SlideShare a Scribd company logo
1 of 82
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐOÀN THANH LÂM
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐOÀN THANH LÂM
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của Tiến sĩ Đinh Thị Mai. Các số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn là
hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Các
thông tin và tài liệu trích dẫn trong Luận văn được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Đoàn Thanh Lâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI........................................................................................... 6
1.1. Khái niệm................................................................................................... 6
1.2. Nguyên tắc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội........................................................................................................... 11
1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18tuổi
phạm tội........................................................................................................... 17
1.4. Quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................... 20
Chương 2:THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN ........................................ 28
2.1. Một số đặc điểm tình hình có liên quan................................................... 28
2.2. Kết quả áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.................... 30
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH
PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM
TỘI.................................................................................................................. 47
3.1. Các quan điểm về bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................ 47
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................ 55
KẾT LUẬN.................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLHS năm 2015: Được hiểu là BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
BLHS năm 1999: Được hiểu là BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009
HĐXX: Hội đồng xét xử
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1:Tình hình công tác thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2013 đến
năm 2018......................................................................................................... 31
Bảng 2.2:Loại tội mà người dưới 18 tuổi đã bị xét xử ởTòa án nhân dân
huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An từ năm 2013 đến năm 2018........................ 32
Bảng 2.3:Cơ cấu hình phạt mà Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh
Long An áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ năm 2013 đến năm
2018................................................................................................................. 33
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh
thần, họ còn hạn chế về kiến thức nói chung, đặc biệt là kiến thức pháp luật.
Trong nhận thức và hành động của mình, họ thường bị kích động, rủ rê, bị
người khác lợi dụng và dễ thực hiện hành vi phạm pháp luật, nguy hiểm hơn
là hành vi phạm tội. Do đó, người dưới 18 tuổi cần phải có sự quan tâm, giáo
dục đặc biệt của Nhà nước và toàn thể xã hội, để bảo vệ họ trước những tác
động tiêu cực của xã hội.
Khi xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra chính sách xử lý với mục đích “giáo dục” hơn là “trừng trị”, bảo đảm lợi
ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi, tạo điều kiện cho họ sửa chữa sai lầm, có
khả năng hòa nhập lại cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội. Chính
sách này cũng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử
lý người phạm tội, được ghi nhận tại cácNghị quyết số 48/NQ-TW ngày
24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết
số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. Ngoài ra, chính sách này cũng phù hợp với các văn bản pháp
lý quốc tế về tư pháp đối với người dưới 18 tuổi. Đặc biệt là Công ước quốc
tế về quyền trẻ em năm 1989 mà Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và
quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước này vào ngày 20/02/1990.
Tuy nhiên, thực tiễn xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn còn nhiều
hạn chế trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, đặc biệt là sự lựa chọn và
áp dụng hình phạt đối với họ. Mặc dù, BLHS đã quy định nguyên tắc xử lý
đối với họ là hạn chế áp dụng hình phạt tù, nhưng Tòa án lựa chọn loại hình
phạt tù áp dụng đối với người dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn so với các loại
2
hình phạt còn lại. Nguyên nhân chính xuất phát từ tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nên không áp dụng hình phạt tù có thời
hạn thì không đảm bảo trong việc giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Ngoài
ra, còn nguyên nhân khác là do nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và các quy định của BLHS còn hạn chế, làm cho hiệu
quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không cao.
Do đó, học viên lựa chọn đề tài “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, tỉnh Long
An”đểlàm luận văn thạc sỹ luật học của mình. Luận văn sẽ góp phần hoàn
thiện về mặt lý luận và thực tiễn trong việc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chế định hình phạt nói chung và hình phạt áp dụng đối với người dưới
18 tuổi phạm tội ở nước ta nói riêngđã có các công trình khoa học đề cập trực
tiếp hoặc gián tiếp như: Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Phạm Mạnh
Hùng: “Chế định TNHS theo luật hình sự Việt Nam”, năm 2000; Luận án tiến
sĩ luật học của tác giả Nguyễn Sơn: “Các hình phạt chính trong luật hình sự
Việt Nam”, năm 2013;PGS.TS. Trần Đình Nhã (2003), “Chương XXIV –
TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội”, trong sách Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, (GS.TS. Võ Khánh Vinh
chủ biên); TS. Hoàng Văn Hùng (2000), “Chương XVI – TNHS đối với người
chưa thành niên phạm tội”, trong sách Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên); Luận
án tiến sĩ luật học của tác giả Dương Tuyết Miên: “Quyết định hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam”, năm 2003; Luận văn thạc sỹ luật học của tác
giả Lê Thị Diễm Hằng: “Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành
niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An”,
3
năm 2016...Ngoài ra, còn có các công trình đăng trên các tạp chí chuyên
ngành khác như: GS.TSKH. Lê Cảm, TS. Đỗ Thị Phượng, Tư pháp hình sự
đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình
sự, tội phạm học và so sánh luật học, Tạp chí TAND số 20/2004; Ths. Đinh
Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp
chí TAND số 6/2007…
Các công trình nghiên cứu nêu trên, đã có nhiều đóng góp góp phần
hoàn thiện lý luận về chế định hình phạt, nhất là trong việc lựa chọn và quyết
định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, đa số các công
trình này chỉ nghiên cứu về lý luận, về thực tiễn thì chưa sâu, có những công
trình nghiên cứu về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng đã
được tiến hành cách đây khá lâu, nên giá trị lý luận và thực tiễn không cao.
Do đó, luận văn này tác giả mong muốn góp phần trong việc hoàn thiện lý
luận và các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt đối với với
người dưới 18 tuổi phạm tội, đặc biệt là các giải pháp hạn chế áp dụng hình
phạt tù có thời hạn đối với họ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng tại TAND huyện Cần
Giuộc, tỉnh Long An. Qua đó làm sáng tỏ những hạn chế, vướng mắc, đưa ra
các giải pháp nhằm hạn chế áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến áp dụng hình phạt tù
có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4
- Phân tích các quy định của BLHS hiện hành liên quan đến các quy
định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, về hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội tại TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
- Đưa ra những yêu cầu và giải pháp nhằm hạn chế áp dụng hình phạt
tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam
về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nghiên
cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội thông qua thực tiễn tại TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, trong phạm vi địa bàn huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An giai đoạn từ
năm 2013 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về chính sách hình sự, đường lối xử lý hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội, đặc biệt là các quan điểm về giáo dục, phòng ngừa tội phạm
đối với người dưới 18 tuổi.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu là: Phương pháp tổng
5
hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,
phương pháp khảo sát thực tiễn và tham khảo chuyên gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần hoàn thiện pháp luật
hình sự và lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người
nghiên cứu, học tập liên quan đến những quy định về xử lý đối với người dưới
18 tuổi phạm tội. Ngoài ra, các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng hình phạt tù
có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được nêu tại chương 3 của
luận văn, có ý nghĩa trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
liên quan đến việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội vàgóp phần nâng cao
hiệu quả công tác xét xử của Tòa án đối với người dưới 18 tuổi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 03 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt tù
có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội tại TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An
Chương 3: Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng hình phạt tù có thời
hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH
PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM
TỘI
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Ở trên thế giới, người chưa thành niên là thuật ngữ được dùng phổ biến
cho nhiều ngành khoa học khác nhau như: tâm lý, xã hội, giáo dục và pháp
luật. Trong khoa học luật hình sự, khái niệm này được dùng để chỉ đối tượng
tác động của tội phạm và chủ thể của tội phạm. So với các BLHS trước đây,
thì BLHS năm 2015 đã không còn sử dụng thuật ngữ người chưa thành niên
phạm tội, mà sử dụng thuật ngữ người dưới 18 tuổi phạm tội và có quy định
rõ hơn về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
BLHS năm 2015 quy định người dưới 18 tuổi phạm tội là những người
từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, một người từ đủ 14
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện một hành vi được coi là tội phạm, thì đòi
hỏi người này vừa phải thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội phạm được quy
định tại Điều 12 BLHS năm 2015, vừa phải thỏa mãn điều kiện về năng lực
TNHS, tức là không thuộc trường hợp không có năng lực TNHS được quy
định tại Điều 21 BLHS năm 2015.Năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định
theo luật định là các dấu hiệu bắt buộc để coi một người là chủ thể của tội
phạm [39,tr.180].Năng lực TNHS là khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của
hành vi do mình thực hiện và khả năng điều khiển hành vi của mình theo
những đòi hỏi và chuẩn mực của xã hội. Chỉ một người có khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi của mình, thì mới bị coi là có lỗi, có khả năng tiếp
thu được những biện pháp tác động mang tính giáo dục của xã hội và trở
thành chủ thể của tội phạm.
7
Ở các nước trên thế giới, có sự quy định khác nhau về độ tuổi chịu
TNHS. Luật hình sự các nước dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên
cứu, khảo sát tâm lý của người dưới 18 tuổi và chính sách hình sự của từng
nước để quy định độ tuổi chịu TNHS. Tại Điều 12 BLHS năm 2015 quy định
mức tuổi tối thiểu phải chịu TNHS là người từ đủ 14 tuổi, nhưng ở độ tuổi
này do sự phát triển về thể chất và tâm sinh lý là chưa đầy đủ. Cho nên, họ chỉ
chịu TNHS ở một số loại tội nhất định. Khi một người thực hiện hành vi được
coi là tội phạm, thì họ phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của TNHS
là hình phạt và biện pháp tư pháp.
Trong hệ thống hình phạt, hình phạt tù có thời hạn giữ một vị trí rất
quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, là hình phạt có
lịch sử lâu đời và áp dụng phổ biến trong thực tiễn. Tù có thời hạn về thực
chất là giam người bị kết án ở các trại giam, tức là cách ly người đó ra khỏi
môi trường xã hội bình thường trong một thời gian nhất định để cải tạo, giáo
dục họ [40,tr.359]. Việc áp dụng tù có thời hạn đối với người bị kết án, chính
là việc tước đi tự do của họ, buộc họ phải cách ly khỏi xã hội trong một thời
gian nhất định, để cải tạo, giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy
tắc của cuộc sống. Tù có thời hạn đối với người phạm tội có mức tối thiểu là
03 tháng, tối đa là 20 năm (trường hợp tổng hợp thì tối đa là 30 năm). Trong
thời gian chấp hành hình phạt tù có thời hạn, người bị kết án bên cạnh việc
tham gia lao động tại trại giam thì còn được học văn hóa, học nghề, tạo điều
kiện để họ có ý thức tuân thủ pháp luật. Hình phạt tù có thời hạn là loại hình
phạt phổ biến, có phạm vi áp dụng rộng nhất. Nó được quy định trong tất cả
các chế tài hình sự ở phần các tội phạm, có thể áp dụng cho mọi loại đối
tượng phạm tội và mọi loại tội phạm. Tù có thời hạn là hình phạt nhẹ hơn tù
chung thân và tử hình nhưng nặng hơn các loại hình phạt khác. Đối với người
dưới 18 tuổi, hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt nghiêm khắc nhất.
8
Xuất phát từ đặc điểm của người dưới 18 tuổi, nên các biện pháp xử lý
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ
thấy được tính chất của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật và bản chất
nhân đạo của các biện pháp áp dụng. Trong trường hợp bắt buộc phải áp dụng
hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì mức hình
phạt cũng phải thấp hơn người đã thành niên. Tại Điều 101 BLHS năm 2015
quy định:
“Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
được quy định như sau:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù
mà điều luật quy định;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù
mà điều luật quy định” [27].
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tù có thời hạn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: Hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội là loại hình phạt nghiêm khắc nhất,hình phạt này
buộc người bị kết án phải cách ly ra khỏi môi trường xã hội bình thường và
phải chịu sự giám sát, giáo dục tại trại giam trong một thời gian nhất định.
Mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi là 03
tháng tù và mức tối đa là 18 năm tù.
9
1.1.2. Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới
18 tuổi
Áp dụng hình phạt là một hoạt động của áp dụng pháp luật hình sự, do
Tòa án thực hiện nhằm xác định các tình tiết của vụ án, lựa chọn biện pháp
TNHS, loại và mức hình phạt cụ thể theo căn cứ và trong phạm vi luật định,
để áp dụng đối với người bị kết tội cụ thể theo thủ tục luật định. Đây là hoạt
động tư duy của HĐXX, sau khi đã xác định được tội danh đối với hành vi
phạm tội, là hoạt động áp dụng pháp luật đặc biệt chỉ do Tòa án tiến hành theo
một trình tự pháp lý được quy định rất chặt chẽ và chỉ duy nhất Tòa án có
quyền áp dụng. Hình phạt do Tòa án áp dụng xuất phát từ tính chất của quan
hệ pháp luật hình sự, đó là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội khi
người này thực hiện tội phạm. Do người phạm tội đã có hành vi nguy hiểm
cho xã hội, xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, làm ảnh hưởng
đến hoạt động bình thường của Nhà nước.
Tòa án là cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ xét xử được quy định
tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, được quyền áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội theo một trình tự tố tụng đặc biệt được quy định tại Bộ
luật tố tụng hình sự và bằng một bản án kết tội được công bố một cách công
khai khi tuyên án, kể cả những trường hợp theo quy định phải xét xử kín,
nhưng cũng phải tuyên án công khai. Tòa án bên cạnh nhiệm vụ xác định sự
thật khách quan của vụ án để đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội
thì phải lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể, dựa vào các căn cứ
được quy định trong BLHS để áp dụng cho người phạmtội. Đây là hoạt động
rất phức tạp và rất tư duy của HĐXX. Bởi vì, áp dụng hình phạt đúng pháp
luật, công bằng, hợp tình, hợp lý có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong việc
cải tạo và giáo dục người bị kết án. Qua đó, đạt được mục đíchcủa hình
phạtđó là phòng ngừa riêng là giáo dục cải tạo người bị kết án và phòng ngừa
chung là ngăn ngừa những hành vi vi phạm có thể xảy ra trong xã hội.
10
Do đó, áp dụng hình phạt là giai đoạn có ý nghĩa rất quan trọng của quá
trình áp dụng pháp luật hình sự do HĐXX tiến hành đối với người phạm tội
theo một trật tự pháp lý nhất định. Để áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội, Tòa án phải căn cứ vào kết quả của các giai đoạn tố tụng: điều tra, truy tố
và kết quả hoạt động của mình để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt
phù hợp.Người dưới 18 tuổi phạm tội là đối tượng đặc biệt, bản thân người
phạm tội chưa nhận thức một cách đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội mà mình gây ra. Việc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sữa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội [40,tr.470].Khi áp dụng hình
phạt đối với họ thì cũng nhằm đạt được mục đích nêu trên. Do đó, đòi hỏi
HĐXX phải là người nắm bắt được đặc điểm tâm - sinh lý của người dưới 18
tuổi phạm tội.
Đối với hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt nghiêm khắc nhất đối
với người dưới 18 tuổi, là loại hình phạt tước tự do của người bị kết án, buộc
họ phải cách ly khỏi môi trường xã hội bình thường trong một gian nhất định.
Hình phạt này chỉ được lựa chọn để áp dụng, trong trường hợp áp dụng các
hình phạt và biện pháp giáo dục khác sẽ không đạt được mục đích giáo dục
riêng đối với người phạm tội và phòng ngừa chung những hành vi vi phạm có
thể xảy ra trong xã hội.Xuất phát từ đặc điểm riêng của người phạm tội dưới
18 tuổi và tính chất của hình phạt tù, đòi hỏi HĐXX phải cân nhắc kỹ xem có
cần áp dụng hình phạt tù đối với họ hay không? Đây cũng là nguyên tắc khi
quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại
khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015. Do đó, HĐXX phải có quyết định chính
xác để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng đối với người dưới
18 tuổi phạm tội nhằm đạt được mục đích của hình phạt.
Trên cơ sở phân tích nêu trên, áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
11
người dưới 18 tuổi có thể khái niệm như sau: Áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với người dưới 18 tuổi, là một hình thức của áp dụng pháp luật, do
HĐXX tiến hành theo các quy định của quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và
quy phạm pháp luật hình sự, để áp dụng loại hình phạt tù và mức hình phạt
đối với người bị kết án dưới 18 tuổi ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
1.2. Nguyên tắcáp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
So sánh các quy định tại Chương XII BLHS năm 2015 về “Những quy
định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” và Chương X BLHS năm 1999 về
“Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội”, thấy rằng có sự
thay đổi rất đáng kể trong chính sách hình sự đối với việc xử lý người dưới 18
tuổi phạm tội. Đó là sự thay đổi theo hướng quy định rõ hơn về nguyên tắc xử
lý và các quy định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. So với Điều
69 BLHS năm 1999 thì nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi quy định
tại Điều 91 BLHS năm 2015 đã thể hiện rõ hơn, đầy đủ hơn quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, theo
hướng đảm bảo lợi ích tốt nhất cho họ trên tinh thần đảm bảo yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm lứa tuổi thanh thiếu niên, đáp ứng yêu cầu của
Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em và các văn kiện quốc tế về tư
pháp người chưa thành niên. Nội dung nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18
tuổi phạm tội quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015 bao gồm:
Nguyên tắc thứ nhất:Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo
đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân
có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ
tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
12
Đây là nguyên tắc đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng đối với những
nguyên tắc còn lại. Người dưới 18 tuổi phạm tội, bản thân họ không nhận
thức đầy đủ về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, do họ chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh lý. Vì vậy, việc xử lý
hình sự đối với họ phải đảm bảo lợi ích tốt nhất cho họ. Bởi vì, mục đích quan
trọng nhất khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là giáo dục, phòng ngừa,
giúp họ nhận ra và sửa chữa sai lầm của bản thân, trở thành công dân có ích
cho xã hội. So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định
“Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng
nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm” [8]. Sự bổ sung một cách cụ thể,
rõ ràng này hạn chế tình trạng các trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ
cần áp dụng biện pháp xử lý khác, nhưng lại bị truy cứu TNHS và bị áp dụng
hình phạt.
Quy định này đòi hỏi trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải xác định rõ độ tuổi của
người phạm tội. Bởi vì, độ tuổi là căn cứ quan trọng và là đầu tiên để xác định
một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có năng lực TNHS hay
không? “Người có sự phát triển bình thường về tâm – sinh lí sẽ có năng lực
TNHS khi đã đạt độ tuổi nhất định – tuổi chịu TNHS” [34,tr.91]. Tuy nhiên,
có những trường hợp họ đạt đến độ tuổi phải chịu TNHS, nhưng họ vẫn
không phải chịu TNHS do bị bệnh liên quan đến hoạt động tâm thần, làm cho
họ không có năng lực TNHS. Người không có năng lực TNHS do mắc bệnh
như vậy gọi là người trong tình trạng không có năng lực TNHS. Do đó, đòi
hỏi cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải làm rõ khả năng
nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Bên cạnh đó, phải xác định được nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
13
Từ đó, xác định được khả năng cải tạo giáo dục của họ, để quyết định áp dụng
biện pháp xử lý phù hợp đối với từng đối tượng.
Nguyên tắc thứ hai: Người dưới 18 tuổi vi phạm thuộc một trong các
trường hợp quy định tại điểm a, điểm b, điểm c khoản 2 Điều 91 BLHS năm
2015 và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả,
nếu không thuộc trường hợp đương nhiên được miễn TNHS theo Điều 29
BLHS 2015, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong
các biện pháp giám sát, giáo dục gồm: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng,
giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định riêng cho những đối tượng
này.
Miễn TNHS là trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội, nhưng
không phải chịu TNHS, nếu họ thỏa mãn các điều kiện được pháp luật hình sự
quy định. Nói cách khác miễn TNHS là miễn cho người phạm tội nghĩa vụ
phải chịu những hậu quả pháp lý mà lẽ ra họ phải chịu về hành vi phạm tội
mà họ đã thực hiện [40,tr.325].
Theo khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 thì điều kiện để có thể được
miễn TNHS bao gồm:
Thứ nhất: Người phạm tội là người chưa thành niên, tức là người từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Thứ hai: Tội phạm mà họ thực hiện phải là tội phạm ít nghiêm trọng
hoặc tội nghiêm trọng gây nguy hại không lớn.
Thứ ba: Có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Thứ tư: Người phạm tội được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận
giám sát giáo dục.
So với khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 thì khoản 2 Điều 91 BLHS
năm 2015 có quy định cụ thể, rõ ràng hơn và mở rộng hơn điều kiện được
miễn TNHS đối với từng loại tội phạm. Cụ thể: Đã mở rộng hơn việc miễn
14
TNHS đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm
trọng trừ các tội quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Điều 141 (tội hiếp
dâm); Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều
151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171
(tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249
(tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất
ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm
đoạt chất ma túy) và người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không
đáng kể trong vụ án cũng có thể được miễn TNHS. Việc quy định chi tiết cụ
thể này tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng áp dụng pháp luật chính xác.
Nguyên tắc thứ ba: Việc truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội
chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân
thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu
của việc phòng ngừa tội phạm.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng trước tiên phải xem xét thật đầy đủ và chính xác các điều kiện về
miễn TNHS, áp dụng biện pháp xử lý khác đối với người phạm tội. Không
phải mọi trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội đều bị truy cứu TNHS, mà
chỉ trong trường hợp cần thiết thì mới truy cứu TNHS. Khi truy cứu TNHS
đối với họ, thì phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa
tội phạm để quyết định có buộc họ chịu hình phạt hay áp dụng biện pháp tư
pháp là giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc miễn hình phạt đối với họ.
15
Nguyên tắc thứ tư: Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một
trong các biện pháp giám sát giáo dục gồm: Khiển trách, hòa giải tại cộng
đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
Trường hợp căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa
tội phạm mà bắt buộc phải truy cứu TNHS đối với người dưới 18 tuổi thì cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải cân nhắc việc có cho họ
được miễn hình phạt, có thể áp dụng biện pháp xử lý khác hay không? Chỉ khi
các biện pháp này không đảm bảo việc giáo dục được họ và mục đích phòng
ngừa thì mới áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
BLHS năm 2015 đã quy định chi tiết các điều kiện được miễn TNHS
theo từng nhóm tuổi. Ngoài ra, BLHS năm 2015 đã bổ sung và quy định rõ
các điều kiện áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục mới, bao gồm: Khiển
trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Nguyên tắc thứ năm:Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
Đây cũng là nguyên tắc thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta, đáp
ứng yêu cầu của Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em và các văn kiện
quốc tế về tư pháp người chưa thành niên, phù hợp với xu hướng chung của
thế giới. Bởi vì, người dưới 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ tâm – sinh lý,
không thể đối xử họ ngang bằng với người đã trưởng thành. Mục đích xử lý
đối với họ nhằm “giáo dục” là chính, tạo điều kiện cho họ sữa chữa sai lầm.
Đối với hình phạt tù chung thân và tử hình là những hình phạt rất nghiêm
khắc, chỉ áp dụng trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nên pháp
luật hình sự quy định không áp dụng tù chung thân và tử hình đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội là phù hợp.
16
Nguyên tắc thứ sáu: Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo
dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn,
Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án
áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn
thích hợp ngắn nhất. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi quyết định hình phạt, Tòa án mà cụ thể là
HĐXX phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm để xác định loại hình phạt áp dụng đối với họ. Hình phạt tù có thời hạn
là sự lựa chọn cuối cùng khi không thể áp dụng các hình phạt cảnh cáo, phạt
tiền, cải tạo không giam giữ và các biện pháp giáo dục khác. Trường hợp phải
áp dụng hình phạt tù có thời hạn, thì phải lựa chọn và cân nhắc mức hình phạt
phù hợp với thời gian ngắn nhất và trong mọi trường hợp phạm tội thì không
được áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội dưới 18 tuổi. Đây là
quy định thể hiện rõ chính sách xử lý nhân đạo và khoan hồng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
So với khoản 5 Điều 69 BLHS năm 1999 thì nguyên tắc này đã quy
định rõ hơn về các điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Khoản 5 Điều 69 của BLHS năm 1999 chỉ quy định
“Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế
áp dụng hình phạt tù”. Quy định như vậy là chưa rõ ràng và chưa đầy đủ về
các điều kiện áp dụng phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Do đó, vì các lý do khác nhau mà có những trường hợp người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ cần áp dụng hình phạt khác vẫn có tác dụng giáo dục, phòng
ngừa nhưng Tòa án vẫn áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì cũng không có
17
căn cứ để cho rằng vi phạm nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội. Ngoài ra, khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015 cũng có quy định rõ trường
hợp có áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
thì phải lựa chọn mức hình phạt“với thời hạn thích hợp ngắn nhất”. Như vậy,
các quy định tại khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015 là căn cứ để hạn chế việc
áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Nguyên tắc thứ bảy: Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm
tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Đây cũng là quy định thể hiện rõ chính sách xử lý nhân đạo và khoan
hồng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, chỉ áp dụng đối với
người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi.Nguyên tắc này đã khẳng định mặc
dù họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng với chính sách,
đường lối xử lý thì họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Cho nên, không
áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm để làm tình tiết tăng nặng
TNHS hoặc tình tiết định tội ở một số tội phạm nhất định. Nguyên tắc này thể
hiện tính nhân đạo của Nhà nước và tính khoan hồng cao hơn trong xử lý
người dưới 18 tuổi ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội so với
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. So với BLHS năm 1999 thì nội dung
của nguyên tắc này thể hiện trong BLHS năm 2015 vẫn không thay đổi.
1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18tuổi phạm tội
Xuất phát từ những đặc điểm của người dưới 18 tuổi, nên Điều 98
BLHS năm 2015 chỉ quy định các loại hình phạt áp dụng đối với người dưới
18 tuổi phạm tội bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có
thời hạn. Mỗi loại hình phạt đều có quy định rất chặt chẽ về điều kiện áp dụng
và đối tượng được áp dụng. Hình phạt tù có thời hạn là sự lựa chọn cuối cùng
khi không thể áp dụng các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
18
giữ và các biện pháp giáo dục khác. Đây là loại hình phạt bắt buộc người bị
kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định,
phải chấp hành các quy chế nghiêm ngặt, phải học tập, lao động theo quy định
của pháp luật và phải chịu sự giám sát chặt chẽ của cán bộ trại giam. Người
dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng hình phạt tù trong trường hợp thật cần
thiết, khi áp dụng các hình phạt khác hoặc áp dụng các biện pháp xử lý khác
không đạt được mục đích giáo dục cải tạo và phòng ngừa chung trong xã hội.
Do đó, hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi cũng có các đặc
điểm riêng.Mức phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được
quy định tại Điều 101 BLHS năm 2015 như sau:
“Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù
mà điều luật quy định” [27].
Ví dụ 1: Người từ đủ 16 tuổi cho đến dưới 18 tuổi phạm tội “Giết
người” (khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là tử
hình), trường hợp này họ sẽ bị phạt với mức hình phạt cao nhất là 18 năm tù.
Ví dụ 2: Người từ đủ 16 tuổi cho đến dưới 18 tuổi phạm tội “Cướp giật
tài sản” (khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là 10
năm tù), trường hợp này họ sẽ bị phạt với mức hình phạt cao nhất là 07 năm
06 tháng tù.
“Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù
mà điều luật quy định” [27].
19
Ví dụ 3: Người từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 16 tuổi phạm tội giết người
(khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là tử hình),
trường hợp này họ sẽ bị phạt với mức hình phạt cao nhất là 12 năm tù.
Ví dụ 4: Người từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 16 tuổi phạm tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản (khoản 1 Điều 169 BLHS năm 2015 có mức hình
phạt cao nhất là 7 năm tù), trường hợp này họ sẽ bị phạt với mức hình phạt
cao nhất là 03 năm 06 tháng tù.
Cơ sở để các nhà làm luật xây dựng mức hình phạt quy định tại Điều
101 BLHS năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi bao gồm:
Thứ nhất: Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể
lực, trí lực, nhân cách, cũng như kinh nghiệm sống. Do đó, nguyên tắc xử lý
đối với họ là không áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với họ.
Theo Điều 38 BLHS năm 2015 quy định, trường hợp một người từ đủ 18 tuổi
trở lên, khi xét xử nếu phạt tù thì mức cao nhất của phạt tù có thời hạn được
áp dụng đối với họ là 20 năm tù. Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi phạm tội, có mức phạt là chung thân và tử hình, nếu áp dụng mức hình
phạt cao nhất là 20 năm tù là không phù hợp, không đảm bảo sự công bằng
cho họ. Tương tự đối với người từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 16 tuổi, thì năng
lực TNHS của họ hạn chế hơn người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, nên
không thể áp dụng mức hình phạt cao nhất là 18 năm tù như người từ đủ 16
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Do đó, hình phạt tù cao nhất áp dụng đối với họ là
12 năm tù là phù hợp.
Thứ hai:Do những đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội, nên việc áp
dụng hình phạt với họ cũng khác với người đã thành niên. Nếu áp dụng tương tự
như người đã thành niên thì sẽ quá nghiêm khắc, không công bằng, không phát
huy được tác dụng của hình phạt. Ngoài ra, còn xuất phát từchính sách hình sự
và đường lối xử lý của Nhà nước ta khi xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm
20
tội, được thể hiện trong các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015. Tất cả các nguyên tắc quy định tại
Điều 91 BLHS năm 2015 đều tập trung vào việc “giúp đỡ” hơn là “trừng trị”.
Cho nên, mức phạt tù cho từng nhóm tuổi quy định tại Điều 101 BLHS năm
2015 là hoàn toàn phù hợp.
1.4. Quy định của BLHS về quyết định hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.4.1. Quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng là trường hợp đặc biệt của việc quyết định hình phạt khi người phạm tội
có đủ các điều kiện quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015. Tại Điều 54 BLHS
năm 2015 quy định:
“1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ
hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình
phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người
giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc
khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung
hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển
sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải
được ghi rõ trong bản án” [27].
Quy định này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình
21
sự của Đảng và Nhà nước, để thực hiện phương châm trong đường lối xử lý
tội phạm và người phạm tội của Nhà nước ta, đó là nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo. Thực tiễn đã đặt ra, khi
quyết định hình phạt đối với người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ
TNHS. Nếu không có quy định của Điều 54 BLHS, thì HĐXX chỉ có thể
quyết định mức hình phạt thấp nhất bằng với mức tối thiểu của của khung
hình phạt tương xứng trong chế tài lựa chọn. Như vậy, sẽ quá nghiêm khắc,
không công bằng, không phát huy được tác dụng của hình phạt.
Ngoài ra, xuất phát từ thực tiễn xét xử các vụ án có tính chất đồng
phạm, có những trường hợp người phạm tội nhưng với vai trò giúp sức không
đáng kể. Nếu không có quy định “không bắt buộc phải trong khung hình phạt
liền kề nhẹ hơn”, thì Tòa án quyết định hình phạt dưới khung thì vẫn còn rất
nặng. Bởi vì, mức phạt trong khung liền kề nhẹ hơn đối với tội đó cũng là quá
nặng, so với mức độ tham gia phạm tội của họ trong vụ án.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS đều phải quyết định một hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Khi quyết định hình phạt,
Tòa án phải căn cứ vào các quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 quy định
các căn cứ quyết định hình phạt, để quyết định có áp dụng Điều 54 để quyết
định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hay không? Việc
quy định bắt buộc phải có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51,
chứ không quy định cho áp dụng luôn tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2
Điều 51, là nhằm để tránh tùy tiện khi áp dụng Điều 54 BLHS. Bởi vì, tình
tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 54 là những tình tiết giảm nhẹ khác, tùy từng
trường hợp mà Tòa án áp dụng, nhưng phải ghi rõ trong bản án và Điều 54
được áp dụng đối với tất cả tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS mà
không có sự giới hạn.
22
Trường hợp nếu có áp dụng Điều 54 BLHS đối với người dưới 18 tuổi,
cũng phải đảm bảo các điều kiện quy định tại Điều 54 BLHS. Trước khi áp
dụng Điều 54 BLHS, thì Tòa án phải xác định mức hình phạt tương xứng với
tính chất và mức nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với người phạm
tội đã đủ 18 tuổi. Sau đó, áp dụng Điều 101 BLHS năm 2015 để tính mức
hình phạt cụ thể mà họ phải chịu và áp dụng Điều 54 để xử phạt dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
1.4.2. Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều
tội
Phạm nhiều tội là trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã phạm vào hai tội trở lên. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp
này, Tòa án phải quyết định mức hình phạt chung của tất cả các tội mà người
đó phải chấp hành, sau khi đã quyết định mức hình phạt của từng tội.
Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, khi quyết định hình phạt
phải tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội tại quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015 và các quy định
riêng về tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp
phạm nhiều tội được quy định tại Điều 103 BLHS năm 2015.
BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa quy định tổng hợp hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội. Cụ thể:
- Quy định rõ nguyên tắc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi: Khi xét xử cùng một lần người dưới 18
tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng
hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015.
- Quy định rõ mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với từng hình
phạt cụ thể: Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ, thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời
23
hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm
đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội.
- Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, có tội được thực hiện
trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng
hợp hình phạt áp dụng như sau:
+ Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi
người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội
được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức
hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định
nêu trên.
+ Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người
đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện
trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao
nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định nêu trên.
- Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18
tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp
dụng như sau:
+ Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người
đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội
được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được
vượt quá mức hình phạt cao nhất theo quy định nêu trên.
+ Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người
đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi
người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ
18 tuổi trở lên phạm tội.
24
1.4.3. Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt
Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm,
nhưng ở giai đoạn này người phạm tội chưa thực hiện hành vi thuộc mặt
khách quan của cấu thành tội phạm. Kết quả đạt được của hành vi phạm tội,
phụ thuộc phần lớn vào việc chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hành vi
phạm tội.
Điều 14 BLHS năm 2015 quy định:
“1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc
tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia
nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy
định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299
của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các Điều 108, 109,
110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168,
169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu
TNHS.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại
Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu TNHS” [27].
So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã có những thay đổi như
sau:
Khái niệm về chuẩn bị phạm tội đã bổ sung hành vi “Thành lập hoặc
tham gia nhóm tội phạm”, trừ quy định tại Điều 109 (tội hoạt động nhằm lật
đổ chính quyền nhân dân); điểm a khoản 2 Điều 113 “Thành lập, tham gia tổ
chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố” (tội khủng bố nhằm chống chính
quyền nhân dân); điểm a khoản 2 Điều 299 “Thành lập, tham gia tổ chức
khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố” (tội khủng bố).
25
Khoản 2 Điều 14 đã liệt kê ra các tội phạm cụ thể, mà hành vi chuẩn bị
phạm tội đủ để cấu thành tội phạm, người phạm tội chỉ bị truy cứu TNHS nếu
có hành vi chuẩn bị phạm một trong các tội này. Như vậy, khoản 2 của điều
luật đã đã có sửa đổi theo hướng thu hẹp phạm vi phải chịu TNHS của hành
vi chuẩn bị phạm tội.
Khoản 3 của điều luật này quy định: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi phải chịu TNHS nếu chuẩn bị phạm các tội “Giết người”, tội “Cướp tài
sản”. Như vậy, chỉ người nào chuẩn bị phạm các tội nêu trên thì mới phải chịu
TNHS.
Phạm tội chưa đạt cũng là giai đoạn của quá trình phạm tội, nhưng mức
độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn giai đoạn chuẩn bị phạm tội và thấp hơn
giai đoạn phạm tội đã hoàn thành.
Điều 15 BLHS năm 2015 quy định:
“Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện
được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu TNHS về tội phạm chưa đạt” [27].
Người phạm tội chưa đạt phải chịu TNHS về tất cả các loại tội phạm,
đây là điểm khác biệt so với chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, cũng giống như
chuẩn bị phạm tội thì chỉ có các tội được thực hiện với lỗi cố ý thì mới có
phạm tội chưa đạt. Căn cứ vào nội dung của điều luật thì phạm tội chưa đạt
chỉ xảy ra đối với trường hợp cố ý trực tiếp.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu TNHSvề chuẩn bị phạm tội và
tội phạm chưa đạt như người đã đủ 18 tuổi. Đối với người từ đủ 14 tuổi trở
lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHSvề hành vi chuẩn bị phạm tội
đối với tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”, còn đối với hành vi phạm tội
chưa đạt thì họ cũng chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
26
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266,
286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS.
BLHS năm 1999 không có quy định về quyết định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đối với người dưới 18
tuổi, dẫn đến sự khó khăn và không thống nhất trong quá trình áp dụng. Để
giải quyết hạn chế này BLHS 2015 đã sửa đổi Điều 17 về chuẩnbị phạm tội
và bổ sung thêm Điều 102 về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt. Tại Điều 102 BLHS năm 2015 quy định:
“1. Tòa án quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt theo nguyên tắc quy
định tại khoản 1 Điều 57 của Bộ luật này.
2. Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
chuẩn bị phạm tội không quá một phần ba mức hình phạt được quy định trong
khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp
dụng.
Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
chuẩn bị phạm tội không quá một phần hai mức hình phạt được quy định
trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được
áp dụng.
3. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt quy định tại
Điều 100 và Điều 101 của Bộ luật này.
Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần hai mức hình phạt quy định tại
các Điều 99, 100 và 101 của Bộ luật này” [27].
27
Tiểu kết chương 1
Người dưới 18 tuổi phạm tội là chủ thể của tội phạm, nhưng là chủ thể
đặc biệt được pháp luật hình sự điều chỉnh.Xuất phát từ đặc điểm của người
dưới 18 tuổi, nên chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với họ là
khác so với người đã thành niên phạm tội. Các biện pháp xử lý đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy được tính
chất của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật và bản chất nhân đạo của
các biện pháp áp dụng. Chính sách này phù hợp với pháp luật quốc tế và xu
hướng chung của thế giới.
Hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi làchế tài tước tự do
đối với người dưới 18 tuổi và được áp dụng trong những trường hợp thật cần
thiết. Không phải mọi trường hợp cách ly khỏi xã hội, mới đạt được mục đích
giáo dục, cải tạo. Đôi khi những bất cập trong công tác giáo dục, cải tạo người
bị kết án phạt tù cũng gây nhiều tác động tiêu cực đến khả năng phục hồivà
tái hòa nhập cộng đồng của người dưới 18 tuổi phạm tội.Do đó, khi quyết
định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng phải nắm rõ chính sách xử lý và các nguyên tắc trong
việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Chỉ áp dụng loại hình phạt tù có thời
hạn khi các hình phạt khác cũng như các biện pháp xử lý khác không có tác
dụng trong việc giáo dục người phạm tội và phòng ngừa vi phạm pháp luật
xảy ra trong xã hội.
28
Chương 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN
2.1. Một số đặc điểm tình hình có liên quan
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Cần Giuộc, tỉnh
Long An
Cần Giuộc nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Long An, nằm ở
vành đai vòng ngoài của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Cần Giuộc liền
kề với Thành phố Hồ Chí Minh, là cửa ngõ phía Tây Nam của Thành phố Hồ
Chí Minh đi các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long qua đường Quốc lộ 50.
Huyện Cần Giuộc nằm về phía Đông của tỉnh Long An, với diện tích là
211km2
, dân số là 186.286 người; phía Bắc – Đông Bắc giáp huyện Bình
Chánh và huyện Nhà Bè thuộc Thành phố Hồ Chí Minh; phía Đông giáp
huyện Cần Giờ, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh; phía Tây Bắc giáp huyện Bến
Lức và phía Nam và Tây Nam giáp huyện Cần Đước thuộc tỉnh Long An.
Trong những năm qua, huyện vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao so với bình quân chung của tỉnh, cơ cấu kinh tế của huyện có sự chuyển
dịch theo hướng công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp, thương mại dịch vụ.
Hiện nay, trên địa bàn huyện có 05 khu công nghiệp, 04 cụm công nghiệp và
01 cảng biển với diện tích sử dụng đất gần 2.656ha đã đi vào hoạt động.
Chính sách của huyện là thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, đô thị, cảng,
logistics và thu hút nhân lực chất lượng cao đến làm việc.
Chú trọng đẩy mạnh xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, đồng thời
biết khai thác lợi thế về vị trí địa lý (cách trung tâm Thành phố Hồ Chí
29
Minhchưa đến 20km) và đang có hàng loạt dự án đầu tư xây dựng, các khu
công nghiệp quy mô lớn chuẩn bị được triển khai. Đã làm cho Cần Giuộc trở
thành điểm sáng hấp dẫn các nhà đầu tư, góp phần quan trọng trong việc đẩy
nhanh được tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền
vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm phát huy tối đa hiệu
quả khai thác lợi thế, tiềm năng của địa phương.
Về nông nghiệp, huyện đã chú trọng đẩy mạnh quy hoạch, xây dựng,
phát triển có hiệu quả các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao như: Sản xuất rau bằng hữu cơ sinh học, mô hình trồng rau đạt chuẩn
Vietgap, nuôi tôm, cua nước lợ và từng bước hình thành chuỗi nông sản an
toàn, cung ứng cho thị trường.
Công tác an sinh xã hội cũng được huyện chú trọng, Cần Giuộc đã phối
hợp, huy động nhiều nguồn kinh phí để hoàn thiện tốt công tác “Điện - đường
- trường - trạm” để phục vụ nhân dân tốt nhất. Cho nên, nhân dân phấn khởi,
đặt niềm tin vào chính quyền địa phương.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh
Long An
TAND huyện Cần Giuộc có 18 biên chế, trong đó bao gồm: 01 Chánh
án, 02 phó Chánh án, 09 Thẩm phán, 07 Thư ký, 01 Kế toán và 01 Văn thư.
TAND huyện Cần Giuộc xét xử, giải quyết các loại vụ việc bao gồm:
Vụ án hình sự; những vụ việc dân sự; vụ án hành chính; quyết định áp dụng
biện pháp xử lý hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của
pháp luật. Trong số các loại vụ việc nêu trên, thì loại án dân sự chiếm tỷ lệ
cao nhất. Hàng năm, tỷ lệ thụ lý giải quyết các loại án ngày càng tăng, năm
sau cao hơn năm trước. Thống kê trong 06 năm, từ năm 2013 đến năm 2018
30
thì tỷ lệ thụ lý và giải quyết tổng số các loại án tăng. Cụ thể: Năm 2013 thụ lý
752 vụ; năm 2014 thụ lý 847 vụ; năm 2015 thụ lý 1.036 vụ; năm 2016 thụ lý
1.257 vụ; năm 2017 thụ lý 1.391 vụ; năm 2018 thụ lý 1.507 vụ.
Kết quả giải quyết các loại án hàng năm đều vượt so với tỷ lệ chung
của ngành Tòa án quy định, tỷ lệ các vụ án bị sửa án, bị hủy án đã giảm đáng
kể. Từ năm 2013 cho đến nay, TAND huyện Cần Giuộc nhiều năm liền đạt
danh hiệu là tập thể lao động xuất sắc. Đạt được kết quả như vậy xuất phát từ
sự nỗ lực trau dồi chuyên môn của tập thể đơn vị và sự tập huấn, bổ sung kiến
thức chuyên môn cho Thẩm phán, Thư ký của TAND tỉnh Long An và TAND
tối cao. Hằng năm, TAND tỉnh Long An đều có tổ chức tập huấn định kỳ
chuyên môn và các giải đáp các vướng mắc. Từ tháng 4 năm 2018, thì TAND
tối cao định kỳ hàng tháng đều có tổ chức tập huấn trực tuyến các chuyên đề
chuyên môn. Cho nên, trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, Hội thẩm và Thư
ký ngày càng được cũng cố và nâng cao.
2.2. Kết quả áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới
18 tuổi phạm tội của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An
2.2.1. Tình hình xét xử các tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn huyện Cần Giuộc
Theo số liệu báo cáo của TAND huyện Cần Giuộc, từ năm 2013 đến
năm 2018 trên địa bàn huyện Cần Giuộc, đã giải quyết 569 vụ, với tổng số bị
cáo 914 bị cáo. Trong đó, số vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện là 43 vụ,
chiếm 7,5% trong tổng số vụ án đã xét xử, số bị cáo là 59 bị cáo, chiếm 6,4%
tổng số bị cáo đã bị xét xử.
31
Bảng 2.1. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự
của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2013 đến
năm 2018
Năm
Thụ lý
Tội phạm có bị
cáo là người
dưới 18 tuổi
Độ tuổi của người dưới 18 tuổi
phạm tội
Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo
Từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16
tuổi
Từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi
2013 76 121 06 09 09
2014 82 131 07 09 09
2015 91 169 05 07 07
2016 96 139 08 12 12
2017 110 187 07 10 10
2018 114 167 10 12 12
Tổng số 569 914 43 59 59
(Nguồn: Thống kê của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An)
Qua bảng thống kê trên, cho thấy số lượng các vụ án hình sự thụ lý,
giải quyết trên địa bàn huyện Cần Giuộc nói chung và số lượng các vụ án do
người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng trong 06 năm từ năm 2013 đến năm
2018 có chiều hướng tăng. Độ tuổi người dưới 18 tuổi phạm tội ở huyện Cần
Giuộc là ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi cho đến dưới 18 tuổi, độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi là không có.
Trong số các vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội, các tội xâm phạm
sở hữu chiếm tỷ lệ nhiều hơn so với các tội phạm còn lại, được thể hiện qua
bảng thống kê sau:
32
Bảng 2.2. Loại tội mà người dưới 18 tuổi đã bị xét xử ở TAND
huyện Cần Giuộc từ năm 2013 đến năm 2018
Năm 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Tội cố ý gây thương tích 01 01 03 01
Tội cướp tài sản 01 01
Tội cướp giật tài sản 02 01 01 01 04
Tội trộm cắp tài sản 05 04 04 05 03 06
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
01
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 01 01
Tội mua bán trái phép chất ma
túy
01 01
Tội hiếp dâm 02
Tội cưỡng đoạt tài sản 01
Tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ
01
02
01
Tội tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có
01 01
01
Tổng số bị cáo dưới 18 tuổi 09 09 07 12 10 12
(Nguồn: Thống kê của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An)
2.2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội tại huyện Cần Giuộc
Theo số liệu tổng kết của TAND huyện Cần Giuộc trong khoảng thời
gian 06 năm, từ năm 2013 đến năm 2018 về người dưới 18 tuổi phạm tội, thì
số lượng người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng tăng và tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội cũng nguy hiểm hơn. Do đó, Tòa án bắt buộc
33
phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với họ. Bảng số liệu dưới đây thể
hiện cơ cấu hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở huyện Cần Giuộc
từ năm 2013 đến năm 2018
Bảng 2.3. Cơ cấu hình phạt mà TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long
An áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ năm 2013 đến năm
2018
Năm Cảnh cáo Phạt tiền
Cải tạo
không
giam giữ
Phạt tù cho
hưởng án
treo
Tù dưới
3 năm
Tù trên
3 năm
2013 04 05
2014 03 06
2015 03 03 01
2016 03 09
2017 03 06 01
2018 04 06 02
Tổng số 20 35 04
(Nguồn: Thống kê của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An)
Căn cứ vào số liệu trên cho thấy số người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp
dụng hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ lớn so với các hình phạt còn lại.
Mặc dù, nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội theo BLHS 1999 là
“Hạn chế áp dụng hình phạt tù” [26]và theo BLHS 2015 đã quy định: “Chỉ áp
dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình
phạt và biện pháp giáo dục khác không đủ răn đe, phòng ngừa” [28]. Nhưng
thực tế khi quyết định hình phạt, Tòa ánkhông còn lựa chọn nào khác, bắt
buộc phải áp dụng hình phạt tù đối với họ. Bởi vì, các hình phạt khác và biện
pháp xử lý khác không đủ răn đe, phòng ngừa.
Ví dụ 1: Trần Tuấn Vũ, sinh ngày 19 tháng 8 năm 2000, đến ngày
34
phạm tội bị cáo thì bị cáo đã 16 tuổi 13 ngày và Nguyễn Lư Công Trứ sinh
ngày 16 tháng 02 năm 2000, đến ngày phạm tội bị cáo thì bị cáo đã 16 tuổi 06
tháng 16 ngày. Vũ và Trứ là bạn học cùng lớp, Vũ rủ Trứ cùng thực hiện hành
vi cướp tài sản của các người bị hại, cụ thể như sau:
Vụ thứ 01: Khoảng 19 giờ ngày 01 tháng 9 năm 2016, Trứ điều khiển
xe môtô biển số 53R1-4847 chở Vũ đến Khu Công nghiệp Tân Kim mở rộng
thuộc ấp Kim Định, xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc để vào nhà người quen
của Vũ chơi nhưng không tìm được nhà. Khi Trứ chở Vũ quay ra về thì Vũ
phát hiện bà Phan Thị Bích Liên đang ngồi nói chuyện cùng với 01 người bạn
ven đường Thành Công 1 trong khu công nghiệp thì Vũ kêu Trứ dừng xe lại
cách nơi bà Liên ngồi khoảng 50m. Tại đây Vũ rủ Trứ cướp tài sản của bà
Liên thì Trứ đồng ý, Vũ đi đến gốc cây ven đường lấy cây gỗ tràm dài khoảng
40cm, đường kính khoảng 04cm rồi đứng chờ. Khi thấy bà Liên và nam thanh
niên ra về mỗi người chạy 01 xe mô tô thì Vũ kêu Trứ chạy xe vòng ra đầu
đường rồi quay lại chặn xe bà Liên lại. Vũ xuống xe cầm cây tràm chỉ vào
mặt bà Liên đe dọa yêu cầu bà Liên đưa tiền và điện thoại cho Vũ, Vũ lấy
800.000 đồng và 01 điện thoại di động Samsung Viettel màu đen, loại bàn
phím của bà Liên. Sau đó, Vũ nắm vai bà Liên đè ngồi xuống bồn bông của
dải phân cách đường. Lúc này, Vũ nảy sinh ý định quan hệ tình dục với bà
Liên nên đã yêu cầu bà Liên cởi quần ra, định giao cấu với bà Liên thì Trứ
kêu Vũ ngừng lại, cùng lúc này có ánh đèn xe từ khu công nghiệp chạy đến
nên bà Liên vùng vẫy truy hô thì Vũ lên xe Trứ tẩu thoát.
Vụ thứ 02: Sau khi thực hiện vụ thứ nhất khoảng 01 tháng, thì Vũ tiếp
tục rủ Trứ cướp tài sản thì Trứ đồng ý. Khoảng 18 giờ 30 phút đầu tháng
10/2016 (không rõ ngày), Trứ dùng xe môtô biển số 53R1-4847 chở Vũ vô
Khu Công nghiệp Tân Kim mở rộng thì phát hiện 01 người nữ mặc áo sơ mi
màu trắng ngồi nói chuyện cùng 01 nam thanh niên. Trứ điều khiển xe tấp sát
35
vào đôi nam nữ, Vũ xuống xe lấy con dao dài khoảng 30cm, lưỡi bằng kim
loại màu trắng, cán bằng nhựa màu đen có lỗ tròn lấy ở nhà mang theo từ
trước, Vũ nắm cổ áo người phụ nữ đe dọa đâm và yêu cầu đưa tài sản, người
nữ hoảng sợ yêu cầu người nam đưa tài sản theo yêu cầu của Vũ, thì người
nam đưa cho Vũ 01 điện thoại di động hiệu Lenovo, màu trắng, màn hình cảm
ứng (không rõ đời máy) và số tiền 250.000 đồng. Phần tài sản chiếm đoạt
được Vũ chia cho Trứ 150.000 đồng, Vũ được 01 điện thoại và 100.000 đồng.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra có thông báo tìm kiếm người bị hại nhưng
không có người trình báo.
Vụ thứ 3: Khoảng 19 giờ ngày 15/01/2017, Trứ mang theo con dao mũi
bằng, bằng kim loại màu trắng, dài 49,5cm, lưỡi rộng 4,5cm, điều khiển xe
mô tô biển số 53R1-4847 đến nhà Vũ, đưa dao cho Vũ cất giữ, rồi chở Vũ đến
Khu Công nghiệp Tân Kim tìm chặn đường người dân cướp tài sản. Khi phát
hiện chị Võ Thị Phương Thảo đi xe mô tô một mình theo hướng từ vòng xoay
vào khu công nghiệp, Trứ đuổi theo chặn đầu xe, Vũ nhảy xuống xe lấy dao
do Trứ đưa trước đó kề cổ chị Thảo yêu cầu đưa tài sản thì chị Thảo đưa cho
Vũ 01 điện thoại Iphone 6 màu đen và 01 điện thoại Sony Xperia màu trắng
cùng 300.000 đồng. Trứ lục giỏ xách của chị Thảo lấy 02 cục sạc dự phòng
hiệu Eloop màu xanh và Ramoss màu trắng. Sau khi lấy được tài sản, Vũ nảy
sinh ý định hiếp dâm chị Thảo nên ôm kéo chị Thảo vào lề đường, rồi thực
hiện hành vi giao cấu với chị Thảo.
Ngoài ra, Vũ còn một mình thực hiện các hành vi cướp tài sản của
người bị hại, bao gồm:
Vụ thứ 01: Do cần tiền tiêu xài và nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản
của người khác, khoảng 19 giờ 50 phút ngày 24/01/2017, Vũ lấy xe mô tô
Future Neo, biển số 54N6-8565 của mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Phượng, một
mình đến khu Công nghiệp Tân Kim mở rộng tìm người dân đi đường chặn
36
đường đe dọa chiếm đoạt tài sản. Khi phát hiện chị Huỳnh Thị Minh Thuận
chạy xe một mình, Vũ đuổi theo chặn đầu xe dùng chìa khóa uy hiếp đe dọa
đâm, buộc chị Thuận đưa tài sản, do hoảng sợ nên chị Thuận đưa cho Vũ 01
điện thoại Oppo R7, màu đồng màn hình cảm ứng, 01 điện thoại Nokia C1,
màu đen và số tiền 120.000 đồng. Sau khi lấy được tài sản, Vũ mang về nhà
cất giấu điện thoại, riêng tiền tiêu xài cá nhân hết.
Vụ thứ 02: Sau khi lấy được điện thoại của chị Thuận, Vũ lấy sim điện
thoại của chị Thuận đăng nhập vào Facebook của chị Thuận phát hiện tài
khoản của chị Thuận có liên hệ với nickname “Diem Thuy” là tài khoản
Facebook của bà Nguyễn Thị Diễm Thúy mẹ ruột của chị Thuận (nhưng Vũ
không biết). Lúc này Vũ nảy sinh ý định chiếm tài sản của bà Thúy. Đến
khoảng 18 giờ ngày 01/02/2017, Vũ sử dụng tài khoản Facebook của chị
Thuận nhắn tin cho bà Thúy tự xưng là Thuận và nhờ bà Thúy đến Khu Công
nghiệp Tân Kim mở rộng để rước Thuận về, mục đích lừa bà Thúy đến để
cướp tài sản. Do biết chị Thuận bị mất điện thoại, nghi ngờ đối tượng có liên
quan, nên bà Thúy nhắn tin lại đồng ý đi rước đồng thời báo Công an xã Tân
Kim. Vũ điều khiển xe mô tô 54N6-8565 của bà Nguyễn Thị Phượng là mẹ
ruột của bị cáo đến Khu Công nghiệp Tân Kim mở rộng, Vũ thấy xe người
phụ nữ chạy nên bám theo sau thì bị Công an mời làm việc, tại cơ quan Công
an Vũ thừa nhận hành vi của mình và khai ra nơi cất giấu tài sản.
Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2017/HS-ST, ngày 18/7/2017 của TAND
huyện Cần Giuộc đã quyết định:
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm b, p
khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46; các Điều 17; 20; 33; 45; 52; 53; 68; 69; 71
và Điều 74 BLHS. Xử phạt bị cáo Trần Tuấn Vũ 05 (năm) năm tù về tội
“Cướp tài sản”.
37
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 111; điểm p khoản 1 Điều 46; khoản 2
Điều 46; các Điều 18; 33; 45; 52; 68; 69; 71 và Điều 74 BLHS. Xử phạt bị
cáo Trần Tuấn Vũ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Hiếp dâm”.
Áp dụng Điều 50 và Điều 75 BLHS, tổng hợp hình phạt của hai tội,
buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 08 (tám) năm 06 (sáu)
tháng tù.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm b, p
khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46; các Điều 20; 33; 45; 53; 68; 69; 71 và
Điều 74 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Lư Công Trứ 03 (ba) năm 06 (sáu)
tháng tù về tội “Cướp tài sản”.
Trong vụ án này tác giả nhận thấy, các bị cáo đều thiếu sự quan tâm
của gia đình, xuất phát từ mục đích muốn có tiền tiêu xài, các bị cáo đã nhiều
lần có hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản của các người bị hại. Đối với
bị cáo Vũ còn có 02 lần thực hiện hành vi hiếp dâm người bị hại. Các bị cáo
khi phạm tội vẫn còn là học sinh, nhưng hành vi của các bị cáo là rất nghiêm
trọng, nên loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là hoàn
toàn tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.
Ví dụ 2: Trần Minh Đượm sinh ngày 24 tháng 01 năm 1999, đến ngày
phạm tội bị cáo 17 tuổi 01 ngày. Bị cáo là người làm thuê tại quán cơm thuộc
ấp 3, xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An do ông Đỗ Văn Hai làm
chủ. Khoảng 11 giờ ngày 25/01/2016, Đượm phát hiện trong ngăn kéo bàn để
ti vi ở giữa quán đã kéo ra sẵn có một cái điện thoại di động hiệu Samsung
Galaxy J5, màu vàng đồng, trị giá 2.500.000 đồng của chị Nguyễn Thị Hồng
Lan cũng là người làm thuê tại quán cơm, nên Đượm nảy sinh ý định lấy trộm
điện thoại để sử dụng. Đượm quan sát xung quanh không có ai nên đã lén lút
lấy trộm điện thoại trên cất giấu chờ đến chiều làm xong sẽ mang về nhà.
Khoảng 11 giờ 40 phút cùng ngày, chị Lan phát hiện điện thoại bị mất, chị
38
Lan dùng điện thoại di động khác gọi vào số của điện thoại bị mất thì còn tín
hiệu chuông nhưng không ai nghe máy. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày chị
Lan trình báo sự việc mất trộm điện thoại, Công an xã Long Hậu mời Đượm
về làm việc, tại cơ quan công an Đượm đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội
của mình và đã giao nộp điện thoại di động Samsung Galaxy J5 cho cơ quan
công an.
Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2016/HS-ST ngày 26/4/2016 của TAND
huyện Cần Giuộc đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; Điều 45; các điểm b, h, p khoản 1
Điều 46; Điều 60; các Điều 68; 69; 71 và 74 BLHS và khoản 1 Điều 69 Luật
thi hành án hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Minh Đượm 03 tháng tùnhưng cho hưởng án treo,
thời gian thử thách là 01 năm. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ
thẩm về tội “Trộm cắp tài sản”.
Tác giả thấy rằng, tại thời điểm phạm tội và xét xử thì bị cáo chưa đủ
18 tuổi, xét về nhân thân thì bị cáo có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, tài sản
đã trả lại cho người bị hại, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS. Bị cáo có
đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, nhưng Tòa án vẫn
chọn loại hình phạt tù có thời hạn nhưng cho bị cáo hưởng án treo là nặng so
với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của bị cáo gây ra.
Đối với các trường hợp áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo,
qua nghiên cứu các bản án xét xử của TAND huyện Cần Giuộc, tác giả thấy
rằng các bản án cho hưởng án treo là có căn cứ. HĐXX khi quyết định hình
phạt có xem xét đến các yếu tố như: Nguyên nhân dẫn đến phạm tội, nhân
thân, hoàn cảnh của người phạm tội.... Tòa án đã tạo điều kiện cho họ được
tiếp tục học tập, làm việc trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám
sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi họ học tập, cư trú, tránh những tác động
tiêu cực trong môi trường trại giam.
39
Ví dụ 3: Võ Thanh Tú, sinh ngày 15/5/1998, tính đến ngày phạm tội thì
bị cáo 17 năm 08 tháng 19 ngày. Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 07/02/2016, Tú
không có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe mô tô biển số 62M1-
321.89 có dung tích xi lanh 114cm3
, lưu thông trên đường tỉnh lộ 826C hướng
từ xã Đông Thạnh đi xã Phước Vĩnh Tây, huyện Cần Giuộc. Khi đến đoạn
đường thuộc ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, do
thiếu chú ý quan sát nên Tú không phát hiện phía trước cùng chiều có bà
Phạm Thị Kim Đính đang đi bộ từ lề trái sang lề phải đường. Khi Tú phát
hiện bà Đính thì khoảng cách quá gần, nên Tú điều khiển xe lách sang phải để
tránh nhưng để tay cầm bên trái xe va chạm vào tay và người bà Đính, làm bà
Đính té ngã xuống đường và bị tử vong.
Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2016/HS-ST, ngày 04/6/2016 của TAND
huyện Cần Giuộc đã quyết định: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p
khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; Điều 33 và 45; các Điều 68; 69; 71; 74 và
Điều 60 BLHS. Xử phạt bị cáo Võ Thanh Tú 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù,
nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, thời gian thử
thách tính kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 04/8/2016.
Qua vụ án nêu trên thấy rằng, mặc dù hành vi của bị cáo Tú là rất
nghiêm trọng. Nhưng Tòa án đã căn cứ nhân thân, hoàn cảnh của người phạm
tội và tất cả các tình tiết khác để quyết định cho bị cáo được hưởng án treo, để
tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục học tập, tự nhận ra sai phạm và sửa chữa lỗi
lầm là phù hợp.
2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân
2.2.3.1. Hạn chế
Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tại TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, thấy
rằng nhận thức của HĐXX về đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi về
40
cơ bản là phù hợp với chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các bản án xét xử
người dưới 18 tuổi phạm tội của TAND huyện Cần Giuộc, cho thấy trong một
số trường hợp, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
phạm tội thì Tòa án đã nhận thức chưa đầy đủ về mục đích của hình phạt và
nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tòa án xem mục đích
“trừng trị” là quan trọng hơn “giáo dục”. Điều 31 BLHS năm 2015 quy định
rõ mục đích của hình phạt như sau: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị
người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục
người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm” [27].Theo đó, mục đích của hình phạt không chỉ “trừng
trị” mà còn “giáo dục”.Người dưới 18 tuổilà đối tượng đặc biệt, dễ bị người
khác xúi giục, lôi kéo vào con đường phạm tội. Mục đích xử lý hình sự đối
với người dưới 18 tuổi được quy địnhtại Điều 91 BLHS năm 2015, đó là:
“Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của
người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” [27].
Việc nhận thức chưa đầy đủ về mục đích của hình phạt và nguyên tắc xử lý
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, dẫn đến có những trường hợp có thể áp
dụng hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng có tác dụng cải
tạo, giáo dục, nhưng HĐXX vẫn lựa chọn hình phạt tù có thời hạn. Qua
nghiên cứu các bản án từ năm 2013 đến 2018 thì tất cả đều áp dụng hình phạt
tù, không có trường hợp nào Tòa án áp dụng hình phạt khác, áp dụng biện
pháp tư pháp hoặc miễn TNHS để áp dụng biện pháp xử lý khác đối với
người phạm tội.
41
2.2.3.2. Nguyên nhân
Thứ nhất: Đặc điểm của người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển
đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, thiếu kinh nghiệm sống, chưa có khả năng
đánh giá đúng đắn sự việc, nhất là đối với những hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Cho nên, họ chưa nhận thức được đầy đủ tính chất, không lường hết được
hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Do đó, khi xét xử đối với người dưới 18
tuổi phạm tội đòi hỏi HĐXX phải nắm rõ các đặc điểm này, để có sự đánh giá
một cách chính xác và toàn diện đối với họ. Qua đó, xác định đúng tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và khả năng cải tạo
giáo dục đối với họ, để quyết định có áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
họ hay lựa chọn biện pháp xử lý khác. Thực tiễn tại huyện Cần Giuộc cho
thấy, HĐXX khi tiến hành tố tụng đối với các vụ án do người dưới 18 tuổi
phạm tội về cơ bản là chưa đáp ứng được các yêu cầu nêu trên.
Người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội, thì Nhà nước cần phải
thiết kế cho họ một cơ chế toàn diện từ khâu điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án và sau khi thi hành án xong trở về hòa nhập với cộng đồng. Yêu cầu đặt ra
đối với các Thẩm phán và Hội thẩm được chọn khi xét xử đối với người dưới
18 tuổi, không chỉ là người có kiến thức sâu về pháp luật chuyên ngành, được
bồi dưỡng, đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ xét xử mà còn là những người có kinh
nghiệm trong công tác xét xử và sự điềm tĩnh, biết lắng nghe, biết chia sẽ với
người dưới 18 tuổi về các vấn đề của họ. Tại TAND huyện Cần Giuộc, các
Thẩm phán, Hội thẩm chưa được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học,
khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Khi xét xử các vụ án này,
Thẩm phán, Hội thẩm, sử dụng kỹ năng, kinh nghiệm sống để làm nền tảng
cho việc giải quyết vụ án hình sự mà người phạm tội dưới 18 tuổi. Ngoài ra,
họ cũng chưa được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ
án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi. Do đó, phần nào
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

More Related Content

What's hot

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

What's hot (20)

Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Xét xử vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiPhân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiệnLuận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựLuận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luậtHình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
 

Similar to Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (20)

Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội dưới 18 tuổiLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổiLuận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
 
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiNguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đNgăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
 
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm  Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểmThủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm  Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCMLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luậtLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò VấpLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổiLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
 
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tộiHình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình Định
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình Định
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình Định
 
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiBào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAYLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
 
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật huyện Xuân Lộc, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật huyện Xuân Lộc, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật huyện Xuân Lộc, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật huyện Xuân Lộc, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 

Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN THANH LÂM ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN THANH LÂM ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH THỊ MAI HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Đinh Thị Mai. Các số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Các thông tin và tài liệu trích dẫn trong Luận văn được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Đoàn Thanh Lâm
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI........................................................................................... 6 1.1. Khái niệm................................................................................................... 6 1.2. Nguyên tắc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội........................................................................................................... 11 1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18tuổi phạm tội........................................................................................................... 17 1.4. Quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................... 20 Chương 2:THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN ........................................ 28 2.1. Một số đặc điểm tình hình có liên quan................................................... 28 2.2. Kết quả áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.................... 30 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI.................................................................................................................. 47 3.1. Các quan điểm về bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................ 47 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................ 55 KẾT LUẬN.................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLHS năm 2015: Được hiểu là BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 BLHS năm 1999: Được hiểu là BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 HĐXX: Hội đồng xét xử TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1:Tình hình công tác thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2018......................................................................................................... 31 Bảng 2.2:Loại tội mà người dưới 18 tuổi đã bị xét xử ởTòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An từ năm 2013 đến năm 2018........................ 32 Bảng 2.3:Cơ cấu hình phạt mà Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ năm 2013 đến năm 2018................................................................................................................. 33
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, họ còn hạn chế về kiến thức nói chung, đặc biệt là kiến thức pháp luật. Trong nhận thức và hành động của mình, họ thường bị kích động, rủ rê, bị người khác lợi dụng và dễ thực hiện hành vi phạm pháp luật, nguy hiểm hơn là hành vi phạm tội. Do đó, người dưới 18 tuổi cần phải có sự quan tâm, giáo dục đặc biệt của Nhà nước và toàn thể xã hội, để bảo vệ họ trước những tác động tiêu cực của xã hội. Khi xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chính sách xử lý với mục đích “giáo dục” hơn là “trừng trị”, bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi, tạo điều kiện cho họ sửa chữa sai lầm, có khả năng hòa nhập lại cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội. Chính sách này cũng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, được ghi nhận tại cácNghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngoài ra, chính sách này cũng phù hợp với các văn bản pháp lý quốc tế về tư pháp đối với người dưới 18 tuổi. Đặc biệt là Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 mà Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước này vào ngày 20/02/1990. Tuy nhiên, thực tiễn xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn còn nhiều hạn chế trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, đặc biệt là sự lựa chọn và áp dụng hình phạt đối với họ. Mặc dù, BLHS đã quy định nguyên tắc xử lý đối với họ là hạn chế áp dụng hình phạt tù, nhưng Tòa án lựa chọn loại hình phạt tù áp dụng đối với người dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn so với các loại
  • 8. 2 hình phạt còn lại. Nguyên nhân chính xuất phát từ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nên không áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì không đảm bảo trong việc giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Ngoài ra, còn nguyên nhân khác là do nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các quy định của BLHS còn hạn chế, làm cho hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không cao. Do đó, học viên lựa chọn đề tài “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An”đểlàm luận văn thạc sỹ luật học của mình. Luận văn sẽ góp phần hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn trong việc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chế định hình phạt nói chung và hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở nước ta nói riêngđã có các công trình khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp như: Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Phạm Mạnh Hùng: “Chế định TNHS theo luật hình sự Việt Nam”, năm 2000; Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Sơn: “Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam”, năm 2013;PGS.TS. Trần Đình Nhã (2003), “Chương XXIV – TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội”, trong sách Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, (GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên); TS. Hoàng Văn Hùng (2000), “Chương XVI – TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội”, trong sách Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên); Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Dương Tuyết Miên: “Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”, năm 2003; Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Thị Diễm Hằng: “Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An”,
  • 9. 3 năm 2016...Ngoài ra, còn có các công trình đăng trên các tạp chí chuyên ngành khác như: GS.TSKH. Lê Cảm, TS. Đỗ Thị Phượng, Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học, Tạp chí TAND số 20/2004; Ths. Đinh Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí TAND số 6/2007… Các công trình nghiên cứu nêu trên, đã có nhiều đóng góp góp phần hoàn thiện lý luận về chế định hình phạt, nhất là trong việc lựa chọn và quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, đa số các công trình này chỉ nghiên cứu về lý luận, về thực tiễn thì chưa sâu, có những công trình nghiên cứu về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng đã được tiến hành cách đây khá lâu, nên giá trị lý luận và thực tiễn không cao. Do đó, luận văn này tác giả mong muốn góp phần trong việc hoàn thiện lý luận và các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt đối với với người dưới 18 tuổi phạm tội, đặc biệt là các giải pháp hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với họ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng tại TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Qua đó làm sáng tỏ những hạn chế, vướng mắc, đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
  • 10. 4 - Phân tích các quy định của BLHS hiện hành liên quan đến các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. - Đưa ra những yêu cầu và giải pháp nhằm hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua thực tiễn tại TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trong phạm vi địa bàn huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1.Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách hình sự, đường lối xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đặc biệt là các quan điểm về giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với người dưới 18 tuổi. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu là: Phương pháp tổng
  • 11. 5 hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp khảo sát thực tiễn và tham khảo chuyên gia… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học tập liên quan đến những quy định về xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Ngoài ra, các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được nêu tại chương 3 của luận văn, có ý nghĩa trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự liên quan đến việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội vàgóp phần nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án đối với người dưới 18 tuổi. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An Chương 3: Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
  • 12. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm 1.1.1. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Ở trên thế giới, người chưa thành niên là thuật ngữ được dùng phổ biến cho nhiều ngành khoa học khác nhau như: tâm lý, xã hội, giáo dục và pháp luật. Trong khoa học luật hình sự, khái niệm này được dùng để chỉ đối tượng tác động của tội phạm và chủ thể của tội phạm. So với các BLHS trước đây, thì BLHS năm 2015 đã không còn sử dụng thuật ngữ người chưa thành niên phạm tội, mà sử dụng thuật ngữ người dưới 18 tuổi phạm tội và có quy định rõ hơn về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 2015 quy định người dưới 18 tuổi phạm tội là những người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, một người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện một hành vi được coi là tội phạm, thì đòi hỏi người này vừa phải thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội phạm được quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, vừa phải thỏa mãn điều kiện về năng lực TNHS, tức là không thuộc trường hợp không có năng lực TNHS được quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015.Năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định theo luật định là các dấu hiệu bắt buộc để coi một người là chủ thể của tội phạm [39,tr.180].Năng lực TNHS là khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện và khả năng điều khiển hành vi của mình theo những đòi hỏi và chuẩn mực của xã hội. Chỉ một người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, thì mới bị coi là có lỗi, có khả năng tiếp thu được những biện pháp tác động mang tính giáo dục của xã hội và trở thành chủ thể của tội phạm.
  • 13. 7 Ở các nước trên thế giới, có sự quy định khác nhau về độ tuổi chịu TNHS. Luật hình sự các nước dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên cứu, khảo sát tâm lý của người dưới 18 tuổi và chính sách hình sự của từng nước để quy định độ tuổi chịu TNHS. Tại Điều 12 BLHS năm 2015 quy định mức tuổi tối thiểu phải chịu TNHS là người từ đủ 14 tuổi, nhưng ở độ tuổi này do sự phát triển về thể chất và tâm sinh lý là chưa đầy đủ. Cho nên, họ chỉ chịu TNHS ở một số loại tội nhất định. Khi một người thực hiện hành vi được coi là tội phạm, thì họ phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của TNHS là hình phạt và biện pháp tư pháp. Trong hệ thống hình phạt, hình phạt tù có thời hạn giữ một vị trí rất quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, là hình phạt có lịch sử lâu đời và áp dụng phổ biến trong thực tiễn. Tù có thời hạn về thực chất là giam người bị kết án ở các trại giam, tức là cách ly người đó ra khỏi môi trường xã hội bình thường trong một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục họ [40,tr.359]. Việc áp dụng tù có thời hạn đối với người bị kết án, chính là việc tước đi tự do của họ, buộc họ phải cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định, để cải tạo, giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống. Tù có thời hạn đối với người phạm tội có mức tối thiểu là 03 tháng, tối đa là 20 năm (trường hợp tổng hợp thì tối đa là 30 năm). Trong thời gian chấp hành hình phạt tù có thời hạn, người bị kết án bên cạnh việc tham gia lao động tại trại giam thì còn được học văn hóa, học nghề, tạo điều kiện để họ có ý thức tuân thủ pháp luật. Hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt phổ biến, có phạm vi áp dụng rộng nhất. Nó được quy định trong tất cả các chế tài hình sự ở phần các tội phạm, có thể áp dụng cho mọi loại đối tượng phạm tội và mọi loại tội phạm. Tù có thời hạn là hình phạt nhẹ hơn tù chung thân và tử hình nhưng nặng hơn các loại hình phạt khác. Đối với người dưới 18 tuổi, hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt nghiêm khắc nhất.
  • 14. 8 Xuất phát từ đặc điểm của người dưới 18 tuổi, nên các biện pháp xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy được tính chất của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật và bản chất nhân đạo của các biện pháp áp dụng. Trong trường hợp bắt buộc phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì mức hình phạt cũng phải thấp hơn người đã thành niên. Tại Điều 101 BLHS năm 2015 quy định: “Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau: 1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định; 2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định” [27]. Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: Hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là loại hình phạt nghiêm khắc nhất,hình phạt này buộc người bị kết án phải cách ly ra khỏi môi trường xã hội bình thường và phải chịu sự giám sát, giáo dục tại trại giam trong một thời gian nhất định. Mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi là 03 tháng tù và mức tối đa là 18 năm tù.
  • 15. 9 1.1.2. Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi Áp dụng hình phạt là một hoạt động của áp dụng pháp luật hình sự, do Tòa án thực hiện nhằm xác định các tình tiết của vụ án, lựa chọn biện pháp TNHS, loại và mức hình phạt cụ thể theo căn cứ và trong phạm vi luật định, để áp dụng đối với người bị kết tội cụ thể theo thủ tục luật định. Đây là hoạt động tư duy của HĐXX, sau khi đã xác định được tội danh đối với hành vi phạm tội, là hoạt động áp dụng pháp luật đặc biệt chỉ do Tòa án tiến hành theo một trình tự pháp lý được quy định rất chặt chẽ và chỉ duy nhất Tòa án có quyền áp dụng. Hình phạt do Tòa án áp dụng xuất phát từ tính chất của quan hệ pháp luật hình sự, đó là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Do người phạm tội đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của Nhà nước. Tòa án là cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ xét xử được quy định tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, được quyền áp dụng hình phạt đối với người phạm tội theo một trình tự tố tụng đặc biệt được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự và bằng một bản án kết tội được công bố một cách công khai khi tuyên án, kể cả những trường hợp theo quy định phải xét xử kín, nhưng cũng phải tuyên án công khai. Tòa án bên cạnh nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án để đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội thì phải lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể, dựa vào các căn cứ được quy định trong BLHS để áp dụng cho người phạmtội. Đây là hoạt động rất phức tạp và rất tư duy của HĐXX. Bởi vì, áp dụng hình phạt đúng pháp luật, công bằng, hợp tình, hợp lý có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong việc cải tạo và giáo dục người bị kết án. Qua đó, đạt được mục đíchcủa hình phạtđó là phòng ngừa riêng là giáo dục cải tạo người bị kết án và phòng ngừa chung là ngăn ngừa những hành vi vi phạm có thể xảy ra trong xã hội.
  • 16. 10 Do đó, áp dụng hình phạt là giai đoạn có ý nghĩa rất quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do HĐXX tiến hành đối với người phạm tội theo một trật tự pháp lý nhất định. Để áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, Tòa án phải căn cứ vào kết quả của các giai đoạn tố tụng: điều tra, truy tố và kết quả hoạt động của mình để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp.Người dưới 18 tuổi phạm tội là đối tượng đặc biệt, bản thân người phạm tội chưa nhận thức một cách đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà mình gây ra. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sữa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội [40,tr.470].Khi áp dụng hình phạt đối với họ thì cũng nhằm đạt được mục đích nêu trên. Do đó, đòi hỏi HĐXX phải là người nắm bắt được đặc điểm tâm - sinh lý của người dưới 18 tuổi phạm tội. Đối với hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt nghiêm khắc nhất đối với người dưới 18 tuổi, là loại hình phạt tước tự do của người bị kết án, buộc họ phải cách ly khỏi môi trường xã hội bình thường trong một gian nhất định. Hình phạt này chỉ được lựa chọn để áp dụng, trong trường hợp áp dụng các hình phạt và biện pháp giáo dục khác sẽ không đạt được mục đích giáo dục riêng đối với người phạm tội và phòng ngừa chung những hành vi vi phạm có thể xảy ra trong xã hội.Xuất phát từ đặc điểm riêng của người phạm tội dưới 18 tuổi và tính chất của hình phạt tù, đòi hỏi HĐXX phải cân nhắc kỹ xem có cần áp dụng hình phạt tù đối với họ hay không? Đây cũng là nguyên tắc khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015. Do đó, HĐXX phải có quyết định chính xác để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm đạt được mục đích của hình phạt. Trên cơ sở phân tích nêu trên, áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
  • 17. 11 người dưới 18 tuổi có thể khái niệm như sau: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi, là một hình thức của áp dụng pháp luật, do HĐXX tiến hành theo các quy định của quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và quy phạm pháp luật hình sự, để áp dụng loại hình phạt tù và mức hình phạt đối với người bị kết án dưới 18 tuổi ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự. 1.2. Nguyên tắcáp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội So sánh các quy định tại Chương XII BLHS năm 2015 về “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” và Chương X BLHS năm 1999 về “Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội”, thấy rằng có sự thay đổi rất đáng kể trong chính sách hình sự đối với việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Đó là sự thay đổi theo hướng quy định rõ hơn về nguyên tắc xử lý và các quy định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. So với Điều 69 BLHS năm 1999 thì nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015 đã thể hiện rõ hơn, đầy đủ hơn quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, theo hướng đảm bảo lợi ích tốt nhất cho họ trên tinh thần đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm lứa tuổi thanh thiếu niên, đáp ứng yêu cầu của Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em và các văn kiện quốc tế về tư pháp người chưa thành niên. Nội dung nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015 bao gồm: Nguyên tắc thứ nhất:Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
  • 18. 12 Đây là nguyên tắc đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng đối với những nguyên tắc còn lại. Người dưới 18 tuổi phạm tội, bản thân họ không nhận thức đầy đủ về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, do họ chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh lý. Vì vậy, việc xử lý hình sự đối với họ phải đảm bảo lợi ích tốt nhất cho họ. Bởi vì, mục đích quan trọng nhất khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là giáo dục, phòng ngừa, giúp họ nhận ra và sửa chữa sai lầm của bản thân, trở thành công dân có ích cho xã hội. So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm” [8]. Sự bổ sung một cách cụ thể, rõ ràng này hạn chế tình trạng các trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ cần áp dụng biện pháp xử lý khác, nhưng lại bị truy cứu TNHS và bị áp dụng hình phạt. Quy định này đòi hỏi trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải xác định rõ độ tuổi của người phạm tội. Bởi vì, độ tuổi là căn cứ quan trọng và là đầu tiên để xác định một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có năng lực TNHS hay không? “Người có sự phát triển bình thường về tâm – sinh lí sẽ có năng lực TNHS khi đã đạt độ tuổi nhất định – tuổi chịu TNHS” [34,tr.91]. Tuy nhiên, có những trường hợp họ đạt đến độ tuổi phải chịu TNHS, nhưng họ vẫn không phải chịu TNHS do bị bệnh liên quan đến hoạt động tâm thần, làm cho họ không có năng lực TNHS. Người không có năng lực TNHS do mắc bệnh như vậy gọi là người trong tình trạng không có năng lực TNHS. Do đó, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải làm rõ khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, phải xác định được nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
  • 19. 13 Từ đó, xác định được khả năng cải tạo giáo dục của họ, để quyết định áp dụng biện pháp xử lý phù hợp đối với từng đối tượng. Nguyên tắc thứ hai: Người dưới 18 tuổi vi phạm thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, điểm b, điểm c khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp đương nhiên được miễn TNHS theo Điều 29 BLHS 2015, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục gồm: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn được quy định riêng cho những đối tượng này. Miễn TNHS là trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội, nhưng không phải chịu TNHS, nếu họ thỏa mãn các điều kiện được pháp luật hình sự quy định. Nói cách khác miễn TNHS là miễn cho người phạm tội nghĩa vụ phải chịu những hậu quả pháp lý mà lẽ ra họ phải chịu về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện [40,tr.325]. Theo khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 thì điều kiện để có thể được miễn TNHS bao gồm: Thứ nhất: Người phạm tội là người chưa thành niên, tức là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Thứ hai: Tội phạm mà họ thực hiện phải là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng gây nguy hại không lớn. Thứ ba: Có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS. Thứ tư: Người phạm tội được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát giáo dục. So với khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 thì khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 có quy định cụ thể, rõ ràng hơn và mở rộng hơn điều kiện được miễn TNHS đối với từng loại tội phạm. Cụ thể: Đã mở rộng hơn việc miễn
  • 20. 14 TNHS đối với cả người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng trừ các tội quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) và người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án cũng có thể được miễn TNHS. Việc quy định chi tiết cụ thể này tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật chính xác. Nguyên tắc thứ ba: Việc truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trước tiên phải xem xét thật đầy đủ và chính xác các điều kiện về miễn TNHS, áp dụng biện pháp xử lý khác đối với người phạm tội. Không phải mọi trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội đều bị truy cứu TNHS, mà chỉ trong trường hợp cần thiết thì mới truy cứu TNHS. Khi truy cứu TNHS đối với họ, thì phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm để quyết định có buộc họ chịu hình phạt hay áp dụng biện pháp tư pháp là giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc miễn hình phạt đối với họ.
  • 21. 15 Nguyên tắc thứ tư: Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp giám sát giáo dục gồm: Khiển trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Trường hợp căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm mà bắt buộc phải truy cứu TNHS đối với người dưới 18 tuổi thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải cân nhắc việc có cho họ được miễn hình phạt, có thể áp dụng biện pháp xử lý khác hay không? Chỉ khi các biện pháp này không đảm bảo việc giáo dục được họ và mục đích phòng ngừa thì mới áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 2015 đã quy định chi tiết các điều kiện được miễn TNHS theo từng nhóm tuổi. Ngoài ra, BLHS năm 2015 đã bổ sung và quy định rõ các điều kiện áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục mới, bao gồm: Khiển trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Nguyên tắc thứ năm:Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây cũng là nguyên tắc thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta, đáp ứng yêu cầu của Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em và các văn kiện quốc tế về tư pháp người chưa thành niên, phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Bởi vì, người dưới 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ tâm – sinh lý, không thể đối xử họ ngang bằng với người đã trưởng thành. Mục đích xử lý đối với họ nhằm “giáo dục” là chính, tạo điều kiện cho họ sữa chữa sai lầm. Đối với hình phạt tù chung thân và tử hình là những hình phạt rất nghiêm khắc, chỉ áp dụng trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nên pháp luật hình sự quy định không áp dụng tù chung thân và tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là phù hợp.
  • 22. 16 Nguyên tắc thứ sáu: Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nguyên tắc này đòi hỏi khi quyết định hình phạt, Tòa án mà cụ thể là HĐXX phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm để xác định loại hình phạt áp dụng đối với họ. Hình phạt tù có thời hạn là sự lựa chọn cuối cùng khi không thể áp dụng các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và các biện pháp giáo dục khác. Trường hợp phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, thì phải lựa chọn và cân nhắc mức hình phạt phù hợp với thời gian ngắn nhất và trong mọi trường hợp phạm tội thì không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội dưới 18 tuổi. Đây là quy định thể hiện rõ chính sách xử lý nhân đạo và khoan hồng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. So với khoản 5 Điều 69 BLHS năm 1999 thì nguyên tắc này đã quy định rõ hơn về các điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khoản 5 Điều 69 của BLHS năm 1999 chỉ quy định “Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù”. Quy định như vậy là chưa rõ ràng và chưa đầy đủ về các điều kiện áp dụng phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Do đó, vì các lý do khác nhau mà có những trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ cần áp dụng hình phạt khác vẫn có tác dụng giáo dục, phòng ngừa nhưng Tòa án vẫn áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì cũng không có
  • 23. 17 căn cứ để cho rằng vi phạm nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Ngoài ra, khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015 cũng có quy định rõ trường hợp có áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì phải lựa chọn mức hình phạt“với thời hạn thích hợp ngắn nhất”. Như vậy, các quy định tại khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015 là căn cứ để hạn chế việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nguyên tắc thứ bảy: Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Đây cũng là quy định thể hiện rõ chính sách xử lý nhân đạo và khoan hồng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, chỉ áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi.Nguyên tắc này đã khẳng định mặc dù họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng với chính sách, đường lối xử lý thì họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Cho nên, không áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm để làm tình tiết tăng nặng TNHS hoặc tình tiết định tội ở một số tội phạm nhất định. Nguyên tắc này thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước và tính khoan hồng cao hơn trong xử lý người dưới 18 tuổi ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội so với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. So với BLHS năm 1999 thì nội dung của nguyên tắc này thể hiện trong BLHS năm 2015 vẫn không thay đổi. 1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18tuổi phạm tội Xuất phát từ những đặc điểm của người dưới 18 tuổi, nên Điều 98 BLHS năm 2015 chỉ quy định các loại hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Mỗi loại hình phạt đều có quy định rất chặt chẽ về điều kiện áp dụng và đối tượng được áp dụng. Hình phạt tù có thời hạn là sự lựa chọn cuối cùng khi không thể áp dụng các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
  • 24. 18 giữ và các biện pháp giáo dục khác. Đây là loại hình phạt bắt buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định, phải chấp hành các quy chế nghiêm ngặt, phải học tập, lao động theo quy định của pháp luật và phải chịu sự giám sát chặt chẽ của cán bộ trại giam. Người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng hình phạt tù trong trường hợp thật cần thiết, khi áp dụng các hình phạt khác hoặc áp dụng các biện pháp xử lý khác không đạt được mục đích giáo dục cải tạo và phòng ngừa chung trong xã hội. Do đó, hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi cũng có các đặc điểm riêng.Mức phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điều 101 BLHS năm 2015 như sau: “Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định” [27]. Ví dụ 1: Người từ đủ 16 tuổi cho đến dưới 18 tuổi phạm tội “Giết người” (khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là tử hình), trường hợp này họ sẽ bị phạt với mức hình phạt cao nhất là 18 năm tù. Ví dụ 2: Người từ đủ 16 tuổi cho đến dưới 18 tuổi phạm tội “Cướp giật tài sản” (khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là 10 năm tù), trường hợp này họ sẽ bị phạt với mức hình phạt cao nhất là 07 năm 06 tháng tù. “Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định” [27].
  • 25. 19 Ví dụ 3: Người từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 16 tuổi phạm tội giết người (khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là tử hình), trường hợp này họ sẽ bị phạt với mức hình phạt cao nhất là 12 năm tù. Ví dụ 4: Người từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 16 tuổi phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (khoản 1 Điều 169 BLHS năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là 7 năm tù), trường hợp này họ sẽ bị phạt với mức hình phạt cao nhất là 03 năm 06 tháng tù. Cơ sở để các nhà làm luật xây dựng mức hình phạt quy định tại Điều 101 BLHS năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi bao gồm: Thứ nhất: Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực, nhân cách, cũng như kinh nghiệm sống. Do đó, nguyên tắc xử lý đối với họ là không áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với họ. Theo Điều 38 BLHS năm 2015 quy định, trường hợp một người từ đủ 18 tuổi trở lên, khi xét xử nếu phạt tù thì mức cao nhất của phạt tù có thời hạn được áp dụng đối với họ là 20 năm tù. Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phạm tội, có mức phạt là chung thân và tử hình, nếu áp dụng mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù là không phù hợp, không đảm bảo sự công bằng cho họ. Tương tự đối với người từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 16 tuổi, thì năng lực TNHS của họ hạn chế hơn người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, nên không thể áp dụng mức hình phạt cao nhất là 18 năm tù như người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Do đó, hình phạt tù cao nhất áp dụng đối với họ là 12 năm tù là phù hợp. Thứ hai:Do những đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội, nên việc áp dụng hình phạt với họ cũng khác với người đã thành niên. Nếu áp dụng tương tự như người đã thành niên thì sẽ quá nghiêm khắc, không công bằng, không phát huy được tác dụng của hình phạt. Ngoài ra, còn xuất phát từchính sách hình sự và đường lối xử lý của Nhà nước ta khi xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm
  • 26. 20 tội, được thể hiện trong các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015. Tất cả các nguyên tắc quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015 đều tập trung vào việc “giúp đỡ” hơn là “trừng trị”. Cho nên, mức phạt tù cho từng nhóm tuổi quy định tại Điều 101 BLHS năm 2015 là hoàn toàn phù hợp. 1.4. Quy định của BLHS về quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.4.1. Quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là trường hợp đặc biệt của việc quyết định hình phạt khi người phạm tội có đủ các điều kiện quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015. Tại Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. 2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án” [27]. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình
  • 27. 21 sự của Đảng và Nhà nước, để thực hiện phương châm trong đường lối xử lý tội phạm và người phạm tội của Nhà nước ta, đó là nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo. Thực tiễn đã đặt ra, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS. Nếu không có quy định của Điều 54 BLHS, thì HĐXX chỉ có thể quyết định mức hình phạt thấp nhất bằng với mức tối thiểu của của khung hình phạt tương xứng trong chế tài lựa chọn. Như vậy, sẽ quá nghiêm khắc, không công bằng, không phát huy được tác dụng của hình phạt. Ngoài ra, xuất phát từ thực tiễn xét xử các vụ án có tính chất đồng phạm, có những trường hợp người phạm tội nhưng với vai trò giúp sức không đáng kể. Nếu không có quy định “không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn”, thì Tòa án quyết định hình phạt dưới khung thì vẫn còn rất nặng. Bởi vì, mức phạt trong khung liền kề nhẹ hơn đối với tội đó cũng là quá nặng, so với mức độ tham gia phạm tội của họ trong vụ án. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS đều phải quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 quy định các căn cứ quyết định hình phạt, để quyết định có áp dụng Điều 54 để quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hay không? Việc quy định bắt buộc phải có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51, chứ không quy định cho áp dụng luôn tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51, là nhằm để tránh tùy tiện khi áp dụng Điều 54 BLHS. Bởi vì, tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 54 là những tình tiết giảm nhẹ khác, tùy từng trường hợp mà Tòa án áp dụng, nhưng phải ghi rõ trong bản án và Điều 54 được áp dụng đối với tất cả tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS mà không có sự giới hạn.
  • 28. 22 Trường hợp nếu có áp dụng Điều 54 BLHS đối với người dưới 18 tuổi, cũng phải đảm bảo các điều kiện quy định tại Điều 54 BLHS. Trước khi áp dụng Điều 54 BLHS, thì Tòa án phải xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với người phạm tội đã đủ 18 tuổi. Sau đó, áp dụng Điều 101 BLHS năm 2015 để tính mức hình phạt cụ thể mà họ phải chịu và áp dụng Điều 54 để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. 1.4.2. Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội Phạm nhiều tội là trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã phạm vào hai tội trở lên. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp này, Tòa án phải quyết định mức hình phạt chung của tất cả các tội mà người đó phải chấp hành, sau khi đã quyết định mức hình phạt của từng tội. Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, khi quyết định hình phạt phải tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội tại quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015 và các quy định riêng về tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp phạm nhiều tội được quy định tại Điều 103 BLHS năm 2015. BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa quy định tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Cụ thể: - Quy định rõ nguyên tắc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi: Khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015. - Quy định rõ mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với từng hình phạt cụ thể: Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời
  • 29. 23 hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội. - Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau: + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định nêu trên. + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định nêu trên. - Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau: + Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất theo quy định nêu trên. + Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.
  • 30. 24 1.4.3. Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm, nhưng ở giai đoạn này người phạm tội chưa thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Kết quả đạt được của hành vi phạm tội, phụ thuộc phần lớn vào việc chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hành vi phạm tội. Điều 14 BLHS năm 2015 quy định: “1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này. 2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các Điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu TNHS. 3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu TNHS” [27]. So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã có những thay đổi như sau: Khái niệm về chuẩn bị phạm tội đã bổ sung hành vi “Thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm”, trừ quy định tại Điều 109 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân); điểm a khoản 2 Điều 113 “Thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố” (tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân); điểm a khoản 2 Điều 299 “Thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố” (tội khủng bố).
  • 31. 25 Khoản 2 Điều 14 đã liệt kê ra các tội phạm cụ thể, mà hành vi chuẩn bị phạm tội đủ để cấu thành tội phạm, người phạm tội chỉ bị truy cứu TNHS nếu có hành vi chuẩn bị phạm một trong các tội này. Như vậy, khoản 2 của điều luật đã đã có sửa đổi theo hướng thu hẹp phạm vi phải chịu TNHS của hành vi chuẩn bị phạm tội. Khoản 3 của điều luật này quy định: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS nếu chuẩn bị phạm các tội “Giết người”, tội “Cướp tài sản”. Như vậy, chỉ người nào chuẩn bị phạm các tội nêu trên thì mới phải chịu TNHS. Phạm tội chưa đạt cũng là giai đoạn của quá trình phạm tội, nhưng mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn giai đoạn chuẩn bị phạm tội và thấp hơn giai đoạn phạm tội đã hoàn thành. Điều 15 BLHS năm 2015 quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu TNHS về tội phạm chưa đạt” [27]. Người phạm tội chưa đạt phải chịu TNHS về tất cả các loại tội phạm, đây là điểm khác biệt so với chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, cũng giống như chuẩn bị phạm tội thì chỉ có các tội được thực hiện với lỗi cố ý thì mới có phạm tội chưa đạt. Căn cứ vào nội dung của điều luật thì phạm tội chưa đạt chỉ xảy ra đối với trường hợp cố ý trực tiếp. Người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu TNHSvề chuẩn bị phạm tội và tội phạm chưa đạt như người đã đủ 18 tuổi. Đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHSvề hành vi chuẩn bị phạm tội đối với tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”, còn đối với hành vi phạm tội chưa đạt thì họ cũng chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
  • 32. 26 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS. BLHS năm 1999 không có quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đối với người dưới 18 tuổi, dẫn đến sự khó khăn và không thống nhất trong quá trình áp dụng. Để giải quyết hạn chế này BLHS 2015 đã sửa đổi Điều 17 về chuẩnbị phạm tội và bổ sung thêm Điều 102 về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Tại Điều 102 BLHS năm 2015 quy định: “1. Tòa án quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 57 của Bộ luật này. 2. Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần ba mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng. Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần hai mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng. 3. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt quy định tại Điều 100 và Điều 101 của Bộ luật này. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần hai mức hình phạt quy định tại các Điều 99, 100 và 101 của Bộ luật này” [27].
  • 33. 27 Tiểu kết chương 1 Người dưới 18 tuổi phạm tội là chủ thể của tội phạm, nhưng là chủ thể đặc biệt được pháp luật hình sự điều chỉnh.Xuất phát từ đặc điểm của người dưới 18 tuổi, nên chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với họ là khác so với người đã thành niên phạm tội. Các biện pháp xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy được tính chất của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật và bản chất nhân đạo của các biện pháp áp dụng. Chính sách này phù hợp với pháp luật quốc tế và xu hướng chung của thế giới. Hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi làchế tài tước tự do đối với người dưới 18 tuổi và được áp dụng trong những trường hợp thật cần thiết. Không phải mọi trường hợp cách ly khỏi xã hội, mới đạt được mục đích giáo dục, cải tạo. Đôi khi những bất cập trong công tác giáo dục, cải tạo người bị kết án phạt tù cũng gây nhiều tác động tiêu cực đến khả năng phục hồivà tái hòa nhập cộng đồng của người dưới 18 tuổi phạm tội.Do đó, khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải nắm rõ chính sách xử lý và các nguyên tắc trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Chỉ áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn khi các hình phạt khác cũng như các biện pháp xử lý khác không có tác dụng trong việc giáo dục người phạm tội và phòng ngừa vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội.
  • 34. 28 Chương 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN 2.1. Một số đặc điểm tình hình có liên quan 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An Cần Giuộc nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Long An, nằm ở vành đai vòng ngoài của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Cần Giuộc liền kề với Thành phố Hồ Chí Minh, là cửa ngõ phía Tây Nam của Thành phố Hồ Chí Minh đi các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long qua đường Quốc lộ 50. Huyện Cần Giuộc nằm về phía Đông của tỉnh Long An, với diện tích là 211km2 , dân số là 186.286 người; phía Bắc – Đông Bắc giáp huyện Bình Chánh và huyện Nhà Bè thuộc Thành phố Hồ Chí Minh; phía Đông giáp huyện Cần Giờ, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh; phía Tây Bắc giáp huyện Bến Lức và phía Nam và Tây Nam giáp huyện Cần Đước thuộc tỉnh Long An. Trong những năm qua, huyện vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với bình quân chung của tỉnh, cơ cấu kinh tế của huyện có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp, thương mại dịch vụ. Hiện nay, trên địa bàn huyện có 05 khu công nghiệp, 04 cụm công nghiệp và 01 cảng biển với diện tích sử dụng đất gần 2.656ha đã đi vào hoạt động. Chính sách của huyện là thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, đô thị, cảng, logistics và thu hút nhân lực chất lượng cao đến làm việc. Chú trọng đẩy mạnh xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, đồng thời biết khai thác lợi thế về vị trí địa lý (cách trung tâm Thành phố Hồ Chí
  • 35. 29 Minhchưa đến 20km) và đang có hàng loạt dự án đầu tư xây dựng, các khu công nghiệp quy mô lớn chuẩn bị được triển khai. Đã làm cho Cần Giuộc trở thành điểm sáng hấp dẫn các nhà đầu tư, góp phần quan trọng trong việc đẩy nhanh được tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm phát huy tối đa hiệu quả khai thác lợi thế, tiềm năng của địa phương. Về nông nghiệp, huyện đã chú trọng đẩy mạnh quy hoạch, xây dựng, phát triển có hiệu quả các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như: Sản xuất rau bằng hữu cơ sinh học, mô hình trồng rau đạt chuẩn Vietgap, nuôi tôm, cua nước lợ và từng bước hình thành chuỗi nông sản an toàn, cung ứng cho thị trường. Công tác an sinh xã hội cũng được huyện chú trọng, Cần Giuộc đã phối hợp, huy động nhiều nguồn kinh phí để hoàn thiện tốt công tác “Điện - đường - trường - trạm” để phục vụ nhân dân tốt nhất. Cho nên, nhân dân phấn khởi, đặt niềm tin vào chính quyền địa phương. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An TAND huyện Cần Giuộc có 18 biên chế, trong đó bao gồm: 01 Chánh án, 02 phó Chánh án, 09 Thẩm phán, 07 Thư ký, 01 Kế toán và 01 Văn thư. TAND huyện Cần Giuộc xét xử, giải quyết các loại vụ việc bao gồm: Vụ án hình sự; những vụ việc dân sự; vụ án hành chính; quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trong số các loại vụ việc nêu trên, thì loại án dân sự chiếm tỷ lệ cao nhất. Hàng năm, tỷ lệ thụ lý giải quyết các loại án ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Thống kê trong 06 năm, từ năm 2013 đến năm 2018
  • 36. 30 thì tỷ lệ thụ lý và giải quyết tổng số các loại án tăng. Cụ thể: Năm 2013 thụ lý 752 vụ; năm 2014 thụ lý 847 vụ; năm 2015 thụ lý 1.036 vụ; năm 2016 thụ lý 1.257 vụ; năm 2017 thụ lý 1.391 vụ; năm 2018 thụ lý 1.507 vụ. Kết quả giải quyết các loại án hàng năm đều vượt so với tỷ lệ chung của ngành Tòa án quy định, tỷ lệ các vụ án bị sửa án, bị hủy án đã giảm đáng kể. Từ năm 2013 cho đến nay, TAND huyện Cần Giuộc nhiều năm liền đạt danh hiệu là tập thể lao động xuất sắc. Đạt được kết quả như vậy xuất phát từ sự nỗ lực trau dồi chuyên môn của tập thể đơn vị và sự tập huấn, bổ sung kiến thức chuyên môn cho Thẩm phán, Thư ký của TAND tỉnh Long An và TAND tối cao. Hằng năm, TAND tỉnh Long An đều có tổ chức tập huấn định kỳ chuyên môn và các giải đáp các vướng mắc. Từ tháng 4 năm 2018, thì TAND tối cao định kỳ hàng tháng đều có tổ chức tập huấn trực tuyến các chuyên đề chuyên môn. Cho nên, trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký ngày càng được cũng cố và nâng cao. 2.2. Kết quả áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An 2.2.1. Tình hình xét xử các tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn huyện Cần Giuộc Theo số liệu báo cáo của TAND huyện Cần Giuộc, từ năm 2013 đến năm 2018 trên địa bàn huyện Cần Giuộc, đã giải quyết 569 vụ, với tổng số bị cáo 914 bị cáo. Trong đó, số vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện là 43 vụ, chiếm 7,5% trong tổng số vụ án đã xét xử, số bị cáo là 59 bị cáo, chiếm 6,4% tổng số bị cáo đã bị xét xử.
  • 37. 31 Bảng 2.1. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2018 Năm Thụ lý Tội phạm có bị cáo là người dưới 18 tuổi Độ tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi Từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi 2013 76 121 06 09 09 2014 82 131 07 09 09 2015 91 169 05 07 07 2016 96 139 08 12 12 2017 110 187 07 10 10 2018 114 167 10 12 12 Tổng số 569 914 43 59 59 (Nguồn: Thống kê của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An) Qua bảng thống kê trên, cho thấy số lượng các vụ án hình sự thụ lý, giải quyết trên địa bàn huyện Cần Giuộc nói chung và số lượng các vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng trong 06 năm từ năm 2013 đến năm 2018 có chiều hướng tăng. Độ tuổi người dưới 18 tuổi phạm tội ở huyện Cần Giuộc là ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi cho đến dưới 18 tuổi, độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là không có. Trong số các vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội, các tội xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ nhiều hơn so với các tội phạm còn lại, được thể hiện qua bảng thống kê sau:
  • 38. 32 Bảng 2.2. Loại tội mà người dưới 18 tuổi đã bị xét xử ở TAND huyện Cần Giuộc từ năm 2013 đến năm 2018 Năm 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tội cố ý gây thương tích 01 01 03 01 Tội cướp tài sản 01 01 Tội cướp giật tài sản 02 01 01 01 04 Tội trộm cắp tài sản 05 04 04 05 03 06 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 01 Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 01 01 Tội mua bán trái phép chất ma túy 01 01 Tội hiếp dâm 02 Tội cưỡng đoạt tài sản 01 Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 01 02 01 Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 01 01 01 Tổng số bị cáo dưới 18 tuổi 09 09 07 12 10 12 (Nguồn: Thống kê của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An) 2.2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại huyện Cần Giuộc Theo số liệu tổng kết của TAND huyện Cần Giuộc trong khoảng thời gian 06 năm, từ năm 2013 đến năm 2018 về người dưới 18 tuổi phạm tội, thì số lượng người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng tăng và tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng nguy hiểm hơn. Do đó, Tòa án bắt buộc
  • 39. 33 phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với họ. Bảng số liệu dưới đây thể hiện cơ cấu hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở huyện Cần Giuộc từ năm 2013 đến năm 2018 Bảng 2.3. Cơ cấu hình phạt mà TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ năm 2013 đến năm 2018 Năm Cảnh cáo Phạt tiền Cải tạo không giam giữ Phạt tù cho hưởng án treo Tù dưới 3 năm Tù trên 3 năm 2013 04 05 2014 03 06 2015 03 03 01 2016 03 09 2017 03 06 01 2018 04 06 02 Tổng số 20 35 04 (Nguồn: Thống kê của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An) Căn cứ vào số liệu trên cho thấy số người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ lớn so với các hình phạt còn lại. Mặc dù, nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội theo BLHS 1999 là “Hạn chế áp dụng hình phạt tù” [26]và theo BLHS 2015 đã quy định: “Chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không đủ răn đe, phòng ngừa” [28]. Nhưng thực tế khi quyết định hình phạt, Tòa ánkhông còn lựa chọn nào khác, bắt buộc phải áp dụng hình phạt tù đối với họ. Bởi vì, các hình phạt khác và biện pháp xử lý khác không đủ răn đe, phòng ngừa. Ví dụ 1: Trần Tuấn Vũ, sinh ngày 19 tháng 8 năm 2000, đến ngày
  • 40. 34 phạm tội bị cáo thì bị cáo đã 16 tuổi 13 ngày và Nguyễn Lư Công Trứ sinh ngày 16 tháng 02 năm 2000, đến ngày phạm tội bị cáo thì bị cáo đã 16 tuổi 06 tháng 16 ngày. Vũ và Trứ là bạn học cùng lớp, Vũ rủ Trứ cùng thực hiện hành vi cướp tài sản của các người bị hại, cụ thể như sau: Vụ thứ 01: Khoảng 19 giờ ngày 01 tháng 9 năm 2016, Trứ điều khiển xe môtô biển số 53R1-4847 chở Vũ đến Khu Công nghiệp Tân Kim mở rộng thuộc ấp Kim Định, xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc để vào nhà người quen của Vũ chơi nhưng không tìm được nhà. Khi Trứ chở Vũ quay ra về thì Vũ phát hiện bà Phan Thị Bích Liên đang ngồi nói chuyện cùng với 01 người bạn ven đường Thành Công 1 trong khu công nghiệp thì Vũ kêu Trứ dừng xe lại cách nơi bà Liên ngồi khoảng 50m. Tại đây Vũ rủ Trứ cướp tài sản của bà Liên thì Trứ đồng ý, Vũ đi đến gốc cây ven đường lấy cây gỗ tràm dài khoảng 40cm, đường kính khoảng 04cm rồi đứng chờ. Khi thấy bà Liên và nam thanh niên ra về mỗi người chạy 01 xe mô tô thì Vũ kêu Trứ chạy xe vòng ra đầu đường rồi quay lại chặn xe bà Liên lại. Vũ xuống xe cầm cây tràm chỉ vào mặt bà Liên đe dọa yêu cầu bà Liên đưa tiền và điện thoại cho Vũ, Vũ lấy 800.000 đồng và 01 điện thoại di động Samsung Viettel màu đen, loại bàn phím của bà Liên. Sau đó, Vũ nắm vai bà Liên đè ngồi xuống bồn bông của dải phân cách đường. Lúc này, Vũ nảy sinh ý định quan hệ tình dục với bà Liên nên đã yêu cầu bà Liên cởi quần ra, định giao cấu với bà Liên thì Trứ kêu Vũ ngừng lại, cùng lúc này có ánh đèn xe từ khu công nghiệp chạy đến nên bà Liên vùng vẫy truy hô thì Vũ lên xe Trứ tẩu thoát. Vụ thứ 02: Sau khi thực hiện vụ thứ nhất khoảng 01 tháng, thì Vũ tiếp tục rủ Trứ cướp tài sản thì Trứ đồng ý. Khoảng 18 giờ 30 phút đầu tháng 10/2016 (không rõ ngày), Trứ dùng xe môtô biển số 53R1-4847 chở Vũ vô Khu Công nghiệp Tân Kim mở rộng thì phát hiện 01 người nữ mặc áo sơ mi màu trắng ngồi nói chuyện cùng 01 nam thanh niên. Trứ điều khiển xe tấp sát
  • 41. 35 vào đôi nam nữ, Vũ xuống xe lấy con dao dài khoảng 30cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng, cán bằng nhựa màu đen có lỗ tròn lấy ở nhà mang theo từ trước, Vũ nắm cổ áo người phụ nữ đe dọa đâm và yêu cầu đưa tài sản, người nữ hoảng sợ yêu cầu người nam đưa tài sản theo yêu cầu của Vũ, thì người nam đưa cho Vũ 01 điện thoại di động hiệu Lenovo, màu trắng, màn hình cảm ứng (không rõ đời máy) và số tiền 250.000 đồng. Phần tài sản chiếm đoạt được Vũ chia cho Trứ 150.000 đồng, Vũ được 01 điện thoại và 100.000 đồng. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra có thông báo tìm kiếm người bị hại nhưng không có người trình báo. Vụ thứ 3: Khoảng 19 giờ ngày 15/01/2017, Trứ mang theo con dao mũi bằng, bằng kim loại màu trắng, dài 49,5cm, lưỡi rộng 4,5cm, điều khiển xe mô tô biển số 53R1-4847 đến nhà Vũ, đưa dao cho Vũ cất giữ, rồi chở Vũ đến Khu Công nghiệp Tân Kim tìm chặn đường người dân cướp tài sản. Khi phát hiện chị Võ Thị Phương Thảo đi xe mô tô một mình theo hướng từ vòng xoay vào khu công nghiệp, Trứ đuổi theo chặn đầu xe, Vũ nhảy xuống xe lấy dao do Trứ đưa trước đó kề cổ chị Thảo yêu cầu đưa tài sản thì chị Thảo đưa cho Vũ 01 điện thoại Iphone 6 màu đen và 01 điện thoại Sony Xperia màu trắng cùng 300.000 đồng. Trứ lục giỏ xách của chị Thảo lấy 02 cục sạc dự phòng hiệu Eloop màu xanh và Ramoss màu trắng. Sau khi lấy được tài sản, Vũ nảy sinh ý định hiếp dâm chị Thảo nên ôm kéo chị Thảo vào lề đường, rồi thực hiện hành vi giao cấu với chị Thảo. Ngoài ra, Vũ còn một mình thực hiện các hành vi cướp tài sản của người bị hại, bao gồm: Vụ thứ 01: Do cần tiền tiêu xài và nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác, khoảng 19 giờ 50 phút ngày 24/01/2017, Vũ lấy xe mô tô Future Neo, biển số 54N6-8565 của mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Phượng, một mình đến khu Công nghiệp Tân Kim mở rộng tìm người dân đi đường chặn
  • 42. 36 đường đe dọa chiếm đoạt tài sản. Khi phát hiện chị Huỳnh Thị Minh Thuận chạy xe một mình, Vũ đuổi theo chặn đầu xe dùng chìa khóa uy hiếp đe dọa đâm, buộc chị Thuận đưa tài sản, do hoảng sợ nên chị Thuận đưa cho Vũ 01 điện thoại Oppo R7, màu đồng màn hình cảm ứng, 01 điện thoại Nokia C1, màu đen và số tiền 120.000 đồng. Sau khi lấy được tài sản, Vũ mang về nhà cất giấu điện thoại, riêng tiền tiêu xài cá nhân hết. Vụ thứ 02: Sau khi lấy được điện thoại của chị Thuận, Vũ lấy sim điện thoại của chị Thuận đăng nhập vào Facebook của chị Thuận phát hiện tài khoản của chị Thuận có liên hệ với nickname “Diem Thuy” là tài khoản Facebook của bà Nguyễn Thị Diễm Thúy mẹ ruột của chị Thuận (nhưng Vũ không biết). Lúc này Vũ nảy sinh ý định chiếm tài sản của bà Thúy. Đến khoảng 18 giờ ngày 01/02/2017, Vũ sử dụng tài khoản Facebook của chị Thuận nhắn tin cho bà Thúy tự xưng là Thuận và nhờ bà Thúy đến Khu Công nghiệp Tân Kim mở rộng để rước Thuận về, mục đích lừa bà Thúy đến để cướp tài sản. Do biết chị Thuận bị mất điện thoại, nghi ngờ đối tượng có liên quan, nên bà Thúy nhắn tin lại đồng ý đi rước đồng thời báo Công an xã Tân Kim. Vũ điều khiển xe mô tô 54N6-8565 của bà Nguyễn Thị Phượng là mẹ ruột của bị cáo đến Khu Công nghiệp Tân Kim mở rộng, Vũ thấy xe người phụ nữ chạy nên bám theo sau thì bị Công an mời làm việc, tại cơ quan Công an Vũ thừa nhận hành vi của mình và khai ra nơi cất giấu tài sản. Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2017/HS-ST, ngày 18/7/2017 của TAND huyện Cần Giuộc đã quyết định: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm b, p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46; các Điều 17; 20; 33; 45; 52; 53; 68; 69; 71 và Điều 74 BLHS. Xử phạt bị cáo Trần Tuấn Vũ 05 (năm) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
  • 43. 37 Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 111; điểm p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46; các Điều 18; 33; 45; 52; 68; 69; 71 và Điều 74 BLHS. Xử phạt bị cáo Trần Tuấn Vũ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Hiếp dâm”. Áp dụng Điều 50 và Điều 75 BLHS, tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm b, p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46; các Điều 20; 33; 45; 53; 68; 69; 71 và Điều 74 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Lư Công Trứ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Trong vụ án này tác giả nhận thấy, các bị cáo đều thiếu sự quan tâm của gia đình, xuất phát từ mục đích muốn có tiền tiêu xài, các bị cáo đã nhiều lần có hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản của các người bị hại. Đối với bị cáo Vũ còn có 02 lần thực hiện hành vi hiếp dâm người bị hại. Các bị cáo khi phạm tội vẫn còn là học sinh, nhưng hành vi của các bị cáo là rất nghiêm trọng, nên loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là hoàn toàn tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Ví dụ 2: Trần Minh Đượm sinh ngày 24 tháng 01 năm 1999, đến ngày phạm tội bị cáo 17 tuổi 01 ngày. Bị cáo là người làm thuê tại quán cơm thuộc ấp 3, xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An do ông Đỗ Văn Hai làm chủ. Khoảng 11 giờ ngày 25/01/2016, Đượm phát hiện trong ngăn kéo bàn để ti vi ở giữa quán đã kéo ra sẵn có một cái điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J5, màu vàng đồng, trị giá 2.500.000 đồng của chị Nguyễn Thị Hồng Lan cũng là người làm thuê tại quán cơm, nên Đượm nảy sinh ý định lấy trộm điện thoại để sử dụng. Đượm quan sát xung quanh không có ai nên đã lén lút lấy trộm điện thoại trên cất giấu chờ đến chiều làm xong sẽ mang về nhà. Khoảng 11 giờ 40 phút cùng ngày, chị Lan phát hiện điện thoại bị mất, chị
  • 44. 38 Lan dùng điện thoại di động khác gọi vào số của điện thoại bị mất thì còn tín hiệu chuông nhưng không ai nghe máy. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày chị Lan trình báo sự việc mất trộm điện thoại, Công an xã Long Hậu mời Đượm về làm việc, tại cơ quan công an Đượm đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đã giao nộp điện thoại di động Samsung Galaxy J5 cho cơ quan công an. Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2016/HS-ST ngày 26/4/2016 của TAND huyện Cần Giuộc đã quyết định: Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; Điều 45; các điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 60; các Điều 68; 69; 71 và 74 BLHS và khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Minh Đượm 03 tháng tùnhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản”. Tác giả thấy rằng, tại thời điểm phạm tội và xét xử thì bị cáo chưa đủ 18 tuổi, xét về nhân thân thì bị cáo có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, tài sản đã trả lại cho người bị hại, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS. Bị cáo có đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, nhưng Tòa án vẫn chọn loại hình phạt tù có thời hạn nhưng cho bị cáo hưởng án treo là nặng so với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của bị cáo gây ra. Đối với các trường hợp áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, qua nghiên cứu các bản án xét xử của TAND huyện Cần Giuộc, tác giả thấy rằng các bản án cho hưởng án treo là có căn cứ. HĐXX khi quyết định hình phạt có xem xét đến các yếu tố như: Nguyên nhân dẫn đến phạm tội, nhân thân, hoàn cảnh của người phạm tội.... Tòa án đã tạo điều kiện cho họ được tiếp tục học tập, làm việc trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi họ học tập, cư trú, tránh những tác động tiêu cực trong môi trường trại giam.
  • 45. 39 Ví dụ 3: Võ Thanh Tú, sinh ngày 15/5/1998, tính đến ngày phạm tội thì bị cáo 17 năm 08 tháng 19 ngày. Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 07/02/2016, Tú không có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe mô tô biển số 62M1- 321.89 có dung tích xi lanh 114cm3 , lưu thông trên đường tỉnh lộ 826C hướng từ xã Đông Thạnh đi xã Phước Vĩnh Tây, huyện Cần Giuộc. Khi đến đoạn đường thuộc ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, do thiếu chú ý quan sát nên Tú không phát hiện phía trước cùng chiều có bà Phạm Thị Kim Đính đang đi bộ từ lề trái sang lề phải đường. Khi Tú phát hiện bà Đính thì khoảng cách quá gần, nên Tú điều khiển xe lách sang phải để tránh nhưng để tay cầm bên trái xe va chạm vào tay và người bà Đính, làm bà Đính té ngã xuống đường và bị tử vong. Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2016/HS-ST, ngày 04/6/2016 của TAND huyện Cần Giuộc đã quyết định: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; Điều 33 và 45; các Điều 68; 69; 71; 74 và Điều 60 BLHS. Xử phạt bị cáo Võ Thanh Tú 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, thời gian thử thách tính kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 04/8/2016. Qua vụ án nêu trên thấy rằng, mặc dù hành vi của bị cáo Tú là rất nghiêm trọng. Nhưng Tòa án đã căn cứ nhân thân, hoàn cảnh của người phạm tội và tất cả các tình tiết khác để quyết định cho bị cáo được hưởng án treo, để tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục học tập, tự nhận ra sai phạm và sửa chữa lỗi lầm là phù hợp. 2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân 2.2.3.1. Hạn chế Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, thấy rằng nhận thức của HĐXX về đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi về
  • 46. 40 cơ bản là phù hợp với chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các bản án xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội của TAND huyện Cần Giuộc, cho thấy trong một số trường hợp, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội thì Tòa án đã nhận thức chưa đầy đủ về mục đích của hình phạt và nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tòa án xem mục đích “trừng trị” là quan trọng hơn “giáo dục”. Điều 31 BLHS năm 2015 quy định rõ mục đích của hình phạt như sau: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm” [27].Theo đó, mục đích của hình phạt không chỉ “trừng trị” mà còn “giáo dục”.Người dưới 18 tuổilà đối tượng đặc biệt, dễ bị người khác xúi giục, lôi kéo vào con đường phạm tội. Mục đích xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi được quy địnhtại Điều 91 BLHS năm 2015, đó là: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” [27]. Việc nhận thức chưa đầy đủ về mục đích của hình phạt và nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, dẫn đến có những trường hợp có thể áp dụng hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng có tác dụng cải tạo, giáo dục, nhưng HĐXX vẫn lựa chọn hình phạt tù có thời hạn. Qua nghiên cứu các bản án từ năm 2013 đến 2018 thì tất cả đều áp dụng hình phạt tù, không có trường hợp nào Tòa án áp dụng hình phạt khác, áp dụng biện pháp tư pháp hoặc miễn TNHS để áp dụng biện pháp xử lý khác đối với người phạm tội.
  • 47. 41 2.2.3.2. Nguyên nhân Thứ nhất: Đặc điểm của người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, thiếu kinh nghiệm sống, chưa có khả năng đánh giá đúng đắn sự việc, nhất là đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Cho nên, họ chưa nhận thức được đầy đủ tính chất, không lường hết được hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Do đó, khi xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đòi hỏi HĐXX phải nắm rõ các đặc điểm này, để có sự đánh giá một cách chính xác và toàn diện đối với họ. Qua đó, xác định đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và khả năng cải tạo giáo dục đối với họ, để quyết định có áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với họ hay lựa chọn biện pháp xử lý khác. Thực tiễn tại huyện Cần Giuộc cho thấy, HĐXX khi tiến hành tố tụng đối với các vụ án do người dưới 18 tuổi phạm tội về cơ bản là chưa đáp ứng được các yêu cầu nêu trên. Người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội, thì Nhà nước cần phải thiết kế cho họ một cơ chế toàn diện từ khâu điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và sau khi thi hành án xong trở về hòa nhập với cộng đồng. Yêu cầu đặt ra đối với các Thẩm phán và Hội thẩm được chọn khi xét xử đối với người dưới 18 tuổi, không chỉ là người có kiến thức sâu về pháp luật chuyên ngành, được bồi dưỡng, đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ xét xử mà còn là những người có kinh nghiệm trong công tác xét xử và sự điềm tĩnh, biết lắng nghe, biết chia sẽ với người dưới 18 tuổi về các vấn đề của họ. Tại TAND huyện Cần Giuộc, các Thẩm phán, Hội thẩm chưa được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Khi xét xử các vụ án này, Thẩm phán, Hội thẩm, sử dụng kỹ năng, kinh nghiệm sống để làm nền tảng cho việc giải quyết vụ án hình sự mà người phạm tội dưới 18 tuổi. Ngoài ra, họ cũng chưa được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi. Do đó, phần nào