SlideShare a Scribd company logo
1 of 125
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ LIÊN
THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ LIÊN
THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
TrÇn ThÞ Liªn
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN
TRẺ EM VÀ THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
7
1.1. Khái niệm trẻ em, quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em 7
1.1.1. Khái niệm về trẻ em 7
1.1.2. Quyền trẻ em 9
1.1.3. Bảo vệ quyền trẻ em 12
1.1.4. Hệ thống bảo vệ trẻ em 13
1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em 13
1.2.1. Luật pháp quốc tế 13
1.2.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em 18
1.3. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 23
1.3.1. Khái niệm thanh tra 23
1.3.2. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 26
1.4. Mô hình thanh tra bảo vệ quyền trẻ em của một số quốc gia
trên thế giới
36
1.4.1. Mô hình thanh tra viên vì trẻ em (Ombudsman for Children) 36
1.4.2. Hoạt động thanh tra vì trẻ em của tổ chức phi chính phủ (NGO) 37
1.4.3. Những kinh nghiệm về thanh tra quyền trẻ em trên thế giới có
thể được áp dụng ở Việt Nam
38
5
Chương 2: THỰC TRẠNG THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ
EM HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
42
2.1. Tổ chức và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em ở
Việt Nam
42
2.1.1. Giai đoạn 1990-2008 42
2.1.2. Giai đoạn từ khi Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em giải thể
đến nay (năm 2008-nay)
44
2.2. Kết quả thanh tra về quyền trẻ em của thanh tra Lao động -
Thương binh và Xã hội
47
2.2.1. Trong công tác tham mưu, tham gia xây dựng chính sách,
pháp luật liên quan đến lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em
47
2.2.2. Tiếp công dân, xử lý thư đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo
liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em
47
2.2.3. Kết quả hoạt động thanh tra về quyền trẻ em 48
2.2.4. Đánh giá chung kết quả thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 54
2.3. Những hạn chế, bất cập trong thanh tra quyền trẻ em hiện nay 56
2.3.1. Hạn chế từ các quy định pháp luật 56
2.3.2. Hạn chế về nhận thức 74
2.3.3. Hạn chế về mô hình tổ chức của Thanh tra Lao động - Thương
binh và Xã hội
77
2.3.4. Hạn chế về nguồn nhân lực của thanh tra ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội
79
2.3.5. Hạn chế về thẩm quyền của thanh tra Lao động - Thương binh
và Xã hội
84
2.3.6. Thiếu cơ chế phối hợp về thu thập thông tin, kiểm tra, thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em
85
2.4. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót trên 87
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
90
3.1. Yêu cầu khách quan nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra
về bảo vệ quyền trẻ em
90
6
3.1.1. Bảo đảm thực hiện quyền, lợi ích trẻ em 90
3.1.2. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt
động của thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội
91
3.1.3. Xuất phát từ những tồn tại, thiếu sót của hoạt động thanh tra
về bảo vệ quyền trẻ em
92
3.1.4. Phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính 92
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra về bảo vệ
quyền trẻ em
93
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 93
3.2.2. Hoàn thiện, đổi mới tổ chức Thanh tra Lao động - Thương
binh và Xã hội và hoạt động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em
100
3.2.3. Tăng cường số lượng, nâng cao năng lực và đảm bảo điều
kiện làm việc đội ngũ công chức thanh tra ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội
105
3.2.4. Phân định rõ thẩm quyền thanh tra, bảo vệ, chăm sóc trẻ em
giữa các cấp, các ngành
109
3.2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp và trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức khác trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em
110
KẾT LUẬN 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tổng hợp kết quả tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải
quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em
từ 2011-2013
47
2.2 Tổng hợp kết quả thanh tra việc chấp hành quy định của
pháp luật đối với người lao động chưa thành niên tại
doanh nghiệp của Thanh tra Bộ từ 2011-2013
49
2,3 Tổng hợp kết quả thanh tra việc chấp hành quy định của
pháp luật đối với người lao động chưa thành niên tại
doanh nghiệp của Thanh tra Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội các tỉnh từ 2011-2013
50
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ Trang
2.1 Tổ chức bộ máy Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội hiện nay
45
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước. Vị trí của trẻ em đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Ngày nay các cháu là nhi đồng. Ngày sau
các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới" [28]. Ngày nay, tư tưởng đó
của Bác Hồ vẫn tiếp tục được kế thừa, phát triển và hoàn toàn phù hợp với tư
tưởng của thời đại "Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai". Vì vậy, bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng. Sự nghiệp
ấy đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Nhà nước, kết hợp chặt chẽ
giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Điều này được thể hiện trong từng bước
xây dựng và hoàn thiện nhiều chính sách, pháp luật nhằm tạo một hành lang
pháp lý cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Do đó, công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta trong những năm qua có nhiều
chuyển biến đáng khích lệ, các quyền của trẻ em đã và đang được cải thiện về
nhiều mặt [17].
Trẻ em tự mình không thực hiện được các quyền mà phải dựa vào
người lớn. Việc thực hiện quyền trẻ em chủ yếu phụ thuộc vào trách nhiệm
của gia đình, nhà trường, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân.
Mặc dù đã có sự nỗ lực rất lớn của các cấp, các ngành song sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc trẻ em đang đứng trước những thách thức cam go, nhất là các yếu tố
nảy sinh do mặt trái của nền kinh tế thị trường mang lại. Khoảng cách giàu,
nghèo, phân biệt về giới giữa các gia đình, giữa các vùng vẫn có xu hướng gia
tăng làm cho nhiều trẻ em rơi vào cảnh thất học, nhiều trẻ em phải xa gia đình
để kiếm sống; các áp lực về kinh tế, xã hội, lối sống thực dụng hay sự suy đồi
của đạo đức làm tăng thêm nguy cơ trẻ em lang thang, trẻ em bị buôn bán, bị
xâm hại tình dục, bị bóc lột sức lao động, bị bạo hành cả trong nhà trường, gia
đình và ngoài xã hội.
9
Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ với khoảng hơn 25 triệu trẻ em,
chiếm khoảng gần 29% dân số. Trong đó, số trẻ mồ côi không nơi nương tựa
và số trẻ em bị bỏ rơi là 126.248; số trẻ em khuyết tật là 326.327; số trẻ em là
nạn nhân chất độc hóa học là 22.559; số trẻ nhiễm HIV/AIDS là 5.704 em; trẻ
em làm việc xa gia đình là 6.056, số trẻ em bị tai nạn thương tích là
13.594... [5], [47], [48]. Chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dân số với nhiều nhóm
đối tượng trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt, trong khi đó, hệ thống bảo vệ, chăm
sóc còn nhiều yếu kém, lạc hậu, kiến thức, trách nhiệm của những người
chăm sóc trẻ em của gia đình và cộng đồng chưa bắt kịp thời tốc độ phát triển
dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em trong gia đình, cộng đồng và những người
chăm sóc trẻ em bị giảm sút; hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ quyền trẻ
em liên tục điều chỉnh; mạng lưới cán bộ, cộng tác viên, tình nguyện viên
tham gia công tác bảo vệ quyền trẻ em không ổn định nên việc cập nhật kiến
thức và kỹ năng bảo vệ quyền trẻ em rất hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát
về bảo vệ quyền trẻ em còn rất ít... Tất cả các yếu tố đó đã và đang trở thành
rào cản trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ trẻ em ở nước ta hiện nay; đồng
thời, đây cũng là những thách thức không nhỏ đối với những người làm công
tác bảo vệ trẻ em, trong đó có công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em.
Trước tình hình đó, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em được xem là yêu
cầu cấp thiết trong hoạt động quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
Là một trong các nhiệm vụ của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và
Xã hội, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em thời gian qua đã đạt được một số kết
quả đáng ghi nhận góp phần phát huy được những yếu tố tích cực, phát hiện
được nhiều hiện tượng tiêu cực, từ đó có hướng xử lý kịp thời, nghiêm minh,
đảm bảo pháp luật. Qua thanh tra cũng kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
nhiều chính sách trong công tác bảo vệ quyền trẻ em cho phù hợp. Tuy vậy,
đây là một lĩnh vực quản lý rộng, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức và
mang tính "xã hội", nên thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em còn tồn tại nhiều
10
hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện. Bên cạnh hệ thống luật pháp, chính
sách còn nhiều "lỗ hổng" thì thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hoạt động chưa
hiệu quả, cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ quyền trẻ em còn
quá ít về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng so với yêu cầu quản lý nhà
nước, các điều kiện để thực hiện công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em
còn nhiều thiếu thốn, chưa có cơ chế phối hợp nhằm tập hợp sức mạnh giữa
các cơ quan, tổ chức trong hoạt động này… Do đó, việc nghiên cứu công tác
thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em để góp phần điều chỉnh, sửa đổi cơ chế,
chính sách nhằm đáp ứng với tình hình thực tiễn đất nước và nhu cầu ngày
càng cao của sự nghiệp bảo vệ trẻ em càng trở nên cần thiết.
Mặt khác, hiện nay ở nước ta, chưa có một công trình khoa học hay
một đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về thanh tra bảo vệ quyền trẻ em. Vì
thế, trước yêu cầu cấp thiết của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm
sóc trẻ em, tôi chọn: "Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện hiện
nay ở Việt Nam" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn
làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn, đề ra các giải pháp nhằm nâng cao công
tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng, đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ
trẻ em nói chung hiện nay ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây, đã có một số nghiên cứu chuyên khảo về lĩnh vực bảo vệ
quyền trẻ em như: "Pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam", Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia (1994); "Những điều cần biết về quyền trẻ em", của Vũ
Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1996); Bộ tài liệu về lao động
trẻ em của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2009); Bộ tài liệu thanh tra
về lao động trẻ em - Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(2012)... Một số công trình nghiên cứu về công tác thanh tra như: "Nâng cao
năng lực hệ thống thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội", Đề án
của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội (2013); "Các công
11
ước quốc tế về lao động trẻ em và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam",
Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Hoàng Phương (2010); "Hoàn thiện
pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội nhập quốc tế",
Luận văn tiến sĩ Luật học, của Trần Thắng Lợi (2012). Hay một số bài viết:
"Luật pháp quốc tế về quyền tham gia của trẻ em", Tạp chí Lao động - xã hội
(2013); "Nâng cao nhận thức trong bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em", Tạp
chí Gia đình - Trẻ em (2014)…
Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm, các nghiên cứu mới chỉ mang tính
chất chuyên đề, nghiên cứu chủ yếu về một vài nhóm quyền trẻ em, hoặc
nghiên cứu ở tầm vĩ mô về hệ thống thanh tra ngành nói chung mà chưa có
một nghiên cứu toàn diện, đầy đủ thuộc lĩnh vực thanh tra về bảo vệ quyền trẻ
em. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và thanh tra
ngành Lao động - Thương binh và Xã hội là rất cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Luận văn dự kiến nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thanh
tra bảo vệ quyền trẻ em; đồng thời đánh giá thực trạng công tác thanh tra bảo
vệ quyền trẻ em ở Việt Nam và gợi mở một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng của hoạt động này.
* Mục đích
Với mục đích nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể là:
- Tổng hợp và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền trẻ
em, bảo vệ quyền trẻ em, thanh tra, tổ chức thanh tra và hoạt động của thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em nằm trong tổng thể Thanh tra Lao động - Thương
binh và Xã hội; có tham khảo mô hình tổ chức thanh tra vì trẻ em của một số
nước trên thế giới.
12
- Phân tích thực trạng công tác thanh tra bảo vệ quyền trẻ em hiện nay
ở Việt Nam, đánh giá những thành tựu đã đạt được và đặc biệt là những hạn
chế, vướng mắc của công tác này, có lý giải các nguyên nhân cụ thể dẫn đến
các hạn chế, vướng mắc đó.
- Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức
và hoạt động cùng các điều kiện để thực hiện mô hình đó nhằm mục đích cuối
cùng là đổi mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra về bảo vệ
quyền trẻ em nói riêng và quản lý nhà nước trong lĩnh vực Lao động - Thương
binh và Xã hội nói chung.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: "Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện
hiện nay ở Việt Nam" - được nghiên cứu với tư cách là một trong những hoạt
động thuộc phạm vi thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trên
phạm vi toàn quốc.
- Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu vấn đề thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em một
cách khách quan dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách hành chính.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để thực hiện mục đích và nội dung nghiên cứu trên, luận văn sử dụng
các phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp điều tra, khảo sát, so
sánh, thống kê và một số phương pháp khác.
Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo
sát, các báo cáo, kết luận thanh tra, báo cáo thống kê về nguồn nhân lực
13
Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Thanh tra Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội các địa phương từ năm 2010 đến năm 2013.
5. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Với các kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn
có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong việc đúc kết một số vấn đề lý luận về
thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; đánh giá thực tiễn hoạt động thanh tra bảo vệ
quyền trẻ em; đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hiệu quả
hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và tổ chức, hoạt
động của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội nói chung, đáp ứng
yêu cầu của công tác quản lý nhà nước trong tình hình mới.
Đặc biệt, tác giả có tham khảo một số mô hình tổ chức bảo vệ quyền
trẻ em trên thế giới, rút ra một số điểm có thể áp dụng tại Việt Nam, nhằm
mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra về bảo
vệ quyền trẻ em thuộc lĩnh vực mà tác giả luận văn đang công tác.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả
các cán bộ, công chức trong ngành Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc
bất kỳ ai quan tâm đến công tác thanh tra cũng như làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy lĩnh vực này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em và thanh
tra bảo vệ quyền trẻ em.
Chương 2: Thực trạng thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay ở
Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam.
14
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
VÀ THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
1.1. KHÁI NIỆM TRẺ EM, QUYỀN TRẺ EM VÀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
1.1.1. Khái niệm về trẻ em
Tùy vào góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể, khái niệm trẻ em
được hiểu ở nhiều cách khác nhau.
Triết học xem trẻ em là một "khâu" tất yếu trong mối quan hệ biện
chứng với tiến trình phát triển của xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử và trẻ
em là con đẻ của thời đại, của xã hội. Sự phát triển của xã hội, tương lai của
một quốc gia, dân tộc tùy thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.
Dưới góc độ tâm lý học, trẻ em là khái niệm được dùng để chỉ giai đoạn
đầu của sự phát triển tâm lý, nhân cách của con người. Sự phát triển tâm lý, nhân
cách của trẻ em giai đoạn từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì là một trong những nội
dung quan trọng trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học. Theo đó, tâm lý học
phân chia lứa tuổi trẻ em thành các giai đoạn khác nhau, ứng với sự phát triển
và tiếp thu nhận thức khác nhau: Tuổi sơ sinh, tuổi hài nhi, tuổi mẫu giáo nhỏ,
tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thành niên mới lớn [21].
Xã hội học lại xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội khác
với người đã trưởng thành. Trẻ em là người chưa đạt đến sự phát triển đầy đủ
về mặt thể chất và tinh thần để được coi là người lớn. Do đó, trẻ em được xã
hội quan tâm, tạo điều kiện sinh thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát
triển một cách toàn diện.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo độ
tuổi. Trên cơ sở độ tuổi, pháp luật xác định năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dành cho chủ thể đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, một cá nhân
được xem xét là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào ngày tháng năm sinh của
15
người đó tại thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật. Hiện nay trên thế giới, độ
tuổi để xác định một cá nhân là trẻ em có sự khác nhau, tùy thuộc vào mỗi quốc
gia, mỗi nền văn hóa-xã hội. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em
năm 1989 xác định: "Trẻ em là người dưới 18 tuổi". Tương tự, hầu hết các quốc
gia Châu Âu, Bắc Mỹ đều xác định độ tuổi dưới 18 tuổi là trẻ em [48], [60].
Khoa học pháp lý Việt Nam hầu như chưa đưa ra một khái niệm cụ
thể nào về sự điều chỉnh pháp luật chung đối với trẻ em mà chỉ một số ngành
luật cụ thể đề cập đến các khái niệm liên quan đến trẻ em. Nhưng nhìn chung,
tương đồng với các quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam cũng xác định
một cá nhân là trẻ em thông qua độ tuổi tại thời điểm xác định. Theo quy định
tại Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì "Trẻ em là công dân
Việt Nam dưới 16 tuổi". Theo quy định này, trẻ em có hai đặc trưng, một là
công dân Việt Nam và hai là độ tuổi được xác định là dưới 16 [5], [12], [38].
Như vậy, có thể rút ra khái niệm như sau:
Trẻ em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển của con người
tính từ lúc sinh ra cho đến trước giai đoạn trưởng thành (thường dưới 18
tuổi), có thể chất, tâm sinh lý phát triển chưa đầy đủ cần được bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục để phát triển.
Bên cạnh khái niệm trẻ em, trong khoa học pháp lý Việt Nam đã và
đang sử dụng khái niệm người chưa thành niên. Hầu hết các ngành luật sử
dụng khái niệm này như Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Lao động, Luật
Hành chính… Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005 nêu định nghĩa về người chưa
thành niên: "Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên". Trên cơ
sở khái niệm được đã đưa ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định năng lực hành vi
dân sự của người chưa thành niên từ đủ mười sáu tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi [39, Điều 20] và người chưa đủ mười sáu tuổi là người không có năng lực
hành vi dân sự [39, Điều 21]. Bộ luật Hình sự trên cơ sở cách hiểu đồng nhất
với quan điểm của Bộ luật Dân sự, tuy không đưa ra khái niệm thế nào là
16
người chưa thành niên, nhưng có quy định về trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên từ đủ mười bốn tuổi đến dưới mười sáu tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng; từ đủ mười sáu tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm [37, Điều 12]. Như vậy trong pháp luật Việt Nam, để phân
biệt hai khái niệm trên, có thể thấy rằng: Việc căn cứ để xác định một người
là trẻ em hay là người chưa thành niên đều dựa vào độ tuổi được xác định của
người đó. Cũng dựa vào độ tuổi được xác định đó, khái niệm trẻ em nằm
trong khái niệm người chưa thành niên. Hay nói cụ thể hơn, trẻ em trong pháp
luật Việt Nam nằm trong nhóm người chưa thành niên dưới mười sáu tuổi.
Theo pháp luật quốc tế, cách hiểu người chưa thành niên được hiểu là đồng
nhất với khái niệm trẻ em trên cơ sở xác định độ tuổi dưới 18.
1.1.2. Quyền trẻ em
Quyền là một khái niệm được dùng để miêu tả một nguyên tắc có liên
quan đến những lợi ích cơ bản mà con người được hưởng, không phân biệt
đặc điểm hay hoàn cảnh của cá nhân đó [59].
Việc công nhận quyền của một cá nhân hay một nhóm cá nhân đồng
nghĩa với trách nhiệm của những người khác trong việc hành động để thực
hiện quyền của một cá nhân hay một nhóm cá nhân [12], [59].
Trước đây, quan niệm cho rằng, trẻ em do còn non nớt về thể chất và
tinh thần, nên quyền trẻ em bao gồm những biện pháp nhằm che chở, bảo vệ
khỏi mọi sự xâm hại; trẻ em cần phải được bảo vệ và chăm sóc một cách đặc
biệt. Tuy nhiên, cách tiếp cận này vô hình chung đã coi trẻ em là đối tượng
phụ thuộc, phải chịu sự chi phối hoàn toàn này không xuất phát từ góc độ
"quyền của trẻ em" mà việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em như một sự bao dung,
che chở, sự thương hại, ban ơn.
Hiện nay, quan điểm về quyền trẻ em mang tính tiến bộ và tích cực
hơn. Trẻ em được nhìn nhận là một chủ thể trong các mối quan hệ xã hội, mỗi
17
trẻ em là một cá thể được xã hội công nhận, do đó trẻ em cũng có quyền cơ bản
của con người; các quyền của trẻ em được pháp luật tôn trọng và bảo vệ một
cách đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, trẻ em được hưởng một số quyền đặc thù mà chỉ
trẻ em mới có như quyền được khai sinh, được áp dụng các biện pháp xử lý nhẹ
hơn khi vi phạm hành chính hay được áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn người
đã trưởng thành khi có cùng một hành vi phạm tội…Trẻ em cũng có nhiều
quyền ưu tiên hơn người lớn như quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được
chăm sóc, được học tập, được bảo vệ, được tạo điều kiện để vui chơi… [19].
Theo cách hiểu của quốc tế, quyền trẻ em là quyền con người của trẻ
em, bao gồm bốn nhóm quyền cơ bản là nhóm quyền sống còn, nhóm quyền
phát triển, nhóm quyền được bảo vệ và nhóm quyền được tham gia. Nhóm
quyền sống còn bao gồm quyền của trẻ em được sống và đáp ứng những nhu
cầu cơ bản nhất để tồn tại như có mức sống no đủ, có nơi ở, dinh dưỡng và
chăm sóc sức khỏe… Nhóm quyền phát triển bao gồm những điều kiện mà trẻ
em cần có để phát triển đầy đủ nhất như quyền được hưởng giáo dục tiến bộ,
vui chơi giải trí lành mạnh, tiếp cận thông tin, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, giữ
gìn bản sắc dân tộc… Nhóm quyền được bảo vệ các quyền trẻ em được bảo
vệ tránh mọi phân biệt đối xử, lạm dụng và bóc lột, được bảo vệ trước các tệ
nạn xã hội như buôn bán trẻ em, xâm phạm tình dục, nghiện ma túy, bạo lực;
bảo vệ trẻ em khỏi bị tra tấn, lạm dụng khi vi phạm pháp luật hình sự, không
bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang, lao động nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm... Nhóm quyền tham gia bao gồm những điều kiện cho trẻ
em nhiều cơ hội tham gia vào công tác xã hội, đóng vai trò tích cực trong
cộng đồng và đất nước mình, bao gồm sự tự do diễn đạt, bày tỏ ý kiến và
quan điểm về những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của các em, được tự
do tham gia hội họp hòa bình.
Việt Nam là một trong số các quốc gia rất chú trọng đến bảo vệ quyền
con người nói chung, trong đó có quyền trẻ em. Việt Nam cũng là nước thứ
18
hai trên thế giới, quốc gia đầu tiên tại Châu Á phê chuẩn Công ước quyền trẻ
em. Các quyền trẻ em tại Việt Nam được ghi nhận khá đầy đủ, toàn diện và cụ
thể hóa thông qua nhiều quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau và được cụ thể hóa bằng nhiều chương trình hành động, bao gồm
các nhóm quyền: Quyền có quốc tịch và được khai sinh, quyền được chăm
sóc, nuôi dưỡng, quyền sống chung với cha mẹ, quyền được tôn trọng, bảo vệ
tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự, quyền được chăm sóc sức khỏe,
quyền được học tập, quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
thể dục, thể thao, du lịch, quyền được phát triển năng khiếu, quyền có tài sản,
quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
Mỗi nhóm quyền lại được cụ thể hóa tại nhiều chế định pháp luật riêng nhằm
cụ thể hóa các quyền đó thông qua việc quy định quyền của trẻ hoặc các hành
vi cấm thực hiện để đảm bảo quyền của trẻ. Ví dụ, đối với nhóm quyền được
tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em được
cụ thể hóa bằng các quyền như: Trẻ em được pháp luật tôn trọng, bảo vệ tính
mạng; cấm các hành vi xâm phạm đến thân thể, danh dự của trẻ như ngược
đãi, đánh đập, bạo hành thể chất và tinh thần trẻ; cấm hành vi mua bán trẻ em
dưới mọi hình thức; cấm sử dụng lao động trẻ em làm những công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm…So sánh giữa cách hiểu về quyền trẻ em ở Việt
Nam so với quốc tế, có thể thấy rằng, các quyền trẻ em tại Việt Nam là tương
đối phù hợp và hài hòa với quyền trẻ em được quy định tại các công ước quốc
tế. Đánh giá vấn đề này, Tổ chức Unicef tại Việt Nam nhận định: "Việt Nam
đã có những nỗ lực đáng kể trong việc tạo khuôn khổ pháp lý thực hiện các
quyền trẻ em, luật pháp và chính sách liên quan của Việt Nam ngày càng
tương thích với các chuẩn mực quốc tế…" [48].
Như vậy, quyền trẻ em chính là những nhu cầu cơ bản của trẻ em
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trẻ em được hưởng mọi quyền và mọi tự
do đã được nêu trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con
19
người mà không bị bất cứ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới
tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc
mối tương quan khác. Trẻ em là người chưa trưởng thành nên có quyền được
chăm sóc và bảo vệ sự sống, tồn tại và phát triển.
1.1.3. Bảo vệ quyền trẻ em
Bảo vệ quyền trẻ em là các biện pháp nhằm đảm bảo quyền trẻ em
được thực hiện một cách đầy đủ. Do đặc điểm về sự phát triển chưa đầy đủ về
cả tâm, sinh lý của trẻ em, nên việc bảo vệ quyền trẻ em chính là việc bảo vệ
các quyền về chăm sóc, bảo vệ sự tồn tại và phát triển của trẻ từ khi sinh ra
đến khi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người trưởng thành.
Ở cấp độ chung, bảo vệ quyền trẻ em là trách nhiệm của mọi công dân
trong một xã hội đối với việc bảo vệ sự an toàn và chăm sóc trẻ em; những
hành động giúp đỡ trẻ em khi một trẻ em có nguy cơ bị tổn hại hoặc đang bị
tổn hại và loại trừ những yếu tố trong môi trường chăm sóc có thể gây tổn hại
cho trẻ được coi là bảo vệ quyền trẻ em.
Ở cấp độ cụ thể hơn, bảo vệ quyền trẻ em đề cập đến những dịch vụ
được cung cấp bởi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và các tổ chức
phi chính phủ. Những dịch vụ này trực tiếp hướng tới việc giúp đỡ cho các
gia đình và cộng đồng để thực hiện việc bảo vệ quyền trẻ em, đồng thời trực
tiếp can thiệp khi một trẻ em bị tổn hại hoặc có nguy cơ bị tổn hại và cung cấp
dịch vụ can thiệp được thiết kế để kiểm soát, thay đổi và hỗ trợ cho môi
trường chăm sóc trẻ trong việc đáp ứng các nhu cầu chăm sóc của trẻ [12].
Như vậy, bảo vệ quyền trẻ em là một thuật ngữ đề cập đến trách
nhiệm của cả cha mẹ, người chăm sóc, cộng đồng và hệ thống dịch vụ của
chính phủ và phi chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ để đảm bảo mọi trẻ
em trong xã hội đều được đáp ứng sáu nhu cầu chăm sóc về thể chất, tình
cảm, tâm lý, nhận thức, xã hội và đạo đức.
20
1.1.4. Hệ thống bảo vệ trẻ em
Hệ thống bảo vệ trẻ em bao gồm tất cả những thành phần của một xã
hội được coi là có trách nhiệm đảm bảo an toàn, chăm sóc và bảo vệ cho trẻ
em. Những thành phần chính trong một hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em là
trường học, bệnh viện, trường mẫu giáo, các tổ chức của cơ quan chính phủ,
phi chính phủ có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ liên quan đến trẻ em, môi
trường sống (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội). Tất cả các thành phần
trong hệ thống bảo vệ trẻ em cần phối hợp làm việc để đảm bảo rằng mọi trẻ
em đều được chăm sóc, an toàn và bảo vệ.
Hệ thống bảo vệ trẻ em còn bao gồm tất cả những đường lối, chính
sách, pháp luật và kế hoạch hành động để định hướng cho việc đáp ứng các
nhu cầu về chăm sóc, an toàn và bảo vệ của trẻ em trong một xã hội [12].
Trên cơ sở hệ thống chính sách, pháp luật đó, trong quá trình thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em cũng là một
thành phần nằm trong hệ thống đó, góp phần bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
1.2. PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
1.2.1. Luật pháp quốc tế
1.2.1.1. Tuyên ngôn Giơnevơ, 1924
Quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu (thế kỷ XVII - XIX) với sự khủng
hoảng về lao động trong các công xưởng, hầm mỏ đã kéo theo tình trạng bóc
lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ I (1914 - 1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em vào hoàn cảnh cùng khổ.
Từ năm 1919, một số tổ chức cứu trợ trẻ em đã được thành lập ở Anh và Thụy
Điển, Italia. Những năm tiếp theo, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã ban
hành một số Công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực lao động, việc
làm và bảo trợ xã hội. Tuy nhiên, những văn kiện thời kỳ đó chưa đặt vấn đề
dưới góc độ các quyền trẻ em.
Đến năm 1924, khái niệm quyền trẻ em chính thức được đề cập trong
luật pháp quốc tế, khi Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về quyền trẻ em được Hội Quốc
21
liên thông qua. Tại tuyên bố này, vấn đề quyền trẻ em mới được đề cập mang
tính liệt kê cụ thể theo 5 nhóm quyền: 1. Trẻ em phải được phát triển một
cách bình thường cả về thể chất và tinh thần; 2. Trẻ em đói phải được cho ăn,
trẻ ốm phải được chữa trị, trẻ lạc hậu phải được giúp đỡ, trẻ phạm tội phải
được giáo dục, trẻ mồ côi và lang thang phải có nơi trú ẩn và phải được chăm
sóc; 3. Khi xảy ra tai họa, trẻ em là người đầu tiên được cứu trợ; 4. Trong đời
sống, trẻ em phải có quyền được kiếm sống và phải được bảo vệ chống lại
mọi hình thức bóc lột; 5. Trẻ em phải được nuôi dưỡng theo nhận thức rằng,
tài năng của chúng phải phục vụ cho đồng bào mình [1], [22], [57].
1.2.1.2. Tuyên bố (thứ hai) của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, 1959
Trên cơ sở mở rộng, phát triển Tuyên bố Giơ-ne-vơ 1924 và đảm bảo
thực hiện quyền trẻ em, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thống nhất thông qua
bản Tuyên bố (thứ hai) về quyền trẻ em theo Nghị quyết số 1386 (XIV) ngày
20-11-1959, yêu cầu các tổ chức, các quốc gia thành viên đảm bảo thực hiện
tất cả các quyền đối với trẻ em mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng
tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quốc tịch hoặc thành phần
xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc các tình trạng khác dù của trẻ hay gia đình trẻ.
So với Tuyên bố Giơ-ne-vơ, Tuyên bố thứ hai 1959 mở rộng nhiều
quyền dành cho trẻ em, đồng thời cũng quy định trách nhiệm đối với gia đình,
xã hội, các cơ quan, tổ chức trong nỗ lực đảm bảo thực hiện các quyền trẻ em.
Tuyên bố nêu ra 9 nhóm quyền trẻ em như sau: 1. Trẻ phải được chăm sóc
đặc biệt, phải có cơ hội hoặc được tạo điều kiện để giúp trẻ phát triển về thể
chất, tinh thần, đạo đức và xã hội một cách bình thường và lành mạnh, trong
điều kiện tự do và được tôn trọng nhân phẩm. 2. Trẻ em khi sinh ra có quyền
được khai sinh và có quốc tịch. 3. Trẻ em phải được hưởng những lợi ích của
an sinh xã hội, phải có sự chăm sóc và bảo vệ đặc biệt cho cả trẻ em và mẹ
của trẻ một cách đầy đủ trước và sau khi sinh; trẻ em có quyền được hưởng
các dịch vụ đầy đủ về dinh dưỡng, nhà ở, giải trí và y tế. 4. Trẻ em bị tàn tật
22
về thể xác, bị thiếu thốn về tinh thần hoặc xã hội sẽ được đối xử, giáo dục và
chăm sóc đặc biệt theo những yêu cầu đặc thù của trẻ. 5. Trẻ cần phải được lớn
lên trong sự chăm sóc và với trách nhiệm của cha mẹ. 6. Trẻ em có quyền được
hưởng giáo dục miễn phí và bắt buộc, ít nhất là ở bậc tiểu học. 7. Trẻ em phải
nhận sự bảo vệ và cứu giúp. 8. Trẻ em phải được bảo vệ chống lại mọi hình
thức bỏ rơi, ngược đãi và bóc lột. 9. Trẻ em sẽ được bảo vệ khỏi những tập tục
có thể tạo ra mọi hình thức phân biệt chủng tộc và tôn giáo [1], [23], [57].
1.2.1.3. Công ước quốc tế về quyền trẻ em, 1989
Có thể nói rằng, đây là nội dung xuyên suốt, là cơ sở pháp lý cho các
quốc gia thành viên công ước tuân thủ và thực hiện quyền trẻ em tại mỗi quốc
gia. Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã được thông qua và ký kết ngày
20/11/1989, có hiệu lực từ ngày 2/9/1990. Cho tới nay đã có 197 quốc gia
thành viên tham gia. Công ước để ngỏ cho các quốc gia tham gia ký kết, phê
chuẩn và gia nhập. Ngoài lời nói đầu, nội dung của Công ước gồm 3 phần với
54 điều khoản, bao quát được tất cả những khía cạnh liên quan đến quyền trẻ
em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo quyền của trẻ
em, mối quan hệ giữa trẻ em và quyền con người nói chung. Việt Nam là
nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới (sau Ga-na, 05/2/1990)
phê chuẩn Công ước.
Với bốn nguyên tắc xuyên suốt là: 1. Không phân biệt đối xử (Điều 2);
2. Bảo đảm quyền lợi tốt nhất của trẻ em (Điều 3); 3. Quyền được sống và
phát triển của trẻ em (Điều 6); 4. Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của trẻ em
(Điều 12), Công ước nêu rõ các quyền đối với trẻ em như sau: Quyền được
sống và phát triển; quyền được có họ tên và quốc tịch; quyền được giữ gìn
bản sắc; quyền được sống với cha mẹ; quyền được đoàn tụ với gia đình;
quyền được phòng ngừa việc đưa đi bất hợp pháp và không mang trở về;
quyền được bày tỏ ý kiến; quyền được tự do ngôn luận; quyền được tự do tư
tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo; quyền được tự do kết giao và hội họp hòa bình;
23
quyền được bảo vệ sự riêng tư; quyền được tiếp xúc với thông tin thích hợp;
quyền được cha mẹ chăm sóc nuôi dưỡng; quyền được bảo vệ chống lại sự
lạm dụng và sao nhãng; quyền được chăm sóc và bảo vệ khi bị tước mất môi
trường gia đình; quyền được nhận làm con nuôi; quyền được bảo vệ và nhận
sự giúp đỡ nhân đạo đối với trẻ em tị nạn; quyền được hưởng những sự chăm
sóc đặc biệt đối với trẻ em bị thiệt thòi về tinh thần và khuyết tật thể chất;
quyền được hưởng trạng thái sức khỏe cao nhất và các dịch vụ chữa bệnh
phục hồi sức khỏe; quyền được định kỳ xem xét nơi gửi trẻ; quyền được
hưởng an toàn xã hội; quyền có được mức sống đủ để phát triển thể chất, tinh
thần, tâm hồn, đạo đức và xã hội; quyền được học tập; quyền được tiếp thu
một nền giáo dục tiến bộ; trẻ em các dân tộc thiểu số hay bản địa có quyền
được hưởng đời sống văn hóa riêng, theo tôn giáo và sử dụng ngôn ngữ riêng
của mình; quyền vui chơi, giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ
thuật; quyền được bảo vệ khỏi bị bóc lột kinh tế và không phải làm các công
việc nguy hiểm, độc hại; quyền được bảo vệ chống lại việc sử dụng các chất
ma túy và an thần; quyền được bảo vệ chống bị bóc lột, cưỡng bức và lạm
dụng về tình dục; quyền được bảo vệ chống buôn bán và bắt cóc; quyền được
bảo vệ chống lại những hình thức bóc lột khác; quyền được đối xử nhân đạo
khi bị giam giữ và không bị tra tấn và tước đoạt sự tự do; quyền không phải
trực tiếp tham gia chiến sự khi chưa đến 15 tuổi và được bảo vệ, chăm sóc
khỏi ảnh hưởng của xung đột vũ trang; quyền được chăm sóc phục hồi; quyền
được hưởng các biện pháp tư pháp đặc biệt đối với người chưa thành niên; tôn
trọng những tiêu chuẩn cao hơn [1], [2], [25], [57].
1.2.1.4. Một số văn kiện quốc tế khác liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em
Bên cạnh Công ước quốc tế về quyền trẻ em là văn kiện quan trọng
nhất, quy định một cách tổng quát, đầy đủ các quyền trẻ em, Liên hợp quốc và
các tổ chức quốc tế cũng thông qua nhiều văn kiện điều chỉnh riêng biệt đối
với một số quyền dành cho trẻ em, như:
24
- Tuyên bố về bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong tình trạng khẩn cấp và
xung đột vũ trang, 1974: Được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
14/12/1974; theo đó tuyên bố khẳng định phụ nữ và trẻ em cần được chăm
sóc đặc biệt; Tuyên bố cũng kêu gọi các quốc gia cần tuân thủ và thực hiện
một cách nghiêm túc quy định về việc cấm sử dụng vũ khí hóa học và vi
khuẩn để mất mát nặng nề cho phụ nữ và trẻ em; việc bỏ tù, tra tấn, bắn giết,
bắt bớ hàng loạt, trừng phạt tập thể, phá hủy nhà ở và bức đoạt nhà ở của phụ
nữ và trẻ em phải được coi là tội phạm... [24].
- Tuyên bố thế giới về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em,
1990: Văn kiện được thông qua ngày 30-9-1990 tại Hội nghị cấp cao thế giới
về trẻ em họp tại trụ sở Liên hợp quốc. Trong đó, Tuyên bố đã nêu lên sự
thách thức về tình hình trẻ em trên thế giới và nêu lên các nhiệm vụ cho các
quốc gia, cụ thể: Tăng cường sức khỏe và chế độ dinh dưỡng cho trẻ em; quan
tâm chăm sóc trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đảm
bảo quyền bình đẳng giữa trẻ em nam và trẻ em nữ; đảm bảo cho trẻ em được
học hết bậc giáo dục cơ sở và không có trẻ em nào bị mù chữ; tạo điều kiện
trẻ em lớn khôn và phát triển trên nền móng gia đình... [26].
- Công ước số 138 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối
thiểu được đi làm việc, 1973;
- Những quy tắc tối thiểu chuẩn mực của Liên hợp quốc về xử phạt
hành chính tư pháp vị thành niên (Quy tắc Bắc Kinh), được thông qua bởi
nghị quyết của Đại hội đồng ngày 29/11/1985;
- Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên
quan đến bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc thu xếp nuôi con nuôi ở
trong và ngoài nước, 1986;
- Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm vị thành niên
được thông quá bởi nghị quyết của Đại hội đồng vào ngày 14/12/1990
(Hướng dẫn Riát);
25
- Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
quyền tự do, 1990;
- Tuyên bố của Hội nghị thế giới chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục
đích thương mại, 1996;
- Chương trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục
đích thương mại, 1996;
- Công ước số 182 của ILO về việc cấm và những hành động tức thời
để loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999;
- Khuyến nghị 190 của ILO về việc cấm và loại bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999.
1.2.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em
Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta là luôn giành cho trẻ em những gì
tốt đẹp nhất, trẻ em là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; trẻ em là nguồn hạnh phúc gia đình, là tương lai của dân tộc [13]. Trong
khoa học lý luận chung nhà nước và pháp luật chưa có khái niệm thống nhất
về sự điều chỉnh của pháp luật đối với trẻ em. Tuy nhiên, xét một cách chung
nhất, sự điều chỉnh của pháp luật là một bộ phận của sự điều chỉnh pháp luật nói
chung, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và
đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến trẻ em [29].
Sau đây là tóm tắt những lĩnh vực cơ bản nhất trong một số ngành luật chính
điều chỉnh trực tiếp đến vấn đề bảo vệ quyền trẻ em.
1.2.2.1. Luật Hiến pháp
Hiến pháp - đạo luật gốc, quy định về chế độ chính trị, kinh tế, văn
hóa xã hội, về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân và các vấn đề lớn mang tầm quốc gia. Qua gần 70 năm
lịch sử lập hiến của đất nước, được ghi nhận bằng năm bản Hiến pháp (1946,
1959, 1980, 1992 và 2013). Trong Hiến pháp, trẻ em được xem là một công
dân, hơn thế là một công dân đặc biệt. Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em được điều
chỉnh dưới góc độ quyền con người.
26
Hiến pháp 1946 ghi nhận: "...Trẻ con được săn sóc về mặt giáo
dưỡng" [31, Điều 14]; "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí ở các
trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học tiếng của mình,
học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy
theo chương trình của nhà nước" [31, Điều 15].
Hiến pháp 1959 ghi nhận: "Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục
thanh niên về đức dục, trí dục, thể dục" [32, Điều 35].
Hiến pháp 1980 ghi nhận: "Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi
dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành của các em được bảo
đảm" [33, Điều 65]; "Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho thanh niên được
học tập, lao động và giải trí, phát triển trí tuệ, năng khiếu và thể lực; chăm lo
bồi dưỡng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên…" [33, Điều 65].
Hiến pháp 1992 với hơn mười điều đề cập đến quyền của trẻ em đã
cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này. Quyền trẻ em không còn là những
quy định đơn lẻ mà xét về cơ cấu và nội dung thì vấn đề về quyền trẻ em đã
thực sự trở thành một chế định pháp lý chặt chẽ. Theo Hiến pháp 1992, vấn đề
quyền trẻ em được thiết kế, xây dựng trong mối quan hệ hữu cơ với chế định
quyền công dân (Chương V. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân). Trong
số 34 Điều (từ Điều 49 đến điều 82) của Chương này hoặc trực tiếp hoặc gián
tiếp đều đề cập đến quyền của trẻ em. Hiến pháp 1992 cũng đã chỉ rõ, trách
nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, của nhà
nước và của toàn xã hội (Điều 65) [35].
Kế thừa và phát triển tinh thần của các bản hiến pháp trước đây, Hiến
pháp năm 2013 (Điều 37) một lần nữa khẳng định: "Trẻ em được Nhà nước,
gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn
đề về trẻ em". Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định: "Nghiêm cấm xâm hại,
27
hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi
khác vi phạm quyền trẻ em" [44].
Luật Quốc tịch được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 là một
trong những cơ sở pháp lý để thực hiện quyền được có quốc tịch, quyền được
khai sinh của trẻ em. Theo đó, luật đã xác định quốc tịch của một cá nhân là
trạng thái pháp lý của cá nhân đó, bao gồm quyền, nghĩa vụ và những đảm
bảo pháp lý nhằm thực hiện quyền và nghĩa vụ đó. Trẻ em với tư cách là một
cá nhân, một công dân của Việt Nam nên quyền có quốc tịch là một trong
những quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của trẻ em. Quốc tịch cũng là căn cứ
để trẻ em được hưởng sự bảo hộ pháp lý của nhà nước, một trong những điều
kiện cơ bản để xác định tình trạng nhân thân của một con người từ khi sinh ra
đến khi chết [40].
1.2.2.2. Luật Hành chính
Luật Hành chính cũng là một ngành luật góp phần vào việc bảo vệ
quyền trẻ em dưới góc độ quản lý nhà nước. Trẻ em là một chủ thể của xã hội,
cũng là đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính. Mọi lĩnh vực trẻ em tham
gia như học tập, vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao, khám, chữa bệnh đều chịu
sự quản lý của nhà nước, do đó có thể nói Luật Hành chính tham gia điều
chỉnh hầu hết các mối quan hệ của trẻ em trong xã hội, từ đảm bảo các quyền
trẻ em. Một số luật đề cập trực tiếp đến vấn đề quyền trẻ em trong ngành Luật
Hành chính: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004; Luật Giáo dục
2005; Luật Phổ cập giáo dục tiểu học 1991...
Đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật, Luật Hành chính
cũng có nhiều quy định điều chỉnh mối quan hệ này. Luật Xử lý vi phạm hành
chính 2012 (phần V dành đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính),
gồm hai chương, 8 điều (Điều 133-138) quy định phạm vi áp dụng, nguyên
tắc xử lý, áp dụng các biện pháp xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả, áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính, thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi
28
phạm hành chính đối với người chưa thành niên. Chương 2 phần thứ năm quy
định các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính gồm nhắc nhở và quản lý
tại gia đình - hai biện pháp đề cao việc định hướng giáo dục tư tưởng đối với
người chưa thành niên vi phạm hơn là các biện pháp mang tính cưỡng chế [41].
Bên cạnh đó, Nghị định số 144/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, cứu trợ xã hội và
bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Mục 2, từ Điều 21- 34) quy định các biện pháp, hình
thức và mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong
lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em [10].
1.2.2.3. Luật Lao động
Luật Lao động điều chỉnh các quan hệ lao động giữa người lao động
và người sử dụng lao động, pháp điển hóa các quy định về quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ lao động. Luật Lao động coi trẻ em là một đối
tượng đặc biệt nằm trong nhóm lao động đặc thù (lao động chưa thành niên).
Trong Bộ luật Lao động, dành riêng Chương XI các quy định đối với lao động
chưa thành niên đã quy định một cách đầy đủ, cụ thể về khái niệm người lao
động, người lao động chưa thành niên, theo đó, người lao động là người ít
nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động;
người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi. Bộ luật và các
văn bản hướng dẫn cũng quy định về nguyên tắc sử dụng lao động chưa thành
niên cần phải tuân thủ, quy định nghiêm cấm mọi hành vi bóc lột, lạm dụng
sức lao động của người lao động chưa thành niên; quy định về chặt chẽ về
việc không được sử dụng lao động dưới 15 tuổi làm các công việc thuộc danh
mục 93 loại công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và các nơi làm việc có
nguy cơ ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển của người chưa thành
niên; quy định danh mục các nghề được phép sử dụng lao động dưới 13 tuổi và
danh mục các công việc được sử dụng lao động từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi;
các quy định về điều kiện giao kết hợp đồng, đảm bảo thời gian học tập, khám
29
sức khỏe định kỳ, về thời gian làm việc đối với lao động chưa thành niên. Đây
là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc sử dụng lao động đối với lao động chưa
thành niên, nhằm đảm bảo quyền được làm việc của trẻ em được quy định
trong pháp luật nước ta [43].
1.2.2.4. Luật Dân sự
Luật Dân sự coi trẻ em là một thành viên trong đời sống dân sự và có
những quy định riêng nhằm xác định địa vị pháp lý của trẻ em trong đời sống
dân sự gồm các quyền, nghĩa vụ và những đảm bảo pháp lý. Bảo vệ quyền trẻ
em trong pháp luật dân sự thể hiện bằng việc đảm bảo về quyền được giám hộ
đối với người chưa thành niên, quyền được có tài sản, về năng lực chủ thể dân
sự của người chưa thành niên, về quan hệ thừa kế, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của người chưa thành niên [39].
1.2.2.5. Luật Hình sự
Luật Hình sự điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm
tội. Người chưa thành niên là một chủ thể đặc biệt, pháp luật hình sự cũng có
nhiều quy định dành riêng cho đối tượng này. Trong Luật Hình sự, vấn đề
quyền trẻ em được đảm bảo ở hai góc độ: đối với người chưa thành niên
phạm tội và phạm tội đối với trẻ em. Bộ luật Hình sự 2005, sửa đổi, bổ sung
năm 2009 quy định cụ thể các nguyên tắc, độ tuổi, các hình phạt áp dụng, các
điều kiện về miễn, giảm chấp hành hình phạt... đối với người chưa thành niên,
trẻ em phạm tội; đồng thời cũng quy định các hình phạt nghiêm khắc cho các
hành vi phạm tội đối với trẻ em, đảm bảo quyền được bảo vệ của trẻ em.
Đối với lĩnh vực xử lý trẻ em phạm tội, Bộ luật đã quy định cụ thể về
độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12) là "người từ đủ 14 tuổi trở
lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng"; xác định sáu
nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội theo hướng giảm
nhẹ các hình phạt.
30
Bộ luật Hình sự hiện hành cũng dành 25 điều, khoản quy định các tội
phạm với các mức hình phạt nghiêm khắc có liên quan đến các hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em như: Tội giết người
(Giết phụ nữ mà biết là đang có thai, giết trẻ em) (Điều 93); tội giết con mới
đẻ; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác (Đối
với trẻ em); tội hành hạ người khác; tội hiếp dâm trẻ em; tội cưỡng dâm trẻ
em; tội giao cấu với trẻ em; tội dâm ô với trẻ em... (Điều 94 - Điều 116) [37].
1.2.2.6. Luật Hôn nhân và gia đình
Trẻ em là một chủ thể trong mối quan hệ hôn nhân, gia đình, do đó trẻ
em là một chủ thể của Luật Hôn nhân và gia đình. Quyền trẻ em trong Luật
Hôn nhân và gia đình được thể hiện trong các quy định về quyền nhân thân;
quyền tài sản trong các mối quan hệ giữa cha mẹ-con cái, giữa anh chị em,
giữa ông bà-cháu; quyền được khai sinh; quyền được xác định cha mẹ; quyền
được cha mẹ yêu thương, trông nom, dạy dỗ; quyền được cấp dưỡng; quyền
được cha mẹ thay mặt bồi thường thiệt hại về tài sản cho người khác. Luật
Hôn nhân, gia đình cũng xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ về nhân thân, tài
sản của trẻ em đối với các thành viên trong gia đình [45].
Có thể thấy rằng, tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt
Nam đều xem trẻ em là một chủ thể trong mối quan hệ pháp luật, đều dành
cho trẻ em những quy định rất đặc thù theo hướng đảm bảo những điều tốt
đẹp nhất cho trẻ em. Điều này xuất phát từ đặc điểm riêng về độ tuổi cũng
như sự phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tinh thần của trẻ em. Điều này cũng
là minh chứng thể hiện đường lối, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em; hướng tới đảm bảo cho trẻ em
một môi trường pháp lý đầy đủ, lành mạnh để phát triển.
1.3. THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
1.3.1. Khái niệm thanh tra
Thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc La-tinh (in-spectare) có nghĩa là
"nhìn vào bên trong" chỉ sự xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối
31
tượng nhất định, "là sự kiểm soát đối với đối tượng bị thanh tra" trên cơ sở
thẩm quyền (quyền hạn và nghĩa vụ) được giao nhằm đạt được mục đích nhất
định. Trong hoạt động quản lý nhà nước, trong sách báo chính trị, các tài liệu
và văn bản pháp luật thường sử dụng cụm từ "thanh tra, kiểm tra" để chỉ một
giai đoạn cần thiết của quá trình quản lý, một chức năng quản lý nhà nước.
Trên thực tế, khái niệm thanh tra được dùng rất khác nhau ở mỗi nước
về phạm vi hoạt động, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có chức
năng thanh tra. Ở một số quốc gia, cơ quan thanh tra được tổ chức trong hệ
thống của cơ quan hành pháp (ví dụ như ở Cộng hòa Pháp, ở mỗi Bộ có các
Tổng thanh tra hoạt động dưới sự điều hành trực tiếp của Bộ trưởng và tiến
hành thanh tra trong phạm vi quản lý của Bộ, ngành đó), có nước chức năng
thanh tra gắn liền với kiểm toán và được tổ chức thành một cơ quan độc lập [56].
Ở nước ta, theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể của thanh
tra là các cơ quan quản lý nhà nước; đối tượng của thanh tra là đối tượng quản
lý nhà nước và mục đích của hoạt động thanh tra cũng nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Đây là những yếu tố căn bản để phân biệt
hoạt động thanh tra với các phương thức kiểm soát khác như hoạt động kiểm
tra, giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của công dân đối với
hoạt động hành chính nhà nước (chức năng giám sát của Quốc hội và các cơ
quan dân cử, giám sát của nhân dân, chức năng kiểm sát của Viện Kiểm sát
các cấp, chức năng kiểm tra của Đảng và các tổ chức chính trị, xã hội).
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì: "Thanh tra nhà nước
là việc xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân…" [41].
Từ các quan niệm trên cho thấy thanh tra có các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, thanh tra là hoạt động của chủ thể quản lý mang quyền lực
nhà nước tác động đến các đối tượng trong mối liên hệ phụ thuộc, quan hệ
phục tùng chấp hành điều hành.
32
Thứ hai, thanh tra là một khâu của hoạt động quản lý, đồng thời lại là
một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động thanh tra
gắn liền với thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống, kinh tế, chính trị - xã hội.
Thứ ba, thanh tra là một phương thức hoạt động của chủ thể quản lý,
nhân danh quyền lực nhà nước xem xét, kiểm tra tận nơi, tại chỗ hoạt động
của đối tượng bị quản lý, nhằm tổ chức, điều hành hệ thống quản lý theo mục
đích đề ra.
Thứ tư, thanh tra có tính độc lập tương đối, đặc điểm này thể hiện ở
chỗ thanh tra có thẩm quyền xem xét đánh giá và xử lý những đơn vị, tổ chức
có cùng địa vị pháp lý với mình, đồng thời có quyền đưa ra những kiến nghị,
kết luận độc lập chỉ dựa trên nhũng chứng cứ có thật được thu thập trong quá
trình thanh tra [56].
Theo Luật Thanh tra năm 2010, thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành:
Thanh tra hành chính: Là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Thanh tra
hành chính là loại hình thanh tra hướng vào các chủ thể quản lý nhà nước (là
các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước). Chức năng của loại hình thanh
tra này là xem xét việc chấp hành pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước
và công chức nhà nước. Bộ máy cơ quan thanh tra hành chính ở nước ta được
tổ chức từ trung ương đến địa phương. Ở Trung ương có Thanh tra Chính
phủ; ở địa phương có Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là Thanh tra tỉnh), Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(gọi chung là Thanh tra huyện). Song song với hệ thống cơ quan thanh tra
được tổ chức theo ngành dọc, các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh
vực cũng có chức năng thanh tra hành chính. Chức năng này được quy định
tại các nghị định quy định về tổ chức, hoạt động của thanh tra chuyên ngành.
33
Thanh tra chuyên ngành: Là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc
quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Để thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành, người ta lập ra một bộ phận chuyên trách làm công tác thanh tra như
thanh tra ngân hàng, thanh tra giáo dục, thanh tra tài chính, thanh tra lao động…
Ở nước ta, pháp luật quy định theo hướng cơ quan thanh tra chuyên
ngành có cả chức năng thanh tra chuyên ngành và thanh tra hành chính. Bên
cạnh thanh tra theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật,
xem đối tượng thanh tra đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao như thế
nào từ đó kiến nghị điều chỉnh phương thức quản lý, điều hành; cơ quan thanh
tra chuyên ngành cũng hướng vào cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
1.3.2. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em
1.3.2.1. Các cơ quan có thẩm quyền thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em
Cần phải nhắc lại rằng, bảo vệ quyền trẻ em là lĩnh vực rộng, tổ chức
của hệ thống bảo vệ trẻ em bao gồm nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân từ trung
ương đến địa phương. Mỗi nhóm quyền lại liên quan đến nhiều cơ quan quản
lý nhà nước tại nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao,
công an, thông tin, truyền thông, lao động…Do vậy, thanh tra các lĩnh thuộc
bảo vệ trẻ em cũng thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan quản lý nhà nước
khác nhau. Mỗi cơ quan lại có thẩm quyền thanh tra đối với lĩnh vực liên
quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em thuộc lĩnh vực mình quản lý.
Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em là một hoạt động trong quản lý nhà
nước, một bộ phận nằm trong hệ thống thanh tra nhà nước có nhiệm vụ thanh
tra chuyên ngành nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lý những vi phạm pháp luật
phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đảm bảo cho các quyền của
34
trẻ em được thực hiện một cách đầy đủ. Theo quy định của các văn bản pháp
lý, các cơ quan sau có thẩm quyền trong thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em:
Chịu trách nhiệm trước Chính phủ công tác quản lý nhà nước về bảo
vệ, chăm sóc trẻ em là ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Là ngành
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, tại Nghị định số 106/2012/NĐ-CP ngày 20/ 12/
2012 của Chính phủ đã quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nêu, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về các lĩnh vực: Việc làm, dạy nghề, lao động, tiền lương, tiền
công, bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện,
bảo hiểm thất nghiệp), an toàn lao động, người có công, bảo trợ xã hội, bảo vệ
và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới, phòng chống tệ nạn xã hội trong phạm vi
cả nước… Cùng với hệ thống quản lý ngành dọc, Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội là cơ quan trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực thuộc ngành, trong đó có lĩnh vực bảo
vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn quản lý.
Nằm trong cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước
thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và chịu sự chỉ đạo, hướng
dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Lao động -
Thương binh và Xã hội là một bộ phận của thanh tra nhà nước, thực hiện chức
năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về lao động, người có
công với cách mạng và xã hội, trong đó có lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em
thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, một số cơ quan sau đây cũng có vai trò thanh tra, kiểm
tra liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em trong phạm vi quản lý của mình:
Thanh tra Chính phủ có thẩm quyền thanh tra việc thực hiện chính
sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em
của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp
35
tỉnh; thanh tra vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý nhà nước
về trẻ em của nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc
các vụ việc được Chính phủ giao; thanh tra lại các vụ việc về bảo vệ quyền trẻ
em đã được Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Chánh Thanh tra Bộ,
Chánh Thanh tra tỉnh kết luận nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Thanh tra nhà nước cấp tỉnh có thẩm quyền thanh tra các vụ việc phức
tạp, liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên
địa bàn, các vụ việc được Thanh tra Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân
giao; thanh tra lại các vụ việc liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em đã được Giám
đốc Sở, Chánh Thanh tra Sở kết luận nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Thanh tra nhà nước huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm
quyền thanh tra các vụ việc liên quan đến thực hiện quyền trẻ em của các tổ
chức, cá nhân trên địa bàn quản lý.
Một số cơ quan thanh tra chuyên ngành cũng tham gia vào thanh tra
bảo vệ quyền trẻ em trong phạm vi, lĩnh vực quản lý như: Ngành Giáo dục và
đào tạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục, do vậy, Thanh tra
Bộ Giáo dục và đào tạo có thẩm quyền thanh tra các vấn đề liên quan đến
chính sách giáo dục đối với trẻ em trên phạm vi toàn quốc; Thanh tra Sở Giáo
dục và đào tạo cấp tỉnh có quyền thanh tra các vấn đề liên quan đến chính
sách giáo dục đối với trẻ em trên phạm vi địa phương quản lý. Y tế thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực khám, chữa bệnh, thực hiện các
chính sách hỗ trợ y tế cho trẻ em. Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế cấp
tỉnh có thẩm quyền thanh tra việc thực hiện công tác khám, chữa bệnh đối với
trẻ em. Tương tự, Công an, Tư pháp, Văn hóa, thể thao và du lịch, Thông tin-
truyền thông…cũng đóng vai trò trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra các
vấn đề về bảo vệ, chăm sóc trẻ em liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý.
Tóm lại, bảo vệ quyền trẻ em là lĩnh vực rộng trên cả phạm vi, số
lượng, liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý khác nhau, do đó, nhiều cơ quan
36
thanh tra trong hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước có thẩm quyền thanh tra
nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền trẻ em. Ngành Lao động - Thương
binh và Xã hội là cơ quan đầu mối, được giao chức năng thực hiện quản lý
nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; do đó, Thanh tra Lao động - Thương
binh và Xã hội có thẩm quyền thực hiện thanh tra chuyên ngành về bảo vệ
quyền trẻ em. Hay nói cách khác, Thanh tra ngành Lao động - Thương binh
và Xã hội là chủ thể đóng vai trò chủ đạo trong thanh tra bảo vệ quyền trẻ em.
1.3.2.2. Nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em trong tổng thể nhiệm vụ của
Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội
Thanh tra bảo vệ quyền trẻ em là một trong các nhiệm vụ của Thanh
tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Trên cơ sở quy định pháp luật,
có thể tóm tắt các nhiệm vụ cơ bản của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội và Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trong thanh tra
bảo vệ quyền trẻ em như sau:
Nhiệm vụ của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Tham
gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em
theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; tổ
chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành về bảo vệ quyền trẻ em cho
các thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trên phạm vi toàn quốc; tuyên
truyền, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra cơ quan, đơn vị thuộc Bộ thực hiện quy
định của pháp luật về thanh tra; tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác thanh
tra trong lĩnh vực thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; nghiên cứu khoa học về
thanh tra trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em; hợp tác quốc tế về công tác
thanh tra trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em; thanh tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo, phòng, chống tham nhũng về bảo vệ quyền trẻ em và tổng hợp, báo
cáo Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng Thanh tra Chính
phủ về kết quả thanh tra bảo vệ quyền trẻ em trong phạm vi quản lý của Bộ
37
Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy định của pháp luật và thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ của Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội:
Tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị thuộc quyền
quản lý của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc thực hiện pháp
luật về thanh tra; tổ chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành về bảo
vệ quyền trẻ em cho thanh tra viên, công chức làm công tác thanh tra thuộc
Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; tổng kết, rút kinh nghiệm về
công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong phạm vi quản lý của Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội; thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng về bảo vệ quyền trẻ em và tổng hợp, báo cáo kết quả công
tác trong phạm vi quản lý của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy
định của pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định
của pháp luật.
1.3.2.3. Vai trò bảo vệ quyền trẻ em của Thanh tra Lao động -
Thương binh và Xã hội
Vai trò của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội trong bảo vệ
quyền trẻ em được thể hiện qua các khía cạnh sau đây:
Một là, phát hiện, phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về bảo
vệ quyền trẻ em. Đây là một trong những vai trò quan trọng nhất của Thanh
tra Lao động - Thương binh và Xã hội. Thanh tra Lao động - Thương binh và
Xã hội được trao quyền thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật về
bảo vệ quyền trẻ em thuộc phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội trên toàn quốc. Vai trò này được thể hiện: Lập kế
hoạch thanh tra và thực hiện thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ
quyền trẻ em trong phạm vi, quyền hạn trách nhiệm quản lý. Hoạt động thanh
tra được thực hiện thông qua hai hình thức thanh tra theo kế hoạch và thanh
tra đột xuất. Thanh tra theo kế hoạch là việc thực hiện thanh tra theo kế hoạch
38
đã được phê duyệt của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Thanh tra đột
xuất được thực hiện khi có dấu hiệu vi phạm về quyền trẻ em; có phản ánh,
khiếu nại, tố cáo hoặc theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước. Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo vệ quyền trẻ em cũng kịp
thời phát hiện, phòng, chống các hành vi vi phạm về quyền trẻ em.
Hai là, kịp thời xử lý, kiến nghị xử lý các hành vi vi phạm về bảo vệ
quyền trẻ em. Thông qua các nghiệp vụ, phương pháp tiến hành thanh tra,
hoặc các quy trình thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Lao động -
Thương binh và Xã hội kịp thời biểu dương những việc đã làm được trong
công tác bảo vệ quyền trẻ em của các cơ quan, tổ chức; phát hiện được những
dấu hiệu, hành vi vi phạm để có hướng xử lý kịp thời. Tùy vào mức độ của
hành vi vi phạm, thanh tra viên trong quá trình thanh tra tiến hành lập biên
bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em, quyết định xử
phạt trực tiếp hoặc báo cáo Chánh Thanh tra, người ra quyết định thanh tra ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em;
đối với các hành vi vi phạm đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Thanh tra Lao
động - Thương binh và Xã hội có thẩm quyền kiến nghị, lập hồ sơ chuyển cơ
quan có thẩm quyền điều tra, truy tố theo luật định.
Ba là, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền
trẻ em. Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện vai trò này thông
qua hai hình thức trực tiếp và gián tiếp. Hình thức trực tiếp được thực hiện thông
qua nhiệm vụ tổ chức tập huấn, nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho thanh tra viên,
cán bộ được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội; lồng ghép phổ biến quy định về pháp luật đối với
người lao động chưa thành niên vào hoạt động tổ chức và hướng dẫn khai báo,
điều tra tai nạn lao động và những vi phạm tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn lao
động, vệ sinh lao động; tham gia xây dựng và hướng dẫn áp dụng hệ thống
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh lao động
39
đối với các đơn vị sử dụng lao động. Hình thức gián tiếp được thực hiện thông
qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các đối tượng
thanh tra, thanh tra viên, trưởng đoàn thanh tra kịp thời phổ biến các chính sách,
quy định pháp luật lao động, giải đáp những vướng mắc trong quá trình thực
hiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em của đối tượng thanh tra.
Bốn là, tham gia xây dựng, góp ý xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật về bảo vệ quyền trẻ em. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em đối với các đối
tượng thanh tra là quá trình kiểm tra thực tế, không chỉ kiểm tra việc các cá
nhân, tổ chức chấp hành các quy định pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, đó
còn là quá trình lắng nghe, thu nhận những ý kiến phản hồi về cơ chế, chính
sách, quy định pháp luật. Qua đó đánh giá, xem xét những quy định pháp luật
bất cập hoặc không còn phù hợp với thực tế để kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù
hợp với yêu cầu quản lý nhà nước về lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em.
1.3.2.4. Đối tượng của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã
hội trong thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em
Là cơ quan thanh tra chuyên ngành thuộc cơ quan quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội có đối tượng thanh
tra rất rộng. Đối tượng của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội trong
thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em gồm:
Nhóm đối tượng thứ nhất: Cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền
quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước về Lao động - Thương binh và
Xã hội thực hiện nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em: Đó là Cục Bảo
vệ, chăm sóc trẻ em, Quỹ bảo trợ trẻ em, các trung tâm bảo trợ xã hội cấp Bộ;
các phòng, ban, trung tâm, trường… thuộc ngành Lao động - Thương binh và
Xã hội ở các tỉnh, thành phố trên phạm vi toàn quốc.
Nhóm đối tượng thứ hai: Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước
ngoài tham gia chấp hành pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em tại
Việt Nam.
40
1.3.2.5. Cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em
* Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Thanh tra năm 2010 có 7 chương, 78 điều gồm phần quy định
chung; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan
được giao chức năng thanh tra chuyên ngành; thanh tra viên, người được giao
thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra; hoạt
động thanh tra; điều kiện đảm bảo hoạt động của thanh tra nhà nước; thanh tra
nhân dân và các điều khoản thi hành. Sau khi Luật Thanh tra 2010 có hiệu
lực, Chính phủ đã ban hành 03 nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn một
số điều nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật Thanh tra (Nghị định số
86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Thanh tra; Nghị định số 97/2011/NĐ-CP quy định về thanh
tra viên và cộng tác viên thanh tra; Nghị định số 07/2012/NĐ-CP quy định về
cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra
chuyên ngành). Ngoài ra, Thanh tra Chính phủ cũng ban hành nhiều thông tư,
quyết định hướng dẫn quy trình một cuộc thanh tra, hệ thống văn bản trong
hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; quy chế hoạt động thanh tra;
quy chế về đảm bảo bí mật trong hoạt động thanh tra; các quy định về tiêu
chuẩn đối với thanh tra viên, Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra Sở; các
văn bản về phòng, chống tham nhũng…
So với Luật Thanh tra 2004, Luật Thanh tra 2010 có nhiều điểm mới,
khắc phục được những hạn chế, thiếu sót như chỉ quy định về các cơ quan
thực hiện chức năng thanh tra, bao gồm cơ quan thanh tra nhà nước và cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; bổ sung một số
nhiệm vụ, quyền hạn nhằm nâng cao tính chủ động, tính độc lập tương đối
cho các cơ quan thanh tra…Đây chính là các văn bản pháp lý quan trọng nhất,
là cơ sở pháp lý trực tiếp cho toàn bộ hoạt động thanh tra, trong đó có hoạt
động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em.
41
* Luật Khiếu nại
Luật Khiếu nại 2011 gồm 8 chương, 70 điều, trên cơ sở kế thừa quy
định của Luật Khiếu nại, tố cáo 1998, là một trong những cơ sở pháp lý quan
trọng cho hoạt động giải quyết khiếu nại, bao gồm cả giải quyết khiếu nại về
bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Luật quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính
nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước;
quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại và giải quyết khiếu nại; trình tự, thủ tục
giải quyết khiếu nại, tiếp công dân; quản lý và giám sát công tác giải quyết
khiếu nại, xử lý các vi phạm trong giải quyết khiếu nại. So với Luật Khiếu
nại, tố cáo 1998, Luật Khiếu nại đã có nhiều quy định mới nhằm khắc phục
thiếu sót, hạn chế về trình tự thủ tục, thẩm quyền, quyền và trách nhiệm của
người khiếu nại, người giải quyết khiếu nại, luật sư, người có nghĩa vụ, quyền
lợi liên quan, tạo điều kiện thuận lợi trong khiếu nại và giải quyết khiếu nại -
một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng
để thực hiện khiếu nại và giải quyết khiếu nại các hành vi vi phạm trong lĩnh
vực bảo vệ quyền trẻ em.
* Luật Tố cáo
Luật Tố cáo năm 2011 gồm 8 chương và 50 điều quy định về tố cáo và
giải quyết tố cáo; nguyên tắc giải quyết tố cáo; quyền, nghĩa vụ của người tố
cáo, người bị tố cáo và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo; trình tự, thủ tục giải quyết tố
cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm
pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; các quy định về bảo vệ
người tố cáo; quy định về khen thưởng, kỷ luật… Đây là căn cứ pháp lý cho
việc thực hiện tố cáo và giải quyết tố cáo về bảo vệ quyền trẻ em của Thanh
tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội.
42
* Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ngày 24/4/2013 quy định về tổ chức
và hoạt động của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội
Nghị định gồm 5 chương, 24 điều, quy định về tổ chức thanh tra nhà
nước, cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội; quy định về thanh tra viên, công chức thanh
tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra ngành Lao động - Thương binh và
Xã hội; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Đây chính là cơ
sở pháp lý nhằm thực hiện các chức năng quản lý nhà nước cho cơ quan thanh
tra nhà nước và các cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội.
1.3.2.6. Nhận xét chung
Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội là một bộ phận không
thể thiếu trong hệ thống thanh tra nhà nước nói chung và thanh tra ngành, lĩnh
vực nói riêng; có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo pháp chế, trật tự kỷ
cương nhà nước, và là một nội dung, một chức năng thiết yếu trong quá trình
quản lý nhà nước.
Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội được tổ chức theo
nguyên tắc "song trùng trực thuộc", vừa phụ thuộc cơ quan quản lý nhà nước
cùng cấp về lãnh đạo, chỉ đạo vừa phụ thuộc cơ quan thanh tra cấp trên về tổ
chức, nghiệp vụ, công tác. Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội đóng
vai trò lớn trong thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, tham
gia xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ chính sách về bảo vệ quyền trẻ em, là
một bộ phận không thể thiếu của quản lý nhà nước. Đối tượng thanh tra về
lĩnh vực này rất rộng, bao gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia công
tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Trước yêu cầu cấp thiết về quản lý các lĩnh vực thuộc ngành nói
chung và công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em cùng với yêu cầu của quá trình hội
43
nhập quốc tế, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Lao động -
Thương binh và Xã hội sẽ nâng cao được vị trí, hiệu quả của tổ chức ngành,
góp phần tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
1.4. MÔ HÌNH THANH TRA BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM CỦA MỘT SỐ
QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
1.4.1. Mô hình thanh tra viên vì trẻ em (Ombudsman for Children)
Trong Từ điển tiếng Anh, Ombudsman có nghĩa là các nhân viên kiểm
tra, người thanh tra. Tại một số quốc gia, Ombudsman tương đương với thanh
tra quốc hội hoặc thanh tra nhà nước. Ombudsman có một bộ máy giúp việc,
thường được gọi là Văn phòng Ombudsman. Ombudsman vì trẻ em (các
thanh tra viên vì trẻ em) có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thực hiện
quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em ở các cấp, các ngành thuộc chính phủ, đặc biệt là
các cơ quan thi hành. Điển hình cho mô hình này là các nước Bắc Âu (Thụy
Điển, Na Uy, Áo…) hoặc các nước thuộc Đại Tây Dương (Niu Di lân…). Các
thanh tra viên vì trẻ em được thành lập trên cơ sở một sắc luật đặc biệt (Na
Uy) hoặc được quy định tại một sắc luật về trẻ em (tại Áo, Luật Phúc lợi trẻ
em quy định chính quyền cấp tỉnh phải lập ra thanh tra viên. Tại Anh, Luật về
trẻ em lại quy định thành lập một chương trình thanh tra vì trẻ em trong các cơ
sở nuôi dưỡng…). Các thanh tra viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ (thanh tra
viên vì trẻ em ở Na Uy có nhiệm kỳ 4 năm; Thụy Điển có nhiệm kỳ 6 năm...).
Trong việc thực hiện nhiệm vụ, tùy vào quy định của từng quốc gia
mà cơ quan thanh tra vì trẻ em có nhiệm vụ rộng hay hẹp. Một số quốc gia,
tùy theo tình trạng cấp thiết cần phải bảo vệ đối với từng nhóm trẻ em mà
thành lập chương trình bảo vệ đối với nhóm trẻ đó. Ví dụ như ở Anh, thanh
tra vì trẻ em tập trung thực hiện bảo vệ quyền trẻ em trong các trại nuôi
dưỡng, hoặc ở Bỉ, thanh tra viên chỉ hoạt động hạn chế trong lĩnh vực chữa trị
và dịch vụ của các cơ quan phúc lợi cho trẻ em. Hay ở Hoa Kỳ, có bang thành
lập ra thanh tra viên vì trẻ em trong các cơ sở chăm sóc trẻ em kém phát triển
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT
Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đLuận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà NẵngLuận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
 
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...
 
Đề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOT
Đề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOTĐề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOT
Đề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOT
 
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
 
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOTLuận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAYLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAYLuận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đìnhLuận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
 

Similar to Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT

Similar to Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT (20)

Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ emKhoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
 
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dânBảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
 
Luận văn: Nghiên cứu mô hình Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại trung ...
Luận văn: Nghiên cứu mô hình Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại trung ...Luận văn: Nghiên cứu mô hình Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại trung ...
Luận văn: Nghiên cứu mô hình Công tác xã hội đối với trẻ em mồ côi tại trung ...
 
Đánh giá hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơ...
 Đánh giá hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơ... Đánh giá hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơ...
Đánh giá hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơ...
 
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt NamLuận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, HOT
Luận văn: Pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, HOTLuận văn: Pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, HOT
Luận văn: Pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, HOT
 
Luận văn: Quyền sống của thai nhi và pháp luật về phá thai, HOT
Luận văn: Quyền sống của thai nhi và pháp luật về phá thai, HOTLuận văn: Quyền sống của thai nhi và pháp luật về phá thai, HOT
Luận văn: Quyền sống của thai nhi và pháp luật về phá thai, HOT
 
Thực trạng lãnh đạo quản lý công
Thực trạng  lãnh đạo  quản lý côngThực trạng  lãnh đạo  quản lý công
Thực trạng lãnh đạo quản lý công
 
Pháp luật về lao động chưa thành niên trong hội nhập quốc tế
Pháp luật về lao động chưa thành niên trong hội nhập quốc tếPháp luật về lao động chưa thành niên trong hội nhập quốc tế
Pháp luật về lao động chưa thành niên trong hội nhập quốc tế
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niênLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên
 
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Group 2
Group 2Group 2
Group 2
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
 
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt NamLuận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
 
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyềnQuyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
 
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Dịch vu công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật vận động
Luận văn: Dịch vu công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật vận độngLuận văn: Dịch vu công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật vận động
Luận văn: Dịch vu công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật vận động
 
Chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Quảng Bình
Chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Quảng BìnhChính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Quảng Bình
Chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Quảng Bình
 
Luận Văn Nghiên Cứu Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ý Định Mua Thực Phẩm Chức Năng...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ý Định Mua Thực Phẩm Chức Năng...Luận Văn Nghiên Cứu Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ý Định Mua Thực Phẩm Chức Năng...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ý Định Mua Thực Phẩm Chức Năng...
 
LUẬN VĂN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ ĐỐI VỚI TRẺ EM VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈ...
LUẬN VĂN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ ĐỐI VỚI TRẺ EM VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈ...LUẬN VĂN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ ĐỐI VỚI TRẺ EM VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈ...
LUẬN VĂN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ ĐỐI VỚI TRẺ EM VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 

Luận văn: Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ LIÊN THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ LIÊN THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn ThÞ Liªn
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các sơ đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VÀ THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 7 1.1. Khái niệm trẻ em, quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em 7 1.1.1. Khái niệm về trẻ em 7 1.1.2. Quyền trẻ em 9 1.1.3. Bảo vệ quyền trẻ em 12 1.1.4. Hệ thống bảo vệ trẻ em 13 1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em 13 1.2.1. Luật pháp quốc tế 13 1.2.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em 18 1.3. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 23 1.3.1. Khái niệm thanh tra 23 1.3.2. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 26 1.4. Mô hình thanh tra bảo vệ quyền trẻ em của một số quốc gia trên thế giới 36 1.4.1. Mô hình thanh tra viên vì trẻ em (Ombudsman for Children) 36 1.4.2. Hoạt động thanh tra vì trẻ em của tổ chức phi chính phủ (NGO) 37 1.4.3. Những kinh nghiệm về thanh tra quyền trẻ em trên thế giới có thể được áp dụng ở Việt Nam 38
  • 5. 5 Chương 2: THỰC TRẠNG THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM HIỆN NAY Ở NƯỚC TA 42 2.1. Tổ chức và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam 42 2.1.1. Giai đoạn 1990-2008 42 2.1.2. Giai đoạn từ khi Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em giải thể đến nay (năm 2008-nay) 44 2.2. Kết quả thanh tra về quyền trẻ em của thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội 47 2.2.1. Trong công tác tham mưu, tham gia xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em 47 2.2.2. Tiếp công dân, xử lý thư đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em 47 2.2.3. Kết quả hoạt động thanh tra về quyền trẻ em 48 2.2.4. Đánh giá chung kết quả thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 54 2.3. Những hạn chế, bất cập trong thanh tra quyền trẻ em hiện nay 56 2.3.1. Hạn chế từ các quy định pháp luật 56 2.3.2. Hạn chế về nhận thức 74 2.3.3. Hạn chế về mô hình tổ chức của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội 77 2.3.4. Hạn chế về nguồn nhân lực của thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội 79 2.3.5. Hạn chế về thẩm quyền của thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội 84 2.3.6. Thiếu cơ chế phối hợp về thu thập thông tin, kiểm tra, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 85 2.4. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót trên 87 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 90 3.1. Yêu cầu khách quan nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 90
  • 6. 6 3.1.1. Bảo đảm thực hiện quyền, lợi ích trẻ em 90 3.1.2. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội 91 3.1.3. Xuất phát từ những tồn tại, thiếu sót của hoạt động thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 92 3.1.4. Phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính 92 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 93 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 93 3.2.2. Hoàn thiện, đổi mới tổ chức Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội và hoạt động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em 100 3.2.3. Tăng cường số lượng, nâng cao năng lực và đảm bảo điều kiện làm việc đội ngũ công chức thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội 105 3.2.4. Phân định rõ thẩm quyền thanh tra, bảo vệ, chăm sóc trẻ em giữa các cấp, các ngành 109 3.2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức khác trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 110 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Tổng hợp kết quả tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em từ 2011-2013 47 2.2 Tổng hợp kết quả thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật đối với người lao động chưa thành niên tại doanh nghiệp của Thanh tra Bộ từ 2011-2013 49 2,3 Tổng hợp kết quả thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật đối với người lao động chưa thành niên tại doanh nghiệp của Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh từ 2011-2013 50 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Số hiệu sơ đồ Tên sơ đồ Trang 2.1 Tổ chức bộ máy Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hiện nay 45
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước. Vị trí của trẻ em đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Ngày nay các cháu là nhi đồng. Ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới" [28]. Ngày nay, tư tưởng đó của Bác Hồ vẫn tiếp tục được kế thừa, phát triển và hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của thời đại "Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai". Vì vậy, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng. Sự nghiệp ấy đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Nhà nước, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Điều này được thể hiện trong từng bước xây dựng và hoàn thiện nhiều chính sách, pháp luật nhằm tạo một hành lang pháp lý cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Do đó, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta trong những năm qua có nhiều chuyển biến đáng khích lệ, các quyền của trẻ em đã và đang được cải thiện về nhiều mặt [17]. Trẻ em tự mình không thực hiện được các quyền mà phải dựa vào người lớn. Việc thực hiện quyền trẻ em chủ yếu phụ thuộc vào trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Mặc dù đã có sự nỗ lực rất lớn của các cấp, các ngành song sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ em đang đứng trước những thách thức cam go, nhất là các yếu tố nảy sinh do mặt trái của nền kinh tế thị trường mang lại. Khoảng cách giàu, nghèo, phân biệt về giới giữa các gia đình, giữa các vùng vẫn có xu hướng gia tăng làm cho nhiều trẻ em rơi vào cảnh thất học, nhiều trẻ em phải xa gia đình để kiếm sống; các áp lực về kinh tế, xã hội, lối sống thực dụng hay sự suy đồi của đạo đức làm tăng thêm nguy cơ trẻ em lang thang, trẻ em bị buôn bán, bị xâm hại tình dục, bị bóc lột sức lao động, bị bạo hành cả trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội.
  • 9. 9 Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ với khoảng hơn 25 triệu trẻ em, chiếm khoảng gần 29% dân số. Trong đó, số trẻ mồ côi không nơi nương tựa và số trẻ em bị bỏ rơi là 126.248; số trẻ em khuyết tật là 326.327; số trẻ em là nạn nhân chất độc hóa học là 22.559; số trẻ nhiễm HIV/AIDS là 5.704 em; trẻ em làm việc xa gia đình là 6.056, số trẻ em bị tai nạn thương tích là 13.594... [5], [47], [48]. Chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dân số với nhiều nhóm đối tượng trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt, trong khi đó, hệ thống bảo vệ, chăm sóc còn nhiều yếu kém, lạc hậu, kiến thức, trách nhiệm của những người chăm sóc trẻ em của gia đình và cộng đồng chưa bắt kịp thời tốc độ phát triển dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em trong gia đình, cộng đồng và những người chăm sóc trẻ em bị giảm sút; hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ quyền trẻ em liên tục điều chỉnh; mạng lưới cán bộ, cộng tác viên, tình nguyện viên tham gia công tác bảo vệ quyền trẻ em không ổn định nên việc cập nhật kiến thức và kỹ năng bảo vệ quyền trẻ em rất hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát về bảo vệ quyền trẻ em còn rất ít... Tất cả các yếu tố đó đã và đang trở thành rào cản trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ trẻ em ở nước ta hiện nay; đồng thời, đây cũng là những thách thức không nhỏ đối với những người làm công tác bảo vệ trẻ em, trong đó có công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em. Trước tình hình đó, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em được xem là yêu cầu cấp thiết trong hoạt động quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Là một trong các nhiệm vụ của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận góp phần phát huy được những yếu tố tích cực, phát hiện được nhiều hiện tượng tiêu cực, từ đó có hướng xử lý kịp thời, nghiêm minh, đảm bảo pháp luật. Qua thanh tra cũng kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều chính sách trong công tác bảo vệ quyền trẻ em cho phù hợp. Tuy vậy, đây là một lĩnh vực quản lý rộng, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức và mang tính "xã hội", nên thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em còn tồn tại nhiều
  • 10. 10 hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện. Bên cạnh hệ thống luật pháp, chính sách còn nhiều "lỗ hổng" thì thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hoạt động chưa hiệu quả, cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ quyền trẻ em còn quá ít về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng so với yêu cầu quản lý nhà nước, các điều kiện để thực hiện công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em còn nhiều thiếu thốn, chưa có cơ chế phối hợp nhằm tập hợp sức mạnh giữa các cơ quan, tổ chức trong hoạt động này… Do đó, việc nghiên cứu công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em để góp phần điều chỉnh, sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng với tình hình thực tiễn đất nước và nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp bảo vệ trẻ em càng trở nên cần thiết. Mặt khác, hiện nay ở nước ta, chưa có một công trình khoa học hay một đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về thanh tra bảo vệ quyền trẻ em. Vì thế, trước yêu cầu cấp thiết của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em, tôi chọn: "Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn, đề ra các giải pháp nhằm nâng cao công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng, đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ trẻ em nói chung hiện nay ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước đây, đã có một số nghiên cứu chuyên khảo về lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em như: "Pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1994); "Những điều cần biết về quyền trẻ em", của Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1996); Bộ tài liệu về lao động trẻ em của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2009); Bộ tài liệu thanh tra về lao động trẻ em - Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012)... Một số công trình nghiên cứu về công tác thanh tra như: "Nâng cao năng lực hệ thống thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội", Đề án của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội (2013); "Các công
  • 11. 11 ước quốc tế về lao động trẻ em và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Hoàng Phương (2010); "Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội nhập quốc tế", Luận văn tiến sĩ Luật học, của Trần Thắng Lợi (2012). Hay một số bài viết: "Luật pháp quốc tế về quyền tham gia của trẻ em", Tạp chí Lao động - xã hội (2013); "Nâng cao nhận thức trong bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em", Tạp chí Gia đình - Trẻ em (2014)… Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm, các nghiên cứu mới chỉ mang tính chất chuyên đề, nghiên cứu chủ yếu về một vài nhóm quyền trẻ em, hoặc nghiên cứu ở tầm vĩ mô về hệ thống thanh tra ngành nói chung mà chưa có một nghiên cứu toàn diện, đầy đủ thuộc lĩnh vực thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội là rất cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Mục đích Luận văn dự kiến nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; đồng thời đánh giá thực trạng công tác thanh tra bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam và gợi mở một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động này. * Mục đích Với mục đích nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể là: - Tổng hợp và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền trẻ em, bảo vệ quyền trẻ em, thanh tra, tổ chức thanh tra và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nằm trong tổng thể Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội; có tham khảo mô hình tổ chức thanh tra vì trẻ em của một số nước trên thế giới.
  • 12. 12 - Phân tích thực trạng công tác thanh tra bảo vệ quyền trẻ em hiện nay ở Việt Nam, đánh giá những thành tựu đã đạt được và đặc biệt là những hạn chế, vướng mắc của công tác này, có lý giải các nguyên nhân cụ thể dẫn đến các hạn chế, vướng mắc đó. - Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động cùng các điều kiện để thực hiện mô hình đó nhằm mục đích cuối cùng là đổi mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và quản lý nhà nước trong lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội nói chung. * Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: "Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam" - được nghiên cứu với tư cách là một trong những hoạt động thuộc phạm vi thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trên phạm vi toàn quốc. - Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2013. 4. Phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu vấn đề thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em một cách khách quan dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách hành chính. * Phương pháp nghiên cứu cụ thể Để thực hiện mục đích và nội dung nghiên cứu trên, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp điều tra, khảo sát, so sánh, thống kê và một số phương pháp khác. Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo sát, các báo cáo, kết luận thanh tra, báo cáo thống kê về nguồn nhân lực
  • 13. 13 Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các địa phương từ năm 2010 đến năm 2013. 5. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn Với các kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong việc đúc kết một số vấn đề lý luận về thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; đánh giá thực tiễn hoạt động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hiệu quả hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và tổ chức, hoạt động của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội nói chung, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước trong tình hình mới. Đặc biệt, tác giả có tham khảo một số mô hình tổ chức bảo vệ quyền trẻ em trên thế giới, rút ra một số điểm có thể áp dụng tại Việt Nam, nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em thuộc lĩnh vực mà tác giả luận văn đang công tác. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả các cán bộ, công chức trong ngành Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc bất kỳ ai quan tâm đến công tác thanh tra cũng như làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy lĩnh vực này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em và thanh tra bảo vệ quyền trẻ em. Chương 2: Thực trạng thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay ở Việt Nam. Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam.
  • 14. 14 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VÀ THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 1.1. KHÁI NIỆM TRẺ EM, QUYỀN TRẺ EM VÀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 1.1.1. Khái niệm về trẻ em Tùy vào góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể, khái niệm trẻ em được hiểu ở nhiều cách khác nhau. Triết học xem trẻ em là một "khâu" tất yếu trong mối quan hệ biện chứng với tiến trình phát triển của xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử và trẻ em là con đẻ của thời đại, của xã hội. Sự phát triển của xã hội, tương lai của một quốc gia, dân tộc tùy thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Dưới góc độ tâm lý học, trẻ em là khái niệm được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý, nhân cách của con người. Sự phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ em giai đoạn từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì là một trong những nội dung quan trọng trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học. Theo đó, tâm lý học phân chia lứa tuổi trẻ em thành các giai đoạn khác nhau, ứng với sự phát triển và tiếp thu nhận thức khác nhau: Tuổi sơ sinh, tuổi hài nhi, tuổi mẫu giáo nhỏ, tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thành niên mới lớn [21]. Xã hội học lại xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội khác với người đã trưởng thành. Trẻ em là người chưa đạt đến sự phát triển đầy đủ về mặt thể chất và tinh thần để được coi là người lớn. Do đó, trẻ em được xã hội quan tâm, tạo điều kiện sinh thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát triển một cách toàn diện. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo độ tuổi. Trên cơ sở độ tuổi, pháp luật xác định năng lực pháp luật và năng lực hành vi dành cho chủ thể đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, một cá nhân được xem xét là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào ngày tháng năm sinh của
  • 15. 15 người đó tại thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật. Hiện nay trên thế giới, độ tuổi để xác định một cá nhân là trẻ em có sự khác nhau, tùy thuộc vào mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa-xã hội. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 xác định: "Trẻ em là người dưới 18 tuổi". Tương tự, hầu hết các quốc gia Châu Âu, Bắc Mỹ đều xác định độ tuổi dưới 18 tuổi là trẻ em [48], [60]. Khoa học pháp lý Việt Nam hầu như chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào về sự điều chỉnh pháp luật chung đối với trẻ em mà chỉ một số ngành luật cụ thể đề cập đến các khái niệm liên quan đến trẻ em. Nhưng nhìn chung, tương đồng với các quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam cũng xác định một cá nhân là trẻ em thông qua độ tuổi tại thời điểm xác định. Theo quy định tại Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Theo quy định này, trẻ em có hai đặc trưng, một là công dân Việt Nam và hai là độ tuổi được xác định là dưới 16 [5], [12], [38]. Như vậy, có thể rút ra khái niệm như sau: Trẻ em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển của con người tính từ lúc sinh ra cho đến trước giai đoạn trưởng thành (thường dưới 18 tuổi), có thể chất, tâm sinh lý phát triển chưa đầy đủ cần được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục để phát triển. Bên cạnh khái niệm trẻ em, trong khoa học pháp lý Việt Nam đã và đang sử dụng khái niệm người chưa thành niên. Hầu hết các ngành luật sử dụng khái niệm này như Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Lao động, Luật Hành chính… Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005 nêu định nghĩa về người chưa thành niên: "Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên". Trên cơ sở khái niệm được đã đưa ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ mười sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi [39, Điều 20] và người chưa đủ mười sáu tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự [39, Điều 21]. Bộ luật Hình sự trên cơ sở cách hiểu đồng nhất với quan điểm của Bộ luật Dân sự, tuy không đưa ra khái niệm thế nào là
  • 16. 16 người chưa thành niên, nhưng có quy định về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ mười bốn tuổi đến dưới mười sáu tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; từ đủ mười sáu tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm [37, Điều 12]. Như vậy trong pháp luật Việt Nam, để phân biệt hai khái niệm trên, có thể thấy rằng: Việc căn cứ để xác định một người là trẻ em hay là người chưa thành niên đều dựa vào độ tuổi được xác định của người đó. Cũng dựa vào độ tuổi được xác định đó, khái niệm trẻ em nằm trong khái niệm người chưa thành niên. Hay nói cụ thể hơn, trẻ em trong pháp luật Việt Nam nằm trong nhóm người chưa thành niên dưới mười sáu tuổi. Theo pháp luật quốc tế, cách hiểu người chưa thành niên được hiểu là đồng nhất với khái niệm trẻ em trên cơ sở xác định độ tuổi dưới 18. 1.1.2. Quyền trẻ em Quyền là một khái niệm được dùng để miêu tả một nguyên tắc có liên quan đến những lợi ích cơ bản mà con người được hưởng, không phân biệt đặc điểm hay hoàn cảnh của cá nhân đó [59]. Việc công nhận quyền của một cá nhân hay một nhóm cá nhân đồng nghĩa với trách nhiệm của những người khác trong việc hành động để thực hiện quyền của một cá nhân hay một nhóm cá nhân [12], [59]. Trước đây, quan niệm cho rằng, trẻ em do còn non nớt về thể chất và tinh thần, nên quyền trẻ em bao gồm những biện pháp nhằm che chở, bảo vệ khỏi mọi sự xâm hại; trẻ em cần phải được bảo vệ và chăm sóc một cách đặc biệt. Tuy nhiên, cách tiếp cận này vô hình chung đã coi trẻ em là đối tượng phụ thuộc, phải chịu sự chi phối hoàn toàn này không xuất phát từ góc độ "quyền của trẻ em" mà việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em như một sự bao dung, che chở, sự thương hại, ban ơn. Hiện nay, quan điểm về quyền trẻ em mang tính tiến bộ và tích cực hơn. Trẻ em được nhìn nhận là một chủ thể trong các mối quan hệ xã hội, mỗi
  • 17. 17 trẻ em là một cá thể được xã hội công nhận, do đó trẻ em cũng có quyền cơ bản của con người; các quyền của trẻ em được pháp luật tôn trọng và bảo vệ một cách đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, trẻ em được hưởng một số quyền đặc thù mà chỉ trẻ em mới có như quyền được khai sinh, được áp dụng các biện pháp xử lý nhẹ hơn khi vi phạm hành chính hay được áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn người đã trưởng thành khi có cùng một hành vi phạm tội…Trẻ em cũng có nhiều quyền ưu tiên hơn người lớn như quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được chăm sóc, được học tập, được bảo vệ, được tạo điều kiện để vui chơi… [19]. Theo cách hiểu của quốc tế, quyền trẻ em là quyền con người của trẻ em, bao gồm bốn nhóm quyền cơ bản là nhóm quyền sống còn, nhóm quyền phát triển, nhóm quyền được bảo vệ và nhóm quyền được tham gia. Nhóm quyền sống còn bao gồm quyền của trẻ em được sống và đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại như có mức sống no đủ, có nơi ở, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe… Nhóm quyền phát triển bao gồm những điều kiện mà trẻ em cần có để phát triển đầy đủ nhất như quyền được hưởng giáo dục tiến bộ, vui chơi giải trí lành mạnh, tiếp cận thông tin, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, giữ gìn bản sắc dân tộc… Nhóm quyền được bảo vệ các quyền trẻ em được bảo vệ tránh mọi phân biệt đối xử, lạm dụng và bóc lột, được bảo vệ trước các tệ nạn xã hội như buôn bán trẻ em, xâm phạm tình dục, nghiện ma túy, bạo lực; bảo vệ trẻ em khỏi bị tra tấn, lạm dụng khi vi phạm pháp luật hình sự, không bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang, lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm... Nhóm quyền tham gia bao gồm những điều kiện cho trẻ em nhiều cơ hội tham gia vào công tác xã hội, đóng vai trò tích cực trong cộng đồng và đất nước mình, bao gồm sự tự do diễn đạt, bày tỏ ý kiến và quan điểm về những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của các em, được tự do tham gia hội họp hòa bình. Việt Nam là một trong số các quốc gia rất chú trọng đến bảo vệ quyền con người nói chung, trong đó có quyền trẻ em. Việt Nam cũng là nước thứ
  • 18. 18 hai trên thế giới, quốc gia đầu tiên tại Châu Á phê chuẩn Công ước quyền trẻ em. Các quyền trẻ em tại Việt Nam được ghi nhận khá đầy đủ, toàn diện và cụ thể hóa thông qua nhiều quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau và được cụ thể hóa bằng nhiều chương trình hành động, bao gồm các nhóm quyền: Quyền có quốc tịch và được khai sinh, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền sống chung với cha mẹ, quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được học tập, quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch, quyền được phát triển năng khiếu, quyền có tài sản, quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội. Mỗi nhóm quyền lại được cụ thể hóa tại nhiều chế định pháp luật riêng nhằm cụ thể hóa các quyền đó thông qua việc quy định quyền của trẻ hoặc các hành vi cấm thực hiện để đảm bảo quyền của trẻ. Ví dụ, đối với nhóm quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em được cụ thể hóa bằng các quyền như: Trẻ em được pháp luật tôn trọng, bảo vệ tính mạng; cấm các hành vi xâm phạm đến thân thể, danh dự của trẻ như ngược đãi, đánh đập, bạo hành thể chất và tinh thần trẻ; cấm hành vi mua bán trẻ em dưới mọi hình thức; cấm sử dụng lao động trẻ em làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm…So sánh giữa cách hiểu về quyền trẻ em ở Việt Nam so với quốc tế, có thể thấy rằng, các quyền trẻ em tại Việt Nam là tương đối phù hợp và hài hòa với quyền trẻ em được quy định tại các công ước quốc tế. Đánh giá vấn đề này, Tổ chức Unicef tại Việt Nam nhận định: "Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong việc tạo khuôn khổ pháp lý thực hiện các quyền trẻ em, luật pháp và chính sách liên quan của Việt Nam ngày càng tương thích với các chuẩn mực quốc tế…" [48]. Như vậy, quyền trẻ em chính là những nhu cầu cơ bản của trẻ em được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trẻ em được hưởng mọi quyền và mọi tự do đã được nêu trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con
  • 19. 19 người mà không bị bất cứ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc mối tương quan khác. Trẻ em là người chưa trưởng thành nên có quyền được chăm sóc và bảo vệ sự sống, tồn tại và phát triển. 1.1.3. Bảo vệ quyền trẻ em Bảo vệ quyền trẻ em là các biện pháp nhằm đảm bảo quyền trẻ em được thực hiện một cách đầy đủ. Do đặc điểm về sự phát triển chưa đầy đủ về cả tâm, sinh lý của trẻ em, nên việc bảo vệ quyền trẻ em chính là việc bảo vệ các quyền về chăm sóc, bảo vệ sự tồn tại và phát triển của trẻ từ khi sinh ra đến khi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người trưởng thành. Ở cấp độ chung, bảo vệ quyền trẻ em là trách nhiệm của mọi công dân trong một xã hội đối với việc bảo vệ sự an toàn và chăm sóc trẻ em; những hành động giúp đỡ trẻ em khi một trẻ em có nguy cơ bị tổn hại hoặc đang bị tổn hại và loại trừ những yếu tố trong môi trường chăm sóc có thể gây tổn hại cho trẻ được coi là bảo vệ quyền trẻ em. Ở cấp độ cụ thể hơn, bảo vệ quyền trẻ em đề cập đến những dịch vụ được cung cấp bởi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính phủ. Những dịch vụ này trực tiếp hướng tới việc giúp đỡ cho các gia đình và cộng đồng để thực hiện việc bảo vệ quyền trẻ em, đồng thời trực tiếp can thiệp khi một trẻ em bị tổn hại hoặc có nguy cơ bị tổn hại và cung cấp dịch vụ can thiệp được thiết kế để kiểm soát, thay đổi và hỗ trợ cho môi trường chăm sóc trẻ trong việc đáp ứng các nhu cầu chăm sóc của trẻ [12]. Như vậy, bảo vệ quyền trẻ em là một thuật ngữ đề cập đến trách nhiệm của cả cha mẹ, người chăm sóc, cộng đồng và hệ thống dịch vụ của chính phủ và phi chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ để đảm bảo mọi trẻ em trong xã hội đều được đáp ứng sáu nhu cầu chăm sóc về thể chất, tình cảm, tâm lý, nhận thức, xã hội và đạo đức.
  • 20. 20 1.1.4. Hệ thống bảo vệ trẻ em Hệ thống bảo vệ trẻ em bao gồm tất cả những thành phần của một xã hội được coi là có trách nhiệm đảm bảo an toàn, chăm sóc và bảo vệ cho trẻ em. Những thành phần chính trong một hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em là trường học, bệnh viện, trường mẫu giáo, các tổ chức của cơ quan chính phủ, phi chính phủ có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ liên quan đến trẻ em, môi trường sống (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội). Tất cả các thành phần trong hệ thống bảo vệ trẻ em cần phối hợp làm việc để đảm bảo rằng mọi trẻ em đều được chăm sóc, an toàn và bảo vệ. Hệ thống bảo vệ trẻ em còn bao gồm tất cả những đường lối, chính sách, pháp luật và kế hoạch hành động để định hướng cho việc đáp ứng các nhu cầu về chăm sóc, an toàn và bảo vệ của trẻ em trong một xã hội [12]. Trên cơ sở hệ thống chính sách, pháp luật đó, trong quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em cũng là một thành phần nằm trong hệ thống đó, góp phần bảo vệ, chăm sóc trẻ em. 1.2. PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 1.2.1. Luật pháp quốc tế 1.2.1.1. Tuyên ngôn Giơnevơ, 1924 Quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu (thế kỷ XVII - XIX) với sự khủng hoảng về lao động trong các công xưởng, hầm mỏ đã kéo theo tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ I (1914 - 1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em vào hoàn cảnh cùng khổ. Từ năm 1919, một số tổ chức cứu trợ trẻ em đã được thành lập ở Anh và Thụy Điển, Italia. Những năm tiếp theo, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã ban hành một số Công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực lao động, việc làm và bảo trợ xã hội. Tuy nhiên, những văn kiện thời kỳ đó chưa đặt vấn đề dưới góc độ các quyền trẻ em. Đến năm 1924, khái niệm quyền trẻ em chính thức được đề cập trong luật pháp quốc tế, khi Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về quyền trẻ em được Hội Quốc
  • 21. 21 liên thông qua. Tại tuyên bố này, vấn đề quyền trẻ em mới được đề cập mang tính liệt kê cụ thể theo 5 nhóm quyền: 1. Trẻ em phải được phát triển một cách bình thường cả về thể chất và tinh thần; 2. Trẻ em đói phải được cho ăn, trẻ ốm phải được chữa trị, trẻ lạc hậu phải được giúp đỡ, trẻ phạm tội phải được giáo dục, trẻ mồ côi và lang thang phải có nơi trú ẩn và phải được chăm sóc; 3. Khi xảy ra tai họa, trẻ em là người đầu tiên được cứu trợ; 4. Trong đời sống, trẻ em phải có quyền được kiếm sống và phải được bảo vệ chống lại mọi hình thức bóc lột; 5. Trẻ em phải được nuôi dưỡng theo nhận thức rằng, tài năng của chúng phải phục vụ cho đồng bào mình [1], [22], [57]. 1.2.1.2. Tuyên bố (thứ hai) của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, 1959 Trên cơ sở mở rộng, phát triển Tuyên bố Giơ-ne-vơ 1924 và đảm bảo thực hiện quyền trẻ em, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thống nhất thông qua bản Tuyên bố (thứ hai) về quyền trẻ em theo Nghị quyết số 1386 (XIV) ngày 20-11-1959, yêu cầu các tổ chức, các quốc gia thành viên đảm bảo thực hiện tất cả các quyền đối với trẻ em mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quốc tịch hoặc thành phần xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc các tình trạng khác dù của trẻ hay gia đình trẻ. So với Tuyên bố Giơ-ne-vơ, Tuyên bố thứ hai 1959 mở rộng nhiều quyền dành cho trẻ em, đồng thời cũng quy định trách nhiệm đối với gia đình, xã hội, các cơ quan, tổ chức trong nỗ lực đảm bảo thực hiện các quyền trẻ em. Tuyên bố nêu ra 9 nhóm quyền trẻ em như sau: 1. Trẻ phải được chăm sóc đặc biệt, phải có cơ hội hoặc được tạo điều kiện để giúp trẻ phát triển về thể chất, tinh thần, đạo đức và xã hội một cách bình thường và lành mạnh, trong điều kiện tự do và được tôn trọng nhân phẩm. 2. Trẻ em khi sinh ra có quyền được khai sinh và có quốc tịch. 3. Trẻ em phải được hưởng những lợi ích của an sinh xã hội, phải có sự chăm sóc và bảo vệ đặc biệt cho cả trẻ em và mẹ của trẻ một cách đầy đủ trước và sau khi sinh; trẻ em có quyền được hưởng các dịch vụ đầy đủ về dinh dưỡng, nhà ở, giải trí và y tế. 4. Trẻ em bị tàn tật
  • 22. 22 về thể xác, bị thiếu thốn về tinh thần hoặc xã hội sẽ được đối xử, giáo dục và chăm sóc đặc biệt theo những yêu cầu đặc thù của trẻ. 5. Trẻ cần phải được lớn lên trong sự chăm sóc và với trách nhiệm của cha mẹ. 6. Trẻ em có quyền được hưởng giáo dục miễn phí và bắt buộc, ít nhất là ở bậc tiểu học. 7. Trẻ em phải nhận sự bảo vệ và cứu giúp. 8. Trẻ em phải được bảo vệ chống lại mọi hình thức bỏ rơi, ngược đãi và bóc lột. 9. Trẻ em sẽ được bảo vệ khỏi những tập tục có thể tạo ra mọi hình thức phân biệt chủng tộc và tôn giáo [1], [23], [57]. 1.2.1.3. Công ước quốc tế về quyền trẻ em, 1989 Có thể nói rằng, đây là nội dung xuyên suốt, là cơ sở pháp lý cho các quốc gia thành viên công ước tuân thủ và thực hiện quyền trẻ em tại mỗi quốc gia. Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã được thông qua và ký kết ngày 20/11/1989, có hiệu lực từ ngày 2/9/1990. Cho tới nay đã có 197 quốc gia thành viên tham gia. Công ước để ngỏ cho các quốc gia tham gia ký kết, phê chuẩn và gia nhập. Ngoài lời nói đầu, nội dung của Công ước gồm 3 phần với 54 điều khoản, bao quát được tất cả những khía cạnh liên quan đến quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo quyền của trẻ em, mối quan hệ giữa trẻ em và quyền con người nói chung. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới (sau Ga-na, 05/2/1990) phê chuẩn Công ước. Với bốn nguyên tắc xuyên suốt là: 1. Không phân biệt đối xử (Điều 2); 2. Bảo đảm quyền lợi tốt nhất của trẻ em (Điều 3); 3. Quyền được sống và phát triển của trẻ em (Điều 6); 4. Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của trẻ em (Điều 12), Công ước nêu rõ các quyền đối với trẻ em như sau: Quyền được sống và phát triển; quyền được có họ tên và quốc tịch; quyền được giữ gìn bản sắc; quyền được sống với cha mẹ; quyền được đoàn tụ với gia đình; quyền được phòng ngừa việc đưa đi bất hợp pháp và không mang trở về; quyền được bày tỏ ý kiến; quyền được tự do ngôn luận; quyền được tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo; quyền được tự do kết giao và hội họp hòa bình;
  • 23. 23 quyền được bảo vệ sự riêng tư; quyền được tiếp xúc với thông tin thích hợp; quyền được cha mẹ chăm sóc nuôi dưỡng; quyền được bảo vệ chống lại sự lạm dụng và sao nhãng; quyền được chăm sóc và bảo vệ khi bị tước mất môi trường gia đình; quyền được nhận làm con nuôi; quyền được bảo vệ và nhận sự giúp đỡ nhân đạo đối với trẻ em tị nạn; quyền được hưởng những sự chăm sóc đặc biệt đối với trẻ em bị thiệt thòi về tinh thần và khuyết tật thể chất; quyền được hưởng trạng thái sức khỏe cao nhất và các dịch vụ chữa bệnh phục hồi sức khỏe; quyền được định kỳ xem xét nơi gửi trẻ; quyền được hưởng an toàn xã hội; quyền có được mức sống đủ để phát triển thể chất, tinh thần, tâm hồn, đạo đức và xã hội; quyền được học tập; quyền được tiếp thu một nền giáo dục tiến bộ; trẻ em các dân tộc thiểu số hay bản địa có quyền được hưởng đời sống văn hóa riêng, theo tôn giáo và sử dụng ngôn ngữ riêng của mình; quyền vui chơi, giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quyền được bảo vệ khỏi bị bóc lột kinh tế và không phải làm các công việc nguy hiểm, độc hại; quyền được bảo vệ chống lại việc sử dụng các chất ma túy và an thần; quyền được bảo vệ chống bị bóc lột, cưỡng bức và lạm dụng về tình dục; quyền được bảo vệ chống buôn bán và bắt cóc; quyền được bảo vệ chống lại những hình thức bóc lột khác; quyền được đối xử nhân đạo khi bị giam giữ và không bị tra tấn và tước đoạt sự tự do; quyền không phải trực tiếp tham gia chiến sự khi chưa đến 15 tuổi và được bảo vệ, chăm sóc khỏi ảnh hưởng của xung đột vũ trang; quyền được chăm sóc phục hồi; quyền được hưởng các biện pháp tư pháp đặc biệt đối với người chưa thành niên; tôn trọng những tiêu chuẩn cao hơn [1], [2], [25], [57]. 1.2.1.4. Một số văn kiện quốc tế khác liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em Bên cạnh Công ước quốc tế về quyền trẻ em là văn kiện quan trọng nhất, quy định một cách tổng quát, đầy đủ các quyền trẻ em, Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế cũng thông qua nhiều văn kiện điều chỉnh riêng biệt đối với một số quyền dành cho trẻ em, như:
  • 24. 24 - Tuyên bố về bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong tình trạng khẩn cấp và xung đột vũ trang, 1974: Được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1974; theo đó tuyên bố khẳng định phụ nữ và trẻ em cần được chăm sóc đặc biệt; Tuyên bố cũng kêu gọi các quốc gia cần tuân thủ và thực hiện một cách nghiêm túc quy định về việc cấm sử dụng vũ khí hóa học và vi khuẩn để mất mát nặng nề cho phụ nữ và trẻ em; việc bỏ tù, tra tấn, bắn giết, bắt bớ hàng loạt, trừng phạt tập thể, phá hủy nhà ở và bức đoạt nhà ở của phụ nữ và trẻ em phải được coi là tội phạm... [24]. - Tuyên bố thế giới về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em, 1990: Văn kiện được thông qua ngày 30-9-1990 tại Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em họp tại trụ sở Liên hợp quốc. Trong đó, Tuyên bố đã nêu lên sự thách thức về tình hình trẻ em trên thế giới và nêu lên các nhiệm vụ cho các quốc gia, cụ thể: Tăng cường sức khỏe và chế độ dinh dưỡng cho trẻ em; quan tâm chăm sóc trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đảm bảo quyền bình đẳng giữa trẻ em nam và trẻ em nữ; đảm bảo cho trẻ em được học hết bậc giáo dục cơ sở và không có trẻ em nào bị mù chữ; tạo điều kiện trẻ em lớn khôn và phát triển trên nền móng gia đình... [26]. - Công ước số 138 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu được đi làm việc, 1973; - Những quy tắc tối thiểu chuẩn mực của Liên hợp quốc về xử phạt hành chính tư pháp vị thành niên (Quy tắc Bắc Kinh), được thông qua bởi nghị quyết của Đại hội đồng ngày 29/11/1985; - Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc thu xếp nuôi con nuôi ở trong và ngoài nước, 1986; - Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm vị thành niên được thông quá bởi nghị quyết của Đại hội đồng vào ngày 14/12/1990 (Hướng dẫn Riát);
  • 25. 25 - Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do, 1990; - Tuyên bố của Hội nghị thế giới chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại, 1996; - Chương trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại, 1996; - Công ước số 182 của ILO về việc cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999; - Khuyến nghị 190 của ILO về việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999. 1.2.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta là luôn giành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất, trẻ em là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trẻ em là nguồn hạnh phúc gia đình, là tương lai của dân tộc [13]. Trong khoa học lý luận chung nhà nước và pháp luật chưa có khái niệm thống nhất về sự điều chỉnh của pháp luật đối với trẻ em. Tuy nhiên, xét một cách chung nhất, sự điều chỉnh của pháp luật là một bộ phận của sự điều chỉnh pháp luật nói chung, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến trẻ em [29]. Sau đây là tóm tắt những lĩnh vực cơ bản nhất trong một số ngành luật chính điều chỉnh trực tiếp đến vấn đề bảo vệ quyền trẻ em. 1.2.2.1. Luật Hiến pháp Hiến pháp - đạo luật gốc, quy định về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các vấn đề lớn mang tầm quốc gia. Qua gần 70 năm lịch sử lập hiến của đất nước, được ghi nhận bằng năm bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 2013). Trong Hiến pháp, trẻ em được xem là một công dân, hơn thế là một công dân đặc biệt. Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em được điều chỉnh dưới góc độ quyền con người.
  • 26. 26 Hiến pháp 1946 ghi nhận: "...Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng" [31, Điều 14]; "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học tiếng của mình, học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình của nhà nước" [31, Điều 15]. Hiến pháp 1959 ghi nhận: "Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục, thể dục" [32, Điều 35]. Hiến pháp 1980 ghi nhận: "Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành của các em được bảo đảm" [33, Điều 65]; "Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho thanh niên được học tập, lao động và giải trí, phát triển trí tuệ, năng khiếu và thể lực; chăm lo bồi dưỡng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên…" [33, Điều 65]. Hiến pháp 1992 với hơn mười điều đề cập đến quyền của trẻ em đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này. Quyền trẻ em không còn là những quy định đơn lẻ mà xét về cơ cấu và nội dung thì vấn đề về quyền trẻ em đã thực sự trở thành một chế định pháp lý chặt chẽ. Theo Hiến pháp 1992, vấn đề quyền trẻ em được thiết kế, xây dựng trong mối quan hệ hữu cơ với chế định quyền công dân (Chương V. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân). Trong số 34 Điều (từ Điều 49 đến điều 82) của Chương này hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đều đề cập đến quyền của trẻ em. Hiến pháp 1992 cũng đã chỉ rõ, trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, của nhà nước và của toàn xã hội (Điều 65) [35]. Kế thừa và phát triển tinh thần của các bản hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 (Điều 37) một lần nữa khẳng định: "Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em". Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định: "Nghiêm cấm xâm hại,
  • 27. 27 hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em" [44]. Luật Quốc tịch được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 là một trong những cơ sở pháp lý để thực hiện quyền được có quốc tịch, quyền được khai sinh của trẻ em. Theo đó, luật đã xác định quốc tịch của một cá nhân là trạng thái pháp lý của cá nhân đó, bao gồm quyền, nghĩa vụ và những đảm bảo pháp lý nhằm thực hiện quyền và nghĩa vụ đó. Trẻ em với tư cách là một cá nhân, một công dân của Việt Nam nên quyền có quốc tịch là một trong những quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của trẻ em. Quốc tịch cũng là căn cứ để trẻ em được hưởng sự bảo hộ pháp lý của nhà nước, một trong những điều kiện cơ bản để xác định tình trạng nhân thân của một con người từ khi sinh ra đến khi chết [40]. 1.2.2.2. Luật Hành chính Luật Hành chính cũng là một ngành luật góp phần vào việc bảo vệ quyền trẻ em dưới góc độ quản lý nhà nước. Trẻ em là một chủ thể của xã hội, cũng là đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính. Mọi lĩnh vực trẻ em tham gia như học tập, vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao, khám, chữa bệnh đều chịu sự quản lý của nhà nước, do đó có thể nói Luật Hành chính tham gia điều chỉnh hầu hết các mối quan hệ của trẻ em trong xã hội, từ đảm bảo các quyền trẻ em. Một số luật đề cập trực tiếp đến vấn đề quyền trẻ em trong ngành Luật Hành chính: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004; Luật Giáo dục 2005; Luật Phổ cập giáo dục tiểu học 1991... Đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật, Luật Hành chính cũng có nhiều quy định điều chỉnh mối quan hệ này. Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (phần V dành đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính), gồm hai chương, 8 điều (Điều 133-138) quy định phạm vi áp dụng, nguyên tắc xử lý, áp dụng các biện pháp xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi
  • 28. 28 phạm hành chính đối với người chưa thành niên. Chương 2 phần thứ năm quy định các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính gồm nhắc nhở và quản lý tại gia đình - hai biện pháp đề cao việc định hướng giáo dục tư tưởng đối với người chưa thành niên vi phạm hơn là các biện pháp mang tính cưỡng chế [41]. Bên cạnh đó, Nghị định số 144/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Mục 2, từ Điều 21- 34) quy định các biện pháp, hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em [10]. 1.2.2.3. Luật Lao động Luật Lao động điều chỉnh các quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, pháp điển hóa các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động. Luật Lao động coi trẻ em là một đối tượng đặc biệt nằm trong nhóm lao động đặc thù (lao động chưa thành niên). Trong Bộ luật Lao động, dành riêng Chương XI các quy định đối với lao động chưa thành niên đã quy định một cách đầy đủ, cụ thể về khái niệm người lao động, người lao động chưa thành niên, theo đó, người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động; người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi. Bộ luật và các văn bản hướng dẫn cũng quy định về nguyên tắc sử dụng lao động chưa thành niên cần phải tuân thủ, quy định nghiêm cấm mọi hành vi bóc lột, lạm dụng sức lao động của người lao động chưa thành niên; quy định về chặt chẽ về việc không được sử dụng lao động dưới 15 tuổi làm các công việc thuộc danh mục 93 loại công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và các nơi làm việc có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển của người chưa thành niên; quy định danh mục các nghề được phép sử dụng lao động dưới 13 tuổi và danh mục các công việc được sử dụng lao động từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi; các quy định về điều kiện giao kết hợp đồng, đảm bảo thời gian học tập, khám
  • 29. 29 sức khỏe định kỳ, về thời gian làm việc đối với lao động chưa thành niên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc sử dụng lao động đối với lao động chưa thành niên, nhằm đảm bảo quyền được làm việc của trẻ em được quy định trong pháp luật nước ta [43]. 1.2.2.4. Luật Dân sự Luật Dân sự coi trẻ em là một thành viên trong đời sống dân sự và có những quy định riêng nhằm xác định địa vị pháp lý của trẻ em trong đời sống dân sự gồm các quyền, nghĩa vụ và những đảm bảo pháp lý. Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật dân sự thể hiện bằng việc đảm bảo về quyền được giám hộ đối với người chưa thành niên, quyền được có tài sản, về năng lực chủ thể dân sự của người chưa thành niên, về quan hệ thừa kế, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên [39]. 1.2.2.5. Luật Hình sự Luật Hình sự điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Người chưa thành niên là một chủ thể đặc biệt, pháp luật hình sự cũng có nhiều quy định dành riêng cho đối tượng này. Trong Luật Hình sự, vấn đề quyền trẻ em được đảm bảo ở hai góc độ: đối với người chưa thành niên phạm tội và phạm tội đối với trẻ em. Bộ luật Hình sự 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định cụ thể các nguyên tắc, độ tuổi, các hình phạt áp dụng, các điều kiện về miễn, giảm chấp hành hình phạt... đối với người chưa thành niên, trẻ em phạm tội; đồng thời cũng quy định các hình phạt nghiêm khắc cho các hành vi phạm tội đối với trẻ em, đảm bảo quyền được bảo vệ của trẻ em. Đối với lĩnh vực xử lý trẻ em phạm tội, Bộ luật đã quy định cụ thể về độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12) là "người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng"; xác định sáu nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội theo hướng giảm nhẹ các hình phạt.
  • 30. 30 Bộ luật Hình sự hiện hành cũng dành 25 điều, khoản quy định các tội phạm với các mức hình phạt nghiêm khắc có liên quan đến các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em như: Tội giết người (Giết phụ nữ mà biết là đang có thai, giết trẻ em) (Điều 93); tội giết con mới đẻ; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác (Đối với trẻ em); tội hành hạ người khác; tội hiếp dâm trẻ em; tội cưỡng dâm trẻ em; tội giao cấu với trẻ em; tội dâm ô với trẻ em... (Điều 94 - Điều 116) [37]. 1.2.2.6. Luật Hôn nhân và gia đình Trẻ em là một chủ thể trong mối quan hệ hôn nhân, gia đình, do đó trẻ em là một chủ thể của Luật Hôn nhân và gia đình. Quyền trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình được thể hiện trong các quy định về quyền nhân thân; quyền tài sản trong các mối quan hệ giữa cha mẹ-con cái, giữa anh chị em, giữa ông bà-cháu; quyền được khai sinh; quyền được xác định cha mẹ; quyền được cha mẹ yêu thương, trông nom, dạy dỗ; quyền được cấp dưỡng; quyền được cha mẹ thay mặt bồi thường thiệt hại về tài sản cho người khác. Luật Hôn nhân, gia đình cũng xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của trẻ em đối với các thành viên trong gia đình [45]. Có thể thấy rằng, tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam đều xem trẻ em là một chủ thể trong mối quan hệ pháp luật, đều dành cho trẻ em những quy định rất đặc thù theo hướng đảm bảo những điều tốt đẹp nhất cho trẻ em. Điều này xuất phát từ đặc điểm riêng về độ tuổi cũng như sự phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tinh thần của trẻ em. Điều này cũng là minh chứng thể hiện đường lối, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em; hướng tới đảm bảo cho trẻ em một môi trường pháp lý đầy đủ, lành mạnh để phát triển. 1.3. THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 1.3.1. Khái niệm thanh tra Thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc La-tinh (in-spectare) có nghĩa là "nhìn vào bên trong" chỉ sự xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối
  • 31. 31 tượng nhất định, "là sự kiểm soát đối với đối tượng bị thanh tra" trên cơ sở thẩm quyền (quyền hạn và nghĩa vụ) được giao nhằm đạt được mục đích nhất định. Trong hoạt động quản lý nhà nước, trong sách báo chính trị, các tài liệu và văn bản pháp luật thường sử dụng cụm từ "thanh tra, kiểm tra" để chỉ một giai đoạn cần thiết của quá trình quản lý, một chức năng quản lý nhà nước. Trên thực tế, khái niệm thanh tra được dùng rất khác nhau ở mỗi nước về phạm vi hoạt động, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có chức năng thanh tra. Ở một số quốc gia, cơ quan thanh tra được tổ chức trong hệ thống của cơ quan hành pháp (ví dụ như ở Cộng hòa Pháp, ở mỗi Bộ có các Tổng thanh tra hoạt động dưới sự điều hành trực tiếp của Bộ trưởng và tiến hành thanh tra trong phạm vi quản lý của Bộ, ngành đó), có nước chức năng thanh tra gắn liền với kiểm toán và được tổ chức thành một cơ quan độc lập [56]. Ở nước ta, theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể của thanh tra là các cơ quan quản lý nhà nước; đối tượng của thanh tra là đối tượng quản lý nhà nước và mục đích của hoạt động thanh tra cũng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Đây là những yếu tố căn bản để phân biệt hoạt động thanh tra với các phương thức kiểm soát khác như hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của công dân đối với hoạt động hành chính nhà nước (chức năng giám sát của Quốc hội và các cơ quan dân cử, giám sát của nhân dân, chức năng kiểm sát của Viện Kiểm sát các cấp, chức năng kiểm tra của Đảng và các tổ chức chính trị, xã hội). Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì: "Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân…" [41]. Từ các quan niệm trên cho thấy thanh tra có các đặc điểm như sau: Thứ nhất, thanh tra là hoạt động của chủ thể quản lý mang quyền lực nhà nước tác động đến các đối tượng trong mối liên hệ phụ thuộc, quan hệ phục tùng chấp hành điều hành.
  • 32. 32 Thứ hai, thanh tra là một khâu của hoạt động quản lý, đồng thời lại là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động thanh tra gắn liền với thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, chính trị - xã hội. Thứ ba, thanh tra là một phương thức hoạt động của chủ thể quản lý, nhân danh quyền lực nhà nước xem xét, kiểm tra tận nơi, tại chỗ hoạt động của đối tượng bị quản lý, nhằm tổ chức, điều hành hệ thống quản lý theo mục đích đề ra. Thứ tư, thanh tra có tính độc lập tương đối, đặc điểm này thể hiện ở chỗ thanh tra có thẩm quyền xem xét đánh giá và xử lý những đơn vị, tổ chức có cùng địa vị pháp lý với mình, đồng thời có quyền đưa ra những kiến nghị, kết luận độc lập chỉ dựa trên nhũng chứng cứ có thật được thu thập trong quá trình thanh tra [56]. Theo Luật Thanh tra năm 2010, thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành: Thanh tra hành chính: Là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Thanh tra hành chính là loại hình thanh tra hướng vào các chủ thể quản lý nhà nước (là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước). Chức năng của loại hình thanh tra này là xem xét việc chấp hành pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước và công chức nhà nước. Bộ máy cơ quan thanh tra hành chính ở nước ta được tổ chức từ trung ương đến địa phương. Ở Trung ương có Thanh tra Chính phủ; ở địa phương có Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Thanh tra tỉnh), Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Thanh tra huyện). Song song với hệ thống cơ quan thanh tra được tổ chức theo ngành dọc, các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực cũng có chức năng thanh tra hành chính. Chức năng này được quy định tại các nghị định quy định về tổ chức, hoạt động của thanh tra chuyên ngành.
  • 33. 33 Thanh tra chuyên ngành: Là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Để thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, người ta lập ra một bộ phận chuyên trách làm công tác thanh tra như thanh tra ngân hàng, thanh tra giáo dục, thanh tra tài chính, thanh tra lao động… Ở nước ta, pháp luật quy định theo hướng cơ quan thanh tra chuyên ngành có cả chức năng thanh tra chuyên ngành và thanh tra hành chính. Bên cạnh thanh tra theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, xem đối tượng thanh tra đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao như thế nào từ đó kiến nghị điều chỉnh phương thức quản lý, điều hành; cơ quan thanh tra chuyên ngành cũng hướng vào cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. 1.3.2. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 1.3.2.1. Các cơ quan có thẩm quyền thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em Cần phải nhắc lại rằng, bảo vệ quyền trẻ em là lĩnh vực rộng, tổ chức của hệ thống bảo vệ trẻ em bao gồm nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân từ trung ương đến địa phương. Mỗi nhóm quyền lại liên quan đến nhiều cơ quan quản lý nhà nước tại nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, công an, thông tin, truyền thông, lao động…Do vậy, thanh tra các lĩnh thuộc bảo vệ trẻ em cũng thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan quản lý nhà nước khác nhau. Mỗi cơ quan lại có thẩm quyền thanh tra đối với lĩnh vực liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em thuộc lĩnh vực mình quản lý. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em là một hoạt động trong quản lý nhà nước, một bộ phận nằm trong hệ thống thanh tra nhà nước có nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lý những vi phạm pháp luật phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đảm bảo cho các quyền của
  • 34. 34 trẻ em được thực hiện một cách đầy đủ. Theo quy định của các văn bản pháp lý, các cơ quan sau có thẩm quyền trong thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em: Chịu trách nhiệm trước Chính phủ công tác quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em là ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Là ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, tại Nghị định số 106/2012/NĐ-CP ngày 20/ 12/ 2012 của Chính phủ đã quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nêu, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: Việc làm, dạy nghề, lao động, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp), an toàn lao động, người có công, bảo trợ xã hội, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới, phòng chống tệ nạn xã hội trong phạm vi cả nước… Cùng với hệ thống quản lý ngành dọc, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực thuộc ngành, trong đó có lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn quản lý. Nằm trong cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội là một bộ phận của thanh tra nhà nước, thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về lao động, người có công với cách mạng và xã hội, trong đó có lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, một số cơ quan sau đây cũng có vai trò thanh tra, kiểm tra liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em trong phạm vi quản lý của mình: Thanh tra Chính phủ có thẩm quyền thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp
  • 35. 35 tỉnh; thanh tra vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý nhà nước về trẻ em của nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc các vụ việc được Chính phủ giao; thanh tra lại các vụ việc về bảo vệ quyền trẻ em đã được Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra tỉnh kết luận nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Thanh tra nhà nước cấp tỉnh có thẩm quyền thanh tra các vụ việc phức tạp, liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn, các vụ việc được Thanh tra Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân giao; thanh tra lại các vụ việc liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em đã được Giám đốc Sở, Chánh Thanh tra Sở kết luận nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Thanh tra nhà nước huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền thanh tra các vụ việc liên quan đến thực hiện quyền trẻ em của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn quản lý. Một số cơ quan thanh tra chuyên ngành cũng tham gia vào thanh tra bảo vệ quyền trẻ em trong phạm vi, lĩnh vực quản lý như: Ngành Giáo dục và đào tạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục, do vậy, Thanh tra Bộ Giáo dục và đào tạo có thẩm quyền thanh tra các vấn đề liên quan đến chính sách giáo dục đối với trẻ em trên phạm vi toàn quốc; Thanh tra Sở Giáo dục và đào tạo cấp tỉnh có quyền thanh tra các vấn đề liên quan đến chính sách giáo dục đối với trẻ em trên phạm vi địa phương quản lý. Y tế thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực khám, chữa bệnh, thực hiện các chính sách hỗ trợ y tế cho trẻ em. Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế cấp tỉnh có thẩm quyền thanh tra việc thực hiện công tác khám, chữa bệnh đối với trẻ em. Tương tự, Công an, Tư pháp, Văn hóa, thể thao và du lịch, Thông tin- truyền thông…cũng đóng vai trò trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra các vấn đề về bảo vệ, chăm sóc trẻ em liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý. Tóm lại, bảo vệ quyền trẻ em là lĩnh vực rộng trên cả phạm vi, số lượng, liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý khác nhau, do đó, nhiều cơ quan
  • 36. 36 thanh tra trong hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước có thẩm quyền thanh tra nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền trẻ em. Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan đầu mối, được giao chức năng thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; do đó, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội có thẩm quyền thực hiện thanh tra chuyên ngành về bảo vệ quyền trẻ em. Hay nói cách khác, Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội là chủ thể đóng vai trò chủ đạo trong thanh tra bảo vệ quyền trẻ em. 1.3.2.2. Nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em trong tổng thể nhiệm vụ của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội Thanh tra bảo vệ quyền trẻ em là một trong các nhiệm vụ của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Trên cơ sở quy định pháp luật, có thể tóm tắt các nhiệm vụ cơ bản của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trong thanh tra bảo vệ quyền trẻ em như sau: Nhiệm vụ của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; tổ chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành về bảo vệ quyền trẻ em cho các thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trên phạm vi toàn quốc; tuyên truyền, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra cơ quan, đơn vị thuộc Bộ thực hiện quy định của pháp luật về thanh tra; tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác thanh tra trong lĩnh vực thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; nghiên cứu khoa học về thanh tra trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em; hợp tác quốc tế về công tác thanh tra trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em; thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng về bảo vệ quyền trẻ em và tổng hợp, báo cáo Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng Thanh tra Chính phủ về kết quả thanh tra bảo vệ quyền trẻ em trong phạm vi quản lý của Bộ
  • 37. 37 Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy định của pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ của Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: Tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; tổ chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành về bảo vệ quyền trẻ em cho thanh tra viên, công chức làm công tác thanh tra thuộc Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong phạm vi quản lý của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng về bảo vệ quyền trẻ em và tổng hợp, báo cáo kết quả công tác trong phạm vi quản lý của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy định của pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. 1.3.2.3. Vai trò bảo vệ quyền trẻ em của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội Vai trò của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội trong bảo vệ quyền trẻ em được thể hiện qua các khía cạnh sau đây: Một là, phát hiện, phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em. Đây là một trong những vai trò quan trọng nhất của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội. Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội được trao quyền thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em thuộc phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trên toàn quốc. Vai trò này được thể hiện: Lập kế hoạch thanh tra và thực hiện thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em trong phạm vi, quyền hạn trách nhiệm quản lý. Hoạt động thanh tra được thực hiện thông qua hai hình thức thanh tra theo kế hoạch và thanh tra đột xuất. Thanh tra theo kế hoạch là việc thực hiện thanh tra theo kế hoạch
  • 38. 38 đã được phê duyệt của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Thanh tra đột xuất được thực hiện khi có dấu hiệu vi phạm về quyền trẻ em; có phản ánh, khiếu nại, tố cáo hoặc theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo vệ quyền trẻ em cũng kịp thời phát hiện, phòng, chống các hành vi vi phạm về quyền trẻ em. Hai là, kịp thời xử lý, kiến nghị xử lý các hành vi vi phạm về bảo vệ quyền trẻ em. Thông qua các nghiệp vụ, phương pháp tiến hành thanh tra, hoặc các quy trình thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội kịp thời biểu dương những việc đã làm được trong công tác bảo vệ quyền trẻ em của các cơ quan, tổ chức; phát hiện được những dấu hiệu, hành vi vi phạm để có hướng xử lý kịp thời. Tùy vào mức độ của hành vi vi phạm, thanh tra viên trong quá trình thanh tra tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em, quyết định xử phạt trực tiếp hoặc báo cáo Chánh Thanh tra, người ra quyết định thanh tra ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em; đối với các hành vi vi phạm đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội có thẩm quyền kiến nghị, lập hồ sơ chuyển cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố theo luật định. Ba là, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em. Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện vai trò này thông qua hai hình thức trực tiếp và gián tiếp. Hình thức trực tiếp được thực hiện thông qua nhiệm vụ tổ chức tập huấn, nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho thanh tra viên, cán bộ được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội; lồng ghép phổ biến quy định về pháp luật đối với người lao động chưa thành niên vào hoạt động tổ chức và hướng dẫn khai báo, điều tra tai nạn lao động và những vi phạm tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn lao động, vệ sinh lao động; tham gia xây dựng và hướng dẫn áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh lao động
  • 39. 39 đối với các đơn vị sử dụng lao động. Hình thức gián tiếp được thực hiện thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các đối tượng thanh tra, thanh tra viên, trưởng đoàn thanh tra kịp thời phổ biến các chính sách, quy định pháp luật lao động, giải đáp những vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em của đối tượng thanh tra. Bốn là, tham gia xây dựng, góp ý xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em đối với các đối tượng thanh tra là quá trình kiểm tra thực tế, không chỉ kiểm tra việc các cá nhân, tổ chức chấp hành các quy định pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, đó còn là quá trình lắng nghe, thu nhận những ý kiến phản hồi về cơ chế, chính sách, quy định pháp luật. Qua đó đánh giá, xem xét những quy định pháp luật bất cập hoặc không còn phù hợp với thực tế để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước về lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em. 1.3.2.4. Đối tượng của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội trong thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em Là cơ quan thanh tra chuyên ngành thuộc cơ quan quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội có đối tượng thanh tra rất rộng. Đối tượng của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội trong thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em gồm: Nhóm đối tượng thứ nhất: Cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước về Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em: Đó là Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, Quỹ bảo trợ trẻ em, các trung tâm bảo trợ xã hội cấp Bộ; các phòng, ban, trung tâm, trường… thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội ở các tỉnh, thành phố trên phạm vi toàn quốc. Nhóm đối tượng thứ hai: Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài tham gia chấp hành pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em tại Việt Nam.
  • 40. 40 1.3.2.5. Cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em * Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra năm 2010 có 7 chương, 78 điều gồm phần quy định chung; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành; thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra; hoạt động thanh tra; điều kiện đảm bảo hoạt động của thanh tra nhà nước; thanh tra nhân dân và các điều khoản thi hành. Sau khi Luật Thanh tra 2010 có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành 03 nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật Thanh tra (Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra; Nghị định số 97/2011/NĐ-CP quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra; Nghị định số 07/2012/NĐ-CP quy định về cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành). Ngoài ra, Thanh tra Chính phủ cũng ban hành nhiều thông tư, quyết định hướng dẫn quy trình một cuộc thanh tra, hệ thống văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; quy chế hoạt động thanh tra; quy chế về đảm bảo bí mật trong hoạt động thanh tra; các quy định về tiêu chuẩn đối với thanh tra viên, Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra Sở; các văn bản về phòng, chống tham nhũng… So với Luật Thanh tra 2004, Luật Thanh tra 2010 có nhiều điểm mới, khắc phục được những hạn chế, thiếu sót như chỉ quy định về các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, bao gồm cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn nhằm nâng cao tính chủ động, tính độc lập tương đối cho các cơ quan thanh tra…Đây chính là các văn bản pháp lý quan trọng nhất, là cơ sở pháp lý trực tiếp cho toàn bộ hoạt động thanh tra, trong đó có hoạt động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em.
  • 41. 41 * Luật Khiếu nại Luật Khiếu nại 2011 gồm 8 chương, 70 điều, trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo 1998, là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động giải quyết khiếu nại, bao gồm cả giải quyết khiếu nại về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Luật quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước; quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại và giải quyết khiếu nại; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tiếp công dân; quản lý và giám sát công tác giải quyết khiếu nại, xử lý các vi phạm trong giải quyết khiếu nại. So với Luật Khiếu nại, tố cáo 1998, Luật Khiếu nại đã có nhiều quy định mới nhằm khắc phục thiếu sót, hạn chế về trình tự thủ tục, thẩm quyền, quyền và trách nhiệm của người khiếu nại, người giải quyết khiếu nại, luật sư, người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan, tạo điều kiện thuận lợi trong khiếu nại và giải quyết khiếu nại - một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện khiếu nại và giải quyết khiếu nại các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em. * Luật Tố cáo Luật Tố cáo năm 2011 gồm 8 chương và 50 điều quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo; nguyên tắc giải quyết tố cáo; quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo; trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; các quy định về bảo vệ người tố cáo; quy định về khen thưởng, kỷ luật… Đây là căn cứ pháp lý cho việc thực hiện tố cáo và giải quyết tố cáo về bảo vệ quyền trẻ em của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội.
  • 42. 42 * Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ngày 24/4/2013 quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội Nghị định gồm 5 chương, 24 điều, quy định về tổ chức thanh tra nhà nước, cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội; quy định về thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Đây chính là cơ sở pháp lý nhằm thực hiện các chức năng quản lý nhà nước cho cơ quan thanh tra nhà nước và các cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. 1.3.2.6. Nhận xét chung Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống thanh tra nhà nước nói chung và thanh tra ngành, lĩnh vực nói riêng; có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo pháp chế, trật tự kỷ cương nhà nước, và là một nội dung, một chức năng thiết yếu trong quá trình quản lý nhà nước. Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội được tổ chức theo nguyên tắc "song trùng trực thuộc", vừa phụ thuộc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp về lãnh đạo, chỉ đạo vừa phụ thuộc cơ quan thanh tra cấp trên về tổ chức, nghiệp vụ, công tác. Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội đóng vai trò lớn trong thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, tham gia xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ chính sách về bảo vệ quyền trẻ em, là một bộ phận không thể thiếu của quản lý nhà nước. Đối tượng thanh tra về lĩnh vực này rất rộng, bao gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Trước yêu cầu cấp thiết về quản lý các lĩnh vực thuộc ngành nói chung và công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em cùng với yêu cầu của quá trình hội
  • 43. 43 nhập quốc tế, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ nâng cao được vị trí, hiệu quả của tổ chức ngành, góp phần tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. 1.4. MÔ HÌNH THANH TRA BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI 1.4.1. Mô hình thanh tra viên vì trẻ em (Ombudsman for Children) Trong Từ điển tiếng Anh, Ombudsman có nghĩa là các nhân viên kiểm tra, người thanh tra. Tại một số quốc gia, Ombudsman tương đương với thanh tra quốc hội hoặc thanh tra nhà nước. Ombudsman có một bộ máy giúp việc, thường được gọi là Văn phòng Ombudsman. Ombudsman vì trẻ em (các thanh tra viên vì trẻ em) có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thực hiện quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em ở các cấp, các ngành thuộc chính phủ, đặc biệt là các cơ quan thi hành. Điển hình cho mô hình này là các nước Bắc Âu (Thụy Điển, Na Uy, Áo…) hoặc các nước thuộc Đại Tây Dương (Niu Di lân…). Các thanh tra viên vì trẻ em được thành lập trên cơ sở một sắc luật đặc biệt (Na Uy) hoặc được quy định tại một sắc luật về trẻ em (tại Áo, Luật Phúc lợi trẻ em quy định chính quyền cấp tỉnh phải lập ra thanh tra viên. Tại Anh, Luật về trẻ em lại quy định thành lập một chương trình thanh tra vì trẻ em trong các cơ sở nuôi dưỡng…). Các thanh tra viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ (thanh tra viên vì trẻ em ở Na Uy có nhiệm kỳ 4 năm; Thụy Điển có nhiệm kỳ 6 năm...). Trong việc thực hiện nhiệm vụ, tùy vào quy định của từng quốc gia mà cơ quan thanh tra vì trẻ em có nhiệm vụ rộng hay hẹp. Một số quốc gia, tùy theo tình trạng cấp thiết cần phải bảo vệ đối với từng nhóm trẻ em mà thành lập chương trình bảo vệ đối với nhóm trẻ đó. Ví dụ như ở Anh, thanh tra vì trẻ em tập trung thực hiện bảo vệ quyền trẻ em trong các trại nuôi dưỡng, hoặc ở Bỉ, thanh tra viên chỉ hoạt động hạn chế trong lĩnh vực chữa trị và dịch vụ của các cơ quan phúc lợi cho trẻ em. Hay ở Hoa Kỳ, có bang thành lập ra thanh tra viên vì trẻ em trong các cơ sở chăm sóc trẻ em kém phát triển