Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cho các bạn tham khảo
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
––––––––––––––––––––
TRẦN HỒNG NHUNG
CÁC BIỆN PHÁP GIÁM SÁT, GIÁO DỤC VÀ BIỆN PHÁP
TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
––––––––––––––––––––
TRẦN HỒNG NHUNG
CÁC BIỆN PHÁP GIÁM SÁT, GIÁO DỤC VÀ BIỆN PHÁP
TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI - 2017
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Hồng Nhung
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục biểu đồ
MỞ ÐẦU............................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIÁM SÁT,
GIÁO DỤC VÀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .................................................................... 6
1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý biện pháp giám sát, giáo dục và
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội................ 6
1.1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của biện pháp giám sát, giáo dục .......... 7
1.1.2. Khái niệm, bản chất pháp lý của biện pháp tư pháp .........................12
1.2. Cơ sở của việc quy định và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục
và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội............17
1.2.1. Cơ sở lý luận......................................................................................17
1.2.2. Căn cứ pháp lý...................................................................................20
1.2.3. Cơ sở thực tiễn...................................................................................28
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về việc áp dụng các biện pháp giám sát,
giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội............................................................................................28
1.3.1. Ở Anh và xứ Wales ...........................................................................28
1.3.2. Ở Liên Bang Nga...............................................................................32
1.3.3. Ở Kosovo...........................................................................................33
5. Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP GIÁM SÁT, GIÁO DỤC VÀ BIỆN PHÁP
TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘIError! Bookmark not
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về việc áp dụng các biện
pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người
dưới 18 tuổi.......................................Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Các quy định trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015Error! Bookmark n
2.1.2. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015Error! Bookmark not defined.
2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục và biện
pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiError! Bookmark not defi
2.2.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp
tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiError! Bookmark not defined.
2.2.2. Những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm và bất
cập, vướng mắc trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.Error! Bookmark not
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP GIÁM SÁT, GIÁO DỤC VÀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘIError! Bookmark not defined.
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự.........Error! Bookmark not defined.
3.2. Triển khai tổ chức và hoạt động của Tòa gia đình và người
dưới 18 tuổi ......................................Error! Bookmark not defined.
3.3. Tăng cường công tác giám sát, hỗ trợ tại cộng đồng đối với
người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luậtError! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN......................................................Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................36
6. DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ
thẩm có bị cáo là người dưới 18 tuổi
Error!
Bookmark
not
defined.
Bảng 2.2. Hình phạt áp dụng đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
bị đưa ra xét xử
Error!
Bookmark
not
defined.
Bảng 2.3. Đặc điểm nhân thân số bị cáo là người dưới 18 tuổi đã
bị xét xử từ năm 2011 - 2015
Error!
Bookmark
not
defined.
Bảng 2.4. Cơ cấu tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trong các năm 2011 - 2015 trên toàn quốc
Error!
Bookmark
not
defined.
7. DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1. Thể hiện biện pháp Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
và biện pháp Cảnh cáo áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trong 5 năm từ 2011 đến 2015
Error!
Bookmark
not
defined.
Biểu đồ 2.2. Độ tuổi của các bị cáo là người dưới 18 tuổi bị đưa ra
xét xử
Error!
Bookmark
not
defined.
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trong năm 2015
Error!
Bookmark
not
defined.
8. 1
MỞ ÐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, cùng với các chính sách phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng và tăng cường các chính
sách bảo vệ, chăm sóc và thực hiện các quyền của trẻ em. Chính sách này
được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật về nhiều lĩnh vực khác nhau,
trong đó có lĩnh vực hình sự. Do đặc điểm về thể chất và tâm sinh lý lứa tuổi
mà người dưới 18 tuổi cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt. Chính sách
pháp luật hình sự đối với các em cần có những quy định riêng nhằm bảo đảm
sự phát triển tốt nhất cho các em.
Là đạo luật quan trọng quy định những vấn đề liên quan đến tư pháp
hình sự đối với người dưới 18 tuổi, Bộ luật hình sự năm 1999 và mới đây nhất
là Bộ luật hình sự năm 2015 của Việt Nam đã dành nhiều điều khoản quy
định về chính sách xử lý heo hướng vì lợi ích tốt nhất của họ.
Quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đối với người dưới
18 tuổi những năm qua đã phát huy hiệu quả đáng kể trong việc bảo vệ người
dưới 18 tuổi trong tư pháp hình sự. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy một thực
tế là tình trạng người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật đang có chiều hướng gia
tăng và diễn biến phức tạp; tình hình tội phạm xâm hại người dưới 18 tuổi
cũng đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm, các tội về hiếp dâm, mua bán
trẻ em diễn ra khá nghiêm trọng, trong khi đó, việc áp dụng quy định có liên
quan của Bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi vẫn còn gặp một số khó
khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển về mọi mặt của đời
sống xã hội và trước yêu cầu bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền lợi của người
dưới 18 tuổi theo tinh thần Công ước về quyền trẻ em, hệ thống tư pháp hình
sự hiện hành liên quan đến người dưới 18 tuổi, trong đó có các biện pháp
giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần có thêm những
9. 2
sửa đổi, bổ sung. Những sửa đổi, bổ sung đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải
nghiên cứu, phân tích các quy định có liên quan của Bộ luật hình sự trong mối
tương quan, so sánh với một số chuẩn mực quốc tế cũng như pháp luật một số
nước để từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung một cách hoàn thiện nhất, bảo
đảm thực thi các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết.
Với những lý do đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Biện pháp giám
sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” để
làm Luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, ở các mức độ khác nhau đã có những công trình
khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc trong các giáo
trình, sách chuyên khảo, bình luận khi nghiên cứu vấn đề người dưới 18 tuổi
phạm tội. Tiêu biểu, có các công trình nghiên cứu sau đây:
- Thanh thiếu niên làm trái pháp luật, thực trạng và giải pháp, Trần
Đức Châm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002;
- Tư pháp hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, những khía
cạnh tội phạm học, PGS.TSKH. Lê Cảm - Ths. Đỗ Thị Phượng, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 22/2004;
- Vai trò của gia đình trong việc thi hành các hình phạt không tước tự
do và các biện pháp tư pháp, TS. Trần Quang Tiệp, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 2/2004;
- Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt, Hồ Sỹ Sơn,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2004;
+ Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội, Đề tài nghiên cứu cấp trường Đại học Quốc gia Hà Nội,
Đỗ Thị Phượng, Bùi Đức Lợi, Hà Nội, năm 2005;
+ Áp dụng chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
Trịnh Đình Thể, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006;
10. 3
Tuy nhiên, các công trình nêu trên không đi sâu nghiên cứu các biện
pháp giám sát, giáo dục (do đây là các quy định mới của Bộ luật hình sự
năm 2015) và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư
pháp thay đổi trong quy định của pháp luật, trong sự tương quan với các chế
tài khác của pháp luật là một vấn đề mới mà luận văn mong muốn giải quyết.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như nội dung
cơ bản của hệ thống các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở
đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp này để kiến nghị việc hoàn thiện các
quy định trong luật hình sự nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu để làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý, vai trò cũng như các
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng của các biện pháp giám sát, giáo
dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Đánh giá việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, những ưu điểm và hạn chế của từng
biện pháp.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tác giả đưa ra đề xuất việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về các biện pháp giám sát, giáo dục và
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
của các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.
11. 4
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của các biện pháp giám
sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo
Luật hình sự Việt Nam; so sánh với pháp luật của một số quốc gia.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp logic...
5. Những đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn của các
biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Luận văn nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện các quy định của
pháp luật hình sự về các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: các khái niệm, bản chất pháp lý của các
biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội; vai trò trong giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội, vai trò trong
phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện; cơ sở lý luận cũng như
cơ sở thực tiễn của việc quy định và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục
và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; kinh nghiệm quốc
tế về việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội; quy định của pháp luật Việt Nam về việc áp
dụng các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội; nghiên cứu, đưa ra các giải, pháp kiến nghị việc hoàn
thiện các quy định đối với việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội bằng các
biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp, từ đó tăng cường hiệu quả
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm do người
12. 5
dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp giám sát, giáo dục và
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp
giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp
giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
13. 6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP GIÁM SÁT,
GIÁO DỤC VÀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý biện pháp giám sát, giáo dục và
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Theo cuốn Thuật ngữ tư pháp người dưới 18 tuổi của Bộ Tư pháp phối
hợp cùng tổ chức UNICEF thì không chính thức có khái niệm biện pháp giám
sát, giáo dục nhưng lại có thuật ngữ “biện pháp không chính thức”.
Theo đó, biện pháp không chính thức (Informal Measures) [48, tr.5] là
biện pháp xử lý vi phạm pháp luật không áp dụng các thủ tục tố tụng hình sự
hoặc thủ tục xử lý vi phạm hành chính mà dựa vào cộng đồng để giáo dục, răn
đe người có hành vi vi phạm.
Ở Việt Nam có những biện pháp xử lý không chính thức như hòa giải,
giám sát, phê bình, kiểm điểm, nhắc nhở, giáo dục tại dòng họ, kỷ luật tại nhà
trường v.v...
Ở nhiều nước trên thế giới, những biện pháp xử lý không chính thức
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thường được gọi là “biện pháp xử lý
chuyển hướng” vì người dưới 18 tuổi được đưa ra khỏi (chuyển hướng) hệ
thống tố tụng chính thức để xử lý tại cộng đồng [49].
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về điều kiện áp dụng biện pháp
giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự như sau:
Cơ quan điều tra , Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định
miễn trách nhiệm hình sự và á p dụng biê ̣n phá p khiển trách , hòa
giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn, nếu người dưới 18 tuổi pha ̣m tô ̣i hoặc người đa ̣i diê ̣n hợp
14. 7
pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong c ác biê ̣n pháp này
[33, Điều 92].
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự , Bộ luật hình sự đã ghi nhâ ̣n một
nguyên tắc quan trọng trong viê ̣c xử lý người dưới 18 tuổi pha ̣m tô ̣i, đó là:
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm
tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc
điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm ; 4. Khi xét
xử, Tòa án chỉ áp dụng hình pha ̣t đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một
trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương
này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa [33].
Xét về bản chất , có thể thấy rằng , quy đi ̣nh của khoản 3 và khoản 4
Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan
tiến hành tố tụng xem xét đình chỉ điều tra, đình chỉ vụán và giao người dưới
18 tuổi pha ̣m tội cho gia đình , cơ quan, tổ chứ c ta ̣i cộng đồng tổ chứ c viê ̣c
giám sát, giáo dục mà không cần tiếp tục xử lý bằng hệ thống tư pháp hình sự.
1.1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của biện pháp giám sát, giáo dục
1.1.1.1. Khiển trách
Trong pháp luật của nhiều nước thì khiển trách là việc nhắc nhở của
cảnh sát đối với người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật thay cho khởi tố về
hình sự hoặc xử phạt hành chính đối với người đó [16, tr.35].
Nhắc nhở của cảnh sát có thể được thực hiện đối với người dưới 18 tuổi
ngay tại nơi xảy ra vi phạm hoặc chính thức hơn trước mặt cha mẹ của người
dưới 18 tuổi vi phạm.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, “Khiển trách” được quy định tại
15. 8
Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:
1. Khiển trách được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi pha ̣m
tội trong những trường hợp sau đây nhằm giúp họnhâ ̣n thứ c rõ
hành vi phạm tội và hâ ̣u quả gây ra đối với cộng đồng , xã hội và
nghĩa vụ của họ:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tộ i ít
nghiêm trọng;
b) Người dưới 18 tuổi là người đồng pha ̣m có vai trò không
đáng kể trong vụ án.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định áp
dụng biện pháp khiển trách. Viê ̣c khiển trách đối với người dưới 18
tuổi pha ̣m tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoă ̣c người đại diện
hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
3. Người bị khiển trách phải thực hiê ̣n các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học
tập, làm việc;
b) Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;
c) Tham gia các chương trình học tập , dạy nghề do địa
phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
4. Tuỳ từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn
đi ̣nh thời gian thực hiê ̣n các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c
khoản 3 Điều này từ 03 tháng đến 01 năm [33, Điều 93].
1.1.1.2. Hòa giải tại cộng đồng
Hòa giải tại cộng đồng (Mediation at Grass Root Levels) [16, tr.10], là
việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp để họ tự nguyện giải
quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong cộng
16. 9
đồng dân cư. Hòa giải ở cộng đồng (cơ sở) được thực hiện thông qua Tổ hòa
giải (hòa giải viên) hoặc các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở thôn, bản,
ấp, tổ dân phố, cụm dân cư, phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và phong
tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân.
Ngoài ra, “hòa giải” có thể được định nghĩa là “nỗ lực của một bên thứ
ba trung lập nhằm giúp đỡ các đương sự giải quyết mâu thuẫn thông qua việc
tổ chức các cuộc gặp mặt trực tiếp. Trong những cuộc gặp mặt đó, bên thứ ba
không có thẩm quyền áp đặt một phương án phân xử nào đối với các đương
sự mà chỉ đóng vai trò hỗ trợ họ thiết lập một phương án giải quyết mâu thuẫn
phù hợp với tất cả các bên” [60]
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:
1. Hòa giải ta ̣i cô ̣ng đồng được áp dụng đối với người dưới
18 tuổi pha ̣m tội trong những trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi pha ̣m tội ít nghiêm
trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi pha ̣m tội rất nghiêm
trọng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với
Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự
nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
3. Người được áp dụng biê ̣n pháp hòa giải ta ̣i cộng đồng phải
thực hiê ̣n các nghĩa vụ sau đây:
a) Xin lỗi người bi ̣ha ̣i và bồi thường thiê ̣t ha ̣i;
b) Nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này
[32, Điều 94].
17. 10
Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 xác định rõ việc hòa giải chỉ được tiến
hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường
hợp: mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng; vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải, vi phạm pháp luật
mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm
hành chính; ;mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo
quy định pháp luật.
Điều đáng lưu ý là một trong những nguyên tắc hòa giải quan trọng
được quy định tại Điều 4 của Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 là phải tôn trọng
sự tự nguyện của các bên, không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ
sở; bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội,
phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân, phát huy tinh thần đoàn kết, tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng
đồng dân cư, quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người
khuyết tật và người cao tuổi. Việc hòa giải phải có lý, có tình; giữ bí mật
thông tin đời tư của các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.
Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải cơ sở thì hòa giải
ở cơ sở được áp dụng để giải quyết đối với các vi phạm pháp luật và tranh
chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư, kể cả vi phạm pháp luật của người dưới 18
tuổi, bao gồm:
- Mâu thuẫn, xích mích giữa các thành viên trong gia đình hoặc mâu
thuẫn, xích mích giữa các cá nhân trong quan hệ xóm giềng như sử dụng lối
đi chung, sử dụng điện, nước, công trình phụ, gây mất vệ sinh chung...;
- Tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ quan hệ dân sự như quan hệ
tài sản, quan hệ hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất;
18. 11
- Tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ quan hệ hôn nhân, gia đình
như thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ
và con;
- Tranh chấp phát sinh từ những vi phạm pháp luật mà theo quy định
của pháp luật hành vi đó chưa đến mức bị xử lý hình sự hoặc hành chính như:
trộm cắp vặt, đánh chửi nhau gây mất trật tự công cộng, đánh nhau gây
thương tích nhẹ, va quệt xe cộ gây thương tích nhẹ.
1.1.1.3. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Một điểm mới trong Bộ luật hình sự năm 2015 là biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn được quy định là một trong các biện pháp giám sát, giáo
dục trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.
Biện pháp này không buộc người dưới 18 tuổi phạm tội phải cách ly
khỏi xã hội mà được giáo dục, cải tạo ngay trong môi trường xã hội bình
thường. Hay nói cách khác, người dưới 18 tuổi phạm tội khi được áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì họ tiếp tục được sinh hoạt, học
tập, lao động tại gia đình và nhà trường. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc giúp người dưới 18 tuổi tránh được những mặc cảm về tội lỗi của
mình, giúp họ nhanh chóng nhận ra lỗi lầm để tự giác rèn luyện sửa chữa.
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được áp dụng với người
dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn được áp dụng trong những trường hợp người dưới 18
tuổi phạm tội chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ về học tập , lao động; chịu sự
giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn; không đi khỏi nơi cư trú
khi không được phép; các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của Bộ
luật hình sự năm 2015.
Trong thời gian áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn,
người dưới 18 tuổi không bị cách ly khỏi xã hội nhưng phải chấp hành một số
nghĩa vụ nhất định. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
19. 12
trấn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là từ 1 năm đến 2 năm.
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn chỉ được áp dụng khi môi trường sống
của người chưa thành niên phạm tội có những điều kiện tốt cho việc giáo dục,
cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội thông qua các hoạt động học tập,
lao động, sinh hoạt của họ. Trong trường hợp môi trường xã hội của người
dưới 18 tuổi không đáp ứng đầy đủ các điều kiện về giáo dục và cải tạo thì
phải áp dụng biện pháp tư pháp đưa tại trường giáo dưỡng [10, tr.324].
Trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội đã chấp hành được 1/2
thời hạn và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc
tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục hoặc theo đơn đề nghị của người
dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án cấp huyện nơi người đó đang chấp hành biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ra quyết định chấm dứt thời hạn chấp
hành biện pháp này.
1.1.2. Khái niệm, bản chất pháp lý của biện pháp tư pháp
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý xâm phạm tới các quan hệ xã hội do luật hình sự bảo vệ [10]. Do
vậy, chủ thể thực hiện tội phạm sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất
lợi do hành vi phạm tội của mình gây ra, đó chính là việc phải chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Hay nói một cách đơn giản
là người phạm tội sẽ phải chịu một trong các hình phạt hoặc biện pháp tư
pháp theo quy định của luật hình sự, nếu hành vi của họ cấu thành tội phạm.
Hình phạt được coi là chế tài nghiêm khắc nhất của Nhà nước dành cho
người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
Hình phạt được Nhà nước sử dụng như là một công cụ hữu hiệu trong cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội
và các lợi ích hợp pháp của công dân [10, tr.227]. Nhưng với quan điểm của
20. 13
Nhà nước ta trong việc xử lý tội phạm không chỉ nhằm mục đích trừng trị mà
còn giáo dục người phạm tội nhận thức được sai lầm của bản thân, trở thành
người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đồng thời, xuất phát từ
chính sách nhân đạo trong pháp luật của nước ta nói chung, pháp luật hình sự
nói riêng, xuất phát từ tình hình, hoàn cảnh phạm tội, tính chất của tội phạm
nên bên cạnh hệ thống hình phạt, còn có các biện pháp tư pháp được quy định
trong Bộ luật hình sự [10, tr.227].
Biện pháp tư pháp được quy định tại Mục 3 Chương XII là biện pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một khái niệm chính thức nào định nghĩa
về biện pháp tư pháp nhưng các nhà luật học đều thống nhất rằng biện pháp tư
pháp thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước và mang tính hỗ trợ cho hình
phạt khi được áp dụng để tăng cường hiệu quả xử lý tội phạm, mang lại an
toàn, trật tự và công bằng cho xã hội; đồng thời, trong một số trường hợp thì
việc áp dụng biện pháp tư pháp lại có ý nghĩa thay thế hình phạt.
Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội, biện pháp tư pháp được hiểu là “các biện pháp hình sự được Bộ luật
hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt”
[10, tr.257].
Ngoài ra, còn một khái niệm khoa học khác về biện pháp tư pháp trong
khoa học luật hình sự. Theo người nghiên cứu, khái niệm này tương đối hoàn
chỉnh, thể hiện được tính chất, vị trí, vai trò của biện pháp tư pháp trong hệ
thống chế tài hình sự.
Theo GS.TSKH. Lê Cảm, biện pháp tư pháp được hiểu đầy đủ hơn,
21. 14
đó là:
Biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm
khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan
tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự
tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế
quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt [6].
Như vậy, qua khái niệm trên có thể hiểu một cách tương đối cụ thể về
biện pháp tư pháp với những dấu hiệu sau:
1. Trước hết, biện pháp tư pháp là biện pháp thể hiện trách nhiệm hình
sự của một cá nhân khi người đó có hành vi phạm tội.
2. Biện pháp tư pháp là một chế tài ít nghiêm khắc hơn so với hình
phạt, do pháp luật hình sự quy định; là kết quả của sự phân hoá trách nhiệm
hình sự nhìn từ góc độ hình phạt. Dấu hiệu này thể hiện vị trí pháp lý và khả
năng áp dụng của biện pháp tư pháp.
Biện pháp tư pháp là chế tài của pháp luật hình sự do vậy nó phải được
quy định trong Bộ luật hình sự (cụ thể đã được quy định tại các điều 41, 42,
43 và 70 của Bộ luật hình sự); đồng thời, việc áp dụng biện pháp tư pháp trên
thực tế chính là kết quả của quá trình cân nhắc, xem xét mức độ nguy hiểm
của hành vi cũng như các dấu hiệu khác như nhân thân của người phạm tội để
quyết định xem áp dụng hình phạt hay biện pháp tư pháp.
3. Biện pháp tư pháp có thể được áp dụng trong những giai đoạn tố
tụng hình sự khác nhau. Khác với hình phạt chỉ được áp dụng thông qua bản
án của Tòa án, biện pháp tư pháp có thể được áp dụng ở những giai đoạn tố
tụng khác.
4. Biện pháp tư pháp là biện pháp mang tính thay thế hoặc hỗ trợ cho
hình phạt.
22. 15
Khái niệm khoa học này có một ý nghĩa quan trọng, là cơ sở lý luận của
việc nghiên cứu chuyên sâu về biện pháp tư pháp nói chung và biện pháp tư
pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Từ khái niệm khoa học trên về biện pháp tư pháp, ta có thể hiểu một
cách đơn giản biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
“Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là biện pháp
cưỡng chế về hình sự của Nhà nước áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội, ít nghiêm khắc hơn hình phạt, được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm
quyền áp dụng nhằm hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt”.
Như vậy, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước bổ sung cho hệ thống hình phạt với
mục đích là thay thế cho hình phạt. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu
thấy không cần thiết áp dụng hình phạt thì Tòa án có thể áp dụng các biện
pháp tư pháp. Các biện pháp này vẫn có tính giáo dục, phòng ngừa cao đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng người được áp dụng lại không bị coi
là có án tích. Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định:
1. Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích,
nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm
ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm
trọng do vô ý;
c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại mục 3
Chương này.
2. Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì
đương nhiên xóa án tích nếu trong thời hạn 03 năm tính từ khi chấp
23. 16
hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án
mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới [32, Điều 107]
Các biện pháp tư pháp đã tạo điều kiện cho Tòa án vận dụng linh hoạt
và đúng đắn chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi, giúp họ có điều
kiện sửa chữa những sai phạm, trở thành người có ích cho xã hội. Căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu
cầu của việc phòng ngừa tội phạm mà Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Giáo dục tại trường giáo dưỡng vừa là chế tài hình sự, vừa là chế tài
hành chính. Với tính chất là chế tài hình sự, giáo dục tại trường giáo dưỡng
được coi là biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội [28, tr.172].
Giáo dục tại trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp buộc người bị áp
dụng phải cách ly khỏi môi trường xã hội mà họ đang sinh sống đưa vào cơ sở
đặc biệt do Nhà nước thành lập trong thời hạn từ 1 năm đến 2 năm.
Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng có thể được Tòa án áp dụng
nếu thấy tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và môi
trường sống của người dưới 18 tuổi cần đưa vào một tổ chức giáo dục có kỷ
luật chặt chẽ [28, tr.173].
Trường giáo dưỡng [16, tr.45] (Reform Schools) là cơ sở giáo dục tập
trung của Nhà nước có nhiệm vụ quản lý, giáo dục đạo đức, pháp luật, văn
hóa, hướng nghiệp và tổ chức lao động phù hợp với lứa tuổi cho người dưới
18 tuổi vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
nhằm giúp đỡ các em phục hồi, trở thành người có ích cho xã hội, có khả
năng tái hòa nhập cộng đồng sau khi ra khỏi trường.
Trường giáo dưỡng là một loại trường chuyên biệt thuộc hệ thống giáo
24. 17
dục quốc dân. Học sinh trường giáo dưỡng được học văn hóa theo chương
trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Văn bằng, chứng chỉ học văn hóa, học
nghề trong các trường giáo dưỡng có giá trị như văn bằng của các trường phổ
thông [10, tr.325].
Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thường được áp dụng với
người dưới 18 tuổi phạm tội có nhân thân tương đối xấu, môi trường trước khi
phạm tội không thuận lợi cho việc giáo dục cải tạo họ, như trong gia đình
thường xuyên có người vi phạm pháp luật, bạn bè là những người có nhân
thân không tốt, bản thân không có chỗ học tập, lao động, sinh hoạt ổn định.
Đối với những trường hợp này, nếu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn thì không đạt được mục đích giáo dục, cải tạo người dưới 18
tuổi phạm tội còn áp dụng hình phạt tù lại chưa cần thiết [18].
Ngoài ra, Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 quy định về
vấn đề này. Theo các văn bản đó, người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu do tính
chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của
người đó mà cần đưa họ vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ thì
Tòa án áp dụng biện pháp này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội với thời
hạn từ 1 năm đến 2 năm (còn biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng với tính
chất là chế tài hành chính được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi vi phạm
hành chính).
Tại các trường giáo dưỡng, người dưới 18 tuổi vi phạm được tiếp tục
học văn hóa, được giáo dục để nhận thức rõ hơn về pháp luật và trẻ ở lứa tuổi
15 đến 18 còn được học nghề để sau này khi ra trường có điều kiện tái hòa
nhập với xã hội.
1.2. Cơ sở của việc quy định và áp dụng biện pháp giám sát, giáo
dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.2.1. Cơ sở lý luận
- Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng
25. 18
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ
trẻ em trong tình hình mới, trong đó có yêu cầu:
Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình,
đề án chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em... Tổ chức thực hiện tốt
Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các công ước, điều
ước quốc tế khác có liên quan mà Nhà nước Việt Nam ký kết hoặc
tham gia...;
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định:
Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế
bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo
dục nếp sống và hình thành nhân cách;... Chú trọng cải thiện điều
kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục
và bảo vệ trẻ em...;
- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới đã đề ra
nhiệm vụ: “Nghiên cứu thành lập Tòa hôn nhân và gia đình” (điểm c mục 2
Phần B của Nghị quyết);
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra phương hướng:
Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương
tiện làm việc; trong đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử
là hoạt động trọng tâm...; Nghị quyết cũng xác định nhiệm vụ cải
cách là: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn
thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng
và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân; Tổ chức
Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành
26. 19
chính... Việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét
xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi mới Tòa án nhân dân tối
cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên
gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành [2, tiểu
mục 2.2 mục 2 Phần II].
- Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 xác định: Tổ chức Tòa án theo tinh thần Nghị
quyết 49-NQ/TW gồm 4 cấp là: Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Toà án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Toà án nhân dân cấp cao và
Tòa án nhân dân tối cao (mục 2 Kết luận 79-KL/TW).
- Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi dưới 18
Người dưới 18 tuổi có một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất; cơ
thể của các em còn đang ở thời kỳ phát triển về mọi mặt như chiều cao, chiều
ngang, trọng lượng cơ thể v.v...
+ Bộ não, tư duy của người dưới 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ, còn rất
nhiều khuyếm khuyết chưa đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, ứng
xử trong cuộc sống.
+ Người dưới 18 tuổi nói chung chưa có cuộc sống tự lập, mà thường
còn sống phụ thuộc vào người lớn; do vậy tính làm chủ bản thân, làm chủ
cuộc sống của người dưới 18 tuổi còn rất thấp, nhiều trường hợp còn dựa dẫm
vào người lớn.
+ Người dưới 18 tuổi còn ít phải bươn chải với cuộc sống, còn ít va
chạm, tiếp xúc với các hiện tượng của cuộc sống xã hội; nên họ còn rất ít kinh
nghiệm sống, chưa có đủ khả năng để thể hiện quan điểm, lập trường trong
27. 20
nhiều tình huống.
+ Người dưới 18 tuổi còn dễ bị lôi cuốn vào nhiều việc mà không tự
chủ được; nhiều khi ở những người dưới 18 tuổi còn có sự tò mò, hiếu kỳ,
ham hiểu biết về một vấn đề nào đó, muốn tự tay mình thử nghiệm, tìm hiểu;
đôi khi họ muốn tỏ ra mình là người lớn, muốn có biểu hiện của sự anh hùng
v.v... Đây là những lý do dẫn người dưới 18 tuổi có những hành vi, xử sự
thiếu suy nghĩ (có thể nói là không suy nghĩ).
+ Nhưng đồng thời người dưới 18 tuổi lại rất nhanh, rất nhạy cảm trong
việc tiếp xúc, tìm hiểu, tiếp thu những vấn đề gọi là mới (hoặc là mới đối
với họ).
Có thể nói người dưới 18 tuổi có đặc điểm chung khác với người đã
thành niên là ở chỗ người chưa thành niên đang ở độ tuổi thấp, đang ở thời kỳ
phải học ăn, học nói, học gói, học mở, phải tích luỹ kiến thức, tri thức, kinh
nghiệm để có đầy đủ các điều kiện làm chủ cuộc sống của mình ngày mai[27].
1.2.2. Căn cứ pháp lý
- Các quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân
dân về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, hoạt động của Tòa án: Tòa án là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; xét xử những vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân và gia đình... và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp
luật (Điều 102 của Hiến pháp 2013; các điều 18, 23, 30... của Luật tổ chức
Tòa án nhân dân).
- Các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội:
+ Điều 91 của Bộ luật hình sự quy định:
28. 21
1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi pha ̣m tội phải bảo đảm lợi
ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành
công dân có ích cho xã hội.
Viê ̣c xử lý người dưới 18 tuổi pha ̣m tội phải căn cứ vào độ
tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
2. Người dưới 18 tuổi pha ̣m tô ̣i thuộc một trong các trường
hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhe ̣ , tự nguyện khắc phục
phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29
của Bộ luật này , thì có thể được miễn trách nhiê ̣m hình sự và áp
dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy đi ̣nh ta ̣i Điều 134
(tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản );
Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ
trái phép chất ma túy ); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma
túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy ); Điều 252 (tội
chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi pha ̣m tội rất nghiêm
trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này , trừ
trường hợp quy đi ̣nh ta ̣i Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các
khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142
(tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người);
Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản);
29. 22
Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép
chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250
(tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái
phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy ) của Bộ
luâ ̣t này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng pha ̣m nhưng có vai trò
không đáng kể trong vụ án.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những
đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử , Toà án chỉ áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi pha ̣m tô ̣i nếu xét thấy việc miễn t rách nhiệm hình sự
và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc
áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại
Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
6. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo
dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi
phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời ha ̣n thích
hợp ngắn nhất.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
30. 23
7. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì
không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm [32].
+ Đối với người bị hại là trẻ em, Bộ luật hình sự có nhiều quy định cụ
thể, rõ ràng và chặt chẽ nhằm nghiêm trị những hành vi xâm hại tới tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm của trẻ em. Các chế tài áp dụng cho những
trường hợp phạm tội đối với trẻ em đều được Bộ luật hình sự quy định
nghiêm khắc hơn nhiều so với những trường hợp phạm tội đối với người đã
thành niên.
+ Bộ luật tố tụng hình sự đã dành toàn bộ Chương XXVIII - Thủ tục tố
tụng đối với người dưới 18 tuổi. Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi được áp dụng theo quy định của
Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái
với những quy định của Chương này bao gồm: nguyên tắc tiến hành tố tụng;
người tiến hành tố tụng, việc giám sát đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; áp
dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, việc tham gia tố tụng của
người đại diện, nhà trường, tổ chức; trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp khiển
trách, biện pháp hòa giải tại cộng đồng, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn, biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng...
+ Điều 84 của Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với đương sự là
người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người
bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời
khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ của
người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
+ Về việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại: Điều
155 của Bộ luật tố tụng hình sự quy định những vụ án về các tội phạm được
quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và
31. 24
226 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc
của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người dưới 18 tuổi, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
- Quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự về những tranh chấp
về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; những yêu
cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Các quy định của Luật trẻ em; Luật hôn nhân và gia đình; Luật
con nuôi; Luật phòng, chống bạo lực gia đình; Luật bình đẳng giới và Bộ luật
dân sự.
- Quy định tại Điều 105 của Luật xử lý vi phạm hành chính về việc giao
cho Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc đối với trẻ em và người dưới 18 tuổi.
Các văn kiện quốc tế
- Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em
Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em là văn kiện pháp lý có ảnh
hưởng lớn nhất đến tư pháp người dưới 18 tuổi do phạm vi điều chỉnh của nó,
do mức độ tham gia rộng rãi của các quốc gia và do nó có hiệu lực bắt buộc
thi hành đối với các quốc gia thành viên. Các điều khoản có liên quan nhiều
nhất đến bản chất và phạm vi của một hệ thống tư pháp dành riêng cho người
dưới 18 tuổi bao gồm:
+ Điều 4 yêu cầu các quốc gia thành viên tiến hành tất cả những biện
pháp lập pháp, hành pháp và những biện pháp thích hợp khác để thực hiện
những quyền của trẻ em đã được ghi nhận trong Công ước. Trong số những
quyền đó có 5 nguyên tắc chung mà Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em
yêu cầu các quốc gia thành viên phải tuân thủ khi xây dựng chính sách, luật
pháp và thực thi pháp luật liên quan đến bất cứ trẻ em nào dưới 18 tuổi: (a)
32. 25
Lợi ích tốt nhất của trẻ em (Điều 3); (b) nguyên tắc không phân biệt đối xử
(Điều 2); (c) quyền sống, sinh tồn và phát triển (Điều 6); (d) quyền được lắng
nghe của trẻ em (Điều 12); và nhân phẩm của trẻ em (Điều 40.1).
+ Điều 9 áp dụng đối với mọi trường hợp trẻ em bị buộc phải cách ly
khỏi cha mẹ, chẳng hạn trong trường hợp bị lạm dụng, sao nhãng, bóc lột
hoặc tranh chấp về quyền nuôi con. Trong những trường hợp đó, quyết định
cách ly của cơ quan có thẩm quyền phải có khả năng được Toà án xem xét lại;
đồng thời, “tất cả các bên có lợi ích liên quan phải có cơ hội tham gia vào quá
trình giải quyết và trình bày quan điểm của mình”.
+ Điều 12(2) áp dụng đối với tất cả các loại vụ việc và yêu cầu các
quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng “trẻ em sẽ được tạo cơ hội để tự mình
trình bày ý kiến trong bất cứ thủ tục hành chính và tư pháp nào có ảnh hưởng
đến trẻ em hoặc thông qua người đại diện hay bằng một hình thức khác phù
hợp với các quy định về tố tụng của nội luật”.
+ Điều 37 giải quyết vấn đề quyền của trẻ em vi phạm pháp luật bị tước
tự do. Ngoài những vấn đề khác, điều luật này đòi hỏi rằng tất cả trẻ em đều
phải được đối xử một cách nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm, theo cách thức
phù hợp với nhu cầu của con người ở độ tuổi các em. Trẻ em bị tước tự do có
quyền được tiếp cận nhanh chóng đối với “trợ giúp pháp lý và những hình
thức hỗ trợ thích hợp khác, cũng như có quyền được khiếu nại về tính hợp
pháp của việc tước tự do lên Toà án hoặc một cơ quan khác có thẩm quyền,
độc lập và khách quan, và được giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng”.
+ Điều 40 yêu cầu các quốc gia thành viên “tìm cách thúc đẩy việc ban
hành luật pháp, thiết lập các thủ tục, cơ quan, thiết chế đặc biệt dành cho trẻ
em bị cho là, bị truy tố hoặc kết luận là vi phạm pháp luật...”, bao gồm cả
quyền của trẻ em được “một cơ quan có thẩm quyền, độc lập và khách quan
hoặc một cơ quan tư pháp, trong một cuộc tường trình công bằng theo pháp
luật...” nhanh chóng xác định có tội hay không có tội và trẻ em có quyền đề
33. 26
nghị một cơ quan tư pháp có thẩm quyền cao hơn xem xét lại kết luận này.
- Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình
sự - Nghị quyết 1997/30 của Liên hợp quốc - Quản lý tư pháp hình sự (Hướng
dẫn Viên)
+ Điều 11 kêu gọi các quốc gia bảo đảm rằng:
những nguyên tắc và quy định của Công ước về Quyền trẻ
em và những chuẩn mực cũng như các quy phạm của Liên hợp
quốc về tư pháp người dưới 18 tuổi được phản ảnh một cách đẩy đủ
trong luật pháp, chính sách và thực tiễn của quốc gia, đặc biệt thông
qua việc thiết lập một hệ thống tư pháp người dưới 18 tuổi hướng
về trẻ em trong đó bảo đảm quyền của trẻ em, thúc đẩy ý thức của
trẻ em về phẩm giá và giá trị, và quan tâm đầy đủ đến độ tuổi của
trẻ em, mức độ phát triển và quyền của các em được tham gia đóng
góp cho xã hội một cách có ý nghĩa.
+ Điều 14 quy định rằng cần đặc biệt chú ý đến việc bảo đảm “một thủ
tục tư pháp người dưới 18 tuổi mang tính tổng hợp có trọng tâm là trẻ em”,
khuyến nghị rằng các chuyên gia độc lập hoặc các hội đồng khác cần rà soát
pháp luật hiện hành về tư pháp người dưới 18 tuổi và tác động của hệ thống
này đến trẻ em. Điều 14 (d) quy định rõ việc khuyến khích các quốc gia
“thành lập các Toà án người dưới 18 tuổi có quyền tài phán trước hết đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội hình sự, thiết lập các thủ tục tố tụng đặc biệt trên
cơ sở chú trọng đến những nhu cầu cụ thể của trẻ em”.
- Quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về quản lý tư pháp người chưa
thành niên (Quy tắc Bắc Kinh)
Quy tắc Bắc Kinh nêu rõ: Tư pháp người chưa thành niên là một bộ
phận của nền tư pháp quốc gia, bao gồm các quy định pháp luật và việc áp
dụng các quy định đó đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật do
34. 27
một hệ thống các cơ quan tài phán và một đội ngũ những người tham gia vào
các hoạt động tư pháp thực hiện theo nguyên tắc coi hạnh phúc và sự cải tạo
của chưa thành niên là mục tiêu hàng đầu; đồng thời, duy trì trật tự công cộng
và đạo đức xã hội, bảo đảm việc xử lý người chưa thành niên phạm pháp luôn
phù hợp, tương xứng với hoàn cảnh, động cơ và hành vi vi phạm pháp luật
của họ.
- Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa vi phạm pháp luật của
người chưa thành niên (Hướng dẫn Riyadh)
Quy tắc 52 kêu gọi các chính phủ ban hành và thực thi “luật và thủ tục
để thúc đẩy và bảo vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên”.
- Quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về các biện pháp không giam giữ
(Quy tắc Tokyo)
Quy tắc khuyến nghị các quốc gia phát triển nhiều biện pháp không
giam giữ để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ giai đoạn tiền xét
xử đến sau khi kết án. Quy tắc quy định rằng cần có nhiều hình thức chế tài
dựa vào cộng đồng cho Thẩm phán lựa chọn.
- Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên (người
dưới 18 tuổi) bị tước tự do (JDLs)
Văn kiện này chứa đựng một tập hợp các quy phạm và chế định cụ thể
để áp dụng trong trường hợp người dưới 18 tuổi bị tước tự do trong bất cứ
giai đoạn tố tụng nào. Văn kiện này được áp dụng đối với nhiều loại thiết chế,
bao gồm cả các thiết chế có mục đích hình sự, cải tạo, giáo dục hay bảo vệ.
Quy tắc đã ghi nhận và mở rộng Điều 37 của Công ước Liên hợp quốc về
quyền trẻ em và Quy tắc Bắc Kinh, nhấn mạnh rằng việc tước tự do phải là
giải pháp cuối cùng và áp dụng trong thời gian ngắn nhất có thể.
- Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước quyền trẻ em về
buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm sử dụng trẻ em
35. 28
Nghị định thư yêu cầu các quốc gia phải tiến hành tất cả các biện pháp
thích hợp để bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại chưa thành niên trong
tất cả các giai đoạn của quá trình tư pháp hình sự và đặc biệt là phải áp dụng
những thủ tục trong đó các nhu cầu đặc biệt của bị hại là người dưới 18 tuổi,
bao gồm cả các nhu cầu đặc biệt của các em khi với tư cách là người làm
chứng, sẽ được nhìn nhận. Nghị định thư kêu gọi các quốc gia thành viên bảo
đảm rằng hệ thống tư pháp hình sự sẽ đối xử với trẻ em là người bị hại của tội
phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định thư trên cơ sở cân nhắc trước
tiên đến lợi ích của trẻ em.
1.2.3. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã có nhiều hoạt động thiết
thực trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và đã đạt được những
bước tiến lớn. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn đang tồn tại một thực trạng đáng lo
ngại là tình trạng vi phạm pháp luật nói chung và tình trạng phạm tội nói riêng
ở người dưới 18 tuổi diễn biến phức tạp, có chiều hướng ngày càng gia tăng
về tính chất nguy hiểm và diễn biến hết sức phức tạp, nhất là các băng nhóm
thanh, thiếu niên tụ tập ăn chơi, gây rối trật tự công cộng diễn ra rất phức tạp
ở nhiều nơi.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về việc áp dụng các biện pháp giám sát,
giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.3.1. Ở Anh và xứ Wales
Cảnh cáo
Ở Anh và xứ Wales, những nhà lý thuyết và thực tiễn đều nhìn nhận
vấn đề người dưới 18 tuổi phạm pháp từ góc độ thuyết “gắn mác”. Lý thuyết
này chỉ ra rằng đối với rất nhiều người dưới 18 tuổi phạm tội, những hình
phạt chính thức của pháp luật chỉ góp phần thêm vào việc làm hình thành bản
chất tội phạm của họ. Khi một người dưới 18 tuổi bị “gắn mác” là tội phạm
36. 29
chưa thành niên, họ sẽ tiếp thu những thái độ và hành vi tội phạm. Do đó,
thay vì giúp người dưới 18 tuổi từ bỏ hành vi phạm tội, việc xử phạt chính
thức sẽ chỉ làm củng cố thêm tính cách và hành vi phạm tội của người dưới 18
tuổi đó [61, tr.28].
Do việc viện đến Tòa án để xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội ở Anh và
xứ Wales được coi là giải pháp cuối cùng bất đắc dĩ, biện pháp cảnh cáo đã
được áp dụng ngày càng phổ biến từ những năm 1980. Các cán bộ công an
được trao quyền tự quyết trong việc áp dụng biện pháp cảnh cáo đối với
người dưới 18 tuổi phạm pháp những lỗi tương đối nhẹ thay vì bắt họ để truy
tố chính thức.
Các nghiên cứu về biện pháp cảnh cáo thường chỉ đánh giá tính hiệu
quả của biện pháp này dựa trên kết quả giảm số lượng người dưới 18 tuổi bị
xử lý bằng hệ thống tư pháp chính thống. Một căn cứ khác mang tính kinh
nghiệm trong đánh giá hiệu quả của biện pháp cảnh cáo là tìm hiểu xem biện
pháp này có giúp giảm hành vi tái phạm của người bị cảnh cáo hay không. Cả
hai phương pháp đánh giá này đều cho thấy biện pháp khiển trách là có hiệu
quả: các nghiên cứu cho thấy số người dưới 18 tuổi phạm pháp bị xử lý chính
thức tại Tòa án và bị xử phạt tù có xu hướng giảm bền vững thấy rõ khi áp
dụng cảnh cáo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy biện pháp cảnh cáo còn tỏ
ra hiệu quả trong việc làm giảm tình trạng tái phạm của người dưới 18 tuổi
phạm pháp “tỷ lệ tái phạm trong số người vi phạm bị cảnh cáo so với những
người chưa từng bị cảnh cáo hoặc chưa từng phải ra trước tòa chỉ là khoảng
một phần mười” [61, tr.33].
Phong trào tăng cường sử dụng biện pháp cảnh cáo và nhu cầu có thêm
những biện pháp xử lý chuyển hướng trước khởi tố đã dẫn đến việc ra đời của
các đội liên ngành. Những đội này bao gồm đại diện Công an, Dịch vụ xã hội,
Ngành giáo dục, Dịch vụ thanh thiếu niên và Tình nguyện viên.
Các thành viên của những đội này sẽ quyết định việc người dưới
37. 30
18 tuổi có cần được hỗ trợ, can thiệp để giúp họ tránh tham gia vào các
hoạt động tội phạm về sau này hay không. Biện pháp can thiệp được chọn
thường là dưới hình thức các chương trình giáo dục, chương trình xã hội,
chương trình xử lý hành vi vi phạm và khắc phục đền bù cho người bị hại
và cộng đồng.
Biện pháp bán giam giữ (IT)
Biện pháp xử lý bán giam giữ được Bộ Y tế và An ninh Xã hội chính
thức đưa vào áp dụng từ năm 1983. Dự án này đã tiêu tốn của Chính phủ 15
tỷ bảng nhưng bù lại đã được 4.500 “cơ sở tại cộng đồng” cho người dưới 18
tuổi phạm pháp đã phạm những tội nghiêm trọng hoặc tái phạm nhiều lần.
Các cơ sở này là phương án thay thế cho việc giam giữ người dưới 18 tuổi
phạm pháp và có chức năng quản lý giám sát chặt chẽ, đồng thời vạch ra các
chương trình giúp người dưới 18 tuổi giảm nguy cơ tái phạm thông qua việc
xử lý sớm những xu hướng tội phạm trong số họ [61, tr.527].
Do các chương trình IT là biện pháp thay thế cho giam giữ nên các cơ
sở này buộc phải giữ “kỷ luật thép” tương tự như trong trại giam, nghĩa là có
quản lý giám sát chặt chẽ trong khi người dưới 18 tuổi vẫn được tham gia vào
các chương trình tại cộng đồng.
Tư pháp phục hồi cảnh cáo “3R” (xử lý chuyển hướng trước khởi tố)
Trong suốt 10 năm vừa qua, các chương trình xử lý chuyển hướng phục
hồi mới đã được phát triển mạnh mẽ tại Anh và xứ Wales. Tuy nhiên, chương
trình đầu tiên trong số đó thì lại không hoàn toàn mới vì nó chính là phiên bản
mang thêm tính phục hồi của biện pháp cảnh cáo đã triển khai trước đó.
Chương trình này ra đời vào năm 1997 sau thắng lợi của Công đảng trong
cuộc bầu cử Chính phủ. Chương trình thứ hai trong số này được Đạo luật về
Chứng cứ hình sự và tư pháp thanh thiếu niên quy định vào năm 1999 tập
trung vào mô hình lệnh chuyển tuyến. Các lệnh chuyển tuyến được sử dụng
38. 31
để chuyển người dưới 18 tuổi phạm pháp cho các Đội công tác người dưới 18
tuổi phạm pháp xử lý [61, tr.534].
Chính phủ Công đảng của Anh và xứ Wales đã triển khai quy trình
cảnh cáo 3R; Cảnh sát vùng Thames Valley đã thực thi quy trình này từ
năm 1998. Quy trình này cũng tương tự như biện pháp cảnh cáo trước đó, trừ
việc các nhân viên Chính phủ đã cộng gộp, lồng ghép 3R dựa trên các nguyên
tắc tư pháp phục hồi vào biện pháp này. Các cán bộ áp dụng biện pháp cảnh
cáo 3R được đào tạo trước khi tham gia vào lĩnh vực này; chương trình đào
tạo của họ tập trung vào kỹ năng điều hành các cuộc thảo luận với người dưới
18 tuổi vi phạm thông qua việc bàn thảo phân tích về hành vi vi phạm và làm
thế nào để khắc phục những thiệt hại gây ra do hành vi đó.
Phục hồi (Restoration), Tái hòa nhập (Reintegration) và Chịu trách
nhiệm (Responsibility) đã tạo nên tên gọi 3R của biện pháp này và thể hiện sự
cần thiết của việc người dưới 18 tuổi phạm pháp phải giải quyết các hậu quả
do hành vi vi phạm của mình gây ra. Mục tiêu này được thực hiện thông qua
việc người dưới 18 tuổi xin lỗi, sửa chữa hành vi của mình, trả “món nợ” với
cộng đồng và thừa nhận trách nhiệm đối với hành vi vi phạm cũng như những
thiệt hại mà họ đã gây ra cho người bị hại và cộng đồng [61, tr.544].
Lệnh chuyển tuyến
Các đội công tác người dưới 18 tuổi phạm pháp (YOP) tương tự như
mô hình ban tham mưu của Canada ở khía cạnh cơ cấu thành viên, mục tiêu
và tổ chức. Người vi phạm lần đầu là người từ 10 tuổi đến 17 tuổi bị kết luận
là có tội được chuyển tới Đội công tác YOP nếu họ không được Tòa án miễn
trách nhiệm hoàn toàn mà vi phạm của họ được cho là không nghiêm trọng
đến mức phải xử phạt giam giữ [61, tr.548].
Các đội công tác này bao gồm đại diện từ nhiều cơ quan đoàn thể,
ít nhất là bao gồm 2 thành viên từ cộng đồng và một đại diện cha mẹ người
39. 32
dưới 18 tuổi phạm pháp (nếu chúng từ 16 tuổi trở xuống). Tương tự như mô
hình Ban tham mưu Canada, các đội YOP cũng hoạt động trên nguyên tắc
phục hồi. Chính vì vậy, người bị hại và đại diện cộng đồng được mời
tham gia cùng với cán bộ hỗ trợ hoặc cán bộ mạng lưới xã hội dành cho người
dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật.
Thỏa thuận đạt được trong biện pháp này cũng tương tự như quá trình
cùng thống nhất ra quyết định trong mô hình Ban tham mưu của Canada bao
gồm việc vạch ra các biện pháp giúp người vi phạm khắc phục thiệt hại do
hành vi của mình gây ra. Việc khắc phục này được thực hiện thông qua bồi
thường thiệt hại đối với những người bị ảnh hưởng do hành vi vi phạm (người
bị hại hoặc cộng đồng); đồng thời, yêu cầu người vi phạm phải tham gia vào
các chương trình xử lý phù hợp. Các chương trình được chọn dựa trên tiêu chí
các bên đều thống nhất rằng các chương trình đó sẽ giúp người dưới 18 tuổi
tránh vi phạm trong tương lai.
1.3.2. Ở Liên bang Nga
Theo quy định của Bộ luật hình sự của Liên bang Nga, chế tài hình sự
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi (từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi) bao
gồm việc áp dụng hình phạt và các biện pháp giáo dục bắt buộc, trong đó, các
biện pháp giáo dục bao gồm: cảnh cáo, giao cho cha mẹ hoặc người thay cha
mẹ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, giáo dục, buộc bồi
thường thiệt hại gây ra, hạn chế sự nhàn rỗi và đặt ra những đòi hỏi riêng đối
với xử sự của người dưới 18 tuổi.
Người dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng cùng một lúc nhiều biện pháp
giáo dục bắt buộc. Trong trường hợp người dưới 18 tuổi nhiều lần cố tình
không chấp hành biện pháp giáo dục thì theo đề nghị của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, biện pháp giáo dục bắt buộc bị hủy bỏ và hồ sơ vụ án được
chuyển đến cơ quan có thẩm quyền để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Biện pháp cảnh cáo là việc giảng giải cho người dưới 18 tuổi về tác hại
40. 33
do hành vi của mình gây ra và hậu quả của việc tái phạm hành vi đó theo quy
định của Bộ luật hình sự.
Giao cho giám sát là đặt nghĩa vụ cho các cá nhân hoặc cơ quan có
thẩm quyền giáo dục và kiểm tra tư cách của người dưới 18 tuổi.
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đối với người dưới 18 tuổi được đặt ra có
xem xét tình hình tài sản của người dưới 18 tuổi và người này có nghề nghiệp
hay không.
Biện pháp hạn chế sự nhàn rỗi và đặt ra những đòi hỏi riêng đối với xử
sự của người dưới 18 tuổi có thể quy định cấm lui tới những địa điểm nhất
định, cấm sử dụng những hình thức vui chơi nhất định, đặc biệt là hình thức
có liên quan đến việc điều khiển phương tiện giao thông cơ giới, hạn chế ra
khỏi nhà sau một thời gian nhất định, hạn chế đi đến địa phương mà không
được phép của cơ quan có thẩm quyền. Người dưới 18 tuổi có thể bị yêu cầu
trở lại trường học hoặc đi làm với sự giúp đỡ của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Ngoài ra, người dưới 18 tuổi còn có thể bị những hạn chế khác nữa
[54, tr.88-89].
1.3.3. Ở Kosovo
Luật tư pháp thanh thiếu niên của Kosovo cũng quy định về biện pháp
tư pháp. Tại Điều 6 của Luật quy định:
Đối với người sắp thành niên là người chưa tròn mười sáu
tuổi vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội thì chỉ được áp dụng
đối với người sắp thành niên bao gồm các biện pháp xử lý chuyển
hướng và các biện pháp giáo dục.
Điều 6 của Luật quy định:
Đối với người sắp thành niên là người chưa tròn mười sáu
tuổi vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội thì chỉ được áp dụng
các biện pháp tư pháp. Các biện pháp tư pháp có thể được áp dụng
41. 34
đối với người sắp thành niên bao gồm các biện pháp xử lý chuyển
hướng và các biện pháp giáo dục.
Trong đó, các biện pháp xử lý chuyển hướng có thể được áp dụng đối
với người sắp thành niên nhằm khuyến khích việc cải tạo phục hồi và tái hòa
nhập tích cực của người sắp thành niên vào cộng đồng và qua đó để phòng
ngừa hành vi tái phạm, bao gồm:
1) Hòa giải giữa người sắp thành niên với bên bị hại, bao gồm cả việc
người sắp thành niên xin lỗi bên bị hại;
2) Hòa giải giữa người sắp thành niên với gia đình mình;
3) Bồi thường thiệt hại cho bên bị hại thông qua thỏa thuận chung giữa
nạn nhân, người sắp thành niên và đại diện hợp pháp của người đó phù hợp
với điều kiện tài chính của người sắp thành niên;
4) Đi học đều;
5) Chấp nhận công việc hoặc chấp nhận việc đào tạo nghề phù hợp với
khả năng và kỹ năng của người sắp thành niên;
6) Thực hiện công việc lao động công ích phù hợp với khả năng của
người sắp thành niên thực hiện công việc đó;
7) Giáo dục các quy định về buôn bán, và
8) Tư vấn tâm lý.
Các biện pháp giáo dục nhằm giúp người dưới 18 tuổi phục hồi và phát
triển đúng đắn thông qua việc bảo vệ, trợ giúp và giám sát, tạo điều kiện học
tập, đào tạo nghề. Qua đó sẽ phát triển trách nhiệm của cá nhân người phạm
tội, góp phần giúp phòng ngừa hành vi tái phạm. Các biện pháp giáo dục có
thể áp dụng đối với người sắp đạt 18 tuổi bao gồm: biện pháp kỷ luật, các
biện pháp tăng cường giám sát và các biện pháp giáo dục tập trung [54, tr18].
Biện pháp kỷ luật gồm cảnh cáo tư pháp và đưa người sắp đạt độ tuổi 18
42. 35
vào trung tâm kỷ luật. Những biện pháp này được áp dụng khi lợi ích tốt nhất
của người dưới 18 tuổi được bảo đảm bằng biện pháp kỷ luật ngắn hạn, đặc
biệt trong trường hợp hành vi phạm tội được thực hiện do vô ý hoặc bất cẩn.
Biện pháp tăng cường giám sát được áp dụng khi lợi ích tốt nhất của
người sắp đạt 18 tuổi không đòi hỏi các em phải cách ly khỏi môi trường
trước đây của mình và được bảo đảm bằng biện pháp giáo dục dài hạn, tạo
cho họ cơ hội được học tập, cải tạo phục hồi hoặc điều trị. Thời hạn áp dụng
các biện pháp này không thể ngắn hơn ba tháng hoặc không được dài hơn hai
năm [55, tr.8].
Các biện pháp giáo dục tập trung gồm đưa người sắp đạt 18 tuổi vào cơ
sở giáo dục. Biện pháp giáo dục tập trung được áp dụng đối với người sắp đạt
18 tuổi khi lợi ích tốt nhất của họ được bảo đảm bằng việc cách ly khỏi môi
trường trước đây của mình và bằng biện pháp giáo dục dài hạn, tạo cơ hội cho
họ được học tập, cải tạo phục hồi hoặc điều trị.
Thời hạn áp dụng các biện pháp giáo dục không được vượt quá thời hạn
phạt tù tối đa được quy định đối với hành vi phạm tội đó.
Ngoài việc áp dụng các biện pháp tư pháp này thì người sắp đạt 18 tuổi
còn có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp khác như biện pháp điều trị tâm
thần bắt buộc hoặc biện pháp điều trị phục hồi bắt buộc; tuy nhiên, các biện
pháp này không được áp dụng đồng thời với biện pháp kỷ luật. Những biện
pháp điều trị bắt buộc nhằm góp phần giáo dục phục hồi người sắp đạt 18 tuổi
và phòng ngừa nguy cơ tái phạm ở các em [55, tr.8].
Qua tìm hiểu một số văn kiện quốc tế và pháp luật của một số nước đều
thấy tồn tại một điểm chung trong hệ thống chế tài áp dụng đối với người
dưới 18 tuổi, đó là các biện pháp xử lý không tước tự do đối với người dưới
18 tuổi phạm tội luôn được ưu tiên áp dụng và tương đối phong phú về biện
pháp áp dụng. Các biện pháp này mang tính giáo dục và dựa vào cộng đồng,
gia đình người phạm tội là chính.
43. 36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Vũ Ngọc Bình (2000), Các văn bản quốc tế về bảo vệ trẻ em, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2016), Tài liệu Hội nghị quán triệt, phổ biến Bộ luật hình
sự và Nghị quyết số 109/2015/QH13, Hà Nội, tr.8
4. Nguyễn Mai Bộ (2001), “Một số ý kiến về chính sách hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, (4).
5. Lê Cảm, Đỗ Thị Phượng (2004), “Tư pháp hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội, những khía cạnh pháp lý hình sự”, Tạp chí Toà án
nhân dân, (20).
6. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản
trong khoa học Luật h́ình sự(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội
7. Chính phủ (2000), Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000
quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, Hà Nội.
8. Chính phủ (2001), Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng
dẫn biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng, Hà Nội.
9. Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 97-SL
ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật.
10. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập 1 (2010), Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
11. Nguyễn Minh Đức (2014), “Nguyên nhân, điều kiện người dưới 18 tuổi
vi phạm pháp luật hình sự và giải pháp phòng ngừa (sách chuyên khảo),
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
44. 37
12. Trần Văn Dũng, Khoa Luật hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội (2005),
“Những điểm cơ bản về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi
phạm tội trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam”, Tạp chí Toà án
nhân dân, (22).
13. Phạm Hồng Hải (2000), “Các biện pháp tư pháp trong Bộ luật hình sự
năm 1999 và vấn đề hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ
tục áp dụng các biện pháp đó”, Tạp chí Luật học, (5).
14. Nguyễn Ngọc Hoà, Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự,
Nxb Tư pháp, Hà Nội
15. Phạm Mạnh Hùng (2007), “Bàn về trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí
Kiểm sát, (6).
16. Vũ Việt Hùng (2007), “Về áp dụng các biện pháp tư pháp phục hồi
đối với người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật”, Tạp chí Kiểm sát, (15).
17. Juvenile Justice Lexicon (2009), Thuật ngữ Tư pháp người dưới 18 tuổi,
Hanoi.
18. Khoa Hành chính - Nhà nước, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
(2015), “Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng nhằm bảo vệ quyền của người dưới 18 tuổi”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, (20).
19. Khoa Hành chính - Nhà nước, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
(2015), “Vai trò của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (8).
20. Liên hợp quốc (1985), Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về tư pháp người
dưới 18 tuổi.
21. Liên hợp quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em.
22. Liên hợp quốc (1990), Hướng dẫn về phòng ngừa phạm pháp ở người
dưới 18 tuổi.
23. Liên hợp quốc (1991), Quy tắc về việc bảo vệ người chưa thành niên bị
tước quyền tự do.
45. 38
24. Liên hợp quốc về Tư pháp vị thành niên (từ vựng) có đưa ra định nghĩa
về xử lý chuyển hướng, trong đó có nội dung “Để được xử lý chuyển
hướng, trẻ em và/hoặc cha mẹ hay người giám hộ của các em phải đồng
ý chuyển hướng xử lý vụ việc của đứa trẻ”, Ủy ban Liên cơ quan.
25. Dương Tuyết Miên (2015), “Góp ý dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi về
trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội”, Tạp chí Tòa án
nhân dân, (5), tr.9
26. Dương Tuyết Miên (2015), “Một số ý kiến về Chương XII dự thảo Bộ
luật hình sự sửa đổi những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (5), (16).
27. Đặng Thanh Nga (2008), “Một số đặc điểm tâm lý của người dưới 18
tuổi phạm tội”, Tạp chí Luật học, (1).
28. Đặng Thanh Nga, Trương Quang Vinh (2011), “Người dưới 18 tuổi
phạm tội, đặc điểm tâm lý và chính sách xử lý”, Nxb Tư pháp, Hà Nội
29. Cao Thị Oanh (2007), “Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình
sự của người dưới 18 tuổi phạm tội”, Tạp chí Luật học, (10).
30. Thanh Phong (2013), “Tác hại của “nghiện” facebook”, Báo Hà Nội Mới,
(ngày 13-1-2013).
31. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999
(Phần chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
32. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Hà Nội.
33. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Hà Nội.
34. Quốc hội (2004), Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
35. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Hà Nội.
36. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự
số 37/2009/QH12 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
46. 39
37. Quốc hội (2013), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Hà Nội.
38. Quốc hội (2016), Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày 05/4/2016 của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
39. Hồ Sỹ Sơn, (2004), “Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình
phạt”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (4).
40. Trịnh Đình Thể (2006), Áp dụng chính sách hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội, Nxb Tư pháp, Hà Nội
41. Thủ tướng Chính phủ (1967), Quyết định số 217-TTg/NC ngày 18/12/1967
về việc tổ chức lại các trường giáo dục thiếu niên hư.
42. Trần Quang Tiệp (2004), “Vai trò của gia đình trong việc thi hành các
hình phạt không tước tự do và các biện pháp tư pháp”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, (2).
43. Tòa án nhân dân tối cao (1967), Hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11 tháng 2
năm 1967.
44. Toà án nhân dân tối cao (1969), Chỉ thị số 46-TH ngày 14/01/1969 về
việc tăng cường và phát huy hơn nữa tác dụng của công tác Toà án
trong công tác bảo vệ trật tự trị an, bảo vệ tài sản của Nhà nước và
quản lý thị trường ở thành phố Hà Nội.
45. Toà án nhân dân tối cao (2013), Đề án thành lập Toà án gia đình và
người chưa thành niên, Hà Nội.
46. Toà án nhân dân tối cao (2016), Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13
tháng 9 năm 2016 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho
người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015.
47. Trường Đại học luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Liên bang Nga
(theo bản dịch tại Tạp chí Pháp luật hình sự nước ngoài năm 1998,
Viện nghiên cứu khoa học), Hà Nội.
48. UNICEF (2009), Thuật ngữ tư pháp người dưới 18 tuổi, Dự án “Hệ thống
tư pháp thân thiện với người dưới 18 tuổi”, hợp tác giữa Chính phủ Việt
Nam với Tổ chức nhi đồng Liên hợp quốc, Hà Nội.
47. 40
49. UNICEF (2016), Kết quả nghiên cứu xử lý chuyển hướng và các biện
pháp thay thế giam giữ khác dành cho trẻ em vi phạm pháp luật ở khu
vực Đông Á Thái Bình Dương, Tài liệu Hội thảo Băng Cốc - 16, 17 & 18
tháng 8 năm 2016.
50. Ủy ban Liên hợp quốc (2007), Quyền trẻ em, Bình luận chung số 10,
Quyền trẻ em trong tư pháp vị thành niên (kỳ họp thứ 44), đoạn 45.
51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), “Bộ luật hình sự năm 2015 dưới
góc nhìn so sánh với Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009), Nxb Chính trị Quốc gia.
52. Trịnh Tiến Việt (2010), “Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình
phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”,
Tạp chí Toà án nhân dân, (13)
53. Trương Quang Vinh (2010), “Thực trạng quy định của pháp luật về các
biện pháp tư pháp: Thực tiễn áp dụng và một số đề xuất”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, (2).
54. Tài liệu Tọa đàm tham vấn chính sách về việc thành lập Tòa gia đình và
người chưa thành niên ở Việt Nam (19-10-2010), Tòa án nhân dân tối cao,
Tổ chức UNICEF.
55. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính (2015), Báo cáo nghiên cứu đề xuất
sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 liên quan
đến người chưa thành niên.
56. Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính (2009), Thuật ngữ tư pháp người
dưới 18 tuổi, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
57. Vụ Pháp luật hình sự hành chính - Bộ Tư pháp (Bản dịch) (2005), Luật
tư pháp người dưới 18 tuổi năm 2005 của Nhà nước độc lập Papua New
Guinea
58. Vụ Pháp luật hình sự hành chính - Bộ Tư pháp (Bản dịch) (2008), Luật
tư pháp thanh thiếu niên của Kosovo
48. 41
II. Tài liệu tiếng Anh
59. “Children (Scottland) Act 1995”, sửa đổi bổ sung luật Social Work
(Scottland) Act 1968.
60. “The Law Handbook, your practical guide to the law in New south
wales” (10th
Ed. 2007), Chapter 8, Children and Young People
61. Dennis Sullivan and Larry Tifft (2006) “Handbook of restorative Justice
- A global perspective”
62. Anne H. Geraghty and Wallace J. Mlyniec (Oct. 2002), “Unified Family
Courts: Tempering Enthusiasm with Caution”, 40 Fam. Ct. Rev. 435
63. James M. Bozzomo and Gregory Scolieri (Jan. 2004), “A Survey of
Unified Family Courts: As Assessment of Different Jurisdictional
Models”, 42 Fam. Ct. Rev. 12.
64. Jessica Hardung (2000), “The Proposed Revision to Japan’s Juvenile
Law: If Punishment Is Their Answer, They Are Asking the Wrong
Question”, tr.9 Pac. Rim L. & Pol’y 139.
65. Malcolm Hill, Andrew Lockyer and Fred Stone (2007), Youth Justice
and Child Protection
66. Newburn & Souhami (2005).
III. Tài liệu trang Web
67. www.courts.go.jp/english/proceedings/juvenile.html
68. www.justice.govt.nz/youth/aboutyj.html
69. www.theglobalmail.com