SlideShare a Scribd company logo
1 of 76
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THỊ BẢO NGỌC
CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THỊ BẢO NGỌC
CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 838.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Bảo Ngọc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .......................................................................... 9
1.1. Những vấn đề chung về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội...................... 9
1.2. Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội...................19
1.3. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về việc áp dụng biện pháp tư pháp
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. ..............................................................25
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ .............32
2.1. Quy định của của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) và
Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về các biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi...........................................................................................32
2.2.Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.............................................................................37
2.3.Những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng biện
pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
.........................................................................................................................40
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .........................................................54
3.1. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................................54
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tiễn................58
KẾT LUẬN....................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
TTHS: Tố tụng hình sự
UBND: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 So sánh áp dụng hình phạt của tỉnh Quảng Trị và
cả nước
39
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1: Tình hình áp dụng chế tài pháp luật hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Quảng Trị
38
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa đặc sắc và phong phú, đặc biệt
là cái nôi nuôi dưỡng nhiều anh hùng, nhân tài của dân tộc khi chỉ mới ở độ
tuổi còn trẻ, được nhân dân Việt Nam và thế giới phải thán phục. Chính vì vậy
mà việc nuôi dưỡng nhân tài là vấn đề rất được chú trọng. Hiến pháp năm 2013
ra đời trong đó có chương riêng về quyền trẻ em đã khẳng định bảo vệ quyền
trẻ em là bảo vệ nguồn nhân lực cho đất nước và Việt Nam là một quốc gia
luôn đi đầu trong vấn đề chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Có thể thấy rằng, nước ta
đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của trẻ em như: Hiến pháp 2013, Luật trẻ em 2016, Bộ luật Hình sự
2015...Việt Nam cũng là một trong các nước đầu tiên ở Châu Á tham gia Công
ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Đảng và nhà nước ta đang ngày càng đẩy
mạnh các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em từ đó phát triển nhân tài cho đất
nước, có như vậy thì xã hội và nền kinh tế của nước ta mới phát triển.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, nền kinh tế và xã hội Việt Nam đã có
những thay đổi đáng kể, tác động tích cực đến đời sống của nhân dân cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn xảy ra mặt tiêu cực, khó khăn và thách thức, tình
hình tội phạm vì thế mà tăng lên. Đặc biệt là tình trạng người dưới 18 tuổi
phạm tội diễn ra ngày càng nhiều và có diễn biến phức tạp. Việc giải quyết
vấn đề người dưới 18 tuổi là việc rất cần thiết và cấp bách để ổn định trật tự
xã hội, đảm bảo chính trị và phát triển kinh tế. Thực tiễn cho thấy, việc xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người dưới 18 tuổi
là những người chưa có khả năng nhận thức rõ về hành vi, chưa đủ khả năng
để làm chủ hành động cũng như chưa có khả năng chịu trách nhiệm đối với
hành vi của mình. Hiện nay, người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ trẻ hóa độ
2
tuổi, hành vi còn tinh vi, xảo quyệt hơn, gia tăng về số lượng mà tính tổ chức
của loại tội phạm ngày càng chặt chẽ, phạm các tội có sử dụng bạo lực, hình
thành các băng nhóm có tổ chức, nhiều loại tội phạm có xu hướng gia tăng
như: tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người; tội trộm cắp; các tội xâm phạm an toàn công cộng....
Trước tình hình như vậy, để tăng cường công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm là người dưới 18 tuổi thông qua thực tiễn, vướng mắc và
những bất cập từ đó tìm ra những giải pháp thay đổi cần thiết hạn chế việc
người dưới 18 tuổi phạm tội.
Về phương diện pháp lý, người dưới 18 tuổi là đối tượng đặc biệt, họ
cần được pháp luật bảo vệ trong cuộc sống hàng ngày và ngay cả khi vi phạm
pháp luật. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là nhằm giáo dục, cải tạo
họ trở thành một người có ích cho xã hội, vì vậy mà Đảng và nhà nước ta đưa
ra chủ trương là áp dụng các biện pháp tư pháp. Biện pháp tư pháp có ý nghĩa
trong việc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thể hiện tính nhân đạo,
tính giáo dục, đảm bảo được quyền trẻ em nhưng cũng mang tính răn đe,
phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, khi xảy ra việc người dưới 18 tuổi phạm tội thì
thường được áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc miễn trách nhiệm hình sự.
Nhưng, trên thực tế hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp còn hạn chế, vì
vậy cần phải nâng cao hiệu quả các biện pháp tư pháp, quy định những biện
pháp chế tài riêng, đồng thời bổ sung các biện pháp tư pháp khác để người thi
hành có thêm nhiều sự lựa chọn để áp dụng một cách hiệu quả nhất, thủ tục tố
tụng phù hợp với đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội để thể hiện sự
nhân đạo trong chính sách hình sự là biện pháp tư pháp. Như vậy, có thể thấy
rằng, mục tiêu hàng đầu của hệ thống các biện pháp khi áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội là nhằm: 1) phòng ngừa tội phạm 2) phục hồi và
tái hòa nhập cộng đồng. Trong trường hợp quyết định hình phạt đối với người
3
dưới 18 tuổi phạm tội chúng ta cần phải cân nhắc, xem xét nhiều yếu tố khác
nhau như các yếu tố tâm sinh lý, gia đình, xã hội để từ đó đưa ra quyết định
đúng mới có thể đảm bảo quyền lợi cho đối tượng đặc biệt này. Bởi ngay cả
khi người dưới 18 tuổi phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì họ vẫn có
khả năng không bị áp dụng hình phạt mà việc áp dụng các biện pháp tư pháp
sẽ cải tạo họ thành cho những công dân có ích cho xã hội.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung và Bộ luật Hình
sự nói riêng về biện pháp tư pháp là việc làm quan trọng mang tính cấp thiết
vì vậy mà tôi chọn đề tài “Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị” làm
đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tư pháp người dưới 18 tuổi , đã được nghiên cứu ở nhiều mức
độ và phương diện khác nhau. Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn thiện và được áp
dụng tốt hơn thì phải trải qua một quá trình dài nghiên cứu và đúc kết, dựa
trên kết quả thực tiễn. Nhận thức lý luận về biện pháp tư pháp với người dưới
18 tuổi phạm tội- thực tiễn áp dụng trên địa bàn cụ thể cần phải được quan
tâm, chứng minh và tập trung các vấn đề chính sau
- Tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự đối về biện pháp tư
pháp áp dụng đối với dưới 18 tuổi.
- Nghiên cứu thi hành chế tài đối với người dưới 18 tuổi theo quy định
pháp luật tố tụng hình sự.
- Nghiên cứu vai trò của gia đình, xã hội đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Tính đến thời điểm này đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về lĩnh vực này. Tiêu biểu là các công trình liên quan trực tiếp đến biện pháp
4
tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phạm tội như sau:
Các bài viết đăng trên tạp chí và sách chuyên khảo:
1. TSKH – PGS. Lê Cảm và ThS. Đỗ Thị Phượng: Tư pháp hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, những khía cạnh tội phạm học – Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 22/2004;
2. TS. Phạm Hồng Hải: Các biện pháp tư pháp trong BLHS năm 1999
và vấn đề hoàn thiện Bộ luật Tố tụng Hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các
biện pháp tư pháp đó – Tạp chí luật học, số 5/2000;
3. TS. Phạm Mạnh Hùng: Bàn về trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật Hình sự Việt Nam – Tạp chí kiểm
sát năm 2007;
4. Đỗ Thị Phượng và Bùi Đức Lợi: Đề tài nghiên cứu cấp trường Đại
Học Quốc gia Hà Nội: những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự
đối với người chưa thành niên;
5. Hồ Sỹ Sơn: Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt
– Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 4/2004;
6. TS. Trần Quang Tiệp: Vai trò của gia đình trong việc thi hành các
hình phạt không tước tự do và biện pháp tư pháp – Tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 2/2004;
7. Trịnh Đình Thế: Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội – Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006;
Trong những năm gần đây, còn có các công trình nghiên cứu về lĩnh
vực tư pháp hình sự như sau:
1. Lưu Hoài Bảo, một số giải pháp phòng chống tội phạm do người
chưa thành niên thực hiện, tạp chí Kiểm sát, số 14/2014;
2. Nguyễn Đức Mai, Các yêu cầu đặt ra đối với việc thành lập Tòa án
người chưa thành niên, Tạp chí Tòa án, số 16/2014.
5
3. Phạm Thị Thanh Nga, Thực thi Công ước Quyền trẻ em ở Việt Nam:
tuổi chịu trách nhiệm hình sự và chế tài đối với người chưa thành niên phạm
tội, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 18(274) T9/2014;
4. Lương Ngọc Trâm, Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về
hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án, số
19/2014;
Các luận văn thạc sĩ luật học:
1. Lưu Ngọc Cảnh: Luận văn thạc sĩ luật học: “ Các hình phạt và biện
pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt
Nam”, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010;
2. Nguyễn Thị Tố Nga: Luận văn thạc sĩ luật học: “ Các biện pháp tư
pháp đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật
hình sự”, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011;
3. Đỗ Văn Hùng: Luận văn thạc sĩ luật học: “ Các biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt
Nam”, Khoa Luật- Trường Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2016.
Những nghiên cứu này do phạm vi và mục đích nên chưa đi sâu về các
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi. Các bài viết mang tính cá nhân,
chỉ là các bài viết nghiên cứu trên các tạp chí. Việc nghiên cứu các biện pháp
tư pháp là nghiên cứu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi hoặc các
chế tài áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. Các nghiên cứu trên nghiên cứu
điều kiện áp dụng mà chưa có sự so sánh với các chế tài khác và sự thay đổi
trong quy định của pháp luật hình sự. Vì vậy, chúng ta cần nghiên cứu một
cách sâu sắc nhất để góp phần giải quyết vấn đề bất cập và hoàn thiện nó hơn
nữa.
6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận và những nội dung cơ bản của hệ thống
các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo hệ thống pháp
luật Hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó đề xuất, kiến
nghị hoàn thiện và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật Hình
sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung về biện pháp tư pháp
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: khái niệm, dấu hiệu cơ bản, nguyên
tắc áp dụng, mối quan hệ giữa biện pháp tư pháp với chế tài hình sự khác...
Đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị, phân tích những điểm hạn chế, bất cập của từng biện pháp tư pháp
đó.
Từ những nghiên cứu, phân tích, đánh giá những điểm bất cập, hạn chế
của pháp luật hình sự hiện hành từ đó đề xuất giải pháp sửa đổi, hoàn thiện
các quy định của pháp luật để nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của luận văn:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn các biện pháp tư pháp đối với người dưới
18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn
từ địa bàn tỉnh Quảng Trị)
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn các biện pháp
tư pháp áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Phần chung ( Chương
7
XII) của BLHS Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở các số liệu thực tiễn giai
đoạn 2014-2018 của các cơ quan tiến hành tố tụng địa bàn tỉnh Quảng Trị
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa vào cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa
Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về pháp luật nói chung và chính sách Hình Sự nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Theo như đề tài luận văn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc
thù, phổ biến của khoa học luật hình sự: phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp logic…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học về
mặt lý luận và thực tiễn của các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.
Luận văn phân tích một cách tương đối toàn diện các quy định của
pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trong phần chung của pháp luật hình sự việt nam; phân tích
đánh giá chi tiết từng đặc điểm biện pháp tư pháp và có sự so sánh, đối chiếu
pháp luật qua các thời kỳ, cũng như so sánh với pháp luật quốc tế, để từ đó
đánh giá các biện pháp tư pháp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá rút ra những kiến nghị, giải
pháp để hoàn thiện các quy định về biện pháp tư pháp với người dưới 18 tuổi
phạm tội để tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói chung và tội phạm là người dưới 18 tuổi nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
8
khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam
về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự hiện hành và thực tiễn áp
dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh
Quảng Trị.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật
về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
9
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Những vấn đề chung về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm- đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi phạm tội
Để có thể hiểu rõ về chính sách hình sự và các biện pháp xử lý người
dưới 18 tuổi phạm tội, trước hết cần phải làm rõ các khái niệm, đặc điểm tâm lý
của người dưới 18 tuổi cũng như nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi.
Trước đây, theo BLHS năm 1999 chúng ta sử dụng khái niệm “người chưa
thành niên phạm tội” thay vì dùng khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội”.
Theo Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “ Trong phạm vi Công ước
này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng
đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn.”
Ở nước ta, theo BLHS năm 1999 quy định người chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi và khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa
trên sự phát triển về thể chất và tinh thần của con người, cụ thể hóa bằng giới
hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của quốc gia.
Như vậy, khái niệm người dưới 18 tuổi tương đồng với khái niệm
người chưa thành niên, một cách khái quát nhất thì đó là những người chưa
hoàn toàn phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, tâm lý và nhân cách, chưa
có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của một công dân. [36,tr 10]
Độ tuổi của người dưới 18 tuổi được xác định thống nhất trong các văn
bản pháp luật và chế định pháp luật riêng để áp dụng với người dưới 18 tuổi
theo từng lĩnh vực cụ thể.
Theo Điều 90 BLHS năm 2015 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
10
Việt Nam có nêu rằng: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy
định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của
Chương này.” [30]
Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”.
Điều 161 Bộ luật Lao động 2012 quy định: “Người lao động chưa
thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”.
Còn Luật trẻ em 2016 lại quy định rằng
“ Trẻ em là người dưới 16 tuổi”
Có thể thấy rằng, mỗi văn bản pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực nhất
định thì phạm vi điều chỉnh riêng nên có những quy định khác nhau khi xác
định độ tuổi được coi là người chưa thành niên. Có thể hiểu một cách khái
quát về khái niệm người dưới 18 tuổi như sau: Người dưới 18 tuổi là người
chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách,
chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
* Đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi
Để đưa ra được khái niệm người dưới 18 tuổi thì chúng ta cũng cần
đánh giá được đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi.
Ở giai đoạn phát triển của con người ở mỗi thời kỳ là khác nhau mà đặc
biệt là giai đoạn dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên là người đang trong quá
trình phát triển cả về sinh lý, tâm lý và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những
biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên dẫn đến tình
trạng mất cân bằng tạm thời trong xảm xúc của người chưa thành
niên.[24,tr.39]
Quá trình phát triển của mỗi con người ảnh hưởng đến năng lực nhận
thức về hành vi tác động đến xã hội cũng như ảnh hưởng đến năng lực điều
11
khiển hành vi theo những đòi hỏi của xã hội.
Khoa học chứng minh rằng, con người sinh ra mà cơ sở để phát triển ý
thức chính là bộ não người. Mà ở lứa tuổi dưới 18 tuổi quá trình hưng phấn
của võ não mạnh, chiếm ưu thế và các quá trình ức chế có điều kiện bị suy
giảm, vì vậy mà nhiều trường hợp dẫn đến họ thuộc trạng thái thần kinh, trạng
thái cảm xúc không cân bằng dẫn đến các hành vi lệch chuẩn của người dưới
18 tuổi.[24,tr.39]
Mỗi con người khi sinh ra không phải đã sẵn sự nhận thức một cách
toàn diện về tự nhiên, về xã hội, về chính mình. Mà sự nhận thức này được
hình thành và phát triển ở mỗi giai đoạn của quá trình sống, quá trình hoạt
động trong xã hội. Như vậy, khi con người đã có khả năng nhận thức ở một
giới hạn nhất định thì con người mới hiểu được quyền và nghĩa vụ, từ đó đánh
giá được hành vi của mình tác động đến xã hội là như thế nào.
Trước đây trong các văn bản pháp luật hình sự ở nước ta chưa nêu rõ
khái niệm của người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 1985 chỉ có định
nghĩa người vị thành niên. BLHS 1999, là người chưa thành niên và độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi.
Trong BLHS 2015( sửa đổi, bổ sung 2017) có hiệu lực từ 01/01/2018
tại chương XII có nhiều thay đổi liên quan đến người dưới 18 tuổi.
Điều 90 quy định đã có sự thay đổi về thuật ngữ người chưa thành niên
thành người dưới 18 tuổi còn giới hạn độ tuổi vẫn là người tử đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi:
“Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần
thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.”
Việc thay đổi thuật ngữ nhưng vẫn giữ nguyên độ tuổi làm cho quy
định này rõ ràng người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Như vậy, người
12
dưới 18 tuổi hay người chưa thành niên phạm tội, họ là đối tượng cần được
bảo vệ, đồng thời cũng là chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Theo GS.TSKH
Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng đưa ra khái niệm người chưa thành niên phạm
tội: “ Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, có
năng lực trách nhiệm Hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về
tâm sinh lý và đã có lỗi( cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [6,tr.9]
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm người dưới 18 tuổi
phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành như sau: Người dưới
18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm
hình sự, có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định là tội phạm trong BLHS.
1.1.2. Nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
Đảng và nhà nước ta luôn đề cao chính sách chăm sóc và giáo dục trẻ
em, khi trẻ em là chủ thể được bảo vệ hay kể cả khi trẻ em, người dưới 18
tuổi là chủ thể vi phạm pháp luật thì việc bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em,
người dưới 18 tuổi cũng luôn luôn được chú trọng.
Khi đưa ra nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội thì những
nguyên tắc này phải đảm bảo được quyền con người; xuất phát từ đặc điểm
tâm lý của người dưới 18 tuổi và trên cơ sở thực tiễn đấu tranh phòng chống
tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện thì việc xử lý được thực hiện dựa
trên các nguyên tắc quy định cụ thể trong điều 91 của BLHS 2015 ( sửa đổi,
bổ sung 2017):
Nguyên tắc thứ nhất, việc xử lý người dưới 18 tuổi khi họ phạm tội
phải bảo đảm những lợi ích tốt nhất, chủ yếu nhất vẫn là nhằm mục đích giáo
dục đồng thời giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, tạo điều kiện để người dưới 18
tuổi phát triển một cách lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội và
13
cho đất nước.
Khoản 1 điều 91 quy định về nguyên tắc này:
“1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt
nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã
hội.”
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đầu tiên cần phải căn cứ vào độ
tuổi của người đó, không chỉ dừng lại ở độ tuổi mà cần căn cứ vào khả năng
nhận thức của họ về hành vi mang tính chất gây nguy hiểm cho xã hội,
nguyên nhân nào và điều kiện nào khiến họ gây ra hành vi phạm tội.
Người dưới 18 tuổi là người về thể chất tâm sinh lý, kể cả trình độ nhận
thức và kinh nghiệm sống trong thực tiễn của họ vẫn còn chưa phát triển đầy
đủ và rất hạn hẹp. Mà nguyên nhân và điều kiện chính dẫn đến người dưới 18
tuổi phạm tội là do chính trong môi trường sống của gia đình và xã hội.
Việc quan trọng nhất cần làm chính là cải thiện môi trường sống để
nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc cuộc sống
xã hội, để từ đó giúp cho người dưới 18 tuổi có thể sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh, giúp ích cho xã hội.
Người dưới 18 tuổi chưa phát triển và hoàn thiện về các mặt, tức là
không phải bất cứ người dưới 18 tuổi nào phạm tội cũng có đầy đủ năng lực
để nhận thức về trách nhiệm của họ đối với hành vi phạm tội mà họ gây nên.
Vì vậy, khi xem xét xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ căn cứ vào
độ tuổi mà còn căn cứ vào khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm
của hành vi cho xã hội. Làm rõ được những yếu tố liên quan gây ảnh hưởng
trực tiếp đến mức độ nguy hiểm của hành vi của người phạm tội và nhân thân
người đó thì Cơ quan tư pháp và Cơ quan tiến hành tố tụng mới giúp họ nhận
ra được hành vi của họ gây ra là nguy hại cho xã hội, giúp họ nhận ra lỗi lầm
14
và sữa chữa lỗi đó. Ngoài ra, sự hình thành phát triển nhận thức của người
dưới 18 tuổi còn có sự ảnh hưởng bởi giáo dục, đào tạo, gia đình, nhà trường
và xã hội, cần phải làm rõ nguyên nhân và những điều kiện nào dẫn đến việc
người dưới 18 tuổi gây ra hành vi phạm tội.
Nguyên tắc này là nguyên tắc mang tính bao trùm, chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta đồng thời cũng hoàn toàn phù hợp với các quy định của Liên hợp
quốc- Công ước quốc tế về quyền trẻ em tại điều 40.
Nguyên tắc thứ 2, người dưới 18 tuổi phạm tội thì có thể được miễn
trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại khoản 2
Điều 91 của BLHS 2015, cụ thể là:
“2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả,
nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể
được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định
tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm
tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm);
Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma
túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển
trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều
252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do
cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định
tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141
(tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội
15
cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán
người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài
sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất
ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận
chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy);
Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không
đáng kể trong vụ án.”
Quy định này cụ thể từng loại tội, khi người dưới 18 tuổi phạm phải
một trong các tội quy định tại điểm a, điểm b và điểm c thì Tòa án xem xét,
cân nhắc có hay không việc miễn trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, quy định
việc đồng phạm của người dưới 18 tuổi nhưng vai trò không đáng kể trong vụ
án là một quy định mới, đồng thời đảm bảo được lợi ích của người dưới 18
tuổi trong các vụ án mà người đó có thể do bị dụ dỗ, lôi kéo dẫn đến hành vi
phạm tội không đáng kể đó xảy ra.
Quy định về nguyên tắc này thể hiện sự nhân đạo của Đảng và Nhà
nước ta. Theo nguyên tắc này, người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự, khoan hồng hơn so với quy định về miễn trách nhiệm hình sự
đối với người đã thành niên.
Để xem xét lựa chọn biện pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội cũng cần đánh giá xem hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi
phạm tội là tội phạm như thế nào, phạm tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm
trọng, có gây thiệt hại lớn hay không, cũng cần tìm ra những tình tiết giảm
nhẹ hay nhân thân của người dưới 18 tuổi như thế nào. Từ đó mới có thể đưa
ra biện pháp áp dụng hay miễn trách nhiệm hình sự. Trường hợp phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nhưng không gây thiệt hại lớn, có nhiều tình
tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục
16
thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Xuất phát từ lợi ích của người dưới 18 tuổi, Đảng và nhà nước ta đã
đưa ra chính sách nhân đạo hơn, nhằm tạo điều kiện cho người dưới 18 tuổi
có cơ hội sữa chữa mà không cần thiết phải áp dụng biện pháp cách ly họ với
cộng đồng xã hội, tạo cho người dưới 18 tuổi phạm tội có cơ hội vẫn hòa
nhập với cộng đồng nhưng vẫn có thể giáo dục phục hồi họ.
Nguyên tắc thứ 3, theo quy định tại khoản 3 điều 91 BLHS 2015 quy
định “việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ
trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân
của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của
việc phòng ngừa tội phạm”. Như vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội hay chỉ áp dụng hình phạt đối với họ chỉ
trong trường hợp thực sự cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi
phạm tội, những đặc điểm về nhân thân, yêu cầu của việc phòng ngừa tội
phạm thì khi đó mới được áp dụng hình phạt.
Mục đích cần thiết nhất khi lựa chọn biện pháp áp dụng vẫn là giáo
dục, phòng ngừa là chính, cho nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự người
dưới 18 tuổi chỉ trong những trường hợp cần thiết nhất và đương nhiên cần
phải căn cứ tính chất của hành vi phạm tội ở mức độ nào, nghiêm trọng hay
không, hành vi phạm tội như thế nào, nhân thân tốt hay có tiền án tiền sự hay
không? Từ đó, đưa ra một cách đúng đắn nhất biện pháp áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội phù hợp với chính sách và nguyên tắc xử lý của
Đảng và Nhà nước ta.
Nguyên tắc thứ 4, biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
hoặc giáo dục trường giáo dưỡng được ưu tiên áp dụng thay thế cho hình phạt
trong trường hợp nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt.
Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi
17
thấy cần thiết, việc xử lý hình sự là biện pháp cuối cùng áp dụng với người
dưới 18 tuổi khi các biện pháp xử lý khác không còn hiệu quả. Vì chủ thể của
hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi phạm tội là chủ thể đặc biệt, khi đưa ra
xét xử thì cần phải cân nhắc khả năng áp dụng các biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng trước khi quyết định hình
phạt. Trong trường hợp nếu không cần áp dụng hình phạt mà có các biện pháp
xử lý khác mang tính khoan hồng hơn thì có thể ưu tiên áp dụng các biện
pháp khoan hồng đó. Nguyên tắc này thể hiện rõ tính đảm bảo quyền con
người của người dưới 18 tuổi cũng như đi đúng với yêu cầu của chính sách
hình sự nước ta và Công ước Quốc tế về quyền trẻ em.
Nguyên tắc thứ 5, không áp dụng xử phạt tù chung thân hoặc tử hình
đối với người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Nếu Tòa án áp dụng hình phạt
tù có thời hạn, Tòa án phải cân nhắc cho hưởng mức án nhẹ hơn so với mức
án áp dụng đối với người thành niên (tức là người đủ 18 tuổi trở lên) phạm
cùng các tội tương ứng và thời hạn thích hợp ngắn nhất. Không áp dụng các
hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại
khoản 6 của điều 91 BLHS năm 2015.
So với BLHS năm 1999, tại khoản 5 điều 69 thì chỉ quy định việc
không áp dụng tù chung thân hoặc tử hình, quy định cần hạn chế áp dụng hình
phạt tù, không áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi. Còn BLHS 2015 quy định mang tính đề cao nguyên tắc xử lý hơn đó là
hình phạt tù có thời hạn chỉ được áp dụng khi các hình phạt và biện pháp giáo
dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Đồng thời, đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội thì không áp dụng bất cứ hình phạt bổ sung nào.
Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, chính sách hình sự của nước ta
không cho phép áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi buộc phải áp
18
dụng hình phạt tù thì mức án cho họ phải thấp hơn so với người đã thành niên
khi phạm cùng một tội tương ứng. Những người dưới 18 tuổi là những người
còn hạn chế về mặt thể chất và nhận thức, nếu áp dụng hình phạt tử hình và
hình phạt tù chung thân thì quá nghiêm khắc đối với họ trong khi pháp luật
hình sự mang tính trừng trị nhưng vẫn đề cao tính nhân đạo và khoan hồng là
trên hết.
Đối tượng là người dưới 18 tuổi là những người chưa thành niên, họ
chưa có đủ khả năng để lo cho bản thân, chưa đủ khả năng về kinh tế, vì vậy
mà việc áp dụng biện pháp hình phạt bổ sung ( hình phạt tiền) là vô lý vì độ
tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi họ chưa tham gia vào các quan hệ lao
động, chưa tạo ra được những đồng tiền, thu nhập riêng. Nếu cơ quan tiến
hành tố tụng cho áp dụng hình phạt này đối với người dưới 18 tuổi thì ý nghĩa
của hình phạt sẽ không còn thiết thực, tính khả thi của hình phạt cũng không
được đảm bảo trên thực tế.
Nguyên tắc này cũng phản ánh tinh thần bảo đảm quyền con người của
người dưới 18 tuổi phạm tội trong Công Ước Quốc tế về quyền trẻ em
( Khoản 4- Điều 40).
Nguyên tắc thứ 6, án đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi khi người đó
phạm tội nhưng chưa đủ 16 tuổi thì không thể xác định là tái phạm hoặc tái
phạm nguy hiểm.
Xuất phát từ yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội theo các nhóm ( độ tuổi) và là sự cụ thể hóa của nguyên tắc
xử lý chung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tạo cho người dưới 18 tuổi
có cơ hội để sữa chữa sai lầm, phát triển một cách lành mạnh. Không ghi nhận
án tích của tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra khi chưa đủ 16 tuổi để tránh
tạo ra những tâm lý nặng nề, tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi cố gắng,
phấn đấu, cải thiện thành một công dân có ích cho xã hội.
19
Nhìn chung, các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
được quy định trong BLHS thể hiện đầy đủ quan điểm Đảng và Nhà nước, thể
hiện một chính sách hình sự đúng đắn theo đúng nguyên tắc nhân đạo và
quyền con người theo Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, phù hợp với các yêu cầu trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà
nhà nước ta đã tham gia.
1.2 Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Xem xét biện pháp tư pháp phù hợp để áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội là hết sức quan trọng, bởi lẻ người dưới 18 tuổi là chủ thể đặc
biệt, mà việc cần thiết khi áp dụng biện pháp tư pháp là giáo dục, phòng ngừa,
đảm bảo lợi ích tốt nhất và giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh.
Để làm được việc này, điều đầu tiên chúng ta cần phải hiểu được biện
pháp tư pháp là gì? Đặc điểm của các biện pháp tư pháp và các biện pháp tư
pháp trong những trường hợp nào thì được áp dụng đối với đối tượng là người
dưới 18 tuổi phạm tội.
1.2.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội.
Việc áp dụng biện pháp tư pháp với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
những trường hợp cần thiết, tức là bên cạnh việc áp dụng hình phạt thì các
biện pháp tư pháp là một trong hai biện pháp chế tài hình sự mà có thể áp
dụng đối với người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói
riêng.
Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội
“ Biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được BLHS quy định, do các cơ
quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác
dụng hỗ trợ, thay thế hình phạt”. [41,tr.322]
Theo GS.TSKH Lê Cảm: “ Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế
20
về hình sự của nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự
quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền, căn cứ vào giai
đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm
hạn chế quyền tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt” [8,
tr.679]
Như vậy, có thể hiểu rằng, biện pháp tư pháp là những biện pháp được
quy định trong pháp luật hình sự được các cơ quan tư pháp áp dụng đối với
những hành vi nguy hiểm cho xã hội, tuy nhiên nó chỉ mang tính bổ trợ,
không mang tính nghiêm khắc và trừng trị như hình phạt. Các biện pháp tư
pháp này được xem là một chế tài ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, là kết
quả của sự phân hóa trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ hình phạt và có thể
áp dụng trong những giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau.
Qua những phân tích, tác giả hiểu khái niệm biện pháp tư pháp như sau:
“ Biện pháp cưỡng chế hình sự của nhà nước áp dụng đối với người dưới 18
tuổi khi họ thực hiện hành vi phạm tội, những biện pháp này có tính chất ít
nghiêm khắc hơn hình phạt, được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp
dụng nhằm hỗ trợ thay thế cho hình phạt”.
Các dấu hiệu của biện pháp tư pháp khi áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội như sau:
Thứ nhất, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
biện pháp ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, do pháp luật hình sự quy định,
là kết quả của sự phân hóa trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ hình phạt. Dấu
hiệu này thể hiện vị trí pháp lý và khả năng áp dụng của biện pháp tư pháp.
Biện pháp tư pháp là chế tài của pháp luật hình sự vì vậy được quy định trong
BLHS.
Đồng thời, việc áp dụng biện pháp tư pháp trên thực tế chính là quá
trình cân nhắc, xem xét mức độ nguy hiểm của hành vi cũng như các dấu hiệu
21
khác như nhân thân của người phạm tội để xem xét áp dụng hình phạt hay
biện pháp tư pháp.
Thứ hai, biện pháp tư pháp là biện pháp mang tính thay thế hoặc hỗ trợ
cho hình phạt. Các biện pháp tư pháp chung có mục đích thay thế cho hình
phạt với ý nghĩa giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội và phòng ngừa
tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện [42, tr.33]
Trong trường hợp không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tòa án
quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp để thay thế. Việc áp dụng biện pháp
tư pháp thay thế mang ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa, mang tính nhân đạo
hơn, chính sách hình sự sâu sắc hơn.
1.2.2. Đặc điểm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
Thứ nhất, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội trước hết là một biện pháp của pháp luật hình sự và chỉ có thể được áp
dụng khi người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.
Với tư cách là một biện pháp cưỡng chế về hình sự nên biện pháp tư
pháp chỉ có thể được áp dụng khi có sự việc phạm tội xảy ra. Nếu sự việc
phạm tội do người dưới 18 tuổi phạm tội thực hiện thì trong trường hợp nếu
thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt Tòa án có thể áp dụng biện pháp
tư pháp. Như vậy, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi theo quy định
của pháp luật hình sự chỉ có thể được áp dụng khi có hành vi phạm tội và chủ
thể của hành vi này là người dưới 18 tuổi [9,tr.12]
Thứ hai, biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế hình sự ít nghiêm
khắc hơn so với hình phạt và việc áp dụng biện pháp tư pháp này đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội sẽ không để lại án tích.
Hình phạt và biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế của nhà
nước áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tuy nhiên hình phạt được
coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp
22
cưỡng chế. Do đó, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi là biện pháp
cưỡng chế hình sự ít nghiêm khắc hơn.
Mặc dù mục đích của việc áp dụng biện pháp tư pháp giống với mục
đích áp dụng của hình phạt là đều nhằm mục đích giáo dục và tạo điều kiện
tốt nhất để người dưới 18 tuổi nhận thức được hành vi trái pháp luật của mình
để sửa chữa. Việc áp dụng các biện pháp tư pháp này lại không để lại án tích
cho người phạm tội dưới 18 tuổi, đây là quy định có lợi cho đối tượng đặc
biệt này.
Bên cạnh đó, đặc điểm này còn thể hiện trong quy định về hai biện
pháp tư pháp dành riêng cho người dưới 18 tuổi, đó là biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng mặc dù là biện
pháp cách ly người dưới 18 tuổi khỏi cộng đồng nhưng cũng chỉ trong trường
hợp do nhân thân hay môi trường sống của người đó mà cần thiết phải cách ly
họ để tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các em. Ngoài ra, những
biện pháp tư pháp mang tính hỗ trợ hình phạt cũng chỉ nhằm loại trừ hoặc hạn
chế khả năng người đó tiếp tục phạm tội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người bị hại cũng như để điều trị cho bị can, bị cáo bị mắc bệnh tâm thần
hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của người phạm tội. Biện pháp này không như hình phạt, người bị kết
án có thể bị tước bỏ hoặc hạn chế các quyền tự do, quyền về tài sản, thậm chí
là quyền sống.[9,tr.13]
Thứ ba, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
với mục đích thay thế hoặc bỗ trợ hình phạt do cơ quan có thẩm quyền quyets
định áp dụng.
Các biện pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là biện
pháp tư pháp nhằm thay thế cho hình phạt. Tòa án tùy theo giai đoạn tố tụng,
các cơ quan tố tụng có thể ra quyết định áp dụng biện pháp tư pháp hỗ trợ cho
23
hình phạt. Còn biện pháp thay thế chỉ áp dụng theo quyết định của Tòa án.
Thứ tư, biện pháp tư pháp chỉ có thể áp dụng khi có sự việc người dưới
18 tuổi có hành vi phạm tội phạm tội. Và đương nhiên không thể áp dụng biện
pháp tư pháp với tính chất là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc
hơn hình phạt trong trường không có hành vi phạm tội.
Thứ năm, biện pháp tư pháp cũng được quy định trong pháp luật hình
sự và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng theo trình tự đặc biệt do
luật tố tụng hình sự quy định.
Thứ sáu, biện pháp tư pháp chỉ mang tính chất cá nhân vì theo pháp
luật hình sự Việt Nam nó chỉ được áp dụng đối với riêng bản thân người
phạm tội.
Thứ bảy, căn cứ vào từng giai đoạn tố tụng hình sự, biện pháp tư pháp
hỗ trợ cho hình phạt có thể do cơ quan tư pháp hình sự khác có thẩm quyền áp
dụng và đối với người phạm tội nói chung ( kể cả người bị kết án), còn biện
pháp tư pháp thay thế hình phạt chỉ do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án
riêng.
Trên đây là 7 đặc điểm của biện pháp tư pháp khi áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên để tìm hiểu sâu hơn đặc điểm biện
pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì cần so sánh đối chiếu
với hình phạt.
Về mức độ nghiêm khắc: Hình phạt được coi là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của pháp luật hình sự, các loại chế tài khác đều có mức độ
ít nghiêm khắc hơn bao gồm cả biện pháp tư pháp.
Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng với đối tượng bị áp dụng: hình phạt
do Tòa án áp dụng đối với chủ thể phạm tội. Biện pháp tư pháp có thể do cơ
quan khác ngoài Tòa án và chủ thể khác ngoài chủ thể phạm tội cùng tham gia
thực hiện biện pháp tư pháp.
24
Về điều kiện áp dụng: khi xét thấy trường hợp không cần thiết phải áp
dụng hình phạt thì Tòa án quyết định áp dụng biện pháp tư pháp thay thế.
Về hậu quả pháp lý: người phạm tội khi bị áp dụng hình phạt thì sẽ phải
chịu án tích, nhưng nếu áp dụng biện pháp tư pháp thì người dưới 18 tuổi
phạm tội không phải chịu án tích.
1.2.3. Đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước áp dụng biện
pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Đảng và nhà nước ta nhận thức rõ việc giáo dục người dưới 18 tuổi trở
thành người có ích cho xã hội là rất quan trọng. Đồng thời chỉ rõ phải quan
tâm trên hết là việc đào tạo, giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ để bảo đảm nguồn
nhân lực để phục vụ cho sự phát triển của đất nước và sự nghiệp xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
Nâng cao trách nhiệm cho toàn xã hội là phải chú trọng chăm lo giáo
dục người dưới 18 tuổi trở thành nguyên tắc được ưu tiên phải được thực hiện
trên thực tế. Đường lối, chính sách đối với người dưới 18 tuổi là nền tảng để
đi đến việc thể chế hóa các quy định xử lý tội phạm đối với đối tượng đặc biệt
này là phải ưu tiên áp dụng các biện pháp tư pháp thì mới đúng tinh thần của
pháp luật là thể hiện tính nhân đạo sâu sắc. Mà việc áp dụng biện pháp tư
pháp thay vì áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là xuất
phát từ bản chất nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngoài trách nhiệm của người dưới 18
tuổi khi họ thực hiện hành vi phạm tội thì một phần trách nhiệm cũng được
gán cho nhà nước và xã hội bởi lẽ công tác giáo dục vẫn còn nhiều thiếu sót,
lỗ hỏng dẫn đến những ảnh hưởng xấu ngoài xã hội đã thâm nhập vào tư
tưởng nhận thức của các em cho nên hành vi phạm tội mới được thực hiện.
Độ tuổi dưới 18 tuổi là độ tuổi đang còn trong giai đoạn nhận thức non
nớt, chưa phát triển toàn diện như người đã thành niên, những ảnh hưởng tiêu
25
cực vẫn chưa ăn sâu, họ vẫn là đối tượng có khả năng cải tạo giáo dục tốt, đạt
kết quả cao nếu được áp dụng các biện pháp tư pháp thích hợp. Tuy nhiên,
cũng không phải là việc dễ dàng mà cần có thời gian, bằng nhiều biện pháp
khác nhau, điều kiện khác nhau để giúp họ sữa chữa sai lầm và trở về với đời
sống thường ngày.
Sự bao dung, khoan hồng của pháp luật, của Đảng, nhà nước, xã hội và
gia đình là điểm tựa vững chắc giúp cho người dưới 18 tuổi lỡ lầm gây ra
hành vi phạm tội có niềm tin vào cuộc sống từ đó dần dần sẽ cũng cố nhân
cách của một con người. Cho nên, xử lý người dưới 18 tuổi mà áp dụng xử lý
hình sự thì không được nhà nước ta khuyến khích, chỉ áp dụng khi thực sự
cần thiết, khi không còn một biện pháp nào đã áp dụng mà người đó vẫn tiếp
tục thực hiện hành vi phạm tội.
1.3. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về việc áp dụng biện
pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
1.3.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985
Ở giai đoạn này, do hoàn cảnh tàn dư của chiến tranh và sự thiếu kinh
nghiệm trong việc xây dựng pháp luật, nên nguồn văn bản pháp luật hình sự
là tập hợp các văn bản đơn hành với nhiều hình thức: sắc lệnh, thông tư, điều
lệ,...
Cho đến những năm 1970, mới xuất hiện một số văn bản pháp luật hình
sự có tính pháp điển hóa như: pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm sở hữu
ngày 21/10/1970, sắc lệnh số 03/SL của chính phủ cách mạng lâm thời miền
Nam Việt Nam ngày 15/03/1976...[38,tr.96]
Có thể thấy rằng, thời kỳ này chưa có quy định cụ thể nào về việc
người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân
tối cao số 329-HS2 ngày 11 tháng 2 năm 1967, hình phạt áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi thời kỳ này “ chỉ vào khoảng một phần hai mức án đối với
26
người lớn. Đối với trẻ em từ 9 đến 17 tuổi, đi lang thang trộm cắp nhiều lần,
có lối sống sa đọa trụy lạc đã được gia đình, đoàn thể, nhà trường và chính
quyền tận tình giúp đỡ nhiều lần, nhưng không chịu sữa chữa sẽ bị đưa vào
trường phổ thông công nông nghiệp trong thời gian hai năm. Đây là những
trường giáo dục thiếu niên hư”
1.3.2. Giai đoạn sau khi ban hành Bộ luật hình sự 1985
Đảng và Nhà nước rất coi trọng pháp luật Hình sự là một phần không
thể thiếu để bảo vệ chế độ, bảo vệ đất nước, vì vậy đẩy mạnh việc pháp điển
hóa pháp luật hình sự. Có thể nói BLHS năm 1985 ra đời là sự kết tinh thành
tựu 40 năm hoạt động lập pháp của chính quyền cách mạng là bản tổng kết
sâu sắc thực tiễn đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Sự ra đời của một bộ luật
thống nhất, duy nhất, xác định về các loại tội phạm và hệ thống các hình phạt
tương ứng với các loại tội phạm đó.
Tuy nhiên, thì biện pháp tư pháp áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm
tội quy định tại chương VII bao gồm các biện pháp có tính chất giáo dục
phòng ngừa do Tòa án quyết định:
- Biện pháp buộc phải chịu thử thách.
- Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Điều 61 BLHS năm 1985 quy định biện pháp buộc phải chịu thử thách:
“1. Đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, Tòa án có
thể quyết định buộc chịu thử thách từ một năm đến hai năm.
2. Người phải chịu thử thách phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về
học tập, lao động, tuân theo kỉ luật xã hội và pháp luật dưới sự giám sát, giáo
dục của chính quyền cơ sở và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm.
3. Nếu người phải chịu thử thách đã chấp hành được một nửa thời hạn
do Tòa án quyết định, tỏ ra có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của tổ chức
được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án quyết định chấm dứt thời
hạn thử thách.”
27
Như vậy, theo điều luật này, đối với người dưới 18 tuổi có hành vi phạm
tội thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng thì người đó phải chịu thời gian
thử thách là từ một năm đến hai năm. Trong khoảng thời gian thử thách người
dưới 18 tuổi phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ của mình: học tập, lao
động, tuân thủ kỷ luật xã hội và pháp luật và phải chịu giám sát, giáo dục của
chính quyền địa phương và tổ chức mà Tòa án đã giao trách nhiệm.
Trường hợp người dưới 18 tuổi có những thay đổi, tiến bộ và đã hoàn
thành tốt thời gian thử thách được một nửa so với thời gian mà Tòa án quy
định thì cơ quan địa phương hay tổ chức được Tòa án giao quản lý xét thấy
thái độ, hành vi của người đó có nhiều biến chuyển tốt hơn, có thể đề nghị
Tòa án quyết định chấm dứt thời hạn chịu thử thách còn lại mà đáng lẽ ra
người đó phải chịu.
“ Điều 62. Đưa vào trường giáo dưỡng
1. Tòa án có thể quyết định đưa người chưa thành niên phạm tội vào
trường giáo dưỡng nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội,
do nhân thân và môi trường sống của họ cần đưa họ vào một tổ chức giáo
dục có kỷ luật chặt chẽ.
2. Thời hạn ở trường giáo dưỡng là từ một năm đến ba năm.
Nếu người chưa thành niên phạm tội đã chấp hành một nữa thời hạn do
Tòa án quyết định và tỏ ra có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của người phụ
trách, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn ở trường giáo dưỡng.”
Trong trường hợp Tòa án nhận thấy tính chất nghiêm trọng của hành vi
phạm tội hay do nhân thân và môi trường sống của họ không đảm bảo cho
cuộc sống sự phát triển về nhận thức để áp dụng biện pháp chịu thử thách tại
địa phương. Tòa án quyết định đưa họ vào một tổ chức giáo dục có tính kỷ
luật, chặt chẽ hơn, có tính giáo dục hơn đó là đưa vào trường giáo dưỡng, ấn
định thời gian mà họ phải chịu là từ một năm đến ba năm tùy từng trường hợp
cụ thể. Cũng giống như biện pháp buộc phải chịu thử thách, nếu trong thời
28
gian chấp hành biện pháp này, người dưới 18 tuổi có nhiều tiến bộ và hoàn
thành được một nữa thời hạn thì theo đề nghị của người phụ trách tại trường
giáo dưỡng, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thực hiện biện pháp tại trường
giáo dưỡng. Tuy nhiên so với biện pháp buộc chịu thử thách thì thời hạn mà
Tòa án quyết định cho người phạm tội là từ một năm đến hai năm thì ở biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng là từ một năm đến ba năm.
Có thể thấy rằng so với thời kỳ trước khi ban hành BLHS năm 1985 thì
thời kỳ sau khi BLHS năm 1985 ra đời, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi đã trở nên rõ ràng và được quy định cụ thể hơn thành
những điều luật.
Tuy nhiên, sau hơn 14 năm thi hành BLHS 1985, do sự biến đổi nền
kinh tế - xã hội của nước nhà, thì BLHS 1985 đã bộc lộ nhiều điểm bất cập và
hạn chế có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Vì vậy, mà đòi hỏi chúng ta cần có những thay đổi để
đảm bảo cho quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi phạm tội khi họ có hành
vi vi phạm pháp luật.
1.3.3. Giai đoạn ban hành Bộ luật hình sự 1999.
Bộ luật hình sự năm 1985 còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc Đảng và nhà
nước ta cần có những sự thay đổi để đảm bảo các quyền lợi cho người dưới
18 tuổi trong trường hợp họ phạm tội. Mà BLHS năm 1999 ra đời đã sự thay
đổi đáng kể trong tư pháp hình sự nói chung, có sự thay đổi, bãi bỏ các quy
định về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi để phù hợp hơn trong
quá trình áp dụng.
Cụ thể, biện pháp tư pháp được quy định tại chương X, khoản 1 điều 70
quy định các biện pháp bao gồm:
“ Đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án có thể quyết định áp
dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây:
29
a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
b) Đưa vào trường giáo dưỡng.”
* Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Đây là biện pháp mà Tòa án áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng trong thời gian từ một năm đến hai
năm.
Biện pháp này được quyết định dựa trên cơ sở cân nhắc các yếu tố như
tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội, thái độ ăn
năn, hối cải hoặc điều kiện có nơi thường trú ổn định và có môi trường sống
thuận lợi cho việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Đồng thời người được Tòa án áp dụng biện pháp này phải có trách
nhiệm chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp
luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ
chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm.
Năm 2000, Chính phủ ban hành nghị định 59/2000/NĐ-CP ngày
30/10/2000 quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nghị định này quy định một cách cụ thể
trách nhiệm và quyền của người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như trách nhiệm
của gia đình, ủy ban nhân dân và người trực tiếp giám sát trong khi họ chấp
hành biện pháp.
Tiếp đến ngày 17/02/2012, Chính phủ ban hành Nghị định số
10/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo nghị định, quy
định chi tiết về đối tượng, trình tự, thủ tục thi hành biện pháp tư pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn; quyền và nghĩa vụ của người bị áp dụng biện
pháp này; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi
hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người phạm tội.
30
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn áp dụng đối với người dưới
18 tuổi phạm tội quy định trong BLHS năm 1999 là sự kế thừa của biện pháp
tư pháp buộc phải chịu thử thách quy định trong BLHS năm 1985.
Xét về bản chất, hai biện pháp này không khác nhau, nhưng về điều
kiện áp dụng lại có điểm khác nhau. Biện pháp buộc phải chịu thử thách áp
dụng trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, mà điều
8 BLHS năm 1985 quy định: tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên
năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Những tội phạm khác là tội ít
nghiêm trọng thì biện pháp buộc phải chịu thử thách chỉ áp dụng đối với hành
vi gây nguy hại không lớn cho xã hội.
Biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn áp dụng trong trường hợp phạm
tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, đối với người từ 16 tuổi trở lên.
Biện pháp chịu thử thách thì áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi vì từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu trách
nhiệm hình sự về những tội nghiêm trọng do lỗi cố ý.
Như vậy, nếu căn cứ theo loại tội phạm, thì điều kiện áp dụng biện
pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được mở rộng hơn, biện pháp
này áp dụng khi người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng. Theo quy định phân loại của BLHS năm 1999 thì áp dụng đối
với người phạm tội có mức khung hình phạt cao nhất là bảy năm tù.
* Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Tòa án áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người
dưới 18 tuổi có hành vi phạm tội, khi xét thấy không cần thiết áp dụng hình
phạt đối với họ, nhưng do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do
nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần phải đưa người đó vào
một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
Biện pháp này mang tính nghiêm khắc hơn, bởi khi chấp hành biện
31
pháp này, người dưới 18 tuổi sẽ được cách ly khỏi môi trường xã hội trong
thời hạn nhất định và bị quản lý có kỷ luật chặt chẽ. Biện pháp này giúp cho
người dưới 18 tuổi phạm tội có môi trường tốt hơn để khắc phục sai lầm của
mình, ngăn những tác động xấu ảnh hưởng đến họ.
Theo Nghị định của Chính phủ số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001
hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Theo đó
người dưới 18 tuổi đang chấp hành biện pháp này phải chịu sự giám sát, quản
lý, giáo dục, phân công lao động của cán bộ, giáo viên nhà trường và chấp
hành nghiêm chỉnh nội quy tại trường.
Thời gian áp dụng biện pháp giáo dưỡng là từ một năm đến hai năm đối
với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. So với bội luật Hình sự năm 1985
thời gian áp dụng đã được rút ngắn lại, đây là một điểm có lợi cho người dưới
18 tuổi phạm tội khi bị áp dụng biện pháp này.
Kết luận chương 1
Tìm hiểu về mặt lý luận , giúp chúng ta hiểu hơn về người dưới 18 tuổi,
cũng như hiểu hơn về các biện pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi
phạm tội.
Qua việc tìm hiểu lý luận, xem xét quy định của pháp luật hiện hành,
đặc biệt trong bối cảnh BLHS năm 2015 vừa có hiệu lực thi hành, tuy nhiên
chúng ta vẫn không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự để nhằm bảo
đảm quyền con người, bảo đảm các chính sách pháp luật hình sự được thực
thi và các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi ngày càng được áp
dụng nhiều hơn trên thực tế.
32
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1. Quy định của của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
2009) và Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về các biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi
Bộ luật hình sự năm 1999 sau khi trải qua nhiều năm áp dụng, có
những tiến bộ, thành tựu nhất định nhưng vẫn có những phần chưa phù hợp
với tình hình thực tế, dẫn đến trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn
còn nhiều vướng mắc, bất cập trong quy định áp dụng luật đối với người dưới
18 tuổi phạm tội. Mà tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội thì diễn biến ngày
càng phức tạp. Vì vậy, Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam ngày 27 tháng 11 năm 2015 đã ban hành BLHS năm 2015, có nhiều thay
đổi lớn về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi có
hành vi phạm tội.
Quy định các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự nằm ở Mục 2 và
biện pháp tại trường giáo dưỡng quy định ở mục 3.
Tại Mục 2 của chương XII, từ điều 92 đến điều 95, quy định các biện
pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trong trường hợp miễn trách nhiệm
hình sự bao gồm: Khiển trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo dục tại xã,
phường, thị trấn. Đây là những điểm mới, việc bổ sung thêm hai biện pháp
mới được quy định trong BLHS với mục đích hạn chế thấp nhất việc phải áp
dụng hình phạt, từ đó tăng cường trách nhiệm của gia đình, cộng đồng trong
việc giám sát giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc áp dụng biện pháp
33
tư pháp thay thế hình phạt giúp người dưới 18 tuổi phạm tội nhận thức được
lỗi lầm, ăn năn hối cải và khắc phục sai phạm.
Điều 92 BLHS 2015 quy định về điều kiện áp dụng biện pháp tư pháp:
“Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách
nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội
hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các
biện pháp này”. Quy định này được bổ sung vào BLHS 2015 nhằm đề cao
nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi. Trong trường hợp người
dưới 18 tuổi mà người đó hoặc đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc
miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng một trong các biện pháp tư pháp thì
tòa án mới xem xét áp dụng, không áp dụng tùy tiện hay trường hợp tòa án
tránh việc áp dụng biện pháp tư pháp như quy định tại BLHS 1999.
Điều kiện áp dụng biện pháp tư pháp còn được quy định cụ thể trong
từng điều luật quy định từng biện pháp.
Theo điều 93 quy định biện pháp khiển trách được áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm mục đích giúp họ nhận thức rõ hành vi
phạm tội, hậu quả của hành vi gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ
của họ phải làm gì để khắc phục hậu quả. Biện pháp này áp dụng cho người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội lần đầu ít nghiêm trọng, người dưới 18
tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Việc áp dụng biện pháp khiển trách thuộc thẩm quyền của cơ quan điều
tra, viện kiểm sát, Tòa án quyết định áp dụng và khi áp dụng đối với người
dưới 18 tuổi cần có sự chứng kiến của những người không ai khác chính là cha
mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ.
Đồng thời quy định nghĩa vụ của người bị áp dụng khiển trách: phải
tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc, tham
34
gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao
động với hình thức phù hợp. Thời gian thực hiện nghĩa vụ là từ ba tháng đến
một năm.
Điều 94 quy định biện pháp hòa giải tại cộng đồng: đây là biện pháp
mang tính nghiêm khắc hơn so với biện pháp khiển trách. Tại khoản 1 của
điều này thì biện pháp hòa giải áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
thuộc các trường hợp sau: người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc các tội phạm được quy định cụ thể tại
điểm b khoản 2 điều 91 của BLHS 2015.
Người bị áp dụng biện pháp này phải thực hiện nghĩa vụ như biện
pháp khiển trách, đồng thời phải xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại.
Cơ quan có thẩm quyền là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phối
hợp với ủy ban nhân dân cấp xã để tổ chức việc hòa giải. Việc hòa giải tại
cộng đồng được thực hiện khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của
người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự. Đồng
các cơ quan trên sẽ ấn định thời gian để thực hiện việc xin lỗi và nghĩa vụ bồi
thường để đảm bảo việc thực hiện biện pháp tiến hành nhanh chóng và đúng
yêu cầu theo quy định tại khoản 3,4 điều 94 của BLHS.
* Đối với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, BLHS năm 2015
quy định đã có sự thay đổi so với BLHS năm 1999. Theo đó, người bị áp
dụng biện pháp này trong các trường hợp:
“ a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng
hoặc phạm tội nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 2 điều Điều 91 của bộ
luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy
định tại điểm b khoản 2 điều 91 của Bộ luật này”
35
Quy định rõ ràng hơn so với BLHS năm 1999. Đã có sự phân tách việc
áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với nhóm đối tượng là
người dưới 18 tuổi bao gồm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi. Đồng thời bổ sung nghĩa vụ của người dưới 18 tuổi khi
được áp dụng biện pháp giám sát giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Tại Mục 3 của chương XII quy định biện pháp tư pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng Điều 96 cũng vậy. Cơ bản thì về nội dung vẫn giống với
bộ luật cũ, tuy nhiên có sự sửa đổi, bổ sung ở phần nghĩa vụ của người được
áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Theo BLHS 1999 tất cả các biện pháp tư pháp đều được quy định trong
một điều luật là điều 70. Còn theo BLHS 2015 quy định mỗi biện pháp là mỗi
điều luật tương ứng cụ thể về điều kiện áp dụng, độ tuổi áp dụng, nghĩa vụ
cần thực hiện khi bị áp dụng biện pháp đó.
Có thể thấy, biện pháp khiển trách và hòa giải tại cộng đồng là những
biện pháp mới bổ sung mà BLHS năm 1999 không có. Còn biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội trong BLHS năm 1999 thì đến BLHS năm 2015 đã
chuyển hóa thành biện pháp tư pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp miễn
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Những quy định trong chính sách hình sự liên quan đến biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi đã được sửa đổi, bổ sung tương đối cơ bản,
toàn diện nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc của BLHS năm 1999,
nhất là quy định các biện pháp áp dụng một cách có lợi nhất đối với người
dưới 18 tuổi khi họ phạm tội. BLHS năm 2015 là bộ luật mới, vì vậy vấn đề
đặt ra là chúng ta cần phải thực thi những cải cách mới này của bộ luật trên
thực tế.
Song hành với BLHS chính là Bộ luật tố tụng hình sự, BLHS quy định
36
cụ thể các biện pháp tư pháp áp dụng cho đối tượng đặc biệt là người dưới 18
tuổi, còn bộ luật TTHS chính là quy định cách thức thực hiện các biện pháp đó.
Bộ luật TTHS quy định về thủ tục thực hiện các biện pháp tư pháp,
thẩm quyền áp dụng các biện pháp tư pháp và các trường hợp chấm dứt việc
chấp hành các biện pháp tư pháp theo đúng quy định của pháp luật hình sự.
Cụ thể, bộ luật TTHS quy định các điều luật liên quan đến người dưới
18 tuổi phạm tội tại chương XXVIII, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18
tuổi, bao gồm các điều luật cụ thể: Điều 424, Điều 426, Điều 427, Điều 428,
Điều 429 và Điều 430.
So với bộ luật TTHS năm 2003, tại chương XXXII, quy định các điều
luật mới chỉ ở mức độ đơn giản, chưa cụ thể, rõ ràng như bộ luật TTHS năm
2015. Chỉ quy định chung chung các vấn đề như: việc giám sát đối với người
chưa thành niên phạm tội; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ
chức; chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp, giảm hoặc miễn chấp hành
hình phạt. Có thể thấy, quy định về thủ tục tố tụng cho đối tượng là người
chưa thành niên phạm tội giai đoạn này còn nhiều thiếu xót, chưa phù hợp với
chính sách hình sự của nhà nước ta.
Trong khi đó, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966, có hiệu lực ngày 23 tháng 3 năm 1976 đã khẳng định trong điều 14 rằng
“Trình tự tố tụng áp dụng cho người chưa thành niên trong pháp luật hình sự
phải tính đến tuổi của đương sự và lợi ích của biện pháp giáo dục cải tạo”.
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định rõ ràng, vừa làm cho các cơ quan tư
pháp dễ dàng áp dụng, vừa tiến hành thủ tục một cách dễ dàng. Tạo điều kiện
để các biện pháp tư pháp ngày càng được áp dụng nhiều hơn nếu có người
dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội.
Theo điều 426, về thẩm quyền áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự quy định:
“ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền quyết định áp
37
dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục sau đây đối với người dưới
18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự:
1. Khiển trách;
2. Hòa giải tại cộng đồng;
3. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn”
Như vậy, theo điều luật này, các cơ quan tư pháp như cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, tòa án, họ được giao thêm thẩm quyền quyết định việc áp dụng
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhưng biện pháp này
phải nằm trong ba biện pháp nêu trong điều luật. Không như bộ luật TTHS
năm 2003, không có bất cứ quy định nào trao cho cơ quan tư pháp thẩm
quyền được áp dụng biện pháp tư pháp với đối tượng là người dưới 18 tuổi.
Quy định này làm cho các Thẩm phán dễ dàng hơn khi áp dụng, họ không e
ngại, đắn đo khi quyết định nên áp dụng biện pháp hay hình phạt đối với
những trường hợp phạm tội của người dưới 18 tuổi.
Tiếp đó, bộ luật TTHS quy định các điều luật liên quan đến trình tự, thủ
tục áp dụng các biện pháp tư pháp, như khẳng định, khi áp dụng chế tài hình
sự đối với người dưới 18 tuổi thì trên hết cần phải áp dụng các biện pháp tư
pháp. Một phần để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi
phạm tội, một phần là để các biện pháp này luôn được các thẩm phán lựa
chọn để thực thi trên thực tế.
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
Trong những năm vừa qua, tình hình tội phạm do lứa tuổi người dưới
18 tuổi thực hiện đang có xu hướng gia tăng mà hành vi mang tính chất
nghiêm trọng hơn. Không chỉ gia tăng về số lượng mà cả mức độ nguy hiểm
của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện cũng có xu hướng nguy hiểm,
liều lĩnh hơn, tội phạm có tính chất nguy hiểm, băng nhóm dùng hung khí mà
mức độ ngày còn tinh vi.
38
Mà tỉnh Quảng Trị là một tỉnh về kinh tế đang còn trong giai đoạn phát
triển, là mảnh đất đầy bom đạn, tàn dư của chiến tranh. Không chỉ về kinh tế
mà các lĩnh vực khác cũng đang trong giai đoạn phát triển. Công tác tư pháp
vẫn chậm hơn so với các tỉnh thành phát triển khác. Trong khi đó cơ cấu của
tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngày càng
nhiều. Tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện chủ yếu tập trung vào các
nhóm tội xâm phạm về sở hữu, tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người.
Về độ tuổi của người phạm tội ngày càng trẻ hóa, chủ yếu do người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là phần nhiều, còn độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16
tuổi chiếm ít hơn.
Ở tỉnh Quảng Trị, trong 5 năm, từ năm 2014 đến năm 2018, đã có
khoảng 415 người dưới 18 tuổi phạm tội.
28 28
26
29 30
28
30
28
30
27
24
20
26 27
23
0 0 1
4
6
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
TÌNH HÌNH ÁP DỤNG CHẾ TÀI ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018
Cải tạo không giam giữ Án Treo Hình phạt tù Biện pháp tư pháp
Biểu đồ 2.1: Tình hình áp dụng một số chế tài pháp luật Hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Quảng Trị
39
(Báo cáo tổng kết 5 năm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị)
Theo biểu đồ, có thể thấy được trong 5 năm vừa qua, tình hình áp dụng
chế tài đối với người dưới 18 tuổi chủ yếu là : cải tạo không giam giữ, án treo,
hình phạt tù và áp dụng biện pháp tư pháp.
Trong đó áp dụng hình phạt tù và không được hưởng án treo có 141
người chiếm tỷ lệ 33,98%; áp dụng phạt tù cho hưởng án treo 143 người
chiếm tỷ lệ 34,46%; áp dụng cải tạo không giam giữ 120 người chiếm tỷ lệ
28,92%; áp dụng biện pháp tư pháp 11 người 2,4%.
Bảng 2.1: So sánh áp dụng hình phạt của tỉnh Quảng Trị và cả nước
Áp dụng hình phạt Quảng Trị Cả nước
Hình phạt tù 33,98% 64,7%
Án treo 34,46% 16,24%
Cải tạo không giam giữ 28,92% 5,18%
Biện pháp tư pháp 2,4% 0,3%
Như vậy, nhìn vào thống kê và tình hình áp dụng hình phạt của tỉnh
Quảng Trị và của cả nước có thể thấy rằng đối với những người dưới 18 tuổi
phạm tội chủ yếu chỉ áp dụng hình phạt tù ( bao gồm cho hưởng án treo và
không cho hưởng án treo) chiếm tỷ lệ 68,44%; nhẹ hơn thì áp dụng biện pháp
cải tạo không giam giữ chiếm tỷ lệ chỉ 33,98% còn ngoài ra vẫn áp dụng biện
pháp tư pháp nào đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là còn rất ít chỉ chiếm
2,4%. Trong khi đó, các biện pháp tư pháp dành cho người dưới 18 tuổi phạm
tội được quy định rất rõ ràng trong BLHS. Điều này chứng tỏ rằng, các cơ
quan tư pháp vẫn còn e ngại trong việc áp dụng biện pháp tư pháp. Các Thẩm
phán, những người có quyền lựa chọn và quyết định còn lúng túng, không
thích áp dụng do trước đây BLHS không quy định một cách rõ ràng về tiêu
chí đánh giá mức độ của hành vi phạm tội, một nguyên nhân nữa đó là do thủ
40
tục của các biện pháp này tương đối phức tạp, họ thường quyết định hình phạt
tù và cho hưởng án treo nhiều hơn là miễn hình phạt hay là áp dụng các biện
pháp tư pháp. Bởi vì áp dụng hình phạt tù sẽ giúp công tác thi hành án Hình
sự sẽ thuận lợi hơn, quản lý giáo dục tại địa phương và thi hành án tại trại
giam cũng trở nên dễ dàng.
Mặt khác BLHS quy định biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng áp
dụng đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, do Tòa án quyết
định thời hạn từ một năm đến hai năm. Thực tế, một số trường hợp khi xét xử
những người đó gần đến độ tuổi 18 mà Tòa án quyết định đưa vào trường
giáo dưỡng thì sẽ xảy ra trường hợp khi chưa hết thời hạn thi hành biện pháp
họ đã trở thành người thành niên, khiến cho cơ quan tư pháp không có cách
xử lý khi chức năng của trường giáo dưỡng chỉ dừng lại ở việc giáo dục người
dưới 18 tuổi. Nếu đưa họ ra khỏi trường giáo dưỡng, thì căn bản bản án không
được thi hành hoàn chỉnh và nghiêm minh.
2.3. Những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và thực tiễn áp
dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn
tỉnh Quảng Trị
Theo thống kê công tác xét xử sơ thẩm các vụ án Hình sự tại tỉnh
Quảng Trị đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, có thể thấy các biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là
những biện pháp tư pháp được áp dụng khi người phạm tội được miễn hình
phạt nhưng hầu như vẫn không được Tòa án áp dụng để có thể phát huy hiệu
quả của nó.
Thực tế việc ít áp dụng các biện pháp tư pháp là do có những hạn chế
chung về mặt luật pháp đối với các biện pháp này.
Bộ luật hình sự 2015 ra đời và đã mắc những sai sót đáng kể đã được
sữa chữa về mặt kỹ thuật lập pháp và có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, trên
41
thực tế vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý dẫn đến nhiều hạn chế và bất cập
trong cả quy định và trong áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.
2.3.1. Hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hình sự về biện
pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Thứ nhất, theo điều 95, 96 BLHS 2015 quy định thời hạn áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn cũng như biện pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng là từ một đến hai năm. Nếu hết thời hạn này mà người được giáo
dục vẫn không có những tiến bộ đáng kể, hay thậm chí vẫn còn tiếp tục thực
hiện những hành vi vi phạm pháp luật khác thì giải quyết như thế nào? Như
vậy, mục đích và hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp này không đạt được
thì cần phải tiếp tục xử lý như thế nào?
Thứ hai, BLHS 2015 chỉ quy định bốn biện pháp tư pháp được áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, so với BLHS 1999 đã có thêm hai biện
pháp. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác trên thế giới, số lượng biện pháp tư
pháp này vẫn còn ít.
Qua tham khảo pháp luật của một số Quốc gia, ngoài hệ thống biện
pháp này, các quốc gia còn có hệ thống tư pháp phục hồi và các biện pháp
chuyển hướng, để không viện đến các thủ tục tố tụng tư pháp, hay nói cách
khác là đưa người chưa thành niên phạm tội ra khỏi hệ thống tư pháp với điều
kiện nhất định [3,tr.26].
Đối với các quốc gia áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng thì đạt
được nhiều kết quả trong giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội, ngăn
ngừa tác động tiêu cực đối với người dưới 18 tuổi. Theo Công ước quốc tế
của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, đưa ra một số phương án xử lý chuyển
hướng phù hợp như: lệnh chăm sóc, kèm cặp và giám sát; tư vấn; thử thách;
chăm sóc đỡ đầu; các chương trình giáo dục và dạy nghề….( Điều 40 Công
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

More Related Content

What's hot

Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tộiViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 

What's hot (20)

Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễnLuận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
 
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổiLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTQuyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giamLuận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
 
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về ma túy
Luận văn: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về ma túyLuận văn: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về ma túy
Luận văn: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về ma túy
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 

Similar to Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Similar to Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (20)

Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm  Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểmThủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm  Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
 
Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại huyện Tây Trà, HAY
Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại huyện Tây Trà, HAYHình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại huyện Tây Trà, HAY
Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại huyện Tây Trà, HAY
 
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đNgăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
 
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiPhân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiNguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiBào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội dưới 18 tuổiLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
 
Tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện, HAY
Tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện, HAYTình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện, HAY
Tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện, HAY
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổiLuận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
 
Điều kiện của tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện
Điều kiện của tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiệnĐiều kiện của tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện
Điều kiện của tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện
 
Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!
Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!
Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!
 
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiÁp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiệnLuận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
 
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Thẩm Quyền Xét Xử Sơ Thẩm Của Tòa Án Trong Luật Tố Tụng.docx
Thẩm Quyền Xét Xử Sơ Thẩm Của Tòa Án Trong Luật Tố Tụng.docxThẩm Quyền Xét Xử Sơ Thẩm Của Tòa Án Trong Luật Tố Tụng.docx
Thẩm Quyền Xét Xử Sơ Thẩm Của Tòa Án Trong Luật Tố Tụng.docx
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 

Recently uploaded (20)

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 

Luận văn: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THỊ BẢO NGỌC CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THỊ BẢO NGỌC CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 838.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Đỗ Thị Bảo Ngọc
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .......................................................................... 9 1.1. Những vấn đề chung về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội...................... 9 1.2. Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội...................19 1.3. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. ..............................................................25 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ .............32 2.1. Quy định của của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) và Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi...........................................................................................32 2.2.Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.............................................................................37 2.3.Những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị .........................................................................................................................40 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .........................................................54 3.1. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................................54 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tiễn................58 KẾT LUẬN....................................................................................................64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự TTHS: Tố tụng hình sự UBND: Ủy ban nhân dân
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 So sánh áp dụng hình phạt của tỉnh Quảng Trị và cả nước 39
  • 7. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 2.1: Tình hình áp dụng chế tài pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Quảng Trị 38
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa đặc sắc và phong phú, đặc biệt là cái nôi nuôi dưỡng nhiều anh hùng, nhân tài của dân tộc khi chỉ mới ở độ tuổi còn trẻ, được nhân dân Việt Nam và thế giới phải thán phục. Chính vì vậy mà việc nuôi dưỡng nhân tài là vấn đề rất được chú trọng. Hiến pháp năm 2013 ra đời trong đó có chương riêng về quyền trẻ em đã khẳng định bảo vệ quyền trẻ em là bảo vệ nguồn nhân lực cho đất nước và Việt Nam là một quốc gia luôn đi đầu trong vấn đề chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Có thể thấy rằng, nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em như: Hiến pháp 2013, Luật trẻ em 2016, Bộ luật Hình sự 2015...Việt Nam cũng là một trong các nước đầu tiên ở Châu Á tham gia Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Đảng và nhà nước ta đang ngày càng đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em từ đó phát triển nhân tài cho đất nước, có như vậy thì xã hội và nền kinh tế của nước ta mới phát triển. Trong quá trình hội nhập quốc tế, nền kinh tế và xã hội Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể, tác động tích cực đến đời sống của nhân dân cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn xảy ra mặt tiêu cực, khó khăn và thách thức, tình hình tội phạm vì thế mà tăng lên. Đặc biệt là tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội diễn ra ngày càng nhiều và có diễn biến phức tạp. Việc giải quyết vấn đề người dưới 18 tuổi là việc rất cần thiết và cấp bách để ổn định trật tự xã hội, đảm bảo chính trị và phát triển kinh tế. Thực tiễn cho thấy, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người dưới 18 tuổi là những người chưa có khả năng nhận thức rõ về hành vi, chưa đủ khả năng để làm chủ hành động cũng như chưa có khả năng chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình. Hiện nay, người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ trẻ hóa độ
  • 9. 2 tuổi, hành vi còn tinh vi, xảo quyệt hơn, gia tăng về số lượng mà tính tổ chức của loại tội phạm ngày càng chặt chẽ, phạm các tội có sử dụng bạo lực, hình thành các băng nhóm có tổ chức, nhiều loại tội phạm có xu hướng gia tăng như: tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; tội trộm cắp; các tội xâm phạm an toàn công cộng.... Trước tình hình như vậy, để tăng cường công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là người dưới 18 tuổi thông qua thực tiễn, vướng mắc và những bất cập từ đó tìm ra những giải pháp thay đổi cần thiết hạn chế việc người dưới 18 tuổi phạm tội. Về phương diện pháp lý, người dưới 18 tuổi là đối tượng đặc biệt, họ cần được pháp luật bảo vệ trong cuộc sống hàng ngày và ngay cả khi vi phạm pháp luật. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành một người có ích cho xã hội, vì vậy mà Đảng và nhà nước ta đưa ra chủ trương là áp dụng các biện pháp tư pháp. Biện pháp tư pháp có ý nghĩa trong việc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thể hiện tính nhân đạo, tính giáo dục, đảm bảo được quyền trẻ em nhưng cũng mang tính răn đe, phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, khi xảy ra việc người dưới 18 tuổi phạm tội thì thường được áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Nhưng, trên thực tế hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp còn hạn chế, vì vậy cần phải nâng cao hiệu quả các biện pháp tư pháp, quy định những biện pháp chế tài riêng, đồng thời bổ sung các biện pháp tư pháp khác để người thi hành có thêm nhiều sự lựa chọn để áp dụng một cách hiệu quả nhất, thủ tục tố tụng phù hợp với đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội để thể hiện sự nhân đạo trong chính sách hình sự là biện pháp tư pháp. Như vậy, có thể thấy rằng, mục tiêu hàng đầu của hệ thống các biện pháp khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là nhằm: 1) phòng ngừa tội phạm 2) phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Trong trường hợp quyết định hình phạt đối với người
  • 10. 3 dưới 18 tuổi phạm tội chúng ta cần phải cân nhắc, xem xét nhiều yếu tố khác nhau như các yếu tố tâm sinh lý, gia đình, xã hội để từ đó đưa ra quyết định đúng mới có thể đảm bảo quyền lợi cho đối tượng đặc biệt này. Bởi ngay cả khi người dưới 18 tuổi phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì họ vẫn có khả năng không bị áp dụng hình phạt mà việc áp dụng các biện pháp tư pháp sẽ cải tạo họ thành cho những công dân có ích cho xã hội. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung và Bộ luật Hình sự nói riêng về biện pháp tư pháp là việc làm quan trọng mang tính cấp thiết vì vậy mà tôi chọn đề tài “Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề tư pháp người dưới 18 tuổi , đã được nghiên cứu ở nhiều mức độ và phương diện khác nhau. Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn thiện và được áp dụng tốt hơn thì phải trải qua một quá trình dài nghiên cứu và đúc kết, dựa trên kết quả thực tiễn. Nhận thức lý luận về biện pháp tư pháp với người dưới 18 tuổi phạm tội- thực tiễn áp dụng trên địa bàn cụ thể cần phải được quan tâm, chứng minh và tập trung các vấn đề chính sau - Tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự đối về biện pháp tư pháp áp dụng đối với dưới 18 tuổi. - Nghiên cứu thi hành chế tài đối với người dưới 18 tuổi theo quy định pháp luật tố tụng hình sự. - Nghiên cứu vai trò của gia đình, xã hội đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Tính đến thời điểm này đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này. Tiêu biểu là các công trình liên quan trực tiếp đến biện pháp
  • 11. 4 tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phạm tội như sau: Các bài viết đăng trên tạp chí và sách chuyên khảo: 1. TSKH – PGS. Lê Cảm và ThS. Đỗ Thị Phượng: Tư pháp hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, những khía cạnh tội phạm học – Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22/2004; 2. TS. Phạm Hồng Hải: Các biện pháp tư pháp trong BLHS năm 1999 và vấn đề hoàn thiện Bộ luật Tố tụng Hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp tư pháp đó – Tạp chí luật học, số 5/2000; 3. TS. Phạm Mạnh Hùng: Bàn về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật Hình sự Việt Nam – Tạp chí kiểm sát năm 2007; 4. Đỗ Thị Phượng và Bùi Đức Lợi: Đề tài nghiên cứu cấp trường Đại Học Quốc gia Hà Nội: những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên; 5. Hồ Sỹ Sơn: Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt – Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 4/2004; 6. TS. Trần Quang Tiệp: Vai trò của gia đình trong việc thi hành các hình phạt không tước tự do và biện pháp tư pháp – Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2004; 7. Trịnh Đình Thế: Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội – Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006; Trong những năm gần đây, còn có các công trình nghiên cứu về lĩnh vực tư pháp hình sự như sau: 1. Lưu Hoài Bảo, một số giải pháp phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, tạp chí Kiểm sát, số 14/2014; 2. Nguyễn Đức Mai, Các yêu cầu đặt ra đối với việc thành lập Tòa án người chưa thành niên, Tạp chí Tòa án, số 16/2014.
  • 12. 5 3. Phạm Thị Thanh Nga, Thực thi Công ước Quyền trẻ em ở Việt Nam: tuổi chịu trách nhiệm hình sự và chế tài đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 18(274) T9/2014; 4. Lương Ngọc Trâm, Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án, số 19/2014; Các luận văn thạc sĩ luật học: 1. Lưu Ngọc Cảnh: Luận văn thạc sĩ luật học: “ Các hình phạt và biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam”, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010; 2. Nguyễn Thị Tố Nga: Luận văn thạc sĩ luật học: “ Các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự”, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; 3. Đỗ Văn Hùng: Luận văn thạc sĩ luật học: “ Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Khoa Luật- Trường Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2016. Những nghiên cứu này do phạm vi và mục đích nên chưa đi sâu về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi. Các bài viết mang tính cá nhân, chỉ là các bài viết nghiên cứu trên các tạp chí. Việc nghiên cứu các biện pháp tư pháp là nghiên cứu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi hoặc các chế tài áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. Các nghiên cứu trên nghiên cứu điều kiện áp dụng mà chưa có sự so sánh với các chế tài khác và sự thay đổi trong quy định của pháp luật hình sự. Vì vậy, chúng ta cần nghiên cứu một cách sâu sắc nhất để góp phần giải quyết vấn đề bất cập và hoàn thiện nó hơn nữa.
  • 13. 6 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu lý luận và những nội dung cơ bản của hệ thống các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo hệ thống pháp luật Hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật Hình sự Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: khái niệm, dấu hiệu cơ bản, nguyên tắc áp dụng, mối quan hệ giữa biện pháp tư pháp với chế tài hình sự khác... Đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, phân tích những điểm hạn chế, bất cập của từng biện pháp tư pháp đó. Từ những nghiên cứu, phân tích, đánh giá những điểm bất cập, hạn chế của pháp luật hình sự hiện hành từ đó đề xuất giải pháp sửa đổi, hoàn thiện các quy định của pháp luật để nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn từ địa bàn tỉnh Quảng Trị) 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn các biện pháp tư pháp áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Phần chung ( Chương
  • 14. 7 XII) của BLHS Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở các số liệu thực tiễn giai đoạn 2014-2018 của các cơ quan tiến hành tố tụng địa bàn tỉnh Quảng Trị 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu dựa vào cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về pháp luật nói chung và chính sách Hình Sự nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Theo như đề tài luận văn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù, phổ biến của khoa học luật hình sự: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp logic… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học về mặt lý luận và thực tiễn của các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Luận văn phân tích một cách tương đối toàn diện các quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong phần chung của pháp luật hình sự việt nam; phân tích đánh giá chi tiết từng đặc điểm biện pháp tư pháp và có sự so sánh, đối chiếu pháp luật qua các thời kỳ, cũng như so sánh với pháp luật quốc tế, để từ đó đánh giá các biện pháp tư pháp. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá rút ra những kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện các quy định về biện pháp tư pháp với người dưới 18 tuổi phạm tội để tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm là người dưới 18 tuổi nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn bao gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
  • 15. 8 khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Quảng Trị. Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
  • 16. 9 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Những vấn đề chung về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm- đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi phạm tội Để có thể hiểu rõ về chính sách hình sự và các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, trước hết cần phải làm rõ các khái niệm, đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi cũng như nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi. Trước đây, theo BLHS năm 1999 chúng ta sử dụng khái niệm “người chưa thành niên phạm tội” thay vì dùng khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội”. Theo Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “ Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn.” Ở nước ta, theo BLHS năm 1999 quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi và khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về thể chất và tinh thần của con người, cụ thể hóa bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của quốc gia. Như vậy, khái niệm người dưới 18 tuổi tương đồng với khái niệm người chưa thành niên, một cách khái quát nhất thì đó là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, tâm lý và nhân cách, chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của một công dân. [36,tr 10] Độ tuổi của người dưới 18 tuổi được xác định thống nhất trong các văn bản pháp luật và chế định pháp luật riêng để áp dụng với người dưới 18 tuổi theo từng lĩnh vực cụ thể. Theo Điều 90 BLHS năm 2015 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
  • 17. 10 Việt Nam có nêu rằng: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.” [30] Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Điều 161 Bộ luật Lao động 2012 quy định: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Còn Luật trẻ em 2016 lại quy định rằng “ Trẻ em là người dưới 16 tuổi” Có thể thấy rằng, mỗi văn bản pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực nhất định thì phạm vi điều chỉnh riêng nên có những quy định khác nhau khi xác định độ tuổi được coi là người chưa thành niên. Có thể hiểu một cách khái quát về khái niệm người dưới 18 tuổi như sau: Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý. * Đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi Để đưa ra được khái niệm người dưới 18 tuổi thì chúng ta cũng cần đánh giá được đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi. Ở giai đoạn phát triển của con người ở mỗi thời kỳ là khác nhau mà đặc biệt là giai đoạn dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh lý, tâm lý và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong xảm xúc của người chưa thành niên.[24,tr.39] Quá trình phát triển của mỗi con người ảnh hưởng đến năng lực nhận thức về hành vi tác động đến xã hội cũng như ảnh hưởng đến năng lực điều
  • 18. 11 khiển hành vi theo những đòi hỏi của xã hội. Khoa học chứng minh rằng, con người sinh ra mà cơ sở để phát triển ý thức chính là bộ não người. Mà ở lứa tuổi dưới 18 tuổi quá trình hưng phấn của võ não mạnh, chiếm ưu thế và các quá trình ức chế có điều kiện bị suy giảm, vì vậy mà nhiều trường hợp dẫn đến họ thuộc trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng dẫn đến các hành vi lệch chuẩn của người dưới 18 tuổi.[24,tr.39] Mỗi con người khi sinh ra không phải đã sẵn sự nhận thức một cách toàn diện về tự nhiên, về xã hội, về chính mình. Mà sự nhận thức này được hình thành và phát triển ở mỗi giai đoạn của quá trình sống, quá trình hoạt động trong xã hội. Như vậy, khi con người đã có khả năng nhận thức ở một giới hạn nhất định thì con người mới hiểu được quyền và nghĩa vụ, từ đó đánh giá được hành vi của mình tác động đến xã hội là như thế nào. Trước đây trong các văn bản pháp luật hình sự ở nước ta chưa nêu rõ khái niệm của người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 1985 chỉ có định nghĩa người vị thành niên. BLHS 1999, là người chưa thành niên và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi. Trong BLHS 2015( sửa đổi, bổ sung 2017) có hiệu lực từ 01/01/2018 tại chương XII có nhiều thay đổi liên quan đến người dưới 18 tuổi. Điều 90 quy định đã có sự thay đổi về thuật ngữ người chưa thành niên thành người dưới 18 tuổi còn giới hạn độ tuổi vẫn là người tử đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.” Việc thay đổi thuật ngữ nhưng vẫn giữ nguyên độ tuổi làm cho quy định này rõ ràng người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Như vậy, người
  • 19. 12 dưới 18 tuổi hay người chưa thành niên phạm tội, họ là đối tượng cần được bảo vệ, đồng thời cũng là chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng đưa ra khái niệm người chưa thành niên phạm tội: “ Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm Hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và đã có lỗi( cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [6,tr.9] Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành như sau: Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự, có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm trong BLHS. 1.1.2. Nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội Đảng và nhà nước ta luôn đề cao chính sách chăm sóc và giáo dục trẻ em, khi trẻ em là chủ thể được bảo vệ hay kể cả khi trẻ em, người dưới 18 tuổi là chủ thể vi phạm pháp luật thì việc bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em, người dưới 18 tuổi cũng luôn luôn được chú trọng. Khi đưa ra nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội thì những nguyên tắc này phải đảm bảo được quyền con người; xuất phát từ đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi và trên cơ sở thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện thì việc xử lý được thực hiện dựa trên các nguyên tắc quy định cụ thể trong điều 91 của BLHS 2015 ( sửa đổi, bổ sung 2017): Nguyên tắc thứ nhất, việc xử lý người dưới 18 tuổi khi họ phạm tội phải bảo đảm những lợi ích tốt nhất, chủ yếu nhất vẫn là nhằm mục đích giáo dục đồng thời giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi phát triển một cách lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội và
  • 20. 13 cho đất nước. Khoản 1 điều 91 quy định về nguyên tắc này: “1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.” Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đầu tiên cần phải căn cứ vào độ tuổi của người đó, không chỉ dừng lại ở độ tuổi mà cần căn cứ vào khả năng nhận thức của họ về hành vi mang tính chất gây nguy hiểm cho xã hội, nguyên nhân nào và điều kiện nào khiến họ gây ra hành vi phạm tội. Người dưới 18 tuổi là người về thể chất tâm sinh lý, kể cả trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống trong thực tiễn của họ vẫn còn chưa phát triển đầy đủ và rất hạn hẹp. Mà nguyên nhân và điều kiện chính dẫn đến người dưới 18 tuổi phạm tội là do chính trong môi trường sống của gia đình và xã hội. Việc quan trọng nhất cần làm chính là cải thiện môi trường sống để nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc cuộc sống xã hội, để từ đó giúp cho người dưới 18 tuổi có thể sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, giúp ích cho xã hội. Người dưới 18 tuổi chưa phát triển và hoàn thiện về các mặt, tức là không phải bất cứ người dưới 18 tuổi nào phạm tội cũng có đầy đủ năng lực để nhận thức về trách nhiệm của họ đối với hành vi phạm tội mà họ gây nên. Vì vậy, khi xem xét xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ căn cứ vào độ tuổi mà còn căn cứ vào khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm của hành vi cho xã hội. Làm rõ được những yếu tố liên quan gây ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ nguy hiểm của hành vi của người phạm tội và nhân thân người đó thì Cơ quan tư pháp và Cơ quan tiến hành tố tụng mới giúp họ nhận ra được hành vi của họ gây ra là nguy hại cho xã hội, giúp họ nhận ra lỗi lầm
  • 21. 14 và sữa chữa lỗi đó. Ngoài ra, sự hình thành phát triển nhận thức của người dưới 18 tuổi còn có sự ảnh hưởng bởi giáo dục, đào tạo, gia đình, nhà trường và xã hội, cần phải làm rõ nguyên nhân và những điều kiện nào dẫn đến việc người dưới 18 tuổi gây ra hành vi phạm tội. Nguyên tắc này là nguyên tắc mang tính bao trùm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đồng thời cũng hoàn toàn phù hợp với các quy định của Liên hợp quốc- Công ước quốc tế về quyền trẻ em tại điều 40. Nguyên tắc thứ 2, người dưới 18 tuổi phạm tội thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại khoản 2 Điều 91 của BLHS 2015, cụ thể là: “2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này: a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này; b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội
  • 22. 15 cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này; c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.” Quy định này cụ thể từng loại tội, khi người dưới 18 tuổi phạm phải một trong các tội quy định tại điểm a, điểm b và điểm c thì Tòa án xem xét, cân nhắc có hay không việc miễn trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, quy định việc đồng phạm của người dưới 18 tuổi nhưng vai trò không đáng kể trong vụ án là một quy định mới, đồng thời đảm bảo được lợi ích của người dưới 18 tuổi trong các vụ án mà người đó có thể do bị dụ dỗ, lôi kéo dẫn đến hành vi phạm tội không đáng kể đó xảy ra. Quy định về nguyên tắc này thể hiện sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Theo nguyên tắc này, người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, khoan hồng hơn so với quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối với người đã thành niên. Để xem xét lựa chọn biện pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng cần đánh giá xem hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi phạm tội là tội phạm như thế nào, phạm tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng, có gây thiệt hại lớn hay không, cũng cần tìm ra những tình tiết giảm nhẹ hay nhân thân của người dưới 18 tuổi như thế nào. Từ đó mới có thể đưa ra biện pháp áp dụng hay miễn trách nhiệm hình sự. Trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nhưng không gây thiệt hại lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục
  • 23. 16 thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Xuất phát từ lợi ích của người dưới 18 tuổi, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra chính sách nhân đạo hơn, nhằm tạo điều kiện cho người dưới 18 tuổi có cơ hội sữa chữa mà không cần thiết phải áp dụng biện pháp cách ly họ với cộng đồng xã hội, tạo cho người dưới 18 tuổi phạm tội có cơ hội vẫn hòa nhập với cộng đồng nhưng vẫn có thể giáo dục phục hồi họ. Nguyên tắc thứ 3, theo quy định tại khoản 3 điều 91 BLHS 2015 quy định “việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm”. Như vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội hay chỉ áp dụng hình phạt đối với họ chỉ trong trường hợp thực sự cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, những đặc điểm về nhân thân, yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm thì khi đó mới được áp dụng hình phạt. Mục đích cần thiết nhất khi lựa chọn biện pháp áp dụng vẫn là giáo dục, phòng ngừa là chính, cho nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi chỉ trong những trường hợp cần thiết nhất và đương nhiên cần phải căn cứ tính chất của hành vi phạm tội ở mức độ nào, nghiêm trọng hay không, hành vi phạm tội như thế nào, nhân thân tốt hay có tiền án tiền sự hay không? Từ đó, đưa ra một cách đúng đắn nhất biện pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phù hợp với chính sách và nguyên tắc xử lý của Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc thứ 4, biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc giáo dục trường giáo dưỡng được ưu tiên áp dụng thay thế cho hình phạt trong trường hợp nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi
  • 24. 17 thấy cần thiết, việc xử lý hình sự là biện pháp cuối cùng áp dụng với người dưới 18 tuổi khi các biện pháp xử lý khác không còn hiệu quả. Vì chủ thể của hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi phạm tội là chủ thể đặc biệt, khi đưa ra xét xử thì cần phải cân nhắc khả năng áp dụng các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng trước khi quyết định hình phạt. Trong trường hợp nếu không cần áp dụng hình phạt mà có các biện pháp xử lý khác mang tính khoan hồng hơn thì có thể ưu tiên áp dụng các biện pháp khoan hồng đó. Nguyên tắc này thể hiện rõ tính đảm bảo quyền con người của người dưới 18 tuổi cũng như đi đúng với yêu cầu của chính sách hình sự nước ta và Công ước Quốc tế về quyền trẻ em. Nguyên tắc thứ 5, không áp dụng xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Nếu Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án phải cân nhắc cho hưởng mức án nhẹ hơn so với mức án áp dụng đối với người thành niên (tức là người đủ 18 tuổi trở lên) phạm cùng các tội tương ứng và thời hạn thích hợp ngắn nhất. Không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại khoản 6 của điều 91 BLHS năm 2015. So với BLHS năm 1999, tại khoản 5 điều 69 thì chỉ quy định việc không áp dụng tù chung thân hoặc tử hình, quy định cần hạn chế áp dụng hình phạt tù, không áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Còn BLHS 2015 quy định mang tính đề cao nguyên tắc xử lý hơn đó là hình phạt tù có thời hạn chỉ được áp dụng khi các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Đồng thời, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì không áp dụng bất cứ hình phạt bổ sung nào. Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, chính sách hình sự của nước ta không cho phép áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi buộc phải áp
  • 25. 18 dụng hình phạt tù thì mức án cho họ phải thấp hơn so với người đã thành niên khi phạm cùng một tội tương ứng. Những người dưới 18 tuổi là những người còn hạn chế về mặt thể chất và nhận thức, nếu áp dụng hình phạt tử hình và hình phạt tù chung thân thì quá nghiêm khắc đối với họ trong khi pháp luật hình sự mang tính trừng trị nhưng vẫn đề cao tính nhân đạo và khoan hồng là trên hết. Đối tượng là người dưới 18 tuổi là những người chưa thành niên, họ chưa có đủ khả năng để lo cho bản thân, chưa đủ khả năng về kinh tế, vì vậy mà việc áp dụng biện pháp hình phạt bổ sung ( hình phạt tiền) là vô lý vì độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi họ chưa tham gia vào các quan hệ lao động, chưa tạo ra được những đồng tiền, thu nhập riêng. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng cho áp dụng hình phạt này đối với người dưới 18 tuổi thì ý nghĩa của hình phạt sẽ không còn thiết thực, tính khả thi của hình phạt cũng không được đảm bảo trên thực tế. Nguyên tắc này cũng phản ánh tinh thần bảo đảm quyền con người của người dưới 18 tuổi phạm tội trong Công Ước Quốc tế về quyền trẻ em ( Khoản 4- Điều 40). Nguyên tắc thứ 6, án đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi khi người đó phạm tội nhưng chưa đủ 16 tuổi thì không thể xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Xuất phát từ yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo các nhóm ( độ tuổi) và là sự cụ thể hóa của nguyên tắc xử lý chung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tạo cho người dưới 18 tuổi có cơ hội để sữa chữa sai lầm, phát triển một cách lành mạnh. Không ghi nhận án tích của tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra khi chưa đủ 16 tuổi để tránh tạo ra những tâm lý nặng nề, tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi cố gắng, phấn đấu, cải thiện thành một công dân có ích cho xã hội.
  • 26. 19 Nhìn chung, các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định trong BLHS thể hiện đầy đủ quan điểm Đảng và Nhà nước, thể hiện một chính sách hình sự đúng đắn theo đúng nguyên tắc nhân đạo và quyền con người theo Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, phù hợp với các yêu cầu trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà nhà nước ta đã tham gia. 1.2 Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Xem xét biện pháp tư pháp phù hợp để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hết sức quan trọng, bởi lẻ người dưới 18 tuổi là chủ thể đặc biệt, mà việc cần thiết khi áp dụng biện pháp tư pháp là giáo dục, phòng ngừa, đảm bảo lợi ích tốt nhất và giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh. Để làm được việc này, điều đầu tiên chúng ta cần phải hiểu được biện pháp tư pháp là gì? Đặc điểm của các biện pháp tư pháp và các biện pháp tư pháp trong những trường hợp nào thì được áp dụng đối với đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội. 1.2.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc áp dụng biện pháp tư pháp với người dưới 18 tuổi phạm tội trong những trường hợp cần thiết, tức là bên cạnh việc áp dụng hình phạt thì các biện pháp tư pháp là một trong hai biện pháp chế tài hình sự mà có thể áp dụng đối với người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội “ Biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được BLHS quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ, thay thế hình phạt”. [41,tr.322] Theo GS.TSKH Lê Cảm: “ Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế
  • 27. 20 về hình sự của nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền, căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt” [8, tr.679] Như vậy, có thể hiểu rằng, biện pháp tư pháp là những biện pháp được quy định trong pháp luật hình sự được các cơ quan tư pháp áp dụng đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, tuy nhiên nó chỉ mang tính bổ trợ, không mang tính nghiêm khắc và trừng trị như hình phạt. Các biện pháp tư pháp này được xem là một chế tài ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, là kết quả của sự phân hóa trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ hình phạt và có thể áp dụng trong những giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau. Qua những phân tích, tác giả hiểu khái niệm biện pháp tư pháp như sau: “ Biện pháp cưỡng chế hình sự của nhà nước áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi họ thực hiện hành vi phạm tội, những biện pháp này có tính chất ít nghiêm khắc hơn hình phạt, được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng nhằm hỗ trợ thay thế cho hình phạt”. Các dấu hiệu của biện pháp tư pháp khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: Thứ nhất, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là biện pháp ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, do pháp luật hình sự quy định, là kết quả của sự phân hóa trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ hình phạt. Dấu hiệu này thể hiện vị trí pháp lý và khả năng áp dụng của biện pháp tư pháp. Biện pháp tư pháp là chế tài của pháp luật hình sự vì vậy được quy định trong BLHS. Đồng thời, việc áp dụng biện pháp tư pháp trên thực tế chính là quá trình cân nhắc, xem xét mức độ nguy hiểm của hành vi cũng như các dấu hiệu
  • 28. 21 khác như nhân thân của người phạm tội để xem xét áp dụng hình phạt hay biện pháp tư pháp. Thứ hai, biện pháp tư pháp là biện pháp mang tính thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt. Các biện pháp tư pháp chung có mục đích thay thế cho hình phạt với ý nghĩa giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội và phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện [42, tr.33] Trong trường hợp không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp để thay thế. Việc áp dụng biện pháp tư pháp thay thế mang ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa, mang tính nhân đạo hơn, chính sách hình sự sâu sắc hơn. 1.2.2. Đặc điểm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi Thứ nhất, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trước hết là một biện pháp của pháp luật hình sự và chỉ có thể được áp dụng khi người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Với tư cách là một biện pháp cưỡng chế về hình sự nên biện pháp tư pháp chỉ có thể được áp dụng khi có sự việc phạm tội xảy ra. Nếu sự việc phạm tội do người dưới 18 tuổi phạm tội thực hiện thì trong trường hợp nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt Tòa án có thể áp dụng biện pháp tư pháp. Như vậy, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi theo quy định của pháp luật hình sự chỉ có thể được áp dụng khi có hành vi phạm tội và chủ thể của hành vi này là người dưới 18 tuổi [9,tr.12] Thứ hai, biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt và việc áp dụng biện pháp tư pháp này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội sẽ không để lại án tích. Hình phạt và biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế của nhà nước áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tuy nhiên hình phạt được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp
  • 29. 22 cưỡng chế. Do đó, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi là biện pháp cưỡng chế hình sự ít nghiêm khắc hơn. Mặc dù mục đích của việc áp dụng biện pháp tư pháp giống với mục đích áp dụng của hình phạt là đều nhằm mục đích giáo dục và tạo điều kiện tốt nhất để người dưới 18 tuổi nhận thức được hành vi trái pháp luật của mình để sửa chữa. Việc áp dụng các biện pháp tư pháp này lại không để lại án tích cho người phạm tội dưới 18 tuổi, đây là quy định có lợi cho đối tượng đặc biệt này. Bên cạnh đó, đặc điểm này còn thể hiện trong quy định về hai biện pháp tư pháp dành riêng cho người dưới 18 tuổi, đó là biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng mặc dù là biện pháp cách ly người dưới 18 tuổi khỏi cộng đồng nhưng cũng chỉ trong trường hợp do nhân thân hay môi trường sống của người đó mà cần thiết phải cách ly họ để tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các em. Ngoài ra, những biện pháp tư pháp mang tính hỗ trợ hình phạt cũng chỉ nhằm loại trừ hoặc hạn chế khả năng người đó tiếp tục phạm tội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị hại cũng như để điều trị cho bị can, bị cáo bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội. Biện pháp này không như hình phạt, người bị kết án có thể bị tước bỏ hoặc hạn chế các quyền tự do, quyền về tài sản, thậm chí là quyền sống.[9,tr.13] Thứ ba, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội với mục đích thay thế hoặc bỗ trợ hình phạt do cơ quan có thẩm quyền quyets định áp dụng. Các biện pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là biện pháp tư pháp nhằm thay thế cho hình phạt. Tòa án tùy theo giai đoạn tố tụng, các cơ quan tố tụng có thể ra quyết định áp dụng biện pháp tư pháp hỗ trợ cho
  • 30. 23 hình phạt. Còn biện pháp thay thế chỉ áp dụng theo quyết định của Tòa án. Thứ tư, biện pháp tư pháp chỉ có thể áp dụng khi có sự việc người dưới 18 tuổi có hành vi phạm tội phạm tội. Và đương nhiên không thể áp dụng biện pháp tư pháp với tính chất là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn hình phạt trong trường không có hành vi phạm tội. Thứ năm, biện pháp tư pháp cũng được quy định trong pháp luật hình sự và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng theo trình tự đặc biệt do luật tố tụng hình sự quy định. Thứ sáu, biện pháp tư pháp chỉ mang tính chất cá nhân vì theo pháp luật hình sự Việt Nam nó chỉ được áp dụng đối với riêng bản thân người phạm tội. Thứ bảy, căn cứ vào từng giai đoạn tố tụng hình sự, biện pháp tư pháp hỗ trợ cho hình phạt có thể do cơ quan tư pháp hình sự khác có thẩm quyền áp dụng và đối với người phạm tội nói chung ( kể cả người bị kết án), còn biện pháp tư pháp thay thế hình phạt chỉ do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án riêng. Trên đây là 7 đặc điểm của biện pháp tư pháp khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên để tìm hiểu sâu hơn đặc điểm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì cần so sánh đối chiếu với hình phạt. Về mức độ nghiêm khắc: Hình phạt được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của pháp luật hình sự, các loại chế tài khác đều có mức độ ít nghiêm khắc hơn bao gồm cả biện pháp tư pháp. Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng với đối tượng bị áp dụng: hình phạt do Tòa án áp dụng đối với chủ thể phạm tội. Biện pháp tư pháp có thể do cơ quan khác ngoài Tòa án và chủ thể khác ngoài chủ thể phạm tội cùng tham gia thực hiện biện pháp tư pháp.
  • 31. 24 Về điều kiện áp dụng: khi xét thấy trường hợp không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tòa án quyết định áp dụng biện pháp tư pháp thay thế. Về hậu quả pháp lý: người phạm tội khi bị áp dụng hình phạt thì sẽ phải chịu án tích, nhưng nếu áp dụng biện pháp tư pháp thì người dưới 18 tuổi phạm tội không phải chịu án tích. 1.2.3. Đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Đảng và nhà nước ta nhận thức rõ việc giáo dục người dưới 18 tuổi trở thành người có ích cho xã hội là rất quan trọng. Đồng thời chỉ rõ phải quan tâm trên hết là việc đào tạo, giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ để bảo đảm nguồn nhân lực để phục vụ cho sự phát triển của đất nước và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nâng cao trách nhiệm cho toàn xã hội là phải chú trọng chăm lo giáo dục người dưới 18 tuổi trở thành nguyên tắc được ưu tiên phải được thực hiện trên thực tế. Đường lối, chính sách đối với người dưới 18 tuổi là nền tảng để đi đến việc thể chế hóa các quy định xử lý tội phạm đối với đối tượng đặc biệt này là phải ưu tiên áp dụng các biện pháp tư pháp thì mới đúng tinh thần của pháp luật là thể hiện tính nhân đạo sâu sắc. Mà việc áp dụng biện pháp tư pháp thay vì áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là xuất phát từ bản chất nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngoài trách nhiệm của người dưới 18 tuổi khi họ thực hiện hành vi phạm tội thì một phần trách nhiệm cũng được gán cho nhà nước và xã hội bởi lẽ công tác giáo dục vẫn còn nhiều thiếu sót, lỗ hỏng dẫn đến những ảnh hưởng xấu ngoài xã hội đã thâm nhập vào tư tưởng nhận thức của các em cho nên hành vi phạm tội mới được thực hiện. Độ tuổi dưới 18 tuổi là độ tuổi đang còn trong giai đoạn nhận thức non nớt, chưa phát triển toàn diện như người đã thành niên, những ảnh hưởng tiêu
  • 32. 25 cực vẫn chưa ăn sâu, họ vẫn là đối tượng có khả năng cải tạo giáo dục tốt, đạt kết quả cao nếu được áp dụng các biện pháp tư pháp thích hợp. Tuy nhiên, cũng không phải là việc dễ dàng mà cần có thời gian, bằng nhiều biện pháp khác nhau, điều kiện khác nhau để giúp họ sữa chữa sai lầm và trở về với đời sống thường ngày. Sự bao dung, khoan hồng của pháp luật, của Đảng, nhà nước, xã hội và gia đình là điểm tựa vững chắc giúp cho người dưới 18 tuổi lỡ lầm gây ra hành vi phạm tội có niềm tin vào cuộc sống từ đó dần dần sẽ cũng cố nhân cách của một con người. Cho nên, xử lý người dưới 18 tuổi mà áp dụng xử lý hình sự thì không được nhà nước ta khuyến khích, chỉ áp dụng khi thực sự cần thiết, khi không còn một biện pháp nào đã áp dụng mà người đó vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. 1.3. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 1.3.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 Ở giai đoạn này, do hoàn cảnh tàn dư của chiến tranh và sự thiếu kinh nghiệm trong việc xây dựng pháp luật, nên nguồn văn bản pháp luật hình sự là tập hợp các văn bản đơn hành với nhiều hình thức: sắc lệnh, thông tư, điều lệ,... Cho đến những năm 1970, mới xuất hiện một số văn bản pháp luật hình sự có tính pháp điển hóa như: pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm sở hữu ngày 21/10/1970, sắc lệnh số 03/SL của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam ngày 15/03/1976...[38,tr.96] Có thể thấy rằng, thời kỳ này chưa có quy định cụ thể nào về việc người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao số 329-HS2 ngày 11 tháng 2 năm 1967, hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi thời kỳ này “ chỉ vào khoảng một phần hai mức án đối với
  • 33. 26 người lớn. Đối với trẻ em từ 9 đến 17 tuổi, đi lang thang trộm cắp nhiều lần, có lối sống sa đọa trụy lạc đã được gia đình, đoàn thể, nhà trường và chính quyền tận tình giúp đỡ nhiều lần, nhưng không chịu sữa chữa sẽ bị đưa vào trường phổ thông công nông nghiệp trong thời gian hai năm. Đây là những trường giáo dục thiếu niên hư” 1.3.2. Giai đoạn sau khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 Đảng và Nhà nước rất coi trọng pháp luật Hình sự là một phần không thể thiếu để bảo vệ chế độ, bảo vệ đất nước, vì vậy đẩy mạnh việc pháp điển hóa pháp luật hình sự. Có thể nói BLHS năm 1985 ra đời là sự kết tinh thành tựu 40 năm hoạt động lập pháp của chính quyền cách mạng là bản tổng kết sâu sắc thực tiễn đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Sự ra đời của một bộ luật thống nhất, duy nhất, xác định về các loại tội phạm và hệ thống các hình phạt tương ứng với các loại tội phạm đó. Tuy nhiên, thì biện pháp tư pháp áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại chương VII bao gồm các biện pháp có tính chất giáo dục phòng ngừa do Tòa án quyết định: - Biện pháp buộc phải chịu thử thách. - Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Điều 61 BLHS năm 1985 quy định biện pháp buộc phải chịu thử thách: “1. Đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, Tòa án có thể quyết định buộc chịu thử thách từ một năm đến hai năm. 2. Người phải chịu thử thách phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo kỉ luật xã hội và pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền cơ sở và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm. 3. Nếu người phải chịu thử thách đã chấp hành được một nửa thời hạn do Tòa án quyết định, tỏ ra có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của tổ chức được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án quyết định chấm dứt thời hạn thử thách.”
  • 34. 27 Như vậy, theo điều luật này, đối với người dưới 18 tuổi có hành vi phạm tội thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng thì người đó phải chịu thời gian thử thách là từ một năm đến hai năm. Trong khoảng thời gian thử thách người dưới 18 tuổi phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ của mình: học tập, lao động, tuân thủ kỷ luật xã hội và pháp luật và phải chịu giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và tổ chức mà Tòa án đã giao trách nhiệm. Trường hợp người dưới 18 tuổi có những thay đổi, tiến bộ và đã hoàn thành tốt thời gian thử thách được một nửa so với thời gian mà Tòa án quy định thì cơ quan địa phương hay tổ chức được Tòa án giao quản lý xét thấy thái độ, hành vi của người đó có nhiều biến chuyển tốt hơn, có thể đề nghị Tòa án quyết định chấm dứt thời hạn chịu thử thách còn lại mà đáng lẽ ra người đó phải chịu. “ Điều 62. Đưa vào trường giáo dưỡng 1. Tòa án có thể quyết định đưa người chưa thành niên phạm tội vào trường giáo dưỡng nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của họ cần đưa họ vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ. 2. Thời hạn ở trường giáo dưỡng là từ một năm đến ba năm. Nếu người chưa thành niên phạm tội đã chấp hành một nữa thời hạn do Tòa án quyết định và tỏ ra có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của người phụ trách, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn ở trường giáo dưỡng.” Trong trường hợp Tòa án nhận thấy tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội hay do nhân thân và môi trường sống của họ không đảm bảo cho cuộc sống sự phát triển về nhận thức để áp dụng biện pháp chịu thử thách tại địa phương. Tòa án quyết định đưa họ vào một tổ chức giáo dục có tính kỷ luật, chặt chẽ hơn, có tính giáo dục hơn đó là đưa vào trường giáo dưỡng, ấn định thời gian mà họ phải chịu là từ một năm đến ba năm tùy từng trường hợp cụ thể. Cũng giống như biện pháp buộc phải chịu thử thách, nếu trong thời
  • 35. 28 gian chấp hành biện pháp này, người dưới 18 tuổi có nhiều tiến bộ và hoàn thành được một nữa thời hạn thì theo đề nghị của người phụ trách tại trường giáo dưỡng, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thực hiện biện pháp tại trường giáo dưỡng. Tuy nhiên so với biện pháp buộc chịu thử thách thì thời hạn mà Tòa án quyết định cho người phạm tội là từ một năm đến hai năm thì ở biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là từ một năm đến ba năm. Có thể thấy rằng so với thời kỳ trước khi ban hành BLHS năm 1985 thì thời kỳ sau khi BLHS năm 1985 ra đời, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi đã trở nên rõ ràng và được quy định cụ thể hơn thành những điều luật. Tuy nhiên, sau hơn 14 năm thi hành BLHS 1985, do sự biến đổi nền kinh tế - xã hội của nước nhà, thì BLHS 1985 đã bộc lộ nhiều điểm bất cập và hạn chế có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì vậy, mà đòi hỏi chúng ta cần có những thay đổi để đảm bảo cho quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi phạm tội khi họ có hành vi vi phạm pháp luật. 1.3.3. Giai đoạn ban hành Bộ luật hình sự 1999. Bộ luật hình sự năm 1985 còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc Đảng và nhà nước ta cần có những sự thay đổi để đảm bảo các quyền lợi cho người dưới 18 tuổi trong trường hợp họ phạm tội. Mà BLHS năm 1999 ra đời đã sự thay đổi đáng kể trong tư pháp hình sự nói chung, có sự thay đổi, bãi bỏ các quy định về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi để phù hợp hơn trong quá trình áp dụng. Cụ thể, biện pháp tư pháp được quy định tại chương X, khoản 1 điều 70 quy định các biện pháp bao gồm: “ Đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây:
  • 36. 29 a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn. b) Đưa vào trường giáo dưỡng.” * Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn Đây là biện pháp mà Tòa án áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng trong thời gian từ một năm đến hai năm. Biện pháp này được quyết định dựa trên cơ sở cân nhắc các yếu tố như tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội, thái độ ăn năn, hối cải hoặc điều kiện có nơi thường trú ổn định và có môi trường sống thuận lợi cho việc giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Đồng thời người được Tòa án áp dụng biện pháp này phải có trách nhiệm chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm. Năm 2000, Chính phủ ban hành nghị định 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nghị định này quy định một cách cụ thể trách nhiệm và quyền của người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như trách nhiệm của gia đình, ủy ban nhân dân và người trực tiếp giám sát trong khi họ chấp hành biện pháp. Tiếp đến ngày 17/02/2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo nghị định, quy định chi tiết về đối tượng, trình tự, thủ tục thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; quyền và nghĩa vụ của người bị áp dụng biện pháp này; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người phạm tội.
  • 37. 30 Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định trong BLHS năm 1999 là sự kế thừa của biện pháp tư pháp buộc phải chịu thử thách quy định trong BLHS năm 1985. Xét về bản chất, hai biện pháp này không khác nhau, nhưng về điều kiện áp dụng lại có điểm khác nhau. Biện pháp buộc phải chịu thử thách áp dụng trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, mà điều 8 BLHS năm 1985 quy định: tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Những tội phạm khác là tội ít nghiêm trọng thì biện pháp buộc phải chịu thử thách chỉ áp dụng đối với hành vi gây nguy hại không lớn cho xã hội. Biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn áp dụng trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, đối với người từ 16 tuổi trở lên. Biện pháp chịu thử thách thì áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vì từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự về những tội nghiêm trọng do lỗi cố ý. Như vậy, nếu căn cứ theo loại tội phạm, thì điều kiện áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được mở rộng hơn, biện pháp này áp dụng khi người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng. Theo quy định phân loại của BLHS năm 1999 thì áp dụng đối với người phạm tội có mức khung hình phạt cao nhất là bảy năm tù. * Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng Tòa án áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi có hành vi phạm tội, khi xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt đối với họ, nhưng do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần phải đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ. Biện pháp này mang tính nghiêm khắc hơn, bởi khi chấp hành biện
  • 38. 31 pháp này, người dưới 18 tuổi sẽ được cách ly khỏi môi trường xã hội trong thời hạn nhất định và bị quản lý có kỷ luật chặt chẽ. Biện pháp này giúp cho người dưới 18 tuổi phạm tội có môi trường tốt hơn để khắc phục sai lầm của mình, ngăn những tác động xấu ảnh hưởng đến họ. Theo Nghị định của Chính phủ số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001 hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Theo đó người dưới 18 tuổi đang chấp hành biện pháp này phải chịu sự giám sát, quản lý, giáo dục, phân công lao động của cán bộ, giáo viên nhà trường và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy tại trường. Thời gian áp dụng biện pháp giáo dưỡng là từ một năm đến hai năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. So với bội luật Hình sự năm 1985 thời gian áp dụng đã được rút ngắn lại, đây là một điểm có lợi cho người dưới 18 tuổi phạm tội khi bị áp dụng biện pháp này. Kết luận chương 1 Tìm hiểu về mặt lý luận , giúp chúng ta hiểu hơn về người dưới 18 tuổi, cũng như hiểu hơn về các biện pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội. Qua việc tìm hiểu lý luận, xem xét quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt trong bối cảnh BLHS năm 2015 vừa có hiệu lực thi hành, tuy nhiên chúng ta vẫn không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự để nhằm bảo đảm quyền con người, bảo đảm các chính sách pháp luật hình sự được thực thi và các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi ngày càng được áp dụng nhiều hơn trên thực tế.
  • 39. 32 CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ 2.1. Quy định của của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) và Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi Bộ luật hình sự năm 1999 sau khi trải qua nhiều năm áp dụng, có những tiến bộ, thành tựu nhất định nhưng vẫn có những phần chưa phù hợp với tình hình thực tế, dẫn đến trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập trong quy định áp dụng luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Mà tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội thì diễn biến ngày càng phức tạp. Vì vậy, Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày 27 tháng 11 năm 2015 đã ban hành BLHS năm 2015, có nhiều thay đổi lớn về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi có hành vi phạm tội. Quy định các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự nằm ở Mục 2 và biện pháp tại trường giáo dưỡng quy định ở mục 3. Tại Mục 2 của chương XII, từ điều 92 đến điều 95, quy định các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trong trường hợp miễn trách nhiệm hình sự bao gồm: Khiển trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Đây là những điểm mới, việc bổ sung thêm hai biện pháp mới được quy định trong BLHS với mục đích hạn chế thấp nhất việc phải áp dụng hình phạt, từ đó tăng cường trách nhiệm của gia đình, cộng đồng trong việc giám sát giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc áp dụng biện pháp
  • 40. 33 tư pháp thay thế hình phạt giúp người dưới 18 tuổi phạm tội nhận thức được lỗi lầm, ăn năn hối cải và khắc phục sai phạm. Điều 92 BLHS 2015 quy định về điều kiện áp dụng biện pháp tư pháp: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này”. Quy định này được bổ sung vào BLHS 2015 nhằm đề cao nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi. Trong trường hợp người dưới 18 tuổi mà người đó hoặc đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng một trong các biện pháp tư pháp thì tòa án mới xem xét áp dụng, không áp dụng tùy tiện hay trường hợp tòa án tránh việc áp dụng biện pháp tư pháp như quy định tại BLHS 1999. Điều kiện áp dụng biện pháp tư pháp còn được quy định cụ thể trong từng điều luật quy định từng biện pháp. Theo điều 93 quy định biện pháp khiển trách được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm mục đích giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của hành vi gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ phải làm gì để khắc phục hậu quả. Biện pháp này áp dụng cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội lần đầu ít nghiêm trọng, người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án. Việc áp dụng biện pháp khiển trách thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, Tòa án quyết định áp dụng và khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi cần có sự chứng kiến của những người không ai khác chính là cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Đồng thời quy định nghĩa vụ của người bị áp dụng khiển trách: phải tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc, tham
  • 41. 34 gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp. Thời gian thực hiện nghĩa vụ là từ ba tháng đến một năm. Điều 94 quy định biện pháp hòa giải tại cộng đồng: đây là biện pháp mang tính nghiêm khắc hơn so với biện pháp khiển trách. Tại khoản 1 của điều này thì biện pháp hòa giải áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc các trường hợp sau: người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc các tội phạm được quy định cụ thể tại điểm b khoản 2 điều 91 của BLHS 2015. Người bị áp dụng biện pháp này phải thực hiện nghĩa vụ như biện pháp khiển trách, đồng thời phải xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại. Cơ quan có thẩm quyền là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phối hợp với ủy ban nhân dân cấp xã để tổ chức việc hòa giải. Việc hòa giải tại cộng đồng được thực hiện khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự. Đồng các cơ quan trên sẽ ấn định thời gian để thực hiện việc xin lỗi và nghĩa vụ bồi thường để đảm bảo việc thực hiện biện pháp tiến hành nhanh chóng và đúng yêu cầu theo quy định tại khoản 3,4 điều 94 của BLHS. * Đối với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, BLHS năm 2015 quy định đã có sự thay đổi so với BLHS năm 1999. Theo đó, người bị áp dụng biện pháp này trong các trường hợp: “ a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 2 điều Điều 91 của bộ luật này; b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản 2 điều 91 của Bộ luật này”
  • 42. 35 Quy định rõ ràng hơn so với BLHS năm 1999. Đã có sự phân tách việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với nhóm đối tượng là người dưới 18 tuổi bao gồm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Đồng thời bổ sung nghĩa vụ của người dưới 18 tuổi khi được áp dụng biện pháp giám sát giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Tại Mục 3 của chương XII quy định biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng Điều 96 cũng vậy. Cơ bản thì về nội dung vẫn giống với bộ luật cũ, tuy nhiên có sự sửa đổi, bổ sung ở phần nghĩa vụ của người được áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Theo BLHS 1999 tất cả các biện pháp tư pháp đều được quy định trong một điều luật là điều 70. Còn theo BLHS 2015 quy định mỗi biện pháp là mỗi điều luật tương ứng cụ thể về điều kiện áp dụng, độ tuổi áp dụng, nghĩa vụ cần thực hiện khi bị áp dụng biện pháp đó. Có thể thấy, biện pháp khiển trách và hòa giải tại cộng đồng là những biện pháp mới bổ sung mà BLHS năm 1999 không có. Còn biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong BLHS năm 1999 thì đến BLHS năm 2015 đã chuyển hóa thành biện pháp tư pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Những quy định trong chính sách hình sự liên quan đến biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi đã được sửa đổi, bổ sung tương đối cơ bản, toàn diện nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc của BLHS năm 1999, nhất là quy định các biện pháp áp dụng một cách có lợi nhất đối với người dưới 18 tuổi khi họ phạm tội. BLHS năm 2015 là bộ luật mới, vì vậy vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải thực thi những cải cách mới này của bộ luật trên thực tế. Song hành với BLHS chính là Bộ luật tố tụng hình sự, BLHS quy định
  • 43. 36 cụ thể các biện pháp tư pháp áp dụng cho đối tượng đặc biệt là người dưới 18 tuổi, còn bộ luật TTHS chính là quy định cách thức thực hiện các biện pháp đó. Bộ luật TTHS quy định về thủ tục thực hiện các biện pháp tư pháp, thẩm quyền áp dụng các biện pháp tư pháp và các trường hợp chấm dứt việc chấp hành các biện pháp tư pháp theo đúng quy định của pháp luật hình sự. Cụ thể, bộ luật TTHS quy định các điều luật liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội tại chương XXVIII, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, bao gồm các điều luật cụ thể: Điều 424, Điều 426, Điều 427, Điều 428, Điều 429 và Điều 430. So với bộ luật TTHS năm 2003, tại chương XXXII, quy định các điều luật mới chỉ ở mức độ đơn giản, chưa cụ thể, rõ ràng như bộ luật TTHS năm 2015. Chỉ quy định chung chung các vấn đề như: việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ chức; chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt. Có thể thấy, quy định về thủ tục tố tụng cho đối tượng là người chưa thành niên phạm tội giai đoạn này còn nhiều thiếu xót, chưa phù hợp với chính sách hình sự của nhà nước ta. Trong khi đó, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, có hiệu lực ngày 23 tháng 3 năm 1976 đã khẳng định trong điều 14 rằng “Trình tự tố tụng áp dụng cho người chưa thành niên trong pháp luật hình sự phải tính đến tuổi của đương sự và lợi ích của biện pháp giáo dục cải tạo”. Bộ luật TTHS năm 2015 quy định rõ ràng, vừa làm cho các cơ quan tư pháp dễ dàng áp dụng, vừa tiến hành thủ tục một cách dễ dàng. Tạo điều kiện để các biện pháp tư pháp ngày càng được áp dụng nhiều hơn nếu có người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội. Theo điều 426, về thẩm quyền áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự quy định: “ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền quyết định áp
  • 44. 37 dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục sau đây đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự: 1. Khiển trách; 2. Hòa giải tại cộng đồng; 3. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn” Như vậy, theo điều luật này, các cơ quan tư pháp như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án, họ được giao thêm thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhưng biện pháp này phải nằm trong ba biện pháp nêu trong điều luật. Không như bộ luật TTHS năm 2003, không có bất cứ quy định nào trao cho cơ quan tư pháp thẩm quyền được áp dụng biện pháp tư pháp với đối tượng là người dưới 18 tuổi. Quy định này làm cho các Thẩm phán dễ dàng hơn khi áp dụng, họ không e ngại, đắn đo khi quyết định nên áp dụng biện pháp hay hình phạt đối với những trường hợp phạm tội của người dưới 18 tuổi. Tiếp đó, bộ luật TTHS quy định các điều luật liên quan đến trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp tư pháp, như khẳng định, khi áp dụng chế tài hình sự đối với người dưới 18 tuổi thì trên hết cần phải áp dụng các biện pháp tư pháp. Một phần để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội, một phần là để các biện pháp này luôn được các thẩm phán lựa chọn để thực thi trên thực tế. 2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị Trong những năm vừa qua, tình hình tội phạm do lứa tuổi người dưới 18 tuổi thực hiện đang có xu hướng gia tăng mà hành vi mang tính chất nghiêm trọng hơn. Không chỉ gia tăng về số lượng mà cả mức độ nguy hiểm của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện cũng có xu hướng nguy hiểm, liều lĩnh hơn, tội phạm có tính chất nguy hiểm, băng nhóm dùng hung khí mà mức độ ngày còn tinh vi.
  • 45. 38 Mà tỉnh Quảng Trị là một tỉnh về kinh tế đang còn trong giai đoạn phát triển, là mảnh đất đầy bom đạn, tàn dư của chiến tranh. Không chỉ về kinh tế mà các lĩnh vực khác cũng đang trong giai đoạn phát triển. Công tác tư pháp vẫn chậm hơn so với các tỉnh thành phát triển khác. Trong khi đó cơ cấu của tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngày càng nhiều. Tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện chủ yếu tập trung vào các nhóm tội xâm phạm về sở hữu, tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Về độ tuổi của người phạm tội ngày càng trẻ hóa, chủ yếu do người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là phần nhiều, còn độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chiếm ít hơn. Ở tỉnh Quảng Trị, trong 5 năm, từ năm 2014 đến năm 2018, đã có khoảng 415 người dưới 18 tuổi phạm tội. 28 28 26 29 30 28 30 28 30 27 24 20 26 27 23 0 0 1 4 6 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 TÌNH HÌNH ÁP DỤNG CHẾ TÀI ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018 Cải tạo không giam giữ Án Treo Hình phạt tù Biện pháp tư pháp Biểu đồ 2.1: Tình hình áp dụng một số chế tài pháp luật Hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Quảng Trị
  • 46. 39 (Báo cáo tổng kết 5 năm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị) Theo biểu đồ, có thể thấy được trong 5 năm vừa qua, tình hình áp dụng chế tài đối với người dưới 18 tuổi chủ yếu là : cải tạo không giam giữ, án treo, hình phạt tù và áp dụng biện pháp tư pháp. Trong đó áp dụng hình phạt tù và không được hưởng án treo có 141 người chiếm tỷ lệ 33,98%; áp dụng phạt tù cho hưởng án treo 143 người chiếm tỷ lệ 34,46%; áp dụng cải tạo không giam giữ 120 người chiếm tỷ lệ 28,92%; áp dụng biện pháp tư pháp 11 người 2,4%. Bảng 2.1: So sánh áp dụng hình phạt của tỉnh Quảng Trị và cả nước Áp dụng hình phạt Quảng Trị Cả nước Hình phạt tù 33,98% 64,7% Án treo 34,46% 16,24% Cải tạo không giam giữ 28,92% 5,18% Biện pháp tư pháp 2,4% 0,3% Như vậy, nhìn vào thống kê và tình hình áp dụng hình phạt của tỉnh Quảng Trị và của cả nước có thể thấy rằng đối với những người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu chỉ áp dụng hình phạt tù ( bao gồm cho hưởng án treo và không cho hưởng án treo) chiếm tỷ lệ 68,44%; nhẹ hơn thì áp dụng biện pháp cải tạo không giam giữ chiếm tỷ lệ chỉ 33,98% còn ngoài ra vẫn áp dụng biện pháp tư pháp nào đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là còn rất ít chỉ chiếm 2,4%. Trong khi đó, các biện pháp tư pháp dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định rất rõ ràng trong BLHS. Điều này chứng tỏ rằng, các cơ quan tư pháp vẫn còn e ngại trong việc áp dụng biện pháp tư pháp. Các Thẩm phán, những người có quyền lựa chọn và quyết định còn lúng túng, không thích áp dụng do trước đây BLHS không quy định một cách rõ ràng về tiêu chí đánh giá mức độ của hành vi phạm tội, một nguyên nhân nữa đó là do thủ
  • 47. 40 tục của các biện pháp này tương đối phức tạp, họ thường quyết định hình phạt tù và cho hưởng án treo nhiều hơn là miễn hình phạt hay là áp dụng các biện pháp tư pháp. Bởi vì áp dụng hình phạt tù sẽ giúp công tác thi hành án Hình sự sẽ thuận lợi hơn, quản lý giáo dục tại địa phương và thi hành án tại trại giam cũng trở nên dễ dàng. Mặt khác BLHS quy định biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng áp dụng đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, do Tòa án quyết định thời hạn từ một năm đến hai năm. Thực tế, một số trường hợp khi xét xử những người đó gần đến độ tuổi 18 mà Tòa án quyết định đưa vào trường giáo dưỡng thì sẽ xảy ra trường hợp khi chưa hết thời hạn thi hành biện pháp họ đã trở thành người thành niên, khiến cho cơ quan tư pháp không có cách xử lý khi chức năng của trường giáo dưỡng chỉ dừng lại ở việc giáo dục người dưới 18 tuổi. Nếu đưa họ ra khỏi trường giáo dưỡng, thì căn bản bản án không được thi hành hoàn chỉnh và nghiêm minh. 2.3. Những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị Theo thống kê công tác xét xử sơ thẩm các vụ án Hình sự tại tỉnh Quảng Trị đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, có thể thấy các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là những biện pháp tư pháp được áp dụng khi người phạm tội được miễn hình phạt nhưng hầu như vẫn không được Tòa án áp dụng để có thể phát huy hiệu quả của nó. Thực tế việc ít áp dụng các biện pháp tư pháp là do có những hạn chế chung về mặt luật pháp đối với các biện pháp này. Bộ luật hình sự 2015 ra đời và đã mắc những sai sót đáng kể đã được sữa chữa về mặt kỹ thuật lập pháp và có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, trên
  • 48. 41 thực tế vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý dẫn đến nhiều hạn chế và bất cập trong cả quy định và trong áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 2.3.1. Hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Thứ nhất, theo điều 95, 96 BLHS 2015 quy định thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn cũng như biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là từ một đến hai năm. Nếu hết thời hạn này mà người được giáo dục vẫn không có những tiến bộ đáng kể, hay thậm chí vẫn còn tiếp tục thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật khác thì giải quyết như thế nào? Như vậy, mục đích và hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp này không đạt được thì cần phải tiếp tục xử lý như thế nào? Thứ hai, BLHS 2015 chỉ quy định bốn biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, so với BLHS 1999 đã có thêm hai biện pháp. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác trên thế giới, số lượng biện pháp tư pháp này vẫn còn ít. Qua tham khảo pháp luật của một số Quốc gia, ngoài hệ thống biện pháp này, các quốc gia còn có hệ thống tư pháp phục hồi và các biện pháp chuyển hướng, để không viện đến các thủ tục tố tụng tư pháp, hay nói cách khác là đưa người chưa thành niên phạm tội ra khỏi hệ thống tư pháp với điều kiện nhất định [3,tr.26]. Đối với các quốc gia áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng thì đạt được nhiều kết quả trong giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội, ngăn ngừa tác động tiêu cực đối với người dưới 18 tuổi. Theo Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, đưa ra một số phương án xử lý chuyển hướng phù hợp như: lệnh chăm sóc, kèm cặp và giám sát; tư vấn; thử thách; chăm sóc đỡ đầu; các chương trình giáo dục và dạy nghề….( Điều 40 Công