SlideShare a Scribd company logo
1 of 123
Download to read offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH VĂN LƢƠNG
MèI QUAN HÖ GI÷A NHµ N¦íC Vµ MÆT TRËN Tæ QUèC
TRONG HÖ THèNG CHÝNH TRÞ VIÖT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN NHO THÌN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin trân trọng cám ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đinh Văn Lương
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM ............................ 7
1.1. Mặt trận Tổ quốc - Thành tố quan trọng trong hệ thống chính
trị Việt Nam......................................................................................... 7
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Mặt trận Tổ quốc qua các
giai đoạn cách mạng Việt Nam ............................................................ 7
1.1.2. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam......10
1.1.3. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam......................................................13
1.1.4. Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống
chính trị Việt Nam..............................................................................20
1.2. Cơ sở pháp lý ....................................................................................26
1.2.1. Các văn bản pháp luật quy định mối quan hệ giữa Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam ........................26
1.2.2. Những nội dung cơ bản thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa Nhà
nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam ..........29
Tiểu kết Chƣơng 1.........................................................................................38
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ
MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
VIỆT NAM........................................................................................39
2.1. Những hoạt động chủ yếu thể hiện mối quan hệ giữa Nhà
nƣớc và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam ...39
2.1.1. Phối hợp vận động nhân dân tham gia công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp..............................39
2.1.2. Phối hợp vận động nhân dân tham gia giám sát thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở............................................................................48
2.1.3. Phối hợp vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, phối
hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân ..........................57
2.1.4. Phối hợp vận động nhân dân tham gia hoạt động tố tụng, tuyển
chọn Thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm nhân dân................................63
2.1.5. Phối hợp vận động nhân dân đấu tranh phòng, chống tội phạm và
vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp, kiểm sát, giám sát
các hoạt động tư pháp, tham gia hoạt động tố tụng, tuyển chọn
Kiểm sát viên......................................................................................68
2.2. Những tồn tại, hạn chế trong mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và
Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam..................73
2.2.1. Những tồn tại, hạn chế .......................................................................73
2.2.2. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ......................................................80
Tiểu kết Chƣơng 2.........................................................................................82
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG
CƢỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ MẶT TRẬN
TỔ QUỐC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM.............83
3.1. Bối cảnh quốc tế, bối cảnh trong nƣớc tác động tới tâm tƣ,
tình cảm, đời sống của các tầng lớp nhân dân ..............................83
3.2. Quan điểm và phƣơng hƣớng của Đảng, Nhà nƣớc và Mặt trận
tổ quốc nhằm tăng cƣờng, phát huy mối quan hệ giữa Nhà
nƣớc và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam.......89
3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cƣờng, phát huy mối quan hệ
giữa Nhà nƣớc và Mặt trận tổ quốc trong hệ thống chính trị
Việt Nam............................................................................................92
3.3.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong
hệ thống chính trị Việt Nam...............................................................92
3.3.2. Cụ thể hoá vai trò của quần chúng nhân dân trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh...............95
3.3.3. Sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo hướng làm
rõ hơn địa vị pháp lý của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị......98
3.3.4. Đổi mới nhận thức và hành động của Mặt trận Tổ quốc các cấp
trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.......................................99
3.3.5. Cần có hệ thống chế tài phù hợp khi không thực hiện quy chế
phối hợp công tác giữa Mặt trận Tổ quốc với bộ máy chính
quyền các cấp ...................................................................................103
3.3.6. Trang bị cơ sở vật chất, nguồn tài chính ổn định, độc lập để Mặt
trận Tổ quốc hoạt động thực sự có hiệu quả trong hệ thống chính
trị Việt Nam......................................................................................105
3.3.7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế....107
Tiểu kết Chƣơng 3.......................................................................................109
KẾT LUẬN..................................................................................................110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................113
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội có rất nhiều những thiết chế chính trị - xã hội, giữa chúng
có mối liên hệ mật thiết với nhau, cùng tồn tại và hoạt động nhằm đảm bảo sự
tồn tại, phát triển của toàn xã hội và bảo vệ lợi ích cũng như thực hiện mục
đích của giai cấp thống trị xã hội. Liên minh các thiết chế đó chính là hệ
thống chính trị. Mỗi xã hội đều có hệ thống chính trị riêng. Theo đó, hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa chính là liên minh các thiết chế chính trị - xã hội
được thành lập và hoạt động trong mối quan hệ chặt chẽ mà vai trò lãnh đạo
thuộc về Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm thực hiện
triệt để quyền lực nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa bao gồm Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng khác.
Xây dựng hệ thống chính trị là nhằm thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng hệ thống chính trị phải
gắn liền với xây dựng chính quyền nhân dân, đây được coi là một tất yếu của
sự nghiệp cách mạng Việt Nam, dựa trên nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh “Lấy dân làm gốc”. Thể chế chính trị của nước ta
được tuân theo nguyên tắc, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Đây được coi là cơ chế chung trong quản lý xã hội nhằm khẳng định bản
chất của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên là nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng lãnh đạo
xã hội thông qua Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc là ngôi nhà
chung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động các giai cấp, các
2
tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các thành phần kinh tế, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài; tuyên truyền sâu rộng quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc là mối quan hệ bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau để cùng thực hiện nhiệm vụ chung của đất nước.
Lịch sử hào hùng đã chứng minh, Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức không thể
thiếu trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc đại diện cho
quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, là cầu nối bền
chặt giữa nhân dân với Đảng với Nhà nước, luôn song hành cùng Nhà nước
hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Tuy nhiên, trên thực tế, vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
nói chung và mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc nói riêng chưa
được đánh giá đúng và đầy đủ, từ đó dẫn đến những hạn chế trong việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mặt khác, với tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, thì việc tăng
cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã và đang trở thành
nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, cấp bách hàng đầu của toàn Đảng, toàn
dân ta. Đây cũng là lý do để tôi chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ
khoa học, ngành Luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Như đã đề cập ở trên, để tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
3
dân, do dân, vì dân được coi là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và cấp
bách của toàn Đảng, toàn dân ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Do vậy,
chủ đề này đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau, có thể kể đến một số công trình, bài viết như:
- Đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh (Đỗ Mười - Lê Quang Đạo), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1996.
- Đại đoàn kết dân tộc phát huy nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Vũ Oanh), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Đại đoàn kết dân tộc - động lực chủ yếu đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam), Kỷ yếu Hội thảo khoa học - thực tiễn, Hà Nội, 2002.
- Lịch sử Mặt trận dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển III (1975-
2004), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007.
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác Mặt trận, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
- Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh (Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam), Kỷ yếu Hội thảo khoa học - thực tiễn, Hà Nội, 2005.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc
thống nhất, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2004.
Ngoài ra, trên các sách, tạp chí khoa học, báo… cũng có một số bài
viết, nghiên cứu về mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức, đoàn thể khác.
4
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả từ trước đến nay
đã góp phần rất lớn trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về vị trí, vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước nói chung, cũng như mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc
trong hệ thống chính trị Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này chưa nhiều nên chưa đáp ứng được yêu cầu
trước tình hình thực tiễn của đất nước. Đặc biệt, chưa có một công trình
chuyên khảo trực tiếp nào về mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc
trong hệ thống chính trị Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ những lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận
Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam, tăng cường và phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt
Nam, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nêu lên những nội dung về mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận
Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những mặt hạn
chế, tồn tại trong mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong thời
gian qua, đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân của hạn chế, tồn tại.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm tăng cường,
phát huy mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống
chính trị Việt Nam.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính
trị Việt Nam.
5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu dựa trên phương pháp luận khoa học của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và các phương pháp khác như khảo cứu, phân tích,
so sánh, tổng hợp… các tài liệu liên quan.
4.2. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận chủ yếu là các Văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết
của Ban chấp hành Trung ương Đảng; các Văn bản quy phạm pháp luật về
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua các thời kỳ; Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc nhiệm kỳ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các khoá III, IV, V, VI, VII;
Văn kiện các Hội nghị Đoàn chủ tịch, Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam hàng năm, các khoá III, IV, V, VI, VII.
Ngoài ra, nguồn tài liệu là các báo cáo công tác hàng tháng, hàng quý,
hàng năm và các báo cáo chuyên đề của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được lưu
giữ tại cơ quan Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; một số công
trình nghiên cứu về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Đề tài sau khi được hoàn thành sẽ có ý nghĩa về mặt lý luận và thực
tiễn trên các nội dung cụ thể sau:
- Về mặt lý luận: Luận văn đề cập tới mối quan hệ giữa Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam nhằm tăng cường và phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn sẽ đưa ra các giải pháp mang tính khả thi
nhằm tăng cường và phát huy hơn nữa mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt
trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam, từ đó nâng cao vị trí, vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn
6
dân tộc, phát huy hơn nữa tinh thần và quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương
- Chương 1: Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về mối quan hệ giữa Nhà nước
và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam.
- Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ
quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Nhà
nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1.1. Mặt trận Tổ quốc - Thành tố quan trọng trong hệ thống chính
trị Việt Nam
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Mặt trận Tổ quốc qua các
giai đoạn cách mạng Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
của nước ta hiện nay. Sự quy định này là do yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị: nước ta là một nước dân
chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền
thống. Vị trí, vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do
chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Từ Hội phản đế đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận
dân tộc thống nhất Việt Nam, đến nay Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã trải qua
lịch sử hơn 80 năm xây dựng và không ngừng phát triển cùng với những
chặng đường lịch sử vẻ vang của Cách mạng Việt Nam.
Tháng 10/1930 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã thông
qua Luận cương chính trị, đồng thời ra “Án nghị quyết về vấn đề phản đế”.
Ngày 18/11/1930 Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra
chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh. Bản Chỉ thị đã đề ra những nội
dung cơ bản về tính chất, nhiệm vụ và những biện pháp xây dựng Mặt trận
dân tộc thống nhất trên cơ sở phân tích hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng, đặc biệt là mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Bản chỉ thị xác định
Hội phản đế đồng minh phải bảo đảm tính công nông, đồng thời phải mở rộng
tới các thành phần trong dân tộc để Mặt trận thực sự là của toàn dân.
8
Hội phản đế đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận dân
tộc thống nhất ra đời đã gây được cao trào phản đế mạnh mẽ trong cả nước,
có ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp quần chúng, đánh dấu sự trưởng
thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta trong quá trình tổ chức và
xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945), Đảng đã
lần lượt thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dƣơng
(sau đổi tên thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt
trận dân chủ Đông Dương), Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế, Mặt
trận Việt Nam độc lập Đồng Minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Đại
hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 2 ngày
16 và 17/8/1945 đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do
Đảng Cộng sản kiến nghị, thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn
của Việt Minh, quyết định Quốc kỳ, Quốc ca. Đại hội đã cử ra Uỷ ban dân
tộc giải phóng Việt Nam, sau này trở thành Chính phủ của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
Ngày 29/5/1946, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt)
tuyên bố thành lập. Thực hiện lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt đã ra sức tuyên
truyền vận động nhân dân tham gia kháng chiến. Ngày 3/3/1951, Đại hội toàn
quốc Mặt trận thống nhất Việt Minh - Liên Việt lấy tên là Mặt trận Liên
hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt) được tiến hành.
Qua 9 năm kháng chiến, Mặt trận Liên Việt trở thành một trong những trụ cột
của Nhà nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên của công cuộc kháng
chiến, kiến quốc.
Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp tại Hà Nội ngày 10/9/1955 đã
quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thông qua Cương lĩnh
9
nhằm đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trong cả nước để
đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Từ cao trào đấu tranh của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm
lược và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời với bản Tuyên ngôn và Chương
trình hành động 10 điểm, nội dung cơ bản là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp
nhân dân với mục tiêu đấu tranh “Phải hoà bình! Phải độc lập! Phải dân chủ!
Phải cơm no, áo ấm! Thống nhất tổ quốc!” nhằm đánh đổ chế độ độc tài tay
sai của đế quốc Mỹ.
Ngày 20/4/1968 trên cơ sở thắng lợi và khí thế của Tổng tiến công và
nổi dậy mùa Xuân 1968, Liên minh các lực lƣợng dân tộc dân chủ và hoà
bình Việt Nam ra đời, nhằm đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ của tầng lớp trí
thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở thành thị, đã mở rộng thêm một bước Mặt trận
chống Mỹ cứu nước.
Cuộc tổng tiến công và nội dậy mùa Xuân 1975 toàn thắng. Sau khi
thống nhất đất nước, từ ngày 31/1 đến 4/2/1977, tại thành phố Hồ Chí Minh,
Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam quyết định thống nhất 3 tổ
chức Mặt trận ở hai miền lấy tên chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cho
đến nay Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã trải qua 7 kỳ Đại hội.
Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có
những hình thức, tên gọi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ, nhưng đều
nhằm mục đích xây dựng, tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một khối đoàn
kết, thống nhất về ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh để hoàn thành mục
tiêu cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo thực hiện.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn thể hiện là một liên minh chính trị có
vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, tạo nền tảng và động lực góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu
10
tranh giải phóng dân tộc, đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - một hình thức cụ thể, hiện thân của Mặt
trận dân tộc Thống nhất Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị rộng lớn,
một bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, từ khi ra đời đến nay đã không
ngừng lớn mạnh, trở thành một trong những nhân tố quyết định của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
Điều 1, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 ghi rõ:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị,
liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định
cư tại nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ
thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí,
nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp, thống nhất hành
động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh [34, Điều 1].
Cũng giống như tất cả các tổ chức chính trị - xã hội khác, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam thể hiện vị trí và vai trò của mình thông qua các chức năng cơ
bản sau đây:
11
- Chức năng phản ánh yêu cầu, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp, chính đáng của quần chúng nhân dân
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời nhằm tập hợp tất các các lực lượng
yêu nước, tiến bộ, thể hiện ý chí, nguyện vọng đấu tranh vì độc lập tự do và
hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo ở Việt Nam.
Trong Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo có sự tham gia đông đảo
của các tầng lớp nhân dân như công nhân, nông dân, thợ thủ công, những nhà
buôn, những nhà tư sản dân tộc, các điền chủ, các nhà trí thức yêu nước,
những quan lại cũ, những chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, các dân tộc
và người Việt Nam định cư ở nước ngoài… Ở họ có điểm tương đồng là lợi
ích quốc gia, truyền thống quý báu, bản sắc văn hoá, lòng yêu nước và tinh
thần dân tộc. Do vậy, chức năng phản ánh yêu cầu, nguyện vọng và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của quần chúng nhân dân cần phải được nhận
thức đúng đắn và đầy đủ.
- Chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ
chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước thông qua các tổ chức thành viên và các cuộc
vận động, các phong trào cách mạng mang tính toàn dân để tập hợp và đoàn
kết mọi tầng lớp nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chịu trách nhiệm hiệp
thương danh sách bầu cử và tham gia các hoạt động bầu cử đại biểu vào cơ
quan dân cử các cấp. Chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước được thể hiện qua các nội dung:
12
+ Tuyên truyền và vận động quẩn chúng nhân dân thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân thực hiện nghĩa vụ,
trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc.
+ Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân, các hội viên và
thành viên của của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện theo đúng tôn chỉ,
mục đích hoạt động của tổ chức.
+ Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân tham gia xây dựng
và bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ quan Nhà nước, xây dựng và bảo vệ nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
+ Động viện các thành viên và mọi tầng lớp nhân dân phát huy quyền
làm chủ của mình trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong thực
hiện nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
- Chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với các cơ quan, cán bộ
viên chức nhà nước và hệ thống chính trị
Giám sát và phản biện việc xây dựng và thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là một chức năng rất cơ bản, là
một nhiệm vụ rất quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phản ánh sâu sắc
bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống chính trị của nhà
nước ta, quyền giám sát được quy định trong những văn kiện của Đảng, cơ
quan quyền lực Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài quyền giám
sát của Quốc hội đối với Chính phủ; Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân
dân, Nhà nước còn cần được giám sát bởi Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, để nhà nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thực chất và mục tiêu cơ bản của việc thực hiện ba chức năng đó là tạo
nên một cơ chế giám sát quyền lực trong xã hội, làm cho sự lãnh đạo của
13
Đảng và sự quản lý của Nhà nước bảo đảm thực hiện yêu cầu dân chủ hoá,
chống chủ nghĩa quan liêu và chủ quan duy ý chí trong mọi hoạt động.
1.1.3. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nhất quán quan điểm, Nhà nước ta là Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức, quản lý xã hội bằng
pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng
cơ bản như sau:
+ Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân
Nhà nước pháp quyền thể hiện quyền lực nhà nước một cách chính
đáng nhất. Trong khuôn khổ của một chế độ chính trị, quyền lực nhà nước
phải được xác lập và thực hiện trên cơ sở nhân dân đích thực là người chủ
quyền lực. Việc sử dụng và thực thi quyền lực nhà nước phải phản ánh cho
được sự tôn trọng đó. Quyền lực nhà nước phải là sản phẩm ý chí của nhân
dân. Nhân dân ta, người chủ quyền lực, không chỉ tạo lập nên nhà nước của
mình, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền
14
lực, mà còn thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý
của nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách, đường
lối của Đảng và Nhà nước, cũng như các hoạt động thuộc phạm vi của nhà
nước: hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý - điều hành, hoạt động tư pháp.
+ Thứ hai, Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống
nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Một trong những quan điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quan điểm quyền lực nhà nước thống
nhất trên cơ sở phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống
nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự
thống nhất của quyền lực nhà nước.
Nguyên tắc thống nhất quyền lực này xuất phát từ chỗ tất cả quyền lực
của Nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể duy nhất của quyền
lực nhà nước. Mỗi cơ quan có chức năng và nhiệm vụ nhất định trong việc
thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có cơ quan nào đứng
một cách biệt lập mà có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện
quyền lực nhân dân.
+ Thứ ba, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận
và thể hiện vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội;
tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật.
Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính
trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến
pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao
nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh,
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc
15
tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp
là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của
người dân. Như vậy Hiến pháp là điều kiện để bảo đảm chính đáng về mặt
pháp lý của các thiết chế quyền lực nhà nước.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước ta là
cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì và thực hiện quyền lực nhà nước, cho
sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để
xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như
các quyết sách khác của nhà nước.
+ Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện
mối quan hệ qua lại giữa nhà nước với công dân, giữa nhà nước và xã hội,
tôn trọng bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Trong bất kỳ xã hội nào cũng cần có sự kết hợp cần thiết giữa các loại
lợi ích xã hội. Ở quốc gia nào thì pháp luật cũng luôn luôn là đại lượng chung
nhất, cái có tính bắt buộc chung cho cả xã hội, dù bản chất giai cấp của nó có
độ đậm đặc đến đâu đi chăng nữa. Tuy nhiên, không phải vì đã có cái “đại
lượng chung” đó rồi mà không còn nhu cầu phân biệt các lợi ích xã hội,
không còn “không gian” cho các lợi ích khác nhau trong xã hội. Nhà nước là
người đại diện cho lợi ích công, công dân đại diện cho lợi ích cá nhân. Tư
tưởng về nhà nước pháp quyền, vì vậy gắn với vấn đề xã hội công dân.
Cùng với sự ra đời của xã hội công dân, lần đầu tiên trong lịch sử loài
người mọi người được thừa nhận là bình đẳng trong xã hội, bất kể họ là ai về
thành phần và nguồn gốc xuất thân, có các quyền và tự do được pháp luật
thừa nhận, có khả năng tự biểu hiện nhân cách và ý chí, tự chịu trách nhiệm
về hành vi của mình và các hậu quả của hành vi đó. Công dân có thể làm tất
cả những gì pháp luật không cấm. Còn cán bộ, công chức nhà nước và các cơ
quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật quy định.
16
+ Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm
và thực hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế.
Đường lối đó liên quan đến mối quan hệ của Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam với các quốc gia, các khu vực, các tổ chức và cộng
đồng quốc tế. Và để thực hiện được đường lối đó,cần phải có nhiều phương
thức hoạt động trên nhiều mặt. Là công cụ quản lý tổ chức và điều chỉnh của
nhà nước, pháp luật đóng vai trò rất quan trọng đối với việc thực hiện các
nhiệm vụ nói trên. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ký kết, gia nhập
nhiều điều ước quốc tế phục vụ cho chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại,
chủ động hội nhập quốc tế.
+ Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam là một tất yếu lịch sử và cũng là tất yếu khách quan. Từ khi giành
được chính quyền cách mạng đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã đương
nhiên trở thành Đảng cầm quyền. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
được thể hiện trên những nội dung trọng yếu sau:
* Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, đảm
bảo cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trở thành hiện thực sinh
động trong đời sống xã hội.
* Lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
* Lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước. Đảng phải tăng cường công tác kiểm tra các tổ chức Đảng và
cán bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, đảm bảo cho các cơ
17
quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước thực hiện đúng đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
Nhìn tổng quát, nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là rất toàn diện và bao quát toàn bộ
những vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Với các đặc trưng nói trên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân có một vị trí rất quan trọng trong hệ thống chính trị nước
ta và có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn coi việc xây dựng, tăng cường, kiện toàn Nhà nước
là một nhiệm vụ hàng đầu, làm cho Nhà nước thực sự là trụ cột của hệ thống
chính trị, là công cụ chủ yếu, vững mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Gốc có vững cây mới bền, xây
lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [14, tập 7, tr.267]. Thấu suốt quan điểm “Lấy
dân làm gốc”, Người chỉ rõ: “Trong bầu trời không có gì quý bằng dân. Trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Dân là chủ,
mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [14, tập 7, tr.410, tr.544]. Thấm
nhuần tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức đúng đắn về
vị trí và vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của
đất nước. Dân làm chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dân chủ và
quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện ở những nội dung chủ yếu:
+ Nhân dân tham gia xây dựng các tổ chức, bộ máy của hệ thống
18
quyền lực nhà nước và lực chọn các đại biểu của mình bằng bầu cử, theo
phương thức dân chủ đại diện, từ bầu cử Quốc hội đến bầu cử Hội đồng
nhân dân các cấp.
+ Nhân dân tham gia các công việc quản lý nhà nước để thực hiện
quyền lực của mình. Cụ thể là các việc: thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự
thảo luật, xây dựng hoặc sửa đổi Hiến pháp và các văn bản luật, các quy định,
quy chế mang tính pháp lý; đề xuất các kiến nghị với chính quyền các cấp
thông qua các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân những vấn đề
về pháp luật và chính sách liên quan tới cuộc sống của mình.
+ Nhân dân tham gia đánh giá chính sách của nhà nước, đưa ra những
kiến nghị điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu, lợi
ích chính đáng của mình.
+ Nhân dân đánh giá, nhận xét và chất vấn về hoạt động của các cơ
quan nhà nước, về thực hiện nhiệm vụ của các đại biểu được nhân dân uỷ
quyền, giám sát công việc, hành vi, tư cách của họ thể hiện trong mối quan hệ
với quần chúng nhân dân.
+ Nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, phát hiện
và đề nghị kiểm tra, xử lý các biểu hiện tiêu cực, các vi phạm về chính sách,
pháp luật, đạo đức của các cơ quan cũng như cán bộ công chức nhà nước.
+ Nhân dân có quyền đòi các tổ chức, cơ quan nhà nước và cán bộ công
chức, đặc biệt là những người có có chức, có quyền, có trọng trách do nhân
dân uỷ thác phải cung cấp thông tin kịp thời theo đúng quy định được ban
hành cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Quy chế dân chủ cơ sở
phải chú trọng vấn đề này, coi đây là công cụ pháp lý bảo đảm thực hiện dân
chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Các đại biểu của nhân dân và chính quyền của nhân dân phải thực
hiện chế độ trách nhiệm, kỷ luật công vụ và đạo đức công chức trong sự
19
giám sát thường xuyên của nhân dân. Bằng những việc làm cụ thể đó, nhân
dân không những tham gia xây dựng và tổ chức nên những cơ quan quyền
lực, tham gia quản lý để thực thi quyền lực mà còn tham gia vào kiểm soát
quyền lực nhà nước.
Việc thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng
nhà nước còn đồng thời gắn liền với việc nhân dân thực hiện các nghĩa vụ công
dân của mình đối với nhà nước. Các quyền và nghĩa vụ này được ghi trong
Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp tuyên
truyền, phổ biến chính sách và pháp luật cho dân biết, dân hiểu, dân tự giác
thực hiện. Giáo dục ý thức pháp luật trong toàn dân, từng bước hình thành văn
hoá pháp luật, nhu cầu và thói quen tôn trọng pháp luật, tạo ra tập quán pháp
luật trong đời sống xã hội. Cần tiến hành một cách công phu, bền bỉ với những
biện pháp đồng bộ, những hình thức vận động, tuyên truyền, giáo dục thiết thực
cũng như áp dụng những chế tài cần thiết để mọi công dân nghiêm chỉnh chấp
hành chế độ trách nhiệm, kỷ luật công vụ và đạo đức công chức, kết hợp sức
mạnh đạo đức với sức mạnh điều tiết, kiểm soát của pháp luật để tạo ra sự lành
mạnh xã hội, tính minh bạch, công nghiêm của pháp luật.
Với cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, viên chức nhà nước, nếu
thiếu vắng chế độ trách nhiệm, nếu không có những quy định pháp luật rõ
ràng, minh bạch và những chế tài nghiêm ngặt để buộc thực hiện và xử lý các
hậu quả tiêu cực xảy ra theo chế độ trách nhiệm thì đó sẽ là môi trường thuận
lợi cho sự vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, làm tổn hại đến
quyền lực nhà nước.
Để phát huy dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải làm rõ mối
quan hệ giữa công dân với nhà nước. Đó là mối quan hệ giữa quyền và nghĩa
vụ, giữa lợi ích với trách nhiệm, giữa cán bộ công chức với nhân dân, giữa đại
20
biểu với cử tri. Những mối quan hệ này phải được thể chế hoá, phải được
pháp luật điều tiết với sự hỗ trợ, thúc đẩy mạnh mẽ của đạo đức, của văn hoá.
Trong lĩnh vực xây dựng nhà nước, những quyền dân chủ và làm chủ
của nhân dân được thể hiện bằng hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp, tức là thông qua các đại biểu nhân dân do dân bầu ra, dân kiểm tra, giám
sát và có quyền bãi miễn. Bên cạnh đó dân chủ và quyền làm chủ của nhân
dân còn được thực hiện bằng các hoạt động tự quản trong cộng đồng thông
qua hương ước, quy ước, vừa có tính pháp lý, vừa có ý nghĩa văn hoá. Các
quan hệ trong đời sống xã hội do nhân dân tự dàn xếp, giải quyết trên tinh
thần hoà giải, đồng thuận, đoàn kết.
Trong quản lý xã hội, việc phát huy dân chủ và bảo đảm quyền dân chủ
của nhân dân được thể hiện: nhân dân tham gia quản lý xã hội thông qua nhà
nước bằng sự phối kết hợp giữa các tổ chức, các phong trào, các nguồn lực để
thực hiện phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… xây dựng môi trường xã hội
lành mạnh, thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội.
Như vậy, việc hoàn thiện hệ thống chính trị, trước hết là xây dựng và
củng cố nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật
và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để nhân dân tham gia
vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội như ứng cử, đề cử, bầu cử vào các
cơ quan quyền lực nhà nước, tuyển chọn, bố trí, giám sát đội ngũ cán bộ công
chức nhà nước có đủ đức, đủ tài để phục vụ nhân dân; tham gia đông đảo và
có tính chất quyết định hơn trong cuộc đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực
như quan liêu, cửa quyền, tham nhũng…
1.1.4. Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ
thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị nước ta bao gồm ba tổ chức, đó là: Đảng, Nhà nước
và Mặt trận Tổ quốc, với phương thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
21
nhân dân làm chủ. Trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức chính trị -
xã hội đại diện cho nhân dân, có vai trò hết sức to lớn trong việc tập hợp khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, đây cũng là sứ mệnh lịch sử mà Đảng giao phó cho
Mặt trận Tổ quốc. Mỗi giai đoạn cách mạng, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử khác
nhau, Mặt trận Tổ quốc luôn thực hiện tốt vai trò vẻ vang của mình.
Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc là hai tổ chức cùng nằm trong hệ thống
chính trị. Tuy có vị trí và vai trò khác nhau, nhưng cùng chung một mục tiêu,
một điểm tương đồng đó là vì lợi ích của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện rộng rãi nhất của các tổ chức và các cá nhân tiêu biểu trong các giai
cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, các thành phần kinh tế và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài. Do đặc điểm này mà Mặt trận Tổ quốc có
những điều kiện để phối hợp với Nhà nước tập hợp, vận động đông đảo các
tầng lớp nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp tham gia xây dựng, củng cố
và giữ vững chính quyền.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Mặt trận giới thiệu những người có đủ tiêu chuẩn và điều kiện để quần
chúng nhân dân bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, vận động
nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước.
Theo quan điểm của Đảng ta, cải cách bộ máy nhà nước còn bao hàm
một nội dung quan trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước
với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng, quản lý, giám sát và bảo vệ nhà nước,
nhà nước dựa vào Mặt trận và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức
mạnh có tổ chức của nhân dân. Đó cũng chính là sức mạnh của bản thân nhà
nước. Trong quá trình ra quyết định và quản lý, điều hành, Quốc hội và Hội
22
đồng nhân dân, Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp cần lắng nghe những
kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước cần có quy chế tổ chức và
cơ chế hoạt động giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo vừa là thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một nét độc đáo trong lý luận và
thực tiễn cách mạng nước ta. Đảng là một thành viên của Mặt trận nhưng với
tư cách là thành viên giữ vai trò lãnh đạo, thông qua Mặt trận để tập hợp các
lực lượng quần chúng nhân dân tự nguyện theo Đảng làm cách mạng. Trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay quan điểm của Đảng là
phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội ở các cấp, các ngành để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh.
Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013 đã xác định rõ tính chất, nội dung, quan
hệ, quyền và trách nhiệm của mỗi bên trong mối quan hệ giữa Nhà nước với
Mặt trận, đây là cơ sở cụ thể hoá thành các quy định của pháp luật.
Thể chế hoá Hiến pháp, nhiều đạo luật đã quy định cụ thể mối quan hệ
giữa Nhà nước với Mặt trận, giữa Uỷ ban Mặt trận với cơ quan Nhà nước trên
các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhân dân, trong
công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, công tác tập hợp, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc… điển hình trong việc thể chế Hiến pháp là Nhà
nước đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó quy định cụ thể
nguyên tắc của mối quan hệ, hình thức của mối quan hệ.
Quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc là quan hệ phối hợp để
23
thực hiện nhiệm vụ chính trị, quyền hạn theo quy định của pháp luật, trên cơ
sở quy chế phối hợp công tác do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ
quan Nhà nước hữu quan ở từng cấp ban hành. Đây là phương thức thể hiện
quan hệ phối hợp giữa Mặt trận và Nhà nước ở mỗi cấp hành chính.
Ở Trung ương, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối
hợp với Quốc Hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao thông qua quy chế phối hợp công tác giữa Đoàn
Chủ tịch với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, giữa Đoàn Chủ tịch với lãnh đạo
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao. Ban
Thường trực ký quy chế phối hợp công tác với lãnh đạo các bộ, cơ quan
ngang bộ.
Ở địa phương, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ký quy chế với Uỷ ban nhân
dân, Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ban Thường trực ký quy chế phối hợp
công tác với lãnh đạo các sở, ngành cùng cấp.
Nguyên tắc của mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước là quan hệ
phối hợp để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bên tham
gia theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc của sự phối hợp là
bình đẳng, hợp tác, tạo điều kiện để mỗi bên thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của
mình. Sở dĩ Nhà nước phải phối hợp với Mặt trận vì bản chất nhà nước ta là
nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực của nhà nước đều thuộc về
nhân dân. Nhà nước có chức năng quản lý toàn bộ đất nước. Mặt trận là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân.
Nhà nước và Mặt trận đều do Đảng lãnh đạo. Tuỳ vào chức năng, nhiệm vụ,
quyền và trách nhiệm có khác nhau nhưng đều là công cụ của nhân dân thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
24
Thực hiện các quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về quan
hệ phối hợp công tác, đến nay tất cả các tỉnh, thành phố, các quận, huyện, xã,
phường, thị trấn trong cả nước đều đã xây dựng và ban hành quy chế phối hợp
công tác ở mỗi cấp. Sự phối hợp công tác giữa Mặt trận với Nhà nước đã đi
vào nề nếp theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, qua 15 năm thực hiện Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về
quan hệ phối hợp công tác giữa Nhà nước và Mặt trận còn bộc lộ những tồn
tại, hạn chế sau:
- Nhận thức trong hệ thống chính trị chưa đầy đủ và thống nhất về cơ
sở của mối quan hệ, tính chất, nội dung, quyền và trách nhiệm của mỗi bên
trong mối quan hệ giữa cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc ở mỗi cấp, nhất là cấp cơ sở. Bản thân cán bộ Mặt trận còn tự ti, e dè
trong việc thực hiện các mối quan hệ.
- Phương thức quan hệ giữa Uỷ ban Mặt trận với cơ quan Nhà nước chưa
được thực hiện rộng rãi trên các mặt công tác của mỗi bên. Các cấp ở địa
phương mới chỉ xây dựng quy chế phối hợp giữa Mặt trận với Hội đồng nhân
dân, với Uỷ ban nhân dân, chưa mở rộng sự phối hợp thông qua các văn bản
liên tịch nhiều bên, giữa cơ quan Nhà nước với Ban Thường trực Mặt trận.
- Trong phối hợp công tác thông qua các văn bản liên tịch sự bình đẳng,
tạo điều kiện từ phía cơ quan Nhà nước còn hạn chế, tư tưởng xin - cho, ban
ơn vẫn hiện hữu ở nơi này, cấp nọ trong mối quan hệ phối hợp giữa hai bên.
Như vậy, mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc là quan hệ
hợp tác, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ
chung. Quyền hạn của Mặt trận đã được Hiến pháp và pháp luật quy định,
Mặt trận hoạt động theo pháp luật và quy chế làm việc đã được thoả thuận
giữa Mặt trận và chính quyền.
Mặt trận tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ Nhà nước như: vận động
25
các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, bầu ra cơ quan dân cử, giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ viên chức nhà
nước, tham gia xây dựng pháp luật và chính sách; đóng góp ý kiến với cơ quan
nhà nước các cấp, vận động nhân dân tham gia xây dựng các quy ước, quy chế
trên địa bàn cư trú về các vấn đề liên quan đến đời sống, nghĩa vụ và lợi ích của
công dân phù hợp với pháp luật. Mặt trận tham gia tuyên truyền phổ biến pháp
luật trong nhân dân, đấu tranh chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, gây
phiền hà cho dân, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của dân.
Nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng để
phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và
tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình
tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ nhà nước. Đó cũng là sức mạnh của bản
thân nhà nước.
Trong quá trình ra các quyết định về quản lý và điều hành, chính quyền
các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà
nước căn cứ quy chế tổ chức và cơ chế hoạt động để giải quyết tốt mối quan
hệ giữa Nhà nước với Mặt trận. Nhà nước cần tiếp tục thể chế hoá quyền hạn
và trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã
hội và xây dựng cuộc sống tự quản của dân.
Nhà nước phối hợp với Mặt trận trong việc chăm lo lợi ích chính đáng
của nhân dân, trong việc vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong
trào hành động, thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế xã hội.
Một trong những nội dung quan trọng trong cải cách bộ máy nhà nước
hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, để Mặt trận làm tròn trách nhiệm là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Thực hiện thành nề nếp việc Đảng, Nhà
nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận về những quyết định
chủ trương lớn.
26
1.2. Cơ sở pháp lý
1.2.1. Các văn bản pháp luật quy định mối quan hệ giữa Nhà nước
và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong vận
động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền được quy định ở nhiều văn
bản pháp luật như: Hiến pháp, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Luật Tổ
chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Giám
sát của Quốc hội…
- Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013, quy định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã
hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;
tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân
chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [31, Điều 9, khoản 1].
Ngoài ra còn một số điều luật khác của Hiến pháp quy định về mối
quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 đã cụ thể hoá Hiến pháp
1992 về vai trò, vị trí, tính chất và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đồng thời tổng hợp các quyền và trách nhiệm của Mặt trận đã được quy định
27
ở một số đạo luật liên quan. Việc Quốc hội ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam có một ý nghĩa rất quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý để Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tiếp tục nâng cao vai trò của mình trong sự nghiệp đổi mới
đất nước, góp phần thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực, sự sáng tạo của các tầng lớp nhân
dân, thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh, quốc
phòng và đối ngoại, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày
càng vững mạnh. Trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phấn đấu để làm
tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối giữa nhân
dân với Đảng với Nhà nước, để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực sự là nơi tập
hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi thực hiện ý chí, nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân.
Thực hiện mục đích và ý nghĩa trên, tại các điều 7, 8, 9, 10, 11, 12…
của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã quy định chi tiết quyền và trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân.
- Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, quy định:
Chính phủ phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả. Chính
phủ tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam và các đoàn thể nhân dân động viên,
tổ chức nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân; tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán
bộ và viên chức nhà nước [38, Điều 39].
28
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy
định về mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; về công tác phối hợp giữa Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân với Mặt trận Tổ quốc chăm lo và bảo vệ lợi
ích của nhân dân; Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tạo điều kiện thuận
lợi để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tổ chức, vận động nhân dân tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử, cán bộ, viên chức nhà nước; trong quá trình giám sát hoạt
động của đại biểu, Mặt trận đề nghị Hội đồng nhân dân bãi nhiệm đại biểu
Hội đồng nhân dân khi không còn xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
- Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997, quy định: “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại
biểu Quốc hội; tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử, giám sát việc bầu cử
đại biểu Quốc hội và các giai đoạn khác của cuộc bầu cử” [32, Điều 5].
- Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003, quy định:
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương tổ chức hiệp thương lựa
chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, tham
gia các tổ chức phụ trách bầu cử, giám sát việc bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân và các giai đoạn khác của cuộc bầu cử [33, Điều 6].
- Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, quy định:
Toà án phối hợp với các cơ quan, trong đó có Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam để nghiên cứu, thực hiện những chủ trương, biện pháp
nhằm phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan duy nhất có thẩm quyền
giới thiệu người để Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu làm Hội thẩm
nhân dân tại Toà án nhân dân địa phương [39, Điều 15, 41].
29
1.2.2. Những nội dung cơ bản thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa
Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999, quy định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tuyên truyền, động
viên nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; phối hợp, tham gia với các cơ quan
nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước, vận động nhân dân đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển kinh tế,
xây dựng đời sống văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội [34, Điều 7, khoản 1, 2].
Vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc phối
hợp với các cơ quan nhà nước để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận
động nhân dân xây dựng chính quyền là một vai trò rất to lớn và quan trọng,
bởi vì việc tạo điều kiện cho nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực của mình
cũng như phải lắng nghe, thực hiện ý kiến, kiến nghị của nhân dân, bảo vệ các
quyền làm chủ và tham gia xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân là những nội dung rất cơ bản, cốt lõi
của đời sống chính trị - xã hội của một thể chế dân chủ. Trong hoạt động này
có sự tham gia của nhiều chủ thể: tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, nhất là
các cơ quan đại diện quyền lực, các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đóng một
vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác này và chủ yếu thể hiện trong sự
phối hợp với các cơ quan nhà nước để thực hiện.
Nội dung và cách thức phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và Nhà nước
trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền thể hiện ở những điểm
cơ bản sau:
30
- Phối hợp vận động nhân dân tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
Theo quy định tại Điều 8, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và trong
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, thì
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có các nhiệm vụ cơ bản như sau:
+ Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức hiệp
thương lựa chọn giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân.
Công tác hiệp thương với quy trình 5 bước được thực hiện theo quy
định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đối với bầu cử đại biểu Quốc hội); của Chính
phủ và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đối với bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân).
+ Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc phối hợp cùng với
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thành lập các tổ chức phụ
trách bầu cử và cử đại diện Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tham
gia các tổ chức phụ trách bầu cử cùng cấp: Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử,
Ban bầu cử, Tổ bầu cử đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội; Hội đồng bầu
cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử đổi với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
+ Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì phối hợp với chính
quyền cùng cấp ở xã, phường, thị trấn tổ chức hội nghị cử tri ở nơi cư trú, để
lấy ý kiến nhận xét và sự tín nhiệm của cử tri trước khi tổ chức hội nghị hiệp
thương lần thứ ba lựa chọn, lập danh sách chính thức giới thiệu người ứng cử.
+ Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức các hội
nghị cử tri để những người ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri, thực hiện quyền
vận động bầu cử. Đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội thì do Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc cấp quận, huyện, thị (gọi tắt là cấp huyện) chủ trì tổ chức. Đối
31
với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc cấp xã, phường, thị trấn (gọi tắt là cấp xã) chủ trì tổ chức.
+ Phối hợp trong công tác tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện
quyền bầu cử, tự mình đi bỏ phiếu trong ngày bầu cử.
+ Thực hiện quyền giám sát việc bầu cử thông qua việc cử đại diện của
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tham gia các đoàn giám sát của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc tự mình tổ chức các đoàn giám sát thực
hiện các công việc bầu cử như: giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo của cử tri trong cuộc bầu cử; giám sát thủ tục, trình tự tổ chức bỏ phiếu,
kiểm phiếu, bầu lại, bầu thêm và những công việc liên quan đến bầu cử theo
quy định của Luật Bầu cử và hướng dẫn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; chỉ đạo hoạt
động của Ban Thanh tra nhân dân giám sát thực hiện các quy trình bầu cử,
công tác hiệp thương của Mặt trận Tổ quốc cùng cấp trong bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân.
- Phối hợp vận động nhân dân tham gia giám sát thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở
Quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia giám sát thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sơ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Vấn đề này đã được quy định rõ trong Điều 9, Hiến pháp (sửa
đổi) 2013 và hơn 30 văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Nhiều nghị
quyết, chỉ thị của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu nâng cao vai trò giám sát của
Mặt trận và nhân dân đối với Nhà nước (Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, Nghị quyết của Bộ Chính trị về đại
đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất ngày 17/11/1993,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII,
các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX của Đảng, Nghị
32
quyết Hội nghị lần thứ bảy (phần hai) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX về phát huy sức mạnh toàn dân tộc vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh”).
Sự khác nhau cơ bản giữa hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam với giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan Nhà
nước khác có chức năng giám sát là ở tính chất giám sát và hình thức giám
sát. Giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân là giám sát mang tính quyền
lực do đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và các cơ quan của
Quốc hội, Hội đồng nhân dân tiến hành. Quốc hội, Hội đồng nhân dân có
quyền quyết định những hình thức và biện pháp xử lý nếu quá trình giám sát
phát hiện có vi phạm pháp luật. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc là giám sát xã
hội mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của
nhà nước nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Hoạt động giám sát
của Mặt trận được thực hiện với ba hình thức: động viên nhân dân thực hiện
quyền giám sát của mình; tham gia với cơ quan nhà nước trong hoạt động
giám sát khi có yêu cầu; trực tiếp thực hiện hoạt động giám sát thông qua các
hoạt động thường xuyên, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân và các
thành viên trên cơ sở đó nghiên cứu, xác minh để kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền xem xét, giải quyết và xử lý.
Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định cụ thể những việc Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải thông tin kịp thời và công khai để dân
biết, những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia ý
kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định, những việc dân giám sát, kiểm
tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn của đất nước, khi mà tình trạng yếu
33
kém của hệ thống chính trị ở cơ sở và vấn đề mất dân chủ ở cơ sở diễn ra
nghiêm trọng ở nhiều nơi làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng
với Nhà nước, gây nên tình trạng mất an ninh và trật tự xã hội ở nhiều địa
phương; Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về việc xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta có
một văn bản riêng về vấn đề này. Việc ban hành Chỉ thị quan trọng này của
Đảng chính là tiếp tục mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước; Thực hiện tốt phương
châm: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhằm phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát
nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ, nạn tham
nhũng đang xảy ra ở nhiều nơi trên đất nước ta. Qua đó nhằm xây dựng bộ
máy chính quyền cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả; góp phần to lớn vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ thị đã nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trước
mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, bởi đó là nơi trực tiếp
thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Trên cơ sở
đó, ngay trong năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 29 về việc
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (sau đó được thay
bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP và nay đã được nâng lên thành Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn). Nghị định số 79/2003/NĐ-CP đã
chỉ rõ trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia tuyên
truyền phổ biến, phối hợp với chính quyền tổ chức thực hiện và giám sát việc
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Trong quá trình tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ, Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc cơ sở và chính quyền quán triết năm quan điểm chỉ đạo của Bộ
Chính trị về dân chủ:
34
+ Dân chủ phải tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội, ổn định
chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí.
+ Dân chủ phải gắn liền với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ”. Coi trọng cả ba mặt nói trên không vì một mặt, mà hạ
thấp, coi nhẹ mặt khác.
+ Dân chủ trực tiếp gắn liền với phát huy dân chủ đại diện, xây dựng
chính quyền trong sạch, vững mạnh, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng suy
thoái, quan liêu, tham nhũng.
+ Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, trật tự trong khuôn khổ của Hiến
pháp và pháp luật. Chống quan liêu mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô
chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật.
+ Gắn thực hiện Quy chế dân chủ với công tác cải cách hành chính, sửa
đổi cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính không phù hợp.
Trên cơ sở quán triệt những quan điểm của Bộ Chính trị và nắm chắc
năm khâu thực hiện dân chủ ở cơ sở theo Nghị định 79/2003/NĐ-CP, Uỷ ban
Mặt trận Tổ Quốc cơ sở phối hợp với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
thực hiện tốt quyền và trách nhiệm của mình đã được quy định trong Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Phối hợp vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, phối hợp
tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân
Công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
việc vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật và phối hợp để tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân được quy định chủ yếu ở Hiến pháp,
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, với những nội dung chủ yếu sau đây:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền trình
35
dự án luật ra trước Quốc hội. Theo Hiến pháp, các chủ thể có quyền trình dự
án luật ra trước Quốc hội bao gồm: Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận tổ Quốc Việt Nam, các
thành viên của Mặt trận và đại biểu Quốc Hội. Mặt khác, Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền tham gia góp ý kiến
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đối với những dự án luật, pháp lệnh
có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên; quy định về tổ chức bộ máy nhà nước thì cơ
quan soạn thảo có trách nhiệm gửi dự án luật, dự án pháp lệnh đến Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên để lấy ý kiến. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nghị quyết,
thông tư liên tịch để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định
về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận là các tổ chức
chính trị - xã hội hoặc các tổ chức xã hội có chức năng chủ yếu là làm công
tác vận động các tầng lớp nhân dân (hay nói theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là
làm công tác Dân vận), không thuộc khối cơ quan nhà nước. Trong khi đó
công tác xây dựng pháp luật vốn là công việc của nhà nước. Vì vậy, quy định
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng pháp luật ở tất cả các khâu, từ
việc trình dự án luật ra trước Quốc hội cho đến việc tham gia ý kiến cho các
dự án luật do cơ quan nhà nước soạn thảo; tuyên truyền, phổ biến pháp luật
cho nhân dân và giám sát việc thi hành pháp luật… là những quy định thể
hiện tính dân chủ trong xây dựng pháp luật của Nhà nước ta, nhà nước của
dân, do dân, vì dân.
- Phối hợp vận động nhân dân tham gia tố tụng, tuyển chọn Thẩm
phán, giới thiệu Hội thẩm nhân dân
Hiến pháp (sửa đổi) được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013
36
đã kế thừa những thành tựu lập hiến của các bản Hiến pháp năm 1946, 1959,
1980 và 1992, đồng thời tiếp thu những tư tưởng mới về Nhà nước pháp
quyền cũng như thực tiễn công cuộc đổi mới và hội nhập của nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Hiến pháp (sửa đổi) là cơ sở hiến định quan trọng cho
công cuộc đổi mới toàn diện ở đất nước ta nói chung, tổ chức và hoạt động
của Toà án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp nói riêng.
Xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân tiếp tục được kế thừa trong
Hiến pháp (sửa đổi). Tư tưởng chủ quyền nhân dân và nguyên tắc tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước tiếp tục được phát triển trong Hiến pháp (sửa
đổi). Nguyên tắc phân công, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước được thể
hiện rõ ràng, rành mạch hơn.
Bằng việc quy định Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, Toà án nhân dân là
cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh
chấp theo quy định của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật
bằng chế tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều
thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân. Nhiệm vụ của Toà án, đó là bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khi quyền,
lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến Toà án
như là tìm đến công lý. Vì vậy có thể nói Toà án là biểu tượng của công lý và
có nhiệm vụ bảo vệ công lý.
Toà án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, xử lý các
vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp pháp lý. Để hoàn thành tốt chức
năng, nhiệm vụ đó, Toà án nhân dân phải tăng cường mối liên hệ chặt chẽ với
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
37
- Phối hợp vận động nhân dân đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi
phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp, kiểm sát, giám sát các hoạt động tư
pháp, tham gia hoạt động tố tụng, tuyển chọn Kiểm sát viên
Việc phối hợp công tác dựa trên nguyên tắc đảm bảo pháp chế, bình
đẳng và tôn trọng lẫn nhau, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
hai bên theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nhằm mục đích chung là
đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được thực hiện một cách thống nhất, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu chung của đất nước.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và Viện kiểm sát nhân dân các cấp phối hợp
chặt chẽ trong công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà
nước và nhân dân, đấu tranh phòng chống tội phạm; tuyên truyền, động viên
nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm sát, giám sát hoạt động của các cơ
quan tư pháp; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để kiến nghị với Đảng
và Nhà nước nhằm bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân theo quy định
của pháp luật.
38
Tiểu kết Chƣơng 1
Cương lĩnh xây dựng đất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
nhất quán quan điểm, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà
nước ban hành pháp luật, tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Với bản chất ưu việt, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Bởi vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống
chính trị của nước ta hiện nay. Sự quy định này là do yêu cầu khách quan của
sự nghiệp cách mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị đề cao dân chủ, thượng
tôn quyền lực của nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vị trí,
vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân,
chính lịch sử thừa nhận.
Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính
trị Việt Nam được quy định ở nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp, Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính
phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật, Luật Giám sát của Quốc hội…
Một trong những nội dung quan trọng trong cải cách bộ máy nhà nước
ta hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, để Mặt trận Tổ quốc làm tròn trách nhiệm
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
39
Chương 2
THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ
MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
2.1. Những hoạt động chủ yếu thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nƣớc
và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
2.1.1. Phối hợp vận động nhân dân tham gia công tác bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
Để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân được tiến hành tốt nhất, nhằm thực hiện sự phối hợp giữa Mặt trận và
chính quyền trong việc vận động nhân dân tham gia bỏ phiếu lựa chọn đại
biểu tin cậy nhất của mình, tất yếu phải thực hiện theo các yêu cầu như sau:
Thứ nhất, Mặt trận phải lựa chọn, giới thiệu được những người đủ tiêu
chuẩn ra ứng cử qua các bước hiệp thương theo quy định của pháp luật. Đây
là công việc hết sức quan trọng để vừa có được danh sách những người ứng
cử hợp lý, vừa đảm bảo cả về số lượng, chất lượng, đồng thời thể hiện được
cơ cấu các thành phần đại diện cho ý nguyện và trí tuệ của các tầng lớp nhân
dân. Quá trình hiệp thương được diễn ra theo nhiều bước, nhưng bất cứ bước
nào cũng nhất thiết phải dựa vào ý kiến đa số của các cử tri nơi công tác, nơi
cư trú để lựa chọn, không phân biệt người do cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc người tự ứng cử. Quá trình tổ chức hiệp
thương là quá trình lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, thu thập và xử
lý các thông tin đa dạng, nhiều chiều. Mặt trận Tổ quốc có làm tròn chức năng
là nơi thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân hay không
là ở chỗ có phản ánh được hay không ý kiến, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân trong việc lựa chọn người đại diện xứng đáng của mình vào các cơ
quan quyền lực nhà nước.
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam
Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam

More Related Content

What's hot

Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc, HAY - Gửi miễn phí q...
Luận án: Pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc, HAY - Gửi miễn phí q...Luận án: Pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc, HAY - Gửi miễn phí q...
Luận án: Pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc, HAY - Gửi miễn phí q...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (19)

Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà NẵngLuận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
 
Đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOT
Đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOTĐề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOT
Đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOTĐề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về dân chủ cơ sở tại Hưng Yên, HAY
Luận văn: Pháp luật về dân chủ cơ sở tại Hưng Yên, HAYLuận văn: Pháp luật về dân chủ cơ sở tại Hưng Yên, HAY
Luận văn: Pháp luật về dân chủ cơ sở tại Hưng Yên, HAY
 
Luận văn: Vai trò của HĐND trong hệ thống chính trị huyện Nhà Bè
Luận văn: Vai trò của HĐND trong hệ thống chính trị huyện Nhà BèLuận văn: Vai trò của HĐND trong hệ thống chính trị huyện Nhà Bè
Luận văn: Vai trò của HĐND trong hệ thống chính trị huyện Nhà Bè
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Luận án: Pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc, HAY - Gửi miễn phí q...
Luận án: Pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc, HAY - Gửi miễn phí q...Luận án: Pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc, HAY - Gửi miễn phí q...
Luận án: Pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc, HAY - Gửi miễn phí q...
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Hoạt động giám sát, phản biện xã hội tỉnh Tiền Giang
Luận văn: Hoạt động giám sát, phản biện xã hội tỉnh Tiền GiangLuận văn: Hoạt động giám sát, phản biện xã hội tỉnh Tiền Giang
Luận văn: Hoạt động giám sát, phản biện xã hội tỉnh Tiền Giang
 
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOTLuận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, HOT
 
Tổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đ
Tổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đTổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đ
Tổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đ
 
Đề tài: Thực hiện dân chủ ở xã huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, HAY
Đề tài: Thực hiện dân chủ ở xã huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, HAYĐề tài: Thực hiện dân chủ ở xã huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, HAY
Đề tài: Thực hiện dân chủ ở xã huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, HAY
 
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, tỉnh Phú Yên
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, tỉnh Phú YênLuận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, tỉnh Phú Yên
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, tỉnh Phú Yên
 
Chính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, HAY
Chính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, HAYChính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, HAY
Chính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, HAY
 
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOTLuận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
 
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động chính quyền cấp xã
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động chính quyền cấp xãGiám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động chính quyền cấp xã
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động chính quyền cấp xã
 
Luận văn: Hoạt động chất vấn của Hội đồng nhân dân TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động chất vấn của Hội đồng nhân dân TP Đà NẵngLuận văn: Hoạt động chất vấn của Hội đồng nhân dân TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động chất vấn của Hội đồng nhân dân TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã huyện Củ Chi, HAY
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã huyện Củ Chi, HAYLuận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã huyện Củ Chi, HAY
Luận văn: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã huyện Củ Chi, HAY
 
Luận văn: Hoạt động của chính quyền xã tại tỉnh Hưng Yên, HOT
Luận văn: Hoạt động của chính quyền xã tại tỉnh Hưng Yên, HOTLuận văn: Hoạt động của chính quyền xã tại tỉnh Hưng Yên, HOT
Luận văn: Hoạt động của chính quyền xã tại tỉnh Hưng Yên, HOT
 

Similar to Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam

Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Nhà Nước Và Mặt Trận Tổ Quốc Trong Hệ Thống Chính T...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Nhà Nước Và Mặt Trận Tổ Quốc Trong Hệ Thống Chính T...Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Nhà Nước Và Mặt Trận Tổ Quốc Trong Hệ Thống Chính T...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Nhà Nước Và Mặt Trận Tổ Quốc Trong Hệ Thống Chính T...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM_10222212052019
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM_10222212052019GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM_10222212052019
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM_10222212052019PinkHandmade
 
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdfTai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdfMaiPhuong883623
 
Vai trò của hệ thống chính trị trong quyền làm chủ của nhân dân, HAY - Gửi mi...
Vai trò của hệ thống chính trị trong quyền làm chủ của nhân dân, HAY - Gửi mi...Vai trò của hệ thống chính trị trong quyền làm chủ của nhân dân, HAY - Gửi mi...
Vai trò của hệ thống chính trị trong quyền làm chủ của nhân dân, HAY - Gửi mi...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam (20)

Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Nhà Nước Và Mặt Trận Tổ Quốc Trong Hệ Thống Chính T...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Nhà Nước Và Mặt Trận Tổ Quốc Trong Hệ Thống Chính T...Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Nhà Nước Và Mặt Trận Tổ Quốc Trong Hệ Thống Chính T...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Nhà Nước Và Mặt Trận Tổ Quốc Trong Hệ Thống Chính T...
 
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAYĐề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt NamLuận văn: Giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam
 
Luận án: Giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Luận án: Giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt NamLuận án: Giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Luận án: Giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam
 
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM_10222212052019
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM_10222212052019GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM_10222212052019
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM_10222212052019
 
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdfTai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
 
Vai trò của hệ thống chính trị trong quyền làm chủ của nhân dân, HAY - Gửi mi...
Vai trò của hệ thống chính trị trong quyền làm chủ của nhân dân, HAY - Gửi mi...Vai trò của hệ thống chính trị trong quyền làm chủ của nhân dân, HAY - Gửi mi...
Vai trò của hệ thống chính trị trong quyền làm chủ của nhân dân, HAY - Gửi mi...
 
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
 
Đề tài: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã tỉnh Phú Yên, HAY
Đề tài: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã tỉnh Phú Yên, HAYĐề tài: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã tỉnh Phú Yên, HAY
Đề tài: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã tỉnh Phú Yên, HAY
 
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dânLuận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
 
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOTĐề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
 
Hoạt Động Giám Sát Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Đối Với Các Cơ Quan Nhà Nước
Hoạt Động Giám Sát Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Đối Với Các Cơ Quan Nhà NướcHoạt Động Giám Sát Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Đối Với Các Cơ Quan Nhà Nước
Hoạt Động Giám Sát Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Đối Với Các Cơ Quan Nhà Nước
 
On thi toan
On thi toanOn thi toan
On thi toan
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Tổ chức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
 
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAYLuận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
 
mối quan hệ giữa nhà nƣớc và mặt trận.doc
mối quan hệ giữa nhà nƣớc và mặt trận.docmối quan hệ giữa nhà nƣớc và mặt trận.doc
mối quan hệ giữa nhà nƣớc và mặt trận.doc
 
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAYVai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAYLuận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
 

Duonglap-Mỗi quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH VĂN LƢƠNG MèI QUAN HÖ GI÷A NHµ N¦íC Vµ MÆT TRËN Tæ QUèC TRONG HÖ THèNG CHÝNH TRÞ VIÖT NAM Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN NHO THÌN HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin trân trọng cám ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đinh Văn Lương
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM ............................ 7 1.1. Mặt trận Tổ quốc - Thành tố quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam......................................................................................... 7 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Mặt trận Tổ quốc qua các giai đoạn cách mạng Việt Nam ............................................................ 7 1.1.2. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam......10 1.1.3. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam......................................................13 1.1.4. Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam..............................................................................20 1.2. Cơ sở pháp lý ....................................................................................26 1.2.1. Các văn bản pháp luật quy định mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam ........................26 1.2.2. Những nội dung cơ bản thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam ..........29 Tiểu kết Chƣơng 1.........................................................................................38
  • 4. Chƣơng 2: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM........................................................................................39 2.1. Những hoạt động chủ yếu thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam ...39 2.1.1. Phối hợp vận động nhân dân tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp..............................39 2.1.2. Phối hợp vận động nhân dân tham gia giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở............................................................................48 2.1.3. Phối hợp vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, phối hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân ..........................57 2.1.4. Phối hợp vận động nhân dân tham gia hoạt động tố tụng, tuyển chọn Thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm nhân dân................................63 2.1.5. Phối hợp vận động nhân dân đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp, kiểm sát, giám sát các hoạt động tư pháp, tham gia hoạt động tố tụng, tuyển chọn Kiểm sát viên......................................................................................68 2.2. Những tồn tại, hạn chế trong mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam..................73 2.2.1. Những tồn tại, hạn chế .......................................................................73 2.2.2. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ......................................................80 Tiểu kết Chƣơng 2.........................................................................................82 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM.............83 3.1. Bối cảnh quốc tế, bối cảnh trong nƣớc tác động tới tâm tƣ, tình cảm, đời sống của các tầng lớp nhân dân ..............................83
  • 5. 3.2. Quan điểm và phƣơng hƣớng của Đảng, Nhà nƣớc và Mặt trận tổ quốc nhằm tăng cƣờng, phát huy mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam.......89 3.3. Một số giải pháp nhằm tăng cƣờng, phát huy mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và Mặt trận tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam............................................................................................92 3.3.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam...............................................................92 3.3.2. Cụ thể hoá vai trò của quần chúng nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh...............95 3.3.3. Sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo hướng làm rõ hơn địa vị pháp lý của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị......98 3.3.4. Đổi mới nhận thức và hành động của Mặt trận Tổ quốc các cấp trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.......................................99 3.3.5. Cần có hệ thống chế tài phù hợp khi không thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Mặt trận Tổ quốc với bộ máy chính quyền các cấp ...................................................................................103 3.3.6. Trang bị cơ sở vật chất, nguồn tài chính ổn định, độc lập để Mặt trận Tổ quốc hoạt động thực sự có hiệu quả trong hệ thống chính trị Việt Nam......................................................................................105 3.3.7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế....107 Tiểu kết Chƣơng 3.......................................................................................109 KẾT LUẬN..................................................................................................110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................113
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong xã hội có rất nhiều những thiết chế chính trị - xã hội, giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, cùng tồn tại và hoạt động nhằm đảm bảo sự tồn tại, phát triển của toàn xã hội và bảo vệ lợi ích cũng như thực hiện mục đích của giai cấp thống trị xã hội. Liên minh các thiết chế đó chính là hệ thống chính trị. Mỗi xã hội đều có hệ thống chính trị riêng. Theo đó, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa chính là liên minh các thiết chế chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động trong mối quan hệ chặt chẽ mà vai trò lãnh đạo thuộc về Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm thực hiện triệt để quyền lực nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa bao gồm Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng khác. Xây dựng hệ thống chính trị là nhằm thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng hệ thống chính trị phải gắn liền với xây dựng chính quyền nhân dân, đây được coi là một tất yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, dựa trên nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh “Lấy dân làm gốc”. Thể chế chính trị của nước ta được tuân theo nguyên tắc, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây được coi là cơ chế chung trong quản lý xã hội nhằm khẳng định bản chất của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc là ngôi nhà chung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động các giai cấp, các
  • 7. 2 tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các thành phần kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tuyên truyền sâu rộng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc là mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau để cùng thực hiện nhiệm vụ chung của đất nước. Lịch sử hào hùng đã chứng minh, Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức không thể thiếu trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, là cầu nối bền chặt giữa nhân dân với Đảng với Nhà nước, luôn song hành cùng Nhà nước hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của dân tộc. Tuy nhiên, trên thực tế, vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc nói riêng chưa được đánh giá đúng và đầy đủ, từ đó dẫn đến những hạn chế trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt khác, với tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, thì việc tăng cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã và đang trở thành nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, cấp bách hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây cũng là lý do để tôi chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ khoa học, ngành Luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Như đã đề cập ở trên, để tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
  • 8. 3 dân, do dân, vì dân được coi là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và cấp bách của toàn Đảng, toàn dân ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Do vậy, chủ đề này đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể kể đến một số công trình, bài viết như: - Đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh (Đỗ Mười - Lê Quang Đạo), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. - Đại đoàn kết dân tộc phát huy nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Vũ Oanh), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998. - Đại đoàn kết dân tộc - động lực chủ yếu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), Kỷ yếu Hội thảo khoa học - thực tiễn, Hà Nội, 2002. - Lịch sử Mặt trận dân tộc Thống nhất Việt Nam, quyển III (1975- 2004), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007. - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác Mặt trận, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. - Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh (Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), Kỷ yếu Hội thảo khoa học - thực tiễn, Hà Nội, 2005. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Ngoài ra, trên các sách, tạp chí khoa học, báo… cũng có một số bài viết, nghiên cứu về mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức, đoàn thể khác.
  • 9. 4 Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả từ trước đến nay đã góp phần rất lớn trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung, cũng như mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này chưa nhiều nên chưa đáp ứng được yêu cầu trước tình hình thực tiễn của đất nước. Đặc biệt, chưa có một công trình chuyên khảo trực tiếp nào về mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ những lý luận và thực tiễn mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam, tăng cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nêu lên những nội dung về mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam. - Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được cũng như những mặt hạn chế, tồn tại trong mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong thời gian qua, đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân của hạn chế, tồn tại. - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm tăng cường, phát huy mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam.
  • 10. 5 4. Phƣơng pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận 4.1. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu dựa trên phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và các phương pháp khác như khảo cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp… các tài liệu liên quan. 4.2. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận chủ yếu là các Văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng; các Văn bản quy phạm pháp luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua các thời kỳ; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc nhiệm kỳ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các khoá III, IV, V, VI, VII; Văn kiện các Hội nghị Đoàn chủ tịch, Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hàng năm, các khoá III, IV, V, VI, VII. Ngoài ra, nguồn tài liệu là các báo cáo công tác hàng tháng, hàng quý, hàng năm và các báo cáo chuyên đề của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được lưu giữ tại cơ quan Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; một số công trình nghiên cứu về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài Đề tài sau khi được hoàn thành sẽ có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trên các nội dung cụ thể sau: - Về mặt lý luận: Luận văn đề cập tới mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam nhằm tăng cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. - Về mặt thực tiễn: Luận văn sẽ đưa ra các giải pháp mang tính khả thi nhằm tăng cường và phát huy hơn nữa mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam, từ đó nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn
  • 11. 6 dân tộc, phát huy hơn nữa tinh thần và quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 3 chương - Chương 1: Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam. - Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam. - Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam.
  • 12. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM 1.1. Mặt trận Tổ quốc - Thành tố quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Mặt trận Tổ quốc qua các giai đoạn cách mạng Việt Nam Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện nay. Sự quy định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị: nước ta là một nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vị trí, vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Từ Hội phản đế đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, đến nay Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã trải qua lịch sử hơn 80 năm xây dựng và không ngừng phát triển cùng với những chặng đường lịch sử vẻ vang của Cách mạng Việt Nam. Tháng 10/1930 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Luận cương chính trị, đồng thời ra “Án nghị quyết về vấn đề phản đế”. Ngày 18/11/1930 Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh. Bản Chỉ thị đã đề ra những nội dung cơ bản về tính chất, nhiệm vụ và những biện pháp xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở phân tích hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, đặc biệt là mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Bản chỉ thị xác định Hội phản đế đồng minh phải bảo đảm tính công nông, đồng thời phải mở rộng tới các thành phần trong dân tộc để Mặt trận thực sự là của toàn dân.
  • 13. 8 Hội phản đế đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất ra đời đã gây được cao trào phản đế mạnh mẽ trong cả nước, có ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp quần chúng, đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta trong quá trình tổ chức và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất. Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945), Đảng đã lần lượt thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dƣơng (sau đổi tên thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương), Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế, Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong 2 ngày 16 và 17/8/1945 đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản kiến nghị, thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định Quốc kỳ, Quốc ca. Đại hội đã cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam, sau này trở thành Chính phủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 29/5/1946, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt) tuyên bố thành lập. Thực hiện lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt đã ra sức tuyên truyền vận động nhân dân tham gia kháng chiến. Ngày 3/3/1951, Đại hội toàn quốc Mặt trận thống nhất Việt Minh - Liên Việt lấy tên là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt) được tiến hành. Qua 9 năm kháng chiến, Mặt trận Liên Việt trở thành một trong những trụ cột của Nhà nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên của công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp tại Hà Nội ngày 10/9/1955 đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thông qua Cương lĩnh
  • 14. 9 nhằm đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Từ cao trào đấu tranh của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời với bản Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm, nội dung cơ bản là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân với mục tiêu đấu tranh “Phải hoà bình! Phải độc lập! Phải dân chủ! Phải cơm no, áo ấm! Thống nhất tổ quốc!” nhằm đánh đổ chế độ độc tài tay sai của đế quốc Mỹ. Ngày 20/4/1968 trên cơ sở thắng lợi và khí thế của Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, Liên minh các lực lƣợng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam ra đời, nhằm đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ của tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở thành thị, đã mở rộng thêm một bước Mặt trận chống Mỹ cứu nước. Cuộc tổng tiến công và nội dậy mùa Xuân 1975 toàn thắng. Sau khi thống nhất đất nước, từ ngày 31/1 đến 4/2/1977, tại thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam quyết định thống nhất 3 tổ chức Mặt trận ở hai miền lấy tên chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cho đến nay Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã trải qua 7 kỳ Đại hội. Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có những hình thức, tên gọi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ, nhưng đều nhằm mục đích xây dựng, tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một khối đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh để hoàn thành mục tiêu cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo thực hiện. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn thể hiện là một liên minh chính trị có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền tảng và động lực góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu
  • 15. 10 tranh giải phóng dân tộc, đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. 1.1.2. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - một hình thức cụ thể, hiện thân của Mặt trận dân tộc Thống nhất Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị rộng lớn, một bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, từ khi ra đời đến nay đã không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong những nhân tố quyết định của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Điều 1, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 ghi rõ: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư tại nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp, thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh [34, Điều 1]. Cũng giống như tất cả các tổ chức chính trị - xã hội khác, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện vị trí và vai trò của mình thông qua các chức năng cơ bản sau đây:
  • 16. 11 - Chức năng phản ánh yêu cầu, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của quần chúng nhân dân Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời nhằm tập hợp tất các các lực lượng yêu nước, tiến bộ, thể hiện ý chí, nguyện vọng đấu tranh vì độc lập tự do và hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo ở Việt Nam. Trong Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân như công nhân, nông dân, thợ thủ công, những nhà buôn, những nhà tư sản dân tộc, các điền chủ, các nhà trí thức yêu nước, những quan lại cũ, những chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, các dân tộc và người Việt Nam định cư ở nước ngoài… Ở họ có điểm tương đồng là lợi ích quốc gia, truyền thống quý báu, bản sắc văn hoá, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Do vậy, chức năng phản ánh yêu cầu, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của quần chúng nhân dân cần phải được nhận thức đúng đắn và đầy đủ. - Chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua các tổ chức thành viên và các cuộc vận động, các phong trào cách mạng mang tính toàn dân để tập hợp và đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chịu trách nhiệm hiệp thương danh sách bầu cử và tham gia các hoạt động bầu cử đại biểu vào cơ quan dân cử các cấp. Chức năng tuyên truyền, thuyết phục, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thể hiện qua các nội dung:
  • 17. 12 + Tuyên truyền và vận động quẩn chúng nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. + Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc. + Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân, các hội viên và thành viên của của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện theo đúng tôn chỉ, mục đích hoạt động của tổ chức. + Tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ quan Nhà nước, xây dựng và bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. + Động viện các thành viên và mọi tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong thực hiện nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. - Chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với các cơ quan, cán bộ viên chức nhà nước và hệ thống chính trị Giám sát và phản biện việc xây dựng và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là một chức năng rất cơ bản, là một nhiệm vụ rất quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phản ánh sâu sắc bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống chính trị của nhà nước ta, quyền giám sát được quy định trong những văn kiện của Đảng, cơ quan quyền lực Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài quyền giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ; Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân, Nhà nước còn cần được giám sát bởi Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, để nhà nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thực chất và mục tiêu cơ bản của việc thực hiện ba chức năng đó là tạo nên một cơ chế giám sát quyền lực trong xã hội, làm cho sự lãnh đạo của
  • 18. 13 Đảng và sự quản lý của Nhà nước bảo đảm thực hiện yêu cầu dân chủ hoá, chống chủ nghĩa quan liêu và chủ quan duy ý chí trong mọi hoạt động. 1.1.3. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhất quán quan điểm, Nhà nước ta là Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng cơ bản như sau: + Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Nhà nước pháp quyền thể hiện quyền lực nhà nước một cách chính đáng nhất. Trong khuôn khổ của một chế độ chính trị, quyền lực nhà nước phải được xác lập và thực hiện trên cơ sở nhân dân đích thực là người chủ quyền lực. Việc sử dụng và thực thi quyền lực nhà nước phải phản ánh cho được sự tôn trọng đó. Quyền lực nhà nước phải là sản phẩm ý chí của nhân dân. Nhân dân ta, người chủ quyền lực, không chỉ tạo lập nên nhà nước của mình, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền
  • 19. 14 lực, mà còn thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như các hoạt động thuộc phạm vi của nhà nước: hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý - điều hành, hoạt động tư pháp. + Thứ hai, Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Một trong những quan điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Nguyên tắc thống nhất quyền lực này xuất phát từ chỗ tất cả quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước. Mỗi cơ quan có chức năng và nhiệm vụ nhất định trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có cơ quan nào đứng một cách biệt lập mà có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện quyền lực nhân dân. + Thứ ba, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận và thể hiện vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội; tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc
  • 20. 15 tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân. Như vậy Hiến pháp là điều kiện để bảo đảm chính đáng về mặt pháp lý của các thiết chế quyền lực nhà nước. Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước ta là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì và thực hiện quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của nhà nước. + Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện mối quan hệ qua lại giữa nhà nước với công dân, giữa nhà nước và xã hội, tôn trọng bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong bất kỳ xã hội nào cũng cần có sự kết hợp cần thiết giữa các loại lợi ích xã hội. Ở quốc gia nào thì pháp luật cũng luôn luôn là đại lượng chung nhất, cái có tính bắt buộc chung cho cả xã hội, dù bản chất giai cấp của nó có độ đậm đặc đến đâu đi chăng nữa. Tuy nhiên, không phải vì đã có cái “đại lượng chung” đó rồi mà không còn nhu cầu phân biệt các lợi ích xã hội, không còn “không gian” cho các lợi ích khác nhau trong xã hội. Nhà nước là người đại diện cho lợi ích công, công dân đại diện cho lợi ích cá nhân. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền, vì vậy gắn với vấn đề xã hội công dân. Cùng với sự ra đời của xã hội công dân, lần đầu tiên trong lịch sử loài người mọi người được thừa nhận là bình đẳng trong xã hội, bất kể họ là ai về thành phần và nguồn gốc xuất thân, có các quyền và tự do được pháp luật thừa nhận, có khả năng tự biểu hiện nhân cách và ý chí, tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình và các hậu quả của hành vi đó. Công dân có thể làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Còn cán bộ, công chức nhà nước và các cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật quy định.
  • 21. 16 + Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm và thực hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế. Đường lối đó liên quan đến mối quan hệ của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các quốc gia, các khu vực, các tổ chức và cộng đồng quốc tế. Và để thực hiện được đường lối đó,cần phải có nhiều phương thức hoạt động trên nhiều mặt. Là công cụ quản lý tổ chức và điều chỉnh của nhà nước, pháp luật đóng vai trò rất quan trọng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ nói trên. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế phục vụ cho chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế. + Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử và cũng là tất yếu khách quan. Từ khi giành được chính quyền cách mạng đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã đương nhiên trở thành Đảng cầm quyền. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trên những nội dung trọng yếu sau: * Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, đảm bảo cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trở thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội. * Lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. * Lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Đảng phải tăng cường công tác kiểm tra các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, đảm bảo cho các cơ
  • 22. 17 quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. Nhìn tổng quát, nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là rất toàn diện và bao quát toàn bộ những vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Với các đặc trưng nói trên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân có một vị trí rất quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta và có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi việc xây dựng, tăng cường, kiện toàn Nhà nước là một nhiệm vụ hàng đầu, làm cho Nhà nước thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu, vững mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [14, tập 7, tr.267]. Thấu suốt quan điểm “Lấy dân làm gốc”, Người chỉ rõ: “Trong bầu trời không có gì quý bằng dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Dân là chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [14, tập 7, tr.410, tr.544]. Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí và vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Dân làm chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện ở những nội dung chủ yếu: + Nhân dân tham gia xây dựng các tổ chức, bộ máy của hệ thống
  • 23. 18 quyền lực nhà nước và lực chọn các đại biểu của mình bằng bầu cử, theo phương thức dân chủ đại diện, từ bầu cử Quốc hội đến bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. + Nhân dân tham gia các công việc quản lý nhà nước để thực hiện quyền lực của mình. Cụ thể là các việc: thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự thảo luật, xây dựng hoặc sửa đổi Hiến pháp và các văn bản luật, các quy định, quy chế mang tính pháp lý; đề xuất các kiến nghị với chính quyền các cấp thông qua các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân những vấn đề về pháp luật và chính sách liên quan tới cuộc sống của mình. + Nhân dân tham gia đánh giá chính sách của nhà nước, đưa ra những kiến nghị điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của mình. + Nhân dân đánh giá, nhận xét và chất vấn về hoạt động của các cơ quan nhà nước, về thực hiện nhiệm vụ của các đại biểu được nhân dân uỷ quyền, giám sát công việc, hành vi, tư cách của họ thể hiện trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân. + Nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, phát hiện và đề nghị kiểm tra, xử lý các biểu hiện tiêu cực, các vi phạm về chính sách, pháp luật, đạo đức của các cơ quan cũng như cán bộ công chức nhà nước. + Nhân dân có quyền đòi các tổ chức, cơ quan nhà nước và cán bộ công chức, đặc biệt là những người có có chức, có quyền, có trọng trách do nhân dân uỷ thác phải cung cấp thông tin kịp thời theo đúng quy định được ban hành cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Quy chế dân chủ cơ sở phải chú trọng vấn đề này, coi đây là công cụ pháp lý bảo đảm thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Các đại biểu của nhân dân và chính quyền của nhân dân phải thực hiện chế độ trách nhiệm, kỷ luật công vụ và đạo đức công chức trong sự
  • 24. 19 giám sát thường xuyên của nhân dân. Bằng những việc làm cụ thể đó, nhân dân không những tham gia xây dựng và tổ chức nên những cơ quan quyền lực, tham gia quản lý để thực thi quyền lực mà còn tham gia vào kiểm soát quyền lực nhà nước. Việc thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước còn đồng thời gắn liền với việc nhân dân thực hiện các nghĩa vụ công dân của mình đối với nhà nước. Các quyền và nghĩa vụ này được ghi trong Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến chính sách và pháp luật cho dân biết, dân hiểu, dân tự giác thực hiện. Giáo dục ý thức pháp luật trong toàn dân, từng bước hình thành văn hoá pháp luật, nhu cầu và thói quen tôn trọng pháp luật, tạo ra tập quán pháp luật trong đời sống xã hội. Cần tiến hành một cách công phu, bền bỉ với những biện pháp đồng bộ, những hình thức vận động, tuyên truyền, giáo dục thiết thực cũng như áp dụng những chế tài cần thiết để mọi công dân nghiêm chỉnh chấp hành chế độ trách nhiệm, kỷ luật công vụ và đạo đức công chức, kết hợp sức mạnh đạo đức với sức mạnh điều tiết, kiểm soát của pháp luật để tạo ra sự lành mạnh xã hội, tính minh bạch, công nghiêm của pháp luật. Với cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, viên chức nhà nước, nếu thiếu vắng chế độ trách nhiệm, nếu không có những quy định pháp luật rõ ràng, minh bạch và những chế tài nghiêm ngặt để buộc thực hiện và xử lý các hậu quả tiêu cực xảy ra theo chế độ trách nhiệm thì đó sẽ là môi trường thuận lợi cho sự vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, làm tổn hại đến quyền lực nhà nước. Để phát huy dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải làm rõ mối quan hệ giữa công dân với nhà nước. Đó là mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, giữa lợi ích với trách nhiệm, giữa cán bộ công chức với nhân dân, giữa đại
  • 25. 20 biểu với cử tri. Những mối quan hệ này phải được thể chế hoá, phải được pháp luật điều tiết với sự hỗ trợ, thúc đẩy mạnh mẽ của đạo đức, của văn hoá. Trong lĩnh vực xây dựng nhà nước, những quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân được thể hiện bằng hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tức là thông qua các đại biểu nhân dân do dân bầu ra, dân kiểm tra, giám sát và có quyền bãi miễn. Bên cạnh đó dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân còn được thực hiện bằng các hoạt động tự quản trong cộng đồng thông qua hương ước, quy ước, vừa có tính pháp lý, vừa có ý nghĩa văn hoá. Các quan hệ trong đời sống xã hội do nhân dân tự dàn xếp, giải quyết trên tinh thần hoà giải, đồng thuận, đoàn kết. Trong quản lý xã hội, việc phát huy dân chủ và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân được thể hiện: nhân dân tham gia quản lý xã hội thông qua nhà nước bằng sự phối kết hợp giữa các tổ chức, các phong trào, các nguồn lực để thực hiện phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội. Như vậy, việc hoàn thiện hệ thống chính trị, trước hết là xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội như ứng cử, đề cử, bầu cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, tuyển chọn, bố trí, giám sát đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có đủ đức, đủ tài để phục vụ nhân dân; tham gia đông đảo và có tính chất quyết định hơn trong cuộc đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực như quan liêu, cửa quyền, tham nhũng… 1.1.4. Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam Hệ thống chính trị nước ta bao gồm ba tổ chức, đó là: Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, với phương thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
  • 26. 21 nhân dân làm chủ. Trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho nhân dân, có vai trò hết sức to lớn trong việc tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đây cũng là sứ mệnh lịch sử mà Đảng giao phó cho Mặt trận Tổ quốc. Mỗi giai đoạn cách mạng, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử khác nhau, Mặt trận Tổ quốc luôn thực hiện tốt vai trò vẻ vang của mình. Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc là hai tổ chức cùng nằm trong hệ thống chính trị. Tuy có vị trí và vai trò khác nhau, nhưng cùng chung một mục tiêu, một điểm tương đồng đó là vì lợi ích của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng rãi nhất của các tổ chức và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, các thành phần kinh tế và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Do đặc điểm này mà Mặt trận Tổ quốc có những điều kiện để phối hợp với Nhà nước tập hợp, vận động đông đảo các tầng lớp nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp tham gia xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận giới thiệu những người có đủ tiêu chuẩn và điều kiện để quần chúng nhân dân bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước. Theo quan điểm của Đảng ta, cải cách bộ máy nhà nước còn bao hàm một nội dung quan trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng, quản lý, giám sát và bảo vệ nhà nước, nhà nước dựa vào Mặt trận và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân. Đó cũng chính là sức mạnh của bản thân nhà nước. Trong quá trình ra quyết định và quản lý, điều hành, Quốc hội và Hội
  • 27. 22 đồng nhân dân, Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước cần có quy chế tổ chức và cơ chế hoạt động giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một nét độc đáo trong lý luận và thực tiễn cách mạng nước ta. Đảng là một thành viên của Mặt trận nhưng với tư cách là thành viên giữ vai trò lãnh đạo, thông qua Mặt trận để tập hợp các lực lượng quần chúng nhân dân tự nguyện theo Đảng làm cách mạng. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay quan điểm của Đảng là phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở các cấp, các ngành để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013 đã xác định rõ tính chất, nội dung, quan hệ, quyền và trách nhiệm của mỗi bên trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận, đây là cơ sở cụ thể hoá thành các quy định của pháp luật. Thể chế hoá Hiến pháp, nhiều đạo luật đã quy định cụ thể mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận, giữa Uỷ ban Mặt trận với cơ quan Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhân dân, trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, công tác tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc… điển hình trong việc thể chế Hiến pháp là Nhà nước đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó quy định cụ thể nguyên tắc của mối quan hệ, hình thức của mối quan hệ. Quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc là quan hệ phối hợp để
  • 28. 23 thực hiện nhiệm vụ chính trị, quyền hạn theo quy định của pháp luật, trên cơ sở quy chế phối hợp công tác do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan Nhà nước hữu quan ở từng cấp ban hành. Đây là phương thức thể hiện quan hệ phối hợp giữa Mặt trận và Nhà nước ở mỗi cấp hành chính. Ở Trung ương, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Quốc Hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông qua quy chế phối hợp công tác giữa Đoàn Chủ tịch với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, giữa Đoàn Chủ tịch với lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao. Ban Thường trực ký quy chế phối hợp công tác với lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ. Ở địa phương, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ký quy chế với Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ban Thường trực ký quy chế phối hợp công tác với lãnh đạo các sở, ngành cùng cấp. Nguyên tắc của mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước là quan hệ phối hợp để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bên tham gia theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc của sự phối hợp là bình đẳng, hợp tác, tạo điều kiện để mỗi bên thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình. Sở dĩ Nhà nước phải phối hợp với Mặt trận vì bản chất nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực của nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhà nước có chức năng quản lý toàn bộ đất nước. Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân. Nhà nước và Mặt trận đều do Đảng lãnh đạo. Tuỳ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm có khác nhau nhưng đều là công cụ của nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
  • 29. 24 Thực hiện các quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về quan hệ phối hợp công tác, đến nay tất cả các tỉnh, thành phố, các quận, huyện, xã, phường, thị trấn trong cả nước đều đã xây dựng và ban hành quy chế phối hợp công tác ở mỗi cấp. Sự phối hợp công tác giữa Mặt trận với Nhà nước đã đi vào nề nếp theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, qua 15 năm thực hiện Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về quan hệ phối hợp công tác giữa Nhà nước và Mặt trận còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế sau: - Nhận thức trong hệ thống chính trị chưa đầy đủ và thống nhất về cơ sở của mối quan hệ, tính chất, nội dung, quyền và trách nhiệm của mỗi bên trong mối quan hệ giữa cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở mỗi cấp, nhất là cấp cơ sở. Bản thân cán bộ Mặt trận còn tự ti, e dè trong việc thực hiện các mối quan hệ. - Phương thức quan hệ giữa Uỷ ban Mặt trận với cơ quan Nhà nước chưa được thực hiện rộng rãi trên các mặt công tác của mỗi bên. Các cấp ở địa phương mới chỉ xây dựng quy chế phối hợp giữa Mặt trận với Hội đồng nhân dân, với Uỷ ban nhân dân, chưa mở rộng sự phối hợp thông qua các văn bản liên tịch nhiều bên, giữa cơ quan Nhà nước với Ban Thường trực Mặt trận. - Trong phối hợp công tác thông qua các văn bản liên tịch sự bình đẳng, tạo điều kiện từ phía cơ quan Nhà nước còn hạn chế, tư tưởng xin - cho, ban ơn vẫn hiện hữu ở nơi này, cấp nọ trong mối quan hệ phối hợp giữa hai bên. Như vậy, mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc là quan hệ hợp tác, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Quyền hạn của Mặt trận đã được Hiến pháp và pháp luật quy định, Mặt trận hoạt động theo pháp luật và quy chế làm việc đã được thoả thuận giữa Mặt trận và chính quyền. Mặt trận tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ Nhà nước như: vận động
  • 30. 25 các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, bầu ra cơ quan dân cử, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ viên chức nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật và chính sách; đóng góp ý kiến với cơ quan nhà nước các cấp, vận động nhân dân tham gia xây dựng các quy ước, quy chế trên địa bàn cư trú về các vấn đề liên quan đến đời sống, nghĩa vụ và lợi ích của công dân phù hợp với pháp luật. Mặt trận tham gia tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhân dân, đấu tranh chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, gây phiền hà cho dân, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của dân. Nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ nhà nước. Đó cũng là sức mạnh của bản thân nhà nước. Trong quá trình ra các quyết định về quản lý và điều hành, chính quyền các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước căn cứ quy chế tổ chức và cơ chế hoạt động để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận. Nhà nước cần tiếp tục thể chế hoá quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội và xây dựng cuộc sống tự quản của dân. Nhà nước phối hợp với Mặt trận trong việc chăm lo lợi ích chính đáng của nhân dân, trong việc vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong trào hành động, thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế xã hội. Một trong những nội dung quan trọng trong cải cách bộ máy nhà nước hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, để Mặt trận làm tròn trách nhiệm là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Thực hiện thành nề nếp việc Đảng, Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận về những quyết định chủ trương lớn.
  • 31. 26 1.2. Cơ sở pháp lý 1.2.1. Các văn bản pháp luật quy định mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền được quy định ở nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Giám sát của Quốc hội… - Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013, quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [31, Điều 9, khoản 1]. Ngoài ra còn một số điều luật khác của Hiến pháp quy định về mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. - Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 đã cụ thể hoá Hiến pháp 1992 về vai trò, vị trí, tính chất và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đồng thời tổng hợp các quyền và trách nhiệm của Mặt trận đã được quy định
  • 32. 27 ở một số đạo luật liên quan. Việc Quốc hội ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có một ý nghĩa rất quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục nâng cao vai trò của mình trong sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực, sự sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững mạnh. Trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phấn đấu để làm tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng với Nhà nước, để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực sự là nơi tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi thực hiện ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Thực hiện mục đích và ý nghĩa trên, tại các điều 7, 8, 9, 10, 11, 12… của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã quy định chi tiết quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. - Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, quy định: Chính phủ phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả. Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và các đoàn thể nhân dân động viên, tổ chức nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ và viên chức nhà nước [38, Điều 39].
  • 33. 28 - Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy định về mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; về công tác phối hợp giữa Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân với Mặt trận Tổ quốc chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân; Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tổ chức, vận động nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, viên chức nhà nước; trong quá trình giám sát hoạt động của đại biểu, Mặt trận đề nghị Hội đồng nhân dân bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân khi không còn xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân. - Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997, quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội; tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử, giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội và các giai đoạn khác của cuộc bầu cử” [32, Điều 5]. - Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003, quy định: Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử, giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và các giai đoạn khác của cuộc bầu cử [33, Điều 6]. - Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, quy định: Toà án phối hợp với các cơ quan, trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để nghiên cứu, thực hiện những chủ trương, biện pháp nhằm phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giới thiệu người để Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu làm Hội thẩm nhân dân tại Toà án nhân dân địa phương [39, Điều 15, 41].
  • 34. 29 1.2.2. Những nội dung cơ bản thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999, quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phối hợp, tham gia với các cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, vận động nhân dân đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội [34, Điều 7, khoản 1, 2]. Vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc phối hợp với các cơ quan nhà nước để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân xây dựng chính quyền là một vai trò rất to lớn và quan trọng, bởi vì việc tạo điều kiện cho nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực của mình cũng như phải lắng nghe, thực hiện ý kiến, kiến nghị của nhân dân, bảo vệ các quyền làm chủ và tham gia xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân là những nội dung rất cơ bản, cốt lõi của đời sống chính trị - xã hội của một thể chế dân chủ. Trong hoạt động này có sự tham gia của nhiều chủ thể: tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan đại diện quyền lực, các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác này và chủ yếu thể hiện trong sự phối hợp với các cơ quan nhà nước để thực hiện. Nội dung và cách thức phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và Nhà nước trong việc vận động nhân dân xây dựng chính quyền thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
  • 35. 30 - Phối hợp vận động nhân dân tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân Theo quy định tại Điều 8, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có các nhiệm vụ cơ bản như sau: + Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức hiệp thương lựa chọn giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Công tác hiệp thương với quy trình 5 bước được thực hiện theo quy định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đối với bầu cử đại biểu Quốc hội); của Chính phủ và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân). + Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc phối hợp cùng với Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử và cử đại diện Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử cùng cấp: Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội; Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử đổi với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. + Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì phối hợp với chính quyền cùng cấp ở xã, phường, thị trấn tổ chức hội nghị cử tri ở nơi cư trú, để lấy ý kiến nhận xét và sự tín nhiệm của cử tri trước khi tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba lựa chọn, lập danh sách chính thức giới thiệu người ứng cử. + Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức các hội nghị cử tri để những người ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri, thực hiện quyền vận động bầu cử. Đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội thì do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp quận, huyện, thị (gọi tắt là cấp huyện) chủ trì tổ chức. Đối
  • 36. 31 với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã, phường, thị trấn (gọi tắt là cấp xã) chủ trì tổ chức. + Phối hợp trong công tác tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện quyền bầu cử, tự mình đi bỏ phiếu trong ngày bầu cử. + Thực hiện quyền giám sát việc bầu cử thông qua việc cử đại diện của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tham gia các đoàn giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc tự mình tổ chức các đoàn giám sát thực hiện các công việc bầu cử như: giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của cử tri trong cuộc bầu cử; giám sát thủ tục, trình tự tổ chức bỏ phiếu, kiểm phiếu, bầu lại, bầu thêm và những công việc liên quan đến bầu cử theo quy định của Luật Bầu cử và hướng dẫn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân giám sát thực hiện các quy trình bầu cử, công tác hiệp thương của Mặt trận Tổ quốc cùng cấp trong bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. - Phối hợp vận động nhân dân tham gia giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở Quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia giám sát thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sơ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vấn đề này đã được quy định rõ trong Điều 9, Hiến pháp (sửa đổi) 2013 và hơn 30 văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu nâng cao vai trò giám sát của Mặt trận và nhân dân đối với Nhà nước (Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, Nghị quyết của Bộ Chính trị về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất ngày 17/11/1993, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX của Đảng, Nghị
  • 37. 32 quyết Hội nghị lần thứ bảy (phần hai) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về phát huy sức mạnh toàn dân tộc vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”). Sự khác nhau cơ bản giữa hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan Nhà nước khác có chức năng giám sát là ở tính chất giám sát và hình thức giám sát. Giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân là giám sát mang tính quyền lực do đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân tiến hành. Quốc hội, Hội đồng nhân dân có quyền quyết định những hình thức và biện pháp xử lý nếu quá trình giám sát phát hiện có vi phạm pháp luật. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc là giám sát xã hội mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của nhà nước nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Hoạt động giám sát của Mặt trận được thực hiện với ba hình thức: động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình; tham gia với cơ quan nhà nước trong hoạt động giám sát khi có yêu cầu; trực tiếp thực hiện hoạt động giám sát thông qua các hoạt động thường xuyên, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân và các thành viên trên cơ sở đó nghiên cứu, xác minh để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết và xử lý. Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định cụ thể những việc Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải thông tin kịp thời và công khai để dân biết, những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định, những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Xuất phát từ tình hình thực tiễn của đất nước, khi mà tình trạng yếu
  • 38. 33 kém của hệ thống chính trị ở cơ sở và vấn đề mất dân chủ ở cơ sở diễn ra nghiêm trọng ở nhiều nơi làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng với Nhà nước, gây nên tình trạng mất an ninh và trật tự xã hội ở nhiều địa phương; Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta có một văn bản riêng về vấn đề này. Việc ban hành Chỉ thị quan trọng này của Đảng chính là tiếp tục mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước; Thực hiện tốt phương châm: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ, nạn tham nhũng đang xảy ra ở nhiều nơi trên đất nước ta. Qua đó nhằm xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; góp phần to lớn vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ thị đã nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, bởi đó là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Trên cơ sở đó, ngay trong năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 29 về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (sau đó được thay bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP và nay đã được nâng lên thành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn). Nghị định số 79/2003/NĐ-CP đã chỉ rõ trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia tuyên truyền phổ biến, phối hợp với chính quyền tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong quá trình tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cơ sở và chính quyền quán triết năm quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị về dân chủ:
  • 39. 34 + Dân chủ phải tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. + Dân chủ phải gắn liền với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Coi trọng cả ba mặt nói trên không vì một mặt, mà hạ thấp, coi nhẹ mặt khác. + Dân chủ trực tiếp gắn liền với phát huy dân chủ đại diện, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng. + Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, trật tự trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Chống quan liêu mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật. + Gắn thực hiện Quy chế dân chủ với công tác cải cách hành chính, sửa đổi cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính không phù hợp. Trên cơ sở quán triệt những quan điểm của Bộ Chính trị và nắm chắc năm khâu thực hiện dân chủ ở cơ sở theo Nghị định 79/2003/NĐ-CP, Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc cơ sở phối hợp với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện tốt quyền và trách nhiệm của mình đã được quy định trong Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. - Phối hợp vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, phối hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân Công tác phối hợp giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động nhân dân tham gia xây dựng pháp luật và phối hợp để tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân được quy định chủ yếu ở Hiến pháp, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, với những nội dung chủ yếu sau đây: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền trình
  • 40. 35 dự án luật ra trước Quốc hội. Theo Hiến pháp, các chủ thể có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội bao gồm: Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận tổ Quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận và đại biểu Quốc Hội. Mặt khác, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đối với những dự án luật, pháp lệnh có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; quy định về tổ chức bộ máy nhà nước thì cơ quan soạn thảo có trách nhiệm gửi dự án luật, dự án pháp lệnh đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên để lấy ý kiến. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nghị quyết, thông tư liên tịch để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia quản lý nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận là các tổ chức chính trị - xã hội hoặc các tổ chức xã hội có chức năng chủ yếu là làm công tác vận động các tầng lớp nhân dân (hay nói theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm công tác Dân vận), không thuộc khối cơ quan nhà nước. Trong khi đó công tác xây dựng pháp luật vốn là công việc của nhà nước. Vì vậy, quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng pháp luật ở tất cả các khâu, từ việc trình dự án luật ra trước Quốc hội cho đến việc tham gia ý kiến cho các dự án luật do cơ quan nhà nước soạn thảo; tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân và giám sát việc thi hành pháp luật… là những quy định thể hiện tính dân chủ trong xây dựng pháp luật của Nhà nước ta, nhà nước của dân, do dân, vì dân. - Phối hợp vận động nhân dân tham gia tố tụng, tuyển chọn Thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm nhân dân Hiến pháp (sửa đổi) được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013
  • 41. 36 đã kế thừa những thành tựu lập hiến của các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992, đồng thời tiếp thu những tư tưởng mới về Nhà nước pháp quyền cũng như thực tiễn công cuộc đổi mới và hội nhập của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Hiến pháp (sửa đổi) là cơ sở hiến định quan trọng cho công cuộc đổi mới toàn diện ở đất nước ta nói chung, tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp nói riêng. Xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân tiếp tục được kế thừa trong Hiến pháp (sửa đổi). Tư tưởng chủ quyền nhân dân và nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước tiếp tục được phát triển trong Hiến pháp (sửa đổi). Nguyên tắc phân công, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước được thể hiện rõ ràng, rành mạch hơn. Bằng việc quy định Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, Toà án nhân dân là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy định của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân. Nhiệm vụ của Toà án, đó là bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến Toà án như là tìm đến công lý. Vì vậy có thể nói Toà án là biểu tượng của công lý và có nhiệm vụ bảo vệ công lý. Toà án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp pháp lý. Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đó, Toà án nhân dân phải tăng cường mối liên hệ chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
  • 42. 37 - Phối hợp vận động nhân dân đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp, kiểm sát, giám sát các hoạt động tư pháp, tham gia hoạt động tố tụng, tuyển chọn Kiểm sát viên Việc phối hợp công tác dựa trên nguyên tắc đảm bảo pháp chế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hai bên theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nhằm mục đích chung là đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được thực hiện một cách thống nhất, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu chung của đất nước. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và Viện kiểm sát nhân dân các cấp phối hợp chặt chẽ trong công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước và nhân dân, đấu tranh phòng chống tội phạm; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm sát, giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để kiến nghị với Đảng và Nhà nước nhằm bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân theo quy định của pháp luật.
  • 43. 38 Tiểu kết Chƣơng 1 Cương lĩnh xây dựng đất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nhất quán quan điểm, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với bản chất ưu việt, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bởi vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện nay. Sự quy định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị đề cao dân chủ, thượng tôn quyền lực của nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vị trí, vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam được quy định ở nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Giám sát của Quốc hội… Một trong những nội dung quan trọng trong cải cách bộ máy nhà nước ta hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, để Mặt trận Tổ quốc làm tròn trách nhiệm là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
  • 44. 39 Chương 2 THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƢỚC VÀ MẶT TRẬN TỔ QUỐC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM 2.1. Những hoạt động chủ yếu thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam 2.1.1. Phối hợp vận động nhân dân tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp Để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành tốt nhất, nhằm thực hiện sự phối hợp giữa Mặt trận và chính quyền trong việc vận động nhân dân tham gia bỏ phiếu lựa chọn đại biểu tin cậy nhất của mình, tất yếu phải thực hiện theo các yêu cầu như sau: Thứ nhất, Mặt trận phải lựa chọn, giới thiệu được những người đủ tiêu chuẩn ra ứng cử qua các bước hiệp thương theo quy định của pháp luật. Đây là công việc hết sức quan trọng để vừa có được danh sách những người ứng cử hợp lý, vừa đảm bảo cả về số lượng, chất lượng, đồng thời thể hiện được cơ cấu các thành phần đại diện cho ý nguyện và trí tuệ của các tầng lớp nhân dân. Quá trình hiệp thương được diễn ra theo nhiều bước, nhưng bất cứ bước nào cũng nhất thiết phải dựa vào ý kiến đa số của các cử tri nơi công tác, nơi cư trú để lựa chọn, không phân biệt người do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc người tự ứng cử. Quá trình tổ chức hiệp thương là quá trình lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, thu thập và xử lý các thông tin đa dạng, nhiều chiều. Mặt trận Tổ quốc có làm tròn chức năng là nơi thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân hay không là ở chỗ có phản ánh được hay không ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân trong việc lựa chọn người đại diện xứng đáng của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước.