SlideShare a Scribd company logo
1 of 52
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
-------------------
NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG
BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM
HUẾ - NĂM 2016
Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị An
TS. Hà Ngọc Hòa
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế họp
tại: .......................................................................................................
.............................................................................................................
Vào hồi … giờ ... ngày ……… tháng ……… năm ...........................
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Trường Đại học Khoa học.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Motif đá thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt, 2015,
Tạp chí Khoa học công nghệ, Đại học Đà Nẵng, tập 95, số 10, tr. 40 –
44.
2. Motif vật hóa đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, 2016, Bản tin
Đại học Huế, số 98, tr.103 - 106
3. Đá thiêng hiển linh trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, 2016, Tạp
chí Nghiên cứu văn học, số 3 (529), tr. 108 – 118.
4. Hình tượng ngọc trong truyền thuyết dân gian người Việt, 2016, Tạp chí
Khoa học (Đại học Huế), số 8 (122), tr.99 - 110..
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đá là sự vật gắn kết với loài người từ thuở hồng hoang bởi con người
trú thân trong hang đá, mượn cạnh sắc của đá để làm công cụ săn bắt, nhờ
cái cứng rắn của đá mà tạo ra lửa sưởi ấm và nấu chín thức ăn,… Ngay cả
khi con người trở về với đất, đá là một trong những lựa chọn đầy tin cậy để
gởi gắm thể xác hay làm vật đồng hành trên con đường đến cõi khác. Con
người tìm thấy sự an yên và sức mạnh của mình từ đá nên như một điều
hiển nhiên, con người tin và thờ phụng vị thần đá. Chính sự gắn bó chặt chẽ
này đã phần nào lý giải vai trò của tục thờ đá trong đời sống của con người.
Trong văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là thể loại có sự liên
kết chặt chẽ với những biến thiên lịch sử của dân tộc, đồng thời thể hiện rõ
nét nhất cảm quan lịch sử của người nghệ sĩ dân gian. Bằng khả năng tích
hợp nhiều lớp nghĩa một cách hiệu quả trong chiều dài thời gian lịch sử,
biểu tượng đá có mối liên hệ chặt chẽ với nội dung và nghệ thuật trần thuật
của thể loại truyền thuyết. Thông qua việc lưu giữ biểu tượng đá, tục thờ
cúng đá cùng các dạng thức của đá, truyền thuyết Việt Nam đã lưu lại dấu
ấn của sự giao thoa tín ngưỡng, văn hóa ở Việt Nam và sức mạnh của nhân
vật lịch sử, của cộng đồng dân tộc. Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, có
hai truyền thuyết thể hiện những lớp nghĩa đặc biệt của biểu tượng đá là
Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân. Trong luận án này, sau
khi phân tích các vấn đề lý thuyết, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu trường
hợp hai truyền thuyết trên bởi các lý do sau: a) Với đặc trưng của mình,
hai truyền thuyết đã phản ánh những biến chuyển về lịch sử và văn hóa,
tín ngưỡng của vùng đất Thừa Thiên Huế, nơi có sự xếp chồng các lớp
văn hóa (Việt, Chăm); b) Đây là những truyền thuyết được ghi chép vào
các thư tịch khá sớm và vẫn đang “sống” tại địa phương với nhiều dị
bản; c) Hai truyền thuyết này có mối quan hệ chặt chẽ với tín ngưỡng
dân gian thông qua sự hiện diện của đền/ miếu và hình thức thờ cúng. Vì
2
vậy, tính đa nghĩa và sợi dây liên kết của biểu tượng đá từ truyền thuyết
đến tín ngưỡng, văn hóa trong Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu
nhân là tương đối dễ nhận ra. Là người đang giảng dạy văn học dân gian
tại trường đại học ở Huế, việc nghiên cứu biểu tượng đá qua hai trường
hợp trên không chỉ thuận lợi trong quá trình điền dã cho chúng tôi mà
thông qua việc khảo sát và nghiên cứu trường hợp văn hóa dân gian tại
địa phương, chúng tôi còn có thể mở rộng hiểu biết về văn học dân gian,
lịch sử và văn hóa Thừa Thiên Huế.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Biểu tượng đá trong
truyền thuyết dân gian Việt Nam để nghiên cứu trong luận án.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Giải mã các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong các bản kể truyền
thuyết và trong các trầm tích văn hóa của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Biểu tượng đá
Phạm vi nghiên cứu: Truyền thuyết dân gian Việt Nam
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận
- Cách tiếp cận văn học dân gian
- Cách tiếp cận văn hóa học
- Cách tiếp cận nhân học
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tài liệu thứ cấp
- Điền dã
4.3. Thao tác nghiên cứu: thống kê, phân tích và so sánh loại hình
5. Đóng góp khoa học của luận án
Thứ nhất, hệ thống hóa tư liệu về nghiên cứu biểu tượng và biểu
tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, đem đến những đánh giá
tổng quan về tình hình nghiên cứu.
3
Thứ hai, phân tích biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
từ các góc độ: ý nghĩa biểu tượng, cấu trúc trần thuật, nhằm khẳng định sự
phong phú về lớp nghĩa của biểu tượng đá và kiến giải vai trò của đá trong cấu
trúc truyện kể và nghệ thuật xây dựng nhân vật truyền thuyết.
Thứ ba, thông qua biểu tượng đá, chúng tôi chỉ ra mối liên hệ giữa
truyền thuyết dân gian với tín ngưỡng thờ đá.
Thứ tư, nghiên cứu trường hợp Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch
phu nhân – hai truyền thuyết tiêu biểu của Việt Nam trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế có biểu tượng đá để góp phần minh giải mối liên hệ truyền
thuyết và tín ngưỡng thờ đá và minh chứng cho sự dung hòa tín ngưỡng
trong quá trình sinh tồn của người Việt.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung chính của luận án được triển khai trong 4 chương:
Chương 1: Lý thuyết biểu tượng và tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Biểu tượng đá và hệ thống nghĩa của biểu tượng đá trong
truyền thuyết dân gian Việt Nam
Chương 3: Cấu trúc trần thuật của dạng truyện kể dân gian có sử
dụng biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Chương 4: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian và tín ngưỡng
dân gian: nghiên cứu trường hợp Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT BIỂU TƯỢNG
VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lý thuyết biểu tượng và nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết
biểu tượng
1.1.1. Lý thuyết biểu tượng
Biểu tượng là một thuật ngữ xuất hiện trong đời sống thường ngày và
4
đời sống học thuật. Bản chất của biểu tượng là khó xác định cho nên việc
xác định ý nghĩa còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Điều đó cho thấy
nghiên cứu biểu tượng phải là ngành khoa học liên ngành với nhiều hướng
tiếp cận khác nhau. Các lĩnh vực ngôn ngữ học, nhân học và ký hiệu học
được xem là cốt lõi để nghiên cứu biểu tượng. Đối với ký hiệu học, đóng
góp quan trọng nhất của L. Hjelmlev là sự phân biệt “ký hiệu học biểu
thị” với “ký hiệu học hàm nghĩa”. Còn R. Barthes đã cụ thể hóa tính “hệ
thống kép” đặc trưng của ngôn ngữ biểu tượng. Với phương pháp tiếp cận
cụ thể, ký hiệu học đã hạn chế được tính khó xác định của biểu tượng.
Hướng tiếp cận nhân học trong nghiên cứu biểu tượng cũng đã được
Raymond Firth khái quát thế mạnh trong Biểu tượng: Chung và Riêng. Với
phương pháp chuyên biệt như điền dã thực địa hay quan sát tham dự, nhân
học là giải pháp để khám phá biểu tượng trong chính môi trường “sống”
của nó. Ngoài ra, Claude Levi-Strauss đã có đóng góp lớn cho việc nghiên
cứu biểu tượng. Cấu trúc luận đã tạo nền tảng để ký hiệu học và nhân học
nghiên cứu biểu tượng với những hướng tiếp cận hiệu quả khác nhau.
Chúng tôi thiết nghĩ, sự lựa chọn hướng tiếp cận phải phù thuộc vào
đặc trưng của mỗi biểu tượng. Đồng thời, vai trò của các cách tiếp cận
trong quá trình nghiên cứu biểu tượng cũng sẽ đậm nhạt khác nhau.
1.1.2. Nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng
Hướng nghiên cứu biểu tượng trong văn học dân gian xuất hiện từ khá
lâu ở nước ta. Với Thi pháp ca dao (1993, NXB Đại học Quốc gia), Nguyễn
Xuân Kính được đánh giá là một trong những người tiên phong trong nghiên
cứu biểu tượng của văn học dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, phải đến những
năm cuối thế kỷ XX, lý thuyết về biểu tượng và các phương pháp tiếp cận
nghiên cứu biểu tượng mới thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Năm 1999, “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết
dân gian người Việt” của Trần Thị An (Những vấn đề lí luận và lịch sử văn
học - Viện Văn học) là một trong số công trình đầu tiên soi chiếu biểu tượng
5
văn học đặt từ nền tảng văn hóa. Nguyễn Thị Bích Hà là tác giả đã sử dụng
lý thuyết mã văn hóa để nghiên cứu văn học dân gian trong bài viết “Mã và
mã văn hóa” (2006) đăng trên Văn hóa dân gian. Xét đến thời điểm hiện nay,
Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa (2014, NXB Đại học Sư phạm)
của Bích Hà là công trình đầu tiên chuyên sâu nghiên cứu văn học dân gian
theo khuynh hướng biểu tượng luận. Năm 2014, Nghiên cứu biểu tượng –
Một số hướng tiếp cận lý thuyết của Đinh Hồng Hải có thể xem là công trình
đầu tiên giới thiệu một cách hệ thống lý thuyết về biểu tượng ở Việt Nam.
Bài viết “Đi tìm bản sắc văn hóa dân tộc qua thế giới biểu tượng” của
Nguyễn Văn Hậu đã khẳng định vai trò của biểu tượng trong sự nhận chân
bản sắc của dân tộc. Hướng nghiên cứu này được quan tâm hơn trong thời
gian gần đây: “Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu Nước trong văn chương Việt
Nam” (Nguyễn Thị Thanh Xuân), “Từ truyền thuyết rồng Thăng Long khám
phá biểu tượng rồng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam” (2011) đăng
trên Nghiên cứu văn học của Nguyễn Thị Thanh Lưu,…
Có thể thấy nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng chỉ
mới được đề cập đến trong lượng công trình khiêm tốn và phần lớn mang
tính ứng dụng để nghiên cứu một số trường hợp cụ thể.
1.2. Các công trình nghiên cứu Đá ở Việt Nam
1.2.1. Công trình về tín ngưỡng thờ đá
Công trình Văn hóa tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt
(2010) của Cadiere là bức tranh toàn cảnh về tục thờ đá ở Việt Nam và mối
quan hệ giữa truyện cổ dân gian về đá thiêng và tín ngưỡng thờ đá. Về đá
trong văn học dân gian, Tìm hiểu văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh
văn hóa Đông Nam Á (Đinh Gia Khánh, 1993) và Tín ngưỡng thành hoàng
Việt Nam (Nguyễn Duy Hinh, 1996), thông qua truyện Man Nương, đã cho
thấy vai trò của truyện cổ dân gian trong việc truy nguyên và hỗ trợ nghiên cứu
tín ngưỡng, tôn giáo. Với “Thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam”
(2004) đăng trên Văn hóa dân gian, Nguyễn Việt Hùng đã làm rõ mối quan
6
hệ giữa tín ngưỡng thờ đá với các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa và ngoại lai
ở Việt Nam. Trong Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ đá ở Việt Nam
(2011, NXB Văn hóa thông tin), tác giả còn khảo sát kiểu truyện vọng phu
và đặt trong sự đối sánh với tín ngưỡng thờ đá. Qua điền dã và thống kê
truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa, Hồ Quốc Hùng cũng đã nỗ lực giải mã
các lớp tín ngưỡng thờ đá trong “Thử nhận diện dấu vết tín ngưỡng Chăm
qua nhóm truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa” (Tuyển tập 40 năm Viện Văn
học, 1999, NXB thành phố Hồ Chí Minh).
Từ thực tế nghiên cứu, hầu hết các công trình đã cho thấy vai trò và
vị trí của tục thờ đá trong đời sống tâm linh của người dân Việt, mối quan
hệ tương tác giữa văn học dân gian và tín ngưỡng, văn hóa.
1.2.2. Công trình nghiên cứu Đá với tư cách biểu tượng
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (2002, NXB Đà Nẵng) của Jean
Chevalier và Alain Gheerbrant là công trình nghiên cứu biểu tượng hệ thống
nhất hiện nay, là một bảng tra cứu giúp chúng tôi định hướng giải mã biểu
tượng đá trong truyền thuyết. Trong Những đỉnh núi du ca – một lối tìm về cá
tính H’Mông (2014, NXB Thế giới), dù không đi sâu phân tích đá mồ côi
nhưng Nguyễn Mạnh Tiến đã chỉ ra lớp nghĩa riêng của đá trong văn hóa
H’Mông. Bài viết “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết
dân gian người Việt” (1999, Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Viện
Văn học) của Trần Thị An đã làm rõ tính phổ quát và tính khu biệt của biểu
tượng đá trong truyền thuyết. Hai bài viết khác của tác giả Nguyễn Huy
Bỉnh, “Truyền thuyết dân gian xứ Bắc về các thần tự nhiên” và “Truyền
thuyết Thạch tướng quân trong mối quan hệ với tín ngưỡng thờ đá”, đã phác
họa mối quan hệ giữa truyền thuyết về đá thiêng và tín ngưỡng thờ đá.
Công trình nghiên cứu đá với tư cách là biểu tượng chiếm số lượng
khiêm tốn nhưng đã có thành tựu bước đầu trong việc khẳng định giá trị
văn hóa của biểu tượng đá và chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa biểu tượng
đá trong truyền thuyết với tục thờ đá ở các địa phương.
7
1.2.3. Công trình nghiên cứu motif Đá trong truyện kể dân gian Việt
Nam (thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích)
Bài viết “Môtíp đá thiêng/hóa đá và tín ngưỡng thờ đá trong truyện
kể dân gian Nam Đảo” (2007) in trong Truyện kể dân gian các tộc người
Nam Đảo ở Việt Nam (NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) của
Phan Xuân Viện chỉ mới dừng lại ở giới thiệu và phân tích, liên hệ một cách
điểm xuyết motif đá thiêng/ hóa đá và tín ngưỡng thờ đá. Với phạm vi khảo
sát rộng cả về thể loại lẫn dân tộc, công trình cho thấy sự phong phú và đa
dạng trong dạng thức tồn tại của đá.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Biểu tượng đá trong các tác phẩm văn học dân gian chủ yếu được đề
cập đến trong các công trình về tín ngưỡng thờ đá. Rất ít công trình nghiên
cứu về đá trong văn học dân gian, đặc biệt với tư cách là biểu tượng trong
truyền thuyết. Hầu hết nghiên cứu theo phương pháp khảo sát văn bản kết
hợp điền dã để có thể khái quát được đời sống của đá trong tác phẩm và tín
ngưỡng của người dân địa phương.
1.3.2. Hướng triển khai đề tài
Thống kê và phân loại sự xuất hiện của đá trong truyền thuyết dân
gian Việt Nam. Nghiên cứu biểu tượng đá từ cấu trúc trần thuật của dạng
truyện kể có sử dụng biểu tượng đá trong truyền thuyết. Nghiên cứu trường
hợp Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân, trong mối quan hệ với
tục thờ đá, cũng như tín ngưỡng, văn hóa khác.
Từ việc tổng thuật tình hình nghiên cứu vấn đề biểu tượng và biểu
tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, có thể nhận thấy rằng,
mặc dù hướng nghiên cứu đá trong truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian từ
góc độ biểu tượng chưa được khai thác nhiều nhưng đã đưa lại những kết
quả bước đầu quan trọng để hiểu sâu hơn chiều sâu văn hóa của truyền
thuyết và tín ngưỡng dân gian. Tiếp tục đi sâu bóc tách các lớp nghĩa của
8
biểu tượng đá như những trầm tích văn hóa và phân tích cấu trúc nghệ thuật
của truyền thuyết dân gian về biểu tượng đá là việc làm của các chương
tiếp theo của luận án.
CHƯƠNG 2
BIỂU TƯỢNG ĐÁ VÀ HỆ THỐNG NGHĨA CỦA BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
2.1. Biểu tượng đá và các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế
giới và Việt Nam
2.1.1. Biểu tượng đá và các hướng tiếp cận biểu tượng đá ở Việt Nam
Hầu hết truyền thuyết không xác định loại/ dạng đá (vật liệu), cũng
không chú ý đến màu sắc cụ thể của đá nên chỉ có thể xếp đá trong truyền
thuyết thành hai loại lớn: đá thô tự nhiên và đá đã được đẽo gọt. Ngoài ra,
chúng tôi đã chú ý đến hai dạng thức: ngọc và ngôi sao. Với ngôi sao, chúng
tôi xin có những lý giải sau: Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã đưa ra
định dạng “đá trời”; Năm 2015, khi giám định để trao bằng Bảo trợ cho di
sản văn hóa phi vật thể Mo Mường Hòa Bình, Liên hiệp các hội UNESCO
Việt Nam đã đánh giá thiên thạch là một trong những công cụ hỗ trợ liên
quan chặt chẽ; Hình thức xuất hiện của ngôi sao phần lớn được miêu tả “sa
vào miệng”, “sa xuống” rất giống với kiểu đá trên trời rơi xuống và khi miêu
tả sự tiếp nhận của người mẹ, tác giả dân gian chú ý đến hành động “nuốt”.
Về hướng tiếp cận biểu tượng đá ở Việt Nam, phần lớn các công trình
chúng tôi khảo sát trong chương 1 đều giải mã trên nền tảng liên ngành với
nhiều cách tiếp cận, dù có công trình chưa định danh cụ thể đối tượng đá là
“biểu tượng” nhưng đã phần nào gợi ra vai trò và giá trị biểu tượng của đá.
2.1.2. Các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới và Việt Nam
qua các công trình nghiên cứu
Đặc điểm của đá (cứng rắn, độ bền vững cao, không thể bẻ cong,…)
chính là những cơ sở để trí tưởng tượng của con người hình thành các lớp
9
nghĩa. “Biểu tượng luôn luôn đa chiều” cho nên lớp nghĩa còn là kết quả
của sự xâu chuỗi “tương quan” hay sự liên kết những mặt “đối kháng” giữa
các đặc điểm, thậm chí là lớp nghĩa đầu tiên của đá. Sự hình thành này còn
phụ thuộc vào văn hóa và quan niệm của mỗi cộng đồng.
“Phân ly và tái hợp” đã trở thành một đặc tính của biểu tượng. Sự
giải mã nghĩa của biểu tượng sẽ nhìn nhận từ: Khả năng tiếp nhận của người
đọc, nghĩa quy ước của cộng đồng và sự liên kết giữa dấu hiệu chỉ dẫn của
biểu tượng với các chi tiết khác trong văn bản. Do đó, việc “tái hợp” nghĩa
sẽ vừa mang tính khách quan vừa đậm dấu ấn cá nhân.
Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ đá từ Văn hóa tín
ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt (Leopold Cadiere) cho đến “Thờ đá
trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam” (Nguyễn Việt Hùng),… đều khẳng
định đá là sự hiện diện của thánh thần. Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ
đá ở Việt Nam của Nguyễn Việt Hùng, “Thử nhận diện dấu vết tín ngưỡng
Chăm qua nhóm truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa” của Hồ Quốc Hùng,…
cho rằng vị thần trong đá là sự hội tụ hình ảnh của thần linh và tổ tiên. Trần
Thị An lại định hình giá trị biểu trưng của đá cụ thể ngay trong “Những
biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt”:
không gian đá – sự sống trong trạng thái tĩnh.
Trong tình hình nghiên cứu về đá hiện nay ở Việt Nam, số lượng công
trình khá giới hạn, đặc biệt tiếp cận từ hướng biểu tượng lại càng ít, do đó các
lớp nghĩa được chúng tôi thống kê sơ lược ở trên chỉ mới là sự bắt đầu có tính
định hướng cho quá trình khám phá biểu tượng đá trong truyền thuyết.
2.2. Các lớp nghĩa tiêu biểu của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian
Việt Nam
2.2.1. Sự sống trong trạng thái tĩnh
Thứ nhất, đá hóa người – Đất Mẹ: Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng
quân, Sự tích Thiên Bồng nhà Lý, Sự tích Thiên Đá và Đường Lô đánh
giặc Ân. Mối quan hệ giữa đá với nhân vật là mẫu tử, dù đá chỉ “bà mẹ
10
nuôi/ mang tính tạm thời” của thần linh trước khi bước vào cõi trần gian.
Thứ hai, đá thô tự nhiên có hình dáng giống con người – nơi trú
ngụ của thần linh: tượng đá (Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng
Vương), và đá giống hình người (Truyền thuyết tượng nghè). Điều kiện
tiên quyết để đá được rước vào miếu để thờ cúng, đó là tảng đá phải linh
thiêng, tạo niềm tin ở người dân về sự tồn tại của một vị thần.
Thứ ba, đá – nơi tạm trú linh hồn khi chuyển kiếp: chỉ xuất hiện duy
nhất trong Lương Thế Vinh. Ở đây, đá là nơi trú ngụ tạm thời, nhưng lại là
của một con người trong quá trình chuyển kiếp.
Chính bởi tất cả các lớp nghĩa đó, đá ẩn giấu một sức sống bất biến
với thời gian để như một lối ẩn dụ về tính thiêng của nhân vật truyền
thuyết, của niềm tin tâm linh.
2.2.2. Sự tái sinh trong ngưỡng vọng
Thứ nhất, núi đá – hóa thân của con người: Truyện cái khiên, Sự tích
núi Sầm Sơn và Núi Bà Đội Om. Có thể nói cả ba truyền thuyết đều cho thấy
núi đá là sự hóa thân của con người để tạc nên dáng hình của xứ sở.
Thứ hai, núi đá – hóa thân của vật. Lớp nghĩa này có thể chia làm hai
tiểu dạng phụ thuộc vào vật được hóa núi đá: Vật mang tính thiện: phượng
hoàng (Núi Phượng Hoàng), ngựa và bộ yên ngựa (Mã Yên Sơn), chú voi
què (Chú voi què hóa đá). Chính hành trạng của những vật này trong mối
quan hệ với nhân vật lịch sử hoặc đời sống của người dân đã tạo ra sự tái
sinh “đời đá” của sự vật. Vật mang tính ác: yêu tinh (Sự tích núi Sậu), quái
vật (Sự tích sông Kinh Thầy). Hầu hết đá được hóa thân trong các trường hợp
trên đều mang ý nghĩa lưu lại chiến tích của nhân vật lịch sử.
Thứ ba, ngọc – hóa thân của nhân vật. Dạng thức này chỉ xuất
hiện duy nhất trong Truyện Rùa vàng. Những yếu tố hư cấu liên quan đến
ngọc hình thành trên nền tảng của sự quan sát và liên tưởng tinh tế, với
nhiều ngụ ý tốt lành của nhân dân dành cho nhân vật Mị Châu.
Chúng tôi xem sự hóa thân thành đá là một hình thức tái sinh bởi lẽ
11
không chỉ danh xưng, hình dáng của nhân vật truyền thuyết được bảo lưu
mà chính xác là vong hồn mang sức mạnh của người/ vật đã được gìn giữ,
ngưỡng vọng trong tâm thức của cộng đồng, dân tộc.
2.2.3. Sự hiện diện của thần linh
Thứ nhất, đá được đẽo gọt: chó đá (Lương Thế Vinh, Sự tích Hạc Lai
và Vũ Cố giúp Lê Lợi đánh giặc Minh), ngựa đá (Thần miếu Độ Mi). Có thể
thấy ở đá được đẽo gọt trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, tính linh
thiêng không phải bị mất đi, mà là được tạo ra, hoặc được tăng thêm.
Thứ hai, ngôi sao. Chúng tôi chỉ xin đề cập đến ngôi sao trong dạng
kể trực tiếp của motif sinh nở thần kỳ và ngôi sao trong cái chết thần kỳ của
nhân vật: Sự tích Đức Thiên Cang thời Hùng Vương, Sự tích Hùng Hải, Đỗ
Huy thời Hùng Vương. Ngôi sao - đá trời đã trở thành một biểu tượng cho
sự giáng sinh của thần linh, là sự liên thông của trời đất ở nhân vật.
“Sự có mặt đích thực” của thần linh trong truyền thuyết không phải
chỉ là sự hiện hữu ở tín ngưỡng thờ đá với vị thần đá duy nhất tồn tại trong
đá mà đôi khi lại là vong hồn của tổ tiên neo đậu trong đá hay là sự giáng
sinh thành người của thần đá trời giữa cõi trần.
2.2.4. Ý niệm chuyển vị
Cần lưu ý rằng sự chuyển vị được đề cập đến ở đây chính là hiệu ứng
đá mang lại cho chủ thể sở hữu đá và là sự chuyển đổi từ “bóng tối đến ánh
sáng, từ không hoàn thiện đến hoàn thiện”.
Thứ nhất, đá thô tự nhiên có/ không có hình dạng cụ thể: tảng đá
lớn (Truyện cái khiên) và đá thề bồi (Sự tích suối Rắn). Tính linh thiêng
không thuộc về vị thần trú ngụ trong đá mà là phép màu thần kỳ do đá sở hữu
hoặc có thể đem đến cho nhân vật trong truyền thuyết.
Thứ hai, ngọc có phép màu là sự chuyển vị cho nhân vật từ “không
hoàn thiện đến hoàn thiện”: Vợ ba Cai Vành, Ông Tả Giám Đàn, Cầu làng
Sải. Tuy nhiên phần lớn các viên ngọc này khó có thể xác định loại ngọc và
ít nhiều có mặt hạn chế, hoặc khả năng bị “giải thiêng” là luôn hiện hữu.
12
Ý niệm chuyển vị là lớp nghĩa đặc biệt của đá trong truyền thuyết dân
gian Việt Nam, thiên về khuynh hướng là sự dõi theo, phù trợ của vong hồn tổ
tiên. Đồng thời, giá trị chuyển vị của biểu tượng đá đối với nhân vật không bất
biến cho nên nó gợi ý thức về sự gìn giữ và trân trọng.
Quan niệm “Đá cũng là vật sống và mang lại sự sống” [19, tr. 269]
đã được quán triệt thống nhất trong truyền thuyết. Vậy nên, biểu tượng đá
là sự vay mượn của tác giả nhằm bất tử hóa nhân vật lịch sử, thể hiện lòng
tôn kính đối với họ và những chiến tích của họ. Ngoài ra, Đá còn là sự yêu
quý, tưởng vọng của nhân dân dành cho những sự vật đã góp công trong
các chiến thắng của nhân vật. Đá đôi khi còn mang dáng dấp của tổ tiên
đang bảo bọc làng xóm, trấn yên những thế lực tà ác, và nỗ lực gìn giữ mưa
thuận gió hòa cho con dân. Dường như mỗi thế hệ đã qua vẫn trú ngụ để
dõi theo, phù trợ trong lớp vỏ đá tưởng vô tri vô giác, và cũng có khi họ đã
hóa thân cho vẻ đẹp của đất nước.
CHƯƠNG 3
CẤU TRÚC TRẦN THUẬT
CỦA DẠNG TRUYỆN KỂ SỬ DỤNG BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
3.1. Đá trong giấc mơ điềm báo của truyền thuyết dân gian Việt Nam
3.1.1. Đá là phần thưởng cho việc tu thân tích đức
Trong kết cấu này, theo thiển ý của chúng tôi, mối quan hệ giữa những
đấng sinh thành ra nhân vật lịch sử với báu vật đá tạo ra một liên kết mang
tính nguyên nhân – hệ quả: Sự tích năm anh em Minh Công, Tín Công, Cao
Công, Thạch Công và Dung Nương thời Hùng Vương, Sự tích hai anh em
Phạm Quang, Phạm Huy thời Lý, ... Cha mẹ của các nhân vật lịch sử đều có
lối sống hiền lành, thuộc gia đình tử tế, không phân biệt giàu nghèo. Ngoài
ra, họ còn có chung một hoàn cảnh, đã lớn tuổi nhưng hiếm đường con cái.
Chính hai đặc điểm này đã khiến con trở thành “báu vật trời ban”. Và cần
13
lưu ý, nhân vật lịch sử của truyền thuyết phải là “hình mẫu lý tưởng về đức
hạnh” và ở đây, dường như tác giả dân gian đã mở rộng phạm vi lý tưởng
này, vượt ra khỏi giới hạn bản thể của nhân vật. Nghĩa là truyền thuyết đã
đề cập đến sự mẫu mực ở cả bậc sinh thành và gia thế của nhân vật lịch sử.
Đá cũng giống như các dạng báu vật khác của truyền thuyết là vật
tặng mang tính điều kiện, và đồng thời là vật mang tính tượng trưng cho
nhân vật lịch sử. Tuy nhiên, nếu như việc xây dựng kết cấu nhân – quả với
nhân vật cha mẹ sống phúc đức, hiếm muộn đã được công thức hóa trong
thần tích thì sự lựa chọn các dạng đá để trao tặng và có tầm ảnh hưởng đến
nhân vật lịch sử đã cho thấy các quan niệm về đá của người dân Việt.
3.1.2. Đá là hiện thân của nhân vật lịch sử trong giấc mơ điềm báo
Theo khảo sát của chúng tôi, là vật báu ông trời ban tặng trong giấc
mơ điềm báo, đá tồn tại với 3 dạng thức: đá, ngôi sao và ngọc. Hầu hết đá
đều chỉ được nhắc đến trong một chi tiết cụ thể và phần lớn không có sự
giải mã để gắn kết mối quan hệ giữa đá được trao tặng trong giấc mơ và
nhân vật lịch sử được sinh ra: Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng
Vương, Sự tích năm anh em Minh Công,...
Khác biệt đáng chú ý nhất ở vật báu ngôi sao là hầu hết đều không
phải do thần trao tặng mà chỉ đơn giản “sa vào miệng – nuốt”/ “rơi xuống
bụng” của người mẹ. Theo chúng tôi, tác giả dân gian có thể đã ví ngôi sao
như một hạt giống của sự sống được ông trời gieo vào người mẹ. Song tính
liên kết giữa ngôi sao và nhân vật lịch sử gần như không có, ngoài việc
nhân vật lịch sử luôn được xem là sự giáng sinh của thần, thánh nên mang
vóc dáng và trí tuệ hơn người: Sự tích Ngọn Côn và Thuấn Nghị đời Lê
Thái Tổ, Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Vương,...
Ngọc trong giấc mơ điềm báo đa dạng về chủng loại và được xác
định khá rõ ràng. Tuy nhiên tính chất lỏng lẻo trong liên kết tương đồng
giữa ngọc với nhân vật lịch sử cũng vẫn tồn tại. Hầu hết các giấc mơ về
ngọc, cũng giống như đá và ngôi sao đều không được giải mã một cách kỹ
14
càng. Bài ký về Hưởng Lãm Mai Hắc Đế là tác phẩm duy nhất được tác giả
chú tâm miêu tả ngọc và giải mã giấc mơ điềm báo.
Tuy liên kết giữa các dạng đá với sự phi thường trong hành trạng của
nhân vật lịch sử có thể còn lỏng lẻo, nhưng việc lựa chọn đá đã cho thấy vai
trò của đá trong đời sống của cư dân Việt. Đồng thời, đá góp phần đặc tả tính
chất linh thiêng của nhân vật lịch sử trong truyền thuyết dân gian. Vì vậy, đá
vừa mang điềm lành trong giấc mơ tiên tri vừa là biểu tượng của sự sống.
3.2. Đá trong motif hiển linh của truyền thuyết dân gian Việt Nam
3.2.1. Đá và sự hiển linh của nhân thần
Nhóm nhân thần trong truyền thuyết thường có tần suất hiển linh
không cao. Và ý nghĩa của motif hiển linh thuộc dạng này chính là một
hình thức “bất tử hóa” nhân vật lịch sử, thể hiện niềm tin và ngưỡng vọng
của nhân dân dành cho họ. Tuy nhiên, tính lịch sử của nhân thần ở đây cần
phải được làm rõ. Bởi lẽ không phải nhân thần nào cũng là nhân vật có thật
trong lịch sử (Cao Lỗ trong Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ vương), mà có
thể đó chỉ là hiện tượng “lịch sử hóa” truyền thuyết (nàng Bích Châu trong
Đền thiêng ở cửa biển), hoặc chúng tôi không tìm được một cứ liệu nào
khác (Chiêu Khanh và Đông Long trong Thần miếu Độ Mi).
Đá là hiện thân cho nguồn gốc thiên thần của nhân vật lịch sử, tăng
tính thiêng riêng cho truyền thuyết và góp phần khẳng định sự bền vững,
bất tử cùng thời gian của nhân vật lịch sử. Dù trong truyền thuyết dân gian,
đá là nguồn gốc, là báu vật trao tặng hay đơn giản chỉ là vỏ “ứng đồng” thì
chúng tôi vẫn thấy trong đá dư ảnh huyền thoại của nhân vật lịch sử.
3.2.2. Đá và sự hiển linh của thiên thần
Thiên thần trong trường hợp này phần lớn là thần đá và sự hiển linh
trong truyền thuyết nhằm khẳng định uy quyền tối thượng của các vị thần,
tô đậm thêm niềm tin của nhân dân giành cho họ và tín ngưỡng. Theo thống
kê của chúng tôi, thần đá hiển linh chỉ xuất hiện trong ba truyền thuyết: Kỳ
Thạch phu nhân, Thai Dương phu nhân, Truyền thuyết tượng nghè. Điểm
15
đặc biệt ở đây là ngư dân, những người lẽ ra nỗi sợ hãi của họ phải bắt
nguồn từ thủy thần/ hải thần, nhưng dường như họ lại đặt nỗi sợ hãi/ niềm
tin hưng thịnh vào thần đá. Vì vậy, không thể phủ nhận sự hiển linh này đã
phản ánh niềm tin tín ngưỡng của người dân Việt.
Nếu như trong truyền thuyết dân gian, nhân vật lịch sử có liên quan
đến đá hiển linh đã cho thấy sự bất tử của nhân vật, và sự đoàn kết một
lòng của nhân dân cả nước trong các cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, giữ
yên bờ cõi (kể cả người sống lẫn người đã khuất, họ vẫn luôn dõi theo, phù
hộ), thì sự hiển linh của thần đá trong truyền thuyết dân gian đã bóc mở lớp
nghĩa: đá là hiện thân của các vị thần.
3.2.3. Đá - thành tố cấu tạo nên không gian tâm linh
Thứ nhất, không gian thiêng: Đá ngay trong nội tại của nó đã là
một không gian thiêng, không gian được lựa chọn để an trú của không chỉ
các vị thiên thần mà còn cả phần linh hồn/ tinh anh của các nhân vật lịch
sử: Thai Dương phu nhân, Kỳ Thạch phu nhân, Sự tích hòn đá núi La
Hán, Truyền thuyết tượng nghè, Thần miếu Độ Mi, Lương Thế Vinh,...
Dẫu là sự trú ngụ tạm thời hay vĩnh viễn thì tính thiêng của không gian đá
này luôn là sự đồng nhất/ ánh xạ từ các vị thiên thần/ nhân vật lịch sử.
Thứ hai, không gian thờ cúng: Ở đây, chúng tôi xem đá như là yếu
tố để xây dựng nên không gian, và không gian đó được sử dụng với mục
đích thờ cúng/ thờ tự. Bên cạnh mối liên hệ với tục thờ đá, đá trong truyền
thuyết dân gian còn là sự xếp chồng các tín ngưỡng, tôn giáo khác: Sự tích
Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng Vương, Sự tích suối Rắn, Thần Độc
Cước và đền Độc Cước, Sự tích công chúa Thượng Ngàn,… Trong truyền
thuyết An Dương Vương lập cột đá thề, cột đá được An Dương Vương lập
trên núi Nghĩa là sự dung hòa của hình thức thờ đá với một ý niệm khác: đá
thề nguyền.
Thứ ba, không gian giấc mơ: chúng tôi muốn đề cập đến hiện tượng
không gian đá lồng ghép trong không gian giấc mơ: Sự tích Thổ Thống và
16
Nại Nương thời Hùng Vương, Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng quân, … Ở
đây, đá không chỉ còn gói gọn trong không gian thiêng, không gian thờ
cúng, mà dường như đã trở thành một sự ám ảnh trong đời sống của người
dân Việt từ cõi thực sang cõi mộng. Như cách lý giải của Jung về vô thức
tập thể thì có khả năng chính những giấc mơ này cũng mang hàm nghĩa về
sự di truyền kiến thức và điềm báo.
Đá là một dạng không gian tâm linh khá đa dạng, từ hẹp đến rộng, từ
cõi thực đến cõi mộng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam. Đồng thời,
không gian nghệ thuật này còn là sự minh họa thiết thực cho đời sống tâm
linh phong phú, đa dạng của người dân Việt.
Khởi nguồn từ quan niệm “đá là biểu tượng của sự sống trong trạng
thái tĩnh”, đá xuất hiện trong giấc mơ điềm báo mang giá trị của một vật
báu và điềm lành về đường con cái. Còn trong mối quan hệ với motif hiển
linh, đá cũng đã mở rộng thêm những lớp nghĩa: đá là dư ảnh của nhân vật
lịch sử, đá là hiện thân của thần linh và đá là không gian tâm linh. Và có
thể khẳng định rằng đá giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc văn bản và đã
tạo ra những liên kết chặt chẽ, giàu tính trần thuật trong truyền thuyết dân
gian Việt Nam.
CHƯƠNG 4
BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT
VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN: NGHIÊN CỨU TRƯỜNGHỢP
KỲ THẠCH PHU NHÂN VÀ THAI DƯƠNGPHU NHÂN
4.1. Văn bản và cấu trúc văn bản của truyền thuyết về Thai Dương
phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân
4.1.1. Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân
nhìn từ văn bản
Theo kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết Thai
Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân hiện nay có khá nhiều dị bản
17
được lưu truyền. Do đó, trong tiểu mục này, chúng tôi vừa thống kê, khảo
sát các văn bản vừa tiến hành khảo dị.
Kỳ Thạch phu nhân trong Đại Nam nhất thống chí (1961) của Quốc
sử quán triều Nguyễn, “Sự tích nữ thần Kỳ Thạch phu nhân” in trong
Bulletin des Amis du Vieux Huế năm 1915 (trong Những người bạn Cố đô
Huế, 1997), Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế (1998, Tôn Thất Bình chủ
biên, Trần Hoàng và Triều Nguyên): về cốt truyện và các chi tiết liên quan
đến biểu tượng đá, hầu như không có độ chênh giữa các văn bản.
Thai Dương phu nhân trong Ô Châu cận lục (1961) của Dương Văn
An, “Chuyện Thánh mẫu Thai Dương phu nhân” của Đào Thái Hanh in
trong số 1 Bulletin des Amis du Vieux Huế (trong Những người bạn Cố đô
Huế, 1997), Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế (1998, Tôn Thất Bình chủ
biên, Trần Hoàn và Triều Nguyên), Truyền thuyết dân gian người Việt của
Tinh hoa văn học dân gian người Việt (quyển 4) do Viện Nghiên cứu văn
hóa biên soạn (2009), Huế xưa và nay: di tích và danh thắng (2010) của
Phan Thuận An, Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn
(tập 1), Tổng tập văn học dân gian xứ Huế (2012) của Triều Nguyên: tồn
tại hai dị bản về gốc gác của nữ thần. Điều đó cho thấy dị bản có thể được
tạo ra bởi lòng tự tôn, ý thức về cộng đồng của nhân dân địa phương.
Theo chúng tôi, sự khác biệt trên chủ yếu do các nguyên nhân sau: 1.
Dị bản được tạo ra bởi quá trình lưu truyền; 2. Mục đích ghi chép của các
công trình mang tính đặc thù thể loại; 3. Việc xác định thể loại cũng ảnh
hưởng đến quá trình dựng lại tác phẩm trên cơ sở các dữ liệu đã có.
4.1.2. Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân
nhìn từ cấu trúc văn bản
Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân có bố
cục đơn giản, gồm: Ở phần một, câu chuyện giải thích tên gọi của đền miếu
đều mang đậm màu sắc huyền thoại. Bởi lẽ nhân vật trung tâm của truyền
thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân là thiên thần. Trong
18
khi ở phần hai, sự hiển linh của đá/ vị thần trú ngụ trong đá cũng đầy chất
thần kỳ, phải nắm bắt dữ liệu bằng niềm tin thì lại được đánh dấu với các
mốc son lịch sử cụ thể, chính xác. Nghĩa là, thực và hư cứ đan xen vào nhau.
Trong đó, yếu tố hư cấu được sử dụng nhằm tăng thêm tính huyền thoại,
nâng cao vị trí của nhân vật trung tâm: đá thiêng/ vị thần trú ngụ trong đá.
Còn những chi tiết có thật, mang tính lịch sử lại có tác động ngược trở lại,
góp phần chứng thực cho huyền thoại, biến huyền thoại thành đời thực và gia
tăng niềm tin của nhân dân/ người nghe/ người đọc vào huyền thoại đá.
Sự hiển linh được phân thành hai dạng: giới thiệu sự kiện hiển linh
và trình bày câu chuyện hiển linh. Điều này đã khiến cho phần thứ hai của
văn bản đôi khi trở thành một hệ thống tập hợp các câu chuyện nhỏ. Sự
hiển linh ở phần hai này có thể là cách đề cao quyền uy của triều Nguyễn
bằng việc xây dựng sự hiển linh phò trợ của các vị thiên thần.
4.2. Biểu tượng đá trong truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ
Thạch phu nhân trong mối quan hệ với tín ngưỡng dân gian Chăm
Sự ảnh hưởng của tín ngưỡng Chăm trong biểu tượng đá của truyền
thuyết dân gian Việt Nam nói chung và trường hợp Kỳ Thạch phu nhân và
Thai Dương phu nhân nói riêng, chúng tôi thiết nghĩ có thể lý giải như sau:
Thứ nhất, xứ Thuận Hóa vẫn nổi danh là Ô Châu ác địa, cho nên với
tâm thức của một người vừa mới đặt chân đến vùng đất lạ để định cư, nỗi
sợ hãi là điều tất yếu. Không chỉ sợ hãi trước mọi sự vật xung quanh, mà cả
thói quen, tín ngưỡng của người bản địa cũng gây ra tâm lý bất an, lo lắng.
Ở đây, chúng tôi xem người Chăm là người bản địa, còn người Việt là
người mang tâm lý ngụ cư trong thời gian đầu ở xứ Thuận Hóa. Vì vậy, họ
chủ trương “có kiêng có lành”: chỉ cần tôn trọng các sự vật ở vùng đất mới/
các vị thần của người bản địa, họ sẽ được an yên;
Thứ hai, tín ngưỡng và tôn giáo là hành trang không thể thiếu của
một người di cư. Và khi “chạm” đến tín ngưỡng của người bản địa, họ nhận
ra có những điều gần gũi với niềm tin của mình. Như một lẽ tự nhiên, họ
19
cũng tin và theo. Chúng tôi nhấn mạnh từ “chạm” vì có một thực tế, đôi khi
người Việt chưa thật sự hiểu thấu đáo các tín ngưỡng của người Chăm nên
xảy ra hiện tượng: đối tượng và cách thức thờ cúng của người Việt không
hoàn toàn trùng khớp với người Chăm, mặc dù cùng một lớp vỏ bọc tên gọi
của tín ngưỡng.
Tất nhiên, trong quá trình đấu tranh để sinh tồn, có thể họ “tự nhiên”
(vô thức) ảnh hưởng hoặc họ “chủ động” Việt hóa các tín ngưỡng của
người bản địa.
4.2.1. Tín ngưỡng thờ đá
Chúng tôi cụ thể hóa các lớp ý niệm hình thành nên tín ngưỡng thờ
đá của đá trong truyền thuyết về Kỳ Thạch phu nhân như sau:
Đá có chạm
trổ tinh xảo
Của người
Chăm
1. Đá – vật thiêng (tục thờ đá của người Việt)
2. Đá – vật thiêng trên mảnh đất hoàn toàn mới (thần
linh của người Chăm) [nỗi sợ vô hình – NTQH]
3. Đá có hình thù kỳ lạ được chạm khắc (xuất hiện trong
đền miếu người Chăm) [nỗi sợ hữu hình – NTQH]
4. Đá là nơi trú ngụ của vị nữ dâm thần Tàrỉ trong tín
ngưỡng của người Chăm [nỗi sợ hữu hình – NTQH]
Biểu tượng đá của truyền thuyết về Thai Dương phu nhân gồm có
những lớp ý niệm sau:
Đá
1. Đá – vật thiêng (tục thờ đá của người Việt)
2. Đá – tảng đá ngầm (thần linh của người Chăm)
3. Đá – thần Biển (thần Yang Tathik)
Đá thờ ở Kỳ Thạch phu nhân và Thai Dương phu nhân tưởng như
chịu ảnh hưởng hoàn toàn tín ngưỡng Chăm nhưng thật ra chỉ là sự vay
mượn vỏ bọc hay liên kết các ý niệm trong tín ngưỡng của người Chăm.
4.2.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Người Việt dễ dàng nhận ra tín ngưỡng thờ nữ thần bản địa của
người Chăm có những nét tương đồng với thờ Mẫu ở miền Bắc nên có thể
20
quá trình tiếp nhận diễn ra khá nhẹ nhàng. Song theo thiển ý của chúng tôi,
do sự sợ hãi, cùng với việc không hiểu thấu đáo tín ngưỡng của người
Chăm cho nên sự ảnh hưởng ở đây chỉ mang giá trị ý niệm.
Chúng tôi cho rằng ngư phủ trong truyền thuyết Kỳ Thạch phu nhân
không hướng đến đối tượng thờ là vị nữ dâm thần Tàrỉ mà chỉ đơn thuần là
một nữ thần mơ hồ nào đó. Với miếu Thai Dương phu nhân, thần còn có
một ý niệm khác: thần sóng biển Po Riyak.
Sự ảnh hưởng của các ý niệm đó, chúng tôi cho rằng, không chỉ là hệ
quả của việc cùng chung sống trên một mảnh đất mà còn xuất phát từ
những nỗi sợ hãi trong bản nguyên thích định cư của người Việt. Bên cạnh
đó, nó còn thể hiện phần nào sự ám ảnh của người phụ nữ trong tâm thức
của người Việt và sự chủ động trong quá trình tiếp nhận văn hóa/ tín
ngưỡng của người Chăm.
4.3. Biểu tượng đá trong truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ
Thạch phu nhân trong mối quan hệ với tục thờ đá tại đền Thai Dương
phu nhân và miếu Kỳ Thạch phu nhân
4.3.1. Hình thức đá thờ
Đối với hình thức đá thờ tại miếu Kỳ Thạch phu nhân: phần lớn
các văn bản đều ghi chép ngắn gọn, chỉ duy nhất trong “Sự tích nữ thần Kỳ
Thạch phu nhân”, Đào Thái Hanh miêu tả cụ thể. Cảnh được chạm khắc
trên bức phù điêu chính là cuộc đấu trí giữa quỷ vương Ravana và thần
Shiva trên đỉnh núi Kaisala.
Đối với hình thức đá thờ tại đền Thai Dương phu nhân: hầu như
các văn bản không nhắc đến hình dáng của tảng đá. Chỉ có duy nhất chi
tiết: “Trong phiến đá này có phác ngọc”.
Đá thờ trong hai truyền thuyết này là điểm nối giữa hư (truyền
thuyết, thần linh) và thực (tín ngưỡng, cuộc sống đời thường). Chỉ duy nhất
sự tồn tại của đá thờ là đã đủ gây dựng và gia tăng niềm tin của cộng đồng
vào tín ngưỡng và truyền thuyết.
21
4.3.2. Hình thức thờ cúng
Cả hai vị nữ thần, Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân, đều
được nhà Nguyễn sắc phong nên việc tu sửa đền miếu và thờ cúng rất được
nhân dân chú trọng, hương khói tôn nghiêm.
Thứ nhất, việc tu sửa đền miếu: Miếu Kỳ Thạch phu nhân được giữ
gần như nguyên trạng. Đồ thờ trong miếu đầy đủ hơn và miếu cũng đã
được tu bổ. Tuy nhiên, các chi tiết được thêm vào trong không gian phía
trước gian miếu dường như không gắn kết với tục thờ đá mà dựa vào tâm lý
của cộng đồng. Đền Thai Dương phu nhân hiện nay có khuôn viên khá
khang trang. Kiến trúc chạm trổ của đền đã có sự ảnh hưởng từ những nét
tín ngưỡng, văn hóa khác trong không gian đền và điện thờ.
Thứ hai, về việc thờ cúng và tế lễ: Trong khía cạnh này, các văn bản
truyền thuyết ghi chép cũng rất sơ lược. Hiện nay, ở miếu Kỳ Thạch phu
nhân, người dân đến thắp hương thường cúng dường vải lụa, “áo” cho
tượng và người trông coi mỗi tháng lại thay áo cho Bà. Trong lễ tế Thai
Dương phu nhân, ngày 23 là chính lễ, sẽ có lễ rước Bà từ đền thờ về đình
làng để làm lễ tế với hình thức rất gần với tín ngưỡng thờ nữ thần.
Vì vậy, dường như ở hình thức thờ cúng, tín ngưỡng thờ Mẫu đã lấn
át tín ngưỡng thờ Đá. Trong khi đó, theo ghi chép của các văn bản, tín
ngưỡng ở vị trí trung tâm của biểu tượng đá là tín ngưỡng thờ đá.
Tín ngưỡng thờ đá trong Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu
nhân có sự kết hợp một cách hài hòa với tín ngưỡng thờ Mẫu, hay dung
chứa các ý niệm khác của thờ đá trong tín ngưỡng và văn hóa Chăm. Sự
khác biệt trong hình thức đá thờ ở Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch
phu nhân là minh chứng cho sự tiếp nhận tín ngưỡng, văn hóa Chăm của
người Việt ở những dấu mốc lịch sử và khu vực sống khác nhau. Đây
chính là kết quả của quá trình đấu tranh để sinh tồn của người Việt trong
thời gian đầu đến định cư trên vùng đất mới.
22
KẾT LUẬN
“Đá là vĩnh cửu, là biểu tượng của sự sống ở trạng thái tĩnh”, cho nên
đá trong truyền thuyết dân gian người Việt cũng là hiện thân của sự trường
tồn và luôn ẩn chứa sự linh hoạt của những lớp nghĩa, luôn giấu kín sự sống
động của các mối quan hệ. Vì vậy, khám phá biểu tượng đá trong truyền
thuyết dân gian Việt Nam không chỉ là hành trình nghiên cứu một biểu
tượng, mà còn là một khởi đầu để tìm hiểu về đời sống tâm linh của người
dân Việt và truy nguyên lịch sử dân tộc từ những sự kiện, nhân vật, vết cắt
tín ngưỡng trong tác phẩm.
Trong phạm vi luận án, với đề tài Biểu tượng đá trong truyền thuyết
dân gian Việt Nam, chúng tôi đã tập trung làm rõ một số vấn đề cốt yếu sau:
1. Từ kết quả thống kê tư liệu, chúng tôi hệ thống hóa các công trình
nghiên cứu về biểu tượng và Đá trong tín ngưỡng/ văn học dân gian Việt
Nam nhằm phác họa sơ khởi tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
“biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam” hiện nay. Trên cơ
sở đó, chúng tôi đã chọn được các hướng tiếp cận phù hợp với đề tài (văn
học dân gian, nhân học và văn hóa học) và có những gợi ý thiết thực cho
việc giải mã biểu tượng đá. Chương tổng quan cũng chỉ ra những khoảng
trống và triển vọng của hướng nghiên cứu này, giúp chúng tôi khoanh vùng
và xác lập hiệu quả những vấn đề khoa học cần giải quyết.
2. Phân tích các truyền thuyết có sử dụng biểu tượng đá từ góc độ
văn học dân gian và tự sự học ở các phương diện: giải mã lớp nghĩa, cấu
trúc trần thuật, chúng tôi có được những kết quả cụ thể sau:
- Thứ nhất, 4 lớp nghĩa (sự sống trong trạng thái tĩnh, sự tái sinh trong
ngưỡng vọng, sự hiện diện của thần linh và ý niệm chuyển vị) của đá là kết quả
của chúng tôi từ quá trình khảo sát và thống kê văn bản. Sự vay mượn tính
chất và giá trị từ đá của tác giả dân gian đã mở ra những trường nghĩa mới
cho nhân vật của truyền thuyết: tạo nguồn gốc thiên thần, sự kỳ vĩ trong
hành trạng, và tượng đài bất tử của cộng đồng. Đồng thời, cũng chính
23
những nhân vật có liên quan đến đá đã quay ngược trở lại, hình thành thêm
những giá trị cho đá. Vì vậy, về phương diện lớp nghĩa, đá trong truyền
thuyết dân gian Việt Nam sở hữu sự biến thiên khá sống động. Đồng thời,
dựa vào hệ thống lớp nghĩa của đá mà Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đề
cập đến trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (2002, NXB Đà Nẵng) và
thực tế khảo sát, sự so sánh đối chiếu cũng hỗ trợ chúng tôi trong việc nhận
diện điểm giống và dị biệt của đá trong truyền thuyết/ văn hóa Việt với văn hóa
nhân loại.
- Thứ hai, với cấu trúc trần thuật của dạng truyện kể có sử dụng biểu
tượng đá, chúng tôi nhận ra đá có sự tương tác với các motif khác của
truyền thuyết (giấc mơ, hiển linh) để hình thành mạch kết cấu của truyện
kể. Từ đó, đá góp phần thiêng hóa nhân vật truyền thuyết bởi lẽ nhân vật
không chỉ là báu vật trời ban, mà còn là đứa con được hưởng ân đức của cả
gia đình, dòng họ. Hơn thế nữa, đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
mang đậm màu sắc tâm linh, vừa là hiện thân của thần linh vừa là yếu tố
cấu thành không gian tâm linh của truyền thuyết. Đương nhiên, với không
gian tâm linh, đá cũng được tác giả dân gian duy trì các tính chất đặc trưng,
nhằm tôn vinh nhân vật lịch sử.
3. Thông qua mối quan hệ giữa văn bản với di tích, tục thờ cúng,
luận án đã phân tích mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá
của người Việt. Có thể nói, qua thời gian, truyền thuyết Việt Nam đã minh
chứng cho sự kết hợp rất hài hòa của các tín ngưỡng và văn hóa khác trong
biểu tượng đá. Và ngay trong truyền thuyết, biểu tượng đá cũng cho thấy
không phải lúc nào tín ngưỡng thờ đá cũng giữ được bản nguyên của nó,
mà đôi khi trong sự dung hòa, các tín ngưỡng khác lại trở thành chủ đạo.
4. Trong luận án, với mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng
thờ đá, chúng tôi đã nghiên cứu hai trường hợp: Kỳ Thạch phu nhân và
Thai Dương phu nhân. Kết quả của sự phân tích này gồm:
- Luận án đã làm rõ hơn mối quan hệ Việt - Chăm trong lịch sử dân
24
tộc, cụ thể là sự tiếp nhận tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ đá của văn hóa Chăm
trong đời sống tâm linh của người Việt. Ở đây, chúng tôi vừa dự cảm cách
tiếp nhận vừa khẳng định yếu tố Việt trong biểu tượng đá của truyền thuyết
và hình thức thờ đá tại đền/ miếu.
- Luận án cũng đã chỉ ra sự lên ngôi của tín ngưỡng thờ Mẫu trong
hình thức thờ cúng và di tích đền Thai Dương phu nhân và miếu Kỳ Thạch
phu nhân. Nghĩa là, tín ngưỡng thờ đá bị che lấp đi, người dân chỉ còn biết
đến vị được thờ là Mẫu, hay nữ thần mà thôi.
5. Các vấn đề chưa thực hiện được trong luận án, chúng tôi hi vọng
sẽ có điều kiện để tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới:
- So sánh lớp nghĩa của biểu tượng đá trong truyền thuyết với các thể
loại văn học dân gian khác của Việt Nam. Với đặc trưng riêng của mỗi thể
loại, chúng tôi cho rằng biểu tượng đá mang các giá trị và lớp nghĩa riêng.
Từ đó, cũng sẽ nhận diện được sự đậm nhạt và biến chuyển trong mối quan
hệ giữa tín ngưỡng thờ đá với các thể loại khác của văn học dân gian.
- So sánh lớp nghĩa của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian
Việt Nam với truyền thuyết của một số quốc gia khác ở Đông Nam Á và
Châu Á. Đương nhiên, xu hướng trên giải mã các lớp nghĩa giống/ khác
nhau mà biểu tượng đá sở hữu, không chỉ trong một thể loại văn học dân
gian mà cả văn hóa. Điều này sẽ chứng thực có sự giao thoa về tín ngưỡng
thờ đá giữa Việt Nam với các nước trong khu vực.
- Nghiên cứu trường hợp biểu tượng đá của Thai Dương phu nhân
trong phạm vi khu vực miền Trung, bởi lẽ ở Huế hay Quảng Nam cũng có di
tích mang tên miếu/ đền Thai Dương phu nhân. Đây là hướng nghiên cứu
mang tính chất vùng miền có khả năng soi chiếu được phạm vi lưu truyền
của văn bản này, và góp phần khẳng định sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm.
HUE UNIVERSITY
COLLEGE OF SCIENCES
NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG
STONE SYMBOL
IN VIETNAMESE LEGENDS
Program: VIETNAMESE LITERATURE
Code: 62 22 01 21
DISSERTATION SUMMARY
VIETNAMESE LITERATURE
HUE - 2016
This study is completed at College of Sciences, Hue University
Supervisor: 1. Assoc Prof. Dr. Trần Thị An
2. Dr Hà Ngọc Hòa
Reviewer 1: .........................................................................................
.........................................................................................
Reviewer 2: .........................................................................................
.........................................................................................
Reviewer 3: .........................................................................................
.........................................................................................
The dissertation is defensed at Hue University level Graduate Council at:
.............................................................................................................
At….time….date….month…..year…
The dissertation is archived at the library of….
LIST OF PUBLICATIONS
1. “The Sacred Stone Motif in the Vietnamese Legends”, 2015, Journal of
Science and Technology, the University of Danang, no. 10, p.40 – 44.
2. “Thing to Stone Motif in the Vietnamese Legends”, 2016, Hue
University Newletters, no. 98, p.103 - 106
3. “The Epiphany of Stone in the Vietnamese Legends”, 2016, Journal of
Literary Studies, no. 3, p.108 - 118
4. “Jewel in the Vietnamese Legends”, 2016, Science Journal, Hue
University, no. 8, p.99 – 110.
1
INTRODUCTION
1. Rationale of the research
Stone is the material associated with humans early at the dawn of
humanbeings. Even when humans return into the ground, stone is one of
the trusted choices to send their bodies or to be companion on the way to
another world. Finding his peace and strength from the stone, humans
believe and worship the holy stone. This inextricable link itself partly
explains the role of Stone-worship in human livings.
Through keeping stone symbol and stone-worship along with stone
forms, the legend has left the imprint of the interference and variations of
Vietnamese belief and culture as well as the strength of historic character,
ethnic community. We choose to approach the legend of Thai Duong phu
nhan and Ky Thach phu nhan for several reasons: a) Two legends
performed the change of history and religional culture in Thua Thien Hue
province where there is the overlap of multiple culture layers; b) These
legends were recorded early into ancient documents and existed in variant
versions; c) Legend is related to folk religion through the presence of
temples / shrines and other forms of worship. So, the multi-meaning and
link string of stone symbol from legends to beliefs in Thai Duong phu
nhan and Ky Thach phu nhan are undeniable.
Thus, we chose the topic “Stone symbol in Vietnamese Legends” to
research.
2. Objectives of the research
To decrypt the meaning layers of the stone symbol in Vietnamese
legend and in the cultural sediment of Vietnamese folk beliefs.
3. Object and scope of the research
Object: Stone symbol
Scope: Legend
2
4. Approaches and methodology
4.1. Approaches
- Approach to folklore
- Approach to cultural studies
- Approach to anthropology
4.2. Research Methods
- Analysis of secondary data
- Field research method
4.3. Manipulating research: statistics, analysis and comparison of genres
5. Scientific contributions of the thesis
Firstly, systematized materials on studying the symbol and stone
symbol bring the overall assessment of the research.
Secondly, analysis of stone symbol in Vietnamese legend from the
perspectives: the symbol meaning, narrative structure to confirm the
diversity of meaning layers of the stone symbol and to interprete the role
of stone in narrative structure and arts of legendary character building.
Thirdly, through stone symbol, we point out the relationship
between Vietnamese folk legends with stone-worship.
Fourthly, research on Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu
nhan - two Vietnamese typical legends in Thua Thien Hue region
contribute to interpret the relationship between Vietnamses legend and
stone-worship and the demonstration of religion in harmony with
Vietnamese livings.
6. The dissertation’s structure
Apart from Introduction, Conclusions and References, the
dissertation content is displayed in 4 chapters:
Chapter 1. Theory of symbols and research overview
Chapter 2. Stone symbol and meaning system of stone symbol in
Vietnamese legend
3
Chapter 3. Narrative structure form of narrative using stone in
Vietnamese legend
Chapter 4. Stone symbol in legend and folk religion: research on
Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan
CHAPTER 1
THEORY OF SYMBOLS
AND RESEARCH OVERVIEW
1.1. Theory of symbols and folklore research on theory of symbols
1.1.1. Theory of symbols
The symbol is a term that appeared in the daily life as well as
academic life. The nature of symbol is difficult to define, so the
determination of the meaning depends on many factors. Symbol research
shall be the interdisciplinary science with various approaches. The fields
such as linguistics, anthropology and semiotics are considered as the core
to research symbol. For semiotics, the most important contribution of L.
Hjelmlev is the distinction between "semiotics denotations" with
"semiotic connotations". R. Barthes concretized the "dual system"
character by symbolic language. In particular approach, semiotics has
restricted the determinating difficulty of symbols. Anthropological
approach in the symbol research has been generalized the strength in
Symbol: Public and Private. With specific method as fieldwork or
participant observation, anthropologyy is the solution to explore the
symbol in the living environment of itself. Claude Levi-Strauss has made
great contributions to the study of symbols. Structuralism has created
platforms for semiotics and anthropology to study symbols with various
efficientt approach.
The choice of approach should depend on the characteristics of
4
each symbol. The role of these approaches in the process of symbol study
will be less or more important.
1.1.2. Folklore research from symbol theory.
Research on symbol in folklore appeared in our country for a long
time. With Poetics of folk-song, Nguyen Xuan Kinh is evaluated as one of
the pioneers in the study of Vietnamese folklore symbol. Until the late
twentieth century, the theory of the symbol and the research approaches
on symbol attracted the attention of many researchers. "The symbols of
the sacred space of Vietnamese folk legend" by Tran Thi An is one of the
first works exposing the literature symbol based on cultural foundations.
Nguyen Thi Bich Ha has used the theory on cultural code to study
folklore in “Codes and cultural code”. With reference to the present time,
Study on folklore cultural from cultural code by Bich Ha is the first in-
depth project study on folklore with the tendency of symbol theory.
Symbol study - some approaches of Dinh Hong Hai theory could be
considered as the first work to introduce a system of representation theory
in Vietnam. "Finding the nation's cultural identity through the symbolic
world" by Nguyen Van Hau has confirmed the role of symbol in
recognition of ethnic identity. This research is more concerned in the
recent time: "Archetype critic and Archetype of Water in Vietnamese
literature", "From the legend of Thang Long Dragon, discovering the
symbol of dragon in legend", etc.
Folklore research from the symbol theory has just been mentioned
in few of works and mostly applicable to specific cases.
1.2. The research works of stone in Vietnam
1.2.1. Religion works of stone-worship
Belief culture and Vietnamese religious practice express the
panorama of stone-worship in Vietnam and the relationship between folk
tales on sacred stone and beliefs of stone-worship. In term of stone in
5
folklore, Learning Vietnamese folklore in the context of Southeast culture,
beliefs in tutelary god of Vietnam, through Man Nuong story, showed the
role of folk tales in original traceability and assistance to study belief and
religion. With "Stone-worship in folk beliefs of Vietnam," Nguyen Viet
Hung has clarified the relationship between the stone-worship with other
native and exotic beliefs, religions in Vietnam. In “Vong Phu” fairy tale
and religion of stone-worship in Vietnam, the author also surveyed the
tale style of husband-expectation and set in matching to stone-worship.
Through fieldwork and statistics on Vietnamese fairy tale in Thuan Hoa,
Ho Quoc Hung has made efforts to decrypt the layers of stone-worship in
"Trying identifying traces of Cham’s religion through Vietnamese fairy
tale in Thuan Hoa".
Most of the works have shown the role and position of the stone
worship in the spiritual life of Vietnamese people, the interactive
relationship between folklore and beliefs and culture.
1.2.2. The research on Stone with symbolic position
Dictionary of world cultural symbols by Jean Chevalier and Alain
Gheerbrant is the most systematic research on symbol today, as a look-up
table to help us orient to decrypt stone symbol in legend. In Nhung dinh
nui du ca – mot loi tim ve ca tinh H’Mong (2014), though it is not the
detailed analysis on orphaned stone, Nguyen Manh Tien pointed out in
the meaning layer of stone in H’Mong culture.
"The symbols of the sacred space of Vietnamese folk legend" by
Tran Thi An clarifies universality and localized feature of stone symbol in
legend. Two articles by Nguyen Huy Binh, "Northern folk legend about
the natural gods" and "Legend of General Stone in relation with the belief
of stone-worship", have outlined the relationship between the legends of
the sacred stone and stone-worship.
Research on stone as symbol occupies tiny number but it achieved
6
in first step in confirming the cultural value of stone symbol and pointed
out the close relationship between the stone symbol in legend and stone-
worship in localities.
1.2.3. Research on Stone motif in Vietnamese folk tale (myths,
legends, and fairy tales)
"Motif of sacred stone/petrifaction and stone-worship in folk tale “Nam
Dao" by Phan Xuan Vien just stopped at the introduction and analysis,
contacting splashed with sacred stone/petrifaction and beliefs of stone-worship.
With a wide range of survey about both in genre and ethnic, the research shows
the richness and diversity of existing forms of stones
1.3. Assessing the research situation and deploying the topic
1.3.1. Assessing the research situation
Stone symbol in folklore was mainly mentioned in the researches
on stone-worship. There are few of researches on stones in folklore,
especially stone as symbol in Vietnamese legend. Most researches were
following the survey method of document combining fieldwork to
generalize of the living of stone in the work and beliefs the local people.
1.3.2. Orientation of topics deployment
Carrying out statistics and classification of the appearance of stone
in Vietnamese legend. Studying stone symbol from narrative structure of
narrative format using stone symbol in Vietnamese legend. Studying Thai
Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan in the relationship with the
stone-worship, as well as other beliefs and culture.
Research on the issues of symbol and stone symbol in Vietnamese
legend reveals that this is the feasible study giving more contribution. From
those instructive and suggestive researches, we set up the necessary
scientific issues to be solved for the topic as follows the meaning system of
stone symbol through statistics, classification of meaning layers, analysis of
narrative structure of tales using stone symbol and folk beliefs.
7
CHAPTER 2
STONE SYMBOL AND MEANING SYSTEM
OF STONE SYMBOL IN STONE VIETNAMESE LEGENDS
2.1. Stone symbol and the meaning layers of stone symbol in the
world culture and Vietnam
2.1.1. Stone symbol and approaches of stone symbol in Vietnam
Legend mostly does not define the stone type (materials), nor pay
attention to specific color. So, it is possible to classify into two
categories: natural rough stone and whittle stone. We pay attention to two
formats: gem and star. With stars, we would have explained: Dictionary
of world cultural symbol gave the format "stone of heaven"; In 2015,
when examining for awarding sponsorship for the intangible cultural
heritage of Mo Muong Hoa Binh, UNESCO Vietnam has rated meteorite
as one of the support tools that closely related; The form of star
appearance largely described "fall into the mouth", "fall down", very
similar to the way that stone fall down from the sky, and when describing
the reception of the mother, folk authors pay attention to the action of
"swallow".
About approaches to symbol stone in Vietnam, most of our surveys
in Chapter 1 all decrypt basing on interdisciplinary with many approach
methods although some surveys have not identified specifically that
object of stone was "symbol", but somewhat suggests the role and the
symbolic value of stone.
2.1.2. The meaning layers of stone symbol in the world culture and
Vietnamese culture through researches
Features of the stone (hard, high in stability, etc) are the basis for
human imagination to form meaning layers. "The symbol is always
multidimensional" so that meaning layers are also the result of "correlate”
8
stringing or the link of the "antagonism" between the features, even the
first layer of meaning of stone. This formation also depends on the culture
and conception of each community.
"Separation and reunion" is a characteristic of symbol. The
decryption of symbol meaning shall recognize from: The acceptance
capacity of readers, conventional meaning of the community and the link
between the indication sign of symbol with other details in the text. The
meaning "reunion" will be both objective and intensively personal.
Researches on stone-worship all confirm the presence of the gods
and assume that the god in stone is the convergence of images
of deities and ancestors. Meanwhile, Tran Thi An determines the
symbolic value of stone, stone space - life in a static state.
Our summary statistics on meaning layers above is just the
beginning with orientation for the discovery process of stone symbol in
Vietnamese legend.
2.2. Typical meaning layers of stone symbol in Vietnamese legend
2.2.1. Life in a static state
Stone turned human - Mother Land: The tale of General Tien Lap
Thach, the tale of Thien Bong- Ly Dynasty, The tale of God Stone area
and Duong Lo fought against An invaders. The relationship between
stone with character is Mum and Son, though just adoptive
mothers/temporary" of gods before entering the earthly realm.
Natural rough stone shaped like humans - the residence of the gods:
the stone statues (The tale of Tho Thong and Nai Vuong – Hung Vuong
Dynasty), and stone like human shape (Tale of Tuong Nghe). Prerequisite
for the stone to get the procession into the shrine to worship is the sacred
stone, creating people’s belief in the existence of a god.
9
Stone – shelter of soul in lives-transforming: Luong The Vinh.
Stone is a temporary shelter, but that of a man in the process of lives-
transforming.
Stone hides the invariant vitality with time as a metaphor for the
sacred feature of legendary character, of spiritual belief.
2.2.2. Rebirth in expectation of favor from above
Stone Mountain – metamorphose of human: Tale of the buckler, Tale
of Sam Son Mountain and Tale of Ba Doi Om Mountain. Three legends all
show the metamorphosis of human to carve up the country's shape.
Stone Mountain - metamorphose of materials: divided into two sub-
types depending on the petrified material to be petrified: Sanifying
materials: Phoenix (Phoenix Mountain), Horse and the horse saddle (Ma
Yen Son), Lame elephant (Petrified lame elephants). The luggage of the
above things in the relationship with the historical character or livings of
the people has created "stone life" rebirth of things. Malign character:
devil (Tale of Sau Mountain), monsters (Tale of Kinh Thay River).
Metamorphosis stone of these cases are meant to save the trophy of
historical figures.
Gem – the metamorphose of the character: Tale of Golden Turtle.
Fictional factors related to gem were formed from the observation and
delicate association with many good indications of people for Mi Chau.
We regard the stone metamorphose as a form of rebirth because it
is not only the name, the shape of characters preserved but exactly as the
spirit bringing the power of human/materials preserved and having
aspirations in the consciousness of the community.
2.2.3. The presence of the divine
Whittled stone: Stony dog (Luong The Vinh, The Tale of Hac Lai
and Vu Co help Le Loi fight Ming Invaders), Stony Horse (Shrines Deity
of Do Mi). In whittled stones in Vietnamese legend, holiness is not lost,
10
but created/ added.
Stars: Just mention the stars in the form of direct narrative of the
motif of magic birth and in the magic death of character: The Tale of Duc
Thien Cang – Hung Vuong Dynasty, The Tale of Hung Hai, Do Huy –
Hung Vuong Dynasty. Star – the meteorite has become a symbol for the
birth of the gods, is the connection of heaven and earth in character.
"The true presence" of the gods in the legend is not just the
existence of stone-worship with the only stone god existing in the stone
but it is sometimes the spirits of ancestors in stone residing in stone or the
giving birth into humans of heaven stone in the earthly realm.
2.2.4. The concept of transposition
As a note, the transposition here is the effect which the stone brings
the owner of the stone and the transition "from darkness to light, from
imperfection to perfection."
Natural rough stone with/without specific shape: large stone (Tale
of the shield) and stone with alluvium form (Tale of Snake Spring).
Holiness is the fabulous miracle owned by stone or giving to legendary
character.
Miracle gem is the transposition of the characters from
"incompletion to completion": Cai Vanh’s third wife, Mr. Ta Giam Dan,
Sai Village Bridge. Most of the gems are difficult to identify the gem
category and limited, or likely to be "desacralized"
This is the special meaning layer of stone in Vietnamese legend,
inclined to trend of watching, the ancestral spirits’ support. Transposition
value of stone symbol to character is invariant so it evokes a awareness of
preservation and appreciation.
The concept of "Stone is also the living thing, bringing lives" has
been grasped uniformly in Vietnamese legend. Stone symbol is the
borrowing of author to immortalize historical character, showing respecting
11
toward them and toward their trophies. Stone is also the beloved, the great
expectations of the people for the things which had contribution to the
victory of the character. It seems that every passing generation has still
resided under the senseless-supposed stone crust for watching and
supporting, and they also incarnate the beauty of the country.
CHAPTER 3
NARRATIVE STRUCTURE FORM
OF NARRATIVE USING STONE SYMBOL
IN VIETNAMESE LEGENDS
3.1. Stone in dream omen of legend
3.1.1. Stone is a reward for the cultivation of virtue and morals
In this structure, the relationship between the father of the character
with stone treasures creates a link of cause - result: Tale of five brothers
Minh Cong, Tin Cong, Cao Cong, Thach Cong and DungNuong-Hung
Vuong Dynasty, ... the characters’ parents have good-natured lifestyle and
kind families. They are old, but rare in children. Therefore, child became
the "treasures of Heaven."
Stone as well as other forms of treasures of legend is the
conditional donation, simultaneously, is the symbolic thing for character.
If the up-setting of cause - result structure with kind and infertile parents
has been formulated in Vietnamese legend, the choice of stone form to
award influential to characters showed conception of stone of
Vietnamese.
3.1.2. Stone is embodie of the historical character in the omen dream
As the treasure God gave in the dream omen, stone exists with 3
formats: stone, star and gem. Most of stone is just mentioned in detail and
largely without the decryption to connect the relationship between stone
12
and the created character. Tale of Tho Thong and Nai Vuong – Hung
Vuong Dynasty, ...
The most distinction in Star treasure is not awarded by God but just
"falling into the mouth - swallow"/ "falling into the belly" of the mother.
The author has compared star as a life’s seed sown into the mother by
heaven. The connection between the star and characters is almost nothing,
in addition to character always considered as the birth of God so having
greater body, wisdom than people: Tale of Ngon Con and Thuan Nghi -
Le Thai To Dynasty, Tale of Three Angel - Trung Vuong Dynasty, ...
Gem in dreams is diversified in category and defined quite clearly.
The nature of losing in parallel link between gems with characters still
exists. Most dreams of gem were not carefully decrypted. The memoir of
Huong Lam Mai Hac De is the unique legend which is attentively
described of gem and dream decryption.
Choice of stone revealed the role of stone in Vietnamese people's
daily lives. Stone takes part in specification of holiness of the legendary
character. Thus, stone brings both good sign in prophetic dreams and a
symbol of life.
3.2. Stone in the epiphany motif of legend
3.2.1. Stone and the epiphany of Human Gods
Group of Human Gods in Legends has low frequency of epiphany.
This epiphany motif itself is the form of character "immortalization",
expressing beliefs and aspirations of the people for them. However, the
historicity of the Human God needs to be clarified. Human Gods are not
always true characters in history (Cao Lo in Qua Nghi Cuong Chinh Uy
Hue Vuong), but maybe it's just the phenomenon of legend “history”
(Bich Chau in the Sacred Temple in the sea mouth), or we cannot find any
other material (Chieu Khanh and Dong Long in Do Mi Temple Deity).
13
Stone is the embodiment of angle origin of characters, increasing
the holiness for characters and contribution to confirmation of the
immortality of character. Whatever in the legend, stone is the resource,
donated treasures or simply, it is “bronze applying” cover we still see in
stone the mythical after-image of character.
3.2.2. Stone and the epiphany of Angels
Angels are mostly stone god and the epiphany of legend to confirm
the supreme power of the Gods, highlighting more the people’s belief to
them and religion. The epiphany of stone god only appears in Ky Thach
Phu nhan, Thai Duong phu nhan, Legend of Tuong Nghe. A special
feature is the Fishermen, whose fearfulness must be rooted from Neptune/
Water-nymph; however, it seems they put their fearfulness/prosperous
belief into Stone God. Therefore, it is undeniable to negate that this
epiphany reflected the religion beliefs of the Vietnamese People.
If in Vietnamese legends, historical characters related to epiphany
stone revealed the immortality of characters, the unity as one of the
people in the fighting against foreign invaders, the epiphany of stone god
peeled the meaning layer: stone is the embodiment of the gods.
3.2.3. Stone – Structural element of spiritual space
Sacred spaces: Stone is internally the sacred space, the space
chosen to shelter not only for gods but also for the spirits of characters:
Tale of stone on La Han Mountain, Do Mi Temple Deity, etc. Whatever
the shelter is temporary or permanent, the holiness of this space is
homogeneous from the angels/ historical character.
Worship space: Stone is a factor to build up the worship space.
Besides the relationship with stone-worship, stone in Vietnamese legend
is also the stacking of other beliefs, religions: Tale of Snake Spring, Doc
Cuoc Deity and Doc Cuoc Temple, Tale of Thuong Ngan Princess, etc. In
An Duong King set up swearing stone-pole, the stone-pole which An
14
Duong King set up on Nghia Mountain was the harmony of stone-worship
with another conception: the oath stone.
Dream space: The phenomenon of stone space integrating into
dream space: Tale of General Tien Lap Thach, etc. Stone seems to
become an obsession in the life of Vietnamese people from real realm
into dream realm. As Jung's explanation on the collective
unconsciousness, it is likely the dreams also have the connotation of
generic knowledge and omen.
Originated from the concept "stone is a symbol of life in the static
state", stone appeared in the omen dream containing the value as treasures
and good sign in having children. In relation to the epiphany motif, stones
also have extended the meaning layer: after-image of historical character,
the embodiment of the divine and spiritual space. It is possible to confirm
that stone plays an important role in writing structure and has created
close links, narrative rich in Vietnamese legend.
CHAPTER 4
STONE SYMBOL IN LEGEND AND FOLK RELIGION:
RESEARCH ON KY THACH PHU NHAN
AND THAI DUONG PHU NHAN
4.1. Text and text structure of the legend of Thai Duong phu nhan
and Ky Thach phu nhan
4.1.1. Legend of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan
viewed from text
The legend of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan have
several variants circulated. In this subsection, we statistics, survey
documents and survey variants.
Ky Thach phu nhan in Dai Nam Nhat Thong Chi – Quoc su quan
15
Nguyen Dynasty, "Tale of the goddess Ky of Ky Thach Phu Nhan"
printed in the Friends of Hue Acient Capital, Folk Tale of Thua Thien
Hue (Ton That Binh – Author): in term of story plot and details related to
the stone symbol, almost there is no difference between the texts.
Thai Duong phu nhan in O Chau Can Luc, "Tale of Thai Duong
phu nhan Mother Deity", Vietnamese folk legend of Elite of Vietnamese
folklore (book 4) compiled by the Institute of Cultural Study, Hue - past
and present: monuments and landscapes, Myths, legends, fairy tales,
fables (episode 1), The collective of folklore of Hue area: existing two
variants of the root of the goddess. This shows that variants may be
created by the self-respect, the awareness of community of the local
residents.
The above difference mainly due to the following reasons: 1. Variants
were created by the process of circulation; 2. The purpose of the research
records is specialized in genres; 3. The determination of genres also affect to
the process of work reconstruction on the basis of existing data.
4.1.2. Legend of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan
viewed from the text structure
Legends of Ky Thach phu nhan and Thai Duong phu nhan had
simple layout, including: In part one, the story explains the name of
temple and shrine with full of legendary color. Because the central
character of the legends of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan
was goddesses, meanwhile in the second part, the epiphany of stone/gods
residing in stone was also full of magic, needing capture data by belief
was marked with the exactly and specifically historical milestone. That is,
reality and unreality intertwined themselves. Fictional elements are used
to increase legendary properties, improving the position of the central
character: the sacred stone/ God shelters in stone. And the true and
historical details had backward impact, contributing to certificate the
16
legend, turning the legend into real life and increase the people's beliefs
in the stone legend.
The epiphany is classified into two forms: the introduction of
epiphany event and the presentation of the epiphany story. This led to the
second part of the text sometimes become a collection system of small
stories. The epiphany at the second part may be the highlight of the
Nguyen Dynasty’s power by setting-up the epiphany of support of the
angels.
4.2. Stone symbol in legend on Thai Duong phu nhan and Ky Thach
phu nhan in relation with Cham folk religion
The influence of Cham religion in stone symbol in general and the
cases of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan in particular, we
think it can be explained as follows:
Thuan Hoa Region was still known as O Chau - evil land, so with
the mind of a man who had just arrived in strange land to settle, fear is
inevitable. Here, we regard Cham as native residents and Vietnamese as
immigrants. Thus, they advocate "have abstained, have healed": just
respect the things in the new land/ the gods of the natives; they will be
secure peace;
Belief and religion is baggage indispensable of a migrant. When
"hit" to the beliefs of the natives, they realize there are things close to
their beliefs. As a nature, they also believe and follow. There is a fact;
sometimes the Vietnamese have not understood the beliefs of the Cham
so it should occur: the object and the way of worship of Vietnamese do
not completely coincide with the Cham, despite of the same name of
religion.
In the struggle for survival, perhaps they were "naturally"
(unconscious) influenced or their "actively" turn into Vietnamese the
cultural beliefs of natives
17
4.2.1. Stone-worship
We concretized the concept of stone-worship forming in legend of
Ky Thach phu nhan as follows: Stone has intricate carvings
Stone with
intricate
carvings
of Cham
people
1. Stone – sacred thing (Stone-worship of Vietnamese)
2. Stone – sacred thing on the new (Gods of Cham)
[invisible fear]
3. Scarved stone with strange shape (appeared in temple or
shrine of Cham) [visible fear]
4. Stone is the residence of Tàrỉ Goddess in Cham Belief
Stone symbol of Legend of Thai Duong phu nhan has the following
conception layers:
Stone
1. Stone – sacred thing
2. Stone – rock
3. Stone – Sea God (Yang Tathik)
Worshiped stone in Ky Thach phu nhan and Thai Duong phu nhan
are assumed to be fully influenced with Cham religion but it was just the
borrowing the cover or link of conception in Cham’s religion.
4.2.2. The worship of Mother
Vietnamese easily recognize the goddess worship of the Cham
natives had similarities with the worship of Mother in the north, so the
reception process could take place quite gently. But due to the fear,
paralleled with the inadequate understanding of Cham beliefs, the
influence here is just concept value.
We believe that fishermen in Legend of Ky Thach phu nhan did not
18
target at the subject of worship of sex goddess Tari but merely an
ambiguous goddess. With Thai Duong phu nhan temple, god has a
different conception: Po Riyak - sea god.
The influence of the notions is not only the consequences of living
together on the same land, but also originated from fears in the settlement
preference of Vietnamese’s nature. It also shows the obsession of women
in Vietnamese’s mind and the activeness in the process of receiving
culture/religion of the Cham.
4.3. Stone Symbol in Legend on Thai Duong phu nhan and Ky Thach
phu nhan in the relation to stone-worship at Thai Duong phu nhan
Temple and Ky Thach phu nhan Shrine
4.3.1. Forms of worshiped-stone
Forms of worshiped-stone at Ky Thach phu nhan Shrine: All texts
are brief notes, only Dao Thai Hanh described in detail. The scene carved
in the bas-relief is the wills contest between Demon King of Ravana and
Shiva Deity on the Kaisala Mountain.
Forms of worshiped-stone at Thai Duong phu nhan Temple: All
texts did not mention the shape of the stone, only the detail: "In this stone,
there is gem therapy".
Worshiped-stone in these two legends is the connection between
the unreality (legend, the gods) and reality (belief and daily life). Only the
existence of the worshiped-stone is already enough to set up and increase
the trust of the community in belief and legend
4.3.2. Worship form
Both goddesses, Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan,
were ordained by Nguyen Dynasty, so the repair of temples and worship
got the attention of people.
The remodeling of temple and shrine: Shrine of Ky Thach phu nhan
has been kept in original status. Worship fetishes are more adequate and
19
shrines have been restored. However, the details added in the space in
front of shrine seem not to connect to stone-worship but rely on
community’s psychology. Temple of Thai Duong phu nhan now has
spacious campus. Sculpture of temple architecture has been influenced by
the other culture and religion in space of temples and shrines.
Worship and Liturgy: the text notes are very brief. Currently, in the
shrine of Ky Thach phu nhan, people often come to burn incense and
make offerings of silk fabric, "clothes" for the statue that custodian
monthly change clothes for her. In Thai Duong phu nhan ceremony, on
23rd it is the main ceremony, there will be the procession of Lady from
the temple to the village communal house for the Liturgy with the very
close form to goddess worship.
In the form of worship and Mother Worship seemed to overwhelm
stones worship. Meanwhile, according to notes of the text, belief in the
center of the symbol is the stone-worship.
Stone-worship in Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan
combined harmoniously with “Mother” worship, or contained other
concepts of stone-worship in Cham culture and religion. The difference in
the worshiped stones in Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan
was the proof for the acceptance of Cham culture and beliefs of
Vietnamese at various historical landmarks and living area. This is the
result of the struggle for survival of Vietnamese in the early time to settle
on new land
CONCLUSION
"Stone is eternal, a symbol of life in static state", so stone in
Vietnamese legends is also the embodiment of longevity and always
contains the flexibility of the meaning layers, always hides the vividity of
20
the relationships. So, discovery of stone symbol in Vietnamese legend is
not only research on a symbol, but also a beginning to learn about the
spiritual life of Vietnamese and tracing back to national history from the
events, characters, beliefs cuts in the works.
Within the scope of the thesis, the topic Stone symbol in
Vietnamese Legend, we have focused to clarify the following main issues:
1. From the data statistical results, we systematize the study of
symbols and stones in religion/Vietnamese folklore in order to outline
preliminarily the studies situation on issues related to "Stone symbol in
Vietnamese legends" now. On the basis, we found out proper approaches
to the topic and gave practical suggestions for decoding stone symbols.
Overview chapter also shows gaps and prospects of this research direction
which help us localize and establish effective scientific problems to be
solved
2. Analysis on legends using stone symbol under the folklore and
autobiographic in terms of decoding the meanings, narrative structure, we
get the following specific results:
- Firstly, 4 layers of meaning (living from static status, rebirth in
anticipation, the presence of the divine and the notion of displacement) of
the stone are our results from the survey and statistics document. The
borrowing of the stone nature and value of author's folk has opened a new
meaning to the legend character: creating angels’ origin, the wonders of
the behavior, and the immortal monument of the community. Also, the
characters who involved in stone themselves have turned back the stone,
forming additional value to the stone. Therefore, in terms of layer of
meaning, the stone in Vietnamese legend owns quite lively variation.
Besides, based on the system of meaning layer of stone that Jean
Chevalier and Alain Gheerbrant mentioned in the dictionary of the
world's cultural symbol and on actual survey, the comparison also assists
21
us in identifying similarities and differences of stone in Vietnamese
legend/Vietnamese culture and human culture.
- Secondly, the narrative structure of the story form using stone
symbol, we recognized stone has the interaction with other motifs of
legend to form narrative structure. Since then, stone has taken part in
sanctifying legendary character stone because the character was not only
the holy treasure, but also the child enjoying kindness from all of the
family. Moreover, stone in Vietnamese legend was strongly covered with
color of spirituality, is both the embodiment and component elements of
spiritual space of legend. Surely, with the spiritual space, stone was
maintained its specific figures to honor historical characters.
3. Through the relationship among text, monument and worship
habits, the thesis has analyzed the relationship between the legend and
stone-worship of Vietnamese. It’s possible to say, through the time,
legend have demonstrated the extremely harmonious combination of all
religions and other cultures in stone symbol. Even in Vietnamese legends,
stone symbol also reveals that the stone-worship does not always keep its
origin, but sometimes in the harmony, the other religions become
decisive.
4. In the thesis, the relationship between legend and stone-worship,
we have studied two cases: Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu
nhan. The results of this analysis are:
- The thesis has clarified the relationship of Vietnamese - Chams in
the national history, specifically the acceptance of stone-worship and
“Mother” deity worship of Cham culture in the spiritual life of
Vietnamese. Here, we both have a premonition of acceptance and confirm
Vietnam factor in Stone symbol of legend and the form of stone-worship
at the shrine/temple.
- The thesis also points out the rise of “Mother” deity worship in
22
the form of worship and the monument of Thai Duong phu nhan Temple
and Ky Thach phu nhan Shrines. It means, the stone-worship was hidden
away, people know the deity worshipped is “Mother” or goddess only.
5. Issues have not been done in the thesis yet; we hope to have
conditions to study in the near future:
- Comparison of layers of meaning of stone symbol in legend with
the other genre of Vietnamese folklore. With features of each genre, we
believe that stone symbol brings its own values and meaning layer.
Therefore, it is possible to recognize the bold/light and the transformation
in the relationship between religion of stone-worship with other genres of
folklore.
- Comparison of meaning layer of stone symbol in Vietnamese
legend with others in countries of Southeast Asia and Asia. Naturally, the
trend decrypts the layers of meaning similar/different which stone symbol
own, not only in one folklore genre, but also the whole culture. This shall
endorse the interference of the stone-worship between Vietnam and other
countries in the region.
- Studying the stone symbol of Thai Duong phu nhan within the
Central region, because both Hue and Quang Nam have monuments also
called Shrine/Temple of Thai Duong Phu Nhan. This orientation of the
research is regional and capable of reflecting the area of this document
handing-down, and contributes to the confirmation of cultural exchange
Vietnam - Cham.

More Related Content

What's hot

Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtnataliej4
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT nataliej4
 
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfTruyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfNuioKila
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...Huynh Loc
 

What's hot (20)

Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
Luận văn: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệ...
 
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
 
Luận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam
Luận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt NamLuận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam
Luận văn: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp t...
 
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAYLuận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
 
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAYKhóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
 
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luậnLuận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
 
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
 
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn QuốcLuận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
 
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfTruyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
 
Đề tài: Khai thác văn hóa tộc người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam, HAY
Đề tài: Khai thác văn hóa tộc người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam, HAYĐề tài: Khai thác văn hóa tộc người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam, HAY
Đề tài: Khai thác văn hóa tộc người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam, HAY
 
Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía BắcTiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt NamLuận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
 
Đề tài: Dạy học tích hợp trong một số tác phẩm trong môn Ngữ Văn 10
Đề tài: Dạy học tích hợp trong một số tác phẩm trong môn Ngữ Văn 10Đề tài: Dạy học tích hợp trong một số tác phẩm trong môn Ngữ Văn 10
Đề tài: Dạy học tích hợp trong một số tác phẩm trong môn Ngữ Văn 10
 
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
Đề Tài “những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với nền vă...
 

Similar to Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam

Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức                Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức Pham Long
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐlongvanhien
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămThanh Hải
 
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Garment Space Blog0
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...NuioKila
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương t.n.them
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương   t.n.themđốI thoại cùng bạn đọc về âm dương   t.n.them
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương t.n.themPhan Huyền
 

Similar to Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam (20)

Luận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn của cổ mẫu, HAY
Luận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn của cổ mẫu, HAYLuận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn của cổ mẫu, HAY
Luận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn của cổ mẫu, HAY
 
Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAY
Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAYÂm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAY
Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAY
 
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
 
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức                Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức
 
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐGIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
 
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
Chăm phồn thực
Chăm phồn thựcChăm phồn thực
Chăm phồn thực
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
 
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...
 
Luận văn thạc sĩ: Những di tích thời đại Đá ở Thái Nguyên, HOT
Luận văn thạc sĩ: Những di tích thời đại Đá ở Thái Nguyên, HOTLuận văn thạc sĩ: Những di tích thời đại Đá ở Thái Nguyên, HOT
Luận văn thạc sĩ: Những di tích thời đại Đá ở Thái Nguyên, HOT
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
 
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công SơnKhảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAYLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Thơ Đi Sứ Của Sứ Thần Trung Quốc Đến Việt Nam Từ Thế Kỉ ...
 
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoiluan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
 
Luận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAY
Luận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAYLuận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAY
Luận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAY
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Đền Tân La trong đời sống của người dân xã Bảo Khê, Hưng Yên
Đền Tân La trong đời sống của người dân xã Bảo Khê, Hưng YênĐền Tân La trong đời sống của người dân xã Bảo Khê, Hưng Yên
Đền Tân La trong đời sống của người dân xã Bảo Khê, Hưng Yên
 
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương t.n.them
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương   t.n.themđốI thoại cùng bạn đọc về âm dương   t.n.them
đốI thoại cùng bạn đọc về âm dương t.n.them
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 

Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam

  • 1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ------------------- NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HUẾ - NĂM 2016
  • 2. Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị An TS. Hà Ngọc Hòa Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế họp tại: ....................................................................................................... ............................................................................................................. Vào hồi … giờ ... ngày ……… tháng ……… năm ........................... Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Trường Đại học Khoa học.
  • 3. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ 1. Motif đá thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt, 2015, Tạp chí Khoa học công nghệ, Đại học Đà Nẵng, tập 95, số 10, tr. 40 – 44. 2. Motif vật hóa đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, 2016, Bản tin Đại học Huế, số 98, tr.103 - 106 3. Đá thiêng hiển linh trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, 2016, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3 (529), tr. 108 – 118. 4. Hình tượng ngọc trong truyền thuyết dân gian người Việt, 2016, Tạp chí Khoa học (Đại học Huế), số 8 (122), tr.99 - 110..
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đá là sự vật gắn kết với loài người từ thuở hồng hoang bởi con người trú thân trong hang đá, mượn cạnh sắc của đá để làm công cụ săn bắt, nhờ cái cứng rắn của đá mà tạo ra lửa sưởi ấm và nấu chín thức ăn,… Ngay cả khi con người trở về với đất, đá là một trong những lựa chọn đầy tin cậy để gởi gắm thể xác hay làm vật đồng hành trên con đường đến cõi khác. Con người tìm thấy sự an yên và sức mạnh của mình từ đá nên như một điều hiển nhiên, con người tin và thờ phụng vị thần đá. Chính sự gắn bó chặt chẽ này đã phần nào lý giải vai trò của tục thờ đá trong đời sống của con người. Trong văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là thể loại có sự liên kết chặt chẽ với những biến thiên lịch sử của dân tộc, đồng thời thể hiện rõ nét nhất cảm quan lịch sử của người nghệ sĩ dân gian. Bằng khả năng tích hợp nhiều lớp nghĩa một cách hiệu quả trong chiều dài thời gian lịch sử, biểu tượng đá có mối liên hệ chặt chẽ với nội dung và nghệ thuật trần thuật của thể loại truyền thuyết. Thông qua việc lưu giữ biểu tượng đá, tục thờ cúng đá cùng các dạng thức của đá, truyền thuyết Việt Nam đã lưu lại dấu ấn của sự giao thoa tín ngưỡng, văn hóa ở Việt Nam và sức mạnh của nhân vật lịch sử, của cộng đồng dân tộc. Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, có hai truyền thuyết thể hiện những lớp nghĩa đặc biệt của biểu tượng đá là Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân. Trong luận án này, sau khi phân tích các vấn đề lý thuyết, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu trường hợp hai truyền thuyết trên bởi các lý do sau: a) Với đặc trưng của mình, hai truyền thuyết đã phản ánh những biến chuyển về lịch sử và văn hóa, tín ngưỡng của vùng đất Thừa Thiên Huế, nơi có sự xếp chồng các lớp văn hóa (Việt, Chăm); b) Đây là những truyền thuyết được ghi chép vào các thư tịch khá sớm và vẫn đang “sống” tại địa phương với nhiều dị bản; c) Hai truyền thuyết này có mối quan hệ chặt chẽ với tín ngưỡng dân gian thông qua sự hiện diện của đền/ miếu và hình thức thờ cúng. Vì
  • 5. 2 vậy, tính đa nghĩa và sợi dây liên kết của biểu tượng đá từ truyền thuyết đến tín ngưỡng, văn hóa trong Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân là tương đối dễ nhận ra. Là người đang giảng dạy văn học dân gian tại trường đại học ở Huế, việc nghiên cứu biểu tượng đá qua hai trường hợp trên không chỉ thuận lợi trong quá trình điền dã cho chúng tôi mà thông qua việc khảo sát và nghiên cứu trường hợp văn hóa dân gian tại địa phương, chúng tôi còn có thể mở rộng hiểu biết về văn học dân gian, lịch sử và văn hóa Thừa Thiên Huế. Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam để nghiên cứu trong luận án. 2. Mục tiêu nghiên cứu: Giải mã các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong các bản kể truyền thuyết và trong các trầm tích văn hóa của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Biểu tượng đá Phạm vi nghiên cứu: Truyền thuyết dân gian Việt Nam 4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cách tiếp cận - Cách tiếp cận văn học dân gian - Cách tiếp cận văn hóa học - Cách tiếp cận nhân học 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phân tích tài liệu thứ cấp - Điền dã 4.3. Thao tác nghiên cứu: thống kê, phân tích và so sánh loại hình 5. Đóng góp khoa học của luận án Thứ nhất, hệ thống hóa tư liệu về nghiên cứu biểu tượng và biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, đem đến những đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu.
  • 6. 3 Thứ hai, phân tích biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam từ các góc độ: ý nghĩa biểu tượng, cấu trúc trần thuật, nhằm khẳng định sự phong phú về lớp nghĩa của biểu tượng đá và kiến giải vai trò của đá trong cấu trúc truyện kể và nghệ thuật xây dựng nhân vật truyền thuyết. Thứ ba, thông qua biểu tượng đá, chúng tôi chỉ ra mối liên hệ giữa truyền thuyết dân gian với tín ngưỡng thờ đá. Thứ tư, nghiên cứu trường hợp Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân – hai truyền thuyết tiêu biểu của Việt Nam trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có biểu tượng đá để góp phần minh giải mối liên hệ truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá và minh chứng cho sự dung hòa tín ngưỡng trong quá trình sinh tồn của người Việt. 6. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung chính của luận án được triển khai trong 4 chương: Chương 1: Lý thuyết biểu tượng và tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Biểu tượng đá và hệ thống nghĩa của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam Chương 3: Cấu trúc trần thuật của dạng truyện kể dân gian có sử dụng biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam Chương 4: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian và tín ngưỡng dân gian: nghiên cứu trường hợp Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT BIỂU TƯỢNG VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Lý thuyết biểu tượng và nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng 1.1.1. Lý thuyết biểu tượng Biểu tượng là một thuật ngữ xuất hiện trong đời sống thường ngày và
  • 7. 4 đời sống học thuật. Bản chất của biểu tượng là khó xác định cho nên việc xác định ý nghĩa còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Điều đó cho thấy nghiên cứu biểu tượng phải là ngành khoa học liên ngành với nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Các lĩnh vực ngôn ngữ học, nhân học và ký hiệu học được xem là cốt lõi để nghiên cứu biểu tượng. Đối với ký hiệu học, đóng góp quan trọng nhất của L. Hjelmlev là sự phân biệt “ký hiệu học biểu thị” với “ký hiệu học hàm nghĩa”. Còn R. Barthes đã cụ thể hóa tính “hệ thống kép” đặc trưng của ngôn ngữ biểu tượng. Với phương pháp tiếp cận cụ thể, ký hiệu học đã hạn chế được tính khó xác định của biểu tượng. Hướng tiếp cận nhân học trong nghiên cứu biểu tượng cũng đã được Raymond Firth khái quát thế mạnh trong Biểu tượng: Chung và Riêng. Với phương pháp chuyên biệt như điền dã thực địa hay quan sát tham dự, nhân học là giải pháp để khám phá biểu tượng trong chính môi trường “sống” của nó. Ngoài ra, Claude Levi-Strauss đã có đóng góp lớn cho việc nghiên cứu biểu tượng. Cấu trúc luận đã tạo nền tảng để ký hiệu học và nhân học nghiên cứu biểu tượng với những hướng tiếp cận hiệu quả khác nhau. Chúng tôi thiết nghĩ, sự lựa chọn hướng tiếp cận phải phù thuộc vào đặc trưng của mỗi biểu tượng. Đồng thời, vai trò của các cách tiếp cận trong quá trình nghiên cứu biểu tượng cũng sẽ đậm nhạt khác nhau. 1.1.2. Nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng Hướng nghiên cứu biểu tượng trong văn học dân gian xuất hiện từ khá lâu ở nước ta. Với Thi pháp ca dao (1993, NXB Đại học Quốc gia), Nguyễn Xuân Kính được đánh giá là một trong những người tiên phong trong nghiên cứu biểu tượng của văn học dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, phải đến những năm cuối thế kỷ XX, lý thuyết về biểu tượng và các phương pháp tiếp cận nghiên cứu biểu tượng mới thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Năm 1999, “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt” của Trần Thị An (Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học - Viện Văn học) là một trong số công trình đầu tiên soi chiếu biểu tượng
  • 8. 5 văn học đặt từ nền tảng văn hóa. Nguyễn Thị Bích Hà là tác giả đã sử dụng lý thuyết mã văn hóa để nghiên cứu văn học dân gian trong bài viết “Mã và mã văn hóa” (2006) đăng trên Văn hóa dân gian. Xét đến thời điểm hiện nay, Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa (2014, NXB Đại học Sư phạm) của Bích Hà là công trình đầu tiên chuyên sâu nghiên cứu văn học dân gian theo khuynh hướng biểu tượng luận. Năm 2014, Nghiên cứu biểu tượng – Một số hướng tiếp cận lý thuyết của Đinh Hồng Hải có thể xem là công trình đầu tiên giới thiệu một cách hệ thống lý thuyết về biểu tượng ở Việt Nam. Bài viết “Đi tìm bản sắc văn hóa dân tộc qua thế giới biểu tượng” của Nguyễn Văn Hậu đã khẳng định vai trò của biểu tượng trong sự nhận chân bản sắc của dân tộc. Hướng nghiên cứu này được quan tâm hơn trong thời gian gần đây: “Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu Nước trong văn chương Việt Nam” (Nguyễn Thị Thanh Xuân), “Từ truyền thuyết rồng Thăng Long khám phá biểu tượng rồng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam” (2011) đăng trên Nghiên cứu văn học của Nguyễn Thị Thanh Lưu,… Có thể thấy nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng chỉ mới được đề cập đến trong lượng công trình khiêm tốn và phần lớn mang tính ứng dụng để nghiên cứu một số trường hợp cụ thể. 1.2. Các công trình nghiên cứu Đá ở Việt Nam 1.2.1. Công trình về tín ngưỡng thờ đá Công trình Văn hóa tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt (2010) của Cadiere là bức tranh toàn cảnh về tục thờ đá ở Việt Nam và mối quan hệ giữa truyện cổ dân gian về đá thiêng và tín ngưỡng thờ đá. Về đá trong văn học dân gian, Tìm hiểu văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á (Đinh Gia Khánh, 1993) và Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam (Nguyễn Duy Hinh, 1996), thông qua truyện Man Nương, đã cho thấy vai trò của truyện cổ dân gian trong việc truy nguyên và hỗ trợ nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo. Với “Thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam” (2004) đăng trên Văn hóa dân gian, Nguyễn Việt Hùng đã làm rõ mối quan
  • 9. 6 hệ giữa tín ngưỡng thờ đá với các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa và ngoại lai ở Việt Nam. Trong Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ đá ở Việt Nam (2011, NXB Văn hóa thông tin), tác giả còn khảo sát kiểu truyện vọng phu và đặt trong sự đối sánh với tín ngưỡng thờ đá. Qua điền dã và thống kê truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa, Hồ Quốc Hùng cũng đã nỗ lực giải mã các lớp tín ngưỡng thờ đá trong “Thử nhận diện dấu vết tín ngưỡng Chăm qua nhóm truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa” (Tuyển tập 40 năm Viện Văn học, 1999, NXB thành phố Hồ Chí Minh). Từ thực tế nghiên cứu, hầu hết các công trình đã cho thấy vai trò và vị trí của tục thờ đá trong đời sống tâm linh của người dân Việt, mối quan hệ tương tác giữa văn học dân gian và tín ngưỡng, văn hóa. 1.2.2. Công trình nghiên cứu Đá với tư cách biểu tượng Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (2002, NXB Đà Nẵng) của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant là công trình nghiên cứu biểu tượng hệ thống nhất hiện nay, là một bảng tra cứu giúp chúng tôi định hướng giải mã biểu tượng đá trong truyền thuyết. Trong Những đỉnh núi du ca – một lối tìm về cá tính H’Mông (2014, NXB Thế giới), dù không đi sâu phân tích đá mồ côi nhưng Nguyễn Mạnh Tiến đã chỉ ra lớp nghĩa riêng của đá trong văn hóa H’Mông. Bài viết “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt” (1999, Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Viện Văn học) của Trần Thị An đã làm rõ tính phổ quát và tính khu biệt của biểu tượng đá trong truyền thuyết. Hai bài viết khác của tác giả Nguyễn Huy Bỉnh, “Truyền thuyết dân gian xứ Bắc về các thần tự nhiên” và “Truyền thuyết Thạch tướng quân trong mối quan hệ với tín ngưỡng thờ đá”, đã phác họa mối quan hệ giữa truyền thuyết về đá thiêng và tín ngưỡng thờ đá. Công trình nghiên cứu đá với tư cách là biểu tượng chiếm số lượng khiêm tốn nhưng đã có thành tựu bước đầu trong việc khẳng định giá trị văn hóa của biểu tượng đá và chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa biểu tượng đá trong truyền thuyết với tục thờ đá ở các địa phương.
  • 10. 7 1.2.3. Công trình nghiên cứu motif Đá trong truyện kể dân gian Việt Nam (thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích) Bài viết “Môtíp đá thiêng/hóa đá và tín ngưỡng thờ đá trong truyện kể dân gian Nam Đảo” (2007) in trong Truyện kể dân gian các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam (NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) của Phan Xuân Viện chỉ mới dừng lại ở giới thiệu và phân tích, liên hệ một cách điểm xuyết motif đá thiêng/ hóa đá và tín ngưỡng thờ đá. Với phạm vi khảo sát rộng cả về thể loại lẫn dân tộc, công trình cho thấy sự phong phú và đa dạng trong dạng thức tồn tại của đá. 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài 1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu Biểu tượng đá trong các tác phẩm văn học dân gian chủ yếu được đề cập đến trong các công trình về tín ngưỡng thờ đá. Rất ít công trình nghiên cứu về đá trong văn học dân gian, đặc biệt với tư cách là biểu tượng trong truyền thuyết. Hầu hết nghiên cứu theo phương pháp khảo sát văn bản kết hợp điền dã để có thể khái quát được đời sống của đá trong tác phẩm và tín ngưỡng của người dân địa phương. 1.3.2. Hướng triển khai đề tài Thống kê và phân loại sự xuất hiện của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam. Nghiên cứu biểu tượng đá từ cấu trúc trần thuật của dạng truyện kể có sử dụng biểu tượng đá trong truyền thuyết. Nghiên cứu trường hợp Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân, trong mối quan hệ với tục thờ đá, cũng như tín ngưỡng, văn hóa khác. Từ việc tổng thuật tình hình nghiên cứu vấn đề biểu tượng và biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, có thể nhận thấy rằng, mặc dù hướng nghiên cứu đá trong truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian từ góc độ biểu tượng chưa được khai thác nhiều nhưng đã đưa lại những kết quả bước đầu quan trọng để hiểu sâu hơn chiều sâu văn hóa của truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian. Tiếp tục đi sâu bóc tách các lớp nghĩa của
  • 11. 8 biểu tượng đá như những trầm tích văn hóa và phân tích cấu trúc nghệ thuật của truyền thuyết dân gian về biểu tượng đá là việc làm của các chương tiếp theo của luận án. CHƯƠNG 2 BIỂU TƯỢNG ĐÁ VÀ HỆ THỐNG NGHĨA CỦA BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM 2.1. Biểu tượng đá và các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới và Việt Nam 2.1.1. Biểu tượng đá và các hướng tiếp cận biểu tượng đá ở Việt Nam Hầu hết truyền thuyết không xác định loại/ dạng đá (vật liệu), cũng không chú ý đến màu sắc cụ thể của đá nên chỉ có thể xếp đá trong truyền thuyết thành hai loại lớn: đá thô tự nhiên và đá đã được đẽo gọt. Ngoài ra, chúng tôi đã chú ý đến hai dạng thức: ngọc và ngôi sao. Với ngôi sao, chúng tôi xin có những lý giải sau: Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã đưa ra định dạng “đá trời”; Năm 2015, khi giám định để trao bằng Bảo trợ cho di sản văn hóa phi vật thể Mo Mường Hòa Bình, Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam đã đánh giá thiên thạch là một trong những công cụ hỗ trợ liên quan chặt chẽ; Hình thức xuất hiện của ngôi sao phần lớn được miêu tả “sa vào miệng”, “sa xuống” rất giống với kiểu đá trên trời rơi xuống và khi miêu tả sự tiếp nhận của người mẹ, tác giả dân gian chú ý đến hành động “nuốt”. Về hướng tiếp cận biểu tượng đá ở Việt Nam, phần lớn các công trình chúng tôi khảo sát trong chương 1 đều giải mã trên nền tảng liên ngành với nhiều cách tiếp cận, dù có công trình chưa định danh cụ thể đối tượng đá là “biểu tượng” nhưng đã phần nào gợi ra vai trò và giá trị biểu tượng của đá. 2.1.2. Các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới và Việt Nam qua các công trình nghiên cứu Đặc điểm của đá (cứng rắn, độ bền vững cao, không thể bẻ cong,…) chính là những cơ sở để trí tưởng tượng của con người hình thành các lớp
  • 12. 9 nghĩa. “Biểu tượng luôn luôn đa chiều” cho nên lớp nghĩa còn là kết quả của sự xâu chuỗi “tương quan” hay sự liên kết những mặt “đối kháng” giữa các đặc điểm, thậm chí là lớp nghĩa đầu tiên của đá. Sự hình thành này còn phụ thuộc vào văn hóa và quan niệm của mỗi cộng đồng. “Phân ly và tái hợp” đã trở thành một đặc tính của biểu tượng. Sự giải mã nghĩa của biểu tượng sẽ nhìn nhận từ: Khả năng tiếp nhận của người đọc, nghĩa quy ước của cộng đồng và sự liên kết giữa dấu hiệu chỉ dẫn của biểu tượng với các chi tiết khác trong văn bản. Do đó, việc “tái hợp” nghĩa sẽ vừa mang tính khách quan vừa đậm dấu ấn cá nhân. Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ đá từ Văn hóa tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt (Leopold Cadiere) cho đến “Thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam” (Nguyễn Việt Hùng),… đều khẳng định đá là sự hiện diện của thánh thần. Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ đá ở Việt Nam của Nguyễn Việt Hùng, “Thử nhận diện dấu vết tín ngưỡng Chăm qua nhóm truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa” của Hồ Quốc Hùng,… cho rằng vị thần trong đá là sự hội tụ hình ảnh của thần linh và tổ tiên. Trần Thị An lại định hình giá trị biểu trưng của đá cụ thể ngay trong “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt”: không gian đá – sự sống trong trạng thái tĩnh. Trong tình hình nghiên cứu về đá hiện nay ở Việt Nam, số lượng công trình khá giới hạn, đặc biệt tiếp cận từ hướng biểu tượng lại càng ít, do đó các lớp nghĩa được chúng tôi thống kê sơ lược ở trên chỉ mới là sự bắt đầu có tính định hướng cho quá trình khám phá biểu tượng đá trong truyền thuyết. 2.2. Các lớp nghĩa tiêu biểu của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam 2.2.1. Sự sống trong trạng thái tĩnh Thứ nhất, đá hóa người – Đất Mẹ: Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng quân, Sự tích Thiên Bồng nhà Lý, Sự tích Thiên Đá và Đường Lô đánh giặc Ân. Mối quan hệ giữa đá với nhân vật là mẫu tử, dù đá chỉ “bà mẹ
  • 13. 10 nuôi/ mang tính tạm thời” của thần linh trước khi bước vào cõi trần gian. Thứ hai, đá thô tự nhiên có hình dáng giống con người – nơi trú ngụ của thần linh: tượng đá (Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng Vương), và đá giống hình người (Truyền thuyết tượng nghè). Điều kiện tiên quyết để đá được rước vào miếu để thờ cúng, đó là tảng đá phải linh thiêng, tạo niềm tin ở người dân về sự tồn tại của một vị thần. Thứ ba, đá – nơi tạm trú linh hồn khi chuyển kiếp: chỉ xuất hiện duy nhất trong Lương Thế Vinh. Ở đây, đá là nơi trú ngụ tạm thời, nhưng lại là của một con người trong quá trình chuyển kiếp. Chính bởi tất cả các lớp nghĩa đó, đá ẩn giấu một sức sống bất biến với thời gian để như một lối ẩn dụ về tính thiêng của nhân vật truyền thuyết, của niềm tin tâm linh. 2.2.2. Sự tái sinh trong ngưỡng vọng Thứ nhất, núi đá – hóa thân của con người: Truyện cái khiên, Sự tích núi Sầm Sơn và Núi Bà Đội Om. Có thể nói cả ba truyền thuyết đều cho thấy núi đá là sự hóa thân của con người để tạc nên dáng hình của xứ sở. Thứ hai, núi đá – hóa thân của vật. Lớp nghĩa này có thể chia làm hai tiểu dạng phụ thuộc vào vật được hóa núi đá: Vật mang tính thiện: phượng hoàng (Núi Phượng Hoàng), ngựa và bộ yên ngựa (Mã Yên Sơn), chú voi què (Chú voi què hóa đá). Chính hành trạng của những vật này trong mối quan hệ với nhân vật lịch sử hoặc đời sống của người dân đã tạo ra sự tái sinh “đời đá” của sự vật. Vật mang tính ác: yêu tinh (Sự tích núi Sậu), quái vật (Sự tích sông Kinh Thầy). Hầu hết đá được hóa thân trong các trường hợp trên đều mang ý nghĩa lưu lại chiến tích của nhân vật lịch sử. Thứ ba, ngọc – hóa thân của nhân vật. Dạng thức này chỉ xuất hiện duy nhất trong Truyện Rùa vàng. Những yếu tố hư cấu liên quan đến ngọc hình thành trên nền tảng của sự quan sát và liên tưởng tinh tế, với nhiều ngụ ý tốt lành của nhân dân dành cho nhân vật Mị Châu. Chúng tôi xem sự hóa thân thành đá là một hình thức tái sinh bởi lẽ
  • 14. 11 không chỉ danh xưng, hình dáng của nhân vật truyền thuyết được bảo lưu mà chính xác là vong hồn mang sức mạnh của người/ vật đã được gìn giữ, ngưỡng vọng trong tâm thức của cộng đồng, dân tộc. 2.2.3. Sự hiện diện của thần linh Thứ nhất, đá được đẽo gọt: chó đá (Lương Thế Vinh, Sự tích Hạc Lai và Vũ Cố giúp Lê Lợi đánh giặc Minh), ngựa đá (Thần miếu Độ Mi). Có thể thấy ở đá được đẽo gọt trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, tính linh thiêng không phải bị mất đi, mà là được tạo ra, hoặc được tăng thêm. Thứ hai, ngôi sao. Chúng tôi chỉ xin đề cập đến ngôi sao trong dạng kể trực tiếp của motif sinh nở thần kỳ và ngôi sao trong cái chết thần kỳ của nhân vật: Sự tích Đức Thiên Cang thời Hùng Vương, Sự tích Hùng Hải, Đỗ Huy thời Hùng Vương. Ngôi sao - đá trời đã trở thành một biểu tượng cho sự giáng sinh của thần linh, là sự liên thông của trời đất ở nhân vật. “Sự có mặt đích thực” của thần linh trong truyền thuyết không phải chỉ là sự hiện hữu ở tín ngưỡng thờ đá với vị thần đá duy nhất tồn tại trong đá mà đôi khi lại là vong hồn của tổ tiên neo đậu trong đá hay là sự giáng sinh thành người của thần đá trời giữa cõi trần. 2.2.4. Ý niệm chuyển vị Cần lưu ý rằng sự chuyển vị được đề cập đến ở đây chính là hiệu ứng đá mang lại cho chủ thể sở hữu đá và là sự chuyển đổi từ “bóng tối đến ánh sáng, từ không hoàn thiện đến hoàn thiện”. Thứ nhất, đá thô tự nhiên có/ không có hình dạng cụ thể: tảng đá lớn (Truyện cái khiên) và đá thề bồi (Sự tích suối Rắn). Tính linh thiêng không thuộc về vị thần trú ngụ trong đá mà là phép màu thần kỳ do đá sở hữu hoặc có thể đem đến cho nhân vật trong truyền thuyết. Thứ hai, ngọc có phép màu là sự chuyển vị cho nhân vật từ “không hoàn thiện đến hoàn thiện”: Vợ ba Cai Vành, Ông Tả Giám Đàn, Cầu làng Sải. Tuy nhiên phần lớn các viên ngọc này khó có thể xác định loại ngọc và ít nhiều có mặt hạn chế, hoặc khả năng bị “giải thiêng” là luôn hiện hữu.
  • 15. 12 Ý niệm chuyển vị là lớp nghĩa đặc biệt của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, thiên về khuynh hướng là sự dõi theo, phù trợ của vong hồn tổ tiên. Đồng thời, giá trị chuyển vị của biểu tượng đá đối với nhân vật không bất biến cho nên nó gợi ý thức về sự gìn giữ và trân trọng. Quan niệm “Đá cũng là vật sống và mang lại sự sống” [19, tr. 269] đã được quán triệt thống nhất trong truyền thuyết. Vậy nên, biểu tượng đá là sự vay mượn của tác giả nhằm bất tử hóa nhân vật lịch sử, thể hiện lòng tôn kính đối với họ và những chiến tích của họ. Ngoài ra, Đá còn là sự yêu quý, tưởng vọng của nhân dân dành cho những sự vật đã góp công trong các chiến thắng của nhân vật. Đá đôi khi còn mang dáng dấp của tổ tiên đang bảo bọc làng xóm, trấn yên những thế lực tà ác, và nỗ lực gìn giữ mưa thuận gió hòa cho con dân. Dường như mỗi thế hệ đã qua vẫn trú ngụ để dõi theo, phù trợ trong lớp vỏ đá tưởng vô tri vô giác, và cũng có khi họ đã hóa thân cho vẻ đẹp của đất nước. CHƯƠNG 3 CẤU TRÚC TRẦN THUẬT CỦA DẠNG TRUYỆN KỂ SỬ DỤNG BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM 3.1. Đá trong giấc mơ điềm báo của truyền thuyết dân gian Việt Nam 3.1.1. Đá là phần thưởng cho việc tu thân tích đức Trong kết cấu này, theo thiển ý của chúng tôi, mối quan hệ giữa những đấng sinh thành ra nhân vật lịch sử với báu vật đá tạo ra một liên kết mang tính nguyên nhân – hệ quả: Sự tích năm anh em Minh Công, Tín Công, Cao Công, Thạch Công và Dung Nương thời Hùng Vương, Sự tích hai anh em Phạm Quang, Phạm Huy thời Lý, ... Cha mẹ của các nhân vật lịch sử đều có lối sống hiền lành, thuộc gia đình tử tế, không phân biệt giàu nghèo. Ngoài ra, họ còn có chung một hoàn cảnh, đã lớn tuổi nhưng hiếm đường con cái. Chính hai đặc điểm này đã khiến con trở thành “báu vật trời ban”. Và cần
  • 16. 13 lưu ý, nhân vật lịch sử của truyền thuyết phải là “hình mẫu lý tưởng về đức hạnh” và ở đây, dường như tác giả dân gian đã mở rộng phạm vi lý tưởng này, vượt ra khỏi giới hạn bản thể của nhân vật. Nghĩa là truyền thuyết đã đề cập đến sự mẫu mực ở cả bậc sinh thành và gia thế của nhân vật lịch sử. Đá cũng giống như các dạng báu vật khác của truyền thuyết là vật tặng mang tính điều kiện, và đồng thời là vật mang tính tượng trưng cho nhân vật lịch sử. Tuy nhiên, nếu như việc xây dựng kết cấu nhân – quả với nhân vật cha mẹ sống phúc đức, hiếm muộn đã được công thức hóa trong thần tích thì sự lựa chọn các dạng đá để trao tặng và có tầm ảnh hưởng đến nhân vật lịch sử đã cho thấy các quan niệm về đá của người dân Việt. 3.1.2. Đá là hiện thân của nhân vật lịch sử trong giấc mơ điềm báo Theo khảo sát của chúng tôi, là vật báu ông trời ban tặng trong giấc mơ điềm báo, đá tồn tại với 3 dạng thức: đá, ngôi sao và ngọc. Hầu hết đá đều chỉ được nhắc đến trong một chi tiết cụ thể và phần lớn không có sự giải mã để gắn kết mối quan hệ giữa đá được trao tặng trong giấc mơ và nhân vật lịch sử được sinh ra: Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng Vương, Sự tích năm anh em Minh Công,... Khác biệt đáng chú ý nhất ở vật báu ngôi sao là hầu hết đều không phải do thần trao tặng mà chỉ đơn giản “sa vào miệng – nuốt”/ “rơi xuống bụng” của người mẹ. Theo chúng tôi, tác giả dân gian có thể đã ví ngôi sao như một hạt giống của sự sống được ông trời gieo vào người mẹ. Song tính liên kết giữa ngôi sao và nhân vật lịch sử gần như không có, ngoài việc nhân vật lịch sử luôn được xem là sự giáng sinh của thần, thánh nên mang vóc dáng và trí tuệ hơn người: Sự tích Ngọn Côn và Thuấn Nghị đời Lê Thái Tổ, Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Vương,... Ngọc trong giấc mơ điềm báo đa dạng về chủng loại và được xác định khá rõ ràng. Tuy nhiên tính chất lỏng lẻo trong liên kết tương đồng giữa ngọc với nhân vật lịch sử cũng vẫn tồn tại. Hầu hết các giấc mơ về ngọc, cũng giống như đá và ngôi sao đều không được giải mã một cách kỹ
  • 17. 14 càng. Bài ký về Hưởng Lãm Mai Hắc Đế là tác phẩm duy nhất được tác giả chú tâm miêu tả ngọc và giải mã giấc mơ điềm báo. Tuy liên kết giữa các dạng đá với sự phi thường trong hành trạng của nhân vật lịch sử có thể còn lỏng lẻo, nhưng việc lựa chọn đá đã cho thấy vai trò của đá trong đời sống của cư dân Việt. Đồng thời, đá góp phần đặc tả tính chất linh thiêng của nhân vật lịch sử trong truyền thuyết dân gian. Vì vậy, đá vừa mang điềm lành trong giấc mơ tiên tri vừa là biểu tượng của sự sống. 3.2. Đá trong motif hiển linh của truyền thuyết dân gian Việt Nam 3.2.1. Đá và sự hiển linh của nhân thần Nhóm nhân thần trong truyền thuyết thường có tần suất hiển linh không cao. Và ý nghĩa của motif hiển linh thuộc dạng này chính là một hình thức “bất tử hóa” nhân vật lịch sử, thể hiện niềm tin và ngưỡng vọng của nhân dân dành cho họ. Tuy nhiên, tính lịch sử của nhân thần ở đây cần phải được làm rõ. Bởi lẽ không phải nhân thần nào cũng là nhân vật có thật trong lịch sử (Cao Lỗ trong Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ vương), mà có thể đó chỉ là hiện tượng “lịch sử hóa” truyền thuyết (nàng Bích Châu trong Đền thiêng ở cửa biển), hoặc chúng tôi không tìm được một cứ liệu nào khác (Chiêu Khanh và Đông Long trong Thần miếu Độ Mi). Đá là hiện thân cho nguồn gốc thiên thần của nhân vật lịch sử, tăng tính thiêng riêng cho truyền thuyết và góp phần khẳng định sự bền vững, bất tử cùng thời gian của nhân vật lịch sử. Dù trong truyền thuyết dân gian, đá là nguồn gốc, là báu vật trao tặng hay đơn giản chỉ là vỏ “ứng đồng” thì chúng tôi vẫn thấy trong đá dư ảnh huyền thoại của nhân vật lịch sử. 3.2.2. Đá và sự hiển linh của thiên thần Thiên thần trong trường hợp này phần lớn là thần đá và sự hiển linh trong truyền thuyết nhằm khẳng định uy quyền tối thượng của các vị thần, tô đậm thêm niềm tin của nhân dân giành cho họ và tín ngưỡng. Theo thống kê của chúng tôi, thần đá hiển linh chỉ xuất hiện trong ba truyền thuyết: Kỳ Thạch phu nhân, Thai Dương phu nhân, Truyền thuyết tượng nghè. Điểm
  • 18. 15 đặc biệt ở đây là ngư dân, những người lẽ ra nỗi sợ hãi của họ phải bắt nguồn từ thủy thần/ hải thần, nhưng dường như họ lại đặt nỗi sợ hãi/ niềm tin hưng thịnh vào thần đá. Vì vậy, không thể phủ nhận sự hiển linh này đã phản ánh niềm tin tín ngưỡng của người dân Việt. Nếu như trong truyền thuyết dân gian, nhân vật lịch sử có liên quan đến đá hiển linh đã cho thấy sự bất tử của nhân vật, và sự đoàn kết một lòng của nhân dân cả nước trong các cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi (kể cả người sống lẫn người đã khuất, họ vẫn luôn dõi theo, phù hộ), thì sự hiển linh của thần đá trong truyền thuyết dân gian đã bóc mở lớp nghĩa: đá là hiện thân của các vị thần. 3.2.3. Đá - thành tố cấu tạo nên không gian tâm linh Thứ nhất, không gian thiêng: Đá ngay trong nội tại của nó đã là một không gian thiêng, không gian được lựa chọn để an trú của không chỉ các vị thiên thần mà còn cả phần linh hồn/ tinh anh của các nhân vật lịch sử: Thai Dương phu nhân, Kỳ Thạch phu nhân, Sự tích hòn đá núi La Hán, Truyền thuyết tượng nghè, Thần miếu Độ Mi, Lương Thế Vinh,... Dẫu là sự trú ngụ tạm thời hay vĩnh viễn thì tính thiêng của không gian đá này luôn là sự đồng nhất/ ánh xạ từ các vị thiên thần/ nhân vật lịch sử. Thứ hai, không gian thờ cúng: Ở đây, chúng tôi xem đá như là yếu tố để xây dựng nên không gian, và không gian đó được sử dụng với mục đích thờ cúng/ thờ tự. Bên cạnh mối liên hệ với tục thờ đá, đá trong truyền thuyết dân gian còn là sự xếp chồng các tín ngưỡng, tôn giáo khác: Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng Vương, Sự tích suối Rắn, Thần Độc Cước và đền Độc Cước, Sự tích công chúa Thượng Ngàn,… Trong truyền thuyết An Dương Vương lập cột đá thề, cột đá được An Dương Vương lập trên núi Nghĩa là sự dung hòa của hình thức thờ đá với một ý niệm khác: đá thề nguyền. Thứ ba, không gian giấc mơ: chúng tôi muốn đề cập đến hiện tượng không gian đá lồng ghép trong không gian giấc mơ: Sự tích Thổ Thống và
  • 19. 16 Nại Nương thời Hùng Vương, Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng quân, … Ở đây, đá không chỉ còn gói gọn trong không gian thiêng, không gian thờ cúng, mà dường như đã trở thành một sự ám ảnh trong đời sống của người dân Việt từ cõi thực sang cõi mộng. Như cách lý giải của Jung về vô thức tập thể thì có khả năng chính những giấc mơ này cũng mang hàm nghĩa về sự di truyền kiến thức và điềm báo. Đá là một dạng không gian tâm linh khá đa dạng, từ hẹp đến rộng, từ cõi thực đến cõi mộng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam. Đồng thời, không gian nghệ thuật này còn là sự minh họa thiết thực cho đời sống tâm linh phong phú, đa dạng của người dân Việt. Khởi nguồn từ quan niệm “đá là biểu tượng của sự sống trong trạng thái tĩnh”, đá xuất hiện trong giấc mơ điềm báo mang giá trị của một vật báu và điềm lành về đường con cái. Còn trong mối quan hệ với motif hiển linh, đá cũng đã mở rộng thêm những lớp nghĩa: đá là dư ảnh của nhân vật lịch sử, đá là hiện thân của thần linh và đá là không gian tâm linh. Và có thể khẳng định rằng đá giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc văn bản và đã tạo ra những liên kết chặt chẽ, giàu tính trần thuật trong truyền thuyết dân gian Việt Nam. CHƯƠNG 4 BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN: NGHIÊN CỨU TRƯỜNGHỢP KỲ THẠCH PHU NHÂN VÀ THAI DƯƠNGPHU NHÂN 4.1. Văn bản và cấu trúc văn bản của truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân 4.1.1. Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân nhìn từ văn bản Theo kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân hiện nay có khá nhiều dị bản
  • 20. 17 được lưu truyền. Do đó, trong tiểu mục này, chúng tôi vừa thống kê, khảo sát các văn bản vừa tiến hành khảo dị. Kỳ Thạch phu nhân trong Đại Nam nhất thống chí (1961) của Quốc sử quán triều Nguyễn, “Sự tích nữ thần Kỳ Thạch phu nhân” in trong Bulletin des Amis du Vieux Huế năm 1915 (trong Những người bạn Cố đô Huế, 1997), Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế (1998, Tôn Thất Bình chủ biên, Trần Hoàng và Triều Nguyên): về cốt truyện và các chi tiết liên quan đến biểu tượng đá, hầu như không có độ chênh giữa các văn bản. Thai Dương phu nhân trong Ô Châu cận lục (1961) của Dương Văn An, “Chuyện Thánh mẫu Thai Dương phu nhân” của Đào Thái Hanh in trong số 1 Bulletin des Amis du Vieux Huế (trong Những người bạn Cố đô Huế, 1997), Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế (1998, Tôn Thất Bình chủ biên, Trần Hoàn và Triều Nguyên), Truyền thuyết dân gian người Việt của Tinh hoa văn học dân gian người Việt (quyển 4) do Viện Nghiên cứu văn hóa biên soạn (2009), Huế xưa và nay: di tích và danh thắng (2010) của Phan Thuận An, Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn (tập 1), Tổng tập văn học dân gian xứ Huế (2012) của Triều Nguyên: tồn tại hai dị bản về gốc gác của nữ thần. Điều đó cho thấy dị bản có thể được tạo ra bởi lòng tự tôn, ý thức về cộng đồng của nhân dân địa phương. Theo chúng tôi, sự khác biệt trên chủ yếu do các nguyên nhân sau: 1. Dị bản được tạo ra bởi quá trình lưu truyền; 2. Mục đích ghi chép của các công trình mang tính đặc thù thể loại; 3. Việc xác định thể loại cũng ảnh hưởng đến quá trình dựng lại tác phẩm trên cơ sở các dữ liệu đã có. 4.1.2. Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân nhìn từ cấu trúc văn bản Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân có bố cục đơn giản, gồm: Ở phần một, câu chuyện giải thích tên gọi của đền miếu đều mang đậm màu sắc huyền thoại. Bởi lẽ nhân vật trung tâm của truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân là thiên thần. Trong
  • 21. 18 khi ở phần hai, sự hiển linh của đá/ vị thần trú ngụ trong đá cũng đầy chất thần kỳ, phải nắm bắt dữ liệu bằng niềm tin thì lại được đánh dấu với các mốc son lịch sử cụ thể, chính xác. Nghĩa là, thực và hư cứ đan xen vào nhau. Trong đó, yếu tố hư cấu được sử dụng nhằm tăng thêm tính huyền thoại, nâng cao vị trí của nhân vật trung tâm: đá thiêng/ vị thần trú ngụ trong đá. Còn những chi tiết có thật, mang tính lịch sử lại có tác động ngược trở lại, góp phần chứng thực cho huyền thoại, biến huyền thoại thành đời thực và gia tăng niềm tin của nhân dân/ người nghe/ người đọc vào huyền thoại đá. Sự hiển linh được phân thành hai dạng: giới thiệu sự kiện hiển linh và trình bày câu chuyện hiển linh. Điều này đã khiến cho phần thứ hai của văn bản đôi khi trở thành một hệ thống tập hợp các câu chuyện nhỏ. Sự hiển linh ở phần hai này có thể là cách đề cao quyền uy của triều Nguyễn bằng việc xây dựng sự hiển linh phò trợ của các vị thiên thần. 4.2. Biểu tượng đá trong truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân trong mối quan hệ với tín ngưỡng dân gian Chăm Sự ảnh hưởng của tín ngưỡng Chăm trong biểu tượng đá của truyền thuyết dân gian Việt Nam nói chung và trường hợp Kỳ Thạch phu nhân và Thai Dương phu nhân nói riêng, chúng tôi thiết nghĩ có thể lý giải như sau: Thứ nhất, xứ Thuận Hóa vẫn nổi danh là Ô Châu ác địa, cho nên với tâm thức của một người vừa mới đặt chân đến vùng đất lạ để định cư, nỗi sợ hãi là điều tất yếu. Không chỉ sợ hãi trước mọi sự vật xung quanh, mà cả thói quen, tín ngưỡng của người bản địa cũng gây ra tâm lý bất an, lo lắng. Ở đây, chúng tôi xem người Chăm là người bản địa, còn người Việt là người mang tâm lý ngụ cư trong thời gian đầu ở xứ Thuận Hóa. Vì vậy, họ chủ trương “có kiêng có lành”: chỉ cần tôn trọng các sự vật ở vùng đất mới/ các vị thần của người bản địa, họ sẽ được an yên; Thứ hai, tín ngưỡng và tôn giáo là hành trang không thể thiếu của một người di cư. Và khi “chạm” đến tín ngưỡng của người bản địa, họ nhận ra có những điều gần gũi với niềm tin của mình. Như một lẽ tự nhiên, họ
  • 22. 19 cũng tin và theo. Chúng tôi nhấn mạnh từ “chạm” vì có một thực tế, đôi khi người Việt chưa thật sự hiểu thấu đáo các tín ngưỡng của người Chăm nên xảy ra hiện tượng: đối tượng và cách thức thờ cúng của người Việt không hoàn toàn trùng khớp với người Chăm, mặc dù cùng một lớp vỏ bọc tên gọi của tín ngưỡng. Tất nhiên, trong quá trình đấu tranh để sinh tồn, có thể họ “tự nhiên” (vô thức) ảnh hưởng hoặc họ “chủ động” Việt hóa các tín ngưỡng của người bản địa. 4.2.1. Tín ngưỡng thờ đá Chúng tôi cụ thể hóa các lớp ý niệm hình thành nên tín ngưỡng thờ đá của đá trong truyền thuyết về Kỳ Thạch phu nhân như sau: Đá có chạm trổ tinh xảo Của người Chăm 1. Đá – vật thiêng (tục thờ đá của người Việt) 2. Đá – vật thiêng trên mảnh đất hoàn toàn mới (thần linh của người Chăm) [nỗi sợ vô hình – NTQH] 3. Đá có hình thù kỳ lạ được chạm khắc (xuất hiện trong đền miếu người Chăm) [nỗi sợ hữu hình – NTQH] 4. Đá là nơi trú ngụ của vị nữ dâm thần Tàrỉ trong tín ngưỡng của người Chăm [nỗi sợ hữu hình – NTQH] Biểu tượng đá của truyền thuyết về Thai Dương phu nhân gồm có những lớp ý niệm sau: Đá 1. Đá – vật thiêng (tục thờ đá của người Việt) 2. Đá – tảng đá ngầm (thần linh của người Chăm) 3. Đá – thần Biển (thần Yang Tathik) Đá thờ ở Kỳ Thạch phu nhân và Thai Dương phu nhân tưởng như chịu ảnh hưởng hoàn toàn tín ngưỡng Chăm nhưng thật ra chỉ là sự vay mượn vỏ bọc hay liên kết các ý niệm trong tín ngưỡng của người Chăm. 4.2.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu Người Việt dễ dàng nhận ra tín ngưỡng thờ nữ thần bản địa của người Chăm có những nét tương đồng với thờ Mẫu ở miền Bắc nên có thể
  • 23. 20 quá trình tiếp nhận diễn ra khá nhẹ nhàng. Song theo thiển ý của chúng tôi, do sự sợ hãi, cùng với việc không hiểu thấu đáo tín ngưỡng của người Chăm cho nên sự ảnh hưởng ở đây chỉ mang giá trị ý niệm. Chúng tôi cho rằng ngư phủ trong truyền thuyết Kỳ Thạch phu nhân không hướng đến đối tượng thờ là vị nữ dâm thần Tàrỉ mà chỉ đơn thuần là một nữ thần mơ hồ nào đó. Với miếu Thai Dương phu nhân, thần còn có một ý niệm khác: thần sóng biển Po Riyak. Sự ảnh hưởng của các ý niệm đó, chúng tôi cho rằng, không chỉ là hệ quả của việc cùng chung sống trên một mảnh đất mà còn xuất phát từ những nỗi sợ hãi trong bản nguyên thích định cư của người Việt. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện phần nào sự ám ảnh của người phụ nữ trong tâm thức của người Việt và sự chủ động trong quá trình tiếp nhận văn hóa/ tín ngưỡng của người Chăm. 4.3. Biểu tượng đá trong truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân trong mối quan hệ với tục thờ đá tại đền Thai Dương phu nhân và miếu Kỳ Thạch phu nhân 4.3.1. Hình thức đá thờ Đối với hình thức đá thờ tại miếu Kỳ Thạch phu nhân: phần lớn các văn bản đều ghi chép ngắn gọn, chỉ duy nhất trong “Sự tích nữ thần Kỳ Thạch phu nhân”, Đào Thái Hanh miêu tả cụ thể. Cảnh được chạm khắc trên bức phù điêu chính là cuộc đấu trí giữa quỷ vương Ravana và thần Shiva trên đỉnh núi Kaisala. Đối với hình thức đá thờ tại đền Thai Dương phu nhân: hầu như các văn bản không nhắc đến hình dáng của tảng đá. Chỉ có duy nhất chi tiết: “Trong phiến đá này có phác ngọc”. Đá thờ trong hai truyền thuyết này là điểm nối giữa hư (truyền thuyết, thần linh) và thực (tín ngưỡng, cuộc sống đời thường). Chỉ duy nhất sự tồn tại của đá thờ là đã đủ gây dựng và gia tăng niềm tin của cộng đồng vào tín ngưỡng và truyền thuyết.
  • 24. 21 4.3.2. Hình thức thờ cúng Cả hai vị nữ thần, Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân, đều được nhà Nguyễn sắc phong nên việc tu sửa đền miếu và thờ cúng rất được nhân dân chú trọng, hương khói tôn nghiêm. Thứ nhất, việc tu sửa đền miếu: Miếu Kỳ Thạch phu nhân được giữ gần như nguyên trạng. Đồ thờ trong miếu đầy đủ hơn và miếu cũng đã được tu bổ. Tuy nhiên, các chi tiết được thêm vào trong không gian phía trước gian miếu dường như không gắn kết với tục thờ đá mà dựa vào tâm lý của cộng đồng. Đền Thai Dương phu nhân hiện nay có khuôn viên khá khang trang. Kiến trúc chạm trổ của đền đã có sự ảnh hưởng từ những nét tín ngưỡng, văn hóa khác trong không gian đền và điện thờ. Thứ hai, về việc thờ cúng và tế lễ: Trong khía cạnh này, các văn bản truyền thuyết ghi chép cũng rất sơ lược. Hiện nay, ở miếu Kỳ Thạch phu nhân, người dân đến thắp hương thường cúng dường vải lụa, “áo” cho tượng và người trông coi mỗi tháng lại thay áo cho Bà. Trong lễ tế Thai Dương phu nhân, ngày 23 là chính lễ, sẽ có lễ rước Bà từ đền thờ về đình làng để làm lễ tế với hình thức rất gần với tín ngưỡng thờ nữ thần. Vì vậy, dường như ở hình thức thờ cúng, tín ngưỡng thờ Mẫu đã lấn át tín ngưỡng thờ Đá. Trong khi đó, theo ghi chép của các văn bản, tín ngưỡng ở vị trí trung tâm của biểu tượng đá là tín ngưỡng thờ đá. Tín ngưỡng thờ đá trong Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân có sự kết hợp một cách hài hòa với tín ngưỡng thờ Mẫu, hay dung chứa các ý niệm khác của thờ đá trong tín ngưỡng và văn hóa Chăm. Sự khác biệt trong hình thức đá thờ ở Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân là minh chứng cho sự tiếp nhận tín ngưỡng, văn hóa Chăm của người Việt ở những dấu mốc lịch sử và khu vực sống khác nhau. Đây chính là kết quả của quá trình đấu tranh để sinh tồn của người Việt trong thời gian đầu đến định cư trên vùng đất mới.
  • 25. 22 KẾT LUẬN “Đá là vĩnh cửu, là biểu tượng của sự sống ở trạng thái tĩnh”, cho nên đá trong truyền thuyết dân gian người Việt cũng là hiện thân của sự trường tồn và luôn ẩn chứa sự linh hoạt của những lớp nghĩa, luôn giấu kín sự sống động của các mối quan hệ. Vì vậy, khám phá biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam không chỉ là hành trình nghiên cứu một biểu tượng, mà còn là một khởi đầu để tìm hiểu về đời sống tâm linh của người dân Việt và truy nguyên lịch sử dân tộc từ những sự kiện, nhân vật, vết cắt tín ngưỡng trong tác phẩm. Trong phạm vi luận án, với đề tài Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, chúng tôi đã tập trung làm rõ một số vấn đề cốt yếu sau: 1. Từ kết quả thống kê tư liệu, chúng tôi hệ thống hóa các công trình nghiên cứu về biểu tượng và Đá trong tín ngưỡng/ văn học dân gian Việt Nam nhằm phác họa sơ khởi tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến “biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam” hiện nay. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã chọn được các hướng tiếp cận phù hợp với đề tài (văn học dân gian, nhân học và văn hóa học) và có những gợi ý thiết thực cho việc giải mã biểu tượng đá. Chương tổng quan cũng chỉ ra những khoảng trống và triển vọng của hướng nghiên cứu này, giúp chúng tôi khoanh vùng và xác lập hiệu quả những vấn đề khoa học cần giải quyết. 2. Phân tích các truyền thuyết có sử dụng biểu tượng đá từ góc độ văn học dân gian và tự sự học ở các phương diện: giải mã lớp nghĩa, cấu trúc trần thuật, chúng tôi có được những kết quả cụ thể sau: - Thứ nhất, 4 lớp nghĩa (sự sống trong trạng thái tĩnh, sự tái sinh trong ngưỡng vọng, sự hiện diện của thần linh và ý niệm chuyển vị) của đá là kết quả của chúng tôi từ quá trình khảo sát và thống kê văn bản. Sự vay mượn tính chất và giá trị từ đá của tác giả dân gian đã mở ra những trường nghĩa mới cho nhân vật của truyền thuyết: tạo nguồn gốc thiên thần, sự kỳ vĩ trong hành trạng, và tượng đài bất tử của cộng đồng. Đồng thời, cũng chính
  • 26. 23 những nhân vật có liên quan đến đá đã quay ngược trở lại, hình thành thêm những giá trị cho đá. Vì vậy, về phương diện lớp nghĩa, đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam sở hữu sự biến thiên khá sống động. Đồng thời, dựa vào hệ thống lớp nghĩa của đá mà Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đề cập đến trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (2002, NXB Đà Nẵng) và thực tế khảo sát, sự so sánh đối chiếu cũng hỗ trợ chúng tôi trong việc nhận diện điểm giống và dị biệt của đá trong truyền thuyết/ văn hóa Việt với văn hóa nhân loại. - Thứ hai, với cấu trúc trần thuật của dạng truyện kể có sử dụng biểu tượng đá, chúng tôi nhận ra đá có sự tương tác với các motif khác của truyền thuyết (giấc mơ, hiển linh) để hình thành mạch kết cấu của truyện kể. Từ đó, đá góp phần thiêng hóa nhân vật truyền thuyết bởi lẽ nhân vật không chỉ là báu vật trời ban, mà còn là đứa con được hưởng ân đức của cả gia đình, dòng họ. Hơn thế nữa, đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam mang đậm màu sắc tâm linh, vừa là hiện thân của thần linh vừa là yếu tố cấu thành không gian tâm linh của truyền thuyết. Đương nhiên, với không gian tâm linh, đá cũng được tác giả dân gian duy trì các tính chất đặc trưng, nhằm tôn vinh nhân vật lịch sử. 3. Thông qua mối quan hệ giữa văn bản với di tích, tục thờ cúng, luận án đã phân tích mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá của người Việt. Có thể nói, qua thời gian, truyền thuyết Việt Nam đã minh chứng cho sự kết hợp rất hài hòa của các tín ngưỡng và văn hóa khác trong biểu tượng đá. Và ngay trong truyền thuyết, biểu tượng đá cũng cho thấy không phải lúc nào tín ngưỡng thờ đá cũng giữ được bản nguyên của nó, mà đôi khi trong sự dung hòa, các tín ngưỡng khác lại trở thành chủ đạo. 4. Trong luận án, với mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá, chúng tôi đã nghiên cứu hai trường hợp: Kỳ Thạch phu nhân và Thai Dương phu nhân. Kết quả của sự phân tích này gồm: - Luận án đã làm rõ hơn mối quan hệ Việt - Chăm trong lịch sử dân
  • 27. 24 tộc, cụ thể là sự tiếp nhận tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ đá của văn hóa Chăm trong đời sống tâm linh của người Việt. Ở đây, chúng tôi vừa dự cảm cách tiếp nhận vừa khẳng định yếu tố Việt trong biểu tượng đá của truyền thuyết và hình thức thờ đá tại đền/ miếu. - Luận án cũng đã chỉ ra sự lên ngôi của tín ngưỡng thờ Mẫu trong hình thức thờ cúng và di tích đền Thai Dương phu nhân và miếu Kỳ Thạch phu nhân. Nghĩa là, tín ngưỡng thờ đá bị che lấp đi, người dân chỉ còn biết đến vị được thờ là Mẫu, hay nữ thần mà thôi. 5. Các vấn đề chưa thực hiện được trong luận án, chúng tôi hi vọng sẽ có điều kiện để tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới: - So sánh lớp nghĩa của biểu tượng đá trong truyền thuyết với các thể loại văn học dân gian khác của Việt Nam. Với đặc trưng riêng của mỗi thể loại, chúng tôi cho rằng biểu tượng đá mang các giá trị và lớp nghĩa riêng. Từ đó, cũng sẽ nhận diện được sự đậm nhạt và biến chuyển trong mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ đá với các thể loại khác của văn học dân gian. - So sánh lớp nghĩa của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam với truyền thuyết của một số quốc gia khác ở Đông Nam Á và Châu Á. Đương nhiên, xu hướng trên giải mã các lớp nghĩa giống/ khác nhau mà biểu tượng đá sở hữu, không chỉ trong một thể loại văn học dân gian mà cả văn hóa. Điều này sẽ chứng thực có sự giao thoa về tín ngưỡng thờ đá giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. - Nghiên cứu trường hợp biểu tượng đá của Thai Dương phu nhân trong phạm vi khu vực miền Trung, bởi lẽ ở Huế hay Quảng Nam cũng có di tích mang tên miếu/ đền Thai Dương phu nhân. Đây là hướng nghiên cứu mang tính chất vùng miền có khả năng soi chiếu được phạm vi lưu truyền của văn bản này, và góp phần khẳng định sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm.
  • 28. HUE UNIVERSITY COLLEGE OF SCIENCES NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG STONE SYMBOL IN VIETNAMESE LEGENDS Program: VIETNAMESE LITERATURE Code: 62 22 01 21 DISSERTATION SUMMARY VIETNAMESE LITERATURE HUE - 2016
  • 29. This study is completed at College of Sciences, Hue University Supervisor: 1. Assoc Prof. Dr. Trần Thị An 2. Dr Hà Ngọc Hòa Reviewer 1: ......................................................................................... ......................................................................................... Reviewer 2: ......................................................................................... ......................................................................................... Reviewer 3: ......................................................................................... ......................................................................................... The dissertation is defensed at Hue University level Graduate Council at: ............................................................................................................. At….time….date….month…..year… The dissertation is archived at the library of….
  • 30. LIST OF PUBLICATIONS 1. “The Sacred Stone Motif in the Vietnamese Legends”, 2015, Journal of Science and Technology, the University of Danang, no. 10, p.40 – 44. 2. “Thing to Stone Motif in the Vietnamese Legends”, 2016, Hue University Newletters, no. 98, p.103 - 106 3. “The Epiphany of Stone in the Vietnamese Legends”, 2016, Journal of Literary Studies, no. 3, p.108 - 118 4. “Jewel in the Vietnamese Legends”, 2016, Science Journal, Hue University, no. 8, p.99 – 110.
  • 31. 1 INTRODUCTION 1. Rationale of the research Stone is the material associated with humans early at the dawn of humanbeings. Even when humans return into the ground, stone is one of the trusted choices to send their bodies or to be companion on the way to another world. Finding his peace and strength from the stone, humans believe and worship the holy stone. This inextricable link itself partly explains the role of Stone-worship in human livings. Through keeping stone symbol and stone-worship along with stone forms, the legend has left the imprint of the interference and variations of Vietnamese belief and culture as well as the strength of historic character, ethnic community. We choose to approach the legend of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan for several reasons: a) Two legends performed the change of history and religional culture in Thua Thien Hue province where there is the overlap of multiple culture layers; b) These legends were recorded early into ancient documents and existed in variant versions; c) Legend is related to folk religion through the presence of temples / shrines and other forms of worship. So, the multi-meaning and link string of stone symbol from legends to beliefs in Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan are undeniable. Thus, we chose the topic “Stone symbol in Vietnamese Legends” to research. 2. Objectives of the research To decrypt the meaning layers of the stone symbol in Vietnamese legend and in the cultural sediment of Vietnamese folk beliefs. 3. Object and scope of the research Object: Stone symbol Scope: Legend
  • 32. 2 4. Approaches and methodology 4.1. Approaches - Approach to folklore - Approach to cultural studies - Approach to anthropology 4.2. Research Methods - Analysis of secondary data - Field research method 4.3. Manipulating research: statistics, analysis and comparison of genres 5. Scientific contributions of the thesis Firstly, systematized materials on studying the symbol and stone symbol bring the overall assessment of the research. Secondly, analysis of stone symbol in Vietnamese legend from the perspectives: the symbol meaning, narrative structure to confirm the diversity of meaning layers of the stone symbol and to interprete the role of stone in narrative structure and arts of legendary character building. Thirdly, through stone symbol, we point out the relationship between Vietnamese folk legends with stone-worship. Fourthly, research on Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan - two Vietnamese typical legends in Thua Thien Hue region contribute to interpret the relationship between Vietnamses legend and stone-worship and the demonstration of religion in harmony with Vietnamese livings. 6. The dissertation’s structure Apart from Introduction, Conclusions and References, the dissertation content is displayed in 4 chapters: Chapter 1. Theory of symbols and research overview Chapter 2. Stone symbol and meaning system of stone symbol in Vietnamese legend
  • 33. 3 Chapter 3. Narrative structure form of narrative using stone in Vietnamese legend Chapter 4. Stone symbol in legend and folk religion: research on Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan CHAPTER 1 THEORY OF SYMBOLS AND RESEARCH OVERVIEW 1.1. Theory of symbols and folklore research on theory of symbols 1.1.1. Theory of symbols The symbol is a term that appeared in the daily life as well as academic life. The nature of symbol is difficult to define, so the determination of the meaning depends on many factors. Symbol research shall be the interdisciplinary science with various approaches. The fields such as linguistics, anthropology and semiotics are considered as the core to research symbol. For semiotics, the most important contribution of L. Hjelmlev is the distinction between "semiotics denotations" with "semiotic connotations". R. Barthes concretized the "dual system" character by symbolic language. In particular approach, semiotics has restricted the determinating difficulty of symbols. Anthropological approach in the symbol research has been generalized the strength in Symbol: Public and Private. With specific method as fieldwork or participant observation, anthropologyy is the solution to explore the symbol in the living environment of itself. Claude Levi-Strauss has made great contributions to the study of symbols. Structuralism has created platforms for semiotics and anthropology to study symbols with various efficientt approach. The choice of approach should depend on the characteristics of
  • 34. 4 each symbol. The role of these approaches in the process of symbol study will be less or more important. 1.1.2. Folklore research from symbol theory. Research on symbol in folklore appeared in our country for a long time. With Poetics of folk-song, Nguyen Xuan Kinh is evaluated as one of the pioneers in the study of Vietnamese folklore symbol. Until the late twentieth century, the theory of the symbol and the research approaches on symbol attracted the attention of many researchers. "The symbols of the sacred space of Vietnamese folk legend" by Tran Thi An is one of the first works exposing the literature symbol based on cultural foundations. Nguyen Thi Bich Ha has used the theory on cultural code to study folklore in “Codes and cultural code”. With reference to the present time, Study on folklore cultural from cultural code by Bich Ha is the first in- depth project study on folklore with the tendency of symbol theory. Symbol study - some approaches of Dinh Hong Hai theory could be considered as the first work to introduce a system of representation theory in Vietnam. "Finding the nation's cultural identity through the symbolic world" by Nguyen Van Hau has confirmed the role of symbol in recognition of ethnic identity. This research is more concerned in the recent time: "Archetype critic and Archetype of Water in Vietnamese literature", "From the legend of Thang Long Dragon, discovering the symbol of dragon in legend", etc. Folklore research from the symbol theory has just been mentioned in few of works and mostly applicable to specific cases. 1.2. The research works of stone in Vietnam 1.2.1. Religion works of stone-worship Belief culture and Vietnamese religious practice express the panorama of stone-worship in Vietnam and the relationship between folk tales on sacred stone and beliefs of stone-worship. In term of stone in
  • 35. 5 folklore, Learning Vietnamese folklore in the context of Southeast culture, beliefs in tutelary god of Vietnam, through Man Nuong story, showed the role of folk tales in original traceability and assistance to study belief and religion. With "Stone-worship in folk beliefs of Vietnam," Nguyen Viet Hung has clarified the relationship between the stone-worship with other native and exotic beliefs, religions in Vietnam. In “Vong Phu” fairy tale and religion of stone-worship in Vietnam, the author also surveyed the tale style of husband-expectation and set in matching to stone-worship. Through fieldwork and statistics on Vietnamese fairy tale in Thuan Hoa, Ho Quoc Hung has made efforts to decrypt the layers of stone-worship in "Trying identifying traces of Cham’s religion through Vietnamese fairy tale in Thuan Hoa". Most of the works have shown the role and position of the stone worship in the spiritual life of Vietnamese people, the interactive relationship between folklore and beliefs and culture. 1.2.2. The research on Stone with symbolic position Dictionary of world cultural symbols by Jean Chevalier and Alain Gheerbrant is the most systematic research on symbol today, as a look-up table to help us orient to decrypt stone symbol in legend. In Nhung dinh nui du ca – mot loi tim ve ca tinh H’Mong (2014), though it is not the detailed analysis on orphaned stone, Nguyen Manh Tien pointed out in the meaning layer of stone in H’Mong culture. "The symbols of the sacred space of Vietnamese folk legend" by Tran Thi An clarifies universality and localized feature of stone symbol in legend. Two articles by Nguyen Huy Binh, "Northern folk legend about the natural gods" and "Legend of General Stone in relation with the belief of stone-worship", have outlined the relationship between the legends of the sacred stone and stone-worship. Research on stone as symbol occupies tiny number but it achieved
  • 36. 6 in first step in confirming the cultural value of stone symbol and pointed out the close relationship between the stone symbol in legend and stone- worship in localities. 1.2.3. Research on Stone motif in Vietnamese folk tale (myths, legends, and fairy tales) "Motif of sacred stone/petrifaction and stone-worship in folk tale “Nam Dao" by Phan Xuan Vien just stopped at the introduction and analysis, contacting splashed with sacred stone/petrifaction and beliefs of stone-worship. With a wide range of survey about both in genre and ethnic, the research shows the richness and diversity of existing forms of stones 1.3. Assessing the research situation and deploying the topic 1.3.1. Assessing the research situation Stone symbol in folklore was mainly mentioned in the researches on stone-worship. There are few of researches on stones in folklore, especially stone as symbol in Vietnamese legend. Most researches were following the survey method of document combining fieldwork to generalize of the living of stone in the work and beliefs the local people. 1.3.2. Orientation of topics deployment Carrying out statistics and classification of the appearance of stone in Vietnamese legend. Studying stone symbol from narrative structure of narrative format using stone symbol in Vietnamese legend. Studying Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan in the relationship with the stone-worship, as well as other beliefs and culture. Research on the issues of symbol and stone symbol in Vietnamese legend reveals that this is the feasible study giving more contribution. From those instructive and suggestive researches, we set up the necessary scientific issues to be solved for the topic as follows the meaning system of stone symbol through statistics, classification of meaning layers, analysis of narrative structure of tales using stone symbol and folk beliefs.
  • 37. 7 CHAPTER 2 STONE SYMBOL AND MEANING SYSTEM OF STONE SYMBOL IN STONE VIETNAMESE LEGENDS 2.1. Stone symbol and the meaning layers of stone symbol in the world culture and Vietnam 2.1.1. Stone symbol and approaches of stone symbol in Vietnam Legend mostly does not define the stone type (materials), nor pay attention to specific color. So, it is possible to classify into two categories: natural rough stone and whittle stone. We pay attention to two formats: gem and star. With stars, we would have explained: Dictionary of world cultural symbol gave the format "stone of heaven"; In 2015, when examining for awarding sponsorship for the intangible cultural heritage of Mo Muong Hoa Binh, UNESCO Vietnam has rated meteorite as one of the support tools that closely related; The form of star appearance largely described "fall into the mouth", "fall down", very similar to the way that stone fall down from the sky, and when describing the reception of the mother, folk authors pay attention to the action of "swallow". About approaches to symbol stone in Vietnam, most of our surveys in Chapter 1 all decrypt basing on interdisciplinary with many approach methods although some surveys have not identified specifically that object of stone was "symbol", but somewhat suggests the role and the symbolic value of stone. 2.1.2. The meaning layers of stone symbol in the world culture and Vietnamese culture through researches Features of the stone (hard, high in stability, etc) are the basis for human imagination to form meaning layers. "The symbol is always multidimensional" so that meaning layers are also the result of "correlate”
  • 38. 8 stringing or the link of the "antagonism" between the features, even the first layer of meaning of stone. This formation also depends on the culture and conception of each community. "Separation and reunion" is a characteristic of symbol. The decryption of symbol meaning shall recognize from: The acceptance capacity of readers, conventional meaning of the community and the link between the indication sign of symbol with other details in the text. The meaning "reunion" will be both objective and intensively personal. Researches on stone-worship all confirm the presence of the gods and assume that the god in stone is the convergence of images of deities and ancestors. Meanwhile, Tran Thi An determines the symbolic value of stone, stone space - life in a static state. Our summary statistics on meaning layers above is just the beginning with orientation for the discovery process of stone symbol in Vietnamese legend. 2.2. Typical meaning layers of stone symbol in Vietnamese legend 2.2.1. Life in a static state Stone turned human - Mother Land: The tale of General Tien Lap Thach, the tale of Thien Bong- Ly Dynasty, The tale of God Stone area and Duong Lo fought against An invaders. The relationship between stone with character is Mum and Son, though just adoptive mothers/temporary" of gods before entering the earthly realm. Natural rough stone shaped like humans - the residence of the gods: the stone statues (The tale of Tho Thong and Nai Vuong – Hung Vuong Dynasty), and stone like human shape (Tale of Tuong Nghe). Prerequisite for the stone to get the procession into the shrine to worship is the sacred stone, creating people’s belief in the existence of a god.
  • 39. 9 Stone – shelter of soul in lives-transforming: Luong The Vinh. Stone is a temporary shelter, but that of a man in the process of lives- transforming. Stone hides the invariant vitality with time as a metaphor for the sacred feature of legendary character, of spiritual belief. 2.2.2. Rebirth in expectation of favor from above Stone Mountain – metamorphose of human: Tale of the buckler, Tale of Sam Son Mountain and Tale of Ba Doi Om Mountain. Three legends all show the metamorphosis of human to carve up the country's shape. Stone Mountain - metamorphose of materials: divided into two sub- types depending on the petrified material to be petrified: Sanifying materials: Phoenix (Phoenix Mountain), Horse and the horse saddle (Ma Yen Son), Lame elephant (Petrified lame elephants). The luggage of the above things in the relationship with the historical character or livings of the people has created "stone life" rebirth of things. Malign character: devil (Tale of Sau Mountain), monsters (Tale of Kinh Thay River). Metamorphosis stone of these cases are meant to save the trophy of historical figures. Gem – the metamorphose of the character: Tale of Golden Turtle. Fictional factors related to gem were formed from the observation and delicate association with many good indications of people for Mi Chau. We regard the stone metamorphose as a form of rebirth because it is not only the name, the shape of characters preserved but exactly as the spirit bringing the power of human/materials preserved and having aspirations in the consciousness of the community. 2.2.3. The presence of the divine Whittled stone: Stony dog (Luong The Vinh, The Tale of Hac Lai and Vu Co help Le Loi fight Ming Invaders), Stony Horse (Shrines Deity of Do Mi). In whittled stones in Vietnamese legend, holiness is not lost,
  • 40. 10 but created/ added. Stars: Just mention the stars in the form of direct narrative of the motif of magic birth and in the magic death of character: The Tale of Duc Thien Cang – Hung Vuong Dynasty, The Tale of Hung Hai, Do Huy – Hung Vuong Dynasty. Star – the meteorite has become a symbol for the birth of the gods, is the connection of heaven and earth in character. "The true presence" of the gods in the legend is not just the existence of stone-worship with the only stone god existing in the stone but it is sometimes the spirits of ancestors in stone residing in stone or the giving birth into humans of heaven stone in the earthly realm. 2.2.4. The concept of transposition As a note, the transposition here is the effect which the stone brings the owner of the stone and the transition "from darkness to light, from imperfection to perfection." Natural rough stone with/without specific shape: large stone (Tale of the shield) and stone with alluvium form (Tale of Snake Spring). Holiness is the fabulous miracle owned by stone or giving to legendary character. Miracle gem is the transposition of the characters from "incompletion to completion": Cai Vanh’s third wife, Mr. Ta Giam Dan, Sai Village Bridge. Most of the gems are difficult to identify the gem category and limited, or likely to be "desacralized" This is the special meaning layer of stone in Vietnamese legend, inclined to trend of watching, the ancestral spirits’ support. Transposition value of stone symbol to character is invariant so it evokes a awareness of preservation and appreciation. The concept of "Stone is also the living thing, bringing lives" has been grasped uniformly in Vietnamese legend. Stone symbol is the borrowing of author to immortalize historical character, showing respecting
  • 41. 11 toward them and toward their trophies. Stone is also the beloved, the great expectations of the people for the things which had contribution to the victory of the character. It seems that every passing generation has still resided under the senseless-supposed stone crust for watching and supporting, and they also incarnate the beauty of the country. CHAPTER 3 NARRATIVE STRUCTURE FORM OF NARRATIVE USING STONE SYMBOL IN VIETNAMESE LEGENDS 3.1. Stone in dream omen of legend 3.1.1. Stone is a reward for the cultivation of virtue and morals In this structure, the relationship between the father of the character with stone treasures creates a link of cause - result: Tale of five brothers Minh Cong, Tin Cong, Cao Cong, Thach Cong and DungNuong-Hung Vuong Dynasty, ... the characters’ parents have good-natured lifestyle and kind families. They are old, but rare in children. Therefore, child became the "treasures of Heaven." Stone as well as other forms of treasures of legend is the conditional donation, simultaneously, is the symbolic thing for character. If the up-setting of cause - result structure with kind and infertile parents has been formulated in Vietnamese legend, the choice of stone form to award influential to characters showed conception of stone of Vietnamese. 3.1.2. Stone is embodie of the historical character in the omen dream As the treasure God gave in the dream omen, stone exists with 3 formats: stone, star and gem. Most of stone is just mentioned in detail and largely without the decryption to connect the relationship between stone
  • 42. 12 and the created character. Tale of Tho Thong and Nai Vuong – Hung Vuong Dynasty, ... The most distinction in Star treasure is not awarded by God but just "falling into the mouth - swallow"/ "falling into the belly" of the mother. The author has compared star as a life’s seed sown into the mother by heaven. The connection between the star and characters is almost nothing, in addition to character always considered as the birth of God so having greater body, wisdom than people: Tale of Ngon Con and Thuan Nghi - Le Thai To Dynasty, Tale of Three Angel - Trung Vuong Dynasty, ... Gem in dreams is diversified in category and defined quite clearly. The nature of losing in parallel link between gems with characters still exists. Most dreams of gem were not carefully decrypted. The memoir of Huong Lam Mai Hac De is the unique legend which is attentively described of gem and dream decryption. Choice of stone revealed the role of stone in Vietnamese people's daily lives. Stone takes part in specification of holiness of the legendary character. Thus, stone brings both good sign in prophetic dreams and a symbol of life. 3.2. Stone in the epiphany motif of legend 3.2.1. Stone and the epiphany of Human Gods Group of Human Gods in Legends has low frequency of epiphany. This epiphany motif itself is the form of character "immortalization", expressing beliefs and aspirations of the people for them. However, the historicity of the Human God needs to be clarified. Human Gods are not always true characters in history (Cao Lo in Qua Nghi Cuong Chinh Uy Hue Vuong), but maybe it's just the phenomenon of legend “history” (Bich Chau in the Sacred Temple in the sea mouth), or we cannot find any other material (Chieu Khanh and Dong Long in Do Mi Temple Deity).
  • 43. 13 Stone is the embodiment of angle origin of characters, increasing the holiness for characters and contribution to confirmation of the immortality of character. Whatever in the legend, stone is the resource, donated treasures or simply, it is “bronze applying” cover we still see in stone the mythical after-image of character. 3.2.2. Stone and the epiphany of Angels Angels are mostly stone god and the epiphany of legend to confirm the supreme power of the Gods, highlighting more the people’s belief to them and religion. The epiphany of stone god only appears in Ky Thach Phu nhan, Thai Duong phu nhan, Legend of Tuong Nghe. A special feature is the Fishermen, whose fearfulness must be rooted from Neptune/ Water-nymph; however, it seems they put their fearfulness/prosperous belief into Stone God. Therefore, it is undeniable to negate that this epiphany reflected the religion beliefs of the Vietnamese People. If in Vietnamese legends, historical characters related to epiphany stone revealed the immortality of characters, the unity as one of the people in the fighting against foreign invaders, the epiphany of stone god peeled the meaning layer: stone is the embodiment of the gods. 3.2.3. Stone – Structural element of spiritual space Sacred spaces: Stone is internally the sacred space, the space chosen to shelter not only for gods but also for the spirits of characters: Tale of stone on La Han Mountain, Do Mi Temple Deity, etc. Whatever the shelter is temporary or permanent, the holiness of this space is homogeneous from the angels/ historical character. Worship space: Stone is a factor to build up the worship space. Besides the relationship with stone-worship, stone in Vietnamese legend is also the stacking of other beliefs, religions: Tale of Snake Spring, Doc Cuoc Deity and Doc Cuoc Temple, Tale of Thuong Ngan Princess, etc. In An Duong King set up swearing stone-pole, the stone-pole which An
  • 44. 14 Duong King set up on Nghia Mountain was the harmony of stone-worship with another conception: the oath stone. Dream space: The phenomenon of stone space integrating into dream space: Tale of General Tien Lap Thach, etc. Stone seems to become an obsession in the life of Vietnamese people from real realm into dream realm. As Jung's explanation on the collective unconsciousness, it is likely the dreams also have the connotation of generic knowledge and omen. Originated from the concept "stone is a symbol of life in the static state", stone appeared in the omen dream containing the value as treasures and good sign in having children. In relation to the epiphany motif, stones also have extended the meaning layer: after-image of historical character, the embodiment of the divine and spiritual space. It is possible to confirm that stone plays an important role in writing structure and has created close links, narrative rich in Vietnamese legend. CHAPTER 4 STONE SYMBOL IN LEGEND AND FOLK RELIGION: RESEARCH ON KY THACH PHU NHAN AND THAI DUONG PHU NHAN 4.1. Text and text structure of the legend of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan 4.1.1. Legend of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan viewed from text The legend of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan have several variants circulated. In this subsection, we statistics, survey documents and survey variants. Ky Thach phu nhan in Dai Nam Nhat Thong Chi – Quoc su quan
  • 45. 15 Nguyen Dynasty, "Tale of the goddess Ky of Ky Thach Phu Nhan" printed in the Friends of Hue Acient Capital, Folk Tale of Thua Thien Hue (Ton That Binh – Author): in term of story plot and details related to the stone symbol, almost there is no difference between the texts. Thai Duong phu nhan in O Chau Can Luc, "Tale of Thai Duong phu nhan Mother Deity", Vietnamese folk legend of Elite of Vietnamese folklore (book 4) compiled by the Institute of Cultural Study, Hue - past and present: monuments and landscapes, Myths, legends, fairy tales, fables (episode 1), The collective of folklore of Hue area: existing two variants of the root of the goddess. This shows that variants may be created by the self-respect, the awareness of community of the local residents. The above difference mainly due to the following reasons: 1. Variants were created by the process of circulation; 2. The purpose of the research records is specialized in genres; 3. The determination of genres also affect to the process of work reconstruction on the basis of existing data. 4.1.2. Legend of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan viewed from the text structure Legends of Ky Thach phu nhan and Thai Duong phu nhan had simple layout, including: In part one, the story explains the name of temple and shrine with full of legendary color. Because the central character of the legends of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan was goddesses, meanwhile in the second part, the epiphany of stone/gods residing in stone was also full of magic, needing capture data by belief was marked with the exactly and specifically historical milestone. That is, reality and unreality intertwined themselves. Fictional elements are used to increase legendary properties, improving the position of the central character: the sacred stone/ God shelters in stone. And the true and historical details had backward impact, contributing to certificate the
  • 46. 16 legend, turning the legend into real life and increase the people's beliefs in the stone legend. The epiphany is classified into two forms: the introduction of epiphany event and the presentation of the epiphany story. This led to the second part of the text sometimes become a collection system of small stories. The epiphany at the second part may be the highlight of the Nguyen Dynasty’s power by setting-up the epiphany of support of the angels. 4.2. Stone symbol in legend on Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan in relation with Cham folk religion The influence of Cham religion in stone symbol in general and the cases of Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan in particular, we think it can be explained as follows: Thuan Hoa Region was still known as O Chau - evil land, so with the mind of a man who had just arrived in strange land to settle, fear is inevitable. Here, we regard Cham as native residents and Vietnamese as immigrants. Thus, they advocate "have abstained, have healed": just respect the things in the new land/ the gods of the natives; they will be secure peace; Belief and religion is baggage indispensable of a migrant. When "hit" to the beliefs of the natives, they realize there are things close to their beliefs. As a nature, they also believe and follow. There is a fact; sometimes the Vietnamese have not understood the beliefs of the Cham so it should occur: the object and the way of worship of Vietnamese do not completely coincide with the Cham, despite of the same name of religion. In the struggle for survival, perhaps they were "naturally" (unconscious) influenced or their "actively" turn into Vietnamese the cultural beliefs of natives
  • 47. 17 4.2.1. Stone-worship We concretized the concept of stone-worship forming in legend of Ky Thach phu nhan as follows: Stone has intricate carvings Stone with intricate carvings of Cham people 1. Stone – sacred thing (Stone-worship of Vietnamese) 2. Stone – sacred thing on the new (Gods of Cham) [invisible fear] 3. Scarved stone with strange shape (appeared in temple or shrine of Cham) [visible fear] 4. Stone is the residence of Tàrỉ Goddess in Cham Belief Stone symbol of Legend of Thai Duong phu nhan has the following conception layers: Stone 1. Stone – sacred thing 2. Stone – rock 3. Stone – Sea God (Yang Tathik) Worshiped stone in Ky Thach phu nhan and Thai Duong phu nhan are assumed to be fully influenced with Cham religion but it was just the borrowing the cover or link of conception in Cham’s religion. 4.2.2. The worship of Mother Vietnamese easily recognize the goddess worship of the Cham natives had similarities with the worship of Mother in the north, so the reception process could take place quite gently. But due to the fear, paralleled with the inadequate understanding of Cham beliefs, the influence here is just concept value. We believe that fishermen in Legend of Ky Thach phu nhan did not
  • 48. 18 target at the subject of worship of sex goddess Tari but merely an ambiguous goddess. With Thai Duong phu nhan temple, god has a different conception: Po Riyak - sea god. The influence of the notions is not only the consequences of living together on the same land, but also originated from fears in the settlement preference of Vietnamese’s nature. It also shows the obsession of women in Vietnamese’s mind and the activeness in the process of receiving culture/religion of the Cham. 4.3. Stone Symbol in Legend on Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan in the relation to stone-worship at Thai Duong phu nhan Temple and Ky Thach phu nhan Shrine 4.3.1. Forms of worshiped-stone Forms of worshiped-stone at Ky Thach phu nhan Shrine: All texts are brief notes, only Dao Thai Hanh described in detail. The scene carved in the bas-relief is the wills contest between Demon King of Ravana and Shiva Deity on the Kaisala Mountain. Forms of worshiped-stone at Thai Duong phu nhan Temple: All texts did not mention the shape of the stone, only the detail: "In this stone, there is gem therapy". Worshiped-stone in these two legends is the connection between the unreality (legend, the gods) and reality (belief and daily life). Only the existence of the worshiped-stone is already enough to set up and increase the trust of the community in belief and legend 4.3.2. Worship form Both goddesses, Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan, were ordained by Nguyen Dynasty, so the repair of temples and worship got the attention of people. The remodeling of temple and shrine: Shrine of Ky Thach phu nhan has been kept in original status. Worship fetishes are more adequate and
  • 49. 19 shrines have been restored. However, the details added in the space in front of shrine seem not to connect to stone-worship but rely on community’s psychology. Temple of Thai Duong phu nhan now has spacious campus. Sculpture of temple architecture has been influenced by the other culture and religion in space of temples and shrines. Worship and Liturgy: the text notes are very brief. Currently, in the shrine of Ky Thach phu nhan, people often come to burn incense and make offerings of silk fabric, "clothes" for the statue that custodian monthly change clothes for her. In Thai Duong phu nhan ceremony, on 23rd it is the main ceremony, there will be the procession of Lady from the temple to the village communal house for the Liturgy with the very close form to goddess worship. In the form of worship and Mother Worship seemed to overwhelm stones worship. Meanwhile, according to notes of the text, belief in the center of the symbol is the stone-worship. Stone-worship in Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan combined harmoniously with “Mother” worship, or contained other concepts of stone-worship in Cham culture and religion. The difference in the worshiped stones in Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan was the proof for the acceptance of Cham culture and beliefs of Vietnamese at various historical landmarks and living area. This is the result of the struggle for survival of Vietnamese in the early time to settle on new land CONCLUSION "Stone is eternal, a symbol of life in static state", so stone in Vietnamese legends is also the embodiment of longevity and always contains the flexibility of the meaning layers, always hides the vividity of
  • 50. 20 the relationships. So, discovery of stone symbol in Vietnamese legend is not only research on a symbol, but also a beginning to learn about the spiritual life of Vietnamese and tracing back to national history from the events, characters, beliefs cuts in the works. Within the scope of the thesis, the topic Stone symbol in Vietnamese Legend, we have focused to clarify the following main issues: 1. From the data statistical results, we systematize the study of symbols and stones in religion/Vietnamese folklore in order to outline preliminarily the studies situation on issues related to "Stone symbol in Vietnamese legends" now. On the basis, we found out proper approaches to the topic and gave practical suggestions for decoding stone symbols. Overview chapter also shows gaps and prospects of this research direction which help us localize and establish effective scientific problems to be solved 2. Analysis on legends using stone symbol under the folklore and autobiographic in terms of decoding the meanings, narrative structure, we get the following specific results: - Firstly, 4 layers of meaning (living from static status, rebirth in anticipation, the presence of the divine and the notion of displacement) of the stone are our results from the survey and statistics document. The borrowing of the stone nature and value of author's folk has opened a new meaning to the legend character: creating angels’ origin, the wonders of the behavior, and the immortal monument of the community. Also, the characters who involved in stone themselves have turned back the stone, forming additional value to the stone. Therefore, in terms of layer of meaning, the stone in Vietnamese legend owns quite lively variation. Besides, based on the system of meaning layer of stone that Jean Chevalier and Alain Gheerbrant mentioned in the dictionary of the world's cultural symbol and on actual survey, the comparison also assists
  • 51. 21 us in identifying similarities and differences of stone in Vietnamese legend/Vietnamese culture and human culture. - Secondly, the narrative structure of the story form using stone symbol, we recognized stone has the interaction with other motifs of legend to form narrative structure. Since then, stone has taken part in sanctifying legendary character stone because the character was not only the holy treasure, but also the child enjoying kindness from all of the family. Moreover, stone in Vietnamese legend was strongly covered with color of spirituality, is both the embodiment and component elements of spiritual space of legend. Surely, with the spiritual space, stone was maintained its specific figures to honor historical characters. 3. Through the relationship among text, monument and worship habits, the thesis has analyzed the relationship between the legend and stone-worship of Vietnamese. It’s possible to say, through the time, legend have demonstrated the extremely harmonious combination of all religions and other cultures in stone symbol. Even in Vietnamese legends, stone symbol also reveals that the stone-worship does not always keep its origin, but sometimes in the harmony, the other religions become decisive. 4. In the thesis, the relationship between legend and stone-worship, we have studied two cases: Thai Duong phu nhan and Ky Thach phu nhan. The results of this analysis are: - The thesis has clarified the relationship of Vietnamese - Chams in the national history, specifically the acceptance of stone-worship and “Mother” deity worship of Cham culture in the spiritual life of Vietnamese. Here, we both have a premonition of acceptance and confirm Vietnam factor in Stone symbol of legend and the form of stone-worship at the shrine/temple. - The thesis also points out the rise of “Mother” deity worship in
  • 52. 22 the form of worship and the monument of Thai Duong phu nhan Temple and Ky Thach phu nhan Shrines. It means, the stone-worship was hidden away, people know the deity worshipped is “Mother” or goddess only. 5. Issues have not been done in the thesis yet; we hope to have conditions to study in the near future: - Comparison of layers of meaning of stone symbol in legend with the other genre of Vietnamese folklore. With features of each genre, we believe that stone symbol brings its own values and meaning layer. Therefore, it is possible to recognize the bold/light and the transformation in the relationship between religion of stone-worship with other genres of folklore. - Comparison of meaning layer of stone symbol in Vietnamese legend with others in countries of Southeast Asia and Asia. Naturally, the trend decrypts the layers of meaning similar/different which stone symbol own, not only in one folklore genre, but also the whole culture. This shall endorse the interference of the stone-worship between Vietnam and other countries in the region. - Studying the stone symbol of Thai Duong phu nhan within the Central region, because both Hue and Quang Nam have monuments also called Shrine/Temple of Thai Duong Phu Nhan. This orientation of the research is regional and capable of reflecting the area of this document handing-down, and contributes to the confirmation of cultural exchange Vietnam - Cham.