CñA NH¢N D¢N viÖt Nam
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 62 38 01 01
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. TRẦN NGỌC ĐƢỜNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết
luận trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công
trình khoa học nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thúy Hoa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 6
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới Quốc hội với tính chất là
cơ quan đại diện của nhân dân 6
1.2. Nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và
những vấn đề tiếp tục được nghiên cứu trong luận án 15
CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỐC HỘI - CƠ QUAN
ĐẠI DIỆN CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM 29
2.1. Khái niệm và vai trò của Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân Việt Nam 29
2.2. Các hình thức thể hiện Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của
Nhân dân và các đảm bảo để Quốc hội là cơ quan đại diện cao
nhất của Nhân dân 43
2.3. Quốc hội - cơ quan đại diện của Nhân dân ở các nước và những
bài học kinh nghiệm trong xây dựng, hoàn thiện cơ quan đại
diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam 60
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CAO
NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM 70
3.1. Sự hình thành và phát triển thiết chế Quốc hội - cơ quan đại diện
cao nhất của Nhân dân Việt Nam qua các bản Hiến pháp 70
3.2. Thực trạng thể hiện Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của
Nhân dân Việt Nam 77
3.3. Thực trạng các đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất
của Nhân dân Việt Nam 96
CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUỐC HỘI - CƠ
QUAN ĐẠI DIỆN CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM 123
4.1. Quan điểm đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của
Nhân dân Việt Nam 123
4.2. Các giải pháp đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của
Nhân dân Việt Nam 126
KẾT LUẬN 153
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 157
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BMNN Bộ máy nhà nước
ĐCS Đảng Cộng sản
ĐBQH Đại biểu Quốc hội
HĐND Hội đồng nhân dân
KTTT
MTTQ
Kinh tế thị trường
Mặt trận Tổ quốc
NNPQ Nhà nước pháp quyền
TAND Tòa án nhân dân
UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VPQH Văn phòng Quốc hội
VUSTA Liên hiệp các hội khoa học & kỹ thuật Việt Nam
XHCD Xã hội công dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 3.1: Tổng số văn bản luật, pháp lệnh được ban hành trong các
nhiệm kỳ Quốc hội 84
Bảng 3.2: Tỷ lệ số lượng các phiên họp Quốc hội về lập pháp (Khóa XI) 87
Bảng 3.3: Số lượng đại biểu, ý kiến đại biểu phát biểu tại hội trường
trong các kỳ họp của Quốc hội có liên quan đến hoạt động
xây dựng pháp luật 89
Bảng 3.4: Cơ cấu đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII, XIII 119
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội là thiết chế có vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo thực thi quyền lực Nhân dân. Điều 6,
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:
“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân
chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ
quan khác của Nhà nước”. Điều 69 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...”.
Sự hiến định này cho thấy ở Việt Nam, thuật ngữ “cơ quan đại biểu cao
nhất” được hiểu đồng nhất với khái niệm cơ quan đại diện cao nhất trong bộ
máy nhà nước. Đại diện trở thành một thuộc tính của Quốc hội xuyên suốt và
chi phối vị trí, vai trò, cơ chế hoạt động, cơ cấu đại biểu, hiệu lực đại diện và
thể hiện tập trung nhất qua việc thực hiện các chức năng: lập hiến, lập pháp;
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của nhà nước. Nói một cách khác, tính đại diện cao nhất của Quốc
hội Việt Nam bắt nguồn từ bản chất nhà nước dân chủ nhân dân mà chúng ta
đã lựa chọn từ năm 1945. Điều đó được quy định bởi:
Một là, Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra dựa trên
các nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đây là những
quy định đảm bảo cho mỗi người dân tự do bầu cử, lựa chọn những nhà đại
diện theo ý chí của mình.
Hai là, các đại biểu Quốc hội không chỉ đại diện cho Nhân dân ở đơn vị
bầu cử ra mình mà còn đại diện cho Nhân dân cả nước. Bởi vậy, Quốc hội có
trách nhiệm cao cả là thay mặt Nhân dân thực hiện đúng và đầy đủ quyền lực
nhà nước, trở thành “đầu dây thần kinh” kết nối các lợi ích trong xã hội.
2
Ba là, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có những quyền năng đặc
biệt, song Quốc hội chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm trước Nhân dân, có thể
bị bãi nhiệm bởi Nhân dân khi không thực hiện trọng trách chính trị đã được
giao phó.
Tuy nhiên hiện nay, việc nghiên cứu Quốc hội với tư cách là cơ quan đại
diện cao nhất của Nhân dân chưa được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Ở
phương diện lý luận, khái niệm đại diện của Quốc hội chưa được luận giải
thống nhất là tính chất hay là một chức năng của Quốc hội. Nhiều vấn đề
mang tính hệ thống về đại diện của Quốc hội chưa được nghiên cứu như: nội
dung đại diện, hình thức thực thi đại diện, tỷ lệ đại diện (chuyên trách, kiêm
nhiệm), tư cách đại diện khi xử lý mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc
với lợi ích nhóm cử tri của đơn vị bầu cử …
Ở phương diện thực tiễn, hoạt động của Quốc hội chưa tương xứng với
vị trí và vai trò hiến định, Quốc hội chưa mạnh, chưa thực quyền trong quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước, trong giám sát tối cao hoạt động của
nhà nước.
Trong điều kiện đẩy mạnh công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mở rộng và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân; đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn về vai
trò đại diện, các điều kiện đảm bảo để Quốc hội thực thi hoạt động đại diện
Nhân dân cao nhất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Với nhận thức nói trên, tác giả lựa chọn: “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam” làm
đề tài luận án tiến sĩ Luật học với mong muốn nghiên cứu và làm rõ tính đại
diện Nhân dân cao nhất của Quốc hội, đóng góp thêm vào kho tàng lý luận về
Quốc hội ở nước ta.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và phân tích, đánh giá thực tiễn làm sáng tỏ
các hình thức thực thi đại diện, các điều kiện đảm bảo Quốc hội là cơ quan đại
diện cao nhất. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp để Quốc hội thực sự là cơ
quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục đích nói trên, luận án có nhiệm vụ:
- Khảo cứu các công trình khoa học về đại diện của Quốc hội ở trong và
ngoài nước. Từ đó rút ra những giá trị tham khảo và hướng nghiên cứu mới
cho luận án.
- Phân tích và làm sáng tỏ bản chất và vai trò đại diện cao nhất của Quốc
hội; nghiên cứu tính đại diện của một số Quốc hội/Nghị viện các nước trên
thế giới để rút ra các giá trị có thể kế thừa và phát triển trong xây dựng Quốc
hội - cơ quan đại diện cao nhất ở nước ta.
- Chỉ ra và đánh giá thực trạng hình thức thể hiện đại diện, các đảm bảo
đại diện của Quốc hội Việt Nam.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy tính đại diện Nhân dân cao
nhất của Quốc hội Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là vấn đề đại diện của Quốc hội, vai trò đại diện
Quốc hội, các yếu tố đảm bảo đại diện cao nhất của Quốc hội, các hình thức
thể hiện đại diện cao nhất của Quốc hội Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề đại diện của
Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ Hiến pháp năm 1992
đến nay.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra, luận án được
thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
4
của triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về bản chất nhà nước, về tổ chức và hoạt động của
BMNN nói chung, của Quốc hội nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu và có sự phối hợp giữa
chúng khi nghiên cứu, đó là các phương pháp cơ bản sau đây:
- Phương pháp phân tích: phương pháp này được sử dụng chủ đạo trong
nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận đại diện của Quốc hội cũng như xác
định các giải pháp đảm bảo tính đại diện của Quốc hội Việt Nam.
- Phương pháp lịch sử, so sánh: được sử dụng khi nghiên cứu kinh
nghiệm của một số nước, đánh giá thực trạng, các biện pháp đảm bảo tính đại
diện của Quốc hội/Nghị viện ở một số nước.
- Phương pháp tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để khái quát,
hệ thống hóa các vấn đề; tổng kết lý luận, lịch sử, thực tiễn, kinh nghiệm pháp
lý của một số nước trên thế giới; đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của
Quốc hội Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp khảo cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để phân
tích, đánh giá, tổng kết các công trình đã nghiên cứu, kinh nghiệm nước ngoài.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Là luận án đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận và thực tiễn về Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt
Nam nên có một số đóng góp mới sau đây:
- Chỉ rõ Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân là một tính
chất đặc biệt quan trọng thể hiện xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của
Quốc hội. Để giữ vững tính đại diện này, luận án đã chỉ rõ các yếu tố đảm bảo
cho Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất trên các phương diện: chính trị,
pháp lý, tổ chức, nhân sự; các hình thức thể hiện đại diện cao nhất của Quốc
hội Việt Nam.
5
- Phân tích sâu sắc và toàn diện những kết quả đã đạt được, chỉ ra những
hạn chế trong việc thực thi đại diện, trong đảm bảo Quốc hội thực sự là cơ
quan đại diện cao nhất ở Việt Nam.
- Xây dựng các quan điểm, đề xuất các giải pháp đảm bảo Quốc hội là cơ
quan đại diện cao nhất của Nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Quốc
hội, là thiết chế để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý
luận về đại diện, đại diện của Quốc hội, vai trò đại diện Nhân dân cao nhất
của Quốc hội
- Về thực tiễn: Luận án đưa ra những giải pháp, những kiến nghị làm cơ
sở thực tiễn để các nhà lập pháp, các cơ quan hoạch định chính sách cũng như
đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy có cách nhìn sâu sắc, toàn
diện hơn về vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổ chức BMNN với tư cách là cơ
quan đại diện cao nhất của Nhân dân; trên cơ sở đó có những đóng góp tích cực
trong hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam. Kết
quả nghiên cứu của luận án cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho đại biểu
Quốc hội, những người quan tâm nghiên cứu, làm công tác về ĐBQH.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Dân chủ, đại diện và Quốc hội là những vấn đề liên quan, gắn bó
chặt chẽ với nhau trong khoa học chính trị, khoa học pháp lý. Đó cũng là
đề tài được nhiều học giả nghiên cứu xuyên suốt lịch sử nhà nước và pháp
luật. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài luận án, tác giả chỉ khảo sát những
công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến vấn đề Quốc hội với tính
chất là cơ quan đại diện của Nhân dân. Đặc biệt là nhóm các công trình
nghiên cứu về những nội dung được xây dựng trong kết cấu luận án:
i) Khái niệm đại diện, đại diện của Quốc hội và vai trò của Quốc hội
với tính chất là cơ quan đại diện Nhân dân;
ii) Các đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội;
iii)Thực trạng đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại diện của
Quốc hội;
iv) Các giải pháp phát huy vai trò của Quốc hội với tính chất là cơ quan
đại diện cao nhất của Nhân dân.
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI QUỐC HỘI VỚI
TÍNH CHẤT LÀ CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CỦA NHÂN DÂN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc
Khảo sát trong thời gian gần đây cho thấy, các công trình nghiên cứu về
Quốc hội rất đa dạng và phong phú. Trước những yêu cầu xây dựng NNPQ,
hoàn thiện tổ chức BMNN, nhiều tác giả tập trung nghiên cứu về vị trí pháp
lý, đổi mới tổ chức bộ máy Quốc hội. Đặc biệt nhiều công trình nghiên cứu
chuyên sâu vào từng chức năng lập pháp, quyết định và giám sát tối cao của
Quốc hội cũng như nghiên cứu mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ và
Tòa án trong phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước. Riêng
nghiên cứu liên quan trực tiếp đến nội dung của luận án có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu sau đây:
1.1.1.1. Về lý luận đại diện, đại diện của Quốc hội và vai trò của
Quốc hội với tính chất là cơ quan đại diện Nhân dân
Trần Ngọc Đường, “Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt
động của Quốc hội và Chính phủ trong NNPQ xã hội chủ nghĩa của dân, do
7
dân và vì dân” [30], đề tài nghiên cứu nội dung rộng, bao gồm cơ sở lý luận
của việc đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội và
Chính phủ trong NNPQ XHCN Việt Nam; đánh giá thực trạng và đưa ra các
yêu cầu cũng như xây dựng mô hình Quốc hội, Chính phủ đến năm 2010 và
các năm tiếp theo. Trong phần I, chương 2 (lý luận), đề tài dành một phần
nghiên cứu vị trí và chỉ ra thuộc tính đại diện của Quốc hội, vai trò đại diện
Quốc hội trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị và tổ chức quyền lực nhà
nước trong NNPQ XHCN Việt Nam.
Ngô Đức Mạnh, “Cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội trong BMNN và hệ thống chính trị Việt Nam (qua
bốn bản Hiến pháp)” [58], đề tài khảo sát cụ thể, logic về quá trình hình thành
và phát triển của Quốc hội Việt Nam qua bốn bản Hiến pháp. Trong phần lý
luận, đề tài có những phân tích biểu hiện tính đại diện của Quốc hội, tuy nhiên
không nghiên cứu sâu mà tập trung phân tích vào các nhiệm vụ, quyền hạn
của Quốc hội.
Cuốn “Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” của tác giả Đào Trí Úc [105], công trình tập trung vào
nghiên cứu tổ chức và hoạt động của nhà nước ta, trong đó Quốc hội có một
vai trò, vị trí quan trọng trong BMNN. Tuy không nghiên cứu sâu về đại diện
Quốc hội nhưng để Quốc hội hoạt động hiệu quả trong NNPQ XHCN, nhóm
tác giả đặt vấn đề phải đảm bảo tính chất đại diện của Quốc hội. Đây là việc
làm cấp thiết và quan trọng, là điều kiện để thực thi quyền lực Nhân dân qua
hình thức dân chủ gián tiếp.
Cuốn “Chức năng đại diện của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền”
của Văn phòng Quốc hội [118] đã tập hợp 11 bài viết của các tác giả trong và
ngoài nước tham gia hội thảo cùng tên năm 2007. Vì vậy cuốn sách là các bài
viết nghiên cứu tản mạn về đại diện Quốc hội với nhận thức là một chức
năng, việc hiến định hóa chức năng, đo mức độ đại diện, đảm bảo tính đại
diện, … Cuốn sách chưa hình thành hệ thống quan điểm về đại diện Quốc hội,
đặc biệt chưa xác định đại diện là tính chất hay chức năng của Quốc hội như
tiêu đề của cuộc hội thảo. Tuy nhiên, đây cũng là tài liệu có giá trị, bước đầu
8
cung cấp nhiều góc nhìn về đại diện Quốc hội ở Việt Nam và một số nước
trên thế giới. Đây là những kết quả khảo cứu về đại diện Quốc hội ở một số
nước, làm cơ sở cho tác giả nghiên cứu, so sánh khi xây dựng lý luận về đại
diện Quốc hội tại chương 2 trong luận án tiến sĩ của mình.
Cuốn “Tổ chức và hoạt động của Nghị viện một số nước trên thế giới”
của Nguyễn Sĩ Dũng [19] là thành quả nghiên cứu chuyên sâu về Nghị viện
các nước trên thế giới, tập trung vào chức năng, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức,
quy trình thủ tục hoạt động và bộ máy giúp việc Nghị viện. Liên quan đến nội
dung đại diện Quốc hội, Nhóm tác giả dành một phần nhỏ khảo sát và đưa ra
quan niệm đại diện là một chức năng bên cạnh các chức năng khác của Quốc
hội như: lập pháp, giám sát, tài chính - ngân sách. Cũng từ quan niệm này các
nhiệm vụ được đặt ra tương ứng với chức năng đại diện là: Làm hài lòng cử
tri và bảo đảm lợi ích quốc gia; phục vụ cử tri tại khu vực bầu cử; giữ mối liên
hệ với cử tri, … Đây là những nội dung mang tư tưởng hiện đại về Quốc hội
của các nước trên thế giới.
Luận án phó tiến sĩ Luật học: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan đại diện ở nước ta hiện nay” của Chu Văn Thành [91], không chỉ nghiên
cứu về cơ quan đại diện cao nhất là Quốc hội, luận án khảo cứu hệ thống cơ
quan đại diện (trung ương và địa phương) ở nước ta được tổ chức và hoạt
động từ năm 1946 - 1992. Qua nghiên cứu, đánh giá, luận án khẳng định dân
chủ đại diện là phương thức chủ yếu và quan trọng để thực hiện dân chủ
XHCN ở Việt Nam. Luận án đã:
Phân tích một cách hệ thống cấu trúc của khái niệm dân chủ (với tính
cách là một hình thức nhà nước). Xác định và luận chứng những khía cạnh
bức xúc nhất trong đổi mới cơ cấu và tiêu chuẩn của đại biểu nước ta hiện
nay. Về cơ cấu, luận án xác định tỷ lệ đảng viên, những người giữ cương vị
chủ chốt trong bộ máy hành pháp, các chuyên gia trên các lĩnh vực. Về tiêu
chuẩn, khẳng định yếu tố trí tuệ là phẩm chất hàng đầu của người đại biểu.
Xác định bước đổi mới cơ quan đại diện (Quốc hội) hiện nay là bước
quá độ nhằm chuyển Quốc hội sang hoạt động thường xuyên. Điều đó được thể
9
hiện trong việc đổi mới các cơ quan của Quốc hội; ở “liều lượng” hoạt động
thường xuyên của các Ủy ban, của ĐBQH, ở thời gian làm việc mỗi kỳ họp.
Cũng theo lập luận của tác giả, chế độ dân chủ đại diện XHCN ra đời
gắn liền với nguyên tắc thống nhất quyền lực. Thống nhất quyền lực là
nguyên tắc tổ chức nhà nước phủ định biện chứng nguyên tắc phân quyền, do
vậy một mặt khắc phục những nhược điểm của nguyên tắc phân quyền, mặt
khác kế thừa những yếu tố hợp lý của nguyên tắc này. Trên tinh thần đó, tác
giả nhận thức về vị trí của cơ quan đại diện (Quốc hội) như sau:
Một là, trong chủ nghĩa xã hội, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân, ở
đây có sự thống nhất giữa quyền lực chính trị (quyền lực của giai cấp công
nhân) với quyền lực nhà nước (quyền lực chung của cả cộng đồng).
Hai là, quyền lực Nhân dân được thực hiện bằng chế độ đại diện, cơ
quan đại diện cao nhất của Nhân dân (Quốc hội), được Nhân dân ủy thác
quyền lực, do đó có vị trí toàn quyền đối với các cơ quan nhà nước khác và
đại diện tối cao của xã hội. Các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được coi
là ba bộ phận của một quyền lực thống nhất thuộc về Quốc hội.
Ba là, do đặc điểm về cấu tạo tổ chức và phương thức hoạt động, Quốc
hội không trực tiếp thực hiện được các quyền hành pháp, tư pháp (các quyền
này do Chính phủ và cơ quan kiểm sát, xét xử thực hiện). Để bảo đảm được vị
trí toàn quyền, Quốc hội định cho nó các thẩm quyền chi phối các cơ quan
hành pháp, tư pháp trong Hiến pháp.
Với việc chỉ ra vị trí toàn quyền của Quốc hội và lý giải nguồn gốc vị
trí ấy, luận án của Chu Văn Thành đã khẳng định quyền lực tối cao của Quốc
hội. Tuy nhiên, luận án dừng lại ở đây, không đi vào nghiên cứu các điều kiện
đảm bảo cho Quốc hội giữ được vị trí đó. Đặc biệt không chỉ ra các cơ chế
kiểm soát quyền lực, điều này có khả năng dẫn tới tính “siêu quyền” của chủ
thể Quốc hội trong BMNN. Đây là điểm mà các tác giả sau này cần phát triển
và làm rõ khi nghiên cứu về Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân
dân nhưng không phải là thiết chế đứng trên Nhân dân. Cùng với quyền lập
pháp, các quyền hành pháp, tư pháp là bộ phận cấu thành quyền lực Nhân
dân, không quyền nào phái sinh ra quyền nào.
10
Nhóm bài viết về tính đại diện của Quốc hội Việt Nam đăng trên các
tạp chí như: “Quốc hội Việt Nam - những vấn đề chuyển sang Nghị viện” của
Nguyễn Cảnh Hợp [43]; “Bàn về tính đại diện nhân dân của Quốc hội” của
Nguyễn Quang Minh [66]; “Để mãi mãi xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân” của Nguyễn Văn An [1]; “Các mô hình Quốc hội” của Nguyễn
Đăng Dung [12]; “Phát huy vai trò đại diện nhân dân của đại biểu Quốc hội
trong hoạt động lập pháp” của Trần Ngọc Đường [33] ; “Tiêu chí và yếu tố bảo
đảm hiệu quả tính đại diện của Quốc hội” của Vũ Văn Nhiêm [70], “Dân chủ đại
diện và vấn đề bầu cử” của Trần Nho Thìn [95] …
Có thể nhận định, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn
đề đại diện của Quốc hội trên một số khía cạnh cụ thể, nhưng chưa mang tính
hệ thống. Tuy nhiên đều là những tư liệu tham khảo có giá trị cho luận án.
1.1.1.2. Các đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại diện của
Quốc hội
Như đề dẫn ở đầu chương, Quốc hội là đề tài được nghiên cứu sâu rộng
cả ở trong và ngoài nước. Bên cạnh việc nghiên cứu vị trí, vai trò của Quốc
hội trong tổ chức BMNN thì việc nghiên cứu các bảo đảm, các hình thức thực
thi đại diện của Quốc hội cũng được các tác giả đề cập đến qua một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Luận án tiến sĩ “Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng nền dân
chủ ở Việt Nam hiện nay” của Đỗ Trung Hiếu [42] đã nghiên cứu mối quan
hệ giữa nhà nước với dân chủ; những yếu tố quy định hiệu quả tác động của
nhà nước ta đối với quá trình xây dựng nền dân chủ hiện nay. Không nghiên
cứu trực tiếp về Quốc hội, nhưng trong chương 1, luận án nghiên cứu về lý
luận dân chủ, việc xây dựng nền dân chủ gián tiếp ở Việt Nam với vai trò của
nhà nước XHCN. Từ đó khẳng định: i) Dân chủ hóa nhà nước là một tính
quy luật trong lịch sử tồn tại, phát triển nhà nước; ii) NNPQ XHCN là động
lực thúc đẩy quá trình dân chủ; iii) Dưới tác động của xu hướng dân chủ
trên thế giới, áp lực của toàn cầu hóa, đại diện gián tiếp của nền dân chủ
truyền thống dần dần bị thay thế bởi tính trực tiếp trong việc thực hiện
quyền lực Nhân dân.
11
Tuy mã ngành nghiên cứu là triết học, nhưng đây là công trình giúp cho
luận án tham khảo các quan điểm về vai trò của NNPQ XHCN đối với tiến
trình dân chủ hóa ở Việt Nam, cũng như xu hướng mở rộng dân chủ trực tiếp
trong một số nội dung quản lý nhà nước cụ thể. Từ đó xây dựng ý tưởng về
một trong các điều kiện đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của
Nhân dân, đó là: dân chủ, pháp quyền và xã hội công dân.
Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát
của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Trương Thị
Hồng Hà [36] đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu về chức năng giám sát của
Quốc hội với ba nội dung: i) Cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý đảm bảo chức
năng giám sát của Quốc hội; ii) Thực trạng của cơ chế pháp lý đảm bảo chức
năng giám sát của Quốc hội; iii) Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện
cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội.
Luận án phản ánh một cách toàn diện về hoạt động giám sát của Quốc
hội Việt Nam trong những năm qua, có so sánh đối chiếu với hoạt động giám
sát của Quốc hội một số nước trên thế giới. Trong phạm vi đề tài “Quốc hội -
cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân …” của mình, có thể tham khảo kết
quả nghiên cứu ở hai nội dung: các biểu hiện của tính đại diện Quốc hội
(trong phần lý luận), và thực trạng của cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng
giám sát của Quốc hội.
Luận án tiến sĩ “Đảm bảo tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu
xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Minh
Hiếu [41] đã xây dựng các yếu tố đảm bảo tính đại diện Quốc hội Việt Nam
xét theo cấu trúc đại diện bao gồm: i) Các yếu tố đảm bảo tính đại diện trong
cách thức hình thành mối quan hệ đại diện: nguyên tắc phổ thông đầu phiếu,
nguyên tắc bình đẳng, nhiệm kỳ của các ĐBQH; ii) Các yếu tố đảm bảo tính
tương đồng giữa các ĐBQH với cử tri; iii) Các yếu tố đảm bảo năng lực đại
diện của ĐBQH như chất lượng đại biểu, mối quan hệ giữa cử tri với các
ĐBQH; iv) Các yếu tố đảm bảo nội dung đại diện: sự lắng nghe của ĐBQH,
việc đảm bảo quyền tự do xét đoán của đại biểu, bảo đảm phản ánh ý chí
chung của xã hội.
12
Đây là những quan điểm khoa học có ý nghĩa khi nghiên cứu cấu trúc
của tính đại diện của Quốc hội. Đồng thời luận án cũng là công trình dày công
nghiên cứu, phong phú về số liệu hoạt động thực tiễn của Quốc hội Việt Nam,
có nghĩa gợi mở cho các nhà nghiên cứu sau này. Tuy nhiên, bên cạnh các
điều kiện đảm bảo tính đại diện của Quốc hội về cấu trúc bên trong như ở trên
đã diễn giải, luận án chưa đề cập đến các điều kiện bảo đảm (bên ngoài) như:
sự ổn định chính trị (Đảng cầm quyền), điều kiện dân trí, dân sinh … và chưa
chỉ ra được các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội Việt Nam. Đây là
hướng đi mới của luận án .
Liên quan đến việc xây dựng chế độ bầu cử, có nhiều đầu sách chuyên
khảo như: “Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới” của Nguyễn Hồng
Anh [2]; “Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp - Lý thuyết và hiện đại” của
Lưu Văn Quảng [74]; “Một số vấn đề về hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Thị Loan [54]. Đây là
những tài liệu không trực tiếp nghiên cứu về đại diện của Quốc hội, song đều
gián tiếp khẳng định thiết chế bầu cử khoa học, minh bạch là một trong các
điều kiện đảm bảo tính chất đại diện, dân chủ của Quốc hội.
1.1.1.3. Thực trạng đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại
diện của Quốc hội
Cuốn “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay” của Lê
Minh Thông [97]. Cuốn sách là công trình nghiên cứu đồ sộ, bao quát
nhiều nội dung từ yêu cầu đổi mới BMNN Việt Nam, khảo cứu quá trình
đổi mới mô hình BMNN từ năm 1946 đến nay, đánh giá thực trạng mô hình
và phương hướng đổi mới mô hình BMNN. Trong đó, tác giả có đề cập
(không tập trung) đến tính chất đại diện của Quốc hội khi nghiên cứu mô
hình Quốc hội trong lịch sử lập hiến Việt Nam; trong xác lập mối quan hệ
giữa nhà nước và Đảng cầm quyền, khắc phục nguy cơ Đảng bao biện, làm
thay nhà nước hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nước,
từ đó ảnh hưởng đến sự ủy quyền của Nhân dân trong điều kiện lịch sử của
nước ta.
13
Luận án tiến sĩ Luật học “Chế độ bầu cử ở nước ta: những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của Vũ Văn Nhiêm [69], có thể nói đây là một công trình
nghiên cứu khá sâu về lý luận, phong phú về thực tiễn của hoạt động bầu cử
tại Việt Nam hiện nay. Trong việc phân tích thực trạng, tác giả khảo sát và
chỉ ra những bất cập của chế độ bầu cử hiện nay như: sự chưa bình đẳng
trong cách phân chia đơn vị bầu cử/số dân giữa các đô thị lớn; quy trình
hiệp thương còn mang tính hình thức; những rào cản đối với người tự ứng
cử, những người thuộc diện trung ương giới thiệu về địa phương ứng cử.
Trên cơ sở đó, tác giả Vũ Văn Nhiêm đưa ra các giải pháp nhằm đổi
mới chế độ bầu cử, phát huy dân chủ ở Việt Nam. Có thể nhận định, đây là
một công trình nghiên cứu về đảm bảo tính đại diện của Quốc hội thông qua
việc xây dựng chế độ bầu cử dân chủ, khoa học. Tuy nhiên, vì giới hạn nghiên
cứu ở thể chế bầu cử, luận án không bàn đến các điều kiện đảm bảo khác cho
tính đại diện cao nhất của Quốc hội như: cơ cấu tổ chức của Quốc hội, cơ chế
giám sát quyền lực cao nhất của Quốc hội hay các điều kiện đảm bảo về chính
trị, về cơ sở vật chất. Đây chính là một nội dung nghiên cứu mới mà luận án:
Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân - những vấn đề lý luận và
thực tiễn cần làm rõ.
1.1.1.4. Các giải pháp phát huy vai trò của Quốc hội với tính chất là
cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân
Cuốn “Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền” của Nguyễn
Đăng Dung [14], tác giả tập trung phân tích những yêu cầu của Quốc hội theo
tiêu chí của mô hình NNPQ. Trong phần lý luận và những giải pháp, tác giả
lập luận và đưa ra những giải pháp để Quốc hội thực hiện được tính đại diện
thông qua cơ chế ủy thác từ Nhân dân.
Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực đại diện
của đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Quang Hương [48],
tác giả chỉ tập trung đánh giá thực trạng hoạt động và năng lực đại diện của
đại biểu qua các số liệu hoạt động của Quốc hội khóa X, XI. Những vấn đề
lý luận đại diện, cơ sở pháp lý của nâng cao năng lực đại diện, tiêu chí
đánh giá năng lực đại biểu dân cử còn chung chung, mang tính khái lược.
14
Tuy vậy, đây là công trình có ý nghĩa cho việc nghiên cứu về Quốc hội khi
đã đưa ra giải pháp nâng cao năng lực đại diện của ĐBQH (lựa chọn đại
biểu xứng đáng, đẩy mạnh hoạt động bồi dưỡng đại biểu dân cử, có phụ
cấp phù hợp, tương xứng, …).
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Trên thế giới, có không ít công trình nghiên cứu về dân chủ đại diện,
đại diện chính trị hay luận sâu về Chính phủ đại diện. Nhưng ở góc độ trực
tiếp bàn về đại diện Quốc hội có phần hạn chế hơn. Tuy nhiên có một số tác
phẩm tiêu biểu sau:
Cuốn “The Concept of Representation” (Khái niệm đại diện) của học
giả Hana Pitkin [135], đây là công trình nghiên cứu toàn diện nhất về khái
niệm đại diện chính trị. Lần đầu tiên, vấn đề đại diện được Pitkin xác định
qua bốn góc nhìn về đại diện đó là: đại diện hình thức, đại diện biểu
tượng, đại diện đồng dạng và đại diện nội dung. Mỗi một góc nhìn cung
cấp một cách tiếp nhận khác nhau về đại diện, những tiêu chuẩn khác
nhau về việc đánh giá những người đại diện. Đàm luận cổ điển này của
khái niệm đại diện là một trong những nghiên cứu có sức ảnh hưởng và
thường được trích dẫn trong lý luận về đại diện Quốc hội sau này. Người đọc
có thể tìm thấy khái niệm đại diện chính trị của Hana Pitkin được trích dẫn
phổ biến trong nhiều bài viết khác, cũng như soi lý thuyết đại diện của Bà vào
thực tế Quốc hội của mỗi nước, trong đó có Việt Nam.
Cuốn “Parliaments and Citizens in Western Europe” (Các Nghị viện và
công dân ở Tây Âu) của Philip Norton [138], cuốn sách bàn trực tiếp cơ chế
đại diện, phạm vi đại diện thông qua mối quan hệ giữa Nghị viện và công dân
tại các nước Tây Âu. Từ việc phân tích bản chất, mức độ mối quan hệ giữa
nghị sĩ và cử tri, cuốn sách đề cập đến đảm bảo để Nghị viện đại diện tốt nhất
cho người dân ở các nước Tây Âu. Học giả Việt Nam có thể đọc và liên hệ
đến thực trạng giữ mối liên hệ giữa ĐBQH và cử tri tại các đơn vị bầu cử đã
bầu ra đại diện của họ, từ đó đưa ra các giải pháp gắn kết mối quan hệ này,
đảm bảo cho tiếng nói của nhà đại diện là tiếng nói của cử tri.
15
Cuốn “Political Representation” (Đại diện chính trị) của Ian Shapiro [137],
đây là tập hợp các công trình nghiên cứu về tiến trình phát triển đại diện chính trị
qua ba cấp độ: trước khi hình thành nền dân chủ đại diện, lý luận dân chủ đại diện
và thực tiễn đại diện chính trị hiện nay. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một
góc nhìn về quá trình phát triển đi lên của đại diện chính trị trên thế giới.
Cuốn “Representation And Institutional Design” (Đại diện và thiết kế
thể chế) của Rebekah L. Herrick [140], giới hạn trong phạm vi Nghị viện liên
bang Hoa kỳ và một số Nghị viện tiểu bang, tác giả phân tích những tác động,
vai trò của việc xây dựng thiết chế đại diện đối với Nghị viện. Công trình
cũng đi sâu phân tích các quy định thực định về bầu cử, cơ cấu, tổ chức,
nhiệm kỳ của Nghị viện và mối quan hệ của chúng trong việc bảo đảm tính
đại diện của Nghị viện Hoa Kỳ.
1.2. NHẬN XÉT VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TIẾP TỤC ĐƢỢC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN
1.2.1. Nhận xét về các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án
1.2.1.1. Xét trên phương diện lý luận đại diện, đại diện Quốc hội
Dựa trên nghiên cứu của các đại biểu tiêu biểu thời kỳ cận hiện đại như
T.Hobbes (1588 - 1679), Jlock (1632 - 1704), Motespueau (1689 - 1755), JJ.
Rousseaus (1712 - 1778) … về nguồn gốc quyền lực, về cơ chế đại diện cho
quyền lực Nhân dân (hay còn gọi là giới hạn của sự ủy quyền, phạm vi đại
diện, hình thức đại diện), các công trình nghiên cứu của các tác giả tập trung
luận giải những vấn đề sau:
i) Khẳng định Quốc hội là thiết chế đại diện cần thiết để thực thi quyền
lực Nhân dân trong quản lý xã hội. Phân tích, luận giải đại diện là chức năng
hay thuộc tính vốn có của Quốc hội;
ii) Các yếu tố đảm bảo, các hình thức thể hiện đại diện Quốc hội.
Trên cơ sở các quy định pháp lý trong Hiến pháp và luật về tổ chức
BMNN, nhiều tác giả có chung quan điểm khi khẳng định Quốc hội là thiết
chế thực thi đại diện hữu hiệu, đảm bảo quyền lực Nhân dân trong điều hành
quản lý xã hội. Khẳng định vai trò của Quốc hội trong hệ thống tổ chức quyền
16
lực chính trị và tổ chức quyền lực nhà nước, là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất. Điều đó là do các yếu tố sau quyết định:
Một là, do cách thức thành lập: Quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất
do cử tri cả nước bầu ra, theo nguyên tắc phổ thống, bình đẳng, trực tiếp, bỏ
phiếu kín. Thông qua bầu cử, “Nhân dân ủy thác quyền lực nhà nước của
mình cho Quốc hội. Quốc hội đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân
dân cả nước, thay mặt Nhân dân cả nước quyết định các công việc trọng đại
của đất nước và chịu trách nhiệm trước Nhân dân cả nước” [32, tr.30].
Hai là, về cơ cấu tổ chức, Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện cho
các thành phần, tầng lớp trong xã hội, là hình ảnh thể hiện khối đại đoàn kết
toàn dân, đại diện cho trí tuệ của đất nước. Ở góc độ phân tích này, rất nhiều
tác giả đồng tình rằng, không nên máy móc, xơ cứng về cơ cấu thành phần,
không nên quan niệm phải có tỷ lệ tương ứng giữa cơ cấu ngành nghề, dân
tộc, vùng miền trong trong xã hội và trong cơ quan đại diện. Điều đó sẽ cản
trở quá trình nâng cao chất lượng cơ quan đại diện trong điều kiện ở Việt
Nam, khi tỷ lệ dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm số lượng
lớn so với các ngành nghề khác.
Ba là, về chức năng nhiệm vụ: chỉ Quốc hội mới được hiến định các
quyền năng cơ bản như lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước. Những hoạt động này
nhằm phục vụ cho lợi ích chung của Nhân dân, nói tiếng nói của Nhân dân.
Bốn là, với nguyên tắc hoạt động tập thể, biểu quyết theo đa số, các
quyết định của Quốc hội là ý chí và hành động của số đông. Mỗi đại biểu
không chỉ đại diện cử tri bầu ra mình, mà còn đại diện cho cử tri cả nước.
Điều này khẳng định tính chất đại diện cao nhất của Quốc hội trong BMNN
so với các cơ quan đại diện khác của Việt Nam.
Về khái niệm đại diện, đại diện Quốc hội: Đối với các nhà nghiên cứu
nước ngoài, lý luận đại diện được thừa nhận, kế thừa từ lý thuyết về chủ
quyền Nhân dân của Jacques Rousseau trong tác phẩm Bàn về Khế ước xã
hội. Tuy nhiên không phải lúc nào, Nhân dân cũng có thể tự mình thực hành
dân chủ trực tiếp do nhiều yếu tố như: năng lực, nhu cầu, thời gian, … Vì vậy
17
lý thuyết về dân chủ đại diện là giải pháp hữu hiệu khắc phục những hạn chế
của hình thức dân chủ trực tiếp. Bắt đầu từ thế kỷ XVIII, XIX, đặc biệt là sau
các cuộc cách mạng tư sản, nhiều học giả nổi tiếng đã nghiên cứu sâu về đại
diện Quốc hội như là cách thức tìm ra một thiết chế dân chủ, minh bạch nhất
trong bảo vệ và thực thi quyền lực Nhân dân, tiêu biểu như Emmanuel Sieyes,
John Stuart Mill, James Madison.
Bước vào thời kỳ hiện đại, đại diện Quốc hội nghiên cứu độc lập trong
một số tác phẩm như: “The Concept of Representation” (Khái niệm đại diện),
của Hana Pitkin; “Parliaments and Citizens in Western Europe” (Các Nghị
viện và công dân ở Tây Âu) của Philip Norton; “Political Representation”
(Đại diện chính trị) của Ian Shapiro, hay “Representation And Institutional
Design” (Đại diện và thiết kế thể chế) của Rebekah L. Herrick… Các tác giả
đã có sự nhận diện về đại diện chính trị như là các hoạt động làm cho tiếng
nói, các ý kiến và các quan điểm của người dân được thể hiện trong quy trình
xây dựng chính sách.
Điển hình như Hana Pitkin đã nghiên cứu đại diện dưới các góc độ:
Đại diện hình thức liên quan nhiều đến việc sắp xếp các thiết chế để từ
đó tạo ra tính đại diện và thứ bậc đại diện. Hình thức này bao gồm việc trao
quyền hay hợp pháp hóa (là cơ chế theo đó người đại diện nhận được vị trí
hoặc quyền lực của mình) và tính chịu trách nhiệm (là khả năng của người
trao quyền có thể trừng phạt người đại diện do không thực hiện được những
mong muốn của người trao quyền hoặc không tích cực thực hiện nhiệm vụ đại
diện được giao).
Đại diện biểu tượng hình thành dựa vào cách thức mà các nhà đại diện
“thay mặt” cho những người trao quyền, do vậy có ý nghĩa đặc biệt đối với
người được đại diện. Tiêu chí đánh giá tính chất đại diện biểu tượng là mức
độ chấp nhận của những người được đại diện (cử tri) đối với người đại diện
(Nghị sỹ).
Đại diện đồng dạng liên quan đến mức độ tương đồng giữa người đại
diện và người được đại diện. Ví dụ như các điểm chung về năng lực và kinh
nghiệm. Những người đại diện đồng dạng thường xuất hiện trong một số lĩnh
vực riêng biệt và thường được trông chờ là người đại diện cho cả lĩnh vực đó.
18
Đại diện nội dung liên quan đến các hoạt động do người đại diện thực hiện
trên thực tế thay mặt cho người được đại diện. Quan điểm này có ý nghĩa quan
trọng nhất đối với mục đích của việc nghiên cứu bởi nó hướng sự chú ý đến
những nội dung mà người lãnh đạo phải thực hiện sau khi trúng cử. Đại diện nội
dung liên quan nhiều hơn đến các hoạt động về chính sách và kết qủa của chính
sách với những tác động rất lớn đến những người đã ủy quyền [118, tr.20-21].
Ở một góc nhìn khác khi nghiên cứu giới hạn đại diện, trong tác phẩm
“The Federalist with the Letter of Brutus” (Người liên bang với bức thư của
Brutus), Jame Madison đưa ra quan niệm người đại diện là đại diện thay mặt,
họ chỉ đơn giản tuân thủ những ưu tiên mà cử tri đã sắp xếp [127]. Còn
Edmund Burke thì lập luận những người đại biểu Nhân dân là những người
đại diện ủy thác, họ đưa ra các quyết định dựa trên kiến thức và sự phán xét
riêng của mình. Do vậy, giữa hai đại biểu trên, lý luận về đại diện có sự mâu
thuẫn nhất định.
Tuy nhiên, theo Hana Pitkin, cần phải duy trì những điểm trái ngược
này. Những bất đồng về đại diện có thể được điều hòa một phần bằng việc
làm rõ góc nhìn nào về đại diện đang được viện dẫn. Pitkin xác định ra bốn
góc nhìn về đại diện ở trên chính là cung cấp những cách tiếp nhận khác nhau
về đại diện, những tiêu chuẩn khác nhau về việc đánh giá những người đại
diện. Bà cũng cho rằng những bất đồng về việc những người đại diện phải
làm gì bị làm trầm trọng hơn bởi một thực tế mà con người chấp nhận góc
nhìn sai về đại diện hay áp dụng sai những tiêu chuẩn về đại diện.
Có thể nói, hệ thống những quan điểm của Hana Pitkin vừa mang tính
kế thừa các quan điểm của các nhà triết học, chính trị, pháp lý nổi tiếng, vừa
có cái nhìn mới, sâu sắc và toàn diện về đại diện chính trị. Đây là những cơ sở
lý thuyết (chưa được Hana Pitkin kiểm nghiệm trên thực tế) về đại diện, đại
diện Quốc hội cho các học giả phát triển tùy thuộc vào đặc điểm văn hóa
chính trị, thể chế pháp lý của mỗi quốc gia khi nghiên cứu về tính đại diện của
Quốc hội.
Các đại biểu như Philip Norton, Ian Shapiro, Rebekah L. Herrick bắt
nhịp xu hướng mới của thời đại, trong điều kiện các giá trị dân chủ ngày càng
19
nâng cao và đảm bảo thực hiện đã thể hiện trong trong các tác phẩm của mình
một cách sâu sắc những vấn đề mới như cơ chế đại diện, phạm vi, mối quan
hệ giữa nghị sĩ và cử tri, những tác động của thiết chế bầu cử đối với đại diện
Quốc hội, mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Quốc hội. Tuy nhiên các
nghiên cứu này chỉ dừng lại phạm vi của một nước hay khu vực mà tác giả
khảo cứu chưa mang tính lý thuyết toàn cầu.
Ngoài các công trình, bài viết kể trên, còn rất nhiều ấn phẩm của các
học giả nước ngoài từ cổ đại tới đương đại bàn đến dân chủ đại diện. Không
viết trực tiếp về đại diện Quốc hội, nhưng trong các tác phẩm này khi bàn về
lý luận nhà nước, nguồn gốc quyền lực, chủ quyền Nhân dân, tổ chức BMNN
hay cơ chế phân quyền, người đọc có thể tiếp thu các lý luận về chủ quyền tối
cao của Nhân dân, vị trí Quốc hội, cơ chế trao quyền. Điều này giúp tác giả có
thể tham khảo, kế thừa, tiếp thu các giá trị phù hợp với quan điểm chính trị ở
Việt Nam hiện nay và thể hiện thông qua phần đánh giá chung kết quả các
công trình nghiên cứu trong 1.3.
Đối với các nhà khoa học trong nước, vấn đề đại diện được nghiên cứu
là tính chất, là chức năng hay thuộc tính của Quốc hội. Từ đó luận giải về vị trí,
vai trò và cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội cho phù hợp.
Các tác giả Bùi Xuân Đức, Nguyễn Sỹ Dũng, Nguyễn Đăng Dung đi
theo hướng nghiên cứu khai thác và lập luận cho rằng, đại diện là một chức
năng hoặc cần phải quy định là một chức năng của Quốc hội.
Trong bài viết “Nhận thức về chức năng đại diện và thực hiện chức
năng đại diện của Quốc hội Việt Nam”, tác giả Bùi Xuân Đức đã luận giải: Cả
trong bốn bản Hiến pháp của Việt Nam đều không nói đến chức năng đại diện
của Quốc hội. Song “sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của cử tri, theo ủy nhiệm
của họ” thì “đại diện là chức năng có ý nghĩa trực diện của Quốc hội trước cử
tri đã bầu ra mình” [35].
Tuy nhiên khi phân tích sự thể hiện và thực hiện chức năng đại diện của
Quốc hội Việt Nam, tác giả chỉ ra cơ cấu đại biểu rộng rãi, tính quyền lực cao
nhất của Quốc hội, đồng thời cho rằng chức năng đại diện thể hiện qua các
mặt hoạt động như: i) Sự phản ánh, thể hiện ý chí và nguyện vọng của cử tri
20
trong hoạt động của Quốc hội; ii) Qua hoạt động tiếp xúc cử tri, lắng nghe ý
kiến của dân, phản ánh tâm tư nguyện vọng của dân, góp phần giải quyết các
bức xúc của dân tại địa phương; iii) Chịu trách nhiệm và sự giám sát của dân.
Tác giả Nguyễn Đăng Dung trong bài viết: “Suy nghĩ về những tiêu chí
Quốc hội Việt Nam là đại diện của nhân dân Việt Nam” [118, tr.311] cho
rằng: “chức năng đại diện như là một trong những chức năng quyết định sự
tồn tại và phát triển của Quốc hội. Mọi cơ cấu, mọi nhiệm vụ của Quốc hội
đều có điểm xuất phát từ chức năng đại diện của mình”.
Theo chiều hướng nghiên cứu đại diện là một thuộc tính của Quốc hội
có các nhà khoa học như: Tác giả Lê Minh Thông, Lương Minh Tuân. Nhóm
các tác giả này khẳng định rằng, đại diện là một thuộc tính chi phối tổ chức và
hoạt động của Quốc hội. Tác giả Trần Ngọc Đường trong nhiều công trình
nghiên cứu của mình cũng cho rằng, đây là bản chất của Quốc hội xuất phát
từ bản chất nhà nước ta; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân. Bản chất ấy được thể
hiện rõ ràng, cụ thể qua ba chức năng lập pháp, giám sát và quyết định các
vấn đề cơ bản. Do vậy, cũng theo tác giả này trong một chừng mực đó, tính
đại diện trùng với tính đại biểu của Nhân dân.
Tuy góc độ nghiên cứu còn khác biệt, song các tác giả đều thống nhất
những vấn đề cơ bản sau: Một là, khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa và sự
cần thiết phải hiến định tính đại diện của Quốc hội. Hai là, dù nhận định là
thuộc tính, là bản chất hay là chức năng thì “đại diện” là vấn đề quan trọng
chi phối tới tổ chức, cơ chế hoạt động của Quốc hội, là vấn đề cần được bảo
đảm thực hiện trên thực tế để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc
hội trong giai đoạn hiện nay. Ba là, tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu của từng
người, các tác giả bước đầu đưa ra các quan điểm, nhận định về một số vấn đề
riêng lẻ như: Hiến định nguyên tắc tự do bầu cử, nhận diện mức độ đại diện,
xây dựng các tiêu chí đánh giá Quốc hội Việt Nam là đại diện của Nhân dân
Việt Nam, xác lập các yếu tố đảm bảo tính đại diện của Quốc hội. Đây thực
sự là những tư tưởng định hướng cho xu hướng nghiên cứu đề tài của tác giả.
21
Bên cạnh các nhà nghiên cứu Việt Nam, trong Hội thảo: “Chức năng
đại diện của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền” [118, tr.311], hệ thống
tham luận, bài viết của các tác giả nước ngoài đã đóng góp nhiều quan điểm,
so sánh những điểm tương đồng, những nét riêng trong nhận thức và pháp
luật về chức năng đại diện của Quốc hội/Nghị viện ở một số nước. Một số
tham luận chuyên sâu như “Measuring the degrees of representation in
Indonesia” (Đo mức độ đại diện ở In-đô-nê-xi-a) của Bà Bivitri Susanti cho
rằng: đại diện là một trong ba vai trò của Nghị viện và thật khó có thể xác
định vai trò đại diện của Nghị viện vì các Nghị viện thường được xem xét
thông qua các sản phẩm hữu hình được tạo ra từ vai trò lập pháp và giám sát.
Cho đến nay cũng chưa có một khuôn khổ hoặc tiêu chuẩn nào được đưa ra để
ghi nhận chức năng đại diện của Quốc hội In-đô-nê-xi-a.
Tham luận của đại biểu đến từ Phi-lip-pin lại khẳng định, chức năng đại
diện của Nghị viện được đề cập đến trong Hiến pháp và được thể hiện trên ba
nội dung: đại diện trong quy trình lập pháp; trong quy trình giám sát và trong
hoạch định chính sách ở cấp độ quốc gia.
Một số bài viết của các đại biểu Thái Lan, Ấn Độ, Đức lại chỉ ra rằng,
dù Hiến pháp không trực tiếp quy định Quốc hội có chức năng đại diện,
nhưng đây thực sự là những cơ quan mang bản chất đại diện Nhân dân thông
qua việc hiến định nguyên tắc: quyền lực nhà nước bắt nguồn từ Nhân dân
(Điều 20, Hiến pháp Đức) [118, tr.240], hay chỉ rõ “các thành viên của
Thượng viện, Hạ viện là đại diện của người Thái và thực hiện một cách trung
thực các bổn phận vì lợi ích chung của người Thái” (Điều 149, Hiến pháp
Thái Lan năm 1997) [118, tr.126] …
Như vậy, tùy thuộc vào đặc thù thể chế chính trị của mỗi nước mà các
tham luận trình bày, so sánh đối chiếu quan điểm về đại diện là chức năng, vai
trò hay là nguyên tắc hoạt động của Quốc hội; lý giải sự cần thiết hay không
cần thiết hiến định cũng như các điều kiện bảo đảm chức năng đại diện của
Quốc hội trên thực tế. Theo tác giả, đây là những quan điểm làm cơ sở cho
việc so sánh, đối chiếu, và tham khảo học tập kinh nghiệm khi xác lập tính đại
diện của một số mô hình Quốc hội trên thế giới.
22
1.2.1.2. Về các yếu tố bảo đảm, các hình thức thể hiện đại diện của
Quốc hội
Trong bài viết: “Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện của
Quốc hội”của Trần Thị Hạnh Dung [15], đã liệt kê các yếu tố ảnh hưởng đến
chức năng đại diện như: Các đại biểu phải được bầu trực tiếp, tự do, bình
đẳng thông qua bầu cử phổ thông và bỏ phiếu kín; Nhiệm kỳ của các đại diện
không nên quá dài; Tần suất hoạt động của Quốc hội; Các đại biểu hoạt động
chuyên trách và giữ mối quan hệ với cử tri; Sự trung thành của đại biểu đối
với cử tri trước các nhóm lợi ích khác nhau; Nguồn lực đảm bảo cho các đại
biểu hoạt động; Tính đại diện đa dạng trong Quốc hội; Cơ chế dân chủ trực
tiếp; Sự kiểm soát, chế ngự quyền lực của cơ quan đại diện.
Nghiên cứu sâu ở góc độ xây dựng thiết chế bầu cử, đảm bảo tính đại diện
của Quốc hội, tác giả Vũ Văn Nhiêm trong luận án tiến sĩ và trên một số bài viết
của mình đưa ra các yếu tố đảm bảo tính đại diện Quốc hội bao gồm: i) Đại diện
theo đảng phái; ii) Đảm bảo sự bình đẳng và cơ hội như nhau cho các đại biểu;
iii) Đảm bảo tỷ lệ đại diện cho các tầng lớp thế yếu trong xã hội [70, tr.22].
Tác giả Lê Minh Thông trong nghiên cứu của mình cũng chỉ ra bốn yếu tố
đảm bảo đại diện Quốc hội là: cơ cấu đại biểu trong mỗi khóa; mô hình một viện;
chất lượng đại biểu; trách nhiệm của đại biểu trước cử tri [118, tr.226-238].
Một số tác giả không trực diện nghiên cứu về điều kiện đảm bảo tính
đại diện của Quốc hội, nhưng chỉ ra các yếu tố tác động tới hiệu quả hoạt
động của Quốc hội mà việc nghiên cứu nó có tác dụng đảm bảo, nâng cao
hiệu quả hoạt động của cơ quan đại diện. Tác giả Bùi Ngọc Thanh, khi nghiên
cứu về điều kiện hoạt động của ĐBQH cũng chỉ ra rằng: “… để thực hiện
được trọng trách đó, ĐBQH rất cần phải có những điều kiện nhất định trong
quá trình hoạt động”, đó là: “Nhóm điều kiện do luật định”; “Nhóm điều kiện
của bản thân đại biểu”; “Nhóm điều kiện về các phương tiện hoạt động hàng
ngày” [90, tr.104]. Tác giả Đặng Đình Luyến chỉ ra năm vấn đề tác động đó
là: i) Năng lực, trình độ của đại biểu; ii) Các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của ĐBQH; iii) Đại biểu tham gia các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan
23
Quốc hội; iv) Sự quan tâm, đánh giá của cử tri; v) Các điều kiện đảm bảo hoạt
động (chuyên trách, lương, phụ cấp) [56].
Trong một nghiên cứu mang tính hệ thống gần đây, dựa trên quan điểm
lý thuyết của Hana Pitkin khi nghiên cứu đại diện chính trị, tác giả Hoàng
Minh Hiếu lại đưa các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu
cầu xây dựng NNPQ XHCN gồm: i) Các yếu tố bảo đảm tính đại diện trong
cách thức hình thành mối quan hệ đại diện; ii) Các yếu tố bảo đảm tính tương
đồng giữa ĐBQH và cử tri; iii) Các yếu tố bảo đảm năng lực đại diện của
ĐBQH; iv) Các yếu tố bảo đảm nội dung đại diện [41].
Đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài, trong các công trình khảo cứu
trên cũng đề cập đến các điều kiện đảm bảo tính đại diện Quốc hội như tính
đảng phái chính trị; nghị sĩ bầu cử trực tiếp, tự do, bình đẳng, phổ thông và
kín; mối quan hệ thường xuyên giữa nghị sĩ và cử tri; nghị sĩ là chuyên trách;
trong trường hợp có xung đột với đảng phái của mình, các nghị sĩ phải có
chính kiến; các nguồn lực hỗ trợ [118, tr.241-247];
Như vậy, các điều kiện bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đã được
nhiều tác giả đề cập, xem xét đến khi bàn về hiệu quả hoạt động của Quốc
hội, song chưa mang tính hệ thống, triết lý. Thường là sự liệt kê, nhiều khi có
sự trùng lặp ngay trong một quan điểm, chưa phân biệt được các nhóm điều
kiện trên các góc độ pháp lý, chính trị và thực tiễn.
Về các hình thức thể hiện đại diện, hiện chưa có công trình nào nghiên
cứu cụ thể, chuyên sâu. Tuy nhiên, trong khi đề cập đến tổ chức, hoạt động
của Quốc hội, một số tác giả đưa ra các hình thức hoạt động như: kỳ họp,
phiên họp của Quốc hội; hoạt động tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp;
hoạt động tiếp nhận đơn thư khiếu nại tố cáo của người dân. Nhiều quan điểm
cùng thống nhất, để “nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử” phải
đề cao và nâng cao chất lượng của các hoạt động tiếp dân, tiếp nhận đơn thư,
giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân [6, tr.67]. Tác giả Bùi
Xuân Đức khi nghiên cứu về vấn đề này cũng chỉ ra các hình thức thực thi
thông qua hoạt động đại diện của Quốc hội và các ĐBQH như: i) Sự phản
24
ánh, thể hiện ý chí và nguyện vọng của cử tri trong hoạt động của Quốc hội;
ii) Trong hoạt động tiếp xúc cử tri, gần gũi, lắng nghe ý kiến, phản ánh tâm tư
nguyện vọng, góp phần giải quyết các bức xúc của Nhân dân tại địa phương,
cơ sở; iii) Chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm trước Nhân dân [35, tr.62].
Tác giả Trần Ngọc Đường cũng lập luận: Tính đại diện cao nhất của
Nhân dân xuyên suốt quá trình thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định
những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động
của nhà nước hay thước đo đánh giá Quốc hội thực quyền hay không thực
quyền đó chính là khi thực hiện các chức năng của mình [33].
Cùng quan điểm trên tác giả Mai Hồng Quỳ khi bàn đến nâng cao hiệu
quả hoạt động của Quốc hội cũng nghiên cứu ở các góc độ: hoạt động lập
pháp; hoạt động quyết định ngân sách nhà nước và quyền giám sát tối cao của
Quốc hội [78].
Tóm lại, khi nghiên cứu về các hình thức thể hiện đại diện của Quốc
hội, chưa có công trình nào nghiên cứu trực diện mà thể hiện quan điểm gián
tiếp qua việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Quốc hội, từ đó có ý nghĩa
trong việc nâng cao hiệu quả của cơ quan dân cử tại Việt Nam.
1.2.1.3. Xét trên góc độ đánh giá thực trạng đại diện của Quốc hội
Việt Nam
Ở nội dung này, hầu hết các tác giả đều chưa đi sâu phân tích thực
trạng đại diện của Quốc hội mà chủ yếu đánh giá thực trạng thực hiện từng
chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Quốc hội theo luật định như: thực trạng hoạt
động lập pháp, thực trạng hoạt động quyết định, thực trạng hoạt động giám sát
của Quốc hội. Các công trình, bài viết tuy đa dạng, phong phú nhưng tựu
trung các tác giả đều thống nhất những vấn đề sau:
i) Trong thời gian qua, thực tiễn các hoạt động lập pháp, quyết định,
giám sát tối cao của Quốc hội còn chưa hiệu quả, chưa tương xứng với vị trí
hiến định của Quốc hội trong BMNN cũng như sự mong chờ của cử tri. Nhiều
lúc, nhiều nơi, hoạt động của Quốc hội, các Ủy ban, các Ban, của ĐBQH còn
mang tính hình thức.
25
ii) Tuy nhiên, việc nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của Quốc
hội; sự thức tỉnh các giá trị dân chủ và lớn mạnh năng lực thực hành dân
chủ của công dân; sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội đã
khiến cho hoạt động lập pháp có những bước phát triển vượt bậc so với
trước về cả số lượng và chất lượng; hoạt động quyết định đem lại những
giá trị kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước; hoạt động giám sát hạn chế tính
hình thức, chồng chéo, đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân.
iii) Đối với các điều kiện đảm bảo đại diện Quốc hội: thể chế bầu cử
còn có những quy định chưa đảm bảo tính đại diện của Quốc hội; các quy
định về phụ cấp, chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với tính chất công việc đa
dạng, phức tạp của đại biểu; bộ máy giúp việc của Quốc hội mới thực hiện tốt
chức năng phục vụ, chức năng tham mưu còn có những hạn chế nhất định.
Đây là những khảo sát, nhận định có ý nghĩa thực tiễn để tác giả luận
án so sánh, đối chiếu, đánh giá thực trạng đảm bảo, thực trạng các hình thức
thể hiện đại diện của Quốc hội tại Chương 3.
1.2.1.4. Xét trên nội dung giải pháp nâng cao vai trò đại diện của
Quốc hội
Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng NNPQ XHCN của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đến nay,
có rất nhiều công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết nghiên cứu về
đổi mới tổ chức BMNN, đặc biệt là Quốc hội đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
mới. Nhiều tác giả khẳng định vì Quốc hội là cơ quan đại diện Nhân dân nên
phải đảm bảo, tăng cường, phát huy tính đại diện trên tất cả các phương diện
hoạt động của Quốc hội.
Trong hoạt động lập pháp, “phải phát huy vai trò đại diện Nhân dân của
ĐBQH” [33]; “phải bảo đảm tính Nhân dân, tính dân chủ trong hoạt động lập
pháp”, coi trọng việc tổ chức lấy ý kiến các ngành, các cấp và ý kiến Nhân
dân đối với các dự án luật, pháp lệnh [126] …
26
Trong hoạt động quyết định, phải bảo đảm quyền quyết định, phê
chuẩn dự toán ngân sách nhà nước có ý nghĩa thực quyền, nâng cao khả năng
kiểm soát thực tế của Quốc hội, ĐBQH trong thực thi quyền quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước [96, tr.95].
Trong hoạt động giám sát tối cao, có nhà nghiên cứu lập luận, “Quốc
hội trong quan hệ phân công quyền lực là cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
nhưng về vị trí lại là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan đại
diện cao nhất của Nhân dân. Do vậy, Quốc hội có quyền kiểm soát toàn bộ
quá trình thực thi quyền lực nhà nước, kể cả quyền hành pháp và quyền xét
xử” [96, tr.95-96]. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao thông qua việc
ủy quyền cho các cơ quan, tổ chức thực hiện quyền này như UBTVQH, các
Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan bảo hiến, tòa Hành chính [78].
Nhiều công trình đưa ra các giải pháp đảm bảo đại diện và thực thi đại
diện như:
- Tiếp tục đổi mới làm cho hoạt động của Quốc hội ngày càng thiết
thực, hiệu quả, đáp ứng mong mỏi của cử tri và Nhân dân cả nước [1].
- Sửa đổi, bổ sung Luật Bầu cử ĐBQH, đảm bảo các nguyên tắc bầu cử
đã được hiến định [70, tr.22-31].
- Đa dạng hóa và đổi mới các hình thức tiếp xúc cử tri, giữ mối liên hệ
chặt chẽ với cử tri đảm bảo cho tiếng nói của đại biểu tại nghị trường là ý chí
và nguyện vọng của công dân [4].
- Nâng cao chất lượng ĐBQH để làm tốt chức năng đại diện [35, tr.77].
- Hoàn thiện tổ chức và đổi mới nội dung hoạt động của các cơ quan
chuyên môn của Quốc hội [87, tr.36], đảm bảo các điều kiện cơ sở vật chất,
chế độ đãi ngộ với đại biểu và có cơ chế kiểm tra, giám sát đại biểu trong khi
thực hiện nhiệm vụ dân cử.
- Tăng cường sự lãnh đạo của ĐCS đối với nhà nước nói chung, đối với
Quốc hội nói riêng trong bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân [80], đặc biệt
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử [82, tr.30-35].
27
1.2.2. Những nội dung đƣợc tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Như đã đề cập ở trên, các công trình nghiên cứu hiện có ở trong và ngoài
nước đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin lớn và khá toàn diện về đại
diện của Quốc hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Những tri thức, thông
tin đó là tiền đề quan trọng để tác giả tiếp tục tìm hiểu, phân tích những vấn
đề đặt ra trong luận án. Từ những đánh giá ở trên, những nội dung sau đây sẽ
được luận án tiếp tục làm rõ:
Một là, luận án tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận đại diện. Trong
đó, luận án sẽ nghiên cứu để chỉ ra các khái niệm như: đại diện, đại diện chính
trị, đại diện của Quốc hội… Đây là những khái niệm nền tảng, nếu nội hàm
chưa được làm rõ sẽ khó xác định vị trí, vai trò đại diện cao nhất của Quốc
hội trong BMNN. Vì vậy, trong luận án này sẽ phân tích và xác định nội hàm
của những khái niệm quan trọng đã nêu.
Hai là, luận án chỉ ra các hình thức thể hiện đại diện cao nhất của Quốc hội.
Ba là, trên cơ sở các nghiên cứu tản mạn, chưa đầy đủ về điều kiện đảm
bảo tính đại diện của Quốc hội, luận án chỉ ra hệ thống các điều kiện đảm bảo
mang tính đồng bộ, tương hỗ lẫn nhau trong việc đảm bảo tính đại diện Nhân
dân cao nhất của Quốc hội được xác lập trên các phương diện: chính trị, pháp
lý, tổ chức, nhân sự.
Bốn là, luận án khảo sát và đánh giá thực trạng thể hiện đại diện, các
đảm bảo đại diện cao nhất đối với Quốc hội Việt Nam dựa trên phần lý luận
đã được hệ thống, xây dựng.
Năm là, chưa có một nghiên cứu nào chỉ ra tổng thể các quan điểm và
giải pháp đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt
Nam trên cơ sở luận giải, đánh giá các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với vấn
đề này. Vì vậy, luận án phân tích, xây dựng hệ thống quan điểm, đề xuất các
giải pháp theo hướng xây dựng Quốc hội thực quyền, là thiết chế hữu hiệu để
hiện thực hóa quyền lực Nhân dân.
28
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Qua khảo sát tác giả nhận thấy, các nghiên cứu về Quốc hội rất đa
dạng, phong phú, chủ yếu được khai thác sâu ở góc độ từng chức năng của
Quốc hội. Nhiều công trình trong khi luận bàn về hoạt động của Quốc hội đều
thống nhất ở các quan điểm phải đảm bảo nguyên tắc Nhân dân là chủ thể tối
cao của quyền lực nhà nước và tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ chủ
quyền Nhân dân. Từ việc thống nhất tính đại diện cao nhất của Quốc hội
trong tổ chức BMNN Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu thực trạng đại
diện Quốc hội thông qua các chức năng của Quốc hội. Đồng thời các tác giả
đều có xu hướng đưa ra các giải pháp đảm bảo tính đại diện, tính thực quyền
của Quốc hội trong thực thi quyền lực nhà nước.
Tuy nhiên, do chưa thống nhất về nhận thức lý luận, nên khi bàn đến
đại diện, đại diện Quốc hội, các tác giả còn có sự tranh luận chưa thống nhất.
Tương tự như vậy, khi phân tích các điều kiện đảm bảo tính đại diện của
Quốc hội, thường có sự liệt kê, trùng lặp hoặc chưa đầy đủ. Từ đó, khi phân
tích đánh giá thực trạng đại diện hiện nay ở Việt Nam, những phân tích còn
tản mạn, chưa hệ thống, chưa rõ ràng về phương diện hoạt động (lập pháp,
quyết định, giám sát) hay những hành động cụ thể (chất vấn, giải trình, tiếp
xúc cử tri, tiếp dân, chuyển đơn thư khiếu nại, tố cáo) thực thi nhiệm vụ của
Quốc hội, ĐBQH.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nói trên là
những tri thức lý luận quý đã được chắt lọc, làm tiền đề, cơ sở cho những
nghiên cứu mới mang tính tổng quát, hệ thống. Đồng thời có giá trị thực tiễn
khi tiến hành đổi mới, hoàn thiện BMNN, đặc biệt là tổ chức và hoạt động
của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
29
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN
CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN
CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
2.1.1. Khái niệm Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân
dân Việt Nam
Để làm rõ khái niệm Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân
Việt Nam, cần phải tìm hiểu thuật ngữ đại diện. Trong cuộc sống hàng ngày,
thuật ngữ đại diện thường được sử dụng trong các quan hệ, giao dịch dân sự. Đại
diện được hiểu là sự “thay mặt cho cá nhân hoặc tập thể” [125, tr.279]. Người
đại diện nhân danh cá nhân, tập thể đó tiến hành các hoạt động và hoạt động này
thường gắn với lợi ích, bổn phận, nghĩa vụ của người được đại diện.
Trong dân sự đại diện thường được hiểu là việc một người (gọi là
người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (gọi là người được đại
diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Người đại diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với
người thứ ba, vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại diện là
người tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập,
thực hiện đúng thẩm quyền đại diện.
Đại diện dân sự thường được phân chia thành hai loại: đại diện theo
pháp luật và đại diện ủy quyền. Dù xác lập quan hệ đại diện theo loại nào
cũng cần phải đáp ứng các tiêu chí: i) Xác định tư cách, năng lực, điều kiện
của chủ thể đại diện; ii) Xác định nội dung, giới hạn, phương thức, thời gian
đại diện, các lợi ích đạt được đối với hai bên chủ thể; iii) Các chế tài hay trách
nhiệm đối với hai bên trong trường hợp có vi phạm thỏa thuận, vi phạm pháp
luật, cũng như trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp nếu có.
Từ khái niệm đại diện khá phổ biến trong dân sự, ở các lĩnh vực chuyên
ngành, mỗi quốc gia có thể đưa thêm những quy định về chủ thể đại diện, lợi
ích đại diện, thời hạn đại diện để bảo hộ pháp lý, đảm bảo tính kinh tế, tính
30
chính trị cho các quan hệ đó như đại diện thương mại, đại diện ngoại giao, đại
diện quốc gia, khu vực.
Tóm lại: đại diện hiểu theo nghĩa thông thường là việc người đại diện
thông qua hành vi của mình, nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện
xác lập, thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện.
Cùng với đại diện dân sự, trong đời sống xã hội còn ra đời khái niệm
“đại diện chính trị”. Tuy nhiên, loại đại diện này có những điểm khác biệt với
đại diện dân sự. Đại diện chính trị không đơn thuần là những thỏa thuận,
những hợp đồng, giao dịch có tính chất hàng hóa - tiền tệ. Đó là quan hệ giữa
một cộng đồng với những người thay thế mình thực hiện quyền lực nhà nước
mà quyền lực đó vốn luôn có xu hướng quay lại áp đặt các quy tắc, những quy
phạm pháp luật đối với người được đại diện. Đại diện chính trị luôn gắn với
phạm trù “Nhân dân”, “quyền lực”, “dân chủ”; nó gắn với mối quan hệ lợi ích
của các cử tri trong đơn vị bầu cử và cử tri trên toàn quốc gia; nó đan xen giữa
“trách nhiệm” phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của cử tri hay bao gồm cả
những tư duy, lập luận, nhận định riêng của người đại diện khi thực hiện
nhiệm vụ.
Trong nền dân chủ đầu tiên của loài người, thuật ngữ đại diện chưa
được nhắc đến và quyền lực nhà nước thực thi trực tiếp thông qua hoạt động
bàn bạc, thảo luận, quyết định của công dân (Nhân dân hay công dân theo
quan điểm của nhà nước Hy Lạp cổ đại là khái niệm dùng để chỉ một nhóm
người hạn chế trong xã hội như: nam giới trưởng thành, người tự do, người có
tài sản, …). Quyền lực nhà nước khi này được quan niệm là sự hình thành
một cách tự nhiên, do con người sống thành xã hội tạo nên. Vì vậy, Nhân dân
là chủ thể của quyền lực và trực tiếp điều hành, thực thi mọi công việc của
nhà nước.
Đến thời kỳ cận hiện đại, vấn đề quyền lực của Nhân dân được đề cập
một cách rõ ràng về yếu tố chủ thể và phương thức thực hiện quyền chủ thể.
Vì Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước nên quyền lực nhà nước chính
là quyền lực của các cá nhân trong xã hội tự nguyện trích một phần quyền tự
nhiên của mình thông qua một thỏa thuận xã hội. Sự trao lại cho nhà nước
quyền ấy nhằm duy trì trật tự chung của xã hội và bảo vệ các quyền tự nhiên
31
của công dân trong xã hội có nhà nước. Như vậy, nhà nước là chủ thể đại
diện, tiếp nhận quyền lực Nhân dân. Sự đại diện này ra đời bởi những lý lẽ
căn bản sau đây:
Một là, trên phạm vi lãnh thổ quốc gia, sự khác biệt về địa lý, văn hóa,
tập quán, thành phần dân cư khiến tập hợp Nhân dân cùng thảo luận, quyết
định, điều hành những việc chung của đất nước là rất khó thực hiện.
Hai là, dân cư là một tập hợp đám đông với sự khác biệt về nhận thức,
trí tuệ, cảm xúc. Trong khi đó, hoạt động quản lý đòi hỏi những cá nhân phải
hội tụ nhiều yếu tố như: năng lực, trình độ, uy tín, đạo đức cá nhân … Có như
vậy mới đáp ứng được yêu cầu của nhà quản lý trong việc giải quyết các mâu
thuẫn, xung đột lợi ích của đám đông.
Chính vì vậy, thông qua cơ chế ủy quyền, Nhân dân có thể lựa chọn ra
những người thay mặt, đó là những con người ưu tú trong xã hội, có trình độ
quản lý để đại diện cho ý chí và lợi ích của mình.
Ý nghĩa mới của từ “đại diện” xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIII - XIV.
Người “đại biểu” được dùng để chỉ người tham gia và Hội đồng nhà thờ hay
Nghị viện Anh [135]. Tới thế kỷ XVII, khi việc bầu các thành viên của Nghị
viện trở nên phổ biến thì đại diện trở thành một quyền chính trị thiêng liêng
và mang tính truyền thống của người Anh, gắn liền với Chính phủ đại diện.
Có thể nói, nước Anh là “cha đẻ” của hình thức dân chủ đại diện. Ngay
từ thế kỷ XIII, ở Anh đã hình thành thể chế dân chủ đại diện. Vào năm 1254,
vua Henry tiến hành cuộc chiến tranh với nước Pháp và cần rất nhiều tiền để
duy trì cuộc chiến. Ông đã triệu tập các hiệp sĩ từ các hạt đến dự cuộc họp bàn
về vấn đề này. Năm 1265, Nghị viện đầu tiên của nước Anh được thành lập,
gồm đại biểu là các quý tộc, tăng lữ, hiệp sỹ và cả các thị dân. Năm 1295,
Nghị viện được chia tách thành hai viện: Viện Quý tộc (Thượng viện) bao
gồm các giám mục, bá tước, công tước và các nhà quý tộc cao hơn từ các hạt;
Viện bình dân (Hạ viện) bao gồm các hiệp sĩ, mỗi khu dân cư cử hai đại diện.
Với thành phần như vậy, Nghị viện Anh hoạt động và quyết định mọi vấn đề
trên danh nghĩa của những người mà họ đại diện. Sau cuộc cách mạng Vinh
quang (1688-1689), Nghị viện hầu như trở thành chế định trung tâm trong hệ
thống chính trị Anh quốc. Hình thức cử đại diện vào cơ quan lập pháp là một
32
phần quan trọng trong tiến trình chính trị, được nhiều nước biết đến, nghiên
cứu và vận dụng những hạt nhân hợp lý trong việc tìm kiếm cách thức xây
dựng một thiết chế đại diện để thực hiện quyền lực Nhân dân.
Bước vào thời kỳ hiện đại, rất nhiều nhà nghiên cứu, các chính khách
cũng luận đàm về vấn đề đại diện và coi đại diện là vấn đề tất yếu của sự tồn
tại thể chế Nghị viện:
Edmund Burke (1729-1797), một chính khách, người đã phục vụ nhiều
năm trong Viện Thứ dân Vương quốc Anh khi xây dựng luận điểm của mình
đã nhấn mạnh, đề cao quyền cá nhân trong xã hội. Ông ủng hộ một nền dân
chủ tự do có bầu cử công bằng, công khai mà mọi công dân đều được hưởng
quyền bình đẳng trước pháp luật và có cơ hội thành công như nhau. Kết quả
của hoạt động bầu cử là sự ra đời của cơ quan đại diện, đây là cơ chế tất yếu
trong việc thiết lập một cơ quan quyền lực với những giới hạn nhất định để
đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền công dân được pháp luật công nhận.
Khi bàn về hình thức đại diện, Edmund Burke [135] lập luận rằng,
những người đại biểu của Nhân dân là những người đại diện ủy thác; họ đưa
ra các quyết định không chỉ phụ thuộc vào đòi hỏi, mong muốn của cử tri bầu
ra họ mà còn phải dựa trên những kiến thức và phán xét của mình, để thực
hiện những gì tốt nhất theo quan điểm, nhận thức lý trí của người đại diện.
James Madison (1751-1836), Tổng thống thứ 4 của Hoa Kỳ cũng là
một nhà lý luận nghiên cứu, ủng hộ sự đại diện cho rằng người dân là những
người có quyền quyết định tham gia hay không tham gia vào chính trị. Trong
một số bài viết, tác phẩm của mình, J. Madison đã nói về việc xây dựng nền
cộng hòa dựa trên các thể chế đại diện, xây dựng một hệ thống Chính phủ đại
diện và có trách nhiệm. Những người đại diện chỉ là đại diện thay mặt, họ chỉ
đơn giản tuân thủ những ưu tiên mà cử tri của mình đã biểu hiện [127].
Hanna Pitkin, giáo sư tại trường đại học California, Berkeley; người đã
tích cực tranh luận trong nhiều hội thảo về vấn đề đại diện chính trị luôn xem
xét “đại diện” dưới nhiều góc cạnh. Bà cho rằng: “Những ý kiến của chúng ta
về đại diện chính trị phụ thuộc vào những thực tiễn chính trị về đại diện đang
tồn tại. Hiểu biết của chúng ta về đại diện được định hình một cách không thể
tháo gỡ theo lối mà ở đó con người hiện tại đang được đại diện” [135].
33
Trong cuốn sách “The Concept of Reprentation” (Khái niệm đại diện),
Hanna Pitkin không tập trung đưa ra một khái niệm “đại diện” riêng biệt, mà
phân tích một cách khá toàn diện các vấn đề liên quan đến đại diện chính trị.
Trên cơ sở tán đồng, kế thừa quan điểm của các nhà nghiên cứu trước đó, bà
lập luận, diễn giải, phân loại đại diện thành bốn loại cơ bản: đại diện hình
thức, đại diện đồng dạng và đại diện nội dung [135].
Lý luận về vai trò đại diện thay mặt và đại diện ủy thác có những điểm
mâu thuẫn nhất định với cách phân chia của Hanna Pikin. Tuy nhiên, Bà cho
rằng, cần phải duy trì những quan điểm này, các công dân phải đảm bảo cho
người đại diện có quyền tự quyết nhất định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Mặc dù mỗi quan niệm đưa ra những cách tiếp cận khác nhau về đại
diện chính trị, nhưng đều có những điểm chung thống nhất. Chúng đều có thể
sử dụng ở những góc độ khác nhau để giải thích về tiến trình công dân tiến
hành lựa chọn các nhà lãnh đạo của mình. Các cuộc bầu cử là cơ chế chính
thống để cử tri trao quyền của mình cho những người đại diện. Nếu người đại
diện không thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, thì phát sinh tính chịu trách
nhiệm của họ, đồng thời cử tri có lựa chọn đúng đắn trong các cuộc bầu cử
tiếp theo. Một điểm chung mà các nhà nghiên cứu gặp nhau chính là khi họ
lập luận giới hạn đại diện cho ý chí, lợi ích hay cả hai yếu tố đó.
Nếu đại diện cho ý chí của cử tri, người đại diện phải truyền đạt đúng ý
chí của người bầu ra mình. Khi đó cả ý chí và lợi ích chưa đúng, chưa phù
hợp cũng phải được phản ánh trung thực. Nếu là đại diện cho lợi ích thì trên
cơ sở chức năng, nhiệm vụ, điều kiện, hoàn cảnh, người đại diện vận dụng trí
tuệ của mình để lựa chọn và đưa ra các quyết định tối ưu nhất, bảo vệ tốt nhất
cho lợi ích của cử tri (hay nói cách khác, người đại diện chỉ thực hiện các hoạt
động vì lợi ích, nhu cầu chính đáng, hợp pháp của cử tri). Ở khía cạnh này,
quan điểm đại diện lợi ích được nhiều học giả tán thành bởi lý do cử tri bầu
nên người đại diện là mong muốn tìm ra một nhà chính trị thông thái và có
đạo đức để có thể phán đoán và thực hiện các hoạt động quản lý xã hội tốt
hơn nhiều so với người được đại diện tự mình thực hiện.
Tuy nhiên, quan niệm về đại diện cho lợi ích này có thể gây khó khăn
về giới hạn đại diện trong trường hợp người đại diện viện nhiều lý do (từ
34
chính cái đầu thông minh và lập luận khôn ngoan của họ), để không phản
ánh đúng, đủ hay lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân trong các
quyết sách của mình (thông qua cơ chế làm việc tập thể, quyết định theo đa
số, biểu quyết kín, …). Trong trường hợp này, nhiều khi người được đại
diện lại bị phụ thuộc, trông chờ vào chính người mà mình đã ủy quyền cho
họ. Cho dù pháp luật nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) có cơ chế
miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm,
song để làm được điều đó, không phải nhóm cử tri nào (đặc biệt các nhóm
thế yếu: phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật) cũng có đủ điều
kiện yêu cầu và thực hiện trên thực tế mà thông thường chấp nhận hết
nhiệm kỳ để có sự lựa chọn mới.
Trên thực tế, dù được bầu cử theo phương pháp đa số tương đối hay đa
số tuyệt đối, người đại diện đều phải đại diện cho cử tri bầu ra mình cũng như
cử tri cả nước. Do đó, nghiêng về bảo vệ bên nào là công việc đòi hỏi nhà đại
diện phải “cân não” sao cho hài hòa lợi ích, tránh các xung đột hay nếu có thì
phải giải thích, dàn xếp thỏa đáng cho những người đã ủy quyền cho mình.
Chính vì vậy, hiện nay các quan điểm về đại diện chính trị đều chung
thống nhất về giới hạn đại diện, đó là đại diện cho ý chí và quyền lợi (chính
đáng) của cử tri trên cơ sở hoạt động thực tiễn (gắn liền với trí tuệ mẫn thiệp
và phẩm chất đạo đức chính trị) của đại biểu dân cử. Để hài hòa lợi ích cử tri
hay vùng lãnh thổ, địa giới hành chính, hệ thống lưỡng viện ra đời cùng cơ
chế phối hợp hoạt động, được phát triển rộng khắp là bài toán giải đáp cho
nhiều nước. Ở những nước có hình thức đơn viện, người đại diện sẽ thực hiện
hai “nghĩa vụ”, đó là đại diện cho nhóm cử tri đã bầu ra mình và đại diện
chung cho cử tri cả nước. Mỗi hình thức đều có tính ưu việt và những hạn chế
riêng của nó. Việc các quốc gia lựa chọn hình thức đơn viện, lưỡng viện hoặc
cùng một quốc gia, qua các thời kỳ lịch sử có thể tồn tại các loại hình thức
khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố riêng như chính trị, lịch sử, pháp lý của
dân tộc đó.
“Đại diện” của Quốc hội là đại diện chính trị. Nó là một thuộc tính phổ
biến của Quốc hội, nhờ thuộc tính vốn có này mà Quốc hội tồn tại và trả lời
cho câu hỏi: Quốc hội là gì, vì sao phải có Quốc hội?
35
Nếu đại diện trong dân sự thường thiết lập giữa các bên chủ thể thông
qua một hợp đồng, khế ước với những thông số cụ thể về thời gian, nghĩa vụ,
lợi ích, sự cam kết, phạt vi phạm … thì đại diện của Quốc hội được thiết lập
trên cơ sở pháp luật quốc gia (Hiến pháp, Luật tổ chức BMNN, Luật bầu cử)
mang tính biểu tượng quyền lực, danh dự quốc gia với các tiêu chí rất khó
định tính, định lượng khi các bên ủy quyền cho nhau. Các cử tri khi bầu cử
đại diện cho mình là lựa chọn: (i) Người có tài đức, có điều kiện hơn mình để
tham gia các công việc xã hội, giải quyết công việc xã hội ; (ii) Người có
đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp với thời điểm lịch sử để các quyết sách
(sau trúng cử) đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội cho cử tri; (iii) Người sẽ
trung thành và dũng cảm bảo vệ lợi ích cử tri (có thể phát sinh sau khi bầu
cử). Như vậy, đối tượng lợi ích mà cử tri hướng tới khi trao quyền cho nhà đại
diện nhiều khi chưa phát sinh, chưa định hình tại thời điểm bầu cử, nó nằm ở
dạng “mong chờ” và “tin tưởng”. Mặt khác hiện nay, Quốc hội các nước trên
thế giới thường theo xu hướng đại diện ủy thác nên hiệu quả hoạt động của
Quốc hội phụ thuộc một phần rất lớn vào năng lực và đạo đức cá nhân người
đại diện. Chính vì vậy, khái niệm đại diện Quốc hội không thể chỉ hiểu phiên
sang từ khái niệm đại diện trong dân sự, bởi nó không phản ánh mối quan hệ
và ý nghĩa chính trị giữa người đại diện và người được đại diện.
Đại diện của Quốc hội có những đặc điểm khác đại diện ủy quyền/thừa
lệnh trong hành pháp hay nhân danh quyền lực nhà nước trong tư pháp khi
tuyên án. Đó là, đại diện của Quốc hội là đại diện cao nhất, hay nói cách khác,
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam. Tính cao nhất
được quy định bởi chính cách thức hình thành, tổ chức và hoạt động của Quốc
hội khác với các thiết chế khác của BMNN.
Thứ nhất, Quốc hội là tổ chức duy nhất do Nhân dân cả nước trực tiếp
bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, bỏ phiếu kín. Đối với các quốc
gia áp dụng bầu Quốc hội qua phiếu đại cử tri, thì cử tri phổ thông khi bầu ra
đại cử tri (để những người này trực tiếp bầu đại biểu Quốc hội), họ lựa chọn
đại cử tri dựa trên quan điểm của đảng chính trị mà đại cử tri đó là thành viên
hoặc ủng hộ. Vì vậy có thể nói, sự hình thành, tồn tại của Quốc hội là ý chí
thống nhất của Nhân dân cả nước.
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY

More Related Content

What's hot

Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính t...
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính t...Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính t...
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính t...Mộc Đại Lâm
 
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP   QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMBÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP   QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMMinh Chanh
 
Cap xa thanh hoa
Cap xa thanh hoaCap xa thanh hoa
Cap xa thanh hoabuixuan
 
Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý
Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý
Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý nataliej4
 

What's hot (14)

Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính t...
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính t...Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính t...
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính t...
 
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOTĐề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
 
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAYChế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của UBND phường quận Cầu giấy
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của UBND phường quận Cầu giấyLuận văn: Tổ chức và hoạt động của UBND phường quận Cầu giấy
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của UBND phường quận Cầu giấy
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễnLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
 
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAYLuận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
 
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP   QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMBÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP   QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 
Tổ chức và hoạt động của UBND cấp xã huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
Tổ chức và hoạt động của UBND cấp xã huyện Yên Định, tỉnh Thanh HóaTổ chức và hoạt động của UBND cấp xã huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
Tổ chức và hoạt động của UBND cấp xã huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
 
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà NẵngLuận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
 
Cap xa thanh hoa
Cap xa thanh hoaCap xa thanh hoa
Cap xa thanh hoa
 
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
 
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOTLuận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
 
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOTLuận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
 
Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý
Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý
Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý
 

Similar to Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY

Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Kien Thuc
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...jackjohn45
 
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.docÝ thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.docdịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY (20)

Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCNTính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
 
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
 
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
 
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAYLuận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
 
Luận văn: Giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ, 9đ
Luận văn: Giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ, 9đLuận văn: Giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ, 9đ
Luận văn: Giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ, 9đ
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, 9đ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, 9đLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, 9đ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, 9đ
 
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.docÝ thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAYĐề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
 
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.docLUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
 
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vnHoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nướcĐề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
 
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước taGiám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
 
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyềnLuận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
 
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docxCông Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THÚY HOA NH÷NG VÊN §Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN vÒ QUèC HéI - C¥ QUAN §¹I DIÖN CAO NHÊT CñA NH¢N D¢N viÖt Nam LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật Mã số: 62 38 01 01 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. TRẦN NGỌC ĐƢỜNG HÀ NỘI - 2015
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận án Nguyễn Thúy Hoa
  • 3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 6 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới Quốc hội với tính chất là cơ quan đại diện của nhân dân 6 1.2. Nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề tiếp tục được nghiên cứu trong luận án 15 CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM 29 2.1. Khái niệm và vai trò của Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam 29 2.2. Các hình thức thể hiện Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân và các đảm bảo để Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân 43 2.3. Quốc hội - cơ quan đại diện của Nhân dân ở các nước và những bài học kinh nghiệm trong xây dựng, hoàn thiện cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam 60 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM 70 3.1. Sự hình thành và phát triển thiết chế Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam qua các bản Hiến pháp 70 3.2. Thực trạng thể hiện Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam 77 3.3. Thực trạng các đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam 96 CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM 123 4.1. Quan điểm đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam 123 4.2. Các giải pháp đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam 126 KẾT LUẬN 153 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 156 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 157
  • 4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BMNN Bộ máy nhà nước ĐCS Đảng Cộng sản ĐBQH Đại biểu Quốc hội HĐND Hội đồng nhân dân KTTT MTTQ Kinh tế thị trường Mặt trận Tổ quốc NNPQ Nhà nước pháp quyền TAND Tòa án nhân dân UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội VKSND Viện kiểm sát nhân dân VPQH Văn phòng Quốc hội VUSTA Liên hiệp các hội khoa học & kỹ thuật Việt Nam XHCD Xã hội công dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 5. DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN Trang Bảng 3.1: Tổng số văn bản luật, pháp lệnh được ban hành trong các nhiệm kỳ Quốc hội 84 Bảng 3.2: Tỷ lệ số lượng các phiên họp Quốc hội về lập pháp (Khóa XI) 87 Bảng 3.3: Số lượng đại biểu, ý kiến đại biểu phát biểu tại hội trường trong các kỳ họp của Quốc hội có liên quan đến hoạt động xây dựng pháp luật 89 Bảng 3.4: Cơ cấu đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII, XIII 119
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội là thiết chế có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo thực thi quyền lực Nhân dân. Điều 6, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Điều 69 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...”. Sự hiến định này cho thấy ở Việt Nam, thuật ngữ “cơ quan đại biểu cao nhất” được hiểu đồng nhất với khái niệm cơ quan đại diện cao nhất trong bộ máy nhà nước. Đại diện trở thành một thuộc tính của Quốc hội xuyên suốt và chi phối vị trí, vai trò, cơ chế hoạt động, cơ cấu đại biểu, hiệu lực đại diện và thể hiện tập trung nhất qua việc thực hiện các chức năng: lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước. Nói một cách khác, tính đại diện cao nhất của Quốc hội Việt Nam bắt nguồn từ bản chất nhà nước dân chủ nhân dân mà chúng ta đã lựa chọn từ năm 1945. Điều đó được quy định bởi: Một là, Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra dựa trên các nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đây là những quy định đảm bảo cho mỗi người dân tự do bầu cử, lựa chọn những nhà đại diện theo ý chí của mình. Hai là, các đại biểu Quốc hội không chỉ đại diện cho Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho Nhân dân cả nước. Bởi vậy, Quốc hội có trách nhiệm cao cả là thay mặt Nhân dân thực hiện đúng và đầy đủ quyền lực nhà nước, trở thành “đầu dây thần kinh” kết nối các lợi ích trong xã hội.
  • 7. 2 Ba là, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có những quyền năng đặc biệt, song Quốc hội chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm trước Nhân dân, có thể bị bãi nhiệm bởi Nhân dân khi không thực hiện trọng trách chính trị đã được giao phó. Tuy nhiên hiện nay, việc nghiên cứu Quốc hội với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân chưa được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Ở phương diện lý luận, khái niệm đại diện của Quốc hội chưa được luận giải thống nhất là tính chất hay là một chức năng của Quốc hội. Nhiều vấn đề mang tính hệ thống về đại diện của Quốc hội chưa được nghiên cứu như: nội dung đại diện, hình thức thực thi đại diện, tỷ lệ đại diện (chuyên trách, kiêm nhiệm), tư cách đại diện khi xử lý mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc với lợi ích nhóm cử tri của đơn vị bầu cử … Ở phương diện thực tiễn, hoạt động của Quốc hội chưa tương xứng với vị trí và vai trò hiến định, Quốc hội chưa mạnh, chưa thực quyền trong quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, trong giám sát tối cao hoạt động của nhà nước. Trong điều kiện đẩy mạnh công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mở rộng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn về vai trò đại diện, các điều kiện đảm bảo để Quốc hội thực thi hoạt động đại diện Nhân dân cao nhất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Với nhận thức nói trên, tác giả lựa chọn: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ Luật học với mong muốn nghiên cứu và làm rõ tính đại diện Nhân dân cao nhất của Quốc hội, đóng góp thêm vào kho tàng lý luận về Quốc hội ở nước ta.
  • 8. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận và phân tích, đánh giá thực tiễn làm sáng tỏ các hình thức thực thi đại diện, các điều kiện đảm bảo Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp để Quốc hội thực sự là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ của luận án Để thực hiện mục đích nói trên, luận án có nhiệm vụ: - Khảo cứu các công trình khoa học về đại diện của Quốc hội ở trong và ngoài nước. Từ đó rút ra những giá trị tham khảo và hướng nghiên cứu mới cho luận án. - Phân tích và làm sáng tỏ bản chất và vai trò đại diện cao nhất của Quốc hội; nghiên cứu tính đại diện của một số Quốc hội/Nghị viện các nước trên thế giới để rút ra các giá trị có thể kế thừa và phát triển trong xây dựng Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất ở nước ta. - Chỉ ra và đánh giá thực trạng hình thức thể hiện đại diện, các đảm bảo đại diện của Quốc hội Việt Nam. - Đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy tính đại diện Nhân dân cao nhất của Quốc hội Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là vấn đề đại diện của Quốc hội, vai trò đại diện Quốc hội, các yếu tố đảm bảo đại diện cao nhất của Quốc hội, các hình thức thể hiện đại diện cao nhất của Quốc hội Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề đại diện của Quốc hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ Hiến pháp năm 1992 đến nay. 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra, luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
  • 9. 4 của triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bản chất nhà nước, về tổ chức và hoạt động của BMNN nói chung, của Quốc hội nói riêng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu và có sự phối hợp giữa chúng khi nghiên cứu, đó là các phương pháp cơ bản sau đây: - Phương pháp phân tích: phương pháp này được sử dụng chủ đạo trong nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận đại diện của Quốc hội cũng như xác định các giải pháp đảm bảo tính đại diện của Quốc hội Việt Nam. - Phương pháp lịch sử, so sánh: được sử dụng khi nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước, đánh giá thực trạng, các biện pháp đảm bảo tính đại diện của Quốc hội/Nghị viện ở một số nước. - Phương pháp tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để khái quát, hệ thống hóa các vấn đề; tổng kết lý luận, lịch sử, thực tiễn, kinh nghiệm pháp lý của một số nước trên thế giới; đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của Quốc hội Việt Nam hiện nay. - Phương pháp khảo cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để phân tích, đánh giá, tổng kết các công trình đã nghiên cứu, kinh nghiệm nước ngoài. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án Là luận án đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam nên có một số đóng góp mới sau đây: - Chỉ rõ Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân là một tính chất đặc biệt quan trọng thể hiện xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Để giữ vững tính đại diện này, luận án đã chỉ rõ các yếu tố đảm bảo cho Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất trên các phương diện: chính trị, pháp lý, tổ chức, nhân sự; các hình thức thể hiện đại diện cao nhất của Quốc hội Việt Nam.
  • 10. 5 - Phân tích sâu sắc và toàn diện những kết quả đã đạt được, chỉ ra những hạn chế trong việc thực thi đại diện, trong đảm bảo Quốc hội thực sự là cơ quan đại diện cao nhất ở Việt Nam. - Xây dựng các quan điểm, đề xuất các giải pháp đảm bảo Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, là thiết chế để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn: - Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về đại diện, đại diện của Quốc hội, vai trò đại diện Nhân dân cao nhất của Quốc hội - Về thực tiễn: Luận án đưa ra những giải pháp, những kiến nghị làm cơ sở thực tiễn để các nhà lập pháp, các cơ quan hoạch định chính sách cũng như đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy có cách nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổ chức BMNN với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân; trên cơ sở đó có những đóng góp tích cực trong hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho đại biểu Quốc hội, những người quan tâm nghiên cứu, làm công tác về ĐBQH. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
  • 11. 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Dân chủ, đại diện và Quốc hội là những vấn đề liên quan, gắn bó chặt chẽ với nhau trong khoa học chính trị, khoa học pháp lý. Đó cũng là đề tài được nhiều học giả nghiên cứu xuyên suốt lịch sử nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài luận án, tác giả chỉ khảo sát những công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến vấn đề Quốc hội với tính chất là cơ quan đại diện của Nhân dân. Đặc biệt là nhóm các công trình nghiên cứu về những nội dung được xây dựng trong kết cấu luận án: i) Khái niệm đại diện, đại diện của Quốc hội và vai trò của Quốc hội với tính chất là cơ quan đại diện Nhân dân; ii) Các đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội; iii)Thực trạng đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội; iv) Các giải pháp phát huy vai trò của Quốc hội với tính chất là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân. 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI QUỐC HỘI VỚI TÍNH CHẤT LÀ CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CỦA NHÂN DÂN 1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc Khảo sát trong thời gian gần đây cho thấy, các công trình nghiên cứu về Quốc hội rất đa dạng và phong phú. Trước những yêu cầu xây dựng NNPQ, hoàn thiện tổ chức BMNN, nhiều tác giả tập trung nghiên cứu về vị trí pháp lý, đổi mới tổ chức bộ máy Quốc hội. Đặc biệt nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu vào từng chức năng lập pháp, quyết định và giám sát tối cao của Quốc hội cũng như nghiên cứu mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ và Tòa án trong phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước. Riêng nghiên cứu liên quan trực tiếp đến nội dung của luận án có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau đây: 1.1.1.1. Về lý luận đại diện, đại diện của Quốc hội và vai trò của Quốc hội với tính chất là cơ quan đại diện Nhân dân Trần Ngọc Đường, “Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong NNPQ xã hội chủ nghĩa của dân, do
  • 12. 7 dân và vì dân” [30], đề tài nghiên cứu nội dung rộng, bao gồm cơ sở lý luận của việc đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong NNPQ XHCN Việt Nam; đánh giá thực trạng và đưa ra các yêu cầu cũng như xây dựng mô hình Quốc hội, Chính phủ đến năm 2010 và các năm tiếp theo. Trong phần I, chương 2 (lý luận), đề tài dành một phần nghiên cứu vị trí và chỉ ra thuộc tính đại diện của Quốc hội, vai trò đại diện Quốc hội trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị và tổ chức quyền lực nhà nước trong NNPQ XHCN Việt Nam. Ngô Đức Mạnh, “Cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong BMNN và hệ thống chính trị Việt Nam (qua bốn bản Hiến pháp)” [58], đề tài khảo sát cụ thể, logic về quá trình hình thành và phát triển của Quốc hội Việt Nam qua bốn bản Hiến pháp. Trong phần lý luận, đề tài có những phân tích biểu hiện tính đại diện của Quốc hội, tuy nhiên không nghiên cứu sâu mà tập trung phân tích vào các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Cuốn “Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của tác giả Đào Trí Úc [105], công trình tập trung vào nghiên cứu tổ chức và hoạt động của nhà nước ta, trong đó Quốc hội có một vai trò, vị trí quan trọng trong BMNN. Tuy không nghiên cứu sâu về đại diện Quốc hội nhưng để Quốc hội hoạt động hiệu quả trong NNPQ XHCN, nhóm tác giả đặt vấn đề phải đảm bảo tính chất đại diện của Quốc hội. Đây là việc làm cấp thiết và quan trọng, là điều kiện để thực thi quyền lực Nhân dân qua hình thức dân chủ gián tiếp. Cuốn “Chức năng đại diện của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền” của Văn phòng Quốc hội [118] đã tập hợp 11 bài viết của các tác giả trong và ngoài nước tham gia hội thảo cùng tên năm 2007. Vì vậy cuốn sách là các bài viết nghiên cứu tản mạn về đại diện Quốc hội với nhận thức là một chức năng, việc hiến định hóa chức năng, đo mức độ đại diện, đảm bảo tính đại diện, … Cuốn sách chưa hình thành hệ thống quan điểm về đại diện Quốc hội, đặc biệt chưa xác định đại diện là tính chất hay chức năng của Quốc hội như tiêu đề của cuộc hội thảo. Tuy nhiên, đây cũng là tài liệu có giá trị, bước đầu
  • 13. 8 cung cấp nhiều góc nhìn về đại diện Quốc hội ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. Đây là những kết quả khảo cứu về đại diện Quốc hội ở một số nước, làm cơ sở cho tác giả nghiên cứu, so sánh khi xây dựng lý luận về đại diện Quốc hội tại chương 2 trong luận án tiến sĩ của mình. Cuốn “Tổ chức và hoạt động của Nghị viện một số nước trên thế giới” của Nguyễn Sĩ Dũng [19] là thành quả nghiên cứu chuyên sâu về Nghị viện các nước trên thế giới, tập trung vào chức năng, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức, quy trình thủ tục hoạt động và bộ máy giúp việc Nghị viện. Liên quan đến nội dung đại diện Quốc hội, Nhóm tác giả dành một phần nhỏ khảo sát và đưa ra quan niệm đại diện là một chức năng bên cạnh các chức năng khác của Quốc hội như: lập pháp, giám sát, tài chính - ngân sách. Cũng từ quan niệm này các nhiệm vụ được đặt ra tương ứng với chức năng đại diện là: Làm hài lòng cử tri và bảo đảm lợi ích quốc gia; phục vụ cử tri tại khu vực bầu cử; giữ mối liên hệ với cử tri, … Đây là những nội dung mang tư tưởng hiện đại về Quốc hội của các nước trên thế giới. Luận án phó tiến sĩ Luật học: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan đại diện ở nước ta hiện nay” của Chu Văn Thành [91], không chỉ nghiên cứu về cơ quan đại diện cao nhất là Quốc hội, luận án khảo cứu hệ thống cơ quan đại diện (trung ương và địa phương) ở nước ta được tổ chức và hoạt động từ năm 1946 - 1992. Qua nghiên cứu, đánh giá, luận án khẳng định dân chủ đại diện là phương thức chủ yếu và quan trọng để thực hiện dân chủ XHCN ở Việt Nam. Luận án đã: Phân tích một cách hệ thống cấu trúc của khái niệm dân chủ (với tính cách là một hình thức nhà nước). Xác định và luận chứng những khía cạnh bức xúc nhất trong đổi mới cơ cấu và tiêu chuẩn của đại biểu nước ta hiện nay. Về cơ cấu, luận án xác định tỷ lệ đảng viên, những người giữ cương vị chủ chốt trong bộ máy hành pháp, các chuyên gia trên các lĩnh vực. Về tiêu chuẩn, khẳng định yếu tố trí tuệ là phẩm chất hàng đầu của người đại biểu. Xác định bước đổi mới cơ quan đại diện (Quốc hội) hiện nay là bước quá độ nhằm chuyển Quốc hội sang hoạt động thường xuyên. Điều đó được thể
  • 14. 9 hiện trong việc đổi mới các cơ quan của Quốc hội; ở “liều lượng” hoạt động thường xuyên của các Ủy ban, của ĐBQH, ở thời gian làm việc mỗi kỳ họp. Cũng theo lập luận của tác giả, chế độ dân chủ đại diện XHCN ra đời gắn liền với nguyên tắc thống nhất quyền lực. Thống nhất quyền lực là nguyên tắc tổ chức nhà nước phủ định biện chứng nguyên tắc phân quyền, do vậy một mặt khắc phục những nhược điểm của nguyên tắc phân quyền, mặt khác kế thừa những yếu tố hợp lý của nguyên tắc này. Trên tinh thần đó, tác giả nhận thức về vị trí của cơ quan đại diện (Quốc hội) như sau: Một là, trong chủ nghĩa xã hội, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân, ở đây có sự thống nhất giữa quyền lực chính trị (quyền lực của giai cấp công nhân) với quyền lực nhà nước (quyền lực chung của cả cộng đồng). Hai là, quyền lực Nhân dân được thực hiện bằng chế độ đại diện, cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân (Quốc hội), được Nhân dân ủy thác quyền lực, do đó có vị trí toàn quyền đối với các cơ quan nhà nước khác và đại diện tối cao của xã hội. Các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được coi là ba bộ phận của một quyền lực thống nhất thuộc về Quốc hội. Ba là, do đặc điểm về cấu tạo tổ chức và phương thức hoạt động, Quốc hội không trực tiếp thực hiện được các quyền hành pháp, tư pháp (các quyền này do Chính phủ và cơ quan kiểm sát, xét xử thực hiện). Để bảo đảm được vị trí toàn quyền, Quốc hội định cho nó các thẩm quyền chi phối các cơ quan hành pháp, tư pháp trong Hiến pháp. Với việc chỉ ra vị trí toàn quyền của Quốc hội và lý giải nguồn gốc vị trí ấy, luận án của Chu Văn Thành đã khẳng định quyền lực tối cao của Quốc hội. Tuy nhiên, luận án dừng lại ở đây, không đi vào nghiên cứu các điều kiện đảm bảo cho Quốc hội giữ được vị trí đó. Đặc biệt không chỉ ra các cơ chế kiểm soát quyền lực, điều này có khả năng dẫn tới tính “siêu quyền” của chủ thể Quốc hội trong BMNN. Đây là điểm mà các tác giả sau này cần phát triển và làm rõ khi nghiên cứu về Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân nhưng không phải là thiết chế đứng trên Nhân dân. Cùng với quyền lập pháp, các quyền hành pháp, tư pháp là bộ phận cấu thành quyền lực Nhân dân, không quyền nào phái sinh ra quyền nào.
  • 15. 10 Nhóm bài viết về tính đại diện của Quốc hội Việt Nam đăng trên các tạp chí như: “Quốc hội Việt Nam - những vấn đề chuyển sang Nghị viện” của Nguyễn Cảnh Hợp [43]; “Bàn về tính đại diện nhân dân của Quốc hội” của Nguyễn Quang Minh [66]; “Để mãi mãi xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân” của Nguyễn Văn An [1]; “Các mô hình Quốc hội” của Nguyễn Đăng Dung [12]; “Phát huy vai trò đại diện nhân dân của đại biểu Quốc hội trong hoạt động lập pháp” của Trần Ngọc Đường [33] ; “Tiêu chí và yếu tố bảo đảm hiệu quả tính đại diện của Quốc hội” của Vũ Văn Nhiêm [70], “Dân chủ đại diện và vấn đề bầu cử” của Trần Nho Thìn [95] … Có thể nhận định, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề đại diện của Quốc hội trên một số khía cạnh cụ thể, nhưng chưa mang tính hệ thống. Tuy nhiên đều là những tư liệu tham khảo có giá trị cho luận án. 1.1.1.2. Các đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội Như đề dẫn ở đầu chương, Quốc hội là đề tài được nghiên cứu sâu rộng cả ở trong và ngoài nước. Bên cạnh việc nghiên cứu vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổ chức BMNN thì việc nghiên cứu các bảo đảm, các hình thức thực thi đại diện của Quốc hội cũng được các tác giả đề cập đến qua một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Luận án tiến sĩ “Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” của Đỗ Trung Hiếu [42] đã nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước với dân chủ; những yếu tố quy định hiệu quả tác động của nhà nước ta đối với quá trình xây dựng nền dân chủ hiện nay. Không nghiên cứu trực tiếp về Quốc hội, nhưng trong chương 1, luận án nghiên cứu về lý luận dân chủ, việc xây dựng nền dân chủ gián tiếp ở Việt Nam với vai trò của nhà nước XHCN. Từ đó khẳng định: i) Dân chủ hóa nhà nước là một tính quy luật trong lịch sử tồn tại, phát triển nhà nước; ii) NNPQ XHCN là động lực thúc đẩy quá trình dân chủ; iii) Dưới tác động của xu hướng dân chủ trên thế giới, áp lực của toàn cầu hóa, đại diện gián tiếp của nền dân chủ truyền thống dần dần bị thay thế bởi tính trực tiếp trong việc thực hiện quyền lực Nhân dân.
  • 16. 11 Tuy mã ngành nghiên cứu là triết học, nhưng đây là công trình giúp cho luận án tham khảo các quan điểm về vai trò của NNPQ XHCN đối với tiến trình dân chủ hóa ở Việt Nam, cũng như xu hướng mở rộng dân chủ trực tiếp trong một số nội dung quản lý nhà nước cụ thể. Từ đó xây dựng ý tưởng về một trong các điều kiện đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, đó là: dân chủ, pháp quyền và xã hội công dân. Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Trương Thị Hồng Hà [36] đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu về chức năng giám sát của Quốc hội với ba nội dung: i) Cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội; ii) Thực trạng của cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội; iii) Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội. Luận án phản ánh một cách toàn diện về hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong những năm qua, có so sánh đối chiếu với hoạt động giám sát của Quốc hội một số nước trên thế giới. Trong phạm vi đề tài “Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân …” của mình, có thể tham khảo kết quả nghiên cứu ở hai nội dung: các biểu hiện của tính đại diện Quốc hội (trong phần lý luận), và thực trạng của cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội. Luận án tiến sĩ “Đảm bảo tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Minh Hiếu [41] đã xây dựng các yếu tố đảm bảo tính đại diện Quốc hội Việt Nam xét theo cấu trúc đại diện bao gồm: i) Các yếu tố đảm bảo tính đại diện trong cách thức hình thành mối quan hệ đại diện: nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, nguyên tắc bình đẳng, nhiệm kỳ của các ĐBQH; ii) Các yếu tố đảm bảo tính tương đồng giữa các ĐBQH với cử tri; iii) Các yếu tố đảm bảo năng lực đại diện của ĐBQH như chất lượng đại biểu, mối quan hệ giữa cử tri với các ĐBQH; iv) Các yếu tố đảm bảo nội dung đại diện: sự lắng nghe của ĐBQH, việc đảm bảo quyền tự do xét đoán của đại biểu, bảo đảm phản ánh ý chí chung của xã hội.
  • 17. 12 Đây là những quan điểm khoa học có ý nghĩa khi nghiên cứu cấu trúc của tính đại diện của Quốc hội. Đồng thời luận án cũng là công trình dày công nghiên cứu, phong phú về số liệu hoạt động thực tiễn của Quốc hội Việt Nam, có nghĩa gợi mở cho các nhà nghiên cứu sau này. Tuy nhiên, bên cạnh các điều kiện đảm bảo tính đại diện của Quốc hội về cấu trúc bên trong như ở trên đã diễn giải, luận án chưa đề cập đến các điều kiện bảo đảm (bên ngoài) như: sự ổn định chính trị (Đảng cầm quyền), điều kiện dân trí, dân sinh … và chưa chỉ ra được các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội Việt Nam. Đây là hướng đi mới của luận án . Liên quan đến việc xây dựng chế độ bầu cử, có nhiều đầu sách chuyên khảo như: “Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới” của Nguyễn Hồng Anh [2]; “Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp - Lý thuyết và hiện đại” của Lưu Văn Quảng [74]; “Một số vấn đề về hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Thị Loan [54]. Đây là những tài liệu không trực tiếp nghiên cứu về đại diện của Quốc hội, song đều gián tiếp khẳng định thiết chế bầu cử khoa học, minh bạch là một trong các điều kiện đảm bảo tính chất đại diện, dân chủ của Quốc hội. 1.1.1.3. Thực trạng đảm bảo đại diện và các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội Cuốn “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay” của Lê Minh Thông [97]. Cuốn sách là công trình nghiên cứu đồ sộ, bao quát nhiều nội dung từ yêu cầu đổi mới BMNN Việt Nam, khảo cứu quá trình đổi mới mô hình BMNN từ năm 1946 đến nay, đánh giá thực trạng mô hình và phương hướng đổi mới mô hình BMNN. Trong đó, tác giả có đề cập (không tập trung) đến tính chất đại diện của Quốc hội khi nghiên cứu mô hình Quốc hội trong lịch sử lập hiến Việt Nam; trong xác lập mối quan hệ giữa nhà nước và Đảng cầm quyền, khắc phục nguy cơ Đảng bao biện, làm thay nhà nước hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nước, từ đó ảnh hưởng đến sự ủy quyền của Nhân dân trong điều kiện lịch sử của nước ta.
  • 18. 13 Luận án tiến sĩ Luật học “Chế độ bầu cử ở nước ta: những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Vũ Văn Nhiêm [69], có thể nói đây là một công trình nghiên cứu khá sâu về lý luận, phong phú về thực tiễn của hoạt động bầu cử tại Việt Nam hiện nay. Trong việc phân tích thực trạng, tác giả khảo sát và chỉ ra những bất cập của chế độ bầu cử hiện nay như: sự chưa bình đẳng trong cách phân chia đơn vị bầu cử/số dân giữa các đô thị lớn; quy trình hiệp thương còn mang tính hình thức; những rào cản đối với người tự ứng cử, những người thuộc diện trung ương giới thiệu về địa phương ứng cử. Trên cơ sở đó, tác giả Vũ Văn Nhiêm đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới chế độ bầu cử, phát huy dân chủ ở Việt Nam. Có thể nhận định, đây là một công trình nghiên cứu về đảm bảo tính đại diện của Quốc hội thông qua việc xây dựng chế độ bầu cử dân chủ, khoa học. Tuy nhiên, vì giới hạn nghiên cứu ở thể chế bầu cử, luận án không bàn đến các điều kiện đảm bảo khác cho tính đại diện cao nhất của Quốc hội như: cơ cấu tổ chức của Quốc hội, cơ chế giám sát quyền lực cao nhất của Quốc hội hay các điều kiện đảm bảo về chính trị, về cơ sở vật chất. Đây chính là một nội dung nghiên cứu mới mà luận án: Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân - những vấn đề lý luận và thực tiễn cần làm rõ. 1.1.1.4. Các giải pháp phát huy vai trò của Quốc hội với tính chất là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Cuốn “Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền” của Nguyễn Đăng Dung [14], tác giả tập trung phân tích những yêu cầu của Quốc hội theo tiêu chí của mô hình NNPQ. Trong phần lý luận và những giải pháp, tác giả lập luận và đưa ra những giải pháp để Quốc hội thực hiện được tính đại diện thông qua cơ chế ủy thác từ Nhân dân. Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Quang Hương [48], tác giả chỉ tập trung đánh giá thực trạng hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu qua các số liệu hoạt động của Quốc hội khóa X, XI. Những vấn đề lý luận đại diện, cơ sở pháp lý của nâng cao năng lực đại diện, tiêu chí đánh giá năng lực đại biểu dân cử còn chung chung, mang tính khái lược.
  • 19. 14 Tuy vậy, đây là công trình có ý nghĩa cho việc nghiên cứu về Quốc hội khi đã đưa ra giải pháp nâng cao năng lực đại diện của ĐBQH (lựa chọn đại biểu xứng đáng, đẩy mạnh hoạt động bồi dưỡng đại biểu dân cử, có phụ cấp phù hợp, tương xứng, …). 1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài Trên thế giới, có không ít công trình nghiên cứu về dân chủ đại diện, đại diện chính trị hay luận sâu về Chính phủ đại diện. Nhưng ở góc độ trực tiếp bàn về đại diện Quốc hội có phần hạn chế hơn. Tuy nhiên có một số tác phẩm tiêu biểu sau: Cuốn “The Concept of Representation” (Khái niệm đại diện) của học giả Hana Pitkin [135], đây là công trình nghiên cứu toàn diện nhất về khái niệm đại diện chính trị. Lần đầu tiên, vấn đề đại diện được Pitkin xác định qua bốn góc nhìn về đại diện đó là: đại diện hình thức, đại diện biểu tượng, đại diện đồng dạng và đại diện nội dung. Mỗi một góc nhìn cung cấp một cách tiếp nhận khác nhau về đại diện, những tiêu chuẩn khác nhau về việc đánh giá những người đại diện. Đàm luận cổ điển này của khái niệm đại diện là một trong những nghiên cứu có sức ảnh hưởng và thường được trích dẫn trong lý luận về đại diện Quốc hội sau này. Người đọc có thể tìm thấy khái niệm đại diện chính trị của Hana Pitkin được trích dẫn phổ biến trong nhiều bài viết khác, cũng như soi lý thuyết đại diện của Bà vào thực tế Quốc hội của mỗi nước, trong đó có Việt Nam. Cuốn “Parliaments and Citizens in Western Europe” (Các Nghị viện và công dân ở Tây Âu) của Philip Norton [138], cuốn sách bàn trực tiếp cơ chế đại diện, phạm vi đại diện thông qua mối quan hệ giữa Nghị viện và công dân tại các nước Tây Âu. Từ việc phân tích bản chất, mức độ mối quan hệ giữa nghị sĩ và cử tri, cuốn sách đề cập đến đảm bảo để Nghị viện đại diện tốt nhất cho người dân ở các nước Tây Âu. Học giả Việt Nam có thể đọc và liên hệ đến thực trạng giữ mối liên hệ giữa ĐBQH và cử tri tại các đơn vị bầu cử đã bầu ra đại diện của họ, từ đó đưa ra các giải pháp gắn kết mối quan hệ này, đảm bảo cho tiếng nói của nhà đại diện là tiếng nói của cử tri.
  • 20. 15 Cuốn “Political Representation” (Đại diện chính trị) của Ian Shapiro [137], đây là tập hợp các công trình nghiên cứu về tiến trình phát triển đại diện chính trị qua ba cấp độ: trước khi hình thành nền dân chủ đại diện, lý luận dân chủ đại diện và thực tiễn đại diện chính trị hiện nay. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một góc nhìn về quá trình phát triển đi lên của đại diện chính trị trên thế giới. Cuốn “Representation And Institutional Design” (Đại diện và thiết kế thể chế) của Rebekah L. Herrick [140], giới hạn trong phạm vi Nghị viện liên bang Hoa kỳ và một số Nghị viện tiểu bang, tác giả phân tích những tác động, vai trò của việc xây dựng thiết chế đại diện đối với Nghị viện. Công trình cũng đi sâu phân tích các quy định thực định về bầu cử, cơ cấu, tổ chức, nhiệm kỳ của Nghị viện và mối quan hệ của chúng trong việc bảo đảm tính đại diện của Nghị viện Hoa Kỳ. 1.2. NHẬN XÉT VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TIẾP TỤC ĐƢỢC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN 1.2.1. Nhận xét về các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án 1.2.1.1. Xét trên phương diện lý luận đại diện, đại diện Quốc hội Dựa trên nghiên cứu của các đại biểu tiêu biểu thời kỳ cận hiện đại như T.Hobbes (1588 - 1679), Jlock (1632 - 1704), Motespueau (1689 - 1755), JJ. Rousseaus (1712 - 1778) … về nguồn gốc quyền lực, về cơ chế đại diện cho quyền lực Nhân dân (hay còn gọi là giới hạn của sự ủy quyền, phạm vi đại diện, hình thức đại diện), các công trình nghiên cứu của các tác giả tập trung luận giải những vấn đề sau: i) Khẳng định Quốc hội là thiết chế đại diện cần thiết để thực thi quyền lực Nhân dân trong quản lý xã hội. Phân tích, luận giải đại diện là chức năng hay thuộc tính vốn có của Quốc hội; ii) Các yếu tố đảm bảo, các hình thức thể hiện đại diện Quốc hội. Trên cơ sở các quy định pháp lý trong Hiến pháp và luật về tổ chức BMNN, nhiều tác giả có chung quan điểm khi khẳng định Quốc hội là thiết chế thực thi đại diện hữu hiệu, đảm bảo quyền lực Nhân dân trong điều hành quản lý xã hội. Khẳng định vai trò của Quốc hội trong hệ thống tổ chức quyền
  • 21. 16 lực chính trị và tổ chức quyền lực nhà nước, là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Điều đó là do các yếu tố sau quyết định: Một là, do cách thức thành lập: Quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, theo nguyên tắc phổ thống, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Thông qua bầu cử, “Nhân dân ủy thác quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội. Quốc hội đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân cả nước, thay mặt Nhân dân cả nước quyết định các công việc trọng đại của đất nước và chịu trách nhiệm trước Nhân dân cả nước” [32, tr.30]. Hai là, về cơ cấu tổ chức, Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện cho các thành phần, tầng lớp trong xã hội, là hình ảnh thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân, đại diện cho trí tuệ của đất nước. Ở góc độ phân tích này, rất nhiều tác giả đồng tình rằng, không nên máy móc, xơ cứng về cơ cấu thành phần, không nên quan niệm phải có tỷ lệ tương ứng giữa cơ cấu ngành nghề, dân tộc, vùng miền trong trong xã hội và trong cơ quan đại diện. Điều đó sẽ cản trở quá trình nâng cao chất lượng cơ quan đại diện trong điều kiện ở Việt Nam, khi tỷ lệ dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm số lượng lớn so với các ngành nghề khác. Ba là, về chức năng nhiệm vụ: chỉ Quốc hội mới được hiến định các quyền năng cơ bản như lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước. Những hoạt động này nhằm phục vụ cho lợi ích chung của Nhân dân, nói tiếng nói của Nhân dân. Bốn là, với nguyên tắc hoạt động tập thể, biểu quyết theo đa số, các quyết định của Quốc hội là ý chí và hành động của số đông. Mỗi đại biểu không chỉ đại diện cử tri bầu ra mình, mà còn đại diện cho cử tri cả nước. Điều này khẳng định tính chất đại diện cao nhất của Quốc hội trong BMNN so với các cơ quan đại diện khác của Việt Nam. Về khái niệm đại diện, đại diện Quốc hội: Đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài, lý luận đại diện được thừa nhận, kế thừa từ lý thuyết về chủ quyền Nhân dân của Jacques Rousseau trong tác phẩm Bàn về Khế ước xã hội. Tuy nhiên không phải lúc nào, Nhân dân cũng có thể tự mình thực hành dân chủ trực tiếp do nhiều yếu tố như: năng lực, nhu cầu, thời gian, … Vì vậy
  • 22. 17 lý thuyết về dân chủ đại diện là giải pháp hữu hiệu khắc phục những hạn chế của hình thức dân chủ trực tiếp. Bắt đầu từ thế kỷ XVIII, XIX, đặc biệt là sau các cuộc cách mạng tư sản, nhiều học giả nổi tiếng đã nghiên cứu sâu về đại diện Quốc hội như là cách thức tìm ra một thiết chế dân chủ, minh bạch nhất trong bảo vệ và thực thi quyền lực Nhân dân, tiêu biểu như Emmanuel Sieyes, John Stuart Mill, James Madison. Bước vào thời kỳ hiện đại, đại diện Quốc hội nghiên cứu độc lập trong một số tác phẩm như: “The Concept of Representation” (Khái niệm đại diện), của Hana Pitkin; “Parliaments and Citizens in Western Europe” (Các Nghị viện và công dân ở Tây Âu) của Philip Norton; “Political Representation” (Đại diện chính trị) của Ian Shapiro, hay “Representation And Institutional Design” (Đại diện và thiết kế thể chế) của Rebekah L. Herrick… Các tác giả đã có sự nhận diện về đại diện chính trị như là các hoạt động làm cho tiếng nói, các ý kiến và các quan điểm của người dân được thể hiện trong quy trình xây dựng chính sách. Điển hình như Hana Pitkin đã nghiên cứu đại diện dưới các góc độ: Đại diện hình thức liên quan nhiều đến việc sắp xếp các thiết chế để từ đó tạo ra tính đại diện và thứ bậc đại diện. Hình thức này bao gồm việc trao quyền hay hợp pháp hóa (là cơ chế theo đó người đại diện nhận được vị trí hoặc quyền lực của mình) và tính chịu trách nhiệm (là khả năng của người trao quyền có thể trừng phạt người đại diện do không thực hiện được những mong muốn của người trao quyền hoặc không tích cực thực hiện nhiệm vụ đại diện được giao). Đại diện biểu tượng hình thành dựa vào cách thức mà các nhà đại diện “thay mặt” cho những người trao quyền, do vậy có ý nghĩa đặc biệt đối với người được đại diện. Tiêu chí đánh giá tính chất đại diện biểu tượng là mức độ chấp nhận của những người được đại diện (cử tri) đối với người đại diện (Nghị sỹ). Đại diện đồng dạng liên quan đến mức độ tương đồng giữa người đại diện và người được đại diện. Ví dụ như các điểm chung về năng lực và kinh nghiệm. Những người đại diện đồng dạng thường xuất hiện trong một số lĩnh vực riêng biệt và thường được trông chờ là người đại diện cho cả lĩnh vực đó.
  • 23. 18 Đại diện nội dung liên quan đến các hoạt động do người đại diện thực hiện trên thực tế thay mặt cho người được đại diện. Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng nhất đối với mục đích của việc nghiên cứu bởi nó hướng sự chú ý đến những nội dung mà người lãnh đạo phải thực hiện sau khi trúng cử. Đại diện nội dung liên quan nhiều hơn đến các hoạt động về chính sách và kết qủa của chính sách với những tác động rất lớn đến những người đã ủy quyền [118, tr.20-21]. Ở một góc nhìn khác khi nghiên cứu giới hạn đại diện, trong tác phẩm “The Federalist with the Letter of Brutus” (Người liên bang với bức thư của Brutus), Jame Madison đưa ra quan niệm người đại diện là đại diện thay mặt, họ chỉ đơn giản tuân thủ những ưu tiên mà cử tri đã sắp xếp [127]. Còn Edmund Burke thì lập luận những người đại biểu Nhân dân là những người đại diện ủy thác, họ đưa ra các quyết định dựa trên kiến thức và sự phán xét riêng của mình. Do vậy, giữa hai đại biểu trên, lý luận về đại diện có sự mâu thuẫn nhất định. Tuy nhiên, theo Hana Pitkin, cần phải duy trì những điểm trái ngược này. Những bất đồng về đại diện có thể được điều hòa một phần bằng việc làm rõ góc nhìn nào về đại diện đang được viện dẫn. Pitkin xác định ra bốn góc nhìn về đại diện ở trên chính là cung cấp những cách tiếp nhận khác nhau về đại diện, những tiêu chuẩn khác nhau về việc đánh giá những người đại diện. Bà cũng cho rằng những bất đồng về việc những người đại diện phải làm gì bị làm trầm trọng hơn bởi một thực tế mà con người chấp nhận góc nhìn sai về đại diện hay áp dụng sai những tiêu chuẩn về đại diện. Có thể nói, hệ thống những quan điểm của Hana Pitkin vừa mang tính kế thừa các quan điểm của các nhà triết học, chính trị, pháp lý nổi tiếng, vừa có cái nhìn mới, sâu sắc và toàn diện về đại diện chính trị. Đây là những cơ sở lý thuyết (chưa được Hana Pitkin kiểm nghiệm trên thực tế) về đại diện, đại diện Quốc hội cho các học giả phát triển tùy thuộc vào đặc điểm văn hóa chính trị, thể chế pháp lý của mỗi quốc gia khi nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội. Các đại biểu như Philip Norton, Ian Shapiro, Rebekah L. Herrick bắt nhịp xu hướng mới của thời đại, trong điều kiện các giá trị dân chủ ngày càng
  • 24. 19 nâng cao và đảm bảo thực hiện đã thể hiện trong trong các tác phẩm của mình một cách sâu sắc những vấn đề mới như cơ chế đại diện, phạm vi, mối quan hệ giữa nghị sĩ và cử tri, những tác động của thiết chế bầu cử đối với đại diện Quốc hội, mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Quốc hội. Tuy nhiên các nghiên cứu này chỉ dừng lại phạm vi của một nước hay khu vực mà tác giả khảo cứu chưa mang tính lý thuyết toàn cầu. Ngoài các công trình, bài viết kể trên, còn rất nhiều ấn phẩm của các học giả nước ngoài từ cổ đại tới đương đại bàn đến dân chủ đại diện. Không viết trực tiếp về đại diện Quốc hội, nhưng trong các tác phẩm này khi bàn về lý luận nhà nước, nguồn gốc quyền lực, chủ quyền Nhân dân, tổ chức BMNN hay cơ chế phân quyền, người đọc có thể tiếp thu các lý luận về chủ quyền tối cao của Nhân dân, vị trí Quốc hội, cơ chế trao quyền. Điều này giúp tác giả có thể tham khảo, kế thừa, tiếp thu các giá trị phù hợp với quan điểm chính trị ở Việt Nam hiện nay và thể hiện thông qua phần đánh giá chung kết quả các công trình nghiên cứu trong 1.3. Đối với các nhà khoa học trong nước, vấn đề đại diện được nghiên cứu là tính chất, là chức năng hay thuộc tính của Quốc hội. Từ đó luận giải về vị trí, vai trò và cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội cho phù hợp. Các tác giả Bùi Xuân Đức, Nguyễn Sỹ Dũng, Nguyễn Đăng Dung đi theo hướng nghiên cứu khai thác và lập luận cho rằng, đại diện là một chức năng hoặc cần phải quy định là một chức năng của Quốc hội. Trong bài viết “Nhận thức về chức năng đại diện và thực hiện chức năng đại diện của Quốc hội Việt Nam”, tác giả Bùi Xuân Đức đã luận giải: Cả trong bốn bản Hiến pháp của Việt Nam đều không nói đến chức năng đại diện của Quốc hội. Song “sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của cử tri, theo ủy nhiệm của họ” thì “đại diện là chức năng có ý nghĩa trực diện của Quốc hội trước cử tri đã bầu ra mình” [35]. Tuy nhiên khi phân tích sự thể hiện và thực hiện chức năng đại diện của Quốc hội Việt Nam, tác giả chỉ ra cơ cấu đại biểu rộng rãi, tính quyền lực cao nhất của Quốc hội, đồng thời cho rằng chức năng đại diện thể hiện qua các mặt hoạt động như: i) Sự phản ánh, thể hiện ý chí và nguyện vọng của cử tri
  • 25. 20 trong hoạt động của Quốc hội; ii) Qua hoạt động tiếp xúc cử tri, lắng nghe ý kiến của dân, phản ánh tâm tư nguyện vọng của dân, góp phần giải quyết các bức xúc của dân tại địa phương; iii) Chịu trách nhiệm và sự giám sát của dân. Tác giả Nguyễn Đăng Dung trong bài viết: “Suy nghĩ về những tiêu chí Quốc hội Việt Nam là đại diện của nhân dân Việt Nam” [118, tr.311] cho rằng: “chức năng đại diện như là một trong những chức năng quyết định sự tồn tại và phát triển của Quốc hội. Mọi cơ cấu, mọi nhiệm vụ của Quốc hội đều có điểm xuất phát từ chức năng đại diện của mình”. Theo chiều hướng nghiên cứu đại diện là một thuộc tính của Quốc hội có các nhà khoa học như: Tác giả Lê Minh Thông, Lương Minh Tuân. Nhóm các tác giả này khẳng định rằng, đại diện là một thuộc tính chi phối tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Tác giả Trần Ngọc Đường trong nhiều công trình nghiên cứu của mình cũng cho rằng, đây là bản chất của Quốc hội xuất phát từ bản chất nhà nước ta; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân. Bản chất ấy được thể hiện rõ ràng, cụ thể qua ba chức năng lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề cơ bản. Do vậy, cũng theo tác giả này trong một chừng mực đó, tính đại diện trùng với tính đại biểu của Nhân dân. Tuy góc độ nghiên cứu còn khác biệt, song các tác giả đều thống nhất những vấn đề cơ bản sau: Một là, khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa và sự cần thiết phải hiến định tính đại diện của Quốc hội. Hai là, dù nhận định là thuộc tính, là bản chất hay là chức năng thì “đại diện” là vấn đề quan trọng chi phối tới tổ chức, cơ chế hoạt động của Quốc hội, là vấn đề cần được bảo đảm thực hiện trên thực tế để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. Ba là, tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu của từng người, các tác giả bước đầu đưa ra các quan điểm, nhận định về một số vấn đề riêng lẻ như: Hiến định nguyên tắc tự do bầu cử, nhận diện mức độ đại diện, xây dựng các tiêu chí đánh giá Quốc hội Việt Nam là đại diện của Nhân dân Việt Nam, xác lập các yếu tố đảm bảo tính đại diện của Quốc hội. Đây thực sự là những tư tưởng định hướng cho xu hướng nghiên cứu đề tài của tác giả.
  • 26. 21 Bên cạnh các nhà nghiên cứu Việt Nam, trong Hội thảo: “Chức năng đại diện của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền” [118, tr.311], hệ thống tham luận, bài viết của các tác giả nước ngoài đã đóng góp nhiều quan điểm, so sánh những điểm tương đồng, những nét riêng trong nhận thức và pháp luật về chức năng đại diện của Quốc hội/Nghị viện ở một số nước. Một số tham luận chuyên sâu như “Measuring the degrees of representation in Indonesia” (Đo mức độ đại diện ở In-đô-nê-xi-a) của Bà Bivitri Susanti cho rằng: đại diện là một trong ba vai trò của Nghị viện và thật khó có thể xác định vai trò đại diện của Nghị viện vì các Nghị viện thường được xem xét thông qua các sản phẩm hữu hình được tạo ra từ vai trò lập pháp và giám sát. Cho đến nay cũng chưa có một khuôn khổ hoặc tiêu chuẩn nào được đưa ra để ghi nhận chức năng đại diện của Quốc hội In-đô-nê-xi-a. Tham luận của đại biểu đến từ Phi-lip-pin lại khẳng định, chức năng đại diện của Nghị viện được đề cập đến trong Hiến pháp và được thể hiện trên ba nội dung: đại diện trong quy trình lập pháp; trong quy trình giám sát và trong hoạch định chính sách ở cấp độ quốc gia. Một số bài viết của các đại biểu Thái Lan, Ấn Độ, Đức lại chỉ ra rằng, dù Hiến pháp không trực tiếp quy định Quốc hội có chức năng đại diện, nhưng đây thực sự là những cơ quan mang bản chất đại diện Nhân dân thông qua việc hiến định nguyên tắc: quyền lực nhà nước bắt nguồn từ Nhân dân (Điều 20, Hiến pháp Đức) [118, tr.240], hay chỉ rõ “các thành viên của Thượng viện, Hạ viện là đại diện của người Thái và thực hiện một cách trung thực các bổn phận vì lợi ích chung của người Thái” (Điều 149, Hiến pháp Thái Lan năm 1997) [118, tr.126] … Như vậy, tùy thuộc vào đặc thù thể chế chính trị của mỗi nước mà các tham luận trình bày, so sánh đối chiếu quan điểm về đại diện là chức năng, vai trò hay là nguyên tắc hoạt động của Quốc hội; lý giải sự cần thiết hay không cần thiết hiến định cũng như các điều kiện bảo đảm chức năng đại diện của Quốc hội trên thực tế. Theo tác giả, đây là những quan điểm làm cơ sở cho việc so sánh, đối chiếu, và tham khảo học tập kinh nghiệm khi xác lập tính đại diện của một số mô hình Quốc hội trên thế giới.
  • 27. 22 1.2.1.2. Về các yếu tố bảo đảm, các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội Trong bài viết: “Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện của Quốc hội”của Trần Thị Hạnh Dung [15], đã liệt kê các yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện như: Các đại biểu phải được bầu trực tiếp, tự do, bình đẳng thông qua bầu cử phổ thông và bỏ phiếu kín; Nhiệm kỳ của các đại diện không nên quá dài; Tần suất hoạt động của Quốc hội; Các đại biểu hoạt động chuyên trách và giữ mối quan hệ với cử tri; Sự trung thành của đại biểu đối với cử tri trước các nhóm lợi ích khác nhau; Nguồn lực đảm bảo cho các đại biểu hoạt động; Tính đại diện đa dạng trong Quốc hội; Cơ chế dân chủ trực tiếp; Sự kiểm soát, chế ngự quyền lực của cơ quan đại diện. Nghiên cứu sâu ở góc độ xây dựng thiết chế bầu cử, đảm bảo tính đại diện của Quốc hội, tác giả Vũ Văn Nhiêm trong luận án tiến sĩ và trên một số bài viết của mình đưa ra các yếu tố đảm bảo tính đại diện Quốc hội bao gồm: i) Đại diện theo đảng phái; ii) Đảm bảo sự bình đẳng và cơ hội như nhau cho các đại biểu; iii) Đảm bảo tỷ lệ đại diện cho các tầng lớp thế yếu trong xã hội [70, tr.22]. Tác giả Lê Minh Thông trong nghiên cứu của mình cũng chỉ ra bốn yếu tố đảm bảo đại diện Quốc hội là: cơ cấu đại biểu trong mỗi khóa; mô hình một viện; chất lượng đại biểu; trách nhiệm của đại biểu trước cử tri [118, tr.226-238]. Một số tác giả không trực diện nghiên cứu về điều kiện đảm bảo tính đại diện của Quốc hội, nhưng chỉ ra các yếu tố tác động tới hiệu quả hoạt động của Quốc hội mà việc nghiên cứu nó có tác dụng đảm bảo, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan đại diện. Tác giả Bùi Ngọc Thanh, khi nghiên cứu về điều kiện hoạt động của ĐBQH cũng chỉ ra rằng: “… để thực hiện được trọng trách đó, ĐBQH rất cần phải có những điều kiện nhất định trong quá trình hoạt động”, đó là: “Nhóm điều kiện do luật định”; “Nhóm điều kiện của bản thân đại biểu”; “Nhóm điều kiện về các phương tiện hoạt động hàng ngày” [90, tr.104]. Tác giả Đặng Đình Luyến chỉ ra năm vấn đề tác động đó là: i) Năng lực, trình độ của đại biểu; ii) Các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH; iii) Đại biểu tham gia các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan
  • 28. 23 Quốc hội; iv) Sự quan tâm, đánh giá của cử tri; v) Các điều kiện đảm bảo hoạt động (chuyên trách, lương, phụ cấp) [56]. Trong một nghiên cứu mang tính hệ thống gần đây, dựa trên quan điểm lý thuyết của Hana Pitkin khi nghiên cứu đại diện chính trị, tác giả Hoàng Minh Hiếu lại đưa các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN gồm: i) Các yếu tố bảo đảm tính đại diện trong cách thức hình thành mối quan hệ đại diện; ii) Các yếu tố bảo đảm tính tương đồng giữa ĐBQH và cử tri; iii) Các yếu tố bảo đảm năng lực đại diện của ĐBQH; iv) Các yếu tố bảo đảm nội dung đại diện [41]. Đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài, trong các công trình khảo cứu trên cũng đề cập đến các điều kiện đảm bảo tính đại diện Quốc hội như tính đảng phái chính trị; nghị sĩ bầu cử trực tiếp, tự do, bình đẳng, phổ thông và kín; mối quan hệ thường xuyên giữa nghị sĩ và cử tri; nghị sĩ là chuyên trách; trong trường hợp có xung đột với đảng phái của mình, các nghị sĩ phải có chính kiến; các nguồn lực hỗ trợ [118, tr.241-247]; Như vậy, các điều kiện bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đã được nhiều tác giả đề cập, xem xét đến khi bàn về hiệu quả hoạt động của Quốc hội, song chưa mang tính hệ thống, triết lý. Thường là sự liệt kê, nhiều khi có sự trùng lặp ngay trong một quan điểm, chưa phân biệt được các nhóm điều kiện trên các góc độ pháp lý, chính trị và thực tiễn. Về các hình thức thể hiện đại diện, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu. Tuy nhiên, trong khi đề cập đến tổ chức, hoạt động của Quốc hội, một số tác giả đưa ra các hình thức hoạt động như: kỳ họp, phiên họp của Quốc hội; hoạt động tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp; hoạt động tiếp nhận đơn thư khiếu nại tố cáo của người dân. Nhiều quan điểm cùng thống nhất, để “nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử” phải đề cao và nâng cao chất lượng của các hoạt động tiếp dân, tiếp nhận đơn thư, giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân [6, tr.67]. Tác giả Bùi Xuân Đức khi nghiên cứu về vấn đề này cũng chỉ ra các hình thức thực thi thông qua hoạt động đại diện của Quốc hội và các ĐBQH như: i) Sự phản
  • 29. 24 ánh, thể hiện ý chí và nguyện vọng của cử tri trong hoạt động của Quốc hội; ii) Trong hoạt động tiếp xúc cử tri, gần gũi, lắng nghe ý kiến, phản ánh tâm tư nguyện vọng, góp phần giải quyết các bức xúc của Nhân dân tại địa phương, cơ sở; iii) Chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm trước Nhân dân [35, tr.62]. Tác giả Trần Ngọc Đường cũng lập luận: Tính đại diện cao nhất của Nhân dân xuyên suốt quá trình thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước hay thước đo đánh giá Quốc hội thực quyền hay không thực quyền đó chính là khi thực hiện các chức năng của mình [33]. Cùng quan điểm trên tác giả Mai Hồng Quỳ khi bàn đến nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội cũng nghiên cứu ở các góc độ: hoạt động lập pháp; hoạt động quyết định ngân sách nhà nước và quyền giám sát tối cao của Quốc hội [78]. Tóm lại, khi nghiên cứu về các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội, chưa có công trình nào nghiên cứu trực diện mà thể hiện quan điểm gián tiếp qua việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Quốc hội, từ đó có ý nghĩa trong việc nâng cao hiệu quả của cơ quan dân cử tại Việt Nam. 1.2.1.3. Xét trên góc độ đánh giá thực trạng đại diện của Quốc hội Việt Nam Ở nội dung này, hầu hết các tác giả đều chưa đi sâu phân tích thực trạng đại diện của Quốc hội mà chủ yếu đánh giá thực trạng thực hiện từng chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Quốc hội theo luật định như: thực trạng hoạt động lập pháp, thực trạng hoạt động quyết định, thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội. Các công trình, bài viết tuy đa dạng, phong phú nhưng tựu trung các tác giả đều thống nhất những vấn đề sau: i) Trong thời gian qua, thực tiễn các hoạt động lập pháp, quyết định, giám sát tối cao của Quốc hội còn chưa hiệu quả, chưa tương xứng với vị trí hiến định của Quốc hội trong BMNN cũng như sự mong chờ của cử tri. Nhiều lúc, nhiều nơi, hoạt động của Quốc hội, các Ủy ban, các Ban, của ĐBQH còn mang tính hình thức.
  • 30. 25 ii) Tuy nhiên, việc nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của Quốc hội; sự thức tỉnh các giá trị dân chủ và lớn mạnh năng lực thực hành dân chủ của công dân; sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội đã khiến cho hoạt động lập pháp có những bước phát triển vượt bậc so với trước về cả số lượng và chất lượng; hoạt động quyết định đem lại những giá trị kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước; hoạt động giám sát hạn chế tính hình thức, chồng chéo, đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. iii) Đối với các điều kiện đảm bảo đại diện Quốc hội: thể chế bầu cử còn có những quy định chưa đảm bảo tính đại diện của Quốc hội; các quy định về phụ cấp, chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với tính chất công việc đa dạng, phức tạp của đại biểu; bộ máy giúp việc của Quốc hội mới thực hiện tốt chức năng phục vụ, chức năng tham mưu còn có những hạn chế nhất định. Đây là những khảo sát, nhận định có ý nghĩa thực tiễn để tác giả luận án so sánh, đối chiếu, đánh giá thực trạng đảm bảo, thực trạng các hình thức thể hiện đại diện của Quốc hội tại Chương 3. 1.2.1.4. Xét trên nội dung giải pháp nâng cao vai trò đại diện của Quốc hội Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết nghiên cứu về đổi mới tổ chức BMNN, đặc biệt là Quốc hội đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Nhiều tác giả khẳng định vì Quốc hội là cơ quan đại diện Nhân dân nên phải đảm bảo, tăng cường, phát huy tính đại diện trên tất cả các phương diện hoạt động của Quốc hội. Trong hoạt động lập pháp, “phải phát huy vai trò đại diện Nhân dân của ĐBQH” [33]; “phải bảo đảm tính Nhân dân, tính dân chủ trong hoạt động lập pháp”, coi trọng việc tổ chức lấy ý kiến các ngành, các cấp và ý kiến Nhân dân đối với các dự án luật, pháp lệnh [126] …
  • 31. 26 Trong hoạt động quyết định, phải bảo đảm quyền quyết định, phê chuẩn dự toán ngân sách nhà nước có ý nghĩa thực quyền, nâng cao khả năng kiểm soát thực tế của Quốc hội, ĐBQH trong thực thi quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước [96, tr.95]. Trong hoạt động giám sát tối cao, có nhà nghiên cứu lập luận, “Quốc hội trong quan hệ phân công quyền lực là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, nhưng về vị trí lại là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân. Do vậy, Quốc hội có quyền kiểm soát toàn bộ quá trình thực thi quyền lực nhà nước, kể cả quyền hành pháp và quyền xét xử” [96, tr.95-96]. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao thông qua việc ủy quyền cho các cơ quan, tổ chức thực hiện quyền này như UBTVQH, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan bảo hiến, tòa Hành chính [78]. Nhiều công trình đưa ra các giải pháp đảm bảo đại diện và thực thi đại diện như: - Tiếp tục đổi mới làm cho hoạt động của Quốc hội ngày càng thiết thực, hiệu quả, đáp ứng mong mỏi của cử tri và Nhân dân cả nước [1]. - Sửa đổi, bổ sung Luật Bầu cử ĐBQH, đảm bảo các nguyên tắc bầu cử đã được hiến định [70, tr.22-31]. - Đa dạng hóa và đổi mới các hình thức tiếp xúc cử tri, giữ mối liên hệ chặt chẽ với cử tri đảm bảo cho tiếng nói của đại biểu tại nghị trường là ý chí và nguyện vọng của công dân [4]. - Nâng cao chất lượng ĐBQH để làm tốt chức năng đại diện [35, tr.77]. - Hoàn thiện tổ chức và đổi mới nội dung hoạt động của các cơ quan chuyên môn của Quốc hội [87, tr.36], đảm bảo các điều kiện cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ với đại biểu và có cơ chế kiểm tra, giám sát đại biểu trong khi thực hiện nhiệm vụ dân cử. - Tăng cường sự lãnh đạo của ĐCS đối với nhà nước nói chung, đối với Quốc hội nói riêng trong bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân [80], đặc biệt đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử [82, tr.30-35].
  • 32. 27 1.2.2. Những nội dung đƣợc tiếp tục nghiên cứu trong luận án Như đã đề cập ở trên, các công trình nghiên cứu hiện có ở trong và ngoài nước đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin lớn và khá toàn diện về đại diện của Quốc hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Những tri thức, thông tin đó là tiền đề quan trọng để tác giả tiếp tục tìm hiểu, phân tích những vấn đề đặt ra trong luận án. Từ những đánh giá ở trên, những nội dung sau đây sẽ được luận án tiếp tục làm rõ: Một là, luận án tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận đại diện. Trong đó, luận án sẽ nghiên cứu để chỉ ra các khái niệm như: đại diện, đại diện chính trị, đại diện của Quốc hội… Đây là những khái niệm nền tảng, nếu nội hàm chưa được làm rõ sẽ khó xác định vị trí, vai trò đại diện cao nhất của Quốc hội trong BMNN. Vì vậy, trong luận án này sẽ phân tích và xác định nội hàm của những khái niệm quan trọng đã nêu. Hai là, luận án chỉ ra các hình thức thể hiện đại diện cao nhất của Quốc hội. Ba là, trên cơ sở các nghiên cứu tản mạn, chưa đầy đủ về điều kiện đảm bảo tính đại diện của Quốc hội, luận án chỉ ra hệ thống các điều kiện đảm bảo mang tính đồng bộ, tương hỗ lẫn nhau trong việc đảm bảo tính đại diện Nhân dân cao nhất của Quốc hội được xác lập trên các phương diện: chính trị, pháp lý, tổ chức, nhân sự. Bốn là, luận án khảo sát và đánh giá thực trạng thể hiện đại diện, các đảm bảo đại diện cao nhất đối với Quốc hội Việt Nam dựa trên phần lý luận đã được hệ thống, xây dựng. Năm là, chưa có một nghiên cứu nào chỉ ra tổng thể các quan điểm và giải pháp đảm bảo Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam trên cơ sở luận giải, đánh giá các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với vấn đề này. Vì vậy, luận án phân tích, xây dựng hệ thống quan điểm, đề xuất các giải pháp theo hướng xây dựng Quốc hội thực quyền, là thiết chế hữu hiệu để hiện thực hóa quyền lực Nhân dân.
  • 33. 28 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 Qua khảo sát tác giả nhận thấy, các nghiên cứu về Quốc hội rất đa dạng, phong phú, chủ yếu được khai thác sâu ở góc độ từng chức năng của Quốc hội. Nhiều công trình trong khi luận bàn về hoạt động của Quốc hội đều thống nhất ở các quan điểm phải đảm bảo nguyên tắc Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ chủ quyền Nhân dân. Từ việc thống nhất tính đại diện cao nhất của Quốc hội trong tổ chức BMNN Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu thực trạng đại diện Quốc hội thông qua các chức năng của Quốc hội. Đồng thời các tác giả đều có xu hướng đưa ra các giải pháp đảm bảo tính đại diện, tính thực quyền của Quốc hội trong thực thi quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, do chưa thống nhất về nhận thức lý luận, nên khi bàn đến đại diện, đại diện Quốc hội, các tác giả còn có sự tranh luận chưa thống nhất. Tương tự như vậy, khi phân tích các điều kiện đảm bảo tính đại diện của Quốc hội, thường có sự liệt kê, trùng lặp hoặc chưa đầy đủ. Từ đó, khi phân tích đánh giá thực trạng đại diện hiện nay ở Việt Nam, những phân tích còn tản mạn, chưa hệ thống, chưa rõ ràng về phương diện hoạt động (lập pháp, quyết định, giám sát) hay những hành động cụ thể (chất vấn, giải trình, tiếp xúc cử tri, tiếp dân, chuyển đơn thư khiếu nại, tố cáo) thực thi nhiệm vụ của Quốc hội, ĐBQH. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nói trên là những tri thức lý luận quý đã được chắt lọc, làm tiền đề, cơ sở cho những nghiên cứu mới mang tính tổng quát, hệ thống. Đồng thời có giá trị thực tiễn khi tiến hành đổi mới, hoàn thiện BMNN, đặc biệt là tổ chức và hoạt động của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
  • 34. 29 Chƣơng 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM 2.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI - CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CAO NHẤT CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM 2.1.1. Khái niệm Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam Để làm rõ khái niệm Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam, cần phải tìm hiểu thuật ngữ đại diện. Trong cuộc sống hàng ngày, thuật ngữ đại diện thường được sử dụng trong các quan hệ, giao dịch dân sự. Đại diện được hiểu là sự “thay mặt cho cá nhân hoặc tập thể” [125, tr.279]. Người đại diện nhân danh cá nhân, tập thể đó tiến hành các hoạt động và hoạt động này thường gắn với lợi ích, bổn phận, nghĩa vụ của người được đại diện. Trong dân sự đại diện thường được hiểu là việc một người (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Người đại diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Đại diện dân sự thường được phân chia thành hai loại: đại diện theo pháp luật và đại diện ủy quyền. Dù xác lập quan hệ đại diện theo loại nào cũng cần phải đáp ứng các tiêu chí: i) Xác định tư cách, năng lực, điều kiện của chủ thể đại diện; ii) Xác định nội dung, giới hạn, phương thức, thời gian đại diện, các lợi ích đạt được đối với hai bên chủ thể; iii) Các chế tài hay trách nhiệm đối với hai bên trong trường hợp có vi phạm thỏa thuận, vi phạm pháp luật, cũng như trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp nếu có. Từ khái niệm đại diện khá phổ biến trong dân sự, ở các lĩnh vực chuyên ngành, mỗi quốc gia có thể đưa thêm những quy định về chủ thể đại diện, lợi ích đại diện, thời hạn đại diện để bảo hộ pháp lý, đảm bảo tính kinh tế, tính
  • 35. 30 chính trị cho các quan hệ đó như đại diện thương mại, đại diện ngoại giao, đại diện quốc gia, khu vực. Tóm lại: đại diện hiểu theo nghĩa thông thường là việc người đại diện thông qua hành vi của mình, nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện xác lập, thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện. Cùng với đại diện dân sự, trong đời sống xã hội còn ra đời khái niệm “đại diện chính trị”. Tuy nhiên, loại đại diện này có những điểm khác biệt với đại diện dân sự. Đại diện chính trị không đơn thuần là những thỏa thuận, những hợp đồng, giao dịch có tính chất hàng hóa - tiền tệ. Đó là quan hệ giữa một cộng đồng với những người thay thế mình thực hiện quyền lực nhà nước mà quyền lực đó vốn luôn có xu hướng quay lại áp đặt các quy tắc, những quy phạm pháp luật đối với người được đại diện. Đại diện chính trị luôn gắn với phạm trù “Nhân dân”, “quyền lực”, “dân chủ”; nó gắn với mối quan hệ lợi ích của các cử tri trong đơn vị bầu cử và cử tri trên toàn quốc gia; nó đan xen giữa “trách nhiệm” phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của cử tri hay bao gồm cả những tư duy, lập luận, nhận định riêng của người đại diện khi thực hiện nhiệm vụ. Trong nền dân chủ đầu tiên của loài người, thuật ngữ đại diện chưa được nhắc đến và quyền lực nhà nước thực thi trực tiếp thông qua hoạt động bàn bạc, thảo luận, quyết định của công dân (Nhân dân hay công dân theo quan điểm của nhà nước Hy Lạp cổ đại là khái niệm dùng để chỉ một nhóm người hạn chế trong xã hội như: nam giới trưởng thành, người tự do, người có tài sản, …). Quyền lực nhà nước khi này được quan niệm là sự hình thành một cách tự nhiên, do con người sống thành xã hội tạo nên. Vì vậy, Nhân dân là chủ thể của quyền lực và trực tiếp điều hành, thực thi mọi công việc của nhà nước. Đến thời kỳ cận hiện đại, vấn đề quyền lực của Nhân dân được đề cập một cách rõ ràng về yếu tố chủ thể và phương thức thực hiện quyền chủ thể. Vì Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước nên quyền lực nhà nước chính là quyền lực của các cá nhân trong xã hội tự nguyện trích một phần quyền tự nhiên của mình thông qua một thỏa thuận xã hội. Sự trao lại cho nhà nước quyền ấy nhằm duy trì trật tự chung của xã hội và bảo vệ các quyền tự nhiên
  • 36. 31 của công dân trong xã hội có nhà nước. Như vậy, nhà nước là chủ thể đại diện, tiếp nhận quyền lực Nhân dân. Sự đại diện này ra đời bởi những lý lẽ căn bản sau đây: Một là, trên phạm vi lãnh thổ quốc gia, sự khác biệt về địa lý, văn hóa, tập quán, thành phần dân cư khiến tập hợp Nhân dân cùng thảo luận, quyết định, điều hành những việc chung của đất nước là rất khó thực hiện. Hai là, dân cư là một tập hợp đám đông với sự khác biệt về nhận thức, trí tuệ, cảm xúc. Trong khi đó, hoạt động quản lý đòi hỏi những cá nhân phải hội tụ nhiều yếu tố như: năng lực, trình độ, uy tín, đạo đức cá nhân … Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của nhà quản lý trong việc giải quyết các mâu thuẫn, xung đột lợi ích của đám đông. Chính vì vậy, thông qua cơ chế ủy quyền, Nhân dân có thể lựa chọn ra những người thay mặt, đó là những con người ưu tú trong xã hội, có trình độ quản lý để đại diện cho ý chí và lợi ích của mình. Ý nghĩa mới của từ “đại diện” xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIII - XIV. Người “đại biểu” được dùng để chỉ người tham gia và Hội đồng nhà thờ hay Nghị viện Anh [135]. Tới thế kỷ XVII, khi việc bầu các thành viên của Nghị viện trở nên phổ biến thì đại diện trở thành một quyền chính trị thiêng liêng và mang tính truyền thống của người Anh, gắn liền với Chính phủ đại diện. Có thể nói, nước Anh là “cha đẻ” của hình thức dân chủ đại diện. Ngay từ thế kỷ XIII, ở Anh đã hình thành thể chế dân chủ đại diện. Vào năm 1254, vua Henry tiến hành cuộc chiến tranh với nước Pháp và cần rất nhiều tiền để duy trì cuộc chiến. Ông đã triệu tập các hiệp sĩ từ các hạt đến dự cuộc họp bàn về vấn đề này. Năm 1265, Nghị viện đầu tiên của nước Anh được thành lập, gồm đại biểu là các quý tộc, tăng lữ, hiệp sỹ và cả các thị dân. Năm 1295, Nghị viện được chia tách thành hai viện: Viện Quý tộc (Thượng viện) bao gồm các giám mục, bá tước, công tước và các nhà quý tộc cao hơn từ các hạt; Viện bình dân (Hạ viện) bao gồm các hiệp sĩ, mỗi khu dân cư cử hai đại diện. Với thành phần như vậy, Nghị viện Anh hoạt động và quyết định mọi vấn đề trên danh nghĩa của những người mà họ đại diện. Sau cuộc cách mạng Vinh quang (1688-1689), Nghị viện hầu như trở thành chế định trung tâm trong hệ thống chính trị Anh quốc. Hình thức cử đại diện vào cơ quan lập pháp là một
  • 37. 32 phần quan trọng trong tiến trình chính trị, được nhiều nước biết đến, nghiên cứu và vận dụng những hạt nhân hợp lý trong việc tìm kiếm cách thức xây dựng một thiết chế đại diện để thực hiện quyền lực Nhân dân. Bước vào thời kỳ hiện đại, rất nhiều nhà nghiên cứu, các chính khách cũng luận đàm về vấn đề đại diện và coi đại diện là vấn đề tất yếu của sự tồn tại thể chế Nghị viện: Edmund Burke (1729-1797), một chính khách, người đã phục vụ nhiều năm trong Viện Thứ dân Vương quốc Anh khi xây dựng luận điểm của mình đã nhấn mạnh, đề cao quyền cá nhân trong xã hội. Ông ủng hộ một nền dân chủ tự do có bầu cử công bằng, công khai mà mọi công dân đều được hưởng quyền bình đẳng trước pháp luật và có cơ hội thành công như nhau. Kết quả của hoạt động bầu cử là sự ra đời của cơ quan đại diện, đây là cơ chế tất yếu trong việc thiết lập một cơ quan quyền lực với những giới hạn nhất định để đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền công dân được pháp luật công nhận. Khi bàn về hình thức đại diện, Edmund Burke [135] lập luận rằng, những người đại biểu của Nhân dân là những người đại diện ủy thác; họ đưa ra các quyết định không chỉ phụ thuộc vào đòi hỏi, mong muốn của cử tri bầu ra họ mà còn phải dựa trên những kiến thức và phán xét của mình, để thực hiện những gì tốt nhất theo quan điểm, nhận thức lý trí của người đại diện. James Madison (1751-1836), Tổng thống thứ 4 của Hoa Kỳ cũng là một nhà lý luận nghiên cứu, ủng hộ sự đại diện cho rằng người dân là những người có quyền quyết định tham gia hay không tham gia vào chính trị. Trong một số bài viết, tác phẩm của mình, J. Madison đã nói về việc xây dựng nền cộng hòa dựa trên các thể chế đại diện, xây dựng một hệ thống Chính phủ đại diện và có trách nhiệm. Những người đại diện chỉ là đại diện thay mặt, họ chỉ đơn giản tuân thủ những ưu tiên mà cử tri của mình đã biểu hiện [127]. Hanna Pitkin, giáo sư tại trường đại học California, Berkeley; người đã tích cực tranh luận trong nhiều hội thảo về vấn đề đại diện chính trị luôn xem xét “đại diện” dưới nhiều góc cạnh. Bà cho rằng: “Những ý kiến của chúng ta về đại diện chính trị phụ thuộc vào những thực tiễn chính trị về đại diện đang tồn tại. Hiểu biết của chúng ta về đại diện được định hình một cách không thể tháo gỡ theo lối mà ở đó con người hiện tại đang được đại diện” [135].
  • 38. 33 Trong cuốn sách “The Concept of Reprentation” (Khái niệm đại diện), Hanna Pitkin không tập trung đưa ra một khái niệm “đại diện” riêng biệt, mà phân tích một cách khá toàn diện các vấn đề liên quan đến đại diện chính trị. Trên cơ sở tán đồng, kế thừa quan điểm của các nhà nghiên cứu trước đó, bà lập luận, diễn giải, phân loại đại diện thành bốn loại cơ bản: đại diện hình thức, đại diện đồng dạng và đại diện nội dung [135]. Lý luận về vai trò đại diện thay mặt và đại diện ủy thác có những điểm mâu thuẫn nhất định với cách phân chia của Hanna Pikin. Tuy nhiên, Bà cho rằng, cần phải duy trì những quan điểm này, các công dân phải đảm bảo cho người đại diện có quyền tự quyết nhất định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Mặc dù mỗi quan niệm đưa ra những cách tiếp cận khác nhau về đại diện chính trị, nhưng đều có những điểm chung thống nhất. Chúng đều có thể sử dụng ở những góc độ khác nhau để giải thích về tiến trình công dân tiến hành lựa chọn các nhà lãnh đạo của mình. Các cuộc bầu cử là cơ chế chính thống để cử tri trao quyền của mình cho những người đại diện. Nếu người đại diện không thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, thì phát sinh tính chịu trách nhiệm của họ, đồng thời cử tri có lựa chọn đúng đắn trong các cuộc bầu cử tiếp theo. Một điểm chung mà các nhà nghiên cứu gặp nhau chính là khi họ lập luận giới hạn đại diện cho ý chí, lợi ích hay cả hai yếu tố đó. Nếu đại diện cho ý chí của cử tri, người đại diện phải truyền đạt đúng ý chí của người bầu ra mình. Khi đó cả ý chí và lợi ích chưa đúng, chưa phù hợp cũng phải được phản ánh trung thực. Nếu là đại diện cho lợi ích thì trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, điều kiện, hoàn cảnh, người đại diện vận dụng trí tuệ của mình để lựa chọn và đưa ra các quyết định tối ưu nhất, bảo vệ tốt nhất cho lợi ích của cử tri (hay nói cách khác, người đại diện chỉ thực hiện các hoạt động vì lợi ích, nhu cầu chính đáng, hợp pháp của cử tri). Ở khía cạnh này, quan điểm đại diện lợi ích được nhiều học giả tán thành bởi lý do cử tri bầu nên người đại diện là mong muốn tìm ra một nhà chính trị thông thái và có đạo đức để có thể phán đoán và thực hiện các hoạt động quản lý xã hội tốt hơn nhiều so với người được đại diện tự mình thực hiện. Tuy nhiên, quan niệm về đại diện cho lợi ích này có thể gây khó khăn về giới hạn đại diện trong trường hợp người đại diện viện nhiều lý do (từ
  • 39. 34 chính cái đầu thông minh và lập luận khôn ngoan của họ), để không phản ánh đúng, đủ hay lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân trong các quyết sách của mình (thông qua cơ chế làm việc tập thể, quyết định theo đa số, biểu quyết kín, …). Trong trường hợp này, nhiều khi người được đại diện lại bị phụ thuộc, trông chờ vào chính người mà mình đã ủy quyền cho họ. Cho dù pháp luật nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) có cơ chế miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm, song để làm được điều đó, không phải nhóm cử tri nào (đặc biệt các nhóm thế yếu: phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật) cũng có đủ điều kiện yêu cầu và thực hiện trên thực tế mà thông thường chấp nhận hết nhiệm kỳ để có sự lựa chọn mới. Trên thực tế, dù được bầu cử theo phương pháp đa số tương đối hay đa số tuyệt đối, người đại diện đều phải đại diện cho cử tri bầu ra mình cũng như cử tri cả nước. Do đó, nghiêng về bảo vệ bên nào là công việc đòi hỏi nhà đại diện phải “cân não” sao cho hài hòa lợi ích, tránh các xung đột hay nếu có thì phải giải thích, dàn xếp thỏa đáng cho những người đã ủy quyền cho mình. Chính vì vậy, hiện nay các quan điểm về đại diện chính trị đều chung thống nhất về giới hạn đại diện, đó là đại diện cho ý chí và quyền lợi (chính đáng) của cử tri trên cơ sở hoạt động thực tiễn (gắn liền với trí tuệ mẫn thiệp và phẩm chất đạo đức chính trị) của đại biểu dân cử. Để hài hòa lợi ích cử tri hay vùng lãnh thổ, địa giới hành chính, hệ thống lưỡng viện ra đời cùng cơ chế phối hợp hoạt động, được phát triển rộng khắp là bài toán giải đáp cho nhiều nước. Ở những nước có hình thức đơn viện, người đại diện sẽ thực hiện hai “nghĩa vụ”, đó là đại diện cho nhóm cử tri đã bầu ra mình và đại diện chung cho cử tri cả nước. Mỗi hình thức đều có tính ưu việt và những hạn chế riêng của nó. Việc các quốc gia lựa chọn hình thức đơn viện, lưỡng viện hoặc cùng một quốc gia, qua các thời kỳ lịch sử có thể tồn tại các loại hình thức khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố riêng như chính trị, lịch sử, pháp lý của dân tộc đó. “Đại diện” của Quốc hội là đại diện chính trị. Nó là một thuộc tính phổ biến của Quốc hội, nhờ thuộc tính vốn có này mà Quốc hội tồn tại và trả lời cho câu hỏi: Quốc hội là gì, vì sao phải có Quốc hội?
  • 40. 35 Nếu đại diện trong dân sự thường thiết lập giữa các bên chủ thể thông qua một hợp đồng, khế ước với những thông số cụ thể về thời gian, nghĩa vụ, lợi ích, sự cam kết, phạt vi phạm … thì đại diện của Quốc hội được thiết lập trên cơ sở pháp luật quốc gia (Hiến pháp, Luật tổ chức BMNN, Luật bầu cử) mang tính biểu tượng quyền lực, danh dự quốc gia với các tiêu chí rất khó định tính, định lượng khi các bên ủy quyền cho nhau. Các cử tri khi bầu cử đại diện cho mình là lựa chọn: (i) Người có tài đức, có điều kiện hơn mình để tham gia các công việc xã hội, giải quyết công việc xã hội ; (ii) Người có đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp với thời điểm lịch sử để các quyết sách (sau trúng cử) đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội cho cử tri; (iii) Người sẽ trung thành và dũng cảm bảo vệ lợi ích cử tri (có thể phát sinh sau khi bầu cử). Như vậy, đối tượng lợi ích mà cử tri hướng tới khi trao quyền cho nhà đại diện nhiều khi chưa phát sinh, chưa định hình tại thời điểm bầu cử, nó nằm ở dạng “mong chờ” và “tin tưởng”. Mặt khác hiện nay, Quốc hội các nước trên thế giới thường theo xu hướng đại diện ủy thác nên hiệu quả hoạt động của Quốc hội phụ thuộc một phần rất lớn vào năng lực và đạo đức cá nhân người đại diện. Chính vì vậy, khái niệm đại diện Quốc hội không thể chỉ hiểu phiên sang từ khái niệm đại diện trong dân sự, bởi nó không phản ánh mối quan hệ và ý nghĩa chính trị giữa người đại diện và người được đại diện. Đại diện của Quốc hội có những đặc điểm khác đại diện ủy quyền/thừa lệnh trong hành pháp hay nhân danh quyền lực nhà nước trong tư pháp khi tuyên án. Đó là, đại diện của Quốc hội là đại diện cao nhất, hay nói cách khác, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam. Tính cao nhất được quy định bởi chính cách thức hình thành, tổ chức và hoạt động của Quốc hội khác với các thiết chế khác của BMNN. Thứ nhất, Quốc hội là tổ chức duy nhất do Nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, bỏ phiếu kín. Đối với các quốc gia áp dụng bầu Quốc hội qua phiếu đại cử tri, thì cử tri phổ thông khi bầu ra đại cử tri (để những người này trực tiếp bầu đại biểu Quốc hội), họ lựa chọn đại cử tri dựa trên quan điểm của đảng chính trị mà đại cử tri đó là thành viên hoặc ủng hộ. Vì vậy có thể nói, sự hình thành, tồn tại của Quốc hội là ý chí thống nhất của Nhân dân cả nước.