SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
Nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần Hoàng mai - Hà Nội
1. 1
NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN
PHẨM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN HOÀNG MAI -
HÀ NỘI
MÃ TÀI LIỆU: 80970
ZALO: 0917.193.864
Dịch vụ viết bài điểm cao :luanvantrust.com
2. 2
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của để tài.
Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại Thế giới
WTO, kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển và đã thu được nhiều
thành tựu, kết quả này được thể hiện rõ ở tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân năm 2007 đạt trên 8% năm. Mặc dù vậy, vào WTO - kinh
tế Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội nhưng cũng gặp không ít khó khăn
thách thức đặt ra. Một trong những cơ hội và khó khăn thách thức
lớn- đó là vấn đề thị trường tiêu thụ vật liệu xây dựng nói chung và
đá ốp lát nói riêng.
Cơ hội để mở rộng thị trường đá ốp lát là một trong những điều
kiện phát triển ngành công nghệp đá ốp lát còn mới mẻ ở Việt Nam.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá nền kinh tế, vấn đề
thị trường càng trở nên nóng bỏng và hết sức cần thiết đối với các doanh
nghiệp sản xuất trong nước. Việc hội nhập quốc tế thông qua các hiệp
định thương mại song phương và đa phương, tham gia vào các định chế
kinh tế khu vực và quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi để đưa sản
phẩm gạch ốp lát Việt Nam thâm nhập thị trường quốc tế, thúc đẩy đổi
mới quá trình sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ.
Khó khăn thách thức đối với thị trường đá ốp lát - đó là cạnh tranh
khốc liệt trong và ngoài nước, Việt Nam phải mở cửa cho hàng ngoại
tràn vào. Như vậy đá ốp lát Việt Nam sẻ phải cạnh tranh vừa ở sân nhà
vừa ở thị trường quốc tế.
4. 4
1.2.2. Mục tiêu cụ thể.
Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường, nghiên cứu
thị trường .
- Đánh giá thực trạng về sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm
của công ty cổ phần Hoàng Mai - Hà Nội .
- Đề xuất một số giải pháp để ổn định và mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm cho công ty.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần Hoàng Mai.
- Các đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty cổ phần Hoàng Mai
- Các đối thủ cạnh tranh của Công ty cổ phần Hoàng Mai
- Phạm vi thời gian: từ 2005 – 2008
- Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 12/01/2009 đến ngày 09/05/2009
5. 5
PHẦN HAI
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận về thị trường.
2.1.1. Khái niệm chung về thị trường:
Thị trường là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, thị trường xuất
hiện đồng thời với sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá, được hình thành
trong lĩnh vực lưu thông. Đã có rất nhiều quan điểm về thị trường được
các nhà kinh tế học đưa ra.[1]
Theo quan niệm cổ điển: Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là
nơi gặp gỡ để tiến hành các hoạt động mua, bán giữa người mua và
người bán [11]
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin: Thị trường là biểu
hiện của sự phân công lao động xã hội, là một trong những khâu của quá
trình tái sản xuất mở rộng.[16]
Gần đây, có nhà kinh tế định nghĩa “Thị trường là biểu hiện của
quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định của người tiêu dùng về
hàng hoá và dịch vụ, cũng như quyết định của các doanh nghiệp về số
lượng, chất lượng, mẫu mã của hàng hoá”. Đó là những mối quan hệ
giữa tổng số cung và tổng số cầu với cơ cấu cung - cầu của từng loại
hàng hoá cụ thể.[15]
Quan niệm khác lại cho rằng: “Thị trường là nơi mua, bán hàng hoá,
là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng hoá tác
động qua lại nhau để xác định giá và số lượng hàng, là nơi diễn ra các hoạt
động mua, bán bằng tiền trong thời gian nhất định [9]. Thị trường được coi
6. 6
là tổng hoà các mối quan hệ giữa người mua và người bán, là nơi tổng hợp
tổng số cung và cầu về một loại hàng hoá hoặc một tập hợp hàng hoá nào
đó và nó được biểu hiện ra ngoài bằng các hành vi mua, bán hàng hoá
thông qua các đơn vị tiền tệ nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích của các
thành viên tham gia thị trường.[17]
Tuỳ theo cách tiếp cận về thời gian, không gian, địa lý,... có thể có
những định nghĩa khác nhau. Nhưng dù đứng ở góc độ nào thì để tồn tại
thị trường luôn cần sự có mặt của 3 yếu tố sau đây:
Thứ nhất, khách hàng được xem là yếu tố tiên quyết của thị
trường, thị trường phải có khách hàng nhưng không nhất thiết phải
gắn với địa điểm cố định.
Thứ hai, khách hàng phải có nhu cầu chưa được thoả mãn. Đây
được xem là động lực thúc đẩy khách hàng mua hàng hoá và dịch vụ.
Thứ ba, để việc mua bán hàng hoá và dịch vụ được thực hiện thì
yếu tố quan trọng là khách hàng phải có khả năng thanh toán.
2.1.2. Các yếu tố xác định thị trường
Thị trường được xác định từ những yếu tố nào? Về mặt nguyên tắc
muốn có thị trường thì tất yếu phải có chủ thể tham gia vào quá trình trao
đổi đó là người mua và người bán, đối tượng của quá trình trao đổi là
hàng hoá, dịch vụ, tiền tệ đồng thời phải có mối quan hệ ràng buộc giữa
người mua và người bán về giá cả, chất lượng hàng hoá, điều kiện giao
nhận, phương thức thanh toán và các dịch vụ hậu mãi.[9]
Đối với các doanh nghiệp họ không quan tâm đến thị trường nói
chung mà chỉ quan tâm đến thị trường sản phẩm hàng hoá của doanh
nghiệp. Thị trường sản phẩm hàng hoá có thể được xác định bằng các đại
lượng:
+ Thứ nhất - khối lượng sản phẩm. Nắm bắt được số lượng hàng
hoá tung ra thị trường là thành công lớn đối với doanh nghiệp. Trên cơ
7. 7
sở đó, doanh nghiệp khai thác tối đa khả năng tiêu thụ sản phẩm ở người
tiêu dùng và xây dựng được những chiến lược hợp lý.
+ Thứ hai - đặc điểm hàng hoá. Nghiên cứu công dụng, phẩm
chất, bao bì, nhãn hiệu và khả năng cạnh tranh của hàng hoá
+ Thứ ba - phương thức bán hàng. Có thể bán trực tiếp, bán qua
trung gian, bán hàng bằng đối lưu.
+ Thư tư - dung lượng thị trường. Là đại lượng phản ánh quy mô
cũng như cường độ hoạt động của thị trường. Dung lượng thị trường
được biểu thị qua những chỉ tiêu chủ yếu như khối lượng hàng hoá nhu
cầu, khối lượng hàng hoá cung, cơ cấu cung - cầu, số lượng các chủ thể
tham gia trên trị trường,...
+ Thứ năm - cơ cấu thị trường. Là đại lượng phản ánh mối quan
hệ tỷ lệ giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành thị trường. Đại lượng này
có thể xem xét dưới nhiều góc độ như cơ cấu hàng hoá cung ứng, cơ cấu
hàng hoá cầu, cơ cấu của khách hàng.
+ Thứ sáu - không gian của thị trường. Phản ánh vị trí, địa điểm
diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi. Ngoài ra đại lượng này cũng chỉ
rõ đặc điểm, tính chất và phạm vi vùng thu hút của thị trường (Thị
trường địa phương, thị trường khu vực,...) [9]
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường
Nhân tố kinh tế bao gồm:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế, xu hướng chuyên môn hoá và cơ cấu
phát triển của nền kinh tế.
+ Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và khả năng ứng dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
+ Cơ chế quản lý kinh tế và khả năng cạnh tranh của thị trường
+ Thu nhập quốc dân và việc phân phối thu nhập quốc dân, chính
sách chi tiêu của chính phủ.
8. 8
+ Xu hướng phát triển kinh tế của khu vực và quan hệ kinh tế
quốc tế.
+ Tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực khác.
Nhân tố dân cư bao gồm:
+ Dân số và mật độ dân số. ở nơi mà dân cư đông đúc, tốc độ dân
số tăng nhanh thì tất yếu làm cho nhu cầu thị trường tăng nhanh. Đồng
thời dân số có ảnh hưởng tới nguồn lao động và tác động vào sự phát
triển của sản xuất kinh doanh. Sự phân bố dân cư theo vùng và lãnh thổ,
tỷ trọng và chất lượng của nguồn lao động trong dân cư cũng ảnh hưởng
lớn đến thị trường.
+ Cơ cấu dân cư, đặc điểm về giai tầng xã hội, thu nhập và khả
năng thanh toán của dân cư, các yếu tố đặc điểm tiêu dùng, xu hướng
biến động dân cư, sự hình thành các khu dân cư mới cũng có tác
động tới thị trường tiêu dùng.
Các nhân tố về văn hoá - xã hội, như là phong tục tập quán tín
ngưỡng, truyền thống văn hoá. Trình độ văn hoá và ý thức của dân cư.
Các sự kiện văn hoá, xã hội, phong trào hoạt động văn hoá, xã hội, các lễ
hội truyền thống, ...
Các nhân tố chính trị, pháp luật bao gồm hệ thống pháp luật và thể
chế, chế độ và chính sách kinh tế - văn hoá - xã hội trong từng thời kỳ.
Tình hình chính trị an ninh và những biến động của xã hội.
Các nhân tố khác như là đất đai, thời tiết, khí hậu, sinh thái, vị trí
địa lý của thị trường,...[1]
2.1.4. Các quy luật của thị trường
+ Quy luật giá trị: Là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất
hàng hoá, quy luật này yêu cầu việc trao đổi hàng hoá, dựa trên chi phí
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá. Sản phẩm hàng hoá thể
hiện giá trị của nó khi được thoả mãn mua, bán trên thị trường.[16]
9. 9
+ Quy luật cạnh tranh: Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa
các chủ thể trong nền sản xuất hàng hoá, nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu
được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể diễn ra trong tất cả
các quá trình của sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh mua, cạnh tranh bán giữa
những người sản xuất, người tiêu dùng với nhau hoặc giữa những người
sản xuất với người tiêu dùng.[16]
+ Quy luật cung - cầu: Đây là quy luật chủ yếu của kinh tế thị trường.
- Cầu về thi trường: Là tổng số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà
mọi người sẵn sàng và có khả năng mua ở các mức giá khác nhau trong
một khoảng thời gian nhất định. Cầu thị trường là tổng hợp các cầu cá
nhân lại với nhau.
- Quy luật cầu thể hiện mối quan hệ tỷ lệ nghịch của cầu với giá
cả. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi thì cầu của chủng loại
hàng hoá nào đó sẽ tăng lên khi giá giảm và ngược lại cầu sẽ giảm khi
giá tăng.[15]
- Các yếu tố xác định cầu bao gồm: Giá cả của hàng hoá dịch vụ,
thu nhập của người tiêu dùng, giá cả của những loại hàng hoá liên quan,
dân số, thị hiếu, kỳ vọng.
- Cung về thị trường: Là tổng số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà
người bán sẵn sàng và có khả năng bán ở các mức giá khác nhau trong
một khoảng thời gian nhất định. Cung thị trường là tổng hợp mức cung
của từng cá nhân lại với nhau.
- Quy luật cung thể hiện mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa giá và lượng
sản phẩm hàng hoá bán ra. Giá bán mà cao thì lượng cung hàng hoá đó
càng lớn và ngược lại.[15]
2.1.5. Phân loại thị trường
Thị trường là tổng thể các mối quan hệ phức tạp giữa người mua
10. 10
và người bán. Để có thể đưa ra các quyết định đúng đắn nhằm đạt được
những thành công trong sản xuất kinh doanh, các nhà quản trị doanh
nghiệp phải biết phân loại thị trường và tìm hiểu đặc trưng của từng loại
thị trường.[1]
- Căn cứ công dụng của hàng hoá và quá trình từ sản xuất đến
tiêu dùng:
+ Thị trường hàng tư liệu sản xuất kinh doanh: Đó là thị trường
những sản phẩm dùng để sản xuất kinh doanh tiếp theo. Thuộc về hàng
tư liệu sản xuất có: Các loại máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu (đối
tượng lao động và tư liệu lao động). Đây cũng có thể là thị trường mà
các doanh nghiệp nhập hàng để đem bán tại nơi khác hoặc sản xuất ra
sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu của thị trường. Người ta thường
gọi thị trường này là thị trường đầu vào của doanh nghiệp.
+ Thị trường hàng tiêu dùng: Đó là những sản phẩm để phục vụ cho
tiêu dùng của con người hoặc các chủ thể tiêu dùng khác. Ví dụ: Lương
thực, quần áo, giày dép, thuốc chữa bệnh....Các sản phẩm hàng tiêu dùng
cho cá nhân người tiêu dùng: Các sản phẩm này ngày càng nhiều theo đà
phát triển của sản xuất tư nhân và nhu cầu đa dạng của con người.
- Theo giác độ tổng hợp, thị trường được chia làm 2 loại:
+ Thị trường hàng hoá: Bao gồm sản phẩm hàng hoá, sức lao động
và dịch vụ.
+ Thị trường tiền tệ: Bao gồm thị trường chứng khoán, thị trường vốn.
- Căn cứ vào nguồn gốc sản xuất ra hàng hoá:
+ Thị trường hàng công nghiệp:Bao gồm sản phẩm hàng hoá do
các xí nghiệp công nghiệp khai thác chế biến sản xuất ra. Công nghiệp
chế biến chế tạo ra nguyên liệu thành các sản phẩm hàng công nghiệp.
Đó là các loại hàng có tính chất kỹ thuật cao, trung bình hoặc thông
thường, có đặc tính cơ, lý, hoá và trạng thái khác nhau thường không
11. 11
phải là sinh vật.
+ Thị trường hàng nông nghiệp: Bao gồm nông – lâm – ngư
nghiệp. Đây là thị trường của các loại hàng hoá có nguồn gốc từ sinh
vật (động vật hoặc thực vật) những sản phẩm có nguồn gốc từ nông
nghiệp mới thu hoặch, mới sơ chế muốn bảo quản lâu phải có phương
tiện kỹ thuật. Nói chung chúng rễ bị ảnh hưởng bởi môi trường bên
ngoài, giá trị không cao nếu không được chế biến. Các sản phẩm của
thị trường này có thể thông qua chế biến để trở thành hàng công nghiệp
như: Cao su, đồ hộp....
_ Căn cứ vào nơi sản xuất:
+ Thị trường hàng sản xuất trong nước: Hàng hoá trên thị trường
do các doanh nghiệp trong nước sản xuất ra.
+ Thị trường hàng nhập ngoại: Hàng hoá trên thị trường mua từ
nước ngoài do trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ nhu
cầu tiêu dùng.
- Căn cứ vào khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường:
+ Thị trường chính: Là nơi tiêu thụ đa số hàng hoá của doanh
nghiệp.
+ Thị trường phụ: là nơi tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp với
số lượng hạn chế.
+ Thị trường mới: Là thị trường mà doanh nghiệp đang tiến hành
thăm dò, thử nghiệm.
- Căn cứ vào sự phát triển của thị trường:
+ Thị trường truyền thống: Là thị trường đã có khách hàng quen
và sự hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán.
+ Thị trường tiềm năng: Là thị trường có nhu cầu nhưng chưa
được thoả mãn hoặc chưa có khả năng thanh toán.[1]
2.1.6. Vai trò của thị trường đối với hoạt động kinh doanh của công ty
12. 12
Thị trường là khâu tất yếu của quá trình tái sản xuất hàng hoá. Thị
trường có một vị trí trung tâm – vừa là mục tiêu của các doanh nghiệp,
vừa là môi trường cho hoạt động kinh doanh. Thị trường có vai trò sau:
- Thị trường là yếu tố sống còn của sản xuất kinh doanh hàng hoá.
Vì mục đích của người sản xuất hàng hoá là bán được nhiều hàng và thu
được nhiều lợi nhuận. Có thể thấy việc bán hàng là khó hơn việc mua
hàng, chính vì vậy để có thể bán được nhiều hàng hoá cần phải có thị
trường, nếu không có thị trường thì việc sản xuất và kinh doanh hàng
hoá sẽ bị đình trệ.[1]
- Thị trường phá vỡ ranh giới của nền sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự
túc để tạo thành tổng thể thống nhất trong toàn nền kinh tế quốc dân.
Qua trao đổi mua bán giữa các vùng, sẽ biến kiểu tổ chức khép kín thành
các vùng chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh liên kết với nhau, chuyển
kinh tế tự nhiên thành kinh tế hàng hoá.
- Thị trường hướng dẫn sản xuất kinh doanh. Bằng việc căn cứ vào
cung cầu và giá cả trên thị trường các nhà sản xuất kinh doanh ra quyết
định giải quyết 3 vấn đề cơ bản của nền kinh tế đó là: Sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai?[1]
- Thị trường phản ánh tình trạng của nền sản xuất kinh doanh.
Thông qua thị trường có thể đánh giá được tốc độ phát triển, quy mô và
trình độ của sản xuất kinh doanh.
- Thị trường còn phản ánh các quan hệ xã hội, hành vi giao tiếp của
con người, là nơi quan trọng để đánh giá, kiểm nghiệm, chứng minh tính
đúng đắn của các chính sách, biện pháp kinh tế của doanh nghiệp cũng như
cơ quan nhà nước.[1]
- Thị trường đầu vào có vai trò là đảm bảo cho sản xuất phát triển
liên tục với quy mô ngày càng tăng. Thúc đẩy áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất. Đảm bảo cho các doanh
13. 13
nghiệp sản xuất giảm bớt quy mô dự trữ lớn ở nơi tiêu dùng.
- Thị trường đầu ra cho sản phẩm có vai trò, đảm bảo cho người
tiêu dùng có thể nhận được hàng hoá dịch vụ thích hợp với thị hiếu và
thu nhập của họ. Giúp người tiêu dùng tối đa hoá lợi ích thông qua việc
tự do lựa chọn hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thúc đẩy và gợi mở
nhu cầu, mang đến cho người tiêu dùng cuộc sống văn minh hiện đại.[1]
2.1.7.1. Nghiên cứu khái quát thị trường:
Là nghiên cứu tổng cung, tổng cầu và giá cả hàng hoá cùng các
chính sách của chính phủ đối với chủng loại hàng hoá nào đó:
- Nghiên cứu tổng cung hàng hoá nhằm xác định tổng số hàng hoá
có khả năng cung ứng cho thị trường của các doanh nghiệp, bên cạnh đó
phải nghiên cứu khả năng và quy mô của các chủng loại hàng hoá thay thế.
Tổng cung hàng hoá thường được xác định trong khoảng thời gian 1 năm.
- Nghiên cứu tổng cầu hàng hoá: Là việc nghiên cứu cơ cấu và
tổng khối lượng hàng hoá được mua sắm để thoả mãn nhu cầu của sản
xuất hay tiêu dùng trong một thời gian nhất định, thường là 1 năm. Với
những hàng hoá có chủng loại hàng hoá thay thế cần nghiên cứu loại
hàng hoá chính để tìm ra khối lượng hàng hoá bổ sung.
- Nghiên cứu giá cả thị trường của hàng hoá: Là việc nghiên cứu
mức giá mua vào hoặc giá nhập khẩu, ước tính những chi phí để hàng
hoá được đem bán trên thị trường bao gồm: Chi phí vận chuyển, chi phí
bán hàng, các khoản thuế phải nộp...
Ngoài ra nghiên cứu khái quát thị trường cần phải nghiên cứu các
động thái của cung cầu, xu hướng biến đổi về giá cả ở từng thời điểm,
từng địa bàn cụ thể. Từ đó xác định tỉ phần của mình và các đối thủ cạnh
tranh.[1]
2.1.7.2. Nghiên cứu chi tiết thị trường
Là việc nghiên cứu đối tượng người mua, người bán chủng loại
14. 14
hàng hoá mà doanh nghiệp đang hoặc sẽ kinh doanh. Nghiên cứu cơ cấu
thị trường hàng hoá của doanh nghiệp, nghiên cứu đường lối chính sách
của các đối thủ cạnh tranh. Nghiên cứu chi tiết thị trường nhằm trả lời
các câu hỏi: Ai mua hàng? Mua ở đâu? Mua bao nhiêu? Mua dùng vào
việc gì? Cơ cấu loại hàng và đối thủ cạnh tranh? Việc nghiên cứu chi tiết
thị trường cũng phụ thuộc vào chủng loại hàng hoá mà doanh nghiệp
đang hoặc sẽ kinh doanh:
Đối với hàng tiêu dùng, có đối tượng mua là dân cư, thì cần
nghiên cứu về mức thu nhập, trình độ, nghề nghiệp, tập quán, thói quen,
lứa tuổi của người tiêu dùng.
Đối với hàng tư liệu sản xuất cần nghiên cứu định mức sử dụng
vật tư, kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nghiên
cứu yêu cầu về chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, công nghệ... Nghiên cứu khả
năng thay thế của vật tư, số lượng và chủng loại vật tư.
Nghiên cứu chi tiết thị trường cũng cần so sánh chất lượng, mẫu
mã, giá cả hàng hoá, mức độ cung ứng dịch vụ cho khách hàng của
doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh. Nghiên cứu và xác định tỉ phần
thị trường của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác.[1][9]
2.2. Một số vấn đề về tiêu thụ sản phẩm
2.2.1 .Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất
kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là thực hiện mục đích của sản xuất hàng hóa,
là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông
hàng hóa, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất và phân phối,
còn một bên là tiêu dùng. Trong quá trình tuần hoàn các nguồn vật chất
việc mua và bán các sản phẩm của doanh nghiệp được thực hiện. Giữa
hai khâu này có sự khác biệt quy định bản chất của hoạt đọng thương
15. 15
mại đầu vào và hoạt động thương mại đầu ra của doanh nghiệp.
* Nguyên tắc cơ bản của tiêu thụ sản phẩm:
Đáp ứng đầy đủ nhu cầu khách hàng về sản phẩm.
Đảm bảo tính liên tục trong quá trình tiêu thụ sản phẩm
Tiết kiệm và nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ mua
bán Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện:
Mức bán ra
Uy tín của doanh nghiệp
Chất lượng sản phẩm
Sự thích ứng với nhu cầu tiêu dùng
Sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ
2.2.2. Vai trò ý nghĩa của hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Công tác tiêu thụ phản ánh ciệc giải quyết vấn đề đầu ra của hoạt
động sản xuất kinh doanh và đáp ứng nhu cầu thị trường của các doanh
nghiệp. Nhu cầu xã hội về hàng hóa, dịch vụ rất phong phú, đa dạng và
ngày càng tăng về số lượng lẫn chất lượng. Song trên thực tế, nhu cầu lại
lớn hơn rất nhiều so với khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Mặt
khác, nền kinh tế chụi sự tác động của các qui luật kinh tế trong đó có
qui luật cạnh tranh. Do vậy,chiến lược tiêu thụ sản phẩm hiệu quả là điều
kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Như vậy có thể nói chiến lược tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò cực kỳ
quan trọng đối với các doanh nghiệp. Điều này thể hiện thông qua các
nội dung cơ bản sau:
Đối với sản xuất, chúng có mối quan hệ biện chứng hữu cơ với
nhau xuất phát là tiền đề của tiêu thụ và ngược lại, tiêu thụ có ảnh hưởng
quyết định tới sản xuất. Nếu sản xuất mà khôg tiêu thụ được thì làm vốn
ứ đọng, tất nhiên vì thế sẽ ảnh hưởng tới chi kỳ sản xuất sau.
16. 16
Đối với doanh nghiệp, tiêu thụ hàng háo là khâu cuối cùng của
một vòn chu chuyển vốn, là quá trình chuyển đổi tài sản từ hình thái hiện
vật sang hình thái tiền tệ. Tiêu thụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng quyết
định thành lại là quá trình thực hiện lợi nhuận: mục tiêu duy nhất của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện tốt khâu bán hàng sẽ đảm bỏa
cho việc thu hồi vốn nhanh, sử dụng vốn có hiệu quả, có tích lũy đển
thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Mặt khác, thông qua hoạt động tiêu thụ có thể kiểm tra khả năng
thích ứng của sản phẩm đối với thị trường về các mặt như khả năng cạnh
tranh, chaats lượng sản phẩm, thị hiếu, mẫu mã,… kết quả tiêu thụ thể hiện
thạng thái của sản phẩm đang tồn tại trong chu kỳ nào của sản phẩm. Từ
đó, nhà sản xuất có thể đưa ra những quyết định kinh doanh phù hợp.
2.2.3. Nội dung cơ bản của công tác tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất,
thực hiện chức năng đưa sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng nhằm thực
hiện giá trị hàng hóa của một doanh nghiệp. Đó là việc cung ứng cho
khách hàng các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, đồng thưoif được
khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Tiêu thụ sản phẩm được xem như một quá trình kinh tế bao gồm
nhiều khâu, từ việc xác định nhu cầu thị trường cho đến việc thực hiện
dịch vụ sau khi bán.
* Nghiên cứu thị trường: Là việc phân tích về lượng và chất của
cung và cầu mợ sản phẩm hay dịch vụ. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường
là để có được những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình xây dựn các
kế hoạch về tiêu thụ sản phảm. các thông tin này nhằm trả lưoif câu hỏi:
Doanh nghiệp nên hướng vào thị trương nào
Tiềm năng thị trường
Làm thế nào để nâng cao doanh số
17. 17
Sản phẩm dịch vụ như thế nào
Giá cả bao nhiêu
Tổ chức mạng lưới tiêu thụ như thế nào
Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa quan trọng. Đó là cơ sở để xác
định khối lượng bán, giá bán, mạng lưới và hiệu quả của công tác tiêu
thụ sản phẩm. Nó giúp cho doanh nghiệp biết được xu hướng, sự biến
đổi nhu cầu khách hàng, sự phản ứng của họ đối với sản phẩm của doanh
nghiệp, thấy được các biến động của thu nhập và giá cả từ đó có biện
pháp điều chỉnh phù hợp.
* Lập kế hoạch tiêu thụ là việc lấp kế hoạch nhằm triển khai các họa
động tiêu thụ sản phẩm. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phải đề cập đến khu
vực tiêu thụ, tập hợp khách hàng, snr phẩm, giá cả, doanh số, phân phối,
giao tiếp, dịch vụ khách hàng, ngân quỉ cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
* Phân phối và tổ chức thực hiện kế hoạch trên thị trường: bao
gồm việc quản lý hệ thống phân phối, quản lý dữ trữ và hoàn thiện sản
phẩm, quản lý lực lượng bán, tôt chức bán hàng và cung cấp dịch vụ.
* Quảng cáo và khuyến khích bán hàng: Mục đích của quảng cáo
là tạo điều kiện để các cá nhân và tập thể người tiêu dùng thuận tiện mua
sản phẩm của doanh nghiệp. Vì thể những thông tin về sản phẩm trong
quảng cáo phải nhằm mục đích bán được hàng. Ngoài những thông tin
về sản phẩm thông qua quảng cáo người ta cố gắng đem đến cho kahchs
hàng tiềm năng những lý lẽ đưc họ đến quyết định mua hàng.
* Chất lượng sản phẩm.
* Quyết định giá: Là giá đỏi hỏi không những chỉ vù đắp những
chi phí sản xuất, mà còn phải đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
*Tổ chức bán hàng.
2.2.4. Các phương thức và kênh tiêu thụ
2.2.4.1 Các phương thức tiêu thụ
18. 18
* Phương thức trực tiếp: Là phương thức giao hàng cho người
mua trực tiếp tại kho (hay trực tiếp tại các xưởng không thông qua kho)
của doanh nghiệp. Số hàng khi bàn giao cho khách hàng được chính thức
coi là tiêu thụ và người bán mất quyền sở hữu về số hàng này. Người
mua thanh toán hay chấp nhận thanh toán số hàng mà người bán đã giao.
* Phương pháp chuyển hàng nhờ chấp nhận: Là phương thức mà
bên bán chuyển hàng cho bên mua theo địa điểm ghi trên hợp đồng. Số
hàng chuyển đi này vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán. Khi được bên
mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán về số hàng chuyển (một phần
hay toàn bộ) thì số hàng được bên mua chấp nhận này mới được coi là
tiêu thụ và bên bán mất quyền sở hữu số hàng đó.
* Phương thức bán hàng đại lý, ký gửi: Là phương thức mà bên chỉ
hàng (gọi là bên giao đại lý) xuất hàng giao cho bên nhận đại lý, ký gửi (gọi
là bên đại lý) để bán. Bên đại lý bán đúng giá quy định của chủ hàng sẽ
được hưởng thù lao đại lý dưới hình thức hoa hồng (đại lý hoa hồng).
* Phương thức bán hàng trả góp, trả chậm: Là phương thức bán
hàng thu tiền nhiều lần. Người mua sẽ thanh toán lần đầu ngay tại thời
điểm mua. Số tiền còn lại người mua chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp
theo và phải chụi một tỷ lệ lãi suất nhất định. Thông thường, số tiền trả ở
các kỳ tiếp theo bằng nhau, trong dó bao gồm một phần doanh thu gốc
và một phần lãi trả chậm. Về thực chất, chỉ khi nào người mua thanh
toán hết tiền hàng thì doanh nghiệp mới mất quyền xở hữu.
* Phương thức tiêu thụ nội bộ: Theo chế độ qui định, cấc cơ sở sản
xuất kinh doanh khi xuất hàng hóa đều chuyển cho các cơ sở hạch toán phụ
thuộc như các chi nhanh, các cửa hàng,… ở khác địa phương để bán hoặc
xuất điều chuyển giữa các chi nhanh, các đơn vị phụ thuộc với nhau; xuất
trả hàng từ các đơn vị hạch toán phụ thuộc về co sở kinh doanh, căn cứ vào
phương thức tổ chức kinh doanh và tổ chức công tác hạch toán.
19. 19
2.2.4.2. Hình thức tiêu thụ sản phẩm.
* Hình thức bán lẻ: Bao gồm nững hoạt đọng liên quan đến vệc
bán sản phẩm hjay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ
sử dụng vào mục đích cá nhân chứ không phải kinh doanh. Mọi tổ chức
đề có thể tham gia công việc bán lẻ, nhưng phần lớn công việc bán lưe là
do những nhà bán lưe chuyên nghiệp thực hiện. Việc bán lẻ có thể thực
hiện qua nhân viêc bán hàng trực tiệp, qua bưu điện, điện thoại hay các
máy bán lẻ tự động…
Các hình thức bán lẻ chủ yếu:
+ Cửa hàng bán lẻ:
Cửa hàng chuyên doanh: bán một số loại sản phẩm nhưng đa dạng về
kiểu dáng và mẫu mã như cửa hàng vật tư nông nghiệp, cửa hàng bán hoa,…
Cửa hàng bách hóa tổng hợp: Bán nhiều loại sản phẩm và có thia
ra thành các gian hàng riêng cho từng loại sản phẩm.
Siêu thị: Là cửa hàng tự phục vụ, có qui mô tương đối lớn, có chi
phí bán hàng thấp, được thiết kế phục vụ tất cả mọi nhu cầu của người
tiêu dùng như thực phẩm, đồ gia dụng, các sản phẩm phục vụ sinh hoạt
và bảo trì nhà cửa…
Cửa hàng bán hạ giá: Ngưoif mua hàng với giá bán buôn và chấp
nhận mức lãi thấp để giữ ván lẻ thấp hơn giá bán lẻ bình quân trên thị
trường. Mục đích của họ là bán được số lượng lớn hàng hóa để có cơ hội
tăng tổng mức lãi. Cửa hàng này có thể do nhà sản xuất tạo ra để bán
những sản phẩm dư thừa hoặc mặt gàng đã chấm dứt sản xuất hay sản
xuất sai quy cách.
+ Bán lẻ không qua cửa hàng.
Bán lẻ trực tiếp: Hình thức bán lẻ trực tisps có từ lâu đời do những
người bán hàng tong thực hiện. Hiện nay, hình thức này còn phổ biến đối
với một số sản phẩm hàng hóa nông nghiệp như rau, quả, lương thực,..
20. 20
có thể là những người sản xuất trực tiếp đem sản phẩm của mình bán tại
các chợ, các vỉa hè đường phố, có thể là những người bán lẻ đi mua trực
tiếp của những người sản xuất đem bán ở các nơi có thể mà không phải
bán ở cửa hàng.
Bán hàng qua mạng: Những người ban shangf dược xây dựng thành
mạng lưới tổ chức, các thành viên trong mạng lưới được hưởng những
chính sách phân phối khác nhau. Các thành viên trong mạng lưới vừa là
người tiêu dùng vừa là người làm trung gian trong kênh phân phối.
Bán hàng thông qua hệ thống điện thoại, Internet.
Bán hàng tực động: Máy bán hàng tự động cán hàng này áp dụng
cho một số sản phẩm như nước giải khát, vé các loại,…
* Hình thức bán buôn
Bán buôn bao gồm mọi hoạt động liên quan đến việc bán sản
phẩm hay dịch vụ cho những người mua để bán lại hay sử dụng vào mục
đích kinh doanh.
Các nhà bán buôn có nhiều đặc điểm khác nhau với các nhà bán
lẻ. Thứ nhất, họ ít quan tâm đến việc cổ đông bán hàng, địa điểm và bầu
không khí của cửa hàng, vì họ quan hệ với những nhà kinh doanh chứ
không phải người tiêu dùng cuối cùng. Thứ hai, phạm vi hoạt động của
nhà bán buôn rộng hơn và khối lượng hàng ngày hàng hóa giao dịch
cũng lớn hơn nhà bán lẻ. Thứ 3, họ chụi những qui luật về pháp luật và
thuế khác với những nhà bán lẻ. Bao gồm:
+ Người bán buôn thương mại: Là những doanh nghiệp độc lập
mua quyền sở hữu hàng hóa mà họ kinh doanh. Tùy theo phương pháp
kinh doanh mà họ có tên gọi khác nhau như: nhà đầu cơ, nhà phân phối
hay cung ứng.
+ Những người mua giới và đại lý: Họ khác với người bán buôn
thương mại là họ không sở hữu hàng hóa và chỉ thực hiện một số ít chức
21. 21
năng chủ yếu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán, thông qua
đó họ hưởng một tỷ lệ phần trăm tiền hoa hồng trong giá bán.
+ Chi nhánh và văn phòng của người sản xuất và người bán lẻ:
Đây là hình thức tự xúc tiến bán chứ không thông qua những người bán
buôn độc lập. Có hai hình thức chủ yếu: Văn phòng giao dịch và chi
nhánh bán hàng; văn phòng thu mua.
2.2.4.3. Kênh tiêu thụ sản phẩm
Kênh tiêu thụ sản phẩm là tập hợp những cá nhân hay những cơ sở
sản xuất kinh doanh độc lập và phụ thuộc lẫn nhau, tham gia vào quá trình
tiêu thụ tạo ra dòng vận chuyển hàng hóa, dịch vụ từ người sản xuất đến
người tiêu dùng. Bất kỳ nhà sản xuất nào cũng thiết lập mạng lưới phân
phối hàng hóa đến người tiêu dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp, thông
qua hệ thống trung gian để thỏa mãn thị trường mục tiêu nhàm đem lại lợi
ích hơn, hiệu quả hơn so với tự làm. Có các loại kênh tiêu thụ sau:
* Kênh cấp không (Kênh tiêu thụ trực tiếp): Nhà sản xuất bán
hàng trực tiếp cho người tiêu dùng. Có ba phương thức bán hàng trực
tiếp cơ bản là bán hàng lưu thông, bán hàng qua bưu điện và bán qua
Internet.
* Kênh một cấp: gồm một trung. Trên thị trường hành tiêu dùng,
người trung gian này thường là người bán lẻ, còn trên các thị trường
hàng tư liệu sản xuất thì người trung gian thường là đại lý tiêu thụ hay
người mua giới.
* Kênh hai cấp: Bao gồm hai người trung gian. Trên các thị
trường hàng tiêu dùng, những người trung gian này thường là ngững
người bán lẻ, còn trên các thị trường vật tư liệu sản xuất thì có thể là
người phân phối hay đại lý công nghiệp.
* Kênh cấp ba: Bao gồm bao ba người trung gian, giữa người bán
buôn và người bán lẻ có một người bán buôn nhỏ. Những người bán
22. 22
buôn nhỏ mua hàng của những người bán hàng của những người bán sỉ
lớn để bán lại cho những cửa hàng bán lẻ nhỏ mà thông thường là những
người bán buôn lớn không phục vụ.
2.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm..
* Số lượng sản phẩm tiêu thụ
Số lượng sản Số lượng sản Số lượng sản Số lượng sản
Phẩm tiêu thụ = phẩm tồn kho + sản phẩm xuất - phẩm tồn kho
Trong kỳ đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ
* Doanh thu tiêu thụ sản phẩm: Là số tiền thu được do bán các
sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong một thời kỳ nhất định.
Doanh thu = Giá bán x số lượng sản phẩm.
* Hệ số tiêu thụ sản phẩm.
Hệ số tiêu thụ Khối lượng sản phẩm thực tế tiêu thụ trong năm
=
sản phẩm Khối lượng sản phẩm cần tiêu thụ trong năm
* Cơ cấu doanh thu tiêu thụ
Cơ cấu doanh thụ tiêu Doanh thu tiêu thụ theo mặt hàng
=
thụ theo mặt hàng Tổng doanh thu
Cơ cấu doanh thu tiêu Doanh thu tiêu thụ từng quí trong năm
= *100
thụ theo thời gian Tổng doanh thu tiêu thụ
Tỷ lệ giá vốn và Giá Vốn
= *100
doanh thu thuần Doanh thu thuần
Tỷ lệ lãi gộp và Lãi gộp
= *100
Doanh thu thuần Doanh thu thuần
Tỷ lệ CPBH và Chi phí bán hàng
= * 100
Doanh thu thuần Doanh thu thuần
2.3. Vai trò của gạch ốp lát.
23. 23
Kiến trúc là một lĩnh vực vừa mang tính kỷ thuật, vừa là nghệ
thuật sáng tạo. Vẻ đẹp của kiến trúc được thể hiện qua các tổ chức hình
khối, không gian, màu sắc, hoạ tiết trang trí,… trong đó không thể không
nhắc đến vai trò của việc lựa chọn và sử dụng vật liệu cho công trình.
Các vật liệu thể hiện bề mặt công trình như: Sơn, tấm ốp và gạch, đá,…
Đá ốp lát được sử dụng để bảo vệ bề mặt các công trình xây dựng
và làm tăng đệ bền vững cho công trình, đá ốp lát chủ yếu còn được
dùng để làm tôn độ thẩm mỹ và trang nghiêm cho các công trình xây
dựng. Trên thế giới cũng như ở các nước ta hầu như tất cả các khách sạn
lớn, nhỏ, các ngân hàng; trụ sở các cơ quan hành chính, doanh nghiệp;
các công trình văn hóa có tầm cở đều dùng đá Granit hoặc Marble hoặc
phối hợp cả Marble với granit. Trong các công trình xây dựng này đá ốp
lát thường được dùng ở tầng thấp, ốp lát mặt ngoài, lối ra vào, phòng đón
khách, phòng họp, phòng vệ sinh, bậc tam cấp, bậc cầu thang.
Trang trí, tạo thẩm mỹ cho các công trình bằng thiết kế và phối màu
các loại đá cũng là mục tiêu sử dụng đá ốp lát. Tuy nhiên việc dùng các
loại đá ốp lát vào vị trí nào của công trình kiến trúc còn phải lưu ý đến
tình cơ lý của từng loại đá để giữ được vể đẹp vĩnh hằng của công trình.
2.4. Đặc điểm của thị trường tiêu dùng và thị trường gạch ốp lát.
2.4.1. Thực trạng thị trường Gạch ốp lát ở Việt Nam.
Thời kỳ phát triển công nghiệp đá ốp lát ở Việt Nam có thể tình từ
năm 1996 khi một số dây chuyền máy hiện đại được lắp đặt và vận hành
tại nhà máy MIDECO ở Hà Nội, nhà máy HALIM ở Bình Định, nhà
máy IBS ở thành phố Hồ Chí Minh với tổng số 10 máy cưa giàn lớn
cùng với các máy mài liên hiệp có công suất lớn. Bước sang năm 1997
thêm một loạt nhà máy được lắp đặt và vận hành các dây chuyền, trong
thời gian này hình thành rõ nét các cụm công nghiệp đá ốp lát tự nhiên.
Với số lượng 30 máy cưa dàn và khoảng 50 máy cưa đĩa tự động, cùng
với gần 20 máy cưa đĩa thô sơ, công suất đá hàng năm có thể lên tới
24. 24
800.000 m2
granit/năm. Song sản lượng thực tế không quá 70 % công
suất nêu trên.
Các nhà máy không phát huy hết công suất của nhà máy là vì khả
năng tiêu thụ trong nước thấp, khả năng suất khẩu có hạn và do đá Granit
Việt Nam chưa di vào thị trường thế giới. Nhiều công trình xây dựng
Việt Nam sữ dụng đá nhập khẩu để miễn thuế nên việc tiêu thụ đá ở Việt
Nam hạn chế.
Nhìn vào bảng biểu ta thấy tình hình tiêu thụ gạch ốp lát ở Việt
Nam cung lớn hơn cầu, không ổn định và sản phẩm chủ yếu tiêu thụ
trong nước. Cụ thể: Năng lực sản xuất qua các năm đều tăng, đặc biệt
năm 2008 so với 2007 tăng 22.74 %, tương ứng 31.5 triệu m3
, bình quân
ba năm tăng 12.97 %. Mức tiêu thụ không ổn định, 2007 năng lực sản
xuất không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Năm 2006 dư thừa
25.5 triệu m3
, 2008 dư thừa 12 triệu m3
, năm 2007 dư thừa 12.98 m3
.
Nguyên nhân là do trong khoảng thời gian năm 2006 – 2007 thị trường
địa ốc khởi sắc, làm cho thị trường vật liệu xây dựng tiêu thụ tốt. 6 tháng
cuối năm 2008 nền kinh tế khủng hoảng đã ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất của các doanh nghiệp và sức mua của khách hàng.
Về thị trường tiêu thụ ,tỷ trọng tiêu thụ trong nước lớn, nhưng giá
trong nước lại thấp hơn so với xuất khẩu, cụ thể là năm 2006 tỷ trọng
tiêu thụ trong nước chiếm 71.32%, năm 2007 là 83.03%, năm 2008 là
64.71%. Nguyên nhân do hầu hết các đơn vị sản xuất chỉ tập trung sản
xuất những sản phẩm truyền thống, mẫu mã giống nhau, sản xuất đại trà,
chưa chú trọng sản xuất những sản phẩm có kích thước lớn, công nghệ
sản xuất còn yếu và. Hôatj động marketitng các doanh nghiệp Viêt Nam
chưa có kinh nghiệm trong xuất khẩu. và hầu hết đá ốp lát của Việt Nam
chưa có thương hiệu trên thế giới.
25. 25
Bảng 1 : Tình hình sản xuất và tiêu thụ gạch ốp lát ở Việt Nam
Chỉ tiêu Đơn vị 2006 2007 2008
Tốc độ phát triển (%)
07/06 08/07 BQ
Năng lực sản xuất Tr m3
133.2 138.5 170 103,98 122,74 112,97
Tiêu thụ trong nước Tr m3
95 115 110 121,05 95,65 107,61
Giá trị XK Tr m3
12.702 36.476 48 287,17 131,59 194,39
Giá phổ biến tại HN 1000đ/m Ceramic 85 75 70 88,24 93,33 90,75
Dư thừa Tr m3
25.50 -12.98 12.00 -50,89 -92,48 68,60
Tỷ trọng xuất khẩu % 9.54 26.34 28.24 276,18 107,21 172,07
Tỷ trọng tiêu thụ trong nước % 71.32 83.03 64.71 116,42 77,93 95,25
26. 26
2.4.3. Những ưu, khuyết điểm và những vấn đề đang đặt ra đối với thị
trường đá ốp lát nước ta hiện nay:
* Ưu điểm:
Công nghiệp đá ốp lát nước ta trong những năm qua phần nào đã tận
dụng được lợi thế so sánh của nước ta đó là lợi thế về điều kiện tự nhiên –
tiềm năng lớn về đá ốp lát và đa dạng về màu sắc, mang đặc thù mà các nước
không có được để tạo ra các sản phẩm xuất khẩu tận dụng được lực lượng lao
động rẻ tạo ra ưu thế trong cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài.
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, kéo theo nhiều ngành
phát triển trong đó có ngành công nghiệp đá ốp lát.
Các doanh nghiệp đã bắt đầu áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng
đưa vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí cho
những sản phẩm sai hỏng, đồng thời đó cũng là giấy thông hành để sản phẩm
của ta chen chân vào thị trường thế giới đặc biệt là thị trường Châu Âu và Mỹ.
* Nhược điểm:
Nghiên cứu đá ốp lát và coi đá ốp lát là một khoáng sản có ích vẫn còn
mới mẻ ở Việt Nam nên tình hình khai thác và sử dụng vẫn chưa hợp lý và
đôi khi mang tính tự phát. Làm lãng phí tài nguyên và tổn thất về đầu tư kinh
tế.
Công nghiệp đá ốp lát nhìn chung phát triển còn nhỏ, lẻ, thiếu định
hướng, sản xuất manh mún, phân tán, thiết bị công nghệ lạc hậu, chất lượng
sản phẩm còn chưa cao, làm ăn còn mang tính chộp dựt- chưa tạo được uy tín
trên thị trường, dẫn đến thị trường đầu ra ít khi được ổn định.
Công nghiệp đá ốp lát chưa tạo ra mối quan hệ khăng khít với ngành
xây dựng và ngành công nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất còn chưa hiểu rõ
về lợi ích của đá ốp lát- nên không ổn định được thị trường đầu vào, và tạo
thành một dây chuyền sản xuất nhịp nhàng từ khai thác đá đến sản xuất và
đến thị trường.
27. 27
Vốn đầu tư cho ngành còn thiếu nhiều, các chính sách của đảng và nhà
nước cũng như hệ thống pháp luật chưa thực sự khuyến khích các nhà đầu tư-
do đó trong những năm qua công nghiệp đá ốp lát chưa phát triển như tiềm
năng của nó.
Trong bối cảnh đó, việc thu hút đầu tư vào công nghiệp đá ốp lát nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất tiêu thụ của ngành lại đang tồn tại khá
nhiều bất cập.
Do nhu cầu của thị trường nên hiện nay đá ốp lát không những được
sản xuất để đáp ứng cho nội địa mà còn cho xuất khẩu. Thực tế này không chỉ
đòi hỏi phải đáp ứng được yêu cầu về chất lượng đá, màu sắc thật của sản
phẩm, độ biến màu trong sử dụng, gia công, mà phải tiếp cận được thông tin
về thị trường, xây dựng thương hiệu.
Do không sử dụng hóa chất trong sản xuất nên không gây ô nhiễm đến
nguồn nước, tất cả các công đoạn sản xuất của nhà máy: Xẻ, mài, cát cạnh
đều sử dụng nước nên không hề có ô nhiễm bụi. Tuy nhiên, tiếng ồn trong quá
trình sản xuất rất ít doanh nghiệp khắc phục. Ảnh hưởng đến đời sống môi
trường xung quanh.
Thực tế cho thấy, cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới là rất lớn,
đồng thời cũng là một thách thức đáng ngại, các mặt hàng sản xuất trong nước
thường chi phí sản xuất cao đang là một trở ngại lớn. Kinh nghiệm tiếp thị
xuất khẩu của DN trong nước còn yếu, chủng loại sản phẩm còn đơn điệu, lại
không có thương hiệu riêng nên xuất khẩu hiện nay ở các DN vẫn chỉ mang
tính chất đối phó là chính.
28. 28
PHẦN III
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ
PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU.
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu.
3.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
C«ng ty Cæ phÇn Hoµng Mai
Tªn giao dÞch Quèc tÕ: HoangMai Joint Stock
Company
§Þa chØ: 652 §-êng L¸ng, quËn §èng §a, Thµnh phè
Hµ néi.
§iÖn tho¹i: 04 7761252 Fax: 04 8353906.
C«ng Ty Cæ phÇn Hoµng Mai ®-îc thµnh lËp th¸ng 8
n¨m 2000
Công ty cổ phần Hoàng Mai ra đời năm 2000. Trụ sở giao dịch tại: Số 6
Phạm Ngũ Lão phường Phan Châu Trinh Thành phố Hà Nội. Ban đâu mới
thành lập có 1 cơ sở sản xuất đá ở Hoàng Hoá – Thanh Hoá. Những năm đầu
hoạt động công ty còn gặp nhiều khó khăn như vốn kinh doanh, thị trường,
máy móc, thiết bị thô sơ, công nhân còn hạn chế cả về số lượng lẫn tay nghề
Trong quá trình phát triển Công ty Cổ phần Hoàng Mai không ngừng
đổi mới sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu thị trường tiêu thụ, với tiêu chí đặt
chất lượng lên hàng đầu. Công ty đã khẳng định được vị thế của mình trên thị
trường trong và ngoài nước. Năm 2003, Công ty đã thuê lèn Răng Cưa ở
huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, với thời gian là 50 năm. S¶n l-îng
trung b×nh khai th¸c t¹i c¸c má ®¸ thuéc x· Quúnh
Vinh, huyÖn Quúnh L-u, tØnh NghÖ an dù tÝnh hiÖn t¹i
ë giai ®o¹n thö nghiÖm vµo kho¶ng 2000m3 /n¨m. Sau
30. 30
song với nhau và coi đó là mục tiêu, động lực để công ty hoạt động và phát
triển. Khi công ty thực hiện tốt hai nhiệm vụ là tạo ra được lợi nhuận và thu
nhập cao, ổn định cho người lao động thì bên cạnh đó nhiệm vụ quan trọng
khác mà công ty luôn xác định đó là phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế và
các quy định khác của nhà nước được xác định trong hiến pháp, pháp luật và
các văn bản pháp quy có liên quan khác. Khi thực hiện tốt được các nhiệm vụ
trên thì đó là điều kiện đảm bảo chắc chắn sự phát triển ổn định và vững chắc
của công ty trong tương lai.
Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình công ty luôn phải đề
ra kế hoạch cho mình trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định phù hợp
với sự phát triển của thị trường và năng lực của bản thân doanh nghiệp.Với
việc lập kế hoạch hợp lý và phương châm hoạt động là sản xuất ra nhiều sản
phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường, đảm bảo đời sống vật chất tinh
thần cho cán bộ công nhân viên, lấy chất lượng sản phẩm và uy tín của công
ty là sự sống còn của doanh nghiệp nên công ty luôn hoàn thành nhiệm vụ của
mình với kết quả cao. Công ty luôn đặt mục tiêu và phấn đấu sản lượng hàng
hóa, doanh thu được thể hiện rõ nét thông qua bảng số liệu được tổng hợp sau
:
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Doanh thu 3.474.021.521 5.118.032.450 4.622.139.752
Giá vốn 1.865.345.917 3.288.762.037 2.554.736.348
Lợi nhuận 3.152.000 31.000.000 1.500.000
Nộp NSNN 102.560.000 89.022.236 72.000.194
Số lượng CNV 38 45 51
TN/ người/1tháng 1.050.000 1.270.000 1.500.000
3.1.3.Tổ chức bộ máy quả lý của công ty.
31. 31
Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty được kiện toàn và hoàn thiến để
đạt được một cơ cấu khoa học, ổn định, có hiệu quả.
Với việc áp dụng mô hình quả lý theo kiểu trực tuyến chức năng thì tất
cả các phong ban trong Công ty đều chụi sự lãnh đạo của giám đốc công ty.
Giám đốc chụi trách nhiệm cề mọi hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh
của Công ty trước cơ quan quản lý cấp trên.
Giám đốc: Là người đại diện hợp pháp của Công ty và là người quản lý
và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, chịu trách nhiệm
trước cơ quan cấp trên và pháp luật nhà nước về hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của Công ty. Giám đốc là người chủ trì việc xây dựng chiến lược
sản xuất, xây dựng kế hoạch dài hạn và trung hạn, ban hành các định mức
kinh tế, kỷ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, đơn giá tiền lương phù hợp
với qui định của nhà nước. Xây dựng các dự án, các phương án liên doanh
liên kết, qui hoạch đào tạo lao động trong Công ty.
Giám đốc có quyền ban hành các văn bản mang tính chất pháp qui và
các văn bản áp dụng trong tổ chức điều hành cũng như trong việc bổ nhiệm
khen thưởng, kỷ luật cán bộ công nhân viên trong Công ty theo qui định tại
quyết định số 64/ĐUQSTW ngày 15 tháng 7 năm 1993 của Đảng uỷ quân sự
trung ương. Bên cạnh đó giám đóc còn có quyết định giá mua, giá bán sản
phẩm và hoạt động dịch vụ phù hợp với qui định của nhà nước. Đồng thời là
người chụi trách nhiệm về việc sử dụng vốn và bảo quản vốn của Công ty, chỉ
đạo thực hiện nộp thuế cho ngân sách nhà nước và các khoản khác.
Phó giám đốc: Là người trợ giúp giám đốc điều hành Công ty theo sự
phân công và uỷ nhiệm của Giám đốc, chụi trách nhiệm trước giám đốc về
nhiệm vụ được phân công hoặc được uỷ quyền.
Phó giám đốc là người chụi trách nhiệm chỉ đạo kinh doanh. Giúp giám
đốc về hoạt động thương mại bao gồm: Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh
doanh, tổ chức hoạt động nghiên cứu thị trường, thu mua vật tư, nguyên liệu,
32. 32
cung ứng, dự trữ và tiêu thụ thành phẩm, chuẩn bị các công việc lý kết hợp
đồng kinh tế, quảng cáo... Chỉ đạo trực tiếp sản xuất kinh doanh thương mại
nhằm đảy mạnh các hoạt động tiêu thụ sản ơhẩm cới hiệu quả cao nhất.
33. 33
Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty.
Ban kinh doanh: Quản lý tiêu thụ giúp giám đốc nắm bắt được thông
tin biến động về giá cả, kịp thời đề xuất biện pháp, chiến lược kinh doanh,
giải quyết khi có biến động. Chức năng chỉ yếu là xây dựng các kê hoặch sản
xuất kinh doanh, tổ chức các hoạt động nghiên cứu thị trường, cung ứng, dữ
trữ và tiêu thụ sản phẩm, cung ứng đảm bảo dữ trữ số nguyên vật liệu, hàng
hoá.
Ban kế toán: Kiểm soát các hoạt động tài chính của Công ty, đảm bảo
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức hoạch toán kế toán. Theo dõi
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty dưới hình thức giá trị để phản
ánh chi phí đầu vào, kết quả đầu ra. Đánh giá kết quả kinh doanh trong kỳ và
thực hiện phân phối lợi nhuận đồng thời cung ứng thông tin cho giám đốc
nhằm thực hiện tốt công tác quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh.
Ban thiết kế, KCS: Quản lý công tác kỹ thuật công nghệ, chuyên thiết
Giám đốc
Phó giám đốc
Ban kinh
doanh.
Ban thiết kế,
KCS
Ban kế toán Các phân xưởng sản
xuất
Xưởng khai
thác đá
Xưởng
mài
Xưởng xẻ
đá
34. 34
kế các mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm mang đậm dấu ấn công ty hoặc thiết kế
theo yêu cầu khách hàng.Trong quá trình sản xuất ban kỷ thuật có trách nhiệm
theo dõi chất lượng sản phẩm. Thẩm định kiểm tra chất lượng, thông số kỹ
thuật sản phẩm.
Các phân xưởng sản xuất: Chụi trách nhiệm sản xuất các loại đá theo
hợp đồng. Thực hiện phân công lao động phù hợp, đồng thời phối hợp với cca
phòng ban nhằm đặt hiệu quả cap trong sản xuất.
3.1.4. Cơ sở vật chất, kỷ thuật của công ty cổ phần Hoàng Mai.
3.1.4.1. Tình hình lao động của Công ty.
Nhân tố con người có ý nghĩa quyết định đến chất lượng sản phẩm.
Nếu trong công ty đội ngủ công nhân giàu kinh nghiệm cộng thếmwj nhanh
nhạy nắm bắt kỷ thuật không ngừng học hỏi, nâng cao tay nghề, chuyên môn
nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm với công việc thì sản phẩm làm ra sẽ chất
lượng tốt. Do vậy Công ty phải quản lý chất lượng nguồn lao động tốt vì đây
là nguồn lực quyết định sự sống còn của công ty. Do đặc điểm, tính chất, mức
độ phức tạp của công việc đòi hỏi trình độ, tay nghề khác nhau. Công ty phân
công lao động ngày làm 8 giờ và chia làm 2 ca.
Đối với công nhân: Ca 1 từ 7h
– 11h
Ca 2 từ 13h
- 17h
Đối với cán bộ công ty tiến hành làm việc trong tuần 5 ngày, mỗi ngày
8 tiếng được nghĩ thứ 7 và chủ nhật.
Qua biểu ta thấy: Qui mô về lao động của Công ty biến động không
đáng kể. Tình hình lao động năm 2007 so với năm 2006 của Công ty tăng 21
lao động, tương đương tăng 35.8 % , đến năm 2008 số lao động chỉ tăng so
với năm 2007 là 1 lao động, tương đương 0.91 %. Tính bình quân qua 3 năm
thì số lao động tăng 17.06 %. Do một số nguyên nhân sau:
Từ năm 2005 Công ty chủ động mở rộng qui mô sản xuất và đổi mới
hoạt động kinh doanh. Do vậy, số lượng hợp đồng tăng lên (từ mỗi năm
khoảng 17 công thì vào năm 2006 lên tới 25 công). Lượng hợp đồng nhiều
35. 35
nên vào cuối năm 2006 chưa làm song và được chuyển sang năm 2007, với số
lượng là 6 công (6 hợp đồng). Điều này dẫn tới đầu năm 2007, công ty phải
tuyển dụng thêm công nhân vào đội sản xuất.
Tuy nhiên, đầu năm 2008 với mục tiêu hiện đại hoá sản xuất kinh
doanh của Công ty, nên công ty đã nhập một số dây chuyền, công nghệ sản
xuất mới có tính tự động hoá cao, vừa đảm bảo yêu cầu an toàn lao động, vừa
nâng cao năng suất tiêu thụ, giảm nhẹ chi phí nhân công. Do đó, lượng công
nhân theo mùa vụ không tăng.
Khi xét cơ cấu lao động của công ty, ta thấy rằng số lượng lao động chủ
yếu là Nam do tính chất công việc của ngành sản xuất đòi hỏi phải có sức
khoẻ. Năm 2006, lượng lao động nam toàn Công ty là 30 người chiểm 78.85
%. Đến năm 2007, lao động nữ lại có xu hướng giảm đi, lao động nam có tới
39 người tương đương 86.67 %. Năm 2008 số lượng lao động tăng không
đáng kể, lao động nữ tăng lên 3, lao động nam 42 tương ứng 82.35%.
Về chất lượng lao động , số lượng lao động có trình độ Đại học tuy
chiếm một tỷ trọng thấp (chiếm khoảng 10% tổng số lao động của toàn công
ty), nhưng giàu kinh nghiệm và nhiệt huyết với công việc, do đó mà hiệu quả
công việc cao. Số lao động có trình độ Đại học năm 2006 là 10.53 %, năm
2007 là 11.11 %, năm 2008 chỉ còn 9.8 %. Bình quân cả 3 năm lao động có
trình độ Đại học tăng 11.8 %, chủ yếu là lao động gián tiếp làm việc trong các
phòng ban và đội ngủ lãnh đạo của Công ty. Số còn lại là đội ngũ lao động
làm việc trong các xưởng sản xuất và mỏ khai thác đá. Lao động thủ công
tăng nhưng không đáng kể, trung bình 3 năm tăng 15.92 %. Do tính chất sản
phẩm nên mỗi lần xuất hàng phải thuê công nhân ngoài bốc, xếp hàng. Nên
lượng công nhân thuê ngoài chiếm chiếm tương đối trong tổng số lao động
của Công ty. Năm 2007 53.09 %, năm 2008 là 59.09 %, năm 54.05, bình quân
3 năm tăng 18.12 %. Như vậy tình hình lao động của công ty tương đối ổn
định, phù hợp với quá trình phát triển của công ty.
36. 36
Bảng 2: Tình hình phân bổ lao động của công ty.
Chỉ tiêu
2006 2007 2008
So sánh
07/06 08/07 BQ
SL
(người)
CC (%)
SL
(người)
CC (%)
SL
(người)
CC (%)
Số LĐ 81 101 111 135,8 100,91 117,06
Giới tính 38 100 45 100 51 100 118,42 113,33 115,85
Nữ 8 21,05 6 13,33 9 17,65 75 150 106,07
Nam 30 78,95 39 86,67 42 82,35 130 107,69 118,32
Trình độ 38 100 45 100 51 100 118,42 113,33 115,85
Đại học 4 10,53 5 11,11 5 9,8 125 100 111,8
Cao đẳng 2 5,26 2 4,44 3 5,88 100 150 122,47
Phổ thông 32 84,21 38 84,44 43 84,31 118,75 113,16 115,92
Theo thời vụ 43 53,09 65 59,09 60 54,05 151,16 92,31 118,12
37. 37
3.1.4.2. Tình hình trang thiết bị cơ sở vật chất kỷ thuật
Trải qua 10 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty Cổ phần Hoàng
Mai luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị để tạo ra những sản phẩm có
chất lượng tốt, đa dạng và kích thước, mẫu mã nhằm phục vụ nhu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng.
Hệ thống máy móc thiết bị của Công ty hiện nay bao gồm:
Mỏ đá khai thác có 5 máy dùng để khai thác Đá về xưởng sản xuất
gồm: máy Ủi, máy Xúc, máy nén khí, máy khoan.
Xưởng sản xuất gồm các thiết bị máy móc như: Máy Bổ, máy Thái,
máy Mài, máy Rung, máy Đục.
Công ty luôn chú trọng đầu tư trang thiết bị công nghệ. Làm tăng năng
suất, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Bảng 3 : Tình hình trang thiết bị sản xuất của Công ty.
Máy Nước SX
Thời
gian mua
số lượng Công suất Công nghệ
1. Máy Ủi Nhật Bản 1996 3 2 m3
/ ca Tiến tiến
2. Máy Xúc Pháp 1997 5 2.5 m3
/ca Hiện đại
3. Máy Nén khí Trung Quốc 2001 2 2 m3
/ca Trung bình
4. Máy Khoan Trung Quốc 2001 3 3.5 m3
/ca Trung bình
5. Máy Bổ Việt Nam 2000 4 3 m3
/ca Tiến tiến
6. Máy Thái Việt Nam 1999 5 1.5 m3
/ca Trung bình
7. Máy Mài Trung Quốc 2000 6 2 m3
/ca Trung bình
8. Máy Rung Việt Nam 1999 3 3.5 m3
/ca Trungbình
9. Máy Đục Việt Nam 1998 4 1 m3
/ca Hiệnđại
10. Máy Quay Nhật Bản 1995 4 2.5 m3
/ca Tiến tiến
(Ban kỷ thuật).
3.1.4.3. Tình hình tài sản và nguồn vốn của Công ty
38. 38
Bảng 4: Tình hình tài sản và nguồn vốn của Công ty.
(ĐVT: Đồng)
Chỉ Tiêu 2006 2007 2008
So sánh (%)
07/06 08/07 BQ
I. Tổng TS 3.564.830.869 3.905.050.439 3.789.159.599 109,54 97,03 103,10
1. TSCĐ 568.542.625 418.264.295 393.757.921 73,57 94,14 83,22
2. TSLĐ 2.996.288.244 3.486.786.144 3.395.401.678 116,37 97,38 106,45
II. Tổng NV 5.076.420.904 3.313.802.487 4.934.108.183 65,28 148,90 98,59
1. VCSH 1.668.582.778 1.699.451.840 1.502.463.597 101,85 88,41 94,89
2. Vốn vay 2.009.147.881 215.660.402 2.032.954.341 10,73 942,66 100,59
3. Vốn khác 1.398.690.245 1.398.690.245 1.398.690.245 100 100 100
(nguồn: Ban kế toàn).
39. 39
Bất kỳ một hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ nào của một công
ty cũng đều phải tính toán trên tiềm lực tài chính của công ty đó. Và tiềm lực
tài chính thể hiện rõ nét trên tài sản và nguồn vốn kinh doanh của doanh
nghiệp. Tài sản và nguồn vốn là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện
thế lực, sức mạnh của công ty trên thương trường. Tài sản và nguồn vốn lớn
sẽ tạo điều kiện để cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng tiêu chuẩn các nguyên vật
liệu đầu vào và công nghệ sản xuất hiện đại cho sản xuất và kinh doanh. Như
vậy nguồn vốn lớn sẽ có vai trò thúc đẩy sự phát triển của Công ty và ngược
lại, nếu nguồn vốn của Công ty không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh
doanh thì công ty phải đi vay vốn ở bên ngoài. Còn tài sản thể hiện tiềm lực
trong tương lai. Hiện nay nhà nước đã có chính sách lãi suất đối các doanh
nghiệp vay vốn để sản xuất, kinh doanh.
Nhìn vào bảng ta thấy năm 2006 tài sản lưu động của Công ty là
2.996.288.244 đồng, thì đến năm 2007 là 3.486.786.144 tăng 16.37 % so với
2006. Đến năm 2008 giảm 2.62 % so với năm 2007. Bình quân 3 năm tổng
nguồn vốn lưu động tăng 6.45 %. Đối với tài sản cố định của Công ty giảm
qua các năm, nếu như năm 2006 tài sản cố định của Công ty là 568.542.625
thì năm 2008 chỉ còn 393.757.921, bình quân 3 năm giảm 26.78 %. Do tính
chất sản phẩm của ngành. Năm 2006, công ty đầu tư thiết bị hiện đại, phù hợp
với sản phẩm nên những năm sau công ty ít mua sắm trang thiết bị. Tổng tài
sản, vốn chủ sở hữu, vốn vay và vốn khác đều tăng lên năm 2007 so với năm
2006, nhưng năm 2008 đều giảm. Nguyên nhân do ảnh hưởng khủng hoảng
của nền kinh tế đã tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Như vậy, năm 2007 tình hình tài sản và nguồn vốn của công ty tăng lên
so với năm 2006 do hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Năm 2008, ảnh hưởng
của khủng hoảng nền kinh tế thế giới đã tác động đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty, điều này đã làm cho tổng tài sản và nguồn vốn giảm so với
năm 2007.
40. 40
3.1.5. Đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty CP Hoàng
Mai.
3.1.5.1. Đặc điểm của sản phẩm và thị trường kinh doanh của công ty
Công ty Cổ phần Hoàng Mai là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
sản xuất kinh doanh đá ốp lát Marble – Granit tự nhiên. Các sản của công ty
được sản xuất từ nguồn nguyên liệu đá phiến, đá Lục, đá hoa, đá phiến sét, đá
vôi, đá màu đỏ, màu xám đen, màu vàng, đá trắng.
Đá ốp lát thông dụng gồm các nhóm alumosilicat được gọi chung là đá
Granit, nhóm đá trầm trích carbonat được gọi với cái tên là Marble, nhóm đá
phiến và cát kết.
Với dây chuyền máy móc tuơng đối hiện đại, phù hợp với nhu cầu sản
xuất thành phẩm của thị trường. Công ty thực hiện đa dạng hóa các sản phảm.
Hầu hết các chủng loại đá đều tăng về chủng loại, với những sản phẩm tiêu
thụ chậm thì công ty chuyển sang dạng khác.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty chủ yếu trên địa bàn các nước
như Bỉ, Hà Lan, Pháp, Anh và thị trường trong nước chủ yếu là ở Hà Nội.
Với chủng loại sản phẩm nói trên, và mục đích trang trí nội thất, ngoại
thất và lát đường. Khi bán bán trong nước thường giao bán trực tiếp cho
khách hàng, không thông qua đại lý, cửa hàng và các trung gian nào khác.Từ
những đặc điểm này đã tạo ra nhiều cơ hội cho công ty tiếp cận, giao lưu trực
tiếp với khách hàng, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tin tưởng và tạo điều
kiện để các bên cùng phát triển. Đối với hàng hóa được xuất khẩu ra các
nước, chủ yếu bán theo kênh phân phối gián tiếp và công ty sẽ trích hoa hồng
trên tổng doanh thu bán hàng.
3.1.5.2 Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm.
Để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh cần phải trải qua một số công đoạn
nhất định và theo một qui trình cụ thể. Với sản phẩm Gạch ốp lát cũng vậy từ
nguyên liệu ban đầu là đá tự nhiên qua các công đoạn trong quy trình sản xuất
44. 44
phẩm, báo cáo tổng kết. Các báo cáo này chủ yếu lấy từ các ban như: Ban kế
toán, ban kinh doanh.
Trao đổi với cán bộ lãnh đạo Công ty như Giám đốc, phó giám đốc phụ
trách kinh doanh, các phòng ban kế toán, ban thiết kế KCS. Đây là những
người nắp rất rõ tình hình sản xuất và kinh doanh của Công ty nên việc tiếp
xúc với họ sẽ thu thập nhiều thông tin chính xác hơn.
Thu thập tài liệu qua tạp chí, sách báo, luận văn tốt nghiệp của các
khóa trên, Internet…. Để từ đó nhìn tổng quan, hiểu được vấn đề vần nghiên
cứu, biết bản thân phải làm gì, từ đó đưa ra cách giải quyết.
3.2.2. Phương pháp phân tích thống kê.
Phương pháp này nhằm tập hợp, phân loại, phân tích số liệu phản ánh
tình hình sản xuất kinh doanh sau khi đã thu thập các tài liệu, chỉnh lý số liệu
trên cơ sở đánh giá mức độ của hiện tượng. tình hình biến động của hiện
tượng cũng như mối quan hệ ảnh hưởng đồng thời dự báo xu hướng phát triển
của chúng và đi đến tổng hợp lý thuyết để đề xuất các giải pháp có căn cứ
khoa học.
Sau khi thu thập được số liệu, thông tin cần thiết thì bước tiếp theo phải
phân tích được số liệu đó. Phương pháp thống kê kinh tế giúp chúng tôi nhìn
nhận rõ và nhanh hơn về vấn đề bản thân nghiên cứu, cần tìm hiếu. Qua đó,
tôi có thể đánh giá sơ bộ tình hình hoạt động của Công ty. Trong quá trình
nghên cứu, sau khi có những số liệu cề chi phí sản xuất, khối lượng tiêu thụ,
khối lượng sản xuất, giá bán,… tôi cần tập hợp lại phân tích tình hình tiêu thụ
của công ty.
* Phương pháp phân tích chỉ số: Chỉ số trong thống kê là một loại số
tương đối, dùng để nghiên cứu biến động của hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp
được cấu thành bởi nhiều yếu tố, các yếu tố đó có quan hệ tích số. Dùng phương
pháp phân tích chỉ số có thể giải thích hiện tươgj hai mặt, đó là: Nêu rõ trình độ
thay đổi của sự phát triển hiện tượng. Nói rõ trình độ ảnh hưởng của các nhân tố
45. 45
trong sự thay đổi chung của hiện tượng. Trong bài tôi đã sữ dụng phương pháp
này ở các chỉ số phát triển bình quân giữa các năm 2006, 2007, 2008 để nói lên
tốc độ phát triển của tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty.
3.2.3. Phương pháp so sánh.
Phương pháp này giúp ta tính được tốc độ phát triển của các hiện
tượng qua các giai đoạn, thời kỳ, từ đó so sánh đánh giá giữa các hiện
tượng với nhau.
3.2.4. Phương pháp phân tích SWOT
Phương pháp này là tập hợp những điểm mạnh, điểm yếu, những cơ
hội và nguy cơ của một doanh nghiệp trên thị trường mình đang hoạt
động, bằng cách kết hợp giữa các yếu tố trên, để tìm ra những giải pháp
cho doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường, tăng thị phần cho
doanh nghiệp trong tương lai.
Cơ hội được ký hiệu là O, nguy cơ ký hiệu là T, những điểm mạnh ký
hiệu là S, những điểm yếu ký hiệu là W. Trên cơ sở này thiết lập mô hình ma
trận SWOT cho doanh nghiệp bằng cách kết hợp S- T ( Phát huy điểm mạnh
để đẩy lùi nguy cơ) và kết hợp W-O (Tận dụng cơ hội để khắc phục điểm yếu
hợp W-O (Tận dụng cơ hội để khắc phục điểm yếu)
Ma trận SWOT.
SWOT Kết hợp
Điểm mạnh (S) Điểm yếu (W) S-T
Cơ hội (O) Nguy cơ (T) W-O
46. 46
3.2.5. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
- Chỉ số phát triển bình quân: cho biết tốc độ phát triển của tình hình
tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần thực phẩm Minh Dương, từ đó dự
đoán được xu hướng phát triển của thị trường và khả năng phát triển của thị
trường sản phẩm của công ty cổ phần thực phẩm Minh Dương thời gian tới.
- Chỉ số phát triển liên hoàn: Dùng để so sánh sản luợng tiêu thụ qua
những khoảng thời gian liền nhau, từ đó biết được xu hướng mục tiêu sản
phẩm của công ty thời gian qua.
- Thị phần sản phẩm - hàng hoá của công ty: Cho biết vị trí của công ty
trên thị truờng:
PHẦN IV
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ của công ty
4.1.1. Tình hình sản xuất của Công ty.
Công ty Cổ phần Hoàng Mai chuyên sản xuất kinh doanh đá ốp lát tự
nhiên. Công ty sản xuất rất nhiều loại sản phẩm đá ốp lát nhưng tập trung chủ
yếu sản xuất đá Bậu cửa, đá Mài cát, đá Mẻ, đá Đục, đá Cubic và một số loại
ThÞ phÇn
s¶n phÈm,
hµng ho¸
cña c«ng
ty trªn thÞ
tr-êng A(%)
=
S¶n l-îng s¶n phÈm hµng
hãa cña c«ng ty ®· tiªu
thô trªn thÞ tr-êng A
Tæng s¶n l-îng s¶n phÈm
hµng ho¸ cïng lo¹i ®· tiªu
thô trªn thÞ tr-êng A
47. 47
sản phẩm khác.
Là công ty sản xuất theo hợp đồng, vì vậy các sản phẩm được sản xuất
theo hợp đồng. Các hợp đồng được ký trước. Do vậy sản phẩm sản xuất ra
được xuất bán luôn. Trường hợp công ty sản xuất chậm so với tiến độ hoặc
cùng một thời gian phải làm nhiều hợp đồng với sản phẩm khác nhau thì công
ty sẽ mua sản phẩm.
Nhìn vào bảng biểu ta thấy công ty chủ yếu sản xuất đá đá Bậu Cửa,
Mài Cát, đá Mẻ, đá Thỏi chiếm số lượng lớn. tuy nhiên đây cũng là mặt hàng
có biến động tương đối lớn, ảnh hưởng đến doanh thu của công ty qua các
năm. Cụ thể là: đá Bậu Cửa, năm 2006 sản xuất 5211 m2
đến năm 2007 sản
xuất 4560 m2
, giảm 652 m2
tương ứng 7.07 %. Vào đầu tháng 3 năm 2007, do
có sự cố kỷ thuật làm cho thiết bị sản xuất đá bậu Cửa bị hỏng nên tháng này
công ty phải mua đá của đối tác, làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất của
công ty tại Xưởng sản xuất. Công ty chưa có mạng lưới điện riêng mà dùng
chung điện dân dụng, nên ảnh hưởng đến quá trình sản xuất vào những ngày
mất điện, đặc biệt là vào mùa hè. Năm 2008 đá Bậu Cửa tăng so với năm
2007 không đáng kể, do biến động chung của thị trường làm giá một số
nguyên liệu đầu vào tăng, làm giá thành sản phẩm tăng nên công ty đã có
chiến lược giảm tốc độ phát triển của mặt hàng này vì có giá thành sản phẩm
cao. Bình quân 3 năm 2006 – 2008 của đá Bậu Cửa giảm 9.68 %. Đối với đá
Mẻ sản lượng sản xuất tương đối tăng qua 3 năm cụ thể là năm 2006 tăng 910
m2
tương ứng 34.34%. biến động lớn là đá Thỏi, năm 2006 công ty chỉ sản
xuất 1530 m2
đến năm 2007 tỷ lệ này tăng hơn gấp 2 lần, nhưng năm 2008
giảm sản lượng sản xuất ra ít hơn năm 2006. với loại IV sản lượng tăng đều
hàng năm khoảng 50 %/ năm. Bình quân 3 năm tăng khoảng 60 % mỗi loại.
Nguyên nhân do công ty không có nguyên liệu đầu vào đá loại IV, vào giữa
năm 2007 công ty đã hợp tác cùng với công ty Bình Minh – Bình Định để
mua nguyên liệu đá màu về sản xuất, nhằm chủ động trong quá trình sản xuất
48. 48
hơn. Cùng với năm này thì công ty Bình Minh cũng đã mua lại 1 sản lượng
lớn đá Thỏi. Thứ hai, năm 2007 công ty có chiến lược kinh doanh hiệu quả
thu hút khách hàng nên lượng hợp đồng tăng lên trong đó có hợp đồng về đá
Thỏi. Nhưng năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới nên
quá trình tiêu thụ của Công ty giảm, làm sản lượng sản xuất giảm.
Nhìn chung, số lượng sản phẩm sản xuất của xí nghiệp tăng qua các
năm điều này chứng tỏ việc sản xuất kinh doanh của xí nghiệp đang trên đà
phát triển tốt. Tuy nhiên có một số vấn đề khó khăn đo là công ty không hoàn
toàn chủ động trong việc tìm thị trường nguyên liệu đối với đá loại IV, thứ hai
sự không chủ động về điện cũng là vấn đề khó khăn trong quá trình sản xuất.
Do đó, có những thời điểm nhiều đơn đặt hàng, công ty không sản xuất kịp
phải tiến hành thu gom sản phẩm từ các công ty khác với giá thành cao. Do
vậy, vấn đề đặt ra đối với việc sản xuất của công ty là cần nâng cao chất
lượng sản phẩm, đa dạng hóa về mẫu mã, chủng loại, tìm kiếm nguồn cung
cấp nguyên liệu có tính lâu dài, công ty nên tiến hành xây dựng một mạng
lưới điện công nghiệp nhằm giảm chi phí trong tương lai và chủ động hơn
trong quá trình sản xuất. Không ngừng tìm kiếm mở rộng thị trường để tăng
sản phẩm sản xuất .
49. 49
Bảng 6: Tình hình sản xuất của Công Ty.
Các loại sản phẩm ĐVT 2006 2007 2008
So sánh
07/06 (%) 08/07 (%) BQ (%)
Đá Bậu cửa m2
5.212 4.560 4.750 87,49 104.17 91,14
Bo chân tường m2
245 310 215 126,53 69,35 87,76
Căt kết thô m2
400 520 325 130 62,5 81,25
Đá dạ cổ m2
380 420 110,53
Hon nước m2
950 1.720 1.530 181,05 88,95 161,05
Đá Mài cát m2
2.130 1.950 1.875 91,55 96,15 88,03
Đá Mẻ m2
2.650 3.560 2.985 134,34 83,85 112,64
Đá Tấm tấm 4 9 6 225 66,67 150
Đá Thỏi m2
1.530 3.640 1.320 237,91 36,26 86,27
Vàng m2
250 462 750 184,8 162,34 300
Đỏ m2
70 120 180 171,43 150 257,14
Hồng Gia Lai m2
150 350 433 233,33 123,71 288,67
Trắng m2
364 560 528 153,85 94,29 145,05
50. 50
4.1.2 Giá thành một số sản phẩm chính của công ty.
Giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất cho một khối lượng sản phẩm,
dịch vụ hoàn thành nhất định. Là một thước đo giá trị và ucngx là một đòn
bẩy kinh tế. Giá thành thường mang tính khách quan và chủ quan, đồng thời
nó là đại lượng cá biệt, mang tính giới hạn và là một chỉ tiêu, biện pháp quản
lý chi phí.
Qua số liệu ta thấy rõ một thực trạng là giá thành của tất cả loại sản
phẩm đều tăng do giá nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào như: Xăng dầu, điện
đều tăng, chính sách tăng mức lương cơ bản của chính phủ, ảnh hưởng đến
chi phí nhân công phân xưởng, làm tăng giá thành sản phẩm.
Cụ thể gía thành đá Bậu cửa luôn cao và tăng theo thời gian. Nguyên
nhân chủ yếu do giá cả nhiên liệu như: Điện, Xăng, Dầu của thị trường tăng.
Tuy nhiên, lượng sản xuất của sản phẩm nhiều nhất và tăng qua các năm.
Điều này chứng tỏ loại sản phẩm này được thị trường ưu thích, do đó công ty
nên có chiến lược kinh doanh, nghiên cứu thị trường nhằm phát triển nâng cao
chất lượng cũng như số lượng của sản phẩm này bền vững trên thị trường.
Với sản phẩm đá loại IV, giá thành sản phẩm tăng đều qua các năm. Do
công ty không chủ động về nguyên liệu nên giá thành sản phẩm phụ thuộc
vào giá bán, vào tình hình hoạt động kinh doanh của công ty Bình Minh. Do
đó nhằm ổn định giá thành và chủ động nguồn nguyên liệu công ty nên mở
rộng địa bàn khai thác đá.
51. 51
Bảng 7: Giá thành một số sản loại sản phẩm của Công ty
Các loại sản phẩm ĐVT 2006 2007 2008
So sánh
BQ
Đá Bậu cửa 256.250 298.750 315.860 116,59 105,73 123,26
Bo chân tường 153.210 185.200 132.560 120,88 71,58 86,52
Đá Căt kết thô 120.000 145.560 180.250 121,30 123,83 150,21
Đá dạ cổ 320.980 282.950 88,15
Hon nước 220.750 228.000 175.000 103,28 76,75 79,28
Đá Mài cát 190.000 178.000 179.500 93,68 100,84 94,47
Đá Mẻ 117.600 120.000 135.650 102,04 113,04 115,35
Đá Tấm tấm 10.950.320 12.095.070 13.850.000 110,45 114,51 126,48
Đá Thỏi 109.850 119.000 189,673 108,33 159,39 172,67
Vàng 130.630 139.650 147.310 106,90 105,49 112,77
Đỏ 186.120 195.000 201.150 104,77 103,15 108,08
Hồng Gia Lai 230.000 250.000 259.785 108,70 103,91 112,95
Trắng 175.200 190.002 210.000 108,45 110,53 119,86
(nguồn: Ban kinh doanh).
52. 52
4.1.3. Kết quả tiêu thụ sản phẩm.
Sản phẩm của công ty là gạch ốp lát có khả năng tiêu thụ tương đối
mạnh. Hầu hết các sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ hết. Qua bảng biểu cho
thấy, khối lượng cần tiêu thụ các năm tương đối cao, đặc biệt là năm 2007 do
ảnh hưởng của thị trường địa ốc phát triển. Kết quả tiêu thụ tăng qua các năm,
chứng tỏ tình hình tiêu thụ của công ty khá tốt, khả năng tiếp thị, bán hàng,
marketing có xu hướng ngày một tốt. 6 tháng cuối năm 2008 nền kinh tế thế
giới khủng hoảng, làm tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty gặp không ít
khó khăn, làm số lượng tiêu thụ của năm giảm so với năm 2007. Vì vậy, vấn
đề đặt ra cho công ty là phải có biện pháp giảm tối thiểu mức độ ảnh hưởng
của nền kinh tế. Muốn làm được điều này, công ty luôn luôn đa dạng hóa sản
phẩm, nâng cao chất lượng và tìm kiếm thị trường mục tiêu cho riêng mình.
Khẳng định thương hiệu trên thị trường trong nước cũng như thế giới.
Là công ty xuất hàng theo hợp đồng đã được đặt trước, nhưng cơ cấu số
lượng cần tiêu thụ luôn lớn hơn số lượng sản phẩm tiêu thụ, đây chính chiến
lược mà doanh nghiệp đang thực hiện đó là tăng lượng sản phẩm tồn kho để
có thể đảm bảo tố việc cung cấp nguồn hàng khi gặp phải những biến động
của thị trường như giá nguyên liệu đá, thị trường khan hiếm mà nhu cầu của
thị trường tăng.
54. 54
41.4. Hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của công ty.
Hiệu quả luôn luôn được đặt trong mối quan hệ giữa kết quả tiêu thụ
với chi phí bán hàng của doanh nghiệp. Bởi vậy khi đánh giá hiệu quả phải
luôn gắn kết quả với chi phí theo quan hệ nào đó mà thông thường nhất là
quan hệ thương theo dạng sau:
* Doanh thu trên 1 triệu chi phí bán hàng.
Doanh thu
=
Chi phí bán hàng
Công thức thể hiện khi bỏ ra 1 triệu chi phí thì chúng ta đưa về bao nhiêu
triệu doanh thu. Chỉ tiêu này càng tăng thì hiệu quả trong khâu tiêu thụ bán hàng
càng tăng, chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả tiêu thụ bán hàng càng cao.
Bảng 11: Hiệu quả tiêu thụ của công ty giai đoạn 2006 – 2008.
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2006 2007 2008
Tốc độ phát triển (%)
07/06 08/07 BQ
Doanh thu 3.474,2 5.117,8 4.622 147,31 90,31 133,04
CP bán hàng 958 1.048 771.50 109,39 73,62 80,53
Tỷ lệ DT/CPBH 3,63 4,88 5,99 134,66 122,68 165,20
Nhìn vào bảng ta thấy, hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của công ty ngày
càng cao, điều này chứng tỏ công tác tổ chức bán hàng, hoạt động marketing
của công ty hiệu quả. Cụ thể năm 2006 với 1 triệu chi phí bán hàng bỏ ra
doanh nghiệp thu được 3.63 triệu doanh thu, năm 2007 thu được 4.88 triệu
doanh thu tăng 34,68 % so với năm 2007, năm 2008 thu được 5.99 triệu
55. 55
doanh thu tăng 22,68 % so với năm 2007. Bình quân 3 năm hiệu quả tiêu thụ
của công ty tăng 65,2 %. Để đạt được điều này bộ phận kinh doanh luôn phải
tìm mọi cách hạn chế chi phí bán hàng. Là một doanh nghiệp sản xuất theo
hợp đồng, hàng tiêu thụ phần lớn được xuất khẩu, chi phí bán hàng gồm tiền
hoa hồng, phí ngân hàng, lệ phí bill tàu, bảo hiểm tàu, phí vận chuyển bao bì,
hàng mẫu. Do đó để giảm chi phí bán hàng không chỉ phụ thuộc vào hoạt
động bán hàng hiệu quả mà còn phụ thuộc vào thủ túc xuất khẩu của đất
nước. Do năm 2006 công ty phải gửi hàng mẫu để quảng cáo mẫu hàng loại
15x 15x2.5 cho các loại đá, mặt khác trong năm tiền hoa hồng, phí ngân hàng
cho mỗi hợp đồng cao, đặc biệt phí vận chuyển, đã làm cho chi phí bán hàng
của toàn công ty năm 2006 cao. Năm 2007 sau khi Việt Nam ra nhập WTO
làm chi phí xuất khẩu giảm đáng kể, phí ngân hàng có xu hướng giảm, nhờ áp
dụng chiến lược marketing tốt nên giảm tiền hoa hồng mỗi hợp đồng. Năm
2008 tuy doanh thu thấp hơn 2007 nhưng tỷ lệ doanh thu trên chi phí bán
hàng lại cao điều này khẳng định công tác bán hàng, marketing của công ty
hiệu quả. Tỷ lệ hoa hồng trong chi phí bán hàng chiếm gần 50 % do vậy để
giảm chi phí bán hàng công ty có chiến lược marketing tích cực, hiệu quả hơn
nhằm giảm hoa hồng.
4.2. Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo thị trường và kênh phân phối của
công ty cổ phần hoàng mai.
4.2.1 Kết quả tiêu thụ sản phẩm theo thị trường.
Từ bảng 12 ta thấy tỷ trọng xuất khẩu của công ty trung bình 3 năm
khoảng 80 % doanh thu của toàn công ty. Bình quân 3 năm xuất khẩu tăng 49,91
% lượng tiệu thụ trong nước giảm 43,24 %. Do bán trong nước việc thu hồi vốn
chậm ( khoảng 2 năm). Năm 2008 chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu nên
doanh thu xuất khẩu năm nay tăng 11 %, trong khi đó lượng bán trong nước
giảm mạnh. Đây chính là chiến lược kinh doanh lâu dài của công ty.