SlideShare a Scribd company logo
1 of 120
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ THỊ LAN
B¶O VÖ QUYÒN CñA NG¦êI KHUYÕT TËT
TRONG PH¸P LUËT LAO §éNG VIÖT NAM -
THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ THỊ LAN
B¶O VÖ QUYÒN CñA NG¦êI KHUYÕT TËT
TRONG PH¸P LUËT LAO §éNG VIÖT NAM -
THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THỊ HOÀI THU
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hà Thị Lan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT
TẬT VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT....................6
1.1. Nhận thức chung về quyền của người khuyết tật.....................................6
1.1.1. Quan niệm về quyền của người khuyết tật....................................................6
1.1.2. Vị trí, vai trò quyền của người khuyết tật ...................................................12
1.1.3. Các quyền cơ bản của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế ................14
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp
luật lao động...............................................................................................19
1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật............................................19
1.2.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền của người khuyết tật ..........................................21
1.2.3. Các biện pháp bảo vệ quyền của người khuyết tật......................................27
1.2.4. Ý nghĩa bảo vệ quyền của người khuyết tật................................................30
1.3. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động của
một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam ......................34
1.3.1. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Mỹ ..............35
1.3.2. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Australia.....37
1.3.3. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Trung Quốc.......38
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT
TẬT TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM.........................42
2.1. Quá trình phát triển của chế định bảo vệ quyền của người khuyết
tật trong pháp luật lao động Việt Nam....................................................42
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật lao động .....................................................43
2.1.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật lao động đến nay.............................................46
2.2. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong các quy định của pháp
luật lao động Việt Nam hiện hành ...........................................................51
2.2.1. Bảo vệ quyền lao động của người khuyết tật..............................................51
2.2.2. Bảo vệ đời sống của người khuyết tật.........................................................57
2.2.3. Bảo vệ quyền nhân thân của người khuyết tật ............................................60
2.2.4. Quy định về chế tài đối với các hành vi vi phạm quyền của người
khuyết tật.....................................................................................................65
2.3. Thực tiễn bảo vệ quyền của người khuyết tật ........................................66
2.3.1. Thành quả đạt được.....................................................................................66
2.3.2. Hạn chế........................................................................................................69
2.3.3. Nguyên nhân ...............................................................................................73
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT ..................................................76
3.1. Yêu cầu đặt ra cần phải nâng cao hiệu quả pháp luật lao động
trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật........................................76
3.1.1. Về mặt khách quan......................................................................................76
3.1.2. Về mặt chủ quan..........................................................................................77
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật lao động
trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật........................................78
3.3. Một số kiến nghị cụ thể.............................................................................80
3.3.1. Về các quy định của pháp luật lao động .....................................................80
3.3.2. Về tổ chức thực hiện ...................................................................................97
KẾT LUẬN............................................................................................................105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................106
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLLĐ: Bộ luật lao động
ILO: Tổ chức lao động quốc tế
NKT: Người khuyết tật
NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh
UN: Liên hợp quốc
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng
định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân [72, Điều 2, Khoản 1, 2]. Điều đó có nghĩa rằng, việc đảm
bảo sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận và thực hiện các quyền về kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội của tất cả mọi tầng lớp dân cư trong xã hội là nhiệm vụ quan trọng
trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện một nhà nước Pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Người khuyết tật là những người bị khiếm khuyết về mặt thể chất
hoặc tinh thần trong một thời gian dài khiến họ không thế thực hiện được các
quyền của mình một cách đầy đủ như những người bình thường khác. Đây được
xem là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương và phải chịu nhiều thiệt thòi
nhất trong xã hội. Do vậy, họ luôn cần nhận được sự quan tâm trợ giúp của gia
đình, Nhà nước và toàn xã hội.
Trước đây, vấn đề người khuyết tật chỉ được tiếp cận dưới góc độ phúc lợi xã
hội, người khuyết tật chỉ được xem là những đối tượng cần nhận được sự hỗ trợ hay
“ban ơn” từ phía cộng đồng. Do vậy, tất cả các hoạt động trợ giúp cho người khuyết
tật đều được xem là hoạt động nhân đạo. Tuy nhiên, sau một thời gian dài, bằng sự
nỗ lực của người khuyết tật cùng với các tổ chức của họ đã dần thay đổi quan niệm
và nhận thức của xã hội về người khuyết tật. Theo đó, vấn đề người khuyết tật được
xem xét dưới góc độ quyền con người, dựa trên quan điểm tất cả mọi người đều có
quyền được sống và được thụ hưởng những quyền cơ bản như nhau, người khuyết
tật ngày càng được coi trọng vì họ hoàn toàn có khả năng học tập, lao động sản xuất
và cống hiến cho xã hội [91]. Điều này đã được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý
quốc tế quan trọng như: Tuyên ngôn toàn thế giới của Liên hợp quốc về Quyền con
người năm 1948, Công ước của Liên hợp quốc về Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
năm 1966, Công ước của Liên hợp quốc về Quyền dân sự và chính trị năm 1966,
Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật… tạo cơ sở
pháp lý cho việc bảo đảm các quyền bình đẳng của người khuyết tật như mọi cá
nhân khác trong xã hội.
2
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam,
đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO), yêu cầu về
nguồn nhân lực trong đó có vấn đề bảo vệ quyền của người lao động nói chung và
người khuyết tật nói riêng ngày càng trở nên cấp thiết. Dạy nghề, tạo điều kiện việc
làm và bảo đảm các quyền của người khuyết tật trong quá trình tham gia lao động là
một trong những chính sách quan trọng mà Đảng và Nhà nước luôn chú ý. Bộ luật
lao động 2012 dành chương XI để quy định về một số loại lao động đặc biệt, trong
đó người lao động khuyết tật được quy định tại mục 4; Luật người khuyết tật 2010
dành Chương V để quy định về việc làm cho người khuyết tật; Chương VII Luật
dạy nghề 2006 quy định về dạy nghề cho người tàn tật, khuyết tật… Các quy định
này là sự kế thừa và phát huy các quy định về quyền của người khuyết tật trong các
văn bản pháp luật trước đó, về cơ bản đã tạo điều kiện cho người khuyết tật tham
gia vào các quan hệ lao động một cách công bằng và bình đẳng. Tuy nhiên các
quyền của người khuyết tật vẫn chưa được quy định đầy đủ và chi tiết trong pháp
luật lao động cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, bên cạnh đó các chính sách
và pháp luật chưa được thi hành có hiệu quả trên thực tế, người khuyết tật vẫn gặp
nhiều khó khăn trong quá trình tìm việc làm và đảm bảo thu nhập. Tình trạng sử
dụng người khuyết tật vào làm việc bị vi phạm các quyền về nhân thân, về thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi… còn xảy ra khá phổ biến. Hơn nữa công tác quản lý
nhà nước, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm cũng như tuyên truyền, giáo dục ý
thức của cộng đồng về vấn đề người khuyết tật còn buông lỏng và chưa triệt để. Vì
những lý do đó, tôi lựa chọn để tài “Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp
luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình với mong muốn góp phần hoàn thiện một số khía cạnh lý luận và thực tiễn của
pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện tại đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của
quyền của người khuyết tật như vấn đề dạy nghề, việc làm, vấn đề thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi, vấn đề an toàn lao động, vệ sinh lao động… Tuy nhiên,
3
việc phân tích các khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến bảo vệ quyền của
người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam một cách hệ thống và chuyên
sâu, qua đó góp phần bảo vệ quyền của một bộ phận không nhỏ người lao động đặc
biệt, thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động nói chung trong bối cảnh nền
kinh tế đang phát triển như vũ bão là điểm mới mà luận văn muốn hướng tới.
Một số đề tài nghiên cứu về quyền của người khuyết tật Việt Nam như:
- Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết
tật ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về Lao động tàn tật ở Việt Nam” của
Phạm Thị Thanh Việt năm 2009;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động
dưới góc độ pháp luật lao động” của Đỗ Minh Nghĩa năm 2012;
- Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật”
của Hồ Thị Trâm năm 2013;
- Giáo trình Luật người khuyết tật năm 2011 của Trường đại học Luật Hà
Nội do Nguyễn Hữu Chí chủ biên;
- Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người do Nguyễn Đăng
Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng đồng chủ biên của Khoa Luật – Đại học quốc
gia Hà Nội năm 2009 có đề cập đến khía cạnh lý luận và pháp luật về quyền của
người khuyết tật;
- Báo cáo đánh giá thực hiện các điều khoản của Luật lao động về lao động
là người khuyết tật và Pháp lệnh về người khuyết tật của Nguyễn Thị Diệu Hồng,
tháng 7 năm 2002;
- Báo cáo đánh giá đào tạo nghề phù hợp cho thanh thiếu niên khuyết tật của
Tổ chức Thế giới Quan tâm vì Phát triển tại Hà Nội, Việt Nam tháng 1 năm 2005;
- Báo cáo khảo sát về Đào tạo Nghề và Việc làm cho người khuyết tật tại
Việt Nam của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tháng 8 năm 2008;
- Báo cáo thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết tật trong dạy nghề,
việc làm năm 2008 của Cục Việc làm – Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội;
- Báo cáo tình hình thực hiện các chính sách trợ giúp phụ nữ khuyết tật năm
2008 của TW Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
4
- Báo cáo người khuyết tật ở Việt Nam: Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều
tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA);
- Bài viết “Nhìn lại 5 năm thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật” của Đàm
Hữu Đắc trên tạp chí Lao động và Xã hội số 213 năm 2003;
- Bài viết “Để nâng cao khả năng thực hiện pháp luật về việc làm và dạy
nghề đối với người tàn tật” của Nguyễn Đức Hoán trên Tạp chí Lao động và Xã hội
số 308 năm 2007;
- Bài viết “Những vấn đề đặt ra trong thực hiện dịch vụ xã hội đối với người
khuyết tật và một số khuyến nghị” của Lý Hoàng Mai trên tạp chí Lao động và Xã
hội số 370 năm 2009…
Tất cả những công trình trên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu và phân tích một
số khía cạnh quyền của người khuyết tật trong các lĩnh vực khác nhau mà chưa khái
quát toàn bộ nội dung quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động một cách
đầy đủ, thêm nữa mới chỉ dừng lại ở quyền mà chưa nghiên cứu các nội dung của
bảo vệ quyền của người khuyết tật trong hệ thống pháp luật lao động Việt Nam. Với
việc lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động
Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”, tác giả rất mong sẽ có những đóng góp tích
cực vào tình hình nghiên cứu chế định bảo vệ quyền của người khuyết tật trong
pháp luật lao động Việt Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm ra những ưu điểm cũng như
những hạn chế, bất cập của pháp luật lao động Việt Nam và những vướng mắc trên
thực tế để có thể đưa ra những phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật
cũng như tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật lao động về bảo vệ quyền của
người khuyết tật trên thực tế.
Việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền của người khuyết tật mà
trong đó tập trung vào các biện pháp bảo vệ quyền của người khuyết tật;
- Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật lao động về bảo vệ quyền
của người khuyết tật và thực tiễn thực hiện;
5
- Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả các quy định
của pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quyền của người khuyết tật và bảo vệ quyền của
người khuyết tật;
- Phạm vi nghiên cứu: Bảo vệ quyền của người khuyết tật được sự quan tâm
của cả hệ thống pháp luật như: Luật người khuyết tật, Luật bảo hiểm xã hội, Luật
dạy nghề, Luật việc làm, Luật lao động và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến bảo vệ quyền của người khuyết tật
trong pháp luật lao động Việt Nam.
5. Nội dung nghiên cứu
Luận văn đi sâu phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ quyền của người khuyết tật và đưa
ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật lao động trong
việc bảo vệ quyền của người khuyết tật.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể là, phương pháp duy vật biện chứng
và phương pháp duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp
tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, phương pháp quan sát… làm cơ sở cho việc
nghiên cứu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền của người khuyết tật và bảo vệ quyền
của người khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao
động Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật
lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật.
6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Nhận thức chung về quyền của người khuyết tật
1.1.1. Quan niệm về quyền của người khuyết tật
Người khuyết tật là nhóm người dễ bị tổn thương, là một bộ phận dân cư và
tồn tại khách quan trong lịch sử loài người. Ngân hàng thế giới ước tính có khoảng
10% dân số thế giới (khoảng 650 triệu người) phải sống chung với những khuyết tật
và có sự khác nhau giữa các vùng, các nước và chủ yếu tập trung ở các nước kém
phát triển. Theo số liệu báo cáo của UNDP, ước tính mỗi năm có thêm gần 10 triệu
người khuyết tật và dự báo đến năm 2035 số người khuyết tật trên thế giới sẽ lên tới
667 triệu người [113, tr.1].
Cách nhìn nhận về người khuyết tật có những thay đổi nhất định qua từng
thời kỳ. Nếu như những năm 1950, người khuyết tật được nhìn nhận theo mô hình
“chăm sóc y tế”, theo đó vấn đề người khuyết tật là vấn đề phúc lợi xã hội và họ là
đối tượng cần được hỗ trợ, chăm sóc, được hưởng trợ giúp chứ không phải là chủ
thể có quyền như công dân bình thường thì những năm 1970 cách nhìn nhận người
khuyết tật đã có sự thay đổi, theo đó những người khuyết tật là những người có khả
năng, có quyền sống và lao động như những người bình thường chứ không phải là
một đối tượng cần nhận sự “ban ơn” của xã hội. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có
cách hiểu thống nhất về người khuyết tật. Trên thế giới có hai quan điểm chính về
người khuyết tật song song cùng tồn tại, đó là quan điểm khuyết tật cá nhân và quan
điểm khuyết tật xã hội. Quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật
dưới góc độ y tế (y học) cho rằng khuyết tật là hạn chế cá nhân, là ở chính con
người đó, mà hầu như không chú ý tới các yếu tố xã hội. Ngược lại, quan điểm
khuyết tật theo mô hình xã hội, những người khuyết tật được nhìn nhận là hệ quả bị
xã hội loại trừ và phân biệt [91]. Từ những cách nhìn nhận khác nhau về người
khuyết tật cùng với điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử phát triển cũng như kĩ thuật lập
pháp từng quốc gia mà pháp luật quốc tế cũng như quốc gia có định nghĩa khác
nhau về người khuyết tật.
7
Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc năm 2006 định
nghĩa“Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất,
tâm thần, trí tuệ hay giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có
thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở
bình đẳng với những người khác” [38, Điều 1].
Công ước số 159 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về Tái thích ứng nghề
nghiệp và việc làm của người khuyết tật năm 1983 quy định: “Người khuyết tật dùng để
chỉ người mà khả năng tìm thấy một việc làm phù hợp, gắn bó lâu dài với công việc đó
cũng như triển vọng thăng tiến về nghề nghiệp đều bị giảm sút đáng kể do một sự khiếm
khuyết về thể chất hoặc tâm thần được công nhận rõ ràng”[80, Điều 1, Khoản 1].
Khái niệm người khuyết tật theo quan điểm của Tổ chức quốc tế người
khuyết tật (DPI, 1982): Người khuyết tật trở thành khuyết tật là do thiếu cơ hội để
tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống giống như thành viên khác. Do
vậy, khuyết tật là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa các tính
năng cơ thể và các tính năng xã hội mà trong đó người khuyết tật sống [92, tr.5].
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 1999, người khuyết tật
là người bị suy giảm chức năng ở ba mức độ là: khiếm khuyết (impairment), khuyết
tật (disability) và tàn tật (handicap). Trong đó, khiếm khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc
không bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc sinh lý. Khuyết tật
chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn tàn
tật đề cập tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động
của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ [91].
Theo Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans
with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về
thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan
trọng trong cuộc sống. Những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về
vận động; Khiếm khuyết về thị giác, Khiếm khuyết về nói và nghe, Chậm phát triển
tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, Các bệnh lây và
không lây như Bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, bệnh lao
và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) [74].
8
Hay Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ người khuyết
tật năm 1990 ghi nhận:
Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường, mất mát
của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lý hay sinh lý hoặc trong
cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả
năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường. Người khuyết
tật là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết tật về thể
chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật nhiều
và/hoặc khuyết tật khác [31, Điều 2].
Luật Người khuyết tật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 17 tháng 06 năm 2010 đưa ra định nghĩa về người khuyết tật:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị
suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học
tập gặp khó khăn” [70, Điều 2, Khoản 1]. Theo đó, đối tượng xác định là người
khuyết tật dựa vào việc bộ phận cơ thể bị suy giảm chức năng biểu hiện dưới dạng tật
(khiếm thính, khiếm thị, tật nguyền, người bị tâm thần, thiểu năng trí tuệ…) và gây
khó khăn cho việc lao động, học tập, sinh hoạt bao gồm cả những người bị khuyết tật
bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh…
Như vậy, tùy thuộc vào việc ủng hộ quan điểm khuyết tật cá nhân hay khuyết
tật xã hội mà mỗi quốc gia có nhìn nhận không giống nhau về người khuyết tật. Tuy
vậy, dù có ủng hộ quan điểm nào đi chăng nữa thì khi định nghĩa về người khuyết
tật cũng phải phản ánh thực tế là người khuyết tật có thể gặp các rào cản do yếu tố
xã hội, môi trường hoặc con người khi họ tham gia vào các hoạt động của đời sống
xã hội. Người khuyết tật có một số những đặc điểm riêng về tâm, sinh lý và sức
khỏe so với người bình thường cộng thêm nhận thức và thái độ kì thị của xã hội
khiến họ dễ cảm thấy tự ti và mặc cảm về bản thân. Chính vì vậy, người khuyết tật
cần được nhà nước, gia đình và xã hội trợ giúp, tạo điều kiện, cơ hội bình đẳng để
tiếp cận và hưởng thụ các quyền bình đẳng với mọi công dân khác, vươn lên làm
chủ cuộc sống và hòa nhập cộng đồng.
9
Người khuyết tật trước hết là con người trong xã hội nên họ cũng có các
quyền cơ bản của một con người nhưng do bị khiếm khuyết về mặt thể chất hay tâm
thần nên họ có một số các quyền đặc thù theo luật định. Quan niệm về quyền của
người khuyết tật có sự thay đổi cách tiếp cận trong pháp luật quốc tế cũng như pháp
luật quốc gia. Ngay từ khi ban hành những văn bản pháp lý đầu tiên, Liên hợp quốc
(UN) luôn khẳng định sự thiết yếu của việc tôn trọng và thực hiện các quyền và tự
do cơ bản của tất cả mọi người và không phân biệt thành phần, giới tính, tôn giáo
hay tín ngưỡng [33, Điều 1]… Các quyền của người khuyết tật được đặt trên cơ sở
các quy định phổ quát đó.
Trong những năm 1940 và 1950, UN mới chỉ tập trung vào việc thúc đẩy các
quyền của người khuyết tật về thể chất thông qua các phương pháp tiếp cận an sinh
xã hội [115]. Hiến chương và các công ước về quyền con người được các nước phê
chuẩn từ giữa những năm 1940 cho đến cuối những năm 1960 (ví dụ Tuyên ngôn
Quốc tế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền năm 1948, Công ước của Liên Hợp
Quốc về Quyền Kinh tế, Văn hóa, Xã hội năm 1966, và Công ước của Liên Hợp
Quốc về Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966…) chưa có các quy định riêng đề
cập đến người khuyết tật. Tuy nhiên, Tuyên ngôn quốc tế của Liên hợp quốc về
nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và
bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hóa ban cho lý trí
và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu” [34, Điều 1]. Tuyên
ngôn này cũng liệt kê tất cả các quyền mà con người được hưởng bao gồm các
quyền trong các lĩnh vực dân sự, chính trị; quyền kinh tế, văn hóa và xã hội.Theo
quy định này thì người khuyết tật cũng phải được hưởng những quyền lợi cơ bản
mà mọi người trong xã hội được hưởng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, người
khuyết tật vẫn phải đối mặt với nhiều bất lợi, tình trạng họ bị tách biệt khỏi xã hội,
cũng như tình trạng họ bị phân biệt đối xử mới được nhận thức rõ ràng hơn và đã
được nêu thành một vấn đề về quyền của người khuyết tật. Việc dần thay đổi từ
cách tiếp cận phúc lợi xã hội sang cách tiếp cận dựa vào quyền con người được thể
hiện thông qua việc đề cập một cách cụ thể về người khuyết tật trong các Hiến
10
chương, các Công ước và các sáng kiến về quyền con người được phê chuẩn từ
những năm 1980 và trong ngày càng nhiều các văn bản luật pháp quốc tế (thường
không mang tính bắt buộc) được các tổ chức như Liên Hợp Quốc và Ủy ban Châu
Âu thông qua [107, tr.566].
Ngày 13/12/2006 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 61 đã thông qua Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật và chính thức có hiệu lực từ tháng
5/2008 sau khi có 20 quốc gia phê chuẩn. Công ước là văn bản luật mang tính toàn
cầu đầu tiên trong lịch sử nhân loại khẳng định quyền của người khuyết tật. Theo
đó, người khuyết tật được công nhận là đối tượng có đầy đủ các quyền và nhân
phẩm như những thành viên khác trong cộng đồng, được bình đẳng về cơ hội trong
xã hội. Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật xác định các quyền của
người khuyết tật và nghĩa vụ của các quốc gia tham gia. Mặc dù không thiết lập các
nhân quyền mới nhưng đây là công ước quốc tế về nhân quyền đầu tiên của thế kỷ
21, đồng thời cũng là công cụ luật pháp đầu tiên bảo vệ toàn diện quyền của người
khuyết tật. Công ước này còn có ý nghĩa đặc biệt khi thay đổi cách nhìn đối với tình
trạng khuyết tật là một vấn đề xã hội chứ không phải chỉ là vấn đề y tế, và xác lập
sự dịch chuyển từ phương thức tiếp cận theo hướng nhân đạo sang hướng nhân
quyền [92, tr.152-153].
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) là một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp
Quốc có nhiệm vụ đảm bảo các điều kiện lao động bình đẳng và phù hợp trên toàn
thế giới [80, tr.12]. ILO thực hiện sứ mệnh của mình thông qua việc soạn thảo các
tiêu chuẩn để các quốc gia phê chuẩn dưới hình thức công ước và khuyến nghị về
lao động quốc tế. Từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mục tiêu chính của tổ
chức ILO là tăng cường các cơ hội việc làm bình đẳng [81, tr.2]. Quan niệm về
quyền của người khuyết tật của ILO cũng xuất phát từ hạt nhân quyền con người thể
hiện trong “Tuyên bố Philadelphia” được thông qua tại Hội nghị Lao động Quốc tế
tổ chức năm 1944, trong đó chỉ rõ: “Tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc,
tín ngưỡng, hoặc giới tính đều có quyền được mưu cầu một cuộc sống vật chất đầy
đủ, được phát triển tinh thần trong điều kiện tự do và đảm bảo nhân phẩm, trong
điều kiện an ninh kinh tế và cơ hội bình đẳng”… [81, tr.3].
11
Năm 1944, với bản khuyến nghị đầu liên quan đến các dịch vụ việc làm, bao
gồm cả đào tạo nghề và định hướng việc làm (Khuyến nghị Số 71, 1944 về Việc
làm), ILO đã dành một phần đáng kể (phần X, từ đoạn 39 đến đoạn 44) để trình bày
về vấn đề việc làm của người khuyết tật. ILO có đề xuất rằng, bất kỳ khi nào có thể,
người khuyết tật cần được đào tạo cùng với những người khác, được làm việc trong
cùng điều kiện và được trả cùng mức lương; đồng thời cần tiếp tục việc đào tạo cho
đến khi người khuyết tật có đủ khả năng kiếm được việc làm trong lĩnh vực hoặc
các ngành nghề mà họ đã được đào tạo. ILO kêu gọi sự bình đẳng về cơ hội nghề
nghiệp cho người lao động khuyết tật và khuyến khích áp dụng các chính sách việc
làm ưu tiên nhằm tăng cường việc làm cho người khuyết tật nặng [91].
Năm 1983, một năm sau khi thực thi Chương trình hành động toàn cầu liên
quan đến người khuyết tật và hai năm sau Năm quốc tế về Người khuyết tật, ILO đã
thông qua Công ước số 159 và Khuyến nghị số 168 về Tái thích ứng nghề nghiệp và
việc làm của người khuyết tật. Công ước số 159 yêu cầu các nước đã phê chuẩn
công ước này phải xây dựng các chính sách quốc gia dựa trên nguyên tắc cơ hội
bình đẳng giữa người lao động khuyết tật và người lao động nói chung, tôn trọng sự
bình đẳng về cơ hội và đối xử bình đẳng giữa người khuyết tật nam và nữ, đồng thời
thực thi các biện pháp tích cực nhằm thực hiện hiệu quả các nguyên tắc này. Việc
đề cao sự tham gia toàn diện của người khuyết tật được thể hiện thông qua khái
niệm về phục hồi chức năng gắn với việc làm: “Giúp người khuyết tật tìm được việc
phù hợp, được duy trì và thăng tiến trong công việc đó và qua đó được hòa nhập
hoặc tái hòa nhập xã hội tốt hơn” [80, Điều 1-2].
Như vậy có thể thấy quan niệm về quyền của người khuyết tật trong pháp
luật quốc tế có sự thay đổi qua các thời kì khác nhau nhưng xu hướng chung là dịch
chuyển hướng tiếp cận quyền của người khuyết tật từ nhân đạo chuyển sang nhân
quyền. Theo đó, người khuyết tật cũng có cơ hội bình đẳng và được hưởng các
quyền cơ bản của con người với tư cách là thành viên của cộng đồng xã hội, ngoài
ra họ còn có các quyền được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt với tư cách là nhóm
người đặc biệt dễ bị tổn thương, được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật quốc tế
cũng như pháp luật quốc gia.
12
1.1.2. Vị trí, vai trò quyền của người khuyết tật
Vấn đề người khuyết tật đã đang trở thành chủ đề được đặc biệt quan tâm bởi
cả cộng đồng quốc tế. Sau một thời gian dài, thế giới mới bắt thừa nhận người
khuyết tật như một chủ thể của các quyền như mọi thành viên khác trong xã hội và
đã được thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Quyền của người khuyết
tật đã trở thành một chế định quan trọng trong luật quốc tế hiện đại. Liên hợp quốc
đang nỗ lực kêu gọi các quốc gia phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo cơ sở
pháp lý tôn trọng, quan tâm thúc đẩy việc thực hiện các quyền cơ bản của người
khuyết tật. Vậy vị trí và vai trò quyền của người khuyết tật là gì?
Thứ nhất, việc công nhận quyền của người khuyết tật thể hiện một quan điểm
nhân văn và tiến bộ của nhân loại, khẳng định rằng với tư cách là một con người,
người khuyết tật có các quyền cơ bản như mọi thành viên khác trong xã hội. Tuyên
ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 đã khẳng định mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng, đều có quyền sống, quyền hưởng phúc lợi, quyền
được giáo dục và có việc làm, quyền sống một cách độc lập và được tham gia tích
cực vào mọi mặt của đời sống xã hội. Bất kỳ một sự phân biệt trực tiếp hoặc phân
biệt đối xử tiêu cực khác đối với người khuyết tật đều vi phạm các quyền của người
đó. Do đó, quyền của người khuyết tật bao hàm tất cả nội hàm cũng như đặc điểm
của quyền con người. Ngoài ra, do đặc thù là nhóm người chịu nhiều thiệt thòi, dễ
bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các quyền cơ bản của con
người cho nên quyền của người khuyết tật có các đặc điểm riêng nhất định.
Việc công nhận quyền của người khuyết tật cũng là điều kiện để đảm bảo sự
hòa bình, ổn định và phát triển của nhân loại. Trong lời nói đầu của Tuyên ngôn
quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc có khẳng định:
Việc thừa nhận nhân phẩm vốn có, các quyền bình đẳng và không
thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự
do, công bằng và hòa bình trên thế giới và Nhân quyền phải được pháp
luật bảo vệ để mỗi người không buộc phải nổi loạn như là biện pháp cuối
cùng để chống lại chế độ cường quyền và áp bức [34].
13
Việc thừa nhận người khuyết tật như là một chủ thể của các quyền, có khả
năng tự nuôi sống bản thân và làm chủ cuộc sống của mình giúp cho mỗi quốc gia
giảm bớt được gánh nặng về phúc lợi xã hội cho người khuyết tật vì lý do phụ thuộc
và không sinh lợi. Từ đó, thúc đẩy sự phát triển của bản thân người khuyết tật nói
riêng cũng như xã hội nói chung.
Thứ hai, quyền của người khuyết tật là cơ sở và nền tảng cho việc thể chế hóa
thành các chính sách và quy định của pháp luật để bảo vệ và phát huy tối đa mọi
nguồn lực xã hội. Luật pháp quốc tế và quốc gia đã và đang thông qua hoặc điều
chỉnh để đảm bảo các quyền của người khuyết tật. Người khuyết tật do đó được đảm
bảo có cơ hội đồng đều thông qua việc xóa bỏ tất cả các trở ngại, định kiến của xã hội
về mặt thể chất, tài chính, xã hội hoặc tâm lý mà đã loại trừ hoặc hạn chế sự tham gia
hoàn toàn của họ vào đời sống xã hội, đồng thời có cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng khi chúng bị xâm phạm trên phạm vi toàn cầu. Nhiệm vụ nội luật hóa các
quy định của pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia được quy định trong Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006: “Nghĩa vụ chung: Các quốc
gia thành viên cam kết đảm bảo và thúc đẩy sự hiện thực hóa đầy đủ tất cả các
quyền và tự do cơ bản của toàn bộ những người khuyết tật mà không có bất cứ sự
phân biệt đối xử nào dựa trên cơ sở khuyết tật…” [96, Điều 4].
Thứ ba, việc thừa nhận quyền của người khuyết tật là phù hợp với xu thế
chung của quốc tế. Trong xu thế hội nhập, vấn đề quyền của người khuyết tật không
còn là vấn đề của một người, một cộng đồng, một quốc gia mà trở thành mối quan
tâm chung của nhân loại. Do đó, thừa nhận người khuyết tật là chủ thể của các
quyền giúp cho mỗi quốc gia theo kịp với thế giới. Cộng đồng quốc tế nói chung
luôn yêu chuộng hòa bình và nhân đạo. Việc thể chế hóa quyền của người khuyết
tật trong hệ thống pháp luật giúp cải thiện cái nhìn và tranh thủ sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế đối với vấn đề nhân quyền của mỗi quốc gia, giúp tiếng nói của mỗi
quốc gia trên trường quốc tế trở lên có uy tín và sức mạnh.
14
Ngày nay loài người đang phải đương đầu với những thách thức to lớn là đấu
tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, vấn đề ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, đói nghèo… là những nguyên nhân làm gia tăng số lượng
người khuyết tật. Do đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì
mục tiêu tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho con người phát triển toàn diện.
Cũng vì lẽ đó, Liên hợp quốc đã thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ quyền tự
do của con người trong đó có người khuyết tật. Liên hợp quốc cũng khuyến nghị và
yêu cầu các quốc gia phải có nghĩa vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia phù
hợp với pháp luật quốc tế; nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết quốc tế đã nêu trong
các Công ước quốc tế mà quốc gia đã phê chuẩn hoặc tham gia. Và một khi pháp
luật quốc gia đã phù hợp với pháp luật quốc tế, sẽ trở thành phương tiện quan trọng
trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật trong phạm vi quốc gia và tranh thủ
sự trợ giúp của các nguồn lực quốc tế để đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của
người khuyết tật.
1.1.3. Các quyền cơ bản của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế
Người khuyết tật có đầy đủ các quyền cơ bản của con người, trong đó có các
quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Công ước quốc tế về quyền của
người khuyết tật năm 2006 từ Điều 5 đến Điều 30 đã ghi nhận các quyền cơ bản của
người khuyết tật như quyền được sống; quyền được thừa nhận bình đẳng; quyền tự
do và an toàn cá nhân; quyền sống độc lập và hòa nhập cộng đồng; quyền được tôn
trọng gia đình và tổ ấm; quyền tự do đi lại, tự do cư trú và tự do quốc tịch; quyền tự
do biểu đạt chính kiến và tiếp cận thông tin; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị
đối xử, áp dụng các hình phạt tàn nhẫn; quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm
dụng; quyền được tham gia đời sống chính trị và cộng đồng; quyền tham gia các
hoạt động văn hóa, nghỉ ngơi, giải trí và thể thao; quyền hưởng các dịch vụ y tế,
quyền được hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng; quyền có mức sống thích đáng
và bảo trợ xã hội đầy đủ; quyền được tiếp cận giáo dục; quyền có cơ hội công việc
và việc làm. Theo đó, Công ước quy định:
Quốc gia thành viên công nhận rằng mọi người đều bình đẳng
15
trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ, quyền được hưởng
lợi ích của pháp luật một cách bình đẳng, không có sự phân biệt nào;
Quốc gia thành viên cấm phân biệt đối xử trên cơ sở sự khuyết tật và bảo
đảm cho người khuyết tật sự bảo vệ pháp lý hữu hiệu và bình đẳng chống
lại sự phân biệt đối xử trên bất kỳ cơ sở nào [38, Điều 5-1, 5-2].
Do vậy, người khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền lợi như mọi thành
viên khác trong xã hội và ngay cả những người khuyết tật cũng được hưởng các
quyền lợi bình đẳng như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì lý do
khuyết tật của họ. Trách nhiệm của các quốc gia thành viên Công ước là phải thể
chế hóa, nội luật hóa các quy định của Công ước vào pháp luật quốc gia và thực thi
nghiêm chỉnh các quy định đó.
Bên cạnh các quyền lợi cơ bản nêu trên, do đặc thù là nhóm người chịu
nhiều thiệt thòi, dễ bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các
quyền cơ bản của con người, cho nên quyền của người khuyết tật có những đặc
điểm riêng bao gồm:
Trong lĩnh vực dân sự, chính trị, người khuyết tật có các quyền dân sự, chính
trị với tư cách là một con người. Tuy nhiên đối với những người khuyết tật tâm thần
nặng, là những người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, mất năng lực hành
vi dân sự; những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi
dân sự một phần (người mắc bệnh tâm thần, thiểu năng trí tuệ) phải thực hiện các
quyền dân sự (ví dụ tham gia các giao dịch dân sự) thông qua người giám hộ hoặc
được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Những người bị khuyết tật tâm
thần nặng không có quyền tham gia bầu cử, ứng cử do không có năng lực hành vi
dân sự [36, Điều 5]. Một số quyền của người khuyết tật về tâm thần cần được ưu
tiên theo luật định, chẳng hạn quyền không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với
những người tâm thần nặng phạm tội hình sự bởi vì họ không có năng lực trách
nhiệm hình sự. Điều này đòi hỏi phải có các quy định chặt chẽ của pháp luật về
những điều kiện, cách thức để xác định những trường hợp người khuyết tật không
phải chịu trách nhiệm pháp lý nhằm tránh oan sai hoặc bỏ sót tội phạm. Như vậy,
16
người khuyết tật tâm thần, người thiểu năng trí tuệ có các quyền dân sự, chính trị
không đầy đủ, họ không thể tự thực hiện một số quyền và không có khả năng bảo vệ
quyền của mình mà phải thông qua người giám hộ hoặc người đại diện. Đặc điểm
này cho thấy trách nhiệm của nhà nước là phải có các quy định cụ thể bằng pháp
luật để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền của người khuyết tật tâm thần
nặng và những người thiểu năng trí tuệ, tránh lạm dụng và vi phạm quyền của người
khuyết tật trong thực tế.
Trong lĩnh vực quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, người khuyết tật có những
đặc quyền đó là quyền được chăm sóc, chỉnh hình và phục hồi chức năng. “Người
khuyết tật về tâm thần có quyền được chăm sóc sức khỏe và vật lý trị liệu phù hợp,
đồng thời có các quyền về giáo dục, đào tạo, phục hồi chức năng và hướng dẫn để
họ có thể phát triển khả năng và tiềm năng của mình tới mức tối đa” [36, Điều 2].
Những người khuyết tật vận động bị hạn chế khả năng thực hiện đầy đủ quyền được
tiếp cận các công trình công cộng, hòa nhập cộng đồng; người khuyết tật nghe, nhìn
bị hạn chế khả năng tiếp cận các phương tiện thông tin, truyền thông… Đây là
những đặc điểm riêng biệt cần phải quan tâm trong khi thực hiện quyền con người
của người khuyết tật, cần phải có chính sách hỗ trợ đặc biệt tạo điều kiện cho họ
thực hiện đầy đủ các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Trong lĩnh vực lao động, người khuyết tật cũng có các quyền cơ bản như
những lao động bình thường khác chẳng hạn như: quyền được đào tạo dạy nghề và
việc làm, quyền về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ sinh
lao động, quyền được hưởng trợ cấp xã hội và khiếu nại khi quyền lợi của mình bị
xâm phạm… Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 quy
định về việc thừa nhận quyền mà mọi người được hưởng những điều kiện làm việc
công bằng và thuận lợi như sau:
Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi
người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc
biệt đảm bảo:
a. Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo:
17
(i) Tiền lương thoả đáng và tiền công bằng nhau cho những công
việc có giá trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ
nữ phải được đảm bảo những điều kiện làm việc không kém hơn đàn
ông, được trả công ngang nhau đối với những công việc giống nhau;
(ii) Một cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia đình họ phù
hợp với các quy định của Công ước này.
b) Những điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh;
c) Cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt lên chức
vụ thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc;
d) Sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm
việc, những ngày nghỉ thường kỳ được hưởng lương cũng như thù lao
cho những ngày nghỉ lễ [35, Điều 7].
Tuy nhiên, cũng do đặc điểm tâm sinh lý khác biệt, người khuyết tật được
pháp luật quy định được hưởng các quyền bình đẳng với những người khác về điều
kiện tuyển dụng, sự thuê mướn và tuyển dụng, tiếp tục được tuyển dụng kể cả trong
lĩnh vực công, thăng tiến nghề nghiệp, được trả lương ngang nhau cho công việc có
giá trị ngang nhau và điều kiện làm việc an toàn và bảo đảm sức khỏe…, nghiêm
cấm mọi sự phân biệt đối xử để đảm bảo cho họ bình đẳng với những lao động bình
thường khác, tạo động lực thúc đẩy họ phấn đấu, làm tốt công việc của mình. Điều
này được thể hiện trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật:
Quốc gia thành viên công nhận quyền lao động của người khuyết
tật trên cơ sở bình đẳng với những người khác; quyền này bao gồm cả
quyền có cơ hội tự kiếm sống bằng hình thức lao động do người lao động
chọn hoặc chấp nhận trên thị trường lao động và trong môi trường lao
động mở, dễ tiếp cận đối với người khuyết tật… [38, Điều 27].
Công ước số 159 (1983) về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người
khuyết tật ILO cũng quy định: “Mọi nước thành viên phải coi mục đích tái thích
ứng nghề nghiệp và làm cho mọi người khuyết tật có thể tìm được và duy trì được
một việc làm thích hợp, có thể thăng tiến về nghề nghiệp, và do đó dễ dàng trong
việc hòa nhập hoặc tái hòa nhập vào xã hội” [80, Điều 1-2].
18
Trên cơ sở giới tính, tuổi tác, nguyên nhân gây ra khuyết tật, người khuyết tật
được phân loại thành nhiều nhóm khác nhau, do đó cần phải có các biện pháp bảo vệ
quyền phù hợp với từng đối tượng. Xét dưới góc độ giới tính, phụ nữ khuyết tật là
những người bị tổn thương kép, vì vậy, cần phải lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, có
chính sách ưu tiên đặc biệt trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật là phụ nữ.
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 quy định: “Quốc gia thành
viên thừa nhận rằng phụ nữ và các bé gái khuyết tật dễ bị phân biệt đối xử, do vậy
quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp bảo đảm cho họ được hưởng trọn
vẹn và bình đẳng các quyền và tự do cơ bản của con người” [38, Điều 6]. Dưới góc
độ tuổi tác, trẻ em khuyết tật là những công dân đặc biệt, bởi các em còn non nớt cả
về thể chất và trí tuệ, lại thêm bất hạnh bởi khuyết tật nên các em không thể thực
hiện các quyền của mình một cách đầy và không tự bảo vệ được chính mình, cho
nên các em là đối tượng đặc biệt cần được ưu tiên. Do đó, trẻ em khuyết tật có các
quyền đặc thù như: quyền được nhận làm con nuôi, quyền được học tập bình
thường như mọi đứa trẻ khác và được chữa bệnh miễn phí… Công ước quốc tế về
quyền của người khuyết tật yêu cầu:
Các quốc gia thành viên bảo đảm rằng trẻ em khuyết tật có quyền
bày tỏ ý kiến một cách tự do về mọi vấn đề ảnh hưởng tới các em, ý kiến
của trẻ em phải được cân nhắc thích đáng phù hợp với độ tuổi và sự
trưởng thành của các em, trên cơ sở bình đẳng với các trẻ em khác, bảo
đảm cung cấp cho các em sự trợ giúp phù hợp với lứa tuổi và với tình
trạng khuyết tật để các em thực hiện quyền đó [38, Điều 7-3].
Dưới góc độ nguyên nhân gây ra khuyết tật, người khuyết tật đặc biệt như
những thương, bệnh binh, những người có công với đất nước nên họ có những
quyền được ưu tiên đặc biệt như: quyền được hưởng chế độ trợ cấp đặc biệt; quyền
được ưu tiên đặc biệt khi thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền học tập,
lao động và tìm kiếm việc làm…
Từ những đặc điểm riêng về quyền của người khuyết tật nêu trên cho thấy
trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật cần phải chú
19
trọng ghi nhận và có biện pháp đặc biệt để đảm bảo thực hiện các quyền đặc thù của
người khuyết tật nhằm hạn chế tiến tới xóa bỏ rào cản đối với người khuyết tật về
mặt xã hội. Nói cách khác, cơ hội tiếp cận và khả năng thụ hưởng quyền của người
khuyết tật nếu không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý sẽ dẫn đến tình trạng phụ
thuộc vào nhận thức của xã hội về vị thế và các quyền con người cơ bản của họ.
Thực tế cho thấy do nhận thức của xã hội còn hạn chế nên người khuyết tật vẫn phải
chịu sự kì thị và phân biệt đối xử. Họ bị ghẻ lạnh, bị coi là gánh nặng của gia đình
và xã hội. Những hạn chế này đã tạo ra rào cản đối với việc tiếp cận và hưởng thụ
quyền của người khuyết tật.
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp
luật lao động
1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật
Bảo có nghĩa là giữ, vệ có nghĩa là chống lại. Bảo vệ có nghĩa là “chống lại
mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn” [101, tr.34]. Theo đó có
thể hiểu bảo vệ quyền của người khuyết tật tức là chống lại các hành vi xâm phạm
đến quyền của người khuyết tật để giữ cho họ được tham gia vào các quan hệ xã hội
và được hưởng các quyền lợi hợp pháp.
Khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật không được định nghĩa cụ thể
trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như luật pháp một số quốc gia như: Mỹ,
Anh, Trung Quốc, Nhật Bản và cả Việt Nam. Tuy nhiên, các văn kiện pháp lý quốc
tế và các quốc gia có đề cập đến trách nhiệm của các quốc gia phải thực hiện các
biện pháp hữu hiệu nhất nhằm mục đích bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
người khuyết tật, giúp cho họ có cơ hội được tiếp cận và thụ hưởng các quyền bình
đẳng như mọi thành viên khác trong xã hội. Chẳng hạn, Công ước quốc tế về quyền
của người khuyết tật 2006 quy định: “Các quốc gia thành viên cam kết sẽ bảo đảm
và thúc đẩy sự công nhận đầy đủ tất cả các quyền con người và tự do của tất cả
người khuyết tật mà không có bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào do bị khuyết
tật” [38, Điều 4, Khoản 1]. Ngoài ra, Công ước còn quy định các biện pháp bảo vệ
quyền của người khuyết tật mà các quốc gia thành viên phải cam kết thực hiện như:
20
Cung cấp các dịch vụ y tế đặc biệt nhằm phát hiện, ngăn ngừa và giảm thiểu khuyết
tật [38, Điều 25-b]; Tạo điều kiện cho người khuyết tật được tiếp cận phương tiện,
thiết bị hỗ trợ, sử dụng ngôn ngữ kí hiệu, chữ Braille; Kêu gọi và khuyến khích các
cơ sở cung cấp các dịch vụ truyền thông dưới các dạng dễ tiếp cận và dễ sử dụng
cho người khuyết tật [38, Điều 20, 21]…
Luật người khuyết tật của Mỹ (ADA – Americans with Disabilities Act) sửa
đổi năm 1990 khẳng định mục đích của đạo luật là: “Đưa ra một chương trình quốc
gia rõ ràng và chi tiết nhằm xóa bỏ phân biệt đối xử và đưa ra các tiêu chuẩn rõ
ràng, nhất quán, khả thi để giải quyết việc phân biệt đối xử với người khuyết tật
thông qua việc tái lập phạm vi bảo vệ sẵn có theo đạo luật này” [74].
Trong lời nói đầu của Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật
Anh năm 1995 (DDA – Disability Discrimination Act) có nêu:
Đạo luật nhằm chống lại sự phân biệt đối xử với người khuyết
tật trong lĩnh vực việc làm, cung ứng hàng hóa, phương tiện và dịch
vụ, chuyển nhượng hoặc quản lý tài sản; xây dựng các quy định về
việc làm cho người khuyết tật và thành lập một Ủy ban Quốc gia về
Người khuyết tật [112].
Hay như Luật cơ bản về người khuyết tật của Nhật Bản quy định: “Trên cơ
sở những nguyên tắc đoàn kết dân tộc, xã hội phải khuyến khích, động viên sự hợp
tác nhằm nâng cao phúc lợi xã hội cho người khuyết tật” [75, Điều 5].
Trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia như trên có
thể hiểu bảo vệ quyền của người khuyết tật được hiểu là các cam kết, mong muốn,
quy định nhằm tạo ra sự bình đẳng và cơ hội tiếp cận cho người khuyết tật trên mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và chỉ có ý nghĩa khi được bảo đảm
bằng các biện pháp khác nhau chống lại mọi hành vi vi phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người khuyết tật [91].
Trong quan hệ lao động luôn tồn tại sự bất bình đẳng giữa NLĐ với NSDLĐ,
NLĐ bị phụ thuộc về mặt tổ chức, phụ thuộc về kinh tế, phụ thuộc về môi trường
làm việc… Đặc biệt, người khuyết tật khi tham gia vào quan hệ lao động với tư
21
cách là NLĐ lại là nhóm người dễ bị tổn thương và thiệt thòi gấp nhiều lần so với
người bình thường. Do đó các quyền và lợi ích hợp pháp của họ khó có thể đảm
bảo. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của pháp luật nói chung và pháp
luật lao động nói riêng là phải bảo vệ được người khuyết tật – nhóm người yếu thế
khi tham gia vào các quan hệ lao động.
Công ước 159 (1983) về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người
khuyết tật của ILO quy định: “Mọi nước thành viên phải coi mục đích của tái thích
ứng nghề nghiệp là làm cho mọi người khuyết tật có thể tìm được và duy trì được
một việc làm thích hợp, có thể thăng tiến về mặt nghề nghiệp, và do đó được dễ
dàng trong việc hòa nhập hoặc tái hòa nhập vào xã hội” [80, Điều 1-2].
Trên cơ sở quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia, chúng ta có
thể đưa ra khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động là
việc quy định trong pháp luật lao động các biện pháp, phương thức nhằm giúp cho
người khuyết tật có được sự bình đẳng về cơ may tìm được và duy trì được một việc
làm thích hợp, có thể thăng tiến về mặt nghề nghiệp và bình đẳng về đối xử giữa
những người lao động khuyết tật với nhau và giữa những người lao động khuyết tật
với những người lao động khác, và được bảo đảm bằng các biện pháp khác nhau
chống lại mọi hành vi vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật.
1.2.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền của người khuyết tật
1.2.2.1. Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm cho rằng tất cả mọi người dù họ khác
nhau về thể lực, trí lực và các đặc điểm khác thì đều có giá trị, tầm quan trọng
ngang nhau và đều phải được bảo vệ như nhau. Vì vậy họ có quyền được đối xử
công bằng và không bị phân biệt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nguyên tắc này được thể hiện rõ nét trong Quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng cơ
hội đối với người khuyết tật được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua năm 1993:
Người khuyết tật là các thành viên của xã hội, có quyền cùng tồn
tại với cộng đồng. Họ phải được sự trợ giúp cần thiết trong các cơ cấu
thông thường thuộc các lĩnh vực y tế, giáo dục, việc làm và các dịch vụ
22
xã hội. Xã hội phải tạo điều kiện cho người khuyết tật thực hiện được
quyền và nghĩa vụ tương tự như các thành viên khác và phải được công
nhận đây là một phần trong quá trình đạt tới sự bình đẳng [37].
Sau đó, trong Lời nói đầu Công ước Quốc tế về Quyền của người khuyết tật
năm 2006 lại tái khẳng định:
Thừa nhận tầm quan trọng của các nguyên tắc và định hướng
chính sách được ghi nhận tại Chương trình hành động thế giới về người
khuyết tật và các Quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hóa cơ hội cho người
khuyết tật trong tác động đối với việc khuyến khích, xây dựng và đánh
giá chính sách, kế hoạch, chương trình hành động ở các cấp quốc gia,
khu vực và quốc tế nhằm mục đích tăng cường bình đẳng hóa cơ hội cho
người khuyết tật (khoản f); Đồng thời thừa nhận rằng phân biệt đối xử
chống lại bất kỳ người nào trên cơ sở sự khuyết tật là vi phạm phẩm giá
vốn có của con người [38, Khoản h].
Pháp luật các nước trên thế giới ở những mức độ khác nhau cũng đã quy định
vấn đề này trong các văn bản luật. Chẳng hạn, Luật người khuyết tật Mỹ 1990 quy định
nguyên tắc chung: “Không đối tượng áp dụng nào được phép phân biệt đối xử với một
cá nhân đủ năng lực chuyên môn vì lý do khuyết tật trong các thủ tục xin việc, tuyển
dụng, thăng tiến, sa thải, bồi thường, huấn luyện hoặc các điều khoản, điều kiện và
quyền tuyển dụng khác” [74, Tiểu chương 1, Phần 12112, Khoản a]. Hay Luật Bảo hộ
người khuyết tật Trung Quốc cũng có nêu:
Người khuyết tật được hưởng quyền bình đẳng với các công
dân khác về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, trong cuộc sống gia
đình và các khía cạnh khác… Cấm việc phân biệt đối xử, xúc phạm và
xâm phạm người khuyết tật [31, Điều 3]; Không phân biệt đối xử đối
với người khuyết tật trong việc làm, tuyển dụng, quy định địa vị,
thăng chức, xác định các chức danh kĩ thuật hoặc nghiệp vụ, thanh
toán cho người lao động, phúc lợi xã hội, bảo hiểm lao động hoặc
trong các khía cạnh khác [31, Điều 34].
23
Về phương diện pháp lý, nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử có
thể được tiếp cận với các khía cạnh khác nhau trong luật pháp và dẫn đến các hậu
quả không giống nhau. Mặt khác để có cơ sở xác định một hành vi có phải là bình
đẳng hoặc phân biệt đối xử với người khuyết tật hay không cần có các tiêu chí xác
định mang tính pháp lý được cơ quan có thẩm quyền quy định [81, tr.18-20, 27-29].
Trong quan hệ lao động, người khuyết tật phải được bảo vệ một cách bình
đẳng, không phân biệt về giới, về ngành nghề, về khu vực kinh tế. Không có sự phân
biệt giữa người khuyết tật với người không khuyết tật, giữa người khuyết tật làm việc
bán thời gian và người khuyết tật làm việc toàn thời gian, giữa người khuyết tật là
thành viên công đoàn và người khuyết tật không phải là thành viên công đoàn, giữa
người khuyết tật nam và người khuyết tật nữ… như quy định của Công ước của ILO
về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật 1983:
Chính sách đó phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng về cơ may giữa
những người lao động khuyết tật và những người lao động nói chung.
Quyền bình đẳng về cơ may và đối xử giữa người lao động nam giới
khuyết tật với người lao động nữ giới khuyết tật phải được tôn trọng.
Những biện pháp tích cực chuyên nhằm bảo đảm quyền bình đẳng thực
sự về cơ may và về đối xử giữa những người lao động khuyết tật với
những người lao động khác sẽ không được coi là có tính phân biệt đối xử
với những người lao động khác [80, Điều 1-2].
Như vậy, một cách chung nhất, nguyên tắc bình đẳng ở đây được hiểu là sự
ngang nhau trong việc tiếp cận các cơ hội về học tập, việc làm, chăm sóc sức khoẻ,
dịch vụ công… của người khuyết tật trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Tuy nhiên,
nguyên tắc bình đẳng không có nghĩa là bằng nhau hoặc như nhau. Người khuyết tật
gặp phải những dạng tật khác nhau và mức độ khuyết tật không giống nhau cần phải
được sự bảo vệ quyền khác nhau. Ví dụ: Một người bị khuyết tật đặc biệt nặng cần
phải có sự bảo trợ hoàn toàn của xã hội, trong khi một người bị khuyết tật nhẹ thì
không cần phải như vậy. Tương tự, việc ngăn cấm phân biệt đối xử không có nghĩa
là quy cho mọi hình thức phân biệt là trái pháp luật. Trong quan hệ lao động, người
24
sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động phải có những kỹ năng và trình
độ cần thiết mà công việc hoặc môi trường công việc đòi hỏi và những yêu cầu này
là chính đáng. Do đó, dẫn đến khả năng loại trừ một số người khuyết tật khỏi danh
sách người tham gia làm việc, nhưng những trường hợp như vậy không được coi là
phân biệt đối xử. Chẳng hạn: Một công ty vệ sĩ tuyển nhân viên và đưa ra những
tiêu chuẩn về hình thức, sức khỏe, chiều cao, phản xạ… dẫn đến người khuyết tật
(khiếm thính, khiếm thị…) không được vào làm việc. Những yêu cầu trong trường
hợp như trên là hợp pháp và đúng mức, do vậy nó đơn thuần là một yêu cầu mang
tính nghề nghiệp và không bị coi là phân biệt đối xử.
1.2.2.2. Nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, các đối tác xã hội và tổ chức
xã hội
Cơ sở của nguyên tắc này là cam kết của cộng đồng quốc tế trong Các nghĩa
vụ chung, Công ước về quyền của người khuyết tật:
Trong việc xây dựng và thực thi luật pháp và chính sách để thực
hiện Công ước này và trong quá trình ra quyết định về những vấn đề có
liên quan tới người khuyết tật, các quốc gia thành viên cần có sự tham vấn
chặt chẽ và tham gia tích cực của người khuyết tật, bao gồm cả trẻ em
khuyết tật, thông qua các tổ chức đại diện của họ [38, Điều 4, Khoản 3].
Công ước của 159 của ILO cũng có quy định:
Mọi nước thành viên phải theo điều kiện, tập quán và khả năng
quốc gia để hình thành, thực hiện và định kỳ xem xét lại chính sách
quốc gia đối với việc tái thích ứng nghề nghiệp cho những người
khuyết tật [80, Điều 2] và Các tổ chức đại diện của người lao động và
của người sử dụng lao động đều phải được hỏi ý kiến về việc thực
hiện chính sách nói trên, kể cả những biện pháp phải tiến hành để xúc
tiến sự hợp tác và phối hợp giữa các thiết chế công và tư đang làm
công việc tái thích ứng nghề nghiệp. Các tổ chức đại diện của những
người khuyết tật hoặc đang phụ trách những người khuyết tật cũng
phải được tham khảo ý kiến [80, Điều 5].
25
Nội dung nguyên tắc này được hiểu là khi ban hành hoặc phê chuẩn văn bản
pháp luật, chính sách về bảo vệ quyền của người khuyết tật các nhà lập pháp, xây
dựng chính sách cần tham vấn rộng rãi mọi cá nhân hoặc tổ chức, đặc biệt là người
khuyết tật và các tổ chức đại diện cho họ, các tổ chức xã hội liên quan (ví dụ: công
đoàn và tổ chức đại diện của người sử dụng lao động), các tổ chức cung cấp dịch vụ
cho người khuyết tật, các chuyên gia tư vấn độc lập… Mỗi tổ chức, cá nhân này
dưới góc nhìn và kinh nghiệm của họ đưa đến những cách tiếp cận khác nhau về
vấn đề cần giải quyết. Tổng hợp lại sẽ cho người làm luật, hoạch định chính sách có
cái nhìn tổng quát để giải quyết vấn đề trên cơ sở sự hài hòa giữa quyền của người
khuyết tật với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội phù hợp với điều kiện chính trị,
kinh tế, xã hội cụ thể. Tuy nhiên, phương pháp, cách thức tổ chức tham vấn, vị trí
cũng như giá trị tham vấn của tổ chức, cá nhân là khác nhau tùy thuộc vào mô hình
tổ chức của mỗi quốc gia [91].
1.2.2.3. Nguyên tắc đảm bảo hội nhập và thực thi các cam kết quốc tế
Trong nửa thế kỷ qua, đã có nhiều sáng kiến (công ước, khuyến nghị, tuyên
bố, chương trình hành động…) nhằm bảo vệ quyền của người khuyết tật và thay đổi
nhận thức của xã hội về vấn đề người khuyết tật. Kết quả cụ thể nhất về mặt pháp lý
của quá trình này là ngày 13 tháng 12 năm 2006, Liên hợp quốc đã thông qua Công
ước về quyền của người khuyết tật. Đến nay đã có 150 quốc gia ký tham gia, trong
đó 50 quốc gia đã phê chuẩn. Trong đó có quy định về cam kết của các nước thành
viên trong việc nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế vào pháp luật quốc
gia. Cụ thể, Công ước quy định:
Các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm và thúc đẩy việc biến
các quyền và tự do cơ bản của con người thành hiện thực đối với mọi
người khuyết tật mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trên cơ sở
sự khuyết tật. Nhằm mục đích này, các quốc gia thành viên cam kết:
a. Thông qua các biện pháp lập pháp, hành pháp hoặc các biện
pháp khác để thi hành các quyền được thừa nhận trong Công ước này;
b. Tiến hành mọi biện pháp thích hợp, trong đó có lập pháp, để
26
sửa đổi hoặc hủy bỏ các luật, quy định, tập quán và thông lệ hiện hành có
tính chất phân biệt đối xử đối với người khuyết tật;
c. Cân nhắc việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của người
khuyết tật trong tất cả các chính sách và chương trình;
d. Không có bất kỳ hành vi hoặc thực tiễn nào trái với Công ước
này và bảo đảm rằng mọi thể chế và cơ quan công quyền hành xử phù
hợp với Công ước này… [38, Điều 4, Khoản 1].
Các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan sau khi phê chuẩn Công ước đều
có sự điều chỉnh lại các quy định của luật người khuyết tật trong nước cho phù hợp
với nguyên tắc chung của Công ước về quyền của người khuyết tật.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) có nhiệm vụ đảm bảo các điều kiện lao
động bình đẳng và phù hợp trên toàn thế giới thông qua việc soạn thảo các tiêu
chuẩn để các quốc gia phê chuẩn dưới hình thức công ước và khuyến nghị về lao
động quốc tế, trong đó có các văn kiện về bảo vệ quyền của người khuyết tật như:
Công ước số 111 về Phân biệt đối xử trong lĩnh vực việc làm và nghề nghiệp năm
1958; Công ước số 159 về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết
tật năm 1983… Theo đó, Công ước số 159 cũng đưa ra quy định về việc nội luật
hóa các quy định của Công ước như là một nguyên tắc mà mỗi nước thành viên đều
phải cam kết thực hiện “Mọi nước thành viên phải theo điều kiện, tập quán và khả
năng quốc gia để hình thành, thực hiện và định kỳ xem xét lại chính sách quốc gia
đối với việc tái thích ứng nghề nghiệp cho những người khuyết tật” [80, Điều 2].
Để người khuyết tật được hưởng đầy đủ và bình đẳng các quyền con người,
quyền tự do cơ bản mang tính toàn cầu và tạo điều kiện tham gia bình đẳng vào các
hoạt động xã hội; đồng thời xây dựng xã hội không rào cản, các quốc gia cần tiếp
tục nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế trên cơ sở xem xét và phê chuẩn
các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến quyền và bảo vệ quyền của người khuyết
tật. Có như vậy, quyền của người khuyết tật mới được bảo vệ một cách toàn diện
không chỉ trong phạm vi quốc gia và còn trên toàn thế giới.
27
1.2.3. Các biện pháp bảo vệ quyền của người khuyết tật
Bảo vệ người khuyết tật phải được thực hiện thông qua các biện pháp khác
nhau bao gồm: Biện pháp xã hội, biện pháp kinh tế và biện pháp pháp lý.
1.2.3.1. Biện pháp xã hội
Người khuyết tật là một bộ phận của cộng đồng dân cư, của xã hội, do vậy bảo
vệ quyền của người khuyết tật thể hiện truyền thống đạo lý nhân văn cao đẹp của mỗi
quốc gia, dân tộc; sự sẻ chia, đùm bọc đối với cộng đồng vừa là đạo lý, là nhu cầu, là
lẽ sống của hầu hết mọi người dân trên thế giới. Tuy nhiên, bảo vệ như thế nào để
mọi tiềm năng được phát huy, được sử dụng, giúp họ thay đổi được vị thế của mình
từ người phụ thuộc đến người độc lập trong cuộc sống mới là điều cần thiết.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia xã hội của người khuyết
tật chính là thái độ của cộng đồng đối với họ. Thái độ của một người đối với sự vật,
sự việc bắt nguồn từ tập quán, văn hóa, quan điểm, nhận thức của họ đối với sự vật,
sự việc đó. Thái độ của cộng đồng đối với người khuyết tật trước kia theo quan
điểm nhân đạo, tức là người khuyết tật là những đối tượng cần được bảo trợ, cần
được chăm sóc [102, tr.23]. Các hoạt động cưu mang, giúp đỡ người khuyết tật là
hoạt động nhân đạo. Chính từ cách thức nhìn nhận này mà người khuyết tật bị coi là
không có khả năng làm việc (do sự khiếm khuyết của họ ngăn cản họ làm việc), coi
người khuyết tật là gánh nặng của gia đình, của xã hội và có thái độ kì thị, phân biệt
đối xử. Chính thái độ của cộng đồng đã khiến người khuyết tật mất tự tin vào bản
thân, sống mặc cảm. Do vậy, biện pháp xã hội để bảo vệ quyền của người khuyết tật
trước hết phải làm sao để hình thành ý thức xã hội quan tâm đến người khuyết tật
như tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật đến tất cả mọi người trong xã hội để
cộng đồng có sự nhận thức đầy đủ và đúng mức về người khuyết tật. Từ sự nhận
thức đầy đủ sẽ dẫn đến thái độ và hành vi của cộng đồng được đúng đắn khiến
người khuyết tật cảm thấy được tôn trọng, được động viên, khuyến khích, trợ giúp
để hòa nhập cộng đồng, tiếp cận việc làm, tạo thu nhập và ổn định cuộc sống.
1.2.3.2. Biện pháp kinh tế
Quyền của người khuyết tật được quan tâm nghiên cứu và bảo vệ không chỉ
28
vì lợi ích của bản thân đối tượng này mà còn vì lợi ích của toàn xã hội. Mỗi quốc
gia muốn xây dựng một nền kinh tế phát triển đòi hỏi phải có công sức đóng góp
của toàn xã hội, phải phát huy tiềm năng thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi
lực lượng lao động. Trong điều kiện kinh tế chuyển đổi nhiều khó khăn, phức tạp,
người khuyết tật khó có điều kiện tham gia xã hội đầy đủ. Do vậy, để bảo vệ tốt
nhất quyền lợi của người khuyết tật, phát huy tối đa mọi nguồn lực trong xã hội thì
mỗi nhà nước cần quan tâm đẩy mạnh các biện pháp kinh tế. Về phía người khuyết
tật để ổn định cuộc sống, nhu cầu có việc làm là rất lớn nhằm tạo ra thu nhập trước
hết để nuôi sống bản thân, sau là giúp đỡ gia đình, tạo của cải vật chất, góp phần
xây dựng đất nước. Một chính sách kinh tế bền vững phải gắn với việc giải quyết tốt
các vấn đề thất nghiệp trong đó có vấn đề việc làm cho người khuyết tật.
Các biện pháp kinh tế tập trung vào đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế nhiều
thành phần, xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển cho các
doanh nghiệp có sử dụng lao động là người khuyết tật, cải tiến cơ sở vật chất, trang
thiết bị, nâng cao chất lượng cuộc sống của lao động khuyết tật… Mục tiêu cuối
cùng nhằm: giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động trong xã hội và
bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật. Hướng ưu tiên là giải quyết việc làm cho
những người khuyết tật đến tuổi lao động. Phát triển kinh tế còn tạo ra các sản phẩm
ứng dụng hữu ích như: điện thoại cho những người câm điếc, xe lăn, chân tay giả,
máy trợ thính, gậy dẫn đường, sách chữ nổi... giúp bù đắp những khiếm khuyết về
mặt chức năng của cơ thể người khuyết tật, giúp họ sống, học tập và lao động được
thuận tiện như những người bình thường khác.
Các biện pháp tăng trưởng kinh tế là tiền đề rất quan trọng để giải quyết các
vấn đề xã hội. Ngược lại, giải quyết tốt vấn đề xã hội là điều kiện ổn định xã hội,
phát triển kinh tế. Có ý kiến cho rằng cứ phát triển kinh tế cao thì tức khắc sẽ giải
quyết được mọi vấn đề xã hội và dẫn đến tiến bộ xã hội. Song thực tế ở nhiều nước
cho thấy, nền kinh tế hùng mạnh nhưng các vấn đề xã hội trong đó có quyền lợi của
người khuyết tật không được bảo vệ, trở nên căng thẳng và nhức nhối như bạo lực,
tệ nạn xã hội và bất bình đẳng. Bài học rút ra là: Tăng trưởng kinh tế tự nó không
29
thể giải quyết tất cả các vấn đề xã hội, trong những trường hợp cụ thể còn làm trầm
trọng thêm nhiều vấn đề như: thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, quyền của con
người bị đe dọa… Tăng trưởng kinh tế tự nó không dẫn đến tiến bộ xã hội mặc dù
thúc đẩy xã hội phát triển. Nếu chính sách xã hội đi sau chính sách kinh tế thì người
ta coi các vấn đề xã hội như là gánh nặng của nền kinh tế và giải quyết đến đâu hay
tới đó, khi đó sẽ phát sinh hậu quả khó lường. Còn nếu chính sách xã hội đi trước
chính sách kinh tế sẽ rơi vào tình trạng không có điều kiện vật chất bảo đảm chính
sách sẽ trở thành lời hứa suông. Như vậy là các biện pháp kinh tế và biện pháp xã
hội phải thực hiện song song với nhau, đan xem với nhau, lồng quyện vào nhau, khi
đó quyền lợi của người khuyết tật cũng như mọi thành viên khác trong xã hội mới
được bảo đảm triệt để [102, tr.25].
1.2.3.3. Biện pháp pháp lý
Pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của con người nói chung và người khuyết tật nói riêng vì:
Pháp luật với tư cách là công cụ quản lý cơ bản, riêng có của Nhà nước sẽ tác
động, tổ chức, điều chỉnh hành vi của mọi thành viên trong xã hội hướng đến một
mục tiêu chung là thực hiện, bảo vệ quyền con người và không có công cụ, phương
tiện nào có được các lợi thế như pháp luật trong việc tổ chức, quản lý xã hội cũng
như trong vấn đề thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân [4, tr.52].
Pháp luật ghi nhận các quyền của người khuyết tật được xã hội thừa nhận.
Thông qua pháp luật, quyền của người khuyết tật được bảo vệ. Để bảo đảm quyền
của người khuyết tật, pháp luật đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc
phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm quyền của người khuyết
tật. Quyền con người nói chung và của người khuyết tật nói riêng được pháp luật
xác nhận là thiêng liêng, không thể xâm hại một cách tùy tiện và được bảo vệ bằng
các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế nhà nước.
Pháp luật là phương tiện, công cụ không chỉ của Nhà nước mà của cả người
khuyết tật để bảo vệ và thực hiện các quyền cơ bản của họ bởi vì: “Pháp luật trước
hết là công cụ của nhân dân. Nhân dân sử dụng pháp luật như là một thư công cụ
hữu hiệu nhất để bảo vệ mình” [40, tr.54-55]. Pháp luật quy định cụ thể nội dung
30
các quyền của người khuyết tật và các cơ chế để bảo vệ quyền của người khuyết tật
khi tham gia vào các quan hệ xã hội. Do đó, pháp luật là cơ sở vững chắc để người
khuyết tật đòi quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền của
người khuyết tật, Liên Hợp quốc đã thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ
quyền tự do của con người trong đó có người khuyết tật. Liên hợp quốc cũng
khuyến nghị và yêu cầu các quốc gia phải có nghĩa vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật
quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế; nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết quốc tế
đã nêu trong các Công ước quốc tế mà quốc gia đã phê chuẩn hoặc tham gia. Và
một khi pháp luật quốc gia đã phù hợp với pháp luật quốc tế sẽ trở thành phương
tiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật trong phạm vi quốc
gia và tranh thủ sự trợ giúp của các nguồn lực quốc tế để đảm bảo ngày càng tốt hơn
quyền của người khuyết tật.
Tóm lại, có nhiều biện khác nhau mà nhà nước và cộng đồng xã hội có thể sử
dụng để bảo đảm quyền của người khuyết tật. Mỗi biện pháp khi thực hiện sẽ đạt
được những mục tiêu khác nhau trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật.
Song chúng không tồn tại một cách biệt lập, mà giữa chúng có mối quan hệ tương
hỗ, tạo thành một hệ biện pháp nhằm bảo đảm quyền của người khuyết tật một cách
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước – chủ thể chủ động,
có nguồn lực lớn nhất và có khả năng bảo đảm quyền của người khuyết tật một cách
tốt nhất cần thường xuyên rà soát, hoàn thiện và thực hiện các biện pháp thích hợp
trong từng giai đoạn, đồng thời cần có cơ chế để động viên toàn xã hội tham gia
công tác người khuyết tật, vì cuộc sống ngày tốt đẹp của lực lượng xã hội này.
1.2.4. Ý nghĩa bảo vệ quyền của người khuyết tật
1.2.4.1. Đối với người khuyết tật
Xã hội ngày càng phát triển, ý thức người dân ngày càng được nâng cao và
vấn đề quyền con người nói chung, quyền của người khuyết tật nói riêng ngày càng
được coi trọng. Đối với người khuyết tật, việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình
khi tham gia vào các quan hệ lao động càng trở nên cấp thiết.
31
Trước hết, để đảm bảo nhu cầu thu nhập và đời sống của bản thân và gia
đình mình, người khuyết tật cần được bảo vệ về quyền lao động. Họ cần tìm được
công việc ổn định, thu nhập đảm bảo và cơ hội phát triển nghề nghiệp và trên hết là
không bị phân biệt đối xử trong công việc đó. Người khuyết tật khi tham gia quan
hệ lao động vốn đã chịu nhiều thiệt thòi hơn so với các lao động bình thường khác,
bên cạnh đó trong mối quan hệ với NSDLĐ họ luôn ở vào vị trí yếu hơn, do đó các
quyền lợi của họ có nhiều nguy cơ bị xâm phạm khi NSDLĐ lạm dụng vị trí của
mình. Người khuyết tật chỉ yên tâm làm việc khi quyền lợi của họ được đảm bảo
bởi pháp luật và những người thực thi. Bảo vệ quyền của người khuyết tật cũng
chính là bảo vệ nguồn lực lao động cần thiết cho xã hội. Trong Lời nói đầu của
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 cũng khẳng định:
Thừa nhận rằng người khuyết tật đang và sẽ đóng góp đáng kể
cho phúc lợi chung và sự đa dạng của cộng đồng quanh họ, và thừa nhận
rằng người khuyết tật càng hưởng trọn vẹn các quyền và tự do cơ bản
của con người và càng tham gia hoàn toàn vào xã hội thì họ càng có ý
thức gắn bó, điều đó mang lại tiến bộ đáng kể cho sự phát triển xã hội về
các mặt kinh tế, xã hội và nhân văn, cũng như cho công cuộc xoá đói
giảm nghèo [38].
Thực tế đã chứng minh nhiều trường hợp điển hình về người khuyết tật vươn
lên làm chủ vận mệnh của mình: Cậu bé Nobuyuki Tsujii bị mù bẩm sinh nhưng với
tài năng của mình, cậu bé đã đưa vinh quang về cho đất nước mặt trời mọc khi liên
tiếp giành được các giải thưởng trong các cuộc thi piano quốc tế. Nobuyuki Tsuji
được báo chí Nhật Bản ví là “hiện thân của phép màu thượng đế”. Những người
khuyết tật vẫn tham gia hoạt động kinh tế - xã hội và họ đã có những đóng góp to
lớn cho quá trình phát triển của nhân loại điển hình như nhạc sỹ thiên tài Beethoven
bị khiếm thính nhưng vẫn để lại cho đời những tác phẩm âm nhạc tuyệt vời. Giáo sư
Stephen Hawking bị khuyết tật mắc bệnh thần kinh khiến ông gần như mất hết khả
năng cử động, sau đó ông phải phẫu thuật cắt khí quản và không thể nói chuyện
bình thường. Ông phải ngồi xe lăn và chỉ có thể nói được qua một thiết bị tổng hợp
32
gắn với một máy tính mà ông gõ chữ vào đó. Hawking hiện nay đang là Giáo sư
Lucasian, chức danh giành cho giáo sư Toán học trường đại học Cambridge, Mỹ [57].
Hay tấm gương nghị lực phi thường chiến thắng số phận nghiệt ngã để trở thành
nhà truyền đạo nổi tiếng thế giới của cậu bé không tay, không chân Nick Vucijic đã
truyền cảm hứng và động lực phấn đấu cho biết bao mảnh đời bất hạnh giống anh
trên khắp hành tinh. Đó là những bằng chứng sống về thành công không giới hạn
của những người khuyết tật một khi họ được pháp luật bảo vệ và tạo điều kiện để
phát huy hết khả năng tiềm ẩn trong con người.
1.2.4.2. Đối với người sử dụng lao động
Tôn trọng và bảo đảm các quyền của người khuyết tật trong quan hệ lao động
là nghĩa vụ và trách nhiệm của NSDLĐ. NSDLĐ muốn đạt được mục đích lợi nhuận
của mình khi thiết lập quan hệ lao động thì phải đảm bảo được các quyền lợi chính
đáng của NLĐ, trong đó có người khuyết tật. Bởi lẽ người khuyết tật chính là một bộ
phận không nhỏ nguồn lực lao động trong xã hội. Bản thân họ là những người chịu
nhiều thiệt thòi nên nếu có cơ hội và động lực, họ sẽ phấn đấu để đạt được những
thành quả to lớn mà không phải người bình thường nào cũng làm được. Một khi
quyền của người khuyết tật được bảo vệ họ sẽ cảm thấy gắn bó với công việc, với
doanh nghiệp, làm việc với ý thức tự nguyện và tình yêu, sự đam mê công việc. Hệ
quả là năng suất lao động được nâng cao, sản phẩm tạo ra có chất lượng và hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp phát triển không ngừng. Vì vậy,tận dụng được nguồn
lực này sẽ giúp ích rất nhiều cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của NSDLĐ [54].
Bên cạnh đó, bảo vệ tốt các quyền của người khuyết tật trong quan hệ lao
động đồng nghĩa với việc tiết kiệm các chi phí không cần thiết cho NSDLĐ như chi
phí tuyển dụng, đào tạo lao động mới, chi phí khắc phục các hậu quả về tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, chi phí bồi thường cho người khuyết tật bị xâm hại, chi phí
giải quyết tranh chấp lao động, chi phí bị xử lý vi phạm hành chính… Những chi
phí này có thể rất lớn. Ngoài ra việc sản xuất cũng có thể bị đình trệ bởi thời gian
dành cho việc giải quyết các hậu quả của việc vi phạm quyền lợi của người khuyết
tật gây ra. Sản xuất đình trệ sẽ gây thiệt hại về kinh tế cho NSDLĐ.
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY

More Related Content

What's hot

Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong LuậtBáo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luậtnataliej4
 
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngBáo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

What's hot (20)

Luận văn: Trách nhiệm vật theo pháp luật lao động Việt Nam, 9đ
Luận văn: Trách nhiệm vật theo pháp luật lao động Việt Nam, 9đLuận văn: Trách nhiệm vật theo pháp luật lao động Việt Nam, 9đ
Luận văn: Trách nhiệm vật theo pháp luật lao động Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động 2012
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động 2012Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động 2012
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động 2012
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tưLuận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
 
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong LuậtBáo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niênLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên
 
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Bảo vệ quyền của lao động nữ theo luật lao động Việt Nam, HAY
Bảo vệ quyền của lao động nữ theo luật lao động Việt Nam, HAYBảo vệ quyền của lao động nữ theo luật lao động Việt Nam, HAY
Bảo vệ quyền của lao động nữ theo luật lao động Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động, HOTLuận văn: Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động, HOT
 
Luận văn: Vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới theo luật quốc tế
Luận văn: Vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới theo luật quốc tếLuận văn: Vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới theo luật quốc tế
Luận văn: Vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới theo luật quốc tế
 
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngBáo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động
Luận văn: Quyền quản lý lao động của người sử dụng lao độngLuận văn: Quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động
Luận văn: Quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động
 
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đLuận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về quyền của người lao động di trú, HOT
Luận văn: Pháp luật về quyền của người lao động di trú, HOTLuận văn: Pháp luật về quyền của người lao động di trú, HOT
Luận văn: Pháp luật về quyền của người lao động di trú, HOT
 
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đìnhĐề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
 
Luận văn: Cấm phân biệt đối xử trong pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Cấm phân biệt đối xử trong pháp luật lao động, HOTLuận văn: Cấm phân biệt đối xử trong pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Cấm phân biệt đối xử trong pháp luật lao động, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
 
Báo cáo thực tập tại công ty luật VA
Báo cáo thực tập tại công ty luật VABáo cáo thực tập tại công ty luật VA
Báo cáo thực tập tại công ty luật VA
 

Similar to Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY

Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt NamVai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Namhieu anh
 

Similar to Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY (20)

Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOTĐề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật Việt Nam, HOTĐề tài: Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật Việt Nam, HOT
 
Pháp Luật Về Lao Động Là Người Khuyết Tật Ở Việt Nam
Pháp Luật Về Lao Động Là Người Khuyết Tật Ở Việt NamPháp Luật Về Lao Động Là Người Khuyết Tật Ở Việt Nam
Pháp Luật Về Lao Động Là Người Khuyết Tật Ở Việt Nam
 
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HAY
 
Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt Nam
Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt NamQuyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt Nam
Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt Nam
 
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự doBảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
 
Quyền Làm Việc Của Người Khuyết Tật Tại Việt Nam.doc
Quyền Làm Việc Của Người Khuyết Tật Tại Việt Nam.docQuyền Làm Việc Của Người Khuyết Tật Tại Việt Nam.doc
Quyền Làm Việc Của Người Khuyết Tật Tại Việt Nam.doc
 
Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hộiĐảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
 
Đề tài: Quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận dịch vụ xã hội, HOT
Đề tài: Quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận dịch vụ xã hội, HOTĐề tài: Quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận dịch vụ xã hội, HOT
Đề tài: Quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận dịch vụ xã hội, HOT
 
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docxLuận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
 
Luận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội, HAY
Luận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội, HAYLuận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội, HAY
Luận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội, HAY
 
Luận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội tại Hà Nội
Luận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội tại Hà NộiLuận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội tại Hà Nội
Luận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội tại Hà Nội
 
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOTLuận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
 
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt NamVai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
 
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt NamLuận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
 
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyềnQuyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
 
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tùQuyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
 
Luận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
Luận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAYLuận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
Luận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 

Recently uploaded (20)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 

Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ THỊ LAN B¶O VÖ QUYÒN CñA NG¦êI KHUYÕT TËT TRONG PH¸P LUËT LAO §éNG VIÖT NAM - THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ THỊ LAN B¶O VÖ QUYÒN CñA NG¦êI KHUYÕT TËT TRONG PH¸P LUËT LAO §éNG VIÖT NAM - THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THỊ HOÀI THU HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hà Thị Lan
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT....................6 1.1. Nhận thức chung về quyền của người khuyết tật.....................................6 1.1.1. Quan niệm về quyền của người khuyết tật....................................................6 1.1.2. Vị trí, vai trò quyền của người khuyết tật ...................................................12 1.1.3. Các quyền cơ bản của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế ................14 1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động...............................................................................................19 1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật............................................19 1.2.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền của người khuyết tật ..........................................21 1.2.3. Các biện pháp bảo vệ quyền của người khuyết tật......................................27 1.2.4. Ý nghĩa bảo vệ quyền của người khuyết tật................................................30 1.3. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam ......................34 1.3.1. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Mỹ ..............35 1.3.2. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Australia.....37 1.3.3. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Trung Quốc.......38 Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM.........................42 2.1. Quá trình phát triển của chế định bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam....................................................42
  • 5. 2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật lao động .....................................................43 2.1.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật lao động đến nay.............................................46 2.2. Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong các quy định của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành ...........................................................51 2.2.1. Bảo vệ quyền lao động của người khuyết tật..............................................51 2.2.2. Bảo vệ đời sống của người khuyết tật.........................................................57 2.2.3. Bảo vệ quyền nhân thân của người khuyết tật ............................................60 2.2.4. Quy định về chế tài đối với các hành vi vi phạm quyền của người khuyết tật.....................................................................................................65 2.3. Thực tiễn bảo vệ quyền của người khuyết tật ........................................66 2.3.1. Thành quả đạt được.....................................................................................66 2.3.2. Hạn chế........................................................................................................69 2.3.3. Nguyên nhân ...............................................................................................73 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT ..................................................76 3.1. Yêu cầu đặt ra cần phải nâng cao hiệu quả pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật........................................76 3.1.1. Về mặt khách quan......................................................................................76 3.1.2. Về mặt chủ quan..........................................................................................77 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật........................................78 3.3. Một số kiến nghị cụ thể.............................................................................80 3.3.1. Về các quy định của pháp luật lao động .....................................................80 3.3.2. Về tổ chức thực hiện ...................................................................................97 KẾT LUẬN............................................................................................................105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................106
  • 6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLLĐ: Bộ luật lao động ILO: Tổ chức lao động quốc tế NKT: Người khuyết tật NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh UN: Liên hợp quốc
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân [72, Điều 2, Khoản 1, 2]. Điều đó có nghĩa rằng, việc đảm bảo sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận và thực hiện các quyền về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của tất cả mọi tầng lớp dân cư trong xã hội là nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện một nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người khuyết tật là những người bị khiếm khuyết về mặt thể chất hoặc tinh thần trong một thời gian dài khiến họ không thế thực hiện được các quyền của mình một cách đầy đủ như những người bình thường khác. Đây được xem là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương và phải chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Do vậy, họ luôn cần nhận được sự quan tâm trợ giúp của gia đình, Nhà nước và toàn xã hội. Trước đây, vấn đề người khuyết tật chỉ được tiếp cận dưới góc độ phúc lợi xã hội, người khuyết tật chỉ được xem là những đối tượng cần nhận được sự hỗ trợ hay “ban ơn” từ phía cộng đồng. Do vậy, tất cả các hoạt động trợ giúp cho người khuyết tật đều được xem là hoạt động nhân đạo. Tuy nhiên, sau một thời gian dài, bằng sự nỗ lực của người khuyết tật cùng với các tổ chức của họ đã dần thay đổi quan niệm và nhận thức của xã hội về người khuyết tật. Theo đó, vấn đề người khuyết tật được xem xét dưới góc độ quyền con người, dựa trên quan điểm tất cả mọi người đều có quyền được sống và được thụ hưởng những quyền cơ bản như nhau, người khuyết tật ngày càng được coi trọng vì họ hoàn toàn có khả năng học tập, lao động sản xuất và cống hiến cho xã hội [91]. Điều này đã được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng như: Tuyên ngôn toàn thế giới của Liên hợp quốc về Quyền con người năm 1948, Công ước của Liên hợp quốc về Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966, Công ước của Liên hợp quốc về Quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật… tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm các quyền bình đẳng của người khuyết tật như mọi cá nhân khác trong xã hội.
  • 8. 2 Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO), yêu cầu về nguồn nhân lực trong đó có vấn đề bảo vệ quyền của người lao động nói chung và người khuyết tật nói riêng ngày càng trở nên cấp thiết. Dạy nghề, tạo điều kiện việc làm và bảo đảm các quyền của người khuyết tật trong quá trình tham gia lao động là một trong những chính sách quan trọng mà Đảng và Nhà nước luôn chú ý. Bộ luật lao động 2012 dành chương XI để quy định về một số loại lao động đặc biệt, trong đó người lao động khuyết tật được quy định tại mục 4; Luật người khuyết tật 2010 dành Chương V để quy định về việc làm cho người khuyết tật; Chương VII Luật dạy nghề 2006 quy định về dạy nghề cho người tàn tật, khuyết tật… Các quy định này là sự kế thừa và phát huy các quy định về quyền của người khuyết tật trong các văn bản pháp luật trước đó, về cơ bản đã tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia vào các quan hệ lao động một cách công bằng và bình đẳng. Tuy nhiên các quyền của người khuyết tật vẫn chưa được quy định đầy đủ và chi tiết trong pháp luật lao động cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, bên cạnh đó các chính sách và pháp luật chưa được thi hành có hiệu quả trên thực tế, người khuyết tật vẫn gặp nhiều khó khăn trong quá trình tìm việc làm và đảm bảo thu nhập. Tình trạng sử dụng người khuyết tật vào làm việc bị vi phạm các quyền về nhân thân, về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi… còn xảy ra khá phổ biến. Hơn nữa công tác quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm cũng như tuyên truyền, giáo dục ý thức của cộng đồng về vấn đề người khuyết tật còn buông lỏng và chưa triệt để. Vì những lý do đó, tôi lựa chọn để tài “Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn góp phần hoàn thiện một số khía cạnh lý luận và thực tiễn của pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện tại đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của quyền của người khuyết tật như vấn đề dạy nghề, việc làm, vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, vấn đề an toàn lao động, vệ sinh lao động… Tuy nhiên,
  • 9. 3 việc phân tích các khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam một cách hệ thống và chuyên sâu, qua đó góp phần bảo vệ quyền của một bộ phận không nhỏ người lao động đặc biệt, thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động nói chung trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển như vũ bão là điểm mới mà luận văn muốn hướng tới. Một số đề tài nghiên cứu về quyền của người khuyết tật Việt Nam như: - Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008; - Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về Lao động tàn tật ở Việt Nam” của Phạm Thị Thanh Việt năm 2009; - Luận văn thạc sỹ Luật học “Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động dưới góc độ pháp luật lao động” của Đỗ Minh Nghĩa năm 2012; - Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về việc làm cho người khuyết tật” của Hồ Thị Trâm năm 2013; - Giáo trình Luật người khuyết tật năm 2011 của Trường đại học Luật Hà Nội do Nguyễn Hữu Chí chủ biên; - Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người do Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng đồng chủ biên của Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội năm 2009 có đề cập đến khía cạnh lý luận và pháp luật về quyền của người khuyết tật; - Báo cáo đánh giá thực hiện các điều khoản của Luật lao động về lao động là người khuyết tật và Pháp lệnh về người khuyết tật của Nguyễn Thị Diệu Hồng, tháng 7 năm 2002; - Báo cáo đánh giá đào tạo nghề phù hợp cho thanh thiếu niên khuyết tật của Tổ chức Thế giới Quan tâm vì Phát triển tại Hà Nội, Việt Nam tháng 1 năm 2005; - Báo cáo khảo sát về Đào tạo Nghề và Việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tháng 8 năm 2008; - Báo cáo thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết tật trong dạy nghề, việc làm năm 2008 của Cục Việc làm – Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; - Báo cáo tình hình thực hiện các chính sách trợ giúp phụ nữ khuyết tật năm 2008 của TW Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
  • 10. 4 - Báo cáo người khuyết tật ở Việt Nam: Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA); - Bài viết “Nhìn lại 5 năm thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật” của Đàm Hữu Đắc trên tạp chí Lao động và Xã hội số 213 năm 2003; - Bài viết “Để nâng cao khả năng thực hiện pháp luật về việc làm và dạy nghề đối với người tàn tật” của Nguyễn Đức Hoán trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 308 năm 2007; - Bài viết “Những vấn đề đặt ra trong thực hiện dịch vụ xã hội đối với người khuyết tật và một số khuyến nghị” của Lý Hoàng Mai trên tạp chí Lao động và Xã hội số 370 năm 2009… Tất cả những công trình trên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu và phân tích một số khía cạnh quyền của người khuyết tật trong các lĩnh vực khác nhau mà chưa khái quát toàn bộ nội dung quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động một cách đầy đủ, thêm nữa mới chỉ dừng lại ở quyền mà chưa nghiên cứu các nội dung của bảo vệ quyền của người khuyết tật trong hệ thống pháp luật lao động Việt Nam. Với việc lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”, tác giả rất mong sẽ có những đóng góp tích cực vào tình hình nghiên cứu chế định bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm ra những ưu điểm cũng như những hạn chế, bất cập của pháp luật lao động Việt Nam và những vướng mắc trên thực tế để có thể đưa ra những phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật trên thực tế. Việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền của người khuyết tật mà trong đó tập trung vào các biện pháp bảo vệ quyền của người khuyết tật; - Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật và thực tiễn thực hiện;
  • 11. 5 - Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả các quy định của pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Quyền của người khuyết tật và bảo vệ quyền của người khuyết tật; - Phạm vi nghiên cứu: Bảo vệ quyền của người khuyết tật được sự quan tâm của cả hệ thống pháp luật như: Luật người khuyết tật, Luật bảo hiểm xã hội, Luật dạy nghề, Luật việc làm, Luật lao động và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam. 5. Nội dung nghiên cứu Luận văn đi sâu phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ quyền của người khuyết tật và đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật. 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể là, phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, phương pháp quan sát… làm cơ sở cho việc nghiên cứu. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về quyền của người khuyết tật và bảo vệ quyền của người khuyết tật. Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật.
  • 12. 6 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1.1. Nhận thức chung về quyền của người khuyết tật 1.1.1. Quan niệm về quyền của người khuyết tật Người khuyết tật là nhóm người dễ bị tổn thương, là một bộ phận dân cư và tồn tại khách quan trong lịch sử loài người. Ngân hàng thế giới ước tính có khoảng 10% dân số thế giới (khoảng 650 triệu người) phải sống chung với những khuyết tật và có sự khác nhau giữa các vùng, các nước và chủ yếu tập trung ở các nước kém phát triển. Theo số liệu báo cáo của UNDP, ước tính mỗi năm có thêm gần 10 triệu người khuyết tật và dự báo đến năm 2035 số người khuyết tật trên thế giới sẽ lên tới 667 triệu người [113, tr.1]. Cách nhìn nhận về người khuyết tật có những thay đổi nhất định qua từng thời kỳ. Nếu như những năm 1950, người khuyết tật được nhìn nhận theo mô hình “chăm sóc y tế”, theo đó vấn đề người khuyết tật là vấn đề phúc lợi xã hội và họ là đối tượng cần được hỗ trợ, chăm sóc, được hưởng trợ giúp chứ không phải là chủ thể có quyền như công dân bình thường thì những năm 1970 cách nhìn nhận người khuyết tật đã có sự thay đổi, theo đó những người khuyết tật là những người có khả năng, có quyền sống và lao động như những người bình thường chứ không phải là một đối tượng cần nhận sự “ban ơn” của xã hội. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về người khuyết tật. Trên thế giới có hai quan điểm chính về người khuyết tật song song cùng tồn tại, đó là quan điểm khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội. Quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế (y học) cho rằng khuyết tật là hạn chế cá nhân, là ở chính con người đó, mà hầu như không chú ý tới các yếu tố xã hội. Ngược lại, quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội, những người khuyết tật được nhìn nhận là hệ quả bị xã hội loại trừ và phân biệt [91]. Từ những cách nhìn nhận khác nhau về người khuyết tật cùng với điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử phát triển cũng như kĩ thuật lập pháp từng quốc gia mà pháp luật quốc tế cũng như quốc gia có định nghĩa khác nhau về người khuyết tật.
  • 13. 7 Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc năm 2006 định nghĩa“Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hay giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác” [38, Điều 1]. Công ước số 159 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật năm 1983 quy định: “Người khuyết tật dùng để chỉ người mà khả năng tìm thấy một việc làm phù hợp, gắn bó lâu dài với công việc đó cũng như triển vọng thăng tiến về nghề nghiệp đều bị giảm sút đáng kể do một sự khiếm khuyết về thể chất hoặc tâm thần được công nhận rõ ràng”[80, Điều 1, Khoản 1]. Khái niệm người khuyết tật theo quan điểm của Tổ chức quốc tế người khuyết tật (DPI, 1982): Người khuyết tật trở thành khuyết tật là do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống giống như thành viên khác. Do vậy, khuyết tật là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa các tính năng cơ thể và các tính năng xã hội mà trong đó người khuyết tật sống [92, tr.5]. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 1999, người khuyết tật là người bị suy giảm chức năng ở ba mức độ là: khiếm khuyết (impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). Trong đó, khiếm khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc không bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc sinh lý. Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn tàn tật đề cập tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ [91]. Theo Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống. Những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về vận động; Khiếm khuyết về thị giác, Khiếm khuyết về nói và nghe, Chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, Các bệnh lây và không lây như Bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) [74].
  • 14. 8 Hay Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ người khuyết tật năm 1990 ghi nhận: Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lý hay sinh lý hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường. Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật nhiều và/hoặc khuyết tật khác [31, Điều 2]. Luật Người khuyết tật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17 tháng 06 năm 2010 đưa ra định nghĩa về người khuyết tật: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [70, Điều 2, Khoản 1]. Theo đó, đối tượng xác định là người khuyết tật dựa vào việc bộ phận cơ thể bị suy giảm chức năng biểu hiện dưới dạng tật (khiếm thính, khiếm thị, tật nguyền, người bị tâm thần, thiểu năng trí tuệ…) và gây khó khăn cho việc lao động, học tập, sinh hoạt bao gồm cả những người bị khuyết tật bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh… Như vậy, tùy thuộc vào việc ủng hộ quan điểm khuyết tật cá nhân hay khuyết tật xã hội mà mỗi quốc gia có nhìn nhận không giống nhau về người khuyết tật. Tuy vậy, dù có ủng hộ quan điểm nào đi chăng nữa thì khi định nghĩa về người khuyết tật cũng phải phản ánh thực tế là người khuyết tật có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi họ tham gia vào các hoạt động của đời sống xã hội. Người khuyết tật có một số những đặc điểm riêng về tâm, sinh lý và sức khỏe so với người bình thường cộng thêm nhận thức và thái độ kì thị của xã hội khiến họ dễ cảm thấy tự ti và mặc cảm về bản thân. Chính vì vậy, người khuyết tật cần được nhà nước, gia đình và xã hội trợ giúp, tạo điều kiện, cơ hội bình đẳng để tiếp cận và hưởng thụ các quyền bình đẳng với mọi công dân khác, vươn lên làm chủ cuộc sống và hòa nhập cộng đồng.
  • 15. 9 Người khuyết tật trước hết là con người trong xã hội nên họ cũng có các quyền cơ bản của một con người nhưng do bị khiếm khuyết về mặt thể chất hay tâm thần nên họ có một số các quyền đặc thù theo luật định. Quan niệm về quyền của người khuyết tật có sự thay đổi cách tiếp cận trong pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia. Ngay từ khi ban hành những văn bản pháp lý đầu tiên, Liên hợp quốc (UN) luôn khẳng định sự thiết yếu của việc tôn trọng và thực hiện các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người và không phân biệt thành phần, giới tính, tôn giáo hay tín ngưỡng [33, Điều 1]… Các quyền của người khuyết tật được đặt trên cơ sở các quy định phổ quát đó. Trong những năm 1940 và 1950, UN mới chỉ tập trung vào việc thúc đẩy các quyền của người khuyết tật về thể chất thông qua các phương pháp tiếp cận an sinh xã hội [115]. Hiến chương và các công ước về quyền con người được các nước phê chuẩn từ giữa những năm 1940 cho đến cuối những năm 1960 (ví dụ Tuyên ngôn Quốc tế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền năm 1948, Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền Kinh tế, Văn hóa, Xã hội năm 1966, và Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966…) chưa có các quy định riêng đề cập đến người khuyết tật. Tuy nhiên, Tuyên ngôn quốc tế của Liên hợp quốc về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu” [34, Điều 1]. Tuyên ngôn này cũng liệt kê tất cả các quyền mà con người được hưởng bao gồm các quyền trong các lĩnh vực dân sự, chính trị; quyền kinh tế, văn hóa và xã hội.Theo quy định này thì người khuyết tật cũng phải được hưởng những quyền lợi cơ bản mà mọi người trong xã hội được hưởng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, người khuyết tật vẫn phải đối mặt với nhiều bất lợi, tình trạng họ bị tách biệt khỏi xã hội, cũng như tình trạng họ bị phân biệt đối xử mới được nhận thức rõ ràng hơn và đã được nêu thành một vấn đề về quyền của người khuyết tật. Việc dần thay đổi từ cách tiếp cận phúc lợi xã hội sang cách tiếp cận dựa vào quyền con người được thể hiện thông qua việc đề cập một cách cụ thể về người khuyết tật trong các Hiến
  • 16. 10 chương, các Công ước và các sáng kiến về quyền con người được phê chuẩn từ những năm 1980 và trong ngày càng nhiều các văn bản luật pháp quốc tế (thường không mang tính bắt buộc) được các tổ chức như Liên Hợp Quốc và Ủy ban Châu Âu thông qua [107, tr.566]. Ngày 13/12/2006 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 61 đã thông qua Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật và chính thức có hiệu lực từ tháng 5/2008 sau khi có 20 quốc gia phê chuẩn. Công ước là văn bản luật mang tính toàn cầu đầu tiên trong lịch sử nhân loại khẳng định quyền của người khuyết tật. Theo đó, người khuyết tật được công nhận là đối tượng có đầy đủ các quyền và nhân phẩm như những thành viên khác trong cộng đồng, được bình đẳng về cơ hội trong xã hội. Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật xác định các quyền của người khuyết tật và nghĩa vụ của các quốc gia tham gia. Mặc dù không thiết lập các nhân quyền mới nhưng đây là công ước quốc tế về nhân quyền đầu tiên của thế kỷ 21, đồng thời cũng là công cụ luật pháp đầu tiên bảo vệ toàn diện quyền của người khuyết tật. Công ước này còn có ý nghĩa đặc biệt khi thay đổi cách nhìn đối với tình trạng khuyết tật là một vấn đề xã hội chứ không phải chỉ là vấn đề y tế, và xác lập sự dịch chuyển từ phương thức tiếp cận theo hướng nhân đạo sang hướng nhân quyền [92, tr.152-153]. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) là một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc có nhiệm vụ đảm bảo các điều kiện lao động bình đẳng và phù hợp trên toàn thế giới [80, tr.12]. ILO thực hiện sứ mệnh của mình thông qua việc soạn thảo các tiêu chuẩn để các quốc gia phê chuẩn dưới hình thức công ước và khuyến nghị về lao động quốc tế. Từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mục tiêu chính của tổ chức ILO là tăng cường các cơ hội việc làm bình đẳng [81, tr.2]. Quan niệm về quyền của người khuyết tật của ILO cũng xuất phát từ hạt nhân quyền con người thể hiện trong “Tuyên bố Philadelphia” được thông qua tại Hội nghị Lao động Quốc tế tổ chức năm 1944, trong đó chỉ rõ: “Tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, hoặc giới tính đều có quyền được mưu cầu một cuộc sống vật chất đầy đủ, được phát triển tinh thần trong điều kiện tự do và đảm bảo nhân phẩm, trong điều kiện an ninh kinh tế và cơ hội bình đẳng”… [81, tr.3].
  • 17. 11 Năm 1944, với bản khuyến nghị đầu liên quan đến các dịch vụ việc làm, bao gồm cả đào tạo nghề và định hướng việc làm (Khuyến nghị Số 71, 1944 về Việc làm), ILO đã dành một phần đáng kể (phần X, từ đoạn 39 đến đoạn 44) để trình bày về vấn đề việc làm của người khuyết tật. ILO có đề xuất rằng, bất kỳ khi nào có thể, người khuyết tật cần được đào tạo cùng với những người khác, được làm việc trong cùng điều kiện và được trả cùng mức lương; đồng thời cần tiếp tục việc đào tạo cho đến khi người khuyết tật có đủ khả năng kiếm được việc làm trong lĩnh vực hoặc các ngành nghề mà họ đã được đào tạo. ILO kêu gọi sự bình đẳng về cơ hội nghề nghiệp cho người lao động khuyết tật và khuyến khích áp dụng các chính sách việc làm ưu tiên nhằm tăng cường việc làm cho người khuyết tật nặng [91]. Năm 1983, một năm sau khi thực thi Chương trình hành động toàn cầu liên quan đến người khuyết tật và hai năm sau Năm quốc tế về Người khuyết tật, ILO đã thông qua Công ước số 159 và Khuyến nghị số 168 về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật. Công ước số 159 yêu cầu các nước đã phê chuẩn công ước này phải xây dựng các chính sách quốc gia dựa trên nguyên tắc cơ hội bình đẳng giữa người lao động khuyết tật và người lao động nói chung, tôn trọng sự bình đẳng về cơ hội và đối xử bình đẳng giữa người khuyết tật nam và nữ, đồng thời thực thi các biện pháp tích cực nhằm thực hiện hiệu quả các nguyên tắc này. Việc đề cao sự tham gia toàn diện của người khuyết tật được thể hiện thông qua khái niệm về phục hồi chức năng gắn với việc làm: “Giúp người khuyết tật tìm được việc phù hợp, được duy trì và thăng tiến trong công việc đó và qua đó được hòa nhập hoặc tái hòa nhập xã hội tốt hơn” [80, Điều 1-2]. Như vậy có thể thấy quan niệm về quyền của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế có sự thay đổi qua các thời kì khác nhau nhưng xu hướng chung là dịch chuyển hướng tiếp cận quyền của người khuyết tật từ nhân đạo chuyển sang nhân quyền. Theo đó, người khuyết tật cũng có cơ hội bình đẳng và được hưởng các quyền cơ bản của con người với tư cách là thành viên của cộng đồng xã hội, ngoài ra họ còn có các quyền được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt với tư cách là nhóm người đặc biệt dễ bị tổn thương, được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia.
  • 18. 12 1.1.2. Vị trí, vai trò quyền của người khuyết tật Vấn đề người khuyết tật đã đang trở thành chủ đề được đặc biệt quan tâm bởi cả cộng đồng quốc tế. Sau một thời gian dài, thế giới mới bắt thừa nhận người khuyết tật như một chủ thể của các quyền như mọi thành viên khác trong xã hội và đã được thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Quyền của người khuyết tật đã trở thành một chế định quan trọng trong luật quốc tế hiện đại. Liên hợp quốc đang nỗ lực kêu gọi các quốc gia phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo cơ sở pháp lý tôn trọng, quan tâm thúc đẩy việc thực hiện các quyền cơ bản của người khuyết tật. Vậy vị trí và vai trò quyền của người khuyết tật là gì? Thứ nhất, việc công nhận quyền của người khuyết tật thể hiện một quan điểm nhân văn và tiến bộ của nhân loại, khẳng định rằng với tư cách là một con người, người khuyết tật có các quyền cơ bản như mọi thành viên khác trong xã hội. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 đã khẳng định mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, đều có quyền sống, quyền hưởng phúc lợi, quyền được giáo dục và có việc làm, quyền sống một cách độc lập và được tham gia tích cực vào mọi mặt của đời sống xã hội. Bất kỳ một sự phân biệt trực tiếp hoặc phân biệt đối xử tiêu cực khác đối với người khuyết tật đều vi phạm các quyền của người đó. Do đó, quyền của người khuyết tật bao hàm tất cả nội hàm cũng như đặc điểm của quyền con người. Ngoài ra, do đặc thù là nhóm người chịu nhiều thiệt thòi, dễ bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các quyền cơ bản của con người cho nên quyền của người khuyết tật có các đặc điểm riêng nhất định. Việc công nhận quyền của người khuyết tật cũng là điều kiện để đảm bảo sự hòa bình, ổn định và phát triển của nhân loại. Trong lời nói đầu của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc có khẳng định: Việc thừa nhận nhân phẩm vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới và Nhân quyền phải được pháp luật bảo vệ để mỗi người không buộc phải nổi loạn như là biện pháp cuối cùng để chống lại chế độ cường quyền và áp bức [34].
  • 19. 13 Việc thừa nhận người khuyết tật như là một chủ thể của các quyền, có khả năng tự nuôi sống bản thân và làm chủ cuộc sống của mình giúp cho mỗi quốc gia giảm bớt được gánh nặng về phúc lợi xã hội cho người khuyết tật vì lý do phụ thuộc và không sinh lợi. Từ đó, thúc đẩy sự phát triển của bản thân người khuyết tật nói riêng cũng như xã hội nói chung. Thứ hai, quyền của người khuyết tật là cơ sở và nền tảng cho việc thể chế hóa thành các chính sách và quy định của pháp luật để bảo vệ và phát huy tối đa mọi nguồn lực xã hội. Luật pháp quốc tế và quốc gia đã và đang thông qua hoặc điều chỉnh để đảm bảo các quyền của người khuyết tật. Người khuyết tật do đó được đảm bảo có cơ hội đồng đều thông qua việc xóa bỏ tất cả các trở ngại, định kiến của xã hội về mặt thể chất, tài chính, xã hội hoặc tâm lý mà đã loại trừ hoặc hạn chế sự tham gia hoàn toàn của họ vào đời sống xã hội, đồng thời có cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng khi chúng bị xâm phạm trên phạm vi toàn cầu. Nhiệm vụ nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia được quy định trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006: “Nghĩa vụ chung: Các quốc gia thành viên cam kết đảm bảo và thúc đẩy sự hiện thực hóa đầy đủ tất cả các quyền và tự do cơ bản của toàn bộ những người khuyết tật mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào dựa trên cơ sở khuyết tật…” [96, Điều 4]. Thứ ba, việc thừa nhận quyền của người khuyết tật là phù hợp với xu thế chung của quốc tế. Trong xu thế hội nhập, vấn đề quyền của người khuyết tật không còn là vấn đề của một người, một cộng đồng, một quốc gia mà trở thành mối quan tâm chung của nhân loại. Do đó, thừa nhận người khuyết tật là chủ thể của các quyền giúp cho mỗi quốc gia theo kịp với thế giới. Cộng đồng quốc tế nói chung luôn yêu chuộng hòa bình và nhân đạo. Việc thể chế hóa quyền của người khuyết tật trong hệ thống pháp luật giúp cải thiện cái nhìn và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề nhân quyền của mỗi quốc gia, giúp tiếng nói của mỗi quốc gia trên trường quốc tế trở lên có uy tín và sức mạnh.
  • 20. 14 Ngày nay loài người đang phải đương đầu với những thách thức to lớn là đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, vấn đề ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, đói nghèo… là những nguyên nhân làm gia tăng số lượng người khuyết tật. Do đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho con người phát triển toàn diện. Cũng vì lẽ đó, Liên hợp quốc đã thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ quyền tự do của con người trong đó có người khuyết tật. Liên hợp quốc cũng khuyến nghị và yêu cầu các quốc gia phải có nghĩa vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế; nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết quốc tế đã nêu trong các Công ước quốc tế mà quốc gia đã phê chuẩn hoặc tham gia. Và một khi pháp luật quốc gia đã phù hợp với pháp luật quốc tế, sẽ trở thành phương tiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật trong phạm vi quốc gia và tranh thủ sự trợ giúp của các nguồn lực quốc tế để đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của người khuyết tật. 1.1.3. Các quyền cơ bản của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế Người khuyết tật có đầy đủ các quyền cơ bản của con người, trong đó có các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006 từ Điều 5 đến Điều 30 đã ghi nhận các quyền cơ bản của người khuyết tật như quyền được sống; quyền được thừa nhận bình đẳng; quyền tự do và an toàn cá nhân; quyền sống độc lập và hòa nhập cộng đồng; quyền được tôn trọng gia đình và tổ ấm; quyền tự do đi lại, tự do cư trú và tự do quốc tịch; quyền tự do biểu đạt chính kiến và tiếp cận thông tin; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng các hình phạt tàn nhẫn; quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng; quyền được tham gia đời sống chính trị và cộng đồng; quyền tham gia các hoạt động văn hóa, nghỉ ngơi, giải trí và thể thao; quyền hưởng các dịch vụ y tế, quyền được hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng; quyền có mức sống thích đáng và bảo trợ xã hội đầy đủ; quyền được tiếp cận giáo dục; quyền có cơ hội công việc và việc làm. Theo đó, Công ước quy định: Quốc gia thành viên công nhận rằng mọi người đều bình đẳng
  • 21. 15 trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ, quyền được hưởng lợi ích của pháp luật một cách bình đẳng, không có sự phân biệt nào; Quốc gia thành viên cấm phân biệt đối xử trên cơ sở sự khuyết tật và bảo đảm cho người khuyết tật sự bảo vệ pháp lý hữu hiệu và bình đẳng chống lại sự phân biệt đối xử trên bất kỳ cơ sở nào [38, Điều 5-1, 5-2]. Do vậy, người khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền lợi như mọi thành viên khác trong xã hội và ngay cả những người khuyết tật cũng được hưởng các quyền lợi bình đẳng như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì lý do khuyết tật của họ. Trách nhiệm của các quốc gia thành viên Công ước là phải thể chế hóa, nội luật hóa các quy định của Công ước vào pháp luật quốc gia và thực thi nghiêm chỉnh các quy định đó. Bên cạnh các quyền lợi cơ bản nêu trên, do đặc thù là nhóm người chịu nhiều thiệt thòi, dễ bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các quyền cơ bản của con người, cho nên quyền của người khuyết tật có những đặc điểm riêng bao gồm: Trong lĩnh vực dân sự, chính trị, người khuyết tật có các quyền dân sự, chính trị với tư cách là một con người. Tuy nhiên đối với những người khuyết tật tâm thần nặng, là những người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, mất năng lực hành vi dân sự; những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi dân sự một phần (người mắc bệnh tâm thần, thiểu năng trí tuệ) phải thực hiện các quyền dân sự (ví dụ tham gia các giao dịch dân sự) thông qua người giám hộ hoặc được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Những người bị khuyết tật tâm thần nặng không có quyền tham gia bầu cử, ứng cử do không có năng lực hành vi dân sự [36, Điều 5]. Một số quyền của người khuyết tật về tâm thần cần được ưu tiên theo luật định, chẳng hạn quyền không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những người tâm thần nặng phạm tội hình sự bởi vì họ không có năng lực trách nhiệm hình sự. Điều này đòi hỏi phải có các quy định chặt chẽ của pháp luật về những điều kiện, cách thức để xác định những trường hợp người khuyết tật không phải chịu trách nhiệm pháp lý nhằm tránh oan sai hoặc bỏ sót tội phạm. Như vậy,
  • 22. 16 người khuyết tật tâm thần, người thiểu năng trí tuệ có các quyền dân sự, chính trị không đầy đủ, họ không thể tự thực hiện một số quyền và không có khả năng bảo vệ quyền của mình mà phải thông qua người giám hộ hoặc người đại diện. Đặc điểm này cho thấy trách nhiệm của nhà nước là phải có các quy định cụ thể bằng pháp luật để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền của người khuyết tật tâm thần nặng và những người thiểu năng trí tuệ, tránh lạm dụng và vi phạm quyền của người khuyết tật trong thực tế. Trong lĩnh vực quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, người khuyết tật có những đặc quyền đó là quyền được chăm sóc, chỉnh hình và phục hồi chức năng. “Người khuyết tật về tâm thần có quyền được chăm sóc sức khỏe và vật lý trị liệu phù hợp, đồng thời có các quyền về giáo dục, đào tạo, phục hồi chức năng và hướng dẫn để họ có thể phát triển khả năng và tiềm năng của mình tới mức tối đa” [36, Điều 2]. Những người khuyết tật vận động bị hạn chế khả năng thực hiện đầy đủ quyền được tiếp cận các công trình công cộng, hòa nhập cộng đồng; người khuyết tật nghe, nhìn bị hạn chế khả năng tiếp cận các phương tiện thông tin, truyền thông… Đây là những đặc điểm riêng biệt cần phải quan tâm trong khi thực hiện quyền con người của người khuyết tật, cần phải có chính sách hỗ trợ đặc biệt tạo điều kiện cho họ thực hiện đầy đủ các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Trong lĩnh vực lao động, người khuyết tật cũng có các quyền cơ bản như những lao động bình thường khác chẳng hạn như: quyền được đào tạo dạy nghề và việc làm, quyền về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ sinh lao động, quyền được hưởng trợ cấp xã hội và khiếu nại khi quyền lợi của mình bị xâm phạm… Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 quy định về việc thừa nhận quyền mà mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi như sau: Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt đảm bảo: a. Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo:
  • 23. 17 (i) Tiền lương thoả đáng và tiền công bằng nhau cho những công việc có giá trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ nữ phải được đảm bảo những điều kiện làm việc không kém hơn đàn ông, được trả công ngang nhau đối với những công việc giống nhau; (ii) Một cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia đình họ phù hợp với các quy định của Công ước này. b) Những điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh; c) Cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt lên chức vụ thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc; d) Sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những ngày nghỉ thường kỳ được hưởng lương cũng như thù lao cho những ngày nghỉ lễ [35, Điều 7]. Tuy nhiên, cũng do đặc điểm tâm sinh lý khác biệt, người khuyết tật được pháp luật quy định được hưởng các quyền bình đẳng với những người khác về điều kiện tuyển dụng, sự thuê mướn và tuyển dụng, tiếp tục được tuyển dụng kể cả trong lĩnh vực công, thăng tiến nghề nghiệp, được trả lương ngang nhau cho công việc có giá trị ngang nhau và điều kiện làm việc an toàn và bảo đảm sức khỏe…, nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử để đảm bảo cho họ bình đẳng với những lao động bình thường khác, tạo động lực thúc đẩy họ phấn đấu, làm tốt công việc của mình. Điều này được thể hiện trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật: Quốc gia thành viên công nhận quyền lao động của người khuyết tật trên cơ sở bình đẳng với những người khác; quyền này bao gồm cả quyền có cơ hội tự kiếm sống bằng hình thức lao động do người lao động chọn hoặc chấp nhận trên thị trường lao động và trong môi trường lao động mở, dễ tiếp cận đối với người khuyết tật… [38, Điều 27]. Công ước số 159 (1983) về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật ILO cũng quy định: “Mọi nước thành viên phải coi mục đích tái thích ứng nghề nghiệp và làm cho mọi người khuyết tật có thể tìm được và duy trì được một việc làm thích hợp, có thể thăng tiến về nghề nghiệp, và do đó dễ dàng trong việc hòa nhập hoặc tái hòa nhập vào xã hội” [80, Điều 1-2].
  • 24. 18 Trên cơ sở giới tính, tuổi tác, nguyên nhân gây ra khuyết tật, người khuyết tật được phân loại thành nhiều nhóm khác nhau, do đó cần phải có các biện pháp bảo vệ quyền phù hợp với từng đối tượng. Xét dưới góc độ giới tính, phụ nữ khuyết tật là những người bị tổn thương kép, vì vậy, cần phải lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, có chính sách ưu tiên đặc biệt trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật là phụ nữ. Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 quy định: “Quốc gia thành viên thừa nhận rằng phụ nữ và các bé gái khuyết tật dễ bị phân biệt đối xử, do vậy quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp bảo đảm cho họ được hưởng trọn vẹn và bình đẳng các quyền và tự do cơ bản của con người” [38, Điều 6]. Dưới góc độ tuổi tác, trẻ em khuyết tật là những công dân đặc biệt, bởi các em còn non nớt cả về thể chất và trí tuệ, lại thêm bất hạnh bởi khuyết tật nên các em không thể thực hiện các quyền của mình một cách đầy và không tự bảo vệ được chính mình, cho nên các em là đối tượng đặc biệt cần được ưu tiên. Do đó, trẻ em khuyết tật có các quyền đặc thù như: quyền được nhận làm con nuôi, quyền được học tập bình thường như mọi đứa trẻ khác và được chữa bệnh miễn phí… Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật yêu cầu: Các quốc gia thành viên bảo đảm rằng trẻ em khuyết tật có quyền bày tỏ ý kiến một cách tự do về mọi vấn đề ảnh hưởng tới các em, ý kiến của trẻ em phải được cân nhắc thích đáng phù hợp với độ tuổi và sự trưởng thành của các em, trên cơ sở bình đẳng với các trẻ em khác, bảo đảm cung cấp cho các em sự trợ giúp phù hợp với lứa tuổi và với tình trạng khuyết tật để các em thực hiện quyền đó [38, Điều 7-3]. Dưới góc độ nguyên nhân gây ra khuyết tật, người khuyết tật đặc biệt như những thương, bệnh binh, những người có công với đất nước nên họ có những quyền được ưu tiên đặc biệt như: quyền được hưởng chế độ trợ cấp đặc biệt; quyền được ưu tiên đặc biệt khi thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền học tập, lao động và tìm kiếm việc làm… Từ những đặc điểm riêng về quyền của người khuyết tật nêu trên cho thấy trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật cần phải chú
  • 25. 19 trọng ghi nhận và có biện pháp đặc biệt để đảm bảo thực hiện các quyền đặc thù của người khuyết tật nhằm hạn chế tiến tới xóa bỏ rào cản đối với người khuyết tật về mặt xã hội. Nói cách khác, cơ hội tiếp cận và khả năng thụ hưởng quyền của người khuyết tật nếu không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý sẽ dẫn đến tình trạng phụ thuộc vào nhận thức của xã hội về vị thế và các quyền con người cơ bản của họ. Thực tế cho thấy do nhận thức của xã hội còn hạn chế nên người khuyết tật vẫn phải chịu sự kì thị và phân biệt đối xử. Họ bị ghẻ lạnh, bị coi là gánh nặng của gia đình và xã hội. Những hạn chế này đã tạo ra rào cản đối với việc tiếp cận và hưởng thụ quyền của người khuyết tật. 1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động 1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật Bảo có nghĩa là giữ, vệ có nghĩa là chống lại. Bảo vệ có nghĩa là “chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn” [101, tr.34]. Theo đó có thể hiểu bảo vệ quyền của người khuyết tật tức là chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền của người khuyết tật để giữ cho họ được tham gia vào các quan hệ xã hội và được hưởng các quyền lợi hợp pháp. Khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật không được định nghĩa cụ thể trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như luật pháp một số quốc gia như: Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản và cả Việt Nam. Tuy nhiên, các văn kiện pháp lý quốc tế và các quốc gia có đề cập đến trách nhiệm của các quốc gia phải thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhất nhằm mục đích bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật, giúp cho họ có cơ hội được tiếp cận và thụ hưởng các quyền bình đẳng như mọi thành viên khác trong xã hội. Chẳng hạn, Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 quy định: “Các quốc gia thành viên cam kết sẽ bảo đảm và thúc đẩy sự công nhận đầy đủ tất cả các quyền con người và tự do của tất cả người khuyết tật mà không có bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào do bị khuyết tật” [38, Điều 4, Khoản 1]. Ngoài ra, Công ước còn quy định các biện pháp bảo vệ quyền của người khuyết tật mà các quốc gia thành viên phải cam kết thực hiện như:
  • 26. 20 Cung cấp các dịch vụ y tế đặc biệt nhằm phát hiện, ngăn ngừa và giảm thiểu khuyết tật [38, Điều 25-b]; Tạo điều kiện cho người khuyết tật được tiếp cận phương tiện, thiết bị hỗ trợ, sử dụng ngôn ngữ kí hiệu, chữ Braille; Kêu gọi và khuyến khích các cơ sở cung cấp các dịch vụ truyền thông dưới các dạng dễ tiếp cận và dễ sử dụng cho người khuyết tật [38, Điều 20, 21]… Luật người khuyết tật của Mỹ (ADA – Americans with Disabilities Act) sửa đổi năm 1990 khẳng định mục đích của đạo luật là: “Đưa ra một chương trình quốc gia rõ ràng và chi tiết nhằm xóa bỏ phân biệt đối xử và đưa ra các tiêu chuẩn rõ ràng, nhất quán, khả thi để giải quyết việc phân biệt đối xử với người khuyết tật thông qua việc tái lập phạm vi bảo vệ sẵn có theo đạo luật này” [74]. Trong lời nói đầu của Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật Anh năm 1995 (DDA – Disability Discrimination Act) có nêu: Đạo luật nhằm chống lại sự phân biệt đối xử với người khuyết tật trong lĩnh vực việc làm, cung ứng hàng hóa, phương tiện và dịch vụ, chuyển nhượng hoặc quản lý tài sản; xây dựng các quy định về việc làm cho người khuyết tật và thành lập một Ủy ban Quốc gia về Người khuyết tật [112]. Hay như Luật cơ bản về người khuyết tật của Nhật Bản quy định: “Trên cơ sở những nguyên tắc đoàn kết dân tộc, xã hội phải khuyến khích, động viên sự hợp tác nhằm nâng cao phúc lợi xã hội cho người khuyết tật” [75, Điều 5]. Trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia như trên có thể hiểu bảo vệ quyền của người khuyết tật được hiểu là các cam kết, mong muốn, quy định nhằm tạo ra sự bình đẳng và cơ hội tiếp cận cho người khuyết tật trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và chỉ có ý nghĩa khi được bảo đảm bằng các biện pháp khác nhau chống lại mọi hành vi vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật [91]. Trong quan hệ lao động luôn tồn tại sự bất bình đẳng giữa NLĐ với NSDLĐ, NLĐ bị phụ thuộc về mặt tổ chức, phụ thuộc về kinh tế, phụ thuộc về môi trường làm việc… Đặc biệt, người khuyết tật khi tham gia vào quan hệ lao động với tư
  • 27. 21 cách là NLĐ lại là nhóm người dễ bị tổn thương và thiệt thòi gấp nhiều lần so với người bình thường. Do đó các quyền và lợi ích hợp pháp của họ khó có thể đảm bảo. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của pháp luật nói chung và pháp luật lao động nói riêng là phải bảo vệ được người khuyết tật – nhóm người yếu thế khi tham gia vào các quan hệ lao động. Công ước 159 (1983) về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật của ILO quy định: “Mọi nước thành viên phải coi mục đích của tái thích ứng nghề nghiệp là làm cho mọi người khuyết tật có thể tìm được và duy trì được một việc làm thích hợp, có thể thăng tiến về mặt nghề nghiệp, và do đó được dễ dàng trong việc hòa nhập hoặc tái hòa nhập vào xã hội” [80, Điều 1-2]. Trên cơ sở quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia, chúng ta có thể đưa ra khái niệm bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động là việc quy định trong pháp luật lao động các biện pháp, phương thức nhằm giúp cho người khuyết tật có được sự bình đẳng về cơ may tìm được và duy trì được một việc làm thích hợp, có thể thăng tiến về mặt nghề nghiệp và bình đẳng về đối xử giữa những người lao động khuyết tật với nhau và giữa những người lao động khuyết tật với những người lao động khác, và được bảo đảm bằng các biện pháp khác nhau chống lại mọi hành vi vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật. 1.2.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền của người khuyết tật 1.2.2.1. Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm cho rằng tất cả mọi người dù họ khác nhau về thể lực, trí lực và các đặc điểm khác thì đều có giá trị, tầm quan trọng ngang nhau và đều phải được bảo vệ như nhau. Vì vậy họ có quyền được đối xử công bằng và không bị phân biệt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nguyên tắc này được thể hiện rõ nét trong Quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng cơ hội đối với người khuyết tật được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua năm 1993: Người khuyết tật là các thành viên của xã hội, có quyền cùng tồn tại với cộng đồng. Họ phải được sự trợ giúp cần thiết trong các cơ cấu thông thường thuộc các lĩnh vực y tế, giáo dục, việc làm và các dịch vụ
  • 28. 22 xã hội. Xã hội phải tạo điều kiện cho người khuyết tật thực hiện được quyền và nghĩa vụ tương tự như các thành viên khác và phải được công nhận đây là một phần trong quá trình đạt tới sự bình đẳng [37]. Sau đó, trong Lời nói đầu Công ước Quốc tế về Quyền của người khuyết tật năm 2006 lại tái khẳng định: Thừa nhận tầm quan trọng của các nguyên tắc và định hướng chính sách được ghi nhận tại Chương trình hành động thế giới về người khuyết tật và các Quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hóa cơ hội cho người khuyết tật trong tác động đối với việc khuyến khích, xây dựng và đánh giá chính sách, kế hoạch, chương trình hành động ở các cấp quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm mục đích tăng cường bình đẳng hóa cơ hội cho người khuyết tật (khoản f); Đồng thời thừa nhận rằng phân biệt đối xử chống lại bất kỳ người nào trên cơ sở sự khuyết tật là vi phạm phẩm giá vốn có của con người [38, Khoản h]. Pháp luật các nước trên thế giới ở những mức độ khác nhau cũng đã quy định vấn đề này trong các văn bản luật. Chẳng hạn, Luật người khuyết tật Mỹ 1990 quy định nguyên tắc chung: “Không đối tượng áp dụng nào được phép phân biệt đối xử với một cá nhân đủ năng lực chuyên môn vì lý do khuyết tật trong các thủ tục xin việc, tuyển dụng, thăng tiến, sa thải, bồi thường, huấn luyện hoặc các điều khoản, điều kiện và quyền tuyển dụng khác” [74, Tiểu chương 1, Phần 12112, Khoản a]. Hay Luật Bảo hộ người khuyết tật Trung Quốc cũng có nêu: Người khuyết tật được hưởng quyền bình đẳng với các công dân khác về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, trong cuộc sống gia đình và các khía cạnh khác… Cấm việc phân biệt đối xử, xúc phạm và xâm phạm người khuyết tật [31, Điều 3]; Không phân biệt đối xử đối với người khuyết tật trong việc làm, tuyển dụng, quy định địa vị, thăng chức, xác định các chức danh kĩ thuật hoặc nghiệp vụ, thanh toán cho người lao động, phúc lợi xã hội, bảo hiểm lao động hoặc trong các khía cạnh khác [31, Điều 34].
  • 29. 23 Về phương diện pháp lý, nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử có thể được tiếp cận với các khía cạnh khác nhau trong luật pháp và dẫn đến các hậu quả không giống nhau. Mặt khác để có cơ sở xác định một hành vi có phải là bình đẳng hoặc phân biệt đối xử với người khuyết tật hay không cần có các tiêu chí xác định mang tính pháp lý được cơ quan có thẩm quyền quy định [81, tr.18-20, 27-29]. Trong quan hệ lao động, người khuyết tật phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không phân biệt về giới, về ngành nghề, về khu vực kinh tế. Không có sự phân biệt giữa người khuyết tật với người không khuyết tật, giữa người khuyết tật làm việc bán thời gian và người khuyết tật làm việc toàn thời gian, giữa người khuyết tật là thành viên công đoàn và người khuyết tật không phải là thành viên công đoàn, giữa người khuyết tật nam và người khuyết tật nữ… như quy định của Công ước của ILO về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật 1983: Chính sách đó phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng về cơ may giữa những người lao động khuyết tật và những người lao động nói chung. Quyền bình đẳng về cơ may và đối xử giữa người lao động nam giới khuyết tật với người lao động nữ giới khuyết tật phải được tôn trọng. Những biện pháp tích cực chuyên nhằm bảo đảm quyền bình đẳng thực sự về cơ may và về đối xử giữa những người lao động khuyết tật với những người lao động khác sẽ không được coi là có tính phân biệt đối xử với những người lao động khác [80, Điều 1-2]. Như vậy, một cách chung nhất, nguyên tắc bình đẳng ở đây được hiểu là sự ngang nhau trong việc tiếp cận các cơ hội về học tập, việc làm, chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ công… của người khuyết tật trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Tuy nhiên, nguyên tắc bình đẳng không có nghĩa là bằng nhau hoặc như nhau. Người khuyết tật gặp phải những dạng tật khác nhau và mức độ khuyết tật không giống nhau cần phải được sự bảo vệ quyền khác nhau. Ví dụ: Một người bị khuyết tật đặc biệt nặng cần phải có sự bảo trợ hoàn toàn của xã hội, trong khi một người bị khuyết tật nhẹ thì không cần phải như vậy. Tương tự, việc ngăn cấm phân biệt đối xử không có nghĩa là quy cho mọi hình thức phân biệt là trái pháp luật. Trong quan hệ lao động, người
  • 30. 24 sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động phải có những kỹ năng và trình độ cần thiết mà công việc hoặc môi trường công việc đòi hỏi và những yêu cầu này là chính đáng. Do đó, dẫn đến khả năng loại trừ một số người khuyết tật khỏi danh sách người tham gia làm việc, nhưng những trường hợp như vậy không được coi là phân biệt đối xử. Chẳng hạn: Một công ty vệ sĩ tuyển nhân viên và đưa ra những tiêu chuẩn về hình thức, sức khỏe, chiều cao, phản xạ… dẫn đến người khuyết tật (khiếm thính, khiếm thị…) không được vào làm việc. Những yêu cầu trong trường hợp như trên là hợp pháp và đúng mức, do vậy nó đơn thuần là một yêu cầu mang tính nghề nghiệp và không bị coi là phân biệt đối xử. 1.2.2.2. Nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, các đối tác xã hội và tổ chức xã hội Cơ sở của nguyên tắc này là cam kết của cộng đồng quốc tế trong Các nghĩa vụ chung, Công ước về quyền của người khuyết tật: Trong việc xây dựng và thực thi luật pháp và chính sách để thực hiện Công ước này và trong quá trình ra quyết định về những vấn đề có liên quan tới người khuyết tật, các quốc gia thành viên cần có sự tham vấn chặt chẽ và tham gia tích cực của người khuyết tật, bao gồm cả trẻ em khuyết tật, thông qua các tổ chức đại diện của họ [38, Điều 4, Khoản 3]. Công ước của 159 của ILO cũng có quy định: Mọi nước thành viên phải theo điều kiện, tập quán và khả năng quốc gia để hình thành, thực hiện và định kỳ xem xét lại chính sách quốc gia đối với việc tái thích ứng nghề nghiệp cho những người khuyết tật [80, Điều 2] và Các tổ chức đại diện của người lao động và của người sử dụng lao động đều phải được hỏi ý kiến về việc thực hiện chính sách nói trên, kể cả những biện pháp phải tiến hành để xúc tiến sự hợp tác và phối hợp giữa các thiết chế công và tư đang làm công việc tái thích ứng nghề nghiệp. Các tổ chức đại diện của những người khuyết tật hoặc đang phụ trách những người khuyết tật cũng phải được tham khảo ý kiến [80, Điều 5].
  • 31. 25 Nội dung nguyên tắc này được hiểu là khi ban hành hoặc phê chuẩn văn bản pháp luật, chính sách về bảo vệ quyền của người khuyết tật các nhà lập pháp, xây dựng chính sách cần tham vấn rộng rãi mọi cá nhân hoặc tổ chức, đặc biệt là người khuyết tật và các tổ chức đại diện cho họ, các tổ chức xã hội liên quan (ví dụ: công đoàn và tổ chức đại diện của người sử dụng lao động), các tổ chức cung cấp dịch vụ cho người khuyết tật, các chuyên gia tư vấn độc lập… Mỗi tổ chức, cá nhân này dưới góc nhìn và kinh nghiệm của họ đưa đến những cách tiếp cận khác nhau về vấn đề cần giải quyết. Tổng hợp lại sẽ cho người làm luật, hoạch định chính sách có cái nhìn tổng quát để giải quyết vấn đề trên cơ sở sự hài hòa giữa quyền của người khuyết tật với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể. Tuy nhiên, phương pháp, cách thức tổ chức tham vấn, vị trí cũng như giá trị tham vấn của tổ chức, cá nhân là khác nhau tùy thuộc vào mô hình tổ chức của mỗi quốc gia [91]. 1.2.2.3. Nguyên tắc đảm bảo hội nhập và thực thi các cam kết quốc tế Trong nửa thế kỷ qua, đã có nhiều sáng kiến (công ước, khuyến nghị, tuyên bố, chương trình hành động…) nhằm bảo vệ quyền của người khuyết tật và thay đổi nhận thức của xã hội về vấn đề người khuyết tật. Kết quả cụ thể nhất về mặt pháp lý của quá trình này là ngày 13 tháng 12 năm 2006, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về quyền của người khuyết tật. Đến nay đã có 150 quốc gia ký tham gia, trong đó 50 quốc gia đã phê chuẩn. Trong đó có quy định về cam kết của các nước thành viên trong việc nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế vào pháp luật quốc gia. Cụ thể, Công ước quy định: Các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm và thúc đẩy việc biến các quyền và tự do cơ bản của con người thành hiện thực đối với mọi người khuyết tật mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trên cơ sở sự khuyết tật. Nhằm mục đích này, các quốc gia thành viên cam kết: a. Thông qua các biện pháp lập pháp, hành pháp hoặc các biện pháp khác để thi hành các quyền được thừa nhận trong Công ước này; b. Tiến hành mọi biện pháp thích hợp, trong đó có lập pháp, để
  • 32. 26 sửa đổi hoặc hủy bỏ các luật, quy định, tập quán và thông lệ hiện hành có tính chất phân biệt đối xử đối với người khuyết tật; c. Cân nhắc việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của người khuyết tật trong tất cả các chính sách và chương trình; d. Không có bất kỳ hành vi hoặc thực tiễn nào trái với Công ước này và bảo đảm rằng mọi thể chế và cơ quan công quyền hành xử phù hợp với Công ước này… [38, Điều 4, Khoản 1]. Các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan sau khi phê chuẩn Công ước đều có sự điều chỉnh lại các quy định của luật người khuyết tật trong nước cho phù hợp với nguyên tắc chung của Công ước về quyền của người khuyết tật. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) có nhiệm vụ đảm bảo các điều kiện lao động bình đẳng và phù hợp trên toàn thế giới thông qua việc soạn thảo các tiêu chuẩn để các quốc gia phê chuẩn dưới hình thức công ước và khuyến nghị về lao động quốc tế, trong đó có các văn kiện về bảo vệ quyền của người khuyết tật như: Công ước số 111 về Phân biệt đối xử trong lĩnh vực việc làm và nghề nghiệp năm 1958; Công ước số 159 về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật năm 1983… Theo đó, Công ước số 159 cũng đưa ra quy định về việc nội luật hóa các quy định của Công ước như là một nguyên tắc mà mỗi nước thành viên đều phải cam kết thực hiện “Mọi nước thành viên phải theo điều kiện, tập quán và khả năng quốc gia để hình thành, thực hiện và định kỳ xem xét lại chính sách quốc gia đối với việc tái thích ứng nghề nghiệp cho những người khuyết tật” [80, Điều 2]. Để người khuyết tật được hưởng đầy đủ và bình đẳng các quyền con người, quyền tự do cơ bản mang tính toàn cầu và tạo điều kiện tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; đồng thời xây dựng xã hội không rào cản, các quốc gia cần tiếp tục nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế trên cơ sở xem xét và phê chuẩn các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến quyền và bảo vệ quyền của người khuyết tật. Có như vậy, quyền của người khuyết tật mới được bảo vệ một cách toàn diện không chỉ trong phạm vi quốc gia và còn trên toàn thế giới.
  • 33. 27 1.2.3. Các biện pháp bảo vệ quyền của người khuyết tật Bảo vệ người khuyết tật phải được thực hiện thông qua các biện pháp khác nhau bao gồm: Biện pháp xã hội, biện pháp kinh tế và biện pháp pháp lý. 1.2.3.1. Biện pháp xã hội Người khuyết tật là một bộ phận của cộng đồng dân cư, của xã hội, do vậy bảo vệ quyền của người khuyết tật thể hiện truyền thống đạo lý nhân văn cao đẹp của mỗi quốc gia, dân tộc; sự sẻ chia, đùm bọc đối với cộng đồng vừa là đạo lý, là nhu cầu, là lẽ sống của hầu hết mọi người dân trên thế giới. Tuy nhiên, bảo vệ như thế nào để mọi tiềm năng được phát huy, được sử dụng, giúp họ thay đổi được vị thế của mình từ người phụ thuộc đến người độc lập trong cuộc sống mới là điều cần thiết. Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia xã hội của người khuyết tật chính là thái độ của cộng đồng đối với họ. Thái độ của một người đối với sự vật, sự việc bắt nguồn từ tập quán, văn hóa, quan điểm, nhận thức của họ đối với sự vật, sự việc đó. Thái độ của cộng đồng đối với người khuyết tật trước kia theo quan điểm nhân đạo, tức là người khuyết tật là những đối tượng cần được bảo trợ, cần được chăm sóc [102, tr.23]. Các hoạt động cưu mang, giúp đỡ người khuyết tật là hoạt động nhân đạo. Chính từ cách thức nhìn nhận này mà người khuyết tật bị coi là không có khả năng làm việc (do sự khiếm khuyết của họ ngăn cản họ làm việc), coi người khuyết tật là gánh nặng của gia đình, của xã hội và có thái độ kì thị, phân biệt đối xử. Chính thái độ của cộng đồng đã khiến người khuyết tật mất tự tin vào bản thân, sống mặc cảm. Do vậy, biện pháp xã hội để bảo vệ quyền của người khuyết tật trước hết phải làm sao để hình thành ý thức xã hội quan tâm đến người khuyết tật như tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật đến tất cả mọi người trong xã hội để cộng đồng có sự nhận thức đầy đủ và đúng mức về người khuyết tật. Từ sự nhận thức đầy đủ sẽ dẫn đến thái độ và hành vi của cộng đồng được đúng đắn khiến người khuyết tật cảm thấy được tôn trọng, được động viên, khuyến khích, trợ giúp để hòa nhập cộng đồng, tiếp cận việc làm, tạo thu nhập và ổn định cuộc sống. 1.2.3.2. Biện pháp kinh tế Quyền của người khuyết tật được quan tâm nghiên cứu và bảo vệ không chỉ
  • 34. 28 vì lợi ích của bản thân đối tượng này mà còn vì lợi ích của toàn xã hội. Mỗi quốc gia muốn xây dựng một nền kinh tế phát triển đòi hỏi phải có công sức đóng góp của toàn xã hội, phải phát huy tiềm năng thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi lực lượng lao động. Trong điều kiện kinh tế chuyển đổi nhiều khó khăn, phức tạp, người khuyết tật khó có điều kiện tham gia xã hội đầy đủ. Do vậy, để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người khuyết tật, phát huy tối đa mọi nguồn lực trong xã hội thì mỗi nhà nước cần quan tâm đẩy mạnh các biện pháp kinh tế. Về phía người khuyết tật để ổn định cuộc sống, nhu cầu có việc làm là rất lớn nhằm tạo ra thu nhập trước hết để nuôi sống bản thân, sau là giúp đỡ gia đình, tạo của cải vật chất, góp phần xây dựng đất nước. Một chính sách kinh tế bền vững phải gắn với việc giải quyết tốt các vấn đề thất nghiệp trong đó có vấn đề việc làm cho người khuyết tật. Các biện pháp kinh tế tập trung vào đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế nhiều thành phần, xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp có sử dụng lao động là người khuyết tật, cải tiến cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cao chất lượng cuộc sống của lao động khuyết tật… Mục tiêu cuối cùng nhằm: giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động trong xã hội và bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật. Hướng ưu tiên là giải quyết việc làm cho những người khuyết tật đến tuổi lao động. Phát triển kinh tế còn tạo ra các sản phẩm ứng dụng hữu ích như: điện thoại cho những người câm điếc, xe lăn, chân tay giả, máy trợ thính, gậy dẫn đường, sách chữ nổi... giúp bù đắp những khiếm khuyết về mặt chức năng của cơ thể người khuyết tật, giúp họ sống, học tập và lao động được thuận tiện như những người bình thường khác. Các biện pháp tăng trưởng kinh tế là tiền đề rất quan trọng để giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược lại, giải quyết tốt vấn đề xã hội là điều kiện ổn định xã hội, phát triển kinh tế. Có ý kiến cho rằng cứ phát triển kinh tế cao thì tức khắc sẽ giải quyết được mọi vấn đề xã hội và dẫn đến tiến bộ xã hội. Song thực tế ở nhiều nước cho thấy, nền kinh tế hùng mạnh nhưng các vấn đề xã hội trong đó có quyền lợi của người khuyết tật không được bảo vệ, trở nên căng thẳng và nhức nhối như bạo lực, tệ nạn xã hội và bất bình đẳng. Bài học rút ra là: Tăng trưởng kinh tế tự nó không
  • 35. 29 thể giải quyết tất cả các vấn đề xã hội, trong những trường hợp cụ thể còn làm trầm trọng thêm nhiều vấn đề như: thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, quyền của con người bị đe dọa… Tăng trưởng kinh tế tự nó không dẫn đến tiến bộ xã hội mặc dù thúc đẩy xã hội phát triển. Nếu chính sách xã hội đi sau chính sách kinh tế thì người ta coi các vấn đề xã hội như là gánh nặng của nền kinh tế và giải quyết đến đâu hay tới đó, khi đó sẽ phát sinh hậu quả khó lường. Còn nếu chính sách xã hội đi trước chính sách kinh tế sẽ rơi vào tình trạng không có điều kiện vật chất bảo đảm chính sách sẽ trở thành lời hứa suông. Như vậy là các biện pháp kinh tế và biện pháp xã hội phải thực hiện song song với nhau, đan xem với nhau, lồng quyện vào nhau, khi đó quyền lợi của người khuyết tật cũng như mọi thành viên khác trong xã hội mới được bảo đảm triệt để [102, tr.25]. 1.2.3.3. Biện pháp pháp lý Pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người nói chung và người khuyết tật nói riêng vì: Pháp luật với tư cách là công cụ quản lý cơ bản, riêng có của Nhà nước sẽ tác động, tổ chức, điều chỉnh hành vi của mọi thành viên trong xã hội hướng đến một mục tiêu chung là thực hiện, bảo vệ quyền con người và không có công cụ, phương tiện nào có được các lợi thế như pháp luật trong việc tổ chức, quản lý xã hội cũng như trong vấn đề thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân [4, tr.52]. Pháp luật ghi nhận các quyền của người khuyết tật được xã hội thừa nhận. Thông qua pháp luật, quyền của người khuyết tật được bảo vệ. Để bảo đảm quyền của người khuyết tật, pháp luật đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm quyền của người khuyết tật. Quyền con người nói chung và của người khuyết tật nói riêng được pháp luật xác nhận là thiêng liêng, không thể xâm hại một cách tùy tiện và được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế nhà nước. Pháp luật là phương tiện, công cụ không chỉ của Nhà nước mà của cả người khuyết tật để bảo vệ và thực hiện các quyền cơ bản của họ bởi vì: “Pháp luật trước hết là công cụ của nhân dân. Nhân dân sử dụng pháp luật như là một thư công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ mình” [40, tr.54-55]. Pháp luật quy định cụ thể nội dung
  • 36. 30 các quyền của người khuyết tật và các cơ chế để bảo vệ quyền của người khuyết tật khi tham gia vào các quan hệ xã hội. Do đó, pháp luật là cơ sở vững chắc để người khuyết tật đòi quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật, Liên Hợp quốc đã thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ quyền tự do của con người trong đó có người khuyết tật. Liên hợp quốc cũng khuyến nghị và yêu cầu các quốc gia phải có nghĩa vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế; nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết quốc tế đã nêu trong các Công ước quốc tế mà quốc gia đã phê chuẩn hoặc tham gia. Và một khi pháp luật quốc gia đã phù hợp với pháp luật quốc tế sẽ trở thành phương tiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật trong phạm vi quốc gia và tranh thủ sự trợ giúp của các nguồn lực quốc tế để đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của người khuyết tật. Tóm lại, có nhiều biện khác nhau mà nhà nước và cộng đồng xã hội có thể sử dụng để bảo đảm quyền của người khuyết tật. Mỗi biện pháp khi thực hiện sẽ đạt được những mục tiêu khác nhau trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật. Song chúng không tồn tại một cách biệt lập, mà giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ, tạo thành một hệ biện pháp nhằm bảo đảm quyền của người khuyết tật một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước – chủ thể chủ động, có nguồn lực lớn nhất và có khả năng bảo đảm quyền của người khuyết tật một cách tốt nhất cần thường xuyên rà soát, hoàn thiện và thực hiện các biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn, đồng thời cần có cơ chế để động viên toàn xã hội tham gia công tác người khuyết tật, vì cuộc sống ngày tốt đẹp của lực lượng xã hội này. 1.2.4. Ý nghĩa bảo vệ quyền của người khuyết tật 1.2.4.1. Đối với người khuyết tật Xã hội ngày càng phát triển, ý thức người dân ngày càng được nâng cao và vấn đề quyền con người nói chung, quyền của người khuyết tật nói riêng ngày càng được coi trọng. Đối với người khuyết tật, việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi tham gia vào các quan hệ lao động càng trở nên cấp thiết.
  • 37. 31 Trước hết, để đảm bảo nhu cầu thu nhập và đời sống của bản thân và gia đình mình, người khuyết tật cần được bảo vệ về quyền lao động. Họ cần tìm được công việc ổn định, thu nhập đảm bảo và cơ hội phát triển nghề nghiệp và trên hết là không bị phân biệt đối xử trong công việc đó. Người khuyết tật khi tham gia quan hệ lao động vốn đã chịu nhiều thiệt thòi hơn so với các lao động bình thường khác, bên cạnh đó trong mối quan hệ với NSDLĐ họ luôn ở vào vị trí yếu hơn, do đó các quyền lợi của họ có nhiều nguy cơ bị xâm phạm khi NSDLĐ lạm dụng vị trí của mình. Người khuyết tật chỉ yên tâm làm việc khi quyền lợi của họ được đảm bảo bởi pháp luật và những người thực thi. Bảo vệ quyền của người khuyết tật cũng chính là bảo vệ nguồn lực lao động cần thiết cho xã hội. Trong Lời nói đầu của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 cũng khẳng định: Thừa nhận rằng người khuyết tật đang và sẽ đóng góp đáng kể cho phúc lợi chung và sự đa dạng của cộng đồng quanh họ, và thừa nhận rằng người khuyết tật càng hưởng trọn vẹn các quyền và tự do cơ bản của con người và càng tham gia hoàn toàn vào xã hội thì họ càng có ý thức gắn bó, điều đó mang lại tiến bộ đáng kể cho sự phát triển xã hội về các mặt kinh tế, xã hội và nhân văn, cũng như cho công cuộc xoá đói giảm nghèo [38]. Thực tế đã chứng minh nhiều trường hợp điển hình về người khuyết tật vươn lên làm chủ vận mệnh của mình: Cậu bé Nobuyuki Tsujii bị mù bẩm sinh nhưng với tài năng của mình, cậu bé đã đưa vinh quang về cho đất nước mặt trời mọc khi liên tiếp giành được các giải thưởng trong các cuộc thi piano quốc tế. Nobuyuki Tsuji được báo chí Nhật Bản ví là “hiện thân của phép màu thượng đế”. Những người khuyết tật vẫn tham gia hoạt động kinh tế - xã hội và họ đã có những đóng góp to lớn cho quá trình phát triển của nhân loại điển hình như nhạc sỹ thiên tài Beethoven bị khiếm thính nhưng vẫn để lại cho đời những tác phẩm âm nhạc tuyệt vời. Giáo sư Stephen Hawking bị khuyết tật mắc bệnh thần kinh khiến ông gần như mất hết khả năng cử động, sau đó ông phải phẫu thuật cắt khí quản và không thể nói chuyện bình thường. Ông phải ngồi xe lăn và chỉ có thể nói được qua một thiết bị tổng hợp
  • 38. 32 gắn với một máy tính mà ông gõ chữ vào đó. Hawking hiện nay đang là Giáo sư Lucasian, chức danh giành cho giáo sư Toán học trường đại học Cambridge, Mỹ [57]. Hay tấm gương nghị lực phi thường chiến thắng số phận nghiệt ngã để trở thành nhà truyền đạo nổi tiếng thế giới của cậu bé không tay, không chân Nick Vucijic đã truyền cảm hứng và động lực phấn đấu cho biết bao mảnh đời bất hạnh giống anh trên khắp hành tinh. Đó là những bằng chứng sống về thành công không giới hạn của những người khuyết tật một khi họ được pháp luật bảo vệ và tạo điều kiện để phát huy hết khả năng tiềm ẩn trong con người. 1.2.4.2. Đối với người sử dụng lao động Tôn trọng và bảo đảm các quyền của người khuyết tật trong quan hệ lao động là nghĩa vụ và trách nhiệm của NSDLĐ. NSDLĐ muốn đạt được mục đích lợi nhuận của mình khi thiết lập quan hệ lao động thì phải đảm bảo được các quyền lợi chính đáng của NLĐ, trong đó có người khuyết tật. Bởi lẽ người khuyết tật chính là một bộ phận không nhỏ nguồn lực lao động trong xã hội. Bản thân họ là những người chịu nhiều thiệt thòi nên nếu có cơ hội và động lực, họ sẽ phấn đấu để đạt được những thành quả to lớn mà không phải người bình thường nào cũng làm được. Một khi quyền của người khuyết tật được bảo vệ họ sẽ cảm thấy gắn bó với công việc, với doanh nghiệp, làm việc với ý thức tự nguyện và tình yêu, sự đam mê công việc. Hệ quả là năng suất lao động được nâng cao, sản phẩm tạo ra có chất lượng và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phát triển không ngừng. Vì vậy,tận dụng được nguồn lực này sẽ giúp ích rất nhiều cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của NSDLĐ [54]. Bên cạnh đó, bảo vệ tốt các quyền của người khuyết tật trong quan hệ lao động đồng nghĩa với việc tiết kiệm các chi phí không cần thiết cho NSDLĐ như chi phí tuyển dụng, đào tạo lao động mới, chi phí khắc phục các hậu quả về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chi phí bồi thường cho người khuyết tật bị xâm hại, chi phí giải quyết tranh chấp lao động, chi phí bị xử lý vi phạm hành chính… Những chi phí này có thể rất lớn. Ngoài ra việc sản xuất cũng có thể bị đình trệ bởi thời gian dành cho việc giải quyết các hậu quả của việc vi phạm quyền lợi của người khuyết tật gây ra. Sản xuất đình trệ sẽ gây thiệt hại về kinh tế cho NSDLĐ.