SlideShare a Scribd company logo
1 of 111
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN XUÂN HÒA
TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK – NĂM 2016
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
công trình nghiên cứu của tôi. Nội dung, số liệu trong Luận văn là chính xác
trung thực, phản ánh tính khách quan trong quá trình nghiên cứu. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Học viện Hành chính quốc gia.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính quốc gia
xem xét cho tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Đắk Lắk, tháng 8 năm 2016
Học viên
Nguyễn Xuân Hòa
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa.
Lời cam đoan.
Mục lục.
MỞ ĐẦU.................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………
2. Tình hình nghiên cứu………………………………………………
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài………………………………………
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu……………………
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
7. Ý nghĩa của luận văn………………………………………………
8. Kết cấu của luận văn………………………………………………
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆNGIÁO DỤC
PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬCỦA TÒA
ÁN……………………………………………………………………...
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án…………………......................................
1.2. Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án…......................................................................................
1.3. Những yếu tố tác động tới tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử của Tòa án..............................................
4
Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN Ở TỈNH ĐẮK
LẮK GIAI ĐOẠN 2012-2016......................................................................
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh văn hóa
– xã hội của tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay có ảnh hưởng tới
giáo dục pháp luật cho người dân trên địa bàn tỉnh…………………....
2.2. Tình hình tổ chức giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án tỉnh Đắk Lắk trong những năm qua (2012 - 2016)…..........
2.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn tổ chức giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án tỉnh Đắk Lắk giai
đoạn 2012-2016……….........................................................................
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬCỦA TÒA ÁN TỈNH ĐẮK
LẮK………………………………………………........................................
3.1. Các quan điểm chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực
hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án...........
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk......................
KẾT LUẬN…………………………………………………………………
Tài liệu tham khảo……………………………………………………
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước ta xác định một trong nhưng
nhiệm vụ chiến lược quan trọng là phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm “nâng cao năng
lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương” [9, tr.247]. Một trong những đặc trưng cơ bản của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là pháp luật phải luôn luôn được đặt ở vị trí
thượng tôn; bất kỳ ai, dù ở cương vị nào cũng đều phải sống và làm việc theo pháp
luật. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với Nhà nước không chỉ là xây dựng và ngày
càng hoàn thiện hệ thống pháp luật, mà nhiệm vụ quan trọng hơn là phải làm sao
đưa pháp luật vào thực thi trong thực tế đời sống xã hội; biến các quy phạm pháp
luật thành nhân tố thường trực trong nhận thức và trở thành phương tiện điều tiết,
điều chỉnh hành vi của mỗi công dân. Con đường ngắn nhất, nhanh nhất để đưa
pháp luật vào thực tế đời sống xã hội chính là đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, trang bị cho họ những kiến thức, hiểu biết
pháp luật.
Trong những năm qua, việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật cho các
nhóm đối tượng xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; tạo được sự chuyển
biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần thực hiện nếp
sống và làm việc theo pháp luật trong cán bộ, nhân dân... Tuy nhiên, có nhiều lúc,
nhiều nơi, công tác này còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, làm theo kiểu hình thức,
đối phó, thiếu tính thường xuyên, liên tục nên hiệu quả không cao; ý thức pháp luật
của một bộ phận đáng kể cán bộ và nhân dân còn chậm được cải thiện, chưa tương
xứng với những thay đổi và phát triển mạnh mẽ của hệ thống pháp luật. Thực tiễn
công tác xét xử trên phạm vi toàn quốc cũng như ở từng địa phương của nước ta
trong những năm qua cũng cho thấy, do những hạn chế, thiếu kiến thức, hiểu biết
6
pháp luật nói chung, nên không ít người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật,
hoặc rơi vào tình trạng tranh chấp các quyền và nghĩa vụ, bị truy cứu trách nhiệm
pháp lý, chịu những tổn thất về thời gian, vật chất và tinh thần.
Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó đề ra mục tiêu xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Để hiện thực hóa mục tiêu đó thì nhất thiết phải nâng cao trình độ kiến thức, hiểu
biết pháp luật cho các tầng lớp xã hội thông qua hoạt động giáo dục pháp luật; trong
đó, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án là một trong những
hình thức giáo dục pháp luật quan trọng và hiệu quả.
Xét xử là chức năng chính của tòa án, có vai trò quyết định đối với việc giữ
gìn, bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, bởi hoạt động xét xử bao giờ cũng gắn với
việc Toà án nhân danh công lý, nhân danh Nhà nước ra một quyết định, một bản án
bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
giáo dục cho công dân có ý thức tuân thủ pháp luật. Toà án có thể thực hiện hoạt
động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung nhất và quan trọng
nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. Giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử đã được ghi nhận trong Luật Tổ chức Toà án nhân dân
năm 2014, theo đó, bằng hoạt động của mình: Toà án giáo dục cho mọi người ý
thức tôn trọng pháp luật, rèn luyện thói quen tuân thủ pháp luật, cần làm cho mọi
người tin rằng bất cứ sự vi phạm pháp luật nào cũng sẽ bị Toà án và xã hội lên án,
giáo dục mọi công dân ý thức tham gia vào hoạt động đấu tranh phòng chống tội
phạm.
Thông qua hoạt động xét xử, các chủ thể tác động đến các bên tham gia tố
tụng, thức tỉnh những cảm giác lầm lỗi và mong muốn được sửa chữa lỗi lầm đó;
tác động đến tất cả những người tham dự phiên toà, làm hình thành ở họ ý thức
pháp luật, chỉ ra cho họ con đường đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm
7
pháp luật, hay các biện pháp để tự bảo vệ quyền các quyền và lợi ích chính đáng
của mình; có thể giúp những người tham gia tố tụng và những người theo dõi phiên
tòa hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định của pháp luật được áp dụng để
giải quyết vụ án. Từ đó họ có thể tự đánh giá về trách nhiệm pháp lý của mình, giúp
hình thành ở họ những cảm xúc về sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, tôn
trọng các đại diện của công lý, giúp họ định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của
pháp luật, giúp định hướng dư luận xã hội, nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng ngừa
riêng và phòng ngừa chung của hoạt động xét xử.
Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, Việt Nam. Tỉnh lỵ
của Đắk Lắk là thành phố Buôn Ma Thuột, nằm cách Hà Nội 1.410 km và
cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km. Tỉnh Đắk Lắk được tái lập vào ngày 26
tháng 11năm 2003, trên cơ sở tách tỉnh Đăk Lăk thành hai tỉnh mới là Đăk
Lăk và Đăk Nông. Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi
dưỡng Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận
là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật nhân loại thế giới công nhận. Đắk Lắk là tỉnh có
truyền thống vẻ vang, rất đáng tự hào về lịch sử, văn hóa cũng như truyền thống
cách mạng; nhân dân trong tỉnh cần cù lao động, điều kiện tự nhiên có nhiều thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát
triển chung của cả nước, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đắk Lắkngày một
tăng, đời sống của nhân dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị
được giữ vững. Tuy nhiên, nhìn chung, sự phát triển của Đắk Lắk vẫn còn chậm so
với nhiều địa phương khác trong cả nước, chưa ngang tầm với những gì mà Đắk
Lắk hiện có. Kinh tế phát triển vẫn chậm, trình độ dân trí giữa các vùng, miền trong
tỉnh không đồng đều, sự nhận thức pháp luật của một bộ phận đáng kể trong nhân
dân còn hạn chế, tình hình vi phạm pháp luật còn nhiều, diễn biến phức tạp với sự
gia tăng cả về số vụ và số lượng người tham gia tố tụng.
Trong những năm qua, hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét
xử được ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk chú trọng tổ chức thực hiện và đạt được những
kết quả nhất định; song vẫn đang còn bộc lộ những hạn chế, bất cập, làm giảm hiệu
8
quả của hoạt động này. Hơn bao giờ hếtviệc tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk phải tiếp tục được đẩy mạnh.
Từ thực tế đó, việc nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp
luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nói chung, ở Đắk Lắk nói riêng, đánh
giá thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra những nét đặc thù của công tác này để trên cơ sở
đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk là một vấn đề có tầm quan
trọng và có tính cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do
tác giả chọn vấn đề “Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những góc độ, phạm vi không giống
nhau về giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật thông qua xét xử của tòa
án, hay tại một địa bàn nói riêng. Có thể kể tới một số công trình tiêu biểu theo các
nhóm sau:
Những công trình nghiên cứu lý luận chung về giáo dục pháp luật
- Nguyễn Đình Lộc (1987), Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật ở
Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Luật học (bảo vệ ở Liên Xô cũ). Đây là một trong số
ít công trình nghiên cứu đầu tiên về giáo dục ý thức pháp luật, trong đó, tác giả phân
tích những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật, như khái niệm, đặc điểm, cấu trúc
của ý thức pháp luật; khảo sát tình hình giáo dục pháp luật ở Việt Nam, chỉ ra
những điểm tích cực, hạn chế của công tác này và đề xuất những giải pháp cho công
tác giáo dục pháp luật tại Việt Nam.
- Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là cuốn sách chuyên khảo đề cập một cách hệ
thống các vấn đề về giáo dục pháp luật trên phương diện lý luận: chủ thể, đối tượng,
nội dung, hình thức giáo dục pháp luật... và nêu lên các biện pháp nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục pháp luật.
9
- Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), Cơ sở
khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đề tài khoa học cấp
Nhà nước, mã số KX-07-17, Hà Nội. Tập thể tác giả đề tài này đã luận chứng tính
cấp thiết của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật ở nước ta trong thời kỳ
đổi mới. Để làm được điều đó thì nhất thiết phải dựa trên những cơ sở khoa học
nhất định.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp
luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. Trong cuốn giáo trình này, các tác giả có
dành một tiết thuộc Chương XVIII- Ý thức pháp luật để viết về vấn đề bồi dưỡng và
giáo dục nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa; theo đó, giáo dục pháp luật là
sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức của
con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để
có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp
luật. Trên cơ sở đó, các tác giả nêu lên các biện pháp giáo dục để nâng cao ý thức
pháp luật của nhân dân.
- Ngọ Văn Nhân (2012), Giáo dục pháp luật hay giáo dục ý thức pháp luật?,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12 (295)/2012. Trong bài báo khoa học này, theo
tác giả, trên diễn đàn khoa học pháp lý, khoa học hành chính từ trước đến nay
thường tồn tại song song hai khái niệm: “giáo dục pháp luật” và “giáo dục ý thức
pháp luật”. Hai khái niệm này có khi được dùng tách rời nhau như hai khái niệm
riêng biệt, có khi lại được sử dụng đi liền nhau theo kiểu “giáo dục pháp luật và
giáo dục ý thức pháp luật”; đồng thời, có sự nhầm lẫn, hoán đổi hoặc đồng nhất nội
hàm của hai khái niệm này. Từ sự so sánh, đối chiếu về mục đích, mục tiêu, chủ thể,
đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật và giáo dục ý thức
pháp luật, tác giả đi đến kết luận rằng, trong khoa học pháp lý cần thống nhất sử
dụng khái niệm “giáo dục pháp luật” làm khái niệm chuẩn; hết sức hạn chế nếu
không nói là không nên sử dụng khái niệm “giáo dục ý thức pháp luật”. Còn khi
muốn nhấn mạnh ý thức pháp luật thì có thể nói “giáo dục pháp luật nhằm nâng cao
ý thức pháp luật” cho một đối tượng hoặc nhóm đối tượng cụ thể.
10
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình nghiên cứu liên quan đến giáo
dục pháp luật nói chung, như: Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1995), Một số
vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vụ Phổ
biến Pháp luật - Bộ Tư pháp (1997), Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai
đoạn hiện nay. Nxb. Thanh niên, Hà Nội; Nguyễn Duy Lãm (chủ biên, 1997), Một
số vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Thanh
niên, Hà Nội; Hồ Quốc Dũng (1997), Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở
nước ta - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học; Hồ Việt Tiệp (2000),
Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, số 9/2000, Hà Nội... Trong các đề tài khoa học, công trình nghiên
cứu, bài báo khoa học kể trên, các tác giả đã phác họa rõ nét một bức tranh về giáo
dục pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật của con người
Việt Nam. Bên cạnh đó, các đề tài, công trình trên cũng đã khái quát lý luận về giáo
dục pháp luật, như mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung, phương pháp và hình thức
giáo dục pháp luật nhằm cung cấp, trang bị những kiến thức pháp luật, nâng cao ý
thức pháp luật cho các tầng lớp xã hội.
Những công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật gắn với một đối tượng
cụ thể và ở một địa bàn nhất định
Chủ đề giáo dục pháp luật cho từng đối tượng cụ thể và tại từng địa bàn cụ
thể cũng được triển khai nghiên cứu tương đối đa dạng, phong phú.
- Khoa Nhà nước và Pháp luật (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
1999), Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta
hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ. Nội dung của đề tài khoa học này phân tích cơ sở
lý luận về giáo dục pháp luật; vai trò, nhiệm vụ của các trường Chính trị tỉnh đối với
công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức tại các địa phương, đánh giá
những kết quả đạt được và những hạn chế; trên cơ sở đó, tập thể tác giả đề xuất các
giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trong hệ thống các
trường Chính trị tỉnh ở nước ta.
11
- Lê Đình Khiên (2002), Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản
lý hành chính ở nước ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Hà Nội. Trên nền
tảng lý luận về ý thức pháp luật (khái niệm, đặc trưng, chủ thể ý thức pháp luật...),
tác giả luận án đề xuất một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán
bộ quản lý hành chính ở nước ta.
- Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức ở
Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội. Luận án này
được hoàn thành tại Học viện Hành chính (Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh), trong đó tác giả luận bàn về giáo dục ý thức pháp luật chứ không
phải giáo dục pháp luật. Mặc dù cũng bàn đến các vấn đề về chủ thể, đối tượng, nội
dung, phương pháp, hình thức giáo dục ý thức pháp luật gắn với đối tượng cán bộ,
công chức; song về thực chất chúng đều dựa trên nền của giáo dục pháp luật.
- Nguyễn Quốc Sửu (2011), Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Trong cuốn sách, tác giả tập
trung phân tích tương đối toàn diện, có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn; làm rõ khái niệm mục đích, mục tiêu của giáo dục
pháp luật; đưa ra các tiêu chí để xác định, phân loại chủ thể, đối tượng, nội dung,
phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính; chỉ
ra những nét đặc thù về chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức
giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính, làm sáng tỏ yêu cầu khách
quan của việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức hành chính, từ đó, đề xuất và luận chứng tính khả thi của các giải pháp nâng
cao chất lượng giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vấn đề giáo dục pháp luật gắn với một đối tượng cụ thể và ở một địa bàn
nhất định cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều luận văn thạc sĩ luật học. Có thể điểm
qua một số luận văn được bảo vệ trong thời gian gần đây:
12
- Bùi Thị Diễm Trang (2010), Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật đối với
đoàn viên, thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tiến trình hội nhập phát
triển của đất nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trong luận văn này, tác giả đã tập trung làm sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về
phổ biến, giáo dục pháp luật và hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; phân tích,
đánh giá đặc điểm và thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn
viên thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội; đề xuất những giải pháp khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn viên
thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội, góp phần thực hiện tốt công tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho thế hệ trẻ trước những yêu cầu phát triển mới của đất nước.
- Nguyễn Thanh Tùng (2011), Giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo ở
tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội. Tác giả tập trung phân
tích một số vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh
Đồng Nai, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo
ở tỉnh Đồng Nai và nguyên nhân của thực trạng đó; trên cơ sở đó, đề xuất phương
hướng, giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào công
giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình luận văn thạc sĩ luật học, như:
Nguyễn Ngọc Hoàng (2000), Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học
chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Trần Văn Trầm
(2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định -
thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Nguyễn Thị Phương
(2008), Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Bến Tre, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Hà Nội... Các luận văn kể trên ở những mức độ khác nhau đã tập trung nghiên cứu
về mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo
dục pháp luật cho các đối tượng cụ thể; đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả
đạt được cũng như các hạn chế của công tác giáo dục pháp luật cho các đối tượng;
phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục pháp luật; từ đó, đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho các đối tượng.
13
Những công trình nghiên cứu trên đều có giá trị tham khảo đối với tác giả
luận văn ở chừng mực các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn; song, điều
quan trọng hơn là vấn đề giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
thì lại không có công trình nào kể trên đề cập đến.
Những công trình liên quan đến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án
Vấn đề giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án cũng đã
được một số tác giả đề cập, phân tích trong các công trình nghiên cứu. Theo sự cập
nhật thông tin của tác giả luận văn này, có thể liệt kê ra đây một vài công trình, bài
viết có liên quan ít nhiều đến chủ đề này:
- Dương Thanh Mai (1996), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp
(bằng thực tiễn của tòa án và luật sư), Luận án Phó tiến sĩ luật học, Hà Nội. Trong
công trình này, từ sự luận bàn những vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật,
như khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức giáo dục pháp luật..., tác giả đi sâu vào
một hình thức giáo dục pháp luật đặc thù - giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
tư pháp, dựa trên thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa với sự tham gia của
Kiểm sát viên giữ quyền công tố, Thẩm phán và Luật sư. Tác giả cho rằng, bản thân
quá trình hoạt động tư pháp đã mang tính chất giáo dục pháp luật. Vấn đề đặt ra là
cần có giải pháp cụ thể để phát huy hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật qua
hoạt động tư pháp.
Điều đó cũng có nghĩa là, ngay tại phiên tòa, hoạt động tranh tụng, thẩm vấn
công khai, xét xử công khai bị cáo tại phiên tòa đã có tác dụng giáo dục pháp luật
đối với bị cáo, giúp bị cáo ít nhiều nhận ra tội lỗi của mình và tác động đến nhận
thức, ý thức pháp luật của những người tham dự phiên tòa. Công trình này có giá trị
tham khảo quý báu đối với tác giả không chỉ về mặt lý luận, mà còn gợi mở những
biện pháp thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án.
- Nguyễn Thị Tĩnh (2013), Giáo dục pháp luật trong hoạt động thu thập
chứng cứ tại Tòa án, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4/2013. Trong bài viết này,
14
tác giả khẳng định rằng, hoạt động thu thập chứng cứ tại Tòa án hàm chứa nhiều
khía cạnh của chức năng giáo dục pháp luật cho đông đảo quần chúng nhân dân.
Chẳng hạn, việc lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, trưng cầu giám định...
là những hoạt động chuyên môn nghiệp vụ nhằm bổ sung các chứng cứ cần thiết
cho việc giải quyết một vụ kiện. Nhìn từ góc độ giáo dục pháp luật, đây là một trong
những hoạt động truyền thụ kiến thức pháp lý. Bài viết chỉ nhìn từ góc độ dân sự và
không đề cập đến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử.
Từ sự tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây, có thể khẳng định rằng, đã có
những nội dung nghiên cứu ở mức độ hạn chế về giáo dục pháp luật thông qua hoạt
động tư pháp của tòa án, tuy nhiên còn thiếu vắng những nghiên cứu có hệ thống và
chuyên biệt về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
tòa án; hơn nữa, đánh giá công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án tỉnh Đắk Lắk thì lại càng chưa có công trình nào đề
cập tới. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề nêu trên làm đề tài luận văn thạc sĩ
luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ sự phân tích cơ sở lý luận về tổ chức
thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, đánh giá thực
trạng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
tại Đắk Lắk, chỉ ra những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế của công tác này để
trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật và tổ chực thực hiện giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, làm rõ khái niệm, đặc trưng, vai
trò của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
15
- Phân tích đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk có ảnh
hưởng đến công tác giáo dục pháp luật của Tòa án; đánh giá thực trạng công tác tổ
chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk, rút ra những bài học kinh nghiệm.
- Nêu lên các quan điểm chỉ đạo và đề xuất, phân tích các giải pháp bảo đảm
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động xét xử của Tòa án.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức
thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh
Đăk Lăk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở việc phân tích lý luận, đánh
giá thực tiễn công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét
xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả
giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
Phạm vi nghiên cứu luận văn cũng được giới hạn theo không gian và thời
gian. Theo không gian, luận văn chỉ khảo sát thực tiễn công tác tổ chức thực hiện
giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk.
Theo thời gian, sự đánh giá chỉ giới hạn trong khoảng thời gian 05 năm (từ
năm 2012 đến năm 2016 (7/2016 ).
16
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là những nguyên lý của triết học Mác - Lênin về
lý luận nhận thức; tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục và giáo dục pháp
luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của giáo dục pháp luật;
chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục pháp luật. Ngoài ra, những quan
điểm lý luận, kết quả nghiên cứu thực tiễn về giáo dục pháp luật của các nhà khoa
học, những tác giả đi trước cũng là tài liệu tham khảo quan trọng của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch
sử và lôgíc, phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa... để nghiên cứu các
vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án; sử
dụng phương pháp thu thập thông tin và phân tích tài liệu có sẵn để thu thập các số
liệu thực tế từ các hoạt động của ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk phục vụ cho việc đánh
giá thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án và luận chứng tính khả thi của các giải pháp mà luận văn đề xuất.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ khái niệm, mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội
dung, phương pháp và hình thức tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án; chỉ ra được vai trò, đặc trưng của công tác giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
- Đánh giá được thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đề xuất được các quan điểm và giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả công
tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo phân tích một cách hệ thống và tương
đối toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
17
thông qua hoạt động xét xử của Tòa án; qua đó, luận văn cung cấp, bổ sung thêm
các căn cứ lý luận và thực tiễn, góp phần làm phong phú và hoàn thiện thêm lý luận
về giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án nói riêng.
Với những kết quả đạt được, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học chuyên
ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; được ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk
sử dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ việc lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của tòa án.
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động xét xử của tòa án ở tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2016.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực
hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
18
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng và thông
qua hoạt động xét xử của Tòa án
1.1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng
Dưới góc độ lý luận, giáo dục pháp luật có phải là một chức năng của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hay không? Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ
chức Toà án nhân dân (2014) quy định: “...Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp
phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống
tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.” [21]. Tại Điều 8 Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân (2014) cũng quy định: “Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình,
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Thi
hành án, .....phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng;
nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.” [20]. Còn khoản 10 Điều 15 Luật Công
an nhân dân (2014) quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của của Công
an nhân dân là: “...thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ an ninh quốc
gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm...” [19].
Một số ý kiến cho rằng bản thân hoạt động tố tụng đã là hoạt động điều chỉnh
ý thức và hành vi của những người tham gia vào các quá trình tố tụng sao cho phù
hợp với các yêu cầu của pháp luật nên các quy định trên được hiểu là sự khẳng định
rằng giáo dục pháp luật như là một kết quả tất yếu của hoạt động tố tụng, chứ
không đặt vấn đề giáo dục pháp luật như một định hướng nội dung, một chức năng
riêng của các chủ thể tiến hành các hoạt động đó. Ví dụ, trong hoạt động xét xử các
19
vụ án của Tòa án, chỉ cần Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật để ra được bản án,
quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối
với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi liên quan trực tiếp đến vụ án đó thì
tự khắc đã tác động giáo dục sâu sắc lên nhận thức, tình cảm và hành vi của họ.
Quan niệm trên có phần đúng dưới góc độ đánh giá khả năng tác động giáo
dục “tự thân” của pháp luật và của thực tiễn thi hành pháp luật, nhưng chưa đủ dưới
góc độ của yêu cầu giáo dục pháp luật nhằm hình thành một cách vững chắc ý thức
pháp luật và lối sống theo pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân. Yêu cầu đó
đòi hỏi những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát
viên...) không chỉ bằng lòng với tác dụng giáo dục của kết quả cuối cùng (bản án,
quyết định hay một hành vi thực hiện pháp luật cụ thể...), mà còn phải biết và phải
có trách nhiệm chủ động khai thác mọi khả năng giáo dục thông qua quá trình tiến
hành hoạt động tố tụng để định hướng và tạo tiền đề tư tưởng thuận lợi cho việc đạt
được kết quả cuối cùng đó. Các yếu tố của ý thức pháp luật như hiểu biết, nhận thức
về các nguyên tắc pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể được áp dụng, cảm
nhận về giá trị xã hội, tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật và của những
người đại diện cho pháp luật, ý thức về bổn phận đạo đức và trách nhiệm pháp lý
của cá nhân rõ ràng là phụ thuộc không chỉ vào kết quả cuối cùng của hoạt động tố
tụng - dù đó là yếu tố rất quan trọng; mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như
cách thức, như thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng, trình độ văn hoá pháp lý của
những người tiến hành tố tụng, môi trường pháp lý nơi diễn ra các hoạt động tố
tụng, mức độ chuẩn bị và tham gia chủ động của chính đối tượng được tác động bởi
hoạt động tố tụng. Đó chính là các yếu tố có ý nghĩa bảo đảm và củng cố hiệu quả
tác động giáo dục “tự thân” của hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, những yếu tố đó chỉ
phát huy tác dụng nếu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tích cực và
hành động có chủ đích để sử dụng chúng với ý thức coi đó là một phương pháp hoạt
động, một chức năng riêng của mình.
Bên cạnh đó, hoạt động tố tụng, đặc biệt là hoạt động xét xử của Toà án luôn
thu hút sự quan tâm, tham gia hoặc theo dõi của công luận, chính vì vậy mà tác
20
động giáo dục của các hoạt động tố tụng thường không giới hạn tại địa điểm diễn ra
hoạt động đó hay trong phạm vi giữa chủ thể và đối tượng trực tiếp của hoạt động
(như giữa các cơ quan tố tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên toà); mà
còn có tác động rộng rãi đến dư luận xã hội, đến những người quan tâm sự kiện
pháp lý đó. Điều này đòi hỏi Toà án phải có định hướng giáo dục và tiến hành việc
tác động giáo dục có chủ đích ngay trong từng giai đoạn tố tụng lên nhận thức, thái
độ và tình cảm của từng đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình xét xử, đồng thời
phải tổ chức việc thông tin công khai, chính thức ở mức độ cần thiết (trong khuôn
khổ luật cho phép) trước và sau phiên toà nhằm tạo tính tích cực pháp luật trong xã
hội, hỗ trợ cho việc tiếp nhận, đánh giá chính xác, khách quan tác động của giáo dục
pháp luật và tác dụng phòng ngừa xã hội của hoạt động xét xử.
Như vậy, yêu cầu khách quan của xã hội và yêu cầu của công tác giáo dục
pháp luật đều đòi hỏi phải mở rộng và nâng cao tác động giáo dục “tự thân” của
hoạt động tố tụng bằng việc định hướng giáo dục pháp luật thành một chức năng
đồng hành với chức năng, nhiệm vụ khác của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy
nhiên cho đến nay, trên thực tế, quan điểm đó vẫn chưa thống nhất; bởi vậy, xây
dựng được một quan điểm chung về chức năng giáo dục pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng là một đòi hỏi có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
Dưới góc độ thực tiễn, chức năng giáo dục pháp luật được thực hiện như thế
nào trong các hoạt động tố tụng? Có quan niệm cho rằng giáo dục pháp luật là chức
năng hỗ trợ cho các chức năng chính của hoạt động tố tụng, do đó hình thức để thực
hiện chức năng giáo dục pháp luật chỉ là định hướng giáo dục trong từng giai đoạn,
từng hoạt động cụ thể nhằm triển khai các chức năng khác. Chẳng hạn, trong hoạt
động tư vấn pháp luật của Luật sư, chức năng giáo dục không thể hiện thành các
nhiệm vụ độc lập cũng dẫn đến tình trạng một số Luật sư chỉ chú trọng thực hiện
các dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng mà không quan tâm đến trách nhiệm giải
thích, giúp cho họ hiểu biết về các vấn đề pháp lý liên quan; thậm chí có một số ít
Luật sư còn cố ý làm cho pháp luật và các quá trình tố tụng trở nên phức tạp hơn để
buộc những khách hàng ít hiểu biết pháp luật phải cậy nhờ, gắn bó lâu dài với mình.
21
Cũng tương tự như vậy, trong hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, do chưa thống
nhất về cách thức thực hiện chức năng giáo dục nên cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Toà án chưa khai thác hết các khả năng tác động giáo dục lên đối tượng trong khi
tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình, làm hạn chế khả năng của các chủ thể
tìm kiếm, sử dụng các hình thức giáo dục pháp luật có tính phổ cập khác để kết hợp
với giáo dục trong hoạt động tố tụng.
Từ thực tế nêu trên, chức năng giáo dục pháp luật của các cơ quan tiến hành
tố tụng phải được thực hiện theo hai phương thức chính: Một là, định hướng và thực
hiện giáo dục pháp luật ngay trong từng hoạt động tố tụng như một nhiệm vụ độc
lập của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với các đối tượng
tham gia vào các hoạt động đó. Hai là, sử dụng kết hợp những hình thức giáo dục
pháp luật khác cùng với hoặc tiếp sau hoạt động tố tụng để hỗ trợ, củng cố và nâng
cao hiệu quả giáo dục trong hoạt động tố tụng ở quy mô rộng lớn hơn và lâu bền
hơn.
Như vậy, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng là việc các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện một cách có tổ chức, có
chủ định việc cung cấp cho các đối tượng những hiểu biết cụ thể về các vấn đề pháp
luật liên quan đến hoạt động tố tụng đang được tiến hành, giúp hình thành ở họ ý
thức trách nhiệm, trạng thái tâm lý, tình cảm pháp luật đúng đắn làm cơ sở cho
hành vi xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật; qua đó, hỗ trợ, củng cố và phát
huy tác dụng của chính hoạt động tố tụng.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
Xét xử, theo cách hiểu của các nhà luật học, là hoạt động xem xét, đánh giá
bản chất pháp lý của vụ việc thực tế đã xảy ra nhằm đưa ra một phán xét đúng đắn
về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc; từ đó, nhân danh Nhà nước đưa ra một
phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ
việc (xét xử vụ án, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính...). Xét xử
cũng được hiểu theo nghĩa là một giai đoạn tố tụng quan trọng được tiến hành dưới
hình thức phiên tòa nhằm xem xét, phán xét, nhân danh Nhà nước đưa ra một phán
22
quyết theo trình tự luật định về vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án. Hoạt động xét
xử của Tòa án gần như là khâu cuối của hoạt động tố tụng, bởi nếu không có kháng
cáo hoặc kháng nghị thì hồ sơ vụ án sẽ được khép lại và phán quyết của Tòa án sẽ
có hiệu lực thực thi trên thực tế.
Chức năng chính của Toà án là thực hiện hoạt động xét xử. Thông qua hoạt
động xét xử nói chung, cùng với việc đưa ra phán quyết, Toà án có thể thực hiện
hoạt động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, như thông qua các hoạt động
xét xử tại tại phiên toà, thông qua hoạt động thông tin, báo chí hoặc các hoạt động
khác (tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại trường học, địa phương...); song, hình
thức tập trung nhất và mang tính đặc thù nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử tại phiên toà.
Thông qua việc giáo dục pháp luật tại một phiên toà xét xử, những người
tham gia vào quá trình tố tụng (đối tượng trực tiếp, đặc biệt là đương sự, bị cáo và
thân nhân của bị cáo) hoặc những người theo dõi phiên toà (đối tượng gián tiếp) có
thể hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định pháp luật được áp dụng để giải
quyết vụ án (cả về luật nội dung và luật tố tụng); từ đó, có thể tự đánh giá về hành
vi và trách nhiệm pháp lý của mình, giúp hình thành ở họ những cảm xúc về sự
công bằng, nghiêm minh của pháp luật, củng cố lòng tin và thái độ tôn trọng pháp
luật, tôn trọng các đại diện của công lý, giúp họ định hướng hành vi phù hợp với
những bản án đúng người, đúng tội, quyết định đúng đắn của Hội đồng xét xử, giúp
định hướng dư luận xã hội, nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng ngừa tội phạm của
hoạt động xét xử cũng như hoạt động giáo dục pháp luật.
Định hướng về việc giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa
án trên thực tế được thực hiện bằng việc Tòa án bảo đảm thực hiện các nguyên tắc,
thủ tục, trình tự tố tụng cơ bản liên quan đến các quy định về hình thức, lễ nghi, trật
tự phiên toà... Trước tiên, đó là việc Toà án bảo đảm nguyên tắc Hiến định: Toà án
xét xử công khai, trừ những trường hợp do luật định, dù có xét xử kín thì Toà án
vẫn phải tuyên án công khai. Dựa trên nguyên tắc xét xử công khai, Thẩm phán chủ
tọa phiên toà phải dự kiến thành phần tham dự phiên toà, trong đó có những người
23
mà tác động giáo dục của việc xét xử sẽ rất cần thiết cho việc nhận thức và định
hướng lại hành động của họ trong tương lai; hoặc mời những cá nhân, tổ chức có
trách nhiệm quản lý, giáo dục bị cáo... Một bản án công bằng, nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đi vào
lòng người nhất, “tâm phục, khẩu phục” nhất.
Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa về giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án như sau: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa
án là việc Toà án trước phiên toà, tại phiên toà hoặc sau phiên toà thực hiện một
cách có tổ chức, có chủ định việc cung cấp, trang bị cho các đối tượng những tri
thức, hiểu biết cụ thể về các vấn đề pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử đang
được tiến hành, giúp hình thành ở đối tượng ý thức trách nhiệm, trạng thái tâm lý,
tình cảm pháp luật đúng đắn, tạo cơ sở cho hành vi xử sự phù hợp với yêu cầu của
pháp luật, qua đó hỗ trợ, củng cố và phát huy tác dụng của chính hoạt động xét xử
của Tòa án.
1.1.2. Đặc trưng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án
Chức năng chính của Toà án là thực hiện hoạt động xét xử các vụ án, mọi
nhiệm vụ khác của Toà án, trong đó có hoạt động giáo dục pháp luật, đều nhằm
thực hiện tốt nhất chức năng xét xử theo luật định. Toà án có thể thực hiện hoạt
động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung và đặc thù nhất vẫn
là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. Hoạt động giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa
án về bản chất là một hình thức giáo dục pháp luật, song lại hàm chứa đầy đủ các
thành tố của hoạt động giáo dục pháp luật. “Đó là dạng hoạt động được thực hiện
thông qua sự tương tác giữa chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng tiếp nhận giáo
dục pháp luật” [33, tr. 125]; là hoạt động có mục đích, có định hướng, có tổ chức, có
kế hoạch, tuân theo những nội dung giáo dục pháp luật cụ thể được chủ thể xây dựng
24
dành riêng cho đối tượng, dựa trên các phương pháp giáo dục và hình thức giáo dục
phù hợp với điều kiện thực tế của hoạt động xét xử.
Trong giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, sự tương tác giữa chủ
thể giáo dục và đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật được thể hiện thông qua hoạt
động truyền đạt của chủ thể giáo dục (phổ biến, thuyết trình, tuyên truyền thông tin,
kiến thức pháp luật) và hoạt động lĩnh hội của đối tượng giáo dục pháp luật (nghe,
tiếp thu các thông tin, kiến thức pháp luật). Hoạt động truyền đạt và hoạt động lĩnh
hội luôn nằm trong mối liên hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau.
Tính có mục đích của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
phản ánh những đòi hỏi tất yếu, khách quan của tinh thần thượng tôn pháp luật, xây
dựng lối sống, làm việc theo pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục đích mà công tác giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động xét xử hướng tới là khắc phục nguyên nhân thiếu hiểu biết pháp luật
dẫn tới hành vi phạm tội; tiếp thu, lĩnh hội những kiến thức, hiểu biết pháp luật cần
thiết để tuân thủ, chấp hành pháp luật, biết sống, làm việc theo pháp luật. Mục đích
đó chỉ có thể đạt được khi mỗi cá nhân chủ động, tự giác chiếm lĩnh những thông
tin, kiến thức pháp luật mà chủ thể cung cấp cho họ, biến việc tiếp thu, lĩnh hội tri
thức pháp luật trở thành nhu cầu nội tại, mục đích tự thân của mỗi người [33,
tr.127].
Tính có tổ chức, có kế hoạch của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt
động xét xử thể hiện sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của chủ thể giáo dục pháp luật
trong việc xác định, lựa chọn những nội dung giáo dục pháp luật thực sự cần thiết,
phù hợp với nhu cầu của các đối tượng; từ đó, tìm ra những phương pháp, h́nh thức
giáo dục pháp luật phù hợp để có thể hiện thực hóa một cách tối ưu mục đích giáo
dục pháp luật cho đối tượng.
Thứ hai, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử có tính tính đa chủ
thể và đa đối tượng. Chủ thể thực hiện công tác giáo dục pháp luật đồng thời là chủ
thể tiến hành hoạt động tố tụng tại phiên tòa. Các chủ thể giáo dục pháp luật trong
một phiên toà trước tiên là những người tiến hành hoạt động xét xử (Thẩm phán,
25
Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên toà...) và những người tham gia tố tụng khác
(Kiểm sát viên, Luật sư...). Các chủ thể này đều có một nhiệm vụ chung là góp phần
vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án làm cơ sở để ban hành được bản án,
quyết định nghiêm minh, đúng người, đúng tội, lỗi, đúng pháp luật, thông qua đó
mà đạt được những mục đích giáo dục pháp luật đã đề ra. Tuy nhiên, các chủ thể
này lại có những phương cách, biện pháp tác động giáo dục rất khác nhau phụ thuộc
vào vai trò và nhiệm vụ tố tụng cụ thể của từng người tại phiên toà. Chẳng hạn,
Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố trong các vụ án nên vai trò giáo dục của
Kiểm sát viên tại phiên toà được thể hiện đặc biệt tập trung qua bản cáo trạng, tranh
luận với người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và kết luận của
Kiểm sát viên sau quá trình tranh luận công khai, bình đẳng. Việc xét hỏi, tranh luận
công khai, khách quan và toàn diện là căn cứ pháp luật để truy tố, buộc tội hoặc
miễn tố một cách xác đáng, bảo đảm không để lọt tội phạm đồng thời không làm
oan người vô tội. Điều này thể hiện rõ mục tiêu giáo dục pháp luật trong hoạt động
công tố không phải là để kết tội, mà là để công lý được thực thi - đó là bài học sâu
sắc về tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
Đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật đồng thời là đối tượng trực tiếp hoặc
gián tiếp của hoạt động xét xử. Hoạt động giáo dục pháp luật tại phiên toà không
chỉ hướng tới những người tham gia tố tụng (bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...) mà còn hướng những
người tham dự, theo dõi phiên toà. Về tổng thể, đối tượng giáo dục pháp luật là
những người có mặt tại phiên toà theo luật định liên quan đến việc giải quyết vụ án
hoặc vì lý do riêng có liên quan đến vụ án. Điểm thuận lợi của công tác giáo dục
pháp luật tại phiên toà là các đối tượng đều có sự quan tâm tới vụ án. Do đó, về cơ
bản, họ sẽ lắng nghe, phân tích, đánh giá các sự kiện, lời nói, hành động của những
người tiến hành xét xử để từ đó rút ra những kết luận, xác định thái độ, tình cảm và
định hướng hành vi riêng của mình đối với vụ án hoặc trong các tình huống tương tự.
Tuy nhiên, các đối tượng này lại rất đa dạng, khác nhau về mọi mặt, từ quyền và nghĩa
26
vụ trong vụ án đến độ tuổi, trình độ học vấn, văn hoá pháp lý, về nhận thức và kinh
nghiệm xã hội, về lợi ích, động cơ, trạng thái tâm lý khi tham dự phiên toà.
Thứ ba, nội dung giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử rất đa dạng
và được thực hiện ở hầu hết các thủ tục tố tụng tại phiên toà. Nội dung giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử rất đa dạng, như những quy pham pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác; Bộ luật Dân sự, Lao động, pháp luật hành chính và các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn thi hành; Bộ luật Tố tụng Dân sự,, Hành chính và các
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành có liên quan...
Nội dung giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử được thể hiện tại
hầu hết các giai đoạn thuộc thủ tục tố tụng tại phiên tòa, bắt đầu từ giai đoạn chuẩn
bị xét xử, giai đoạn bắt đầu phiên toà, giai đoạn xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, giai
đoạn nghị án và công bố bản án, quyết định của Toà án và sau khi tuyên án. Ở tất cả
các giai đoạn đó đều cần phải kết hợp và lồng ghép các nội dung giáo dục pháp luật
phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao của công tác giáo dục pháp luật.
Thứ tư, bên cạnh các phương pháp giáo dục khác, phương pháp giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử chủ yếu là phương pháp kết hợp giữa thuyết
phục và cưỡng chế, giữa diễn giải pháp luật và phân tích thực tiễn thông qua người
thật, việc thật. Do tính đa chủ thể và đa đối tượng giáo dục tại một phiên toà nên
phương pháp giáo dục cũng khá đa dạng phụ thuộc vào vị trí và đặc điểm của từng
chủ thể khi tiếp cận với từng loại đối tượng. Điểm khác biệt so với các hình thức
giáo dục khác (trong nhà trường, qua báo chí...) là ở đây có sự kết hợp giữa phương
pháp thuyết phục, minh chứng (của Kiểm sát viên, Luật sư, giám định viên... trong
quá trình xét hỏi, tranh luận cũng như của Hội đồng xét xử trong phần lập luận của
bản án) với phương pháp cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước khi Hội đồng xét xử
ra bản án, quyết định, thể hiện rõ ràng, dứt khoát thái độ của Nhà nước đối với bị
cáo. Sự kết hợp phương pháp thuyết phục và cưỡng chế được quy định bởi tính giáo
dục và tính cưỡng chế của bản thân pháp luật và là kết quả tất yếu phản ánh nguyên
tắc pháp chế của quá trình áp dụng pháp luật.
27
Thứ năm, hiệu quả của hoạt động xét xử tại phiên tòa đồng thời phản ánh
hiệu quả công tác giáo dục pháp luật tại phiên tòa. Hiệu quả của công tác giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử có thể được đánh giá bằng chính hiệu quả của
hoạt động xét xử; bởi nếu xác định giáo dục pháp luật là một nhiệm vụ của hoạt
động xét xử thì hiệu quả của hoạt động xét xử cũng phản ánh hiệu quả của công tác
giáo dục pháp luật. Mặt khác, hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử cũng được đánh giá qua những hành vi phù hợp với yêu cầu của
pháp luật mà đối tượng sẽ thực hiện trong hoạt động xét xử. Hành vi của đối tượng
giáo dục biểu hiện sự thay đổi, nâng cao một bước nhận thức và tình cảm pháp luật của
người đó dưới tác động của những người tiến hành hoạt động xét xử.
1.1.3. Mục đích của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án
Dưới tác động của những nguyên nhân, điều kiện chủ quan và khách quan
cũng như xuất phát từ mục đích, động cơ nhất định mà có những người dính líu vào
hành vi vi phạm pháp luật, hoặc những tranh chấp. Giai đoạn cuối của quá trình
hoạt động tố tụng là một phiên tòa xét xử được Tòa án mở ra. Cái giá mà những
người vi phạm phải trả cho lỗi lầm của họ là nhận bản án nghiêm khắc do Tòa án
tuyên với trách nhiệm pháp lý (hình sự, dân sự, hành chính) tùy thuộc vào tính chất,
mức độ của từng hành vi vi phạm cụ thể. Theo bản án đã có hiệu lực pháp luật, các
bên phải thi hành bản án dưới sự điều chỉnh của cơ quant hi hành án. Cùng với quá
trình hoạt động xét xử, Tòa án đồng thời thực hiện công tác giáo dục pháp luật,
hướng tới các đối tượng là những người tham dự, theo dõi phiên tòa, các thân nhân
của đương sự, và đặc biệt là bị cáo. Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Toà án nhân dân
(2014) quy định: “...Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân
trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy
tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm
pháp luật khác.” [21].
Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là một trong những nhiệm vụ
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mà Tòa án cần phải thực hiện. Ví dụ như xét xử vụ
28
án: Đối với bị cáo, giáo dục pháp luật tại phiên tòa nhằm giúp cho bị cáo nhận thức
đầy đủ, sâu sắc về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi
phạm tội của bị cáo gây ra, tội danh mà bị cáo phạm phải và hình phạt nghiêm khắc
mà bị cáo phải nhận. Đối với thân nhân của bị cáo, giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử giúp họ hiểu được đầy đủ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội
mà con em, người thân của họ đã phạm phải, nhận thức được tính công bằng,
nghiêm minh của pháp luật; qua đó động viên bị cáo yên tâm tư tưởng, chấp hành
tốt bản án mà Tòa án đã tuyên. Đối với những người tham dự, theo dõi phiên tòa,
giáo dục pháp luật giúp họ có thêm kiến thức, hiểu biết về những nguyên tắc, quy
định của pháp luật nói chung, pháp luật và tố tụng nói riêng...
Như vậy, mục đích của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án là hướng tới cung cấp, trang bị cho đương sự, bị cáo, thân nhân của họ và
những người tham dự, theo dõi phiên tòa những thông tin, kiến thức pháp luật nói
chung, kiến thức pháp luật liên quan đến hành vi vi phạm của họ nói riêng; từ đó,
làm hình thành ở họ tình cảm, niềm tin đối với tính công bằng, nghiêm minh của
pháp luật; tạo thói quen, lối sống, hành vi xử sự tích cực theo pháp luật, giúp bị cáo
nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi vi
phạm của họ gây ra, trách nhiệm pháp lý (những thiệt hại về vật chất, tinh thần) mà
họ phải gánh chịu.
Để đạt được mục đích giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án thì phải cụ thể hóa nó thành những mục đích cụ thể theo những tiêu chí, yêu
cầu đặt ra sao cho phù hợp với từng nhóm đối tượng có liên quan; qua đó, đánh giá
mức độ hoàn thành mục đích giáo dục pháp luật cho đối tượng.
Thông thường, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
phải đạt được ba mục đích nổi trội sau:
Thứ nhất, về nhận thức: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử giúp
cung cấp, trang bị cho các nhóm đối tượng những tri thức, hiểu biết pháp luật nói
chung, pháp luật lĩnh vực được xét xử nói riêng, từ đó hình thành, phát triển ý thức
pháp luật cho công dân. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là quá trình
29
tác động có mục đích, có tổ chức, có chủ định và có kế hoạch của các chủ thể giáo
dục (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Luật sư, Thư ký phiên tòa) đến
các đối tượng giáo dục (những người tham gia tố tụng và những người tham gia,
theo dõi phiên tòa). Giáo dục pháp luật sẽ không ngừng nâng cao hiểu biết pháp luật
cho đối tượng được giáo dục. Đây là mục tiêu quan trọng của công tác giáo dục
pháp luật bởi vì sự am hiểu và nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều
chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào
pháp luật của mỗi công dân. Mặt khác tri thức pháp luật còn giúp cho con người tổ
chức một cách có ý thức hành vi của mình và đánh giá hành vi của mình trong sự
đối chiếu với các chuẩn mực pháp luật để có thể chủ động, tự tin thực hiện những
hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
Thứ hai, về thái độ: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử phải
nhắm tới mục tiêu về thái độ, tức là phải làm hình thành, củng cố cho các đối tượng
tình cảm, niềm tin đối với pháp luật. Đây là một trong những mục tiêu rất quan
trọng của công tác giáo dục pháp luật thông quahoạt động xét xử, bởi nếu có tri thức
pháp luật mà không có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng như vào
các cơ quan bảo vệ pháp luật thì con người rất dễ sai lệch chuẩn mực pháp luật vì
mục đích tư lợi. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử nhằm hình thành ở
các đối tượng ý thức pháp luật, trạng thái xúc cảm, tình cảm pháp luật đúng đắn làm
cơ sở cho hành vi ứng xử phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
Thứ ba, về hành vi: Từ việc cung cấp, trang bị thông tin, kiến thức pháp luật,
làm hình thành, củng cố ở các đối tượng tình cảm, niềm tin đối với pháp luật, giáo
dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử còn có mục tiêu về hành vi, nghĩa là phải
làm hình thành cho các đối tượng ý thức tự giác chấp hành pháp luật và hành vi xử
sự tích cực theo các yêu cầu của pháp luật. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
xét xử giúp cho những người tham gia tố tụng và những người tham dự, theo dõi
phiên tòa hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định của pháp luật nội dung và
pháp luật tố tụng tương ứng được áp dụng để giải quyết vụ án. Từ đó, giúp họ định
hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Động cơ, hành vi và thói quen xử
30
sự hợp pháp là kết quả của quá trình nhận thức pháp luật, tuân thủ và áp dụng các
quy phạm pháp luật vào thực tiễn đời sống.
1.1.4. Vai trò của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án
Công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án có vai
trò rất quan trọng đối với cả những người tham dự, theo dõi phiên tòa và đặc biệt là
đối với đương sự, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ lien quan.
Đối với những người tham dự, theo dõi phiên tòa
Thứ nhất, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử tại phiên toà giúp
cho những người tham dự hoặc theo dõi phiên toà hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về
những quy định pháp luật được áp dụng vào việc giải quyết vụ án. Giáo dục pháp
luật thông qua phiên toà xét xử giúp những người tham gia tố tụng (nguyên đơn, bị
đơn, bị cáo, người bị hại...), những người tham dự phiên toà nói riêng, những người
dân quan tâm tới phiên tòa nói chung tự đánh giá về hành động, trách nhiệm pháp lý
của mình. Hoạt động này cũng giúp hình thành ở họ ý thức về sự công bằng,
nghiêm minh của pháp luật, củng cố lòng tin và thái độ tôn trọng pháp luật; giúp họ
định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật (cụ thể là phù hợp với những
bản án, quyết định đúng đắn của Hội đồng xét xử); giúp định hướng dư luận xã hội,
nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng ngừa đối với các hành vi vi phạm pháp luật nói
chung, tội phạm nói riêng. Một bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật là mục đích của hoạt động xét xử, còn mục đích của giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử là tạo nên một trạng thái tâm lý pháp luật mới, cao hơn
trong ý thức pháp luật của những người trực tiếp hoặc gián tiếp quan tâm, theo dõi
phiên toà.
Thứ hai, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử góp phần củng cố,
nâng cao ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, tự giác và chủ động thực hiện hành
vi pháp luật hợp pháp cho nhân dân. Ý thức của mỗi người dân trong việc tự giác
chấp hành pháp luật, biết sống và làm việc theo pháp luật chỉ có thể được củng cố
và nâng cao thông qua hoạt động giáo dục pháp luật dành cho họ. Từ chỗ được cung
cấp, trang bị thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết, có thái độ phản ứng tích cực
31
trước các yêu cầu pháp luật và có niềm tin đối với pháp luật, ý thức tự giác chấp
hành pháp luật của mỗi dân sẽ từng bước được nâng cao. Trên cơ sở ý thức pháp
luật cá nhân được hình thành, củng cố qua quá trình tham dự công tác giáo dục pháp
luật tại phiên tòa, mỗi cá nhân tham dự, theo dõi phiên tòa sẽ biết vận dụng các quy
định pháp luật tiếp thu được để đối chiếu, đánh giá hành vi của bản thân và của
những người khác; từ đó, biết cách tự giác, chủ động lựa chọn thực hiện những
hành vi phù hợp với quy định pháp luật, biết khước từ cũng như khuyến cáo người
khác không vi phạm pháp luật; biết đồng tình, ủng hộ cái đúng, những hành vi, việc
làm hợp pháp và biết phê phán cái sai, lên án những hành vi bất hợp pháp.
Để có thể củng cố, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tự giác và chủ động
thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp cho nhân dân thì trong công tác giáo dục pháp
luật thông qua hoạt động xét xử, chủ thể giáo dục pháp luật cần chú trọng lồng ghép
việc giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm và tình cảm không khoan
nhượng với các hành vi phạm pháp, phạm tội. Đó đều là những nhân tố thuộc về
niềm tin đối với pháp luật, là động lực nội tâm thúc đẩy mỗi cá nhân thực hiện hành
vi pháp luật hợp pháp.
Đối với bị cáo (trong phiên tòa xét xử): Giáo dục pháp luật thông qua hoạt
động xét xử giúp cho bị cáo nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tính chất, mức độ và
hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Nhiều cá nhân, khi thực hiện
một hành vi phạm tội, đã không biết rằng đó là hành vi phạm tội được quy định
trong Bộ luật, không hình dung được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi và không lường được hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu. Nguyên nhân
của tình trạng đó là do họ thiếu nền tảng học vấn, hiểu biết xã hội, đặc biệt là thiếu
kiến thức, hiểu biết pháp luật. “Về nguyên tắc, người thực hiện hành vi phạm tội thì
phải chịu hình phạt, hình phạt là hệ quả của việc họ đã thực hiện hành vi gây nguy
hại cho xã hội và theo quy định của pháp luật họ phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý bất lợi đó là hình phạt” [14, tr. 40]. Trong quá trình xét xử, bị cáo đã dần
dần nắm bắt được tính chất, mức độ, hậu quả nguy hại mà hành vi của mình đã gây
ra cho xã hội nói chung, cho người bị hại/nạn nhân nói riêng. Tuy nhiên, mỗi hành
32
vi phạm tội lại có những đặc điểm riêng về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả
gây ra cho xã hội, về phương thức, thủ đoạn phạm tội, tính chất, mức độ lỗi, điều
kiện, hoàn cảnh xảy ra tội phạm; ngoài ra, các đặc điểm về nhân thân của các bị cáo
cũng khác nhau, như tiền án, tiền sự, giới tính, độ tuổi, học vấn, thể chất, bệnh tật...
Tất cả những đặc điểm đó khiến bị không thể ngay lập tức nhận thức đầy đủ về tội
lỗi của mình...
Giáo dục pháp luật có vai trò cung cấp, trang bị những thông tin, kiến thức
pháp luật cần thiết cho bị cáo; giúp chuẩn bị tâm lý, tư tưởng, kiến thức pháp luật
để bị cáo yên tâm học tập, cải tạo trong quá trình chấp hành án phạt tù tại trại
giam. Trên thực tế, không ai muốn mình trở thành người phạm tội, bị tòa tuyên án;
song, dù lỗi cố ý hay vô ý, một khi đã phải ra đứng trước vành móng ngựa, bị cáo
cần phải được biết mình phạm tội gì, căn cứ theo những quy định pháp luật nào, có
các quyền và nghĩa vụ gì, được hưởng chính sách nhân đạo nào dành cho bị cáo
theo quy định của pháp luật... Hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét
xử chính là phương thức truyền đạt, chuyển giao những thông tin, nội dung pháp
luật nói chung, pháp luật và tố tụng nói riêng cho bị cáo, giúp họ tiếp thu, nắm bắt
các quy định pháp luật một cách nhanh chóng, kịp thời. Giáo dục pháp luật tại phiên
tòa là phương thức hỗ trợ tích cực, là con đường nhanh chóng và hiệu quả nhất để
trang bị thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết cho bị cáo.
Khi đã giúp bị cáo có niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp
luật thì họ sẽ tự biết ăn năn, hối cải, tự nhận thức được tội lỗi của mình, hối hận vì
đã thực hiện hành vi phạm tội. Đó cũng là sự chuẩn bị cần thiết về tâm lý, tư tưởng,
hành trang kiến thức pháp luật để bị cáo biết tự uốn nắn, chỉnh sửa những suy nghĩ,
tư tưởng lệch lạc, tự xác định được động cơ, mục tiêu phấn đấu trong thời gian chấp
hành án phạt tù trong trại giam (nếu bị kết án phạt tù) mà không cần tới sự tác động
cưỡng bức hay tâm lý từ phía cán bộ trại giam sau này.
Đối với đương sự trong vụ án dân sự (gồm dân sự, kinh tế, lao động, hôn
nhân gia đình): Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự thì đương sự là chủ thể
không thể thiếu. Theo quy định tại khoản 1, Điều 56 BLTTDS 2004: “Đương sự
33
trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Như vậy các đương sự trong vụ án dân sự khá
phong phú đa dạng bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng
độc lập. Vụ án dân sự là những việc phát sinh tại Tòa án do các đương sự khởi kiện
để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích công cộng, lợi
ích nhà nước hay quyền, lợi ích hợp pháp của người khác đang bị tranh chấp. Trong
các vụ án dân sự có một số người tham gia tố tụng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án dân sự tham gia với mục đích là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Trong một số trường hợp tuy họ không có quyền lợi ích liên quan đến vụ án dân sự
nhưng lại tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước trong
lĩnh vực được tham gia phụ trách. Họ có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức (có tư
cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân).
Khi tham gia phiên tòa, các đương sự được phổ biến, giải thích về Quyền và
nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự, cùng với sự
trợ giúp của bên hỗ trợ pháp lý, người đại diện theo ủy quyền, sẽ giúp các đương sự
hiểu rõ hơn quy định pháp luật, từ đó nâng cao ý thức pháp luật cho bản thân.
1.2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
1.2.1. Khái niệm về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt
độ ng xét xử của Tòa án
Để các vụ án được xét xử một cách khách quan toàn diện, triệt để thể hiện
sự nghiêm minh của pháp luật hướng tới mục đích giáo dục ý thức pháp luật, tuyên
truyền phổ biến pháp luật đến các đối tượng là những người tham gia tố tụng: bị
cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn, người làm chứng….và những người tham dự
theo dõi phiên tòa trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua phương tiện truyền thông thì
việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch xét xử đối từng vụ án cụ thể là
hết sức quan trọng.
34
Việc xây dựng kế hoạch xét xử đối với các vụ án sẽ giúp Tòa án sắp xếp, bố
trí, sử dụng nguồn lực một cách khoa học nhất đem lại hiệu quả của việc xét xử cao
nhât. Ví dụ: Khi đưa một vụ án ra xét xử công khai Tòa án phải lên lịch xét xử
trước 10 ngày kể từ ngày bắt đầu phiên tòa, lịch xét xử được thông báo công khai để
các đương sự và những người tham gia tố tụng được biết, nếu là vụ án đưa đi xét xử
lưu đông thì lịch xét xử đối với vụ án được giao cho chính quyền đia phương nơi
xét xử vụ an thông báo công khai để nhân dân biết tham dự phiên tòa. Đồng thời
Tòa án cũng phải xây dựng kế hoạch về lực lượng bảo vệ phiên tòa, đảm bảo sự có
mặt của những người tiến hành tố tụng, sự có mặt của những người tham gia tố
tụng, đề cương xét hỏi, tranh tụng và những nội dụng cần tuyên truyên phổ biên tại
phiên tòa, dự kiến mức hình phạt để đưa ra thảo luận trong hội đồng xét xử…Một
vụ án được xét xử công khai, nghiêm minh, thấu tình, đạt lý, đúng trình tự thủ tục
theo quy định, đảm bảo áp dụng đầy đủ các căn cứ pháp lý được đại đa số mọi
người đồng tình là cách tuyên truyền giáo dục pháp luật hiệu quả nhất đối với
những chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử của tòa án như sau: tổ chức thực hiện giáo dục pháp
luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án là hoạt động có mục đích của chủ thể
trong việc xây dựng kế hoạch, xắp xếp, bố trí và sử dụng các nguồn lực nhằm thực
hiện mục tiêu thông qua hoạt động xét xử cung cấp, trang bị cho các đối tượng
những tri thức, hiểu biết cụ thể về các vấn đề pháp luật liên quan đến hoạt động xét
xử đang được tiến hành, giúp hình thành ở đối tượng ý thức trách nhiệm, trạng thái
tâm lý, tình cảm pháp luật đúng đắn, tạo cơ sở cho hành vi xử sự phù hợp với yêu
cầu của pháp luật, qua đó hỗ trợ, củng cố và phát huy tác dụng của chính hoạt
động xét xử của Tòa án.
35
1.2.2. Chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét
xử của Tòa án
1.2.2.1. Chủ thể giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
Xác định chủ thể tham gia giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án là vấn đề quan trọng. Loại chủ thể này có thể là thành phần đương nhiên của
của phiên tòa với tư cách là người tiến hành tố tụng (ví dụ như: thẩm phán, thư ký
phiên tòa, kiểm sát viên, hội thẩm nhân dân), cũng có thể không là thành phần
đương nhiên (như người bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo, bị đơn). Tùy từng tư cách
tham gia phiên tòa mà họ thể hiện khả năng giáo dục pháp luật không giống nhau.
Chủ thể tham gia hoạt động giáo dục là tất cả những người mà theo chức
năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội của mình tham gia vào việc thực hiện mục
đích, mục tiêu của giáo dục pháp luật [33, tr.149]. Vận dụng vào công tác giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, có thể hiểu: Chủ thể giáo dục
pháp luật thông qua hoạt động xét xử là tất cả những người mà theo chức năng,
nhiệm vụ phải tham gia vào việc hiện thực hóa mục đích, mục tiêu giáo dục pháp
luật khi tiến hành hoạt động xét xử vụ án.
Chủ thể của hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử về cơ
bản là những chủ thể không chuyên nghiệp. Các chủ thể này tuy không có chức
năng chính là giáo dục pháp luật nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là bằng hoặc
thông qua hoạt động xét xử để hiện thực hóa mục đích, mục tiêu của giáo dục pháp
luật. Tuy là các chủ thể không chuyên nghiệp nhưng với vị thế, uy tín nghề nghiệp
và trình độ ý thức pháp luật cao, chủ thể của hoạt động giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử lại đóng vai trò trực tiếp trong việc hướng dẫn, phổ biến chính
sách pháp luật tới các đối tượng xã hội khi tiến hành hoạt động xét xử.
Chủ thể giáo dục pháp luật tại phiên tòa trước hết là các Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Kiểm sát viên giữ quyền công tố, Thư ký phiên tòa, Luật sư... Tuy
các chủ thể này có những biện pháp, cách thức tác động khác nhau để giáo dục pháp
luật cho các đối tượng, nhưng đều hướng tới việc hoàn thành nhiệm vụ xét xử và
đạt được mục đích, mục tiêu giáo dục pháp luật.
36
- Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (Hội đồng xét xử) là những người đóng vai
trò quan trọng trong việc xem xét, giải quyết vụ án. Hoạt động của họ tại phiên tòa
không chỉ có ý nghĩa quyết định đến kết quả của hoạt động xét xử, mà còn ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả của giáo dục pháp luật. Hội đồng xét xử dưới sự điều khiển
của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm định hướng hoạt động giáo dục
pháp luật, tạo điều kiện và thiết lập nên mối liên kết giữa chủ thể giáo dục pháp luật
và các đối tượng được giáo dục pháp luật. Thái độ, lời nói, cử chỉ và các quyết định
của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án phải thể hiện
tính tôn nghiêm của pháp luật, sự công tâm, khách quan, công bằng, đúng mực...
Đây là yếu tố quan trọng giúp các đối tượng nhận thức được bản chất tốt đẹp của
nền tư pháp Việt Nam. Hội đồng xét xử cần chủ động hướng dẫn, giải thích pháp
luật, chỉ rõ phạm vi, quyền hạn và trách nhiệm của các đối tượng liên quan đến vụ
án, từ đó giúp các đối tượng nhận thức được đúng đắn vị trí, vai trò của mình trong
vụ án. Từ chỗ các đối tượng thụ động chờ phán quyết của Tòa án, sau khi được Hội
đồng xét xử hướng dẫn về các quy định của pháp luật, họ có thể chủ động tìm ra
những phương thức phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong khuôn khổ
pháp luật. Hiệu quả giáo dục pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn
được thể hiện rõ nét qua tính đúng đắn, hợp tình, hợp lý trong các bản án, quyết
định của Tòa án. Toàn bộ ý thức pháp luật của chủ thể giáo dục pháp luật và đối
tượng chịu sự tác động của giáo dục pháp luật đều được phản ánh qua bản án, quyết
định của Tòa án. Đến lượt mình, bản án, quyết định của Tòa án được ban hành lại
tác động trở lại lên ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia phiên tòa và các đối
tượng được giáo dục pháp luật tại phiên tòa.
- Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên, Luật sư thực hiện một số nhiệm vụ tại
phiên tòa theo quy định của pháp luật, trong đó có nhiệm vụ giáo dục pháp luật. Vai
trò giáo dục pháp luật của Thư ký phiên tòa thể hiện trong việc phổ biến cho các bị
cáo, đương sự và những người tham dự, theo dõi phiên tòa về nội quy phiên tòa,
quyền hạn và trách nhiệm của họ tại phiên tòa, kiểm tra căn cước của những người
được Tòa án triệu tập... Thông qua việc tiếp xúc và hướng dẫn những người tham
37
dự phiên tòa, Thư ký phiên tòa đóng vai trò là cầu nối giữa những người tham dự
phiêm tòa và những người tiến hành tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Thư ký phiên tòa cũng có thể hướng dẫn cho các đương sự về những vấn đề họ còn
thắc mắc, chưa rõ về thủ tục liên quan đến quá trình giải quyết vụ án. Bằng hoạt
động của mình, Thư ký phiên tòa là một trong những chủ thể có vai trò quan trọng,
tích cực trong việc giáo dục pháp luật tại phiên tòa.
- Vai trò giáo dục pháp luật của Kiểm sát viên giữ quyền công tố phiên tòa
thể hiện tập trung nhất qua Bản cáo trạng và kết luận của Kiểm sát viên sau quá
trình tranh luận tại phiên tòa. Việc phân tích vụ án một cách khách quan, toàn diện,
công khai, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội đã thể hiện rõ hoạt động của Kiểm
sát viên không chỉ gồm thực thi công lý, bảo vệ tính tôn nghiêm của pháp luật, mà
còn là bao gồm việc tuyên truyền, giáo dục cho các đối tượng tại phiên tòa hiểu
được tính nghiêm minh, công bằng, nhân đạo của pháp luật. Kiểm sát viên thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm đảm
bảo việc giải quyết vụ án kịp thời, đúng pháp luật. Thông qua hoạt động của mình
tại các phiên tòa, Kiểm sát viên đã tác động tới nhận thức, tình cảm, lý trí của những
người người tham dự phiên tòa.
- Luật sư tham gia phiên tòa là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, bị cáo
hoặc là người đại diện cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong quá
trình tiếp xúc, trao đổi với bị cáo và các bên đương sự, Luật sư thực hiện việc đại
diện và bảo vệ quyền lợi cho họ, đồng thời thực hiện việc giáo dục pháp luật cho
các bên bằng việc hướng dẫn, giải thích cho họ về các quy định pháp luật liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của họ trong vụ án; truyền đạt đầy đủ và giải thích cặn kẽ
các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án của các cơ quan chức
năng, các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ việc mà họ đại diện. Tuy không
đóng vai trò trực tiếp tiến hành các trình tự, thủ tục tố tụng nhưng với chức năng,
nhiệm vụ của mình, Luật sư là chủ thể bổ trợ tư pháp quan trọng không chỉ cho cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà cả trong công tác giáo dục pháp
luật thông qua hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
38
1.2.2.2. Đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
Đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là những người
chịu sự tác động của hoạt động giáo dục pháp luật, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
vào giáo dục pháp luật để tiếp thu, lĩnh hội những thông tin, kiến thức pháp luật
xuất phát từ nhu cầu hoặc yêu cầu hình thành, tích lũy, củng cố hay nâng cao vốn
kiến thức, hiểu biết pháp luật của bản thân nhằm đáp ứng những đòi hỏi nhất định
của thực tiễn cuộc sống. Đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét
xử gồm đối tượng gián tiếp và đối tượng trực tiếp.
Đối tượng gián tiếp bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức nhà nước - lực
lượng quan trọng đang trực tiếp thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà
nước các cấp, các ngành; học sinh, sinh viên - lớp công dân trẻ, là lực lượng lao
động chính và là những người chủ tương lai của đất nước; các chủ doanh nghiệp,
người quản lý, cán bộ công đoàn ở các doanh nghiệp - những người có vai trò quan
trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần vào sự phát triển kinh tế của
đất nước, thực hiện thành công đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta;
các tầng lớp nhân dân - lực lượng đông đảo, chiếm số lượng lớn trong xã hội, thuộc
nhiều tầng lớp, nhiều thành phần, các ngành nghề các dân tộc khác nhau trong các
cộng đồng dân cư. Mặc dù các đối tượng trên không tham dự phiên tòa, song kết
quả của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử thông qua những
kênh thông tin khác nhau đến với các đối tượng kể trên, gián tiếp tác động tới thái
độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật của họ theo hướng tích cực, góp phần nâng
cao ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, chủ động tham gia phòng chống tội
phạm.
Đối tượng trực tiếp của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là
những cá nhân, đại diện các cơ quan, tổ chức tiếp nhận trực tiếp hoặc gián tiếp các
nội dung của hoạt động giáo dục pháp luật do các chủ thể giáo dục tiến hành nhằm
đạt được các mục đích đặt ra. Đối tượng trực tiếp của giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau.
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (14)

Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOTLuận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
 
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
 
Đề tài: Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, HAYĐề tài: Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên
Luận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái NguyênLuận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên
Luận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên
 
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt NamLuận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
 
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOTPháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
 
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng BìnhĐề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đPhổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
Luận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giamLuận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
Luận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
 
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia LaiTổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
 
Luận văn: Tuyên truyền phổ biến pháp luật tại huyện Sơn Tây, HAY
Luận văn: Tuyên truyền phổ biến pháp luật tại huyện Sơn Tây, HAYLuận văn: Tuyên truyền phổ biến pháp luật tại huyện Sơn Tây, HAY
Luận văn: Tuyên truyền phổ biến pháp luật tại huyện Sơn Tây, HAY
 
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luậtĐề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
 
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt NamLuận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
 

Similar to Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY

Similar to Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY (20)

Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk LắkĐề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAYLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong hoạt động xét xử, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật trong hoạt động xét xử, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong hoạt động xét xử, HAY
 
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY
Luận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAYLuận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY
Luận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức tỉnh Gia Lai
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức tỉnh Gia LaiLuận văn: Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức tỉnh Gia Lai
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức tỉnh Gia Lai
 
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư phápXây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Ninh Thuận
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Ninh ThuậnLuận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Ninh Thuận
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Ninh Thuận
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú ThọLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰVAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
 
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAYLuận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
 
Tiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luật
Tiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luậtTiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luật
Tiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luật
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn TâyTuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
 
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOTLuận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
 
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt NamVai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 

Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, HAY

  • 1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN XUÂN HÒA TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK – NĂM 2016
  • 2. 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan các nội dung được trình bày trong Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi. Nội dung, số liệu trong Luận văn là chính xác trung thực, phản ánh tính khách quan trong quá trình nghiên cứu. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính quốc gia. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính quốc gia xem xét cho tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn Đắk Lắk, tháng 8 năm 2016 Học viên Nguyễn Xuân Hòa
  • 3. 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa. Lời cam đoan. Mục lục. MỞ ĐẦU................................................................................................. 1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………… 2. Tình hình nghiên cứu……………………………………………… 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài……………………………………… 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………… 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu…………………… 6. Những đóng góp khoa học của luận văn 7. Ý nghĩa của luận văn……………………………………………… 8. Kết cấu của luận văn……………………………………………… Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆNGIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬCỦA TÒA ÁN……………………………………………………………………... 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án…………………...................................... 1.2. Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án…...................................................................................... 1.3. Những yếu tố tác động tới tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án..............................................
  • 4. 4 Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN Ở TỈNH ĐẮK LẮK GIAI ĐOẠN 2012-2016...................................................................... 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh văn hóa – xã hội của tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay có ảnh hưởng tới giáo dục pháp luật cho người dân trên địa bàn tỉnh………………….... 2.2. Tình hình tổ chức giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án tỉnh Đắk Lắk trong những năm qua (2012 - 2016)….......... 2.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn tổ chức giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2016………......................................................................... Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬCỦA TÒA ÁN TỈNH ĐẮK LẮK………………………………………………........................................ 3.1. Các quan điểm chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án........... 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk...................... KẾT LUẬN………………………………………………………………… Tài liệu tham khảo……………………………………………………
  • 5. 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước ta xác định một trong nhưng nhiệm vụ chiến lược quan trọng là phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương” [9, tr.247]. Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là pháp luật phải luôn luôn được đặt ở vị trí thượng tôn; bất kỳ ai, dù ở cương vị nào cũng đều phải sống và làm việc theo pháp luật. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với Nhà nước không chỉ là xây dựng và ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật, mà nhiệm vụ quan trọng hơn là phải làm sao đưa pháp luật vào thực thi trong thực tế đời sống xã hội; biến các quy phạm pháp luật thành nhân tố thường trực trong nhận thức và trở thành phương tiện điều tiết, điều chỉnh hành vi của mỗi công dân. Con đường ngắn nhất, nhanh nhất để đưa pháp luật vào thực tế đời sống xã hội chính là đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, trang bị cho họ những kiến thức, hiểu biết pháp luật. Trong những năm qua, việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật cho các nhóm đối tượng xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần thực hiện nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cán bộ, nhân dân... Tuy nhiên, có nhiều lúc, nhiều nơi, công tác này còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, làm theo kiểu hình thức, đối phó, thiếu tính thường xuyên, liên tục nên hiệu quả không cao; ý thức pháp luật của một bộ phận đáng kể cán bộ và nhân dân còn chậm được cải thiện, chưa tương xứng với những thay đổi và phát triển mạnh mẽ của hệ thống pháp luật. Thực tiễn công tác xét xử trên phạm vi toàn quốc cũng như ở từng địa phương của nước ta trong những năm qua cũng cho thấy, do những hạn chế, thiếu kiến thức, hiểu biết
  • 6. 6 pháp luật nói chung, nên không ít người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hoặc rơi vào tình trạng tranh chấp các quyền và nghĩa vụ, bị truy cứu trách nhiệm pháp lý, chịu những tổn thất về thời gian, vật chất và tinh thần. Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó đề ra mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Để hiện thực hóa mục tiêu đó thì nhất thiết phải nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật cho các tầng lớp xã hội thông qua hoạt động giáo dục pháp luật; trong đó, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án là một trong những hình thức giáo dục pháp luật quan trọng và hiệu quả. Xét xử là chức năng chính của tòa án, có vai trò quyết định đối với việc giữ gìn, bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, bởi hoạt động xét xử bao giờ cũng gắn với việc Toà án nhân danh công lý, nhân danh Nhà nước ra một quyết định, một bản án bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; giáo dục cho công dân có ý thức tuân thủ pháp luật. Toà án có thể thực hiện hoạt động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung nhất và quan trọng nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử đã được ghi nhận trong Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, theo đó, bằng hoạt động của mình: Toà án giáo dục cho mọi người ý thức tôn trọng pháp luật, rèn luyện thói quen tuân thủ pháp luật, cần làm cho mọi người tin rằng bất cứ sự vi phạm pháp luật nào cũng sẽ bị Toà án và xã hội lên án, giáo dục mọi công dân ý thức tham gia vào hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm. Thông qua hoạt động xét xử, các chủ thể tác động đến các bên tham gia tố tụng, thức tỉnh những cảm giác lầm lỗi và mong muốn được sửa chữa lỗi lầm đó; tác động đến tất cả những người tham dự phiên toà, làm hình thành ở họ ý thức pháp luật, chỉ ra cho họ con đường đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm
  • 7. 7 pháp luật, hay các biện pháp để tự bảo vệ quyền các quyền và lợi ích chính đáng của mình; có thể giúp những người tham gia tố tụng và những người theo dõi phiên tòa hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định của pháp luật được áp dụng để giải quyết vụ án. Từ đó họ có thể tự đánh giá về trách nhiệm pháp lý của mình, giúp hình thành ở họ những cảm xúc về sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, tôn trọng các đại diện của công lý, giúp họ định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật, giúp định hướng dư luận xã hội, nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hoạt động xét xử. Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, Việt Nam. Tỉnh lỵ của Đắk Lắk là thành phố Buôn Ma Thuột, nằm cách Hà Nội 1.410 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km. Tỉnh Đắk Lắk được tái lập vào ngày 26 tháng 11năm 2003, trên cơ sở tách tỉnh Đăk Lăk thành hai tỉnh mới là Đăk Lăk và Đăk Nông. Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi dưỡng Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật nhân loại thế giới công nhận. Đắk Lắk là tỉnh có truyền thống vẻ vang, rất đáng tự hào về lịch sử, văn hóa cũng như truyền thống cách mạng; nhân dân trong tỉnh cần cù lao động, điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đắk Lắkngày một tăng, đời sống của nhân dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị được giữ vững. Tuy nhiên, nhìn chung, sự phát triển của Đắk Lắk vẫn còn chậm so với nhiều địa phương khác trong cả nước, chưa ngang tầm với những gì mà Đắk Lắk hiện có. Kinh tế phát triển vẫn chậm, trình độ dân trí giữa các vùng, miền trong tỉnh không đồng đều, sự nhận thức pháp luật của một bộ phận đáng kể trong nhân dân còn hạn chế, tình hình vi phạm pháp luật còn nhiều, diễn biến phức tạp với sự gia tăng cả về số vụ và số lượng người tham gia tố tụng. Trong những năm qua, hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử được ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk chú trọng tổ chức thực hiện và đạt được những kết quả nhất định; song vẫn đang còn bộc lộ những hạn chế, bất cập, làm giảm hiệu
  • 8. 8 quả của hoạt động này. Hơn bao giờ hếtviệc tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk phải tiếp tục được đẩy mạnh. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nói chung, ở Đắk Lắk nói riêng, đánh giá thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra những nét đặc thù của công tác này để trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk là một vấn đề có tầm quan trọng và có tính cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những góc độ, phạm vi không giống nhau về giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật thông qua xét xử của tòa án, hay tại một địa bàn nói riêng. Có thể kể tới một số công trình tiêu biểu theo các nhóm sau: Những công trình nghiên cứu lý luận chung về giáo dục pháp luật - Nguyễn Đình Lộc (1987), Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Luật học (bảo vệ ở Liên Xô cũ). Đây là một trong số ít công trình nghiên cứu đầu tiên về giáo dục ý thức pháp luật, trong đó, tác giả phân tích những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật, như khái niệm, đặc điểm, cấu trúc của ý thức pháp luật; khảo sát tình hình giáo dục pháp luật ở Việt Nam, chỉ ra những điểm tích cực, hạn chế của công tác này và đề xuất những giải pháp cho công tác giáo dục pháp luật tại Việt Nam. - Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là cuốn sách chuyên khảo đề cập một cách hệ thống các vấn đề về giáo dục pháp luật trên phương diện lý luận: chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức giáo dục pháp luật... và nêu lên các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật.
  • 9. 9 - Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX-07-17, Hà Nội. Tập thể tác giả đề tài này đã luận chứng tính cấp thiết của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Để làm được điều đó thì nhất thiết phải dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. - Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. Trong cuốn giáo trình này, các tác giả có dành một tiết thuộc Chương XVIII- Ý thức pháp luật để viết về vấn đề bồi dưỡng và giáo dục nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa; theo đó, giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Trên cơ sở đó, các tác giả nêu lên các biện pháp giáo dục để nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. - Ngọ Văn Nhân (2012), Giáo dục pháp luật hay giáo dục ý thức pháp luật?, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12 (295)/2012. Trong bài báo khoa học này, theo tác giả, trên diễn đàn khoa học pháp lý, khoa học hành chính từ trước đến nay thường tồn tại song song hai khái niệm: “giáo dục pháp luật” và “giáo dục ý thức pháp luật”. Hai khái niệm này có khi được dùng tách rời nhau như hai khái niệm riêng biệt, có khi lại được sử dụng đi liền nhau theo kiểu “giáo dục pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật”; đồng thời, có sự nhầm lẫn, hoán đổi hoặc đồng nhất nội hàm của hai khái niệm này. Từ sự so sánh, đối chiếu về mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật, tác giả đi đến kết luận rằng, trong khoa học pháp lý cần thống nhất sử dụng khái niệm “giáo dục pháp luật” làm khái niệm chuẩn; hết sức hạn chế nếu không nói là không nên sử dụng khái niệm “giáo dục ý thức pháp luật”. Còn khi muốn nhấn mạnh ý thức pháp luật thì có thể nói “giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật” cho một đối tượng hoặc nhóm đối tượng cụ thể.
  • 10. 10 Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục pháp luật nói chung, như: Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1995), Một số vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vụ Phổ biến Pháp luật - Bộ Tư pháp (1997), Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Nxb. Thanh niên, Hà Nội; Nguyễn Duy Lãm (chủ biên, 1997), Một số vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Thanh niên, Hà Nội; Hồ Quốc Dũng (1997), Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở nước ta - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học; Hồ Việt Tiệp (2000), Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9/2000, Hà Nội... Trong các đề tài khoa học, công trình nghiên cứu, bài báo khoa học kể trên, các tác giả đã phác họa rõ nét một bức tranh về giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật của con người Việt Nam. Bên cạnh đó, các đề tài, công trình trên cũng đã khái quát lý luận về giáo dục pháp luật, như mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật nhằm cung cấp, trang bị những kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp xã hội. Những công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật gắn với một đối tượng cụ thể và ở một địa bàn nhất định Chủ đề giáo dục pháp luật cho từng đối tượng cụ thể và tại từng địa bàn cụ thể cũng được triển khai nghiên cứu tương đối đa dạng, phong phú. - Khoa Nhà nước và Pháp luật (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999), Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ. Nội dung của đề tài khoa học này phân tích cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật; vai trò, nhiệm vụ của các trường Chính trị tỉnh đối với công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức tại các địa phương, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế; trên cơ sở đó, tập thể tác giả đề xuất các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị tỉnh ở nước ta.
  • 11. 11 - Lê Đình Khiên (2002), Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính ở nước ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Hà Nội. Trên nền tảng lý luận về ý thức pháp luật (khái niệm, đặc trưng, chủ thể ý thức pháp luật...), tác giả luận án đề xuất một số giải pháp nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính ở nước ta. - Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội. Luận án này được hoàn thành tại Học viện Hành chính (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), trong đó tác giả luận bàn về giáo dục ý thức pháp luật chứ không phải giáo dục pháp luật. Mặc dù cũng bàn đến các vấn đề về chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục ý thức pháp luật gắn với đối tượng cán bộ, công chức; song về thực chất chúng đều dựa trên nền của giáo dục pháp luật. - Nguyễn Quốc Sửu (2011), Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Trong cuốn sách, tác giả tập trung phân tích tương đối toàn diện, có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cả về lý luận và thực tiễn; làm rõ khái niệm mục đích, mục tiêu của giáo dục pháp luật; đưa ra các tiêu chí để xác định, phân loại chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính; chỉ ra những nét đặc thù về chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính, làm sáng tỏ yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính, từ đó, đề xuất và luận chứng tính khả thi của các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vấn đề giáo dục pháp luật gắn với một đối tượng cụ thể và ở một địa bàn nhất định cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều luận văn thạc sĩ luật học. Có thể điểm qua một số luận văn được bảo vệ trong thời gian gần đây:
  • 12. 12 - Bùi Thị Diễm Trang (2010), Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật đối với đoàn viên, thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tiến trình hội nhập phát triển của đất nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn này, tác giả đã tập trung làm sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật và hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; phân tích, đánh giá đặc điểm và thực trạng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn viên thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội; đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn viên thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội, góp phần thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho thế hệ trẻ trước những yêu cầu phát triển mới của đất nước. - Nguyễn Thanh Tùng (2011), Giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội. Tác giả tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh Đồng Nai, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh Đồng Nai và nguyên nhân của thực trạng đó; trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay. Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình luận văn thạc sĩ luật học, như: Nguyễn Ngọc Hoàng (2000), Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Trần Văn Trầm (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội; Nguyễn Thị Phương (2008), Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Bến Tre, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội... Các luận văn kể trên ở những mức độ khác nhau đã tập trung nghiên cứu về mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật cho các đối tượng cụ thể; đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt được cũng như các hạn chế của công tác giáo dục pháp luật cho các đối tượng; phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục pháp luật; từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho các đối tượng.
  • 13. 13 Những công trình nghiên cứu trên đều có giá trị tham khảo đối với tác giả luận văn ở chừng mực các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn; song, điều quan trọng hơn là vấn đề giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án thì lại không có công trình nào kể trên đề cập đến. Những công trình liên quan đến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án Vấn đề giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án cũng đã được một số tác giả đề cập, phân tích trong các công trình nghiên cứu. Theo sự cập nhật thông tin của tác giả luận văn này, có thể liệt kê ra đây một vài công trình, bài viết có liên quan ít nhiều đến chủ đề này: - Dương Thanh Mai (1996), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp (bằng thực tiễn của tòa án và luật sư), Luận án Phó tiến sĩ luật học, Hà Nội. Trong công trình này, từ sự luận bàn những vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, như khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức giáo dục pháp luật..., tác giả đi sâu vào một hình thức giáo dục pháp luật đặc thù - giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư pháp, dựa trên thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tòa với sự tham gia của Kiểm sát viên giữ quyền công tố, Thẩm phán và Luật sư. Tác giả cho rằng, bản thân quá trình hoạt động tư pháp đã mang tính chất giáo dục pháp luật. Vấn đề đặt ra là cần có giải pháp cụ thể để phát huy hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp. Điều đó cũng có nghĩa là, ngay tại phiên tòa, hoạt động tranh tụng, thẩm vấn công khai, xét xử công khai bị cáo tại phiên tòa đã có tác dụng giáo dục pháp luật đối với bị cáo, giúp bị cáo ít nhiều nhận ra tội lỗi của mình và tác động đến nhận thức, ý thức pháp luật của những người tham dự phiên tòa. Công trình này có giá trị tham khảo quý báu đối với tác giả không chỉ về mặt lý luận, mà còn gợi mở những biện pháp thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. - Nguyễn Thị Tĩnh (2013), Giáo dục pháp luật trong hoạt động thu thập chứng cứ tại Tòa án, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4/2013. Trong bài viết này,
  • 14. 14 tác giả khẳng định rằng, hoạt động thu thập chứng cứ tại Tòa án hàm chứa nhiều khía cạnh của chức năng giáo dục pháp luật cho đông đảo quần chúng nhân dân. Chẳng hạn, việc lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, trưng cầu giám định... là những hoạt động chuyên môn nghiệp vụ nhằm bổ sung các chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết một vụ kiện. Nhìn từ góc độ giáo dục pháp luật, đây là một trong những hoạt động truyền thụ kiến thức pháp lý. Bài viết chỉ nhìn từ góc độ dân sự và không đề cập đến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. Từ sự tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây, có thể khẳng định rằng, đã có những nội dung nghiên cứu ở mức độ hạn chế về giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư pháp của tòa án, tuy nhiên còn thiếu vắng những nghiên cứu có hệ thống và chuyên biệt về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án; hơn nữa, đánh giá công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án tỉnh Đắk Lắk thì lại càng chưa có công trình nào đề cập tới. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề nêu trên làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ sự phân tích cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án tại Đắk Lắk, chỉ ra những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế của công tác này để trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ: - Phân tích cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật và tổ chực thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, làm rõ khái niệm, đặc trưng, vai trò của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án.
  • 15. 15 - Phân tích đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk có ảnh hưởng đến công tác giáo dục pháp luật của Tòa án; đánh giá thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, rút ra những bài học kinh nghiệm. - Nêu lên các quan điểm chỉ đạo và đề xuất, phân tích các giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở việc phân tích lý luận, đánh giá thực tiễn công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. Phạm vi nghiên cứu luận văn cũng được giới hạn theo không gian và thời gian. Theo không gian, luận văn chỉ khảo sát thực tiễn công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Theo thời gian, sự đánh giá chỉ giới hạn trong khoảng thời gian 05 năm (từ năm 2012 đến năm 2016 (7/2016 ).
  • 16. 16 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là những nguyên lý của triết học Mác - Lênin về lý luận nhận thức; tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục và giáo dục pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của giáo dục pháp luật; chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục pháp luật. Ngoài ra, những quan điểm lý luận, kết quả nghiên cứu thực tiễn về giáo dục pháp luật của các nhà khoa học, những tác giả đi trước cũng là tài liệu tham khảo quan trọng của luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa... để nghiên cứu các vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án; sử dụng phương pháp thu thập thông tin và phân tích tài liệu có sẵn để thu thập các số liệu thực tế từ các hoạt động của ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk phục vụ cho việc đánh giá thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án và luận chứng tính khả thi của các giải pháp mà luận văn đề xuất. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn - Góp phần làm rõ khái niệm, mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án; chỉ ra được vai trò, đặc trưng của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. - Đánh giá được thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. - Đề xuất được các quan điểm và giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình chuyên khảo phân tích một cách hệ thống và tương đối toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
  • 17. 17 thông qua hoạt động xét xử của Tòa án; qua đó, luận văn cung cấp, bổ sung thêm các căn cứ lý luận và thực tiễn, góp phần làm phong phú và hoàn thiện thêm lý luận về giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng. Với những kết quả đạt được, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; được ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk sử dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có kết cấu gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án. Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án ở tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012-2016. Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
  • 18. 18 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN 1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng và thông qua hoạt động xét xử của Tòa án 1.1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng Dưới góc độ lý luận, giáo dục pháp luật có phải là một chức năng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hay không? Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Toà án nhân dân (2014) quy định: “...Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.” [21]. Tại Điều 8 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (2014) cũng quy định: “Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Thi hành án, .....phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng; nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.” [20]. Còn khoản 10 Điều 15 Luật Công an nhân dân (2014) quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của của Công an nhân dân là: “...thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm...” [19]. Một số ý kiến cho rằng bản thân hoạt động tố tụng đã là hoạt động điều chỉnh ý thức và hành vi của những người tham gia vào các quá trình tố tụng sao cho phù hợp với các yêu cầu của pháp luật nên các quy định trên được hiểu là sự khẳng định rằng giáo dục pháp luật như là một kết quả tất yếu của hoạt động tố tụng, chứ không đặt vấn đề giáo dục pháp luật như một định hướng nội dung, một chức năng riêng của các chủ thể tiến hành các hoạt động đó. Ví dụ, trong hoạt động xét xử các
  • 19. 19 vụ án của Tòa án, chỉ cần Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật để ra được bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi liên quan trực tiếp đến vụ án đó thì tự khắc đã tác động giáo dục sâu sắc lên nhận thức, tình cảm và hành vi của họ. Quan niệm trên có phần đúng dưới góc độ đánh giá khả năng tác động giáo dục “tự thân” của pháp luật và của thực tiễn thi hành pháp luật, nhưng chưa đủ dưới góc độ của yêu cầu giáo dục pháp luật nhằm hình thành một cách vững chắc ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân. Yêu cầu đó đòi hỏi những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên...) không chỉ bằng lòng với tác dụng giáo dục của kết quả cuối cùng (bản án, quyết định hay một hành vi thực hiện pháp luật cụ thể...), mà còn phải biết và phải có trách nhiệm chủ động khai thác mọi khả năng giáo dục thông qua quá trình tiến hành hoạt động tố tụng để định hướng và tạo tiền đề tư tưởng thuận lợi cho việc đạt được kết quả cuối cùng đó. Các yếu tố của ý thức pháp luật như hiểu biết, nhận thức về các nguyên tắc pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể được áp dụng, cảm nhận về giá trị xã hội, tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật và của những người đại diện cho pháp luật, ý thức về bổn phận đạo đức và trách nhiệm pháp lý của cá nhân rõ ràng là phụ thuộc không chỉ vào kết quả cuối cùng của hoạt động tố tụng - dù đó là yếu tố rất quan trọng; mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như cách thức, như thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng, trình độ văn hoá pháp lý của những người tiến hành tố tụng, môi trường pháp lý nơi diễn ra các hoạt động tố tụng, mức độ chuẩn bị và tham gia chủ động của chính đối tượng được tác động bởi hoạt động tố tụng. Đó chính là các yếu tố có ý nghĩa bảo đảm và củng cố hiệu quả tác động giáo dục “tự thân” của hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, những yếu tố đó chỉ phát huy tác dụng nếu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tích cực và hành động có chủ đích để sử dụng chúng với ý thức coi đó là một phương pháp hoạt động, một chức năng riêng của mình. Bên cạnh đó, hoạt động tố tụng, đặc biệt là hoạt động xét xử của Toà án luôn thu hút sự quan tâm, tham gia hoặc theo dõi của công luận, chính vì vậy mà tác
  • 20. 20 động giáo dục của các hoạt động tố tụng thường không giới hạn tại địa điểm diễn ra hoạt động đó hay trong phạm vi giữa chủ thể và đối tượng trực tiếp của hoạt động (như giữa các cơ quan tố tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên toà); mà còn có tác động rộng rãi đến dư luận xã hội, đến những người quan tâm sự kiện pháp lý đó. Điều này đòi hỏi Toà án phải có định hướng giáo dục và tiến hành việc tác động giáo dục có chủ đích ngay trong từng giai đoạn tố tụng lên nhận thức, thái độ và tình cảm của từng đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình xét xử, đồng thời phải tổ chức việc thông tin công khai, chính thức ở mức độ cần thiết (trong khuôn khổ luật cho phép) trước và sau phiên toà nhằm tạo tính tích cực pháp luật trong xã hội, hỗ trợ cho việc tiếp nhận, đánh giá chính xác, khách quan tác động của giáo dục pháp luật và tác dụng phòng ngừa xã hội của hoạt động xét xử. Như vậy, yêu cầu khách quan của xã hội và yêu cầu của công tác giáo dục pháp luật đều đòi hỏi phải mở rộng và nâng cao tác động giáo dục “tự thân” của hoạt động tố tụng bằng việc định hướng giáo dục pháp luật thành một chức năng đồng hành với chức năng, nhiệm vụ khác của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên cho đến nay, trên thực tế, quan điểm đó vẫn chưa thống nhất; bởi vậy, xây dựng được một quan điểm chung về chức năng giáo dục pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng là một đòi hỏi có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Dưới góc độ thực tiễn, chức năng giáo dục pháp luật được thực hiện như thế nào trong các hoạt động tố tụng? Có quan niệm cho rằng giáo dục pháp luật là chức năng hỗ trợ cho các chức năng chính của hoạt động tố tụng, do đó hình thức để thực hiện chức năng giáo dục pháp luật chỉ là định hướng giáo dục trong từng giai đoạn, từng hoạt động cụ thể nhằm triển khai các chức năng khác. Chẳng hạn, trong hoạt động tư vấn pháp luật của Luật sư, chức năng giáo dục không thể hiện thành các nhiệm vụ độc lập cũng dẫn đến tình trạng một số Luật sư chỉ chú trọng thực hiện các dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng mà không quan tâm đến trách nhiệm giải thích, giúp cho họ hiểu biết về các vấn đề pháp lý liên quan; thậm chí có một số ít Luật sư còn cố ý làm cho pháp luật và các quá trình tố tụng trở nên phức tạp hơn để buộc những khách hàng ít hiểu biết pháp luật phải cậy nhờ, gắn bó lâu dài với mình.
  • 21. 21 Cũng tương tự như vậy, trong hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, do chưa thống nhất về cách thức thực hiện chức năng giáo dục nên cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án chưa khai thác hết các khả năng tác động giáo dục lên đối tượng trong khi tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình, làm hạn chế khả năng của các chủ thể tìm kiếm, sử dụng các hình thức giáo dục pháp luật có tính phổ cập khác để kết hợp với giáo dục trong hoạt động tố tụng. Từ thực tế nêu trên, chức năng giáo dục pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng phải được thực hiện theo hai phương thức chính: Một là, định hướng và thực hiện giáo dục pháp luật ngay trong từng hoạt động tố tụng như một nhiệm vụ độc lập của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với các đối tượng tham gia vào các hoạt động đó. Hai là, sử dụng kết hợp những hình thức giáo dục pháp luật khác cùng với hoặc tiếp sau hoạt động tố tụng để hỗ trợ, củng cố và nâng cao hiệu quả giáo dục trong hoạt động tố tụng ở quy mô rộng lớn hơn và lâu bền hơn. Như vậy, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng là việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện một cách có tổ chức, có chủ định việc cung cấp cho các đối tượng những hiểu biết cụ thể về các vấn đề pháp luật liên quan đến hoạt động tố tụng đang được tiến hành, giúp hình thành ở họ ý thức trách nhiệm, trạng thái tâm lý, tình cảm pháp luật đúng đắn làm cơ sở cho hành vi xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật; qua đó, hỗ trợ, củng cố và phát huy tác dụng của chính hoạt động tố tụng. 1.1.1.2. Khái niệm giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án Xét xử, theo cách hiểu của các nhà luật học, là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc thực tế đã xảy ra nhằm đưa ra một phán xét đúng đắn về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc; từ đó, nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính...). Xét xử cũng được hiểu theo nghĩa là một giai đoạn tố tụng quan trọng được tiến hành dưới hình thức phiên tòa nhằm xem xét, phán xét, nhân danh Nhà nước đưa ra một phán
  • 22. 22 quyết theo trình tự luật định về vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án. Hoạt động xét xử của Tòa án gần như là khâu cuối của hoạt động tố tụng, bởi nếu không có kháng cáo hoặc kháng nghị thì hồ sơ vụ án sẽ được khép lại và phán quyết của Tòa án sẽ có hiệu lực thực thi trên thực tế. Chức năng chính của Toà án là thực hiện hoạt động xét xử. Thông qua hoạt động xét xử nói chung, cùng với việc đưa ra phán quyết, Toà án có thể thực hiện hoạt động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, như thông qua các hoạt động xét xử tại tại phiên toà, thông qua hoạt động thông tin, báo chí hoặc các hoạt động khác (tuyên truyền, phổ biến pháp luật tại trường học, địa phương...); song, hình thức tập trung nhất và mang tính đặc thù nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử tại phiên toà. Thông qua việc giáo dục pháp luật tại một phiên toà xét xử, những người tham gia vào quá trình tố tụng (đối tượng trực tiếp, đặc biệt là đương sự, bị cáo và thân nhân của bị cáo) hoặc những người theo dõi phiên toà (đối tượng gián tiếp) có thể hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định pháp luật được áp dụng để giải quyết vụ án (cả về luật nội dung và luật tố tụng); từ đó, có thể tự đánh giá về hành vi và trách nhiệm pháp lý của mình, giúp hình thành ở họ những cảm xúc về sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, củng cố lòng tin và thái độ tôn trọng pháp luật, tôn trọng các đại diện của công lý, giúp họ định hướng hành vi phù hợp với những bản án đúng người, đúng tội, quyết định đúng đắn của Hội đồng xét xử, giúp định hướng dư luận xã hội, nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng ngừa tội phạm của hoạt động xét xử cũng như hoạt động giáo dục pháp luật. Định hướng về việc giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án trên thực tế được thực hiện bằng việc Tòa án bảo đảm thực hiện các nguyên tắc, thủ tục, trình tự tố tụng cơ bản liên quan đến các quy định về hình thức, lễ nghi, trật tự phiên toà... Trước tiên, đó là việc Toà án bảo đảm nguyên tắc Hiến định: Toà án xét xử công khai, trừ những trường hợp do luật định, dù có xét xử kín thì Toà án vẫn phải tuyên án công khai. Dựa trên nguyên tắc xét xử công khai, Thẩm phán chủ tọa phiên toà phải dự kiến thành phần tham dự phiên toà, trong đó có những người
  • 23. 23 mà tác động giáo dục của việc xét xử sẽ rất cần thiết cho việc nhận thức và định hướng lại hành động của họ trong tương lai; hoặc mời những cá nhân, tổ chức có trách nhiệm quản lý, giáo dục bị cáo... Một bản án công bằng, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đi vào lòng người nhất, “tâm phục, khẩu phục” nhất. Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa về giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án như sau: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án là việc Toà án trước phiên toà, tại phiên toà hoặc sau phiên toà thực hiện một cách có tổ chức, có chủ định việc cung cấp, trang bị cho các đối tượng những tri thức, hiểu biết cụ thể về các vấn đề pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử đang được tiến hành, giúp hình thành ở đối tượng ý thức trách nhiệm, trạng thái tâm lý, tình cảm pháp luật đúng đắn, tạo cơ sở cho hành vi xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật, qua đó hỗ trợ, củng cố và phát huy tác dụng của chính hoạt động xét xử của Tòa án. 1.1.2. Đặc trưng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án Chức năng chính của Toà án là thực hiện hoạt động xét xử các vụ án, mọi nhiệm vụ khác của Toà án, trong đó có hoạt động giáo dục pháp luật, đều nhằm thực hiện tốt nhất chức năng xét xử theo luật định. Toà án có thể thực hiện hoạt động giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung và đặc thù nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. Hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử có những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án về bản chất là một hình thức giáo dục pháp luật, song lại hàm chứa đầy đủ các thành tố của hoạt động giáo dục pháp luật. “Đó là dạng hoạt động được thực hiện thông qua sự tương tác giữa chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật” [33, tr. 125]; là hoạt động có mục đích, có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch, tuân theo những nội dung giáo dục pháp luật cụ thể được chủ thể xây dựng
  • 24. 24 dành riêng cho đối tượng, dựa trên các phương pháp giáo dục và hình thức giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế của hoạt động xét xử. Trong giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, sự tương tác giữa chủ thể giáo dục và đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật được thể hiện thông qua hoạt động truyền đạt của chủ thể giáo dục (phổ biến, thuyết trình, tuyên truyền thông tin, kiến thức pháp luật) và hoạt động lĩnh hội của đối tượng giáo dục pháp luật (nghe, tiếp thu các thông tin, kiến thức pháp luật). Hoạt động truyền đạt và hoạt động lĩnh hội luôn nằm trong mối liên hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau. Tính có mục đích của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử phản ánh những đòi hỏi tất yếu, khách quan của tinh thần thượng tôn pháp luật, xây dựng lối sống, làm việc theo pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục đích mà công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử hướng tới là khắc phục nguyên nhân thiếu hiểu biết pháp luật dẫn tới hành vi phạm tội; tiếp thu, lĩnh hội những kiến thức, hiểu biết pháp luật cần thiết để tuân thủ, chấp hành pháp luật, biết sống, làm việc theo pháp luật. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mỗi cá nhân chủ động, tự giác chiếm lĩnh những thông tin, kiến thức pháp luật mà chủ thể cung cấp cho họ, biến việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức pháp luật trở thành nhu cầu nội tại, mục đích tự thân của mỗi người [33, tr.127]. Tính có tổ chức, có kế hoạch của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử thể hiện sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của chủ thể giáo dục pháp luật trong việc xác định, lựa chọn những nội dung giáo dục pháp luật thực sự cần thiết, phù hợp với nhu cầu của các đối tượng; từ đó, tìm ra những phương pháp, h́nh thức giáo dục pháp luật phù hợp để có thể hiện thực hóa một cách tối ưu mục đích giáo dục pháp luật cho đối tượng. Thứ hai, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử có tính tính đa chủ thể và đa đối tượng. Chủ thể thực hiện công tác giáo dục pháp luật đồng thời là chủ thể tiến hành hoạt động tố tụng tại phiên tòa. Các chủ thể giáo dục pháp luật trong một phiên toà trước tiên là những người tiến hành hoạt động xét xử (Thẩm phán,
  • 25. 25 Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên toà...) và những người tham gia tố tụng khác (Kiểm sát viên, Luật sư...). Các chủ thể này đều có một nhiệm vụ chung là góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án làm cơ sở để ban hành được bản án, quyết định nghiêm minh, đúng người, đúng tội, lỗi, đúng pháp luật, thông qua đó mà đạt được những mục đích giáo dục pháp luật đã đề ra. Tuy nhiên, các chủ thể này lại có những phương cách, biện pháp tác động giáo dục rất khác nhau phụ thuộc vào vai trò và nhiệm vụ tố tụng cụ thể của từng người tại phiên toà. Chẳng hạn, Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố trong các vụ án nên vai trò giáo dục của Kiểm sát viên tại phiên toà được thể hiện đặc biệt tập trung qua bản cáo trạng, tranh luận với người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và kết luận của Kiểm sát viên sau quá trình tranh luận công khai, bình đẳng. Việc xét hỏi, tranh luận công khai, khách quan và toàn diện là căn cứ pháp luật để truy tố, buộc tội hoặc miễn tố một cách xác đáng, bảo đảm không để lọt tội phạm đồng thời không làm oan người vô tội. Điều này thể hiện rõ mục tiêu giáo dục pháp luật trong hoạt động công tố không phải là để kết tội, mà là để công lý được thực thi - đó là bài học sâu sắc về tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật đồng thời là đối tượng trực tiếp hoặc gián tiếp của hoạt động xét xử. Hoạt động giáo dục pháp luật tại phiên toà không chỉ hướng tới những người tham gia tố tụng (bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...) mà còn hướng những người tham dự, theo dõi phiên toà. Về tổng thể, đối tượng giáo dục pháp luật là những người có mặt tại phiên toà theo luật định liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc vì lý do riêng có liên quan đến vụ án. Điểm thuận lợi của công tác giáo dục pháp luật tại phiên toà là các đối tượng đều có sự quan tâm tới vụ án. Do đó, về cơ bản, họ sẽ lắng nghe, phân tích, đánh giá các sự kiện, lời nói, hành động của những người tiến hành xét xử để từ đó rút ra những kết luận, xác định thái độ, tình cảm và định hướng hành vi riêng của mình đối với vụ án hoặc trong các tình huống tương tự. Tuy nhiên, các đối tượng này lại rất đa dạng, khác nhau về mọi mặt, từ quyền và nghĩa
  • 26. 26 vụ trong vụ án đến độ tuổi, trình độ học vấn, văn hoá pháp lý, về nhận thức và kinh nghiệm xã hội, về lợi ích, động cơ, trạng thái tâm lý khi tham dự phiên toà. Thứ ba, nội dung giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử rất đa dạng và được thực hiện ở hầu hết các thủ tục tố tụng tại phiên toà. Nội dung giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử rất đa dạng, như những quy pham pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác; Bộ luật Dân sự, Lao động, pháp luật hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành; Bộ luật Tố tụng Dân sự,, Hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành có liên quan... Nội dung giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử được thể hiện tại hầu hết các giai đoạn thuộc thủ tục tố tụng tại phiên tòa, bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn bắt đầu phiên toà, giai đoạn xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, giai đoạn nghị án và công bố bản án, quyết định của Toà án và sau khi tuyên án. Ở tất cả các giai đoạn đó đều cần phải kết hợp và lồng ghép các nội dung giáo dục pháp luật phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao của công tác giáo dục pháp luật. Thứ tư, bên cạnh các phương pháp giáo dục khác, phương pháp giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử chủ yếu là phương pháp kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế, giữa diễn giải pháp luật và phân tích thực tiễn thông qua người thật, việc thật. Do tính đa chủ thể và đa đối tượng giáo dục tại một phiên toà nên phương pháp giáo dục cũng khá đa dạng phụ thuộc vào vị trí và đặc điểm của từng chủ thể khi tiếp cận với từng loại đối tượng. Điểm khác biệt so với các hình thức giáo dục khác (trong nhà trường, qua báo chí...) là ở đây có sự kết hợp giữa phương pháp thuyết phục, minh chứng (của Kiểm sát viên, Luật sư, giám định viên... trong quá trình xét hỏi, tranh luận cũng như của Hội đồng xét xử trong phần lập luận của bản án) với phương pháp cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước khi Hội đồng xét xử ra bản án, quyết định, thể hiện rõ ràng, dứt khoát thái độ của Nhà nước đối với bị cáo. Sự kết hợp phương pháp thuyết phục và cưỡng chế được quy định bởi tính giáo dục và tính cưỡng chế của bản thân pháp luật và là kết quả tất yếu phản ánh nguyên tắc pháp chế của quá trình áp dụng pháp luật.
  • 27. 27 Thứ năm, hiệu quả của hoạt động xét xử tại phiên tòa đồng thời phản ánh hiệu quả công tác giáo dục pháp luật tại phiên tòa. Hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử có thể được đánh giá bằng chính hiệu quả của hoạt động xét xử; bởi nếu xác định giáo dục pháp luật là một nhiệm vụ của hoạt động xét xử thì hiệu quả của hoạt động xét xử cũng phản ánh hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật. Mặt khác, hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử cũng được đánh giá qua những hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật mà đối tượng sẽ thực hiện trong hoạt động xét xử. Hành vi của đối tượng giáo dục biểu hiện sự thay đổi, nâng cao một bước nhận thức và tình cảm pháp luật của người đó dưới tác động của những người tiến hành hoạt động xét xử. 1.1.3. Mục đích của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án Dưới tác động của những nguyên nhân, điều kiện chủ quan và khách quan cũng như xuất phát từ mục đích, động cơ nhất định mà có những người dính líu vào hành vi vi phạm pháp luật, hoặc những tranh chấp. Giai đoạn cuối của quá trình hoạt động tố tụng là một phiên tòa xét xử được Tòa án mở ra. Cái giá mà những người vi phạm phải trả cho lỗi lầm của họ là nhận bản án nghiêm khắc do Tòa án tuyên với trách nhiệm pháp lý (hình sự, dân sự, hành chính) tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng hành vi vi phạm cụ thể. Theo bản án đã có hiệu lực pháp luật, các bên phải thi hành bản án dưới sự điều chỉnh của cơ quant hi hành án. Cùng với quá trình hoạt động xét xử, Tòa án đồng thời thực hiện công tác giáo dục pháp luật, hướng tới các đối tượng là những người tham dự, theo dõi phiên tòa, các thân nhân của đương sự, và đặc biệt là bị cáo. Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Toà án nhân dân (2014) quy định: “...Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.” [21]. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mà Tòa án cần phải thực hiện. Ví dụ như xét xử vụ
  • 28. 28 án: Đối với bị cáo, giáo dục pháp luật tại phiên tòa nhằm giúp cho bị cáo nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, tội danh mà bị cáo phạm phải và hình phạt nghiêm khắc mà bị cáo phải nhận. Đối với thân nhân của bị cáo, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử giúp họ hiểu được đầy đủ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà con em, người thân của họ đã phạm phải, nhận thức được tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật; qua đó động viên bị cáo yên tâm tư tưởng, chấp hành tốt bản án mà Tòa án đã tuyên. Đối với những người tham dự, theo dõi phiên tòa, giáo dục pháp luật giúp họ có thêm kiến thức, hiểu biết về những nguyên tắc, quy định của pháp luật nói chung, pháp luật và tố tụng nói riêng... Như vậy, mục đích của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án là hướng tới cung cấp, trang bị cho đương sự, bị cáo, thân nhân của họ và những người tham dự, theo dõi phiên tòa những thông tin, kiến thức pháp luật nói chung, kiến thức pháp luật liên quan đến hành vi vi phạm của họ nói riêng; từ đó, làm hình thành ở họ tình cảm, niềm tin đối với tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật; tạo thói quen, lối sống, hành vi xử sự tích cực theo pháp luật, giúp bị cáo nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi vi phạm của họ gây ra, trách nhiệm pháp lý (những thiệt hại về vật chất, tinh thần) mà họ phải gánh chịu. Để đạt được mục đích giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án thì phải cụ thể hóa nó thành những mục đích cụ thể theo những tiêu chí, yêu cầu đặt ra sao cho phù hợp với từng nhóm đối tượng có liên quan; qua đó, đánh giá mức độ hoàn thành mục đích giáo dục pháp luật cho đối tượng. Thông thường, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án phải đạt được ba mục đích nổi trội sau: Thứ nhất, về nhận thức: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử giúp cung cấp, trang bị cho các nhóm đối tượng những tri thức, hiểu biết pháp luật nói chung, pháp luật lĩnh vực được xét xử nói riêng, từ đó hình thành, phát triển ý thức pháp luật cho công dân. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là quá trình
  • 29. 29 tác động có mục đích, có tổ chức, có chủ định và có kế hoạch của các chủ thể giáo dục (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Luật sư, Thư ký phiên tòa) đến các đối tượng giáo dục (những người tham gia tố tụng và những người tham gia, theo dõi phiên tòa). Giáo dục pháp luật sẽ không ngừng nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng được giáo dục. Đây là mục tiêu quan trọng của công tác giáo dục pháp luật bởi vì sự am hiểu và nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật của mỗi công dân. Mặt khác tri thức pháp luật còn giúp cho con người tổ chức một cách có ý thức hành vi của mình và đánh giá hành vi của mình trong sự đối chiếu với các chuẩn mực pháp luật để có thể chủ động, tự tin thực hiện những hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Thứ hai, về thái độ: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử phải nhắm tới mục tiêu về thái độ, tức là phải làm hình thành, củng cố cho các đối tượng tình cảm, niềm tin đối với pháp luật. Đây là một trong những mục tiêu rất quan trọng của công tác giáo dục pháp luật thông quahoạt động xét xử, bởi nếu có tri thức pháp luật mà không có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng như vào các cơ quan bảo vệ pháp luật thì con người rất dễ sai lệch chuẩn mực pháp luật vì mục đích tư lợi. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử nhằm hình thành ở các đối tượng ý thức pháp luật, trạng thái xúc cảm, tình cảm pháp luật đúng đắn làm cơ sở cho hành vi ứng xử phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Thứ ba, về hành vi: Từ việc cung cấp, trang bị thông tin, kiến thức pháp luật, làm hình thành, củng cố ở các đối tượng tình cảm, niềm tin đối với pháp luật, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử còn có mục tiêu về hành vi, nghĩa là phải làm hình thành cho các đối tượng ý thức tự giác chấp hành pháp luật và hành vi xử sự tích cực theo các yêu cầu của pháp luật. Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử giúp cho những người tham gia tố tụng và những người tham dự, theo dõi phiên tòa hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng tương ứng được áp dụng để giải quyết vụ án. Từ đó, giúp họ định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Động cơ, hành vi và thói quen xử
  • 30. 30 sự hợp pháp là kết quả của quá trình nhận thức pháp luật, tuân thủ và áp dụng các quy phạm pháp luật vào thực tiễn đời sống. 1.1.4. Vai trò của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án Công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án có vai trò rất quan trọng đối với cả những người tham dự, theo dõi phiên tòa và đặc biệt là đối với đương sự, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ lien quan. Đối với những người tham dự, theo dõi phiên tòa Thứ nhất, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử tại phiên toà giúp cho những người tham dự hoặc theo dõi phiên toà hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định pháp luật được áp dụng vào việc giải quyết vụ án. Giáo dục pháp luật thông qua phiên toà xét xử giúp những người tham gia tố tụng (nguyên đơn, bị đơn, bị cáo, người bị hại...), những người tham dự phiên toà nói riêng, những người dân quan tâm tới phiên tòa nói chung tự đánh giá về hành động, trách nhiệm pháp lý của mình. Hoạt động này cũng giúp hình thành ở họ ý thức về sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, củng cố lòng tin và thái độ tôn trọng pháp luật; giúp họ định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật (cụ thể là phù hợp với những bản án, quyết định đúng đắn của Hội đồng xét xử); giúp định hướng dư luận xã hội, nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng ngừa đối với các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm nói riêng. Một bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật là mục đích của hoạt động xét xử, còn mục đích của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là tạo nên một trạng thái tâm lý pháp luật mới, cao hơn trong ý thức pháp luật của những người trực tiếp hoặc gián tiếp quan tâm, theo dõi phiên toà. Thứ hai, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử góp phần củng cố, nâng cao ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, tự giác và chủ động thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp cho nhân dân. Ý thức của mỗi người dân trong việc tự giác chấp hành pháp luật, biết sống và làm việc theo pháp luật chỉ có thể được củng cố và nâng cao thông qua hoạt động giáo dục pháp luật dành cho họ. Từ chỗ được cung cấp, trang bị thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết, có thái độ phản ứng tích cực
  • 31. 31 trước các yêu cầu pháp luật và có niềm tin đối với pháp luật, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của mỗi dân sẽ từng bước được nâng cao. Trên cơ sở ý thức pháp luật cá nhân được hình thành, củng cố qua quá trình tham dự công tác giáo dục pháp luật tại phiên tòa, mỗi cá nhân tham dự, theo dõi phiên tòa sẽ biết vận dụng các quy định pháp luật tiếp thu được để đối chiếu, đánh giá hành vi của bản thân và của những người khác; từ đó, biết cách tự giác, chủ động lựa chọn thực hiện những hành vi phù hợp với quy định pháp luật, biết khước từ cũng như khuyến cáo người khác không vi phạm pháp luật; biết đồng tình, ủng hộ cái đúng, những hành vi, việc làm hợp pháp và biết phê phán cái sai, lên án những hành vi bất hợp pháp. Để có thể củng cố, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tự giác và chủ động thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp cho nhân dân thì trong công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử, chủ thể giáo dục pháp luật cần chú trọng lồng ghép việc giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm và tình cảm không khoan nhượng với các hành vi phạm pháp, phạm tội. Đó đều là những nhân tố thuộc về niềm tin đối với pháp luật, là động lực nội tâm thúc đẩy mỗi cá nhân thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp. Đối với bị cáo (trong phiên tòa xét xử): Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử giúp cho bị cáo nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Nhiều cá nhân, khi thực hiện một hành vi phạm tội, đã không biết rằng đó là hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật, không hình dung được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và không lường được hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu. Nguyên nhân của tình trạng đó là do họ thiếu nền tảng học vấn, hiểu biết xã hội, đặc biệt là thiếu kiến thức, hiểu biết pháp luật. “Về nguyên tắc, người thực hiện hành vi phạm tội thì phải chịu hình phạt, hình phạt là hệ quả của việc họ đã thực hiện hành vi gây nguy hại cho xã hội và theo quy định của pháp luật họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi đó là hình phạt” [14, tr. 40]. Trong quá trình xét xử, bị cáo đã dần dần nắm bắt được tính chất, mức độ, hậu quả nguy hại mà hành vi của mình đã gây ra cho xã hội nói chung, cho người bị hại/nạn nhân nói riêng. Tuy nhiên, mỗi hành
  • 32. 32 vi phạm tội lại có những đặc điểm riêng về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả gây ra cho xã hội, về phương thức, thủ đoạn phạm tội, tính chất, mức độ lỗi, điều kiện, hoàn cảnh xảy ra tội phạm; ngoài ra, các đặc điểm về nhân thân của các bị cáo cũng khác nhau, như tiền án, tiền sự, giới tính, độ tuổi, học vấn, thể chất, bệnh tật... Tất cả những đặc điểm đó khiến bị không thể ngay lập tức nhận thức đầy đủ về tội lỗi của mình... Giáo dục pháp luật có vai trò cung cấp, trang bị những thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết cho bị cáo; giúp chuẩn bị tâm lý, tư tưởng, kiến thức pháp luật để bị cáo yên tâm học tập, cải tạo trong quá trình chấp hành án phạt tù tại trại giam. Trên thực tế, không ai muốn mình trở thành người phạm tội, bị tòa tuyên án; song, dù lỗi cố ý hay vô ý, một khi đã phải ra đứng trước vành móng ngựa, bị cáo cần phải được biết mình phạm tội gì, căn cứ theo những quy định pháp luật nào, có các quyền và nghĩa vụ gì, được hưởng chính sách nhân đạo nào dành cho bị cáo theo quy định của pháp luật... Hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử chính là phương thức truyền đạt, chuyển giao những thông tin, nội dung pháp luật nói chung, pháp luật và tố tụng nói riêng cho bị cáo, giúp họ tiếp thu, nắm bắt các quy định pháp luật một cách nhanh chóng, kịp thời. Giáo dục pháp luật tại phiên tòa là phương thức hỗ trợ tích cực, là con đường nhanh chóng và hiệu quả nhất để trang bị thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết cho bị cáo. Khi đã giúp bị cáo có niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật thì họ sẽ tự biết ăn năn, hối cải, tự nhận thức được tội lỗi của mình, hối hận vì đã thực hiện hành vi phạm tội. Đó cũng là sự chuẩn bị cần thiết về tâm lý, tư tưởng, hành trang kiến thức pháp luật để bị cáo biết tự uốn nắn, chỉnh sửa những suy nghĩ, tư tưởng lệch lạc, tự xác định được động cơ, mục tiêu phấn đấu trong thời gian chấp hành án phạt tù trong trại giam (nếu bị kết án phạt tù) mà không cần tới sự tác động cưỡng bức hay tâm lý từ phía cán bộ trại giam sau này. Đối với đương sự trong vụ án dân sự (gồm dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình): Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự thì đương sự là chủ thể không thể thiếu. Theo quy định tại khoản 1, Điều 56 BLTTDS 2004: “Đương sự
  • 33. 33 trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Như vậy các đương sự trong vụ án dân sự khá phong phú đa dạng bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập. Vụ án dân sự là những việc phát sinh tại Tòa án do các đương sự khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước hay quyền, lợi ích hợp pháp của người khác đang bị tranh chấp. Trong các vụ án dân sự có một số người tham gia tố tụng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự tham gia với mục đích là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong một số trường hợp tuy họ không có quyền lợi ích liên quan đến vụ án dân sự nhưng lại tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước trong lĩnh vực được tham gia phụ trách. Họ có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức (có tư cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân). Khi tham gia phiên tòa, các đương sự được phổ biến, giải thích về Quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự, cùng với sự trợ giúp của bên hỗ trợ pháp lý, người đại diện theo ủy quyền, sẽ giúp các đương sự hiểu rõ hơn quy định pháp luật, từ đó nâng cao ý thức pháp luật cho bản thân. 1.2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN 1.2.1. Khái niệm về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt độ ng xét xử của Tòa án Để các vụ án được xét xử một cách khách quan toàn diện, triệt để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật hướng tới mục đích giáo dục ý thức pháp luật, tuyên truyền phổ biến pháp luật đến các đối tượng là những người tham gia tố tụng: bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn, người làm chứng….và những người tham dự theo dõi phiên tòa trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua phương tiện truyền thông thì việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch xét xử đối từng vụ án cụ thể là hết sức quan trọng.
  • 34. 34 Việc xây dựng kế hoạch xét xử đối với các vụ án sẽ giúp Tòa án sắp xếp, bố trí, sử dụng nguồn lực một cách khoa học nhất đem lại hiệu quả của việc xét xử cao nhât. Ví dụ: Khi đưa một vụ án ra xét xử công khai Tòa án phải lên lịch xét xử trước 10 ngày kể từ ngày bắt đầu phiên tòa, lịch xét xử được thông báo công khai để các đương sự và những người tham gia tố tụng được biết, nếu là vụ án đưa đi xét xử lưu đông thì lịch xét xử đối với vụ án được giao cho chính quyền đia phương nơi xét xử vụ an thông báo công khai để nhân dân biết tham dự phiên tòa. Đồng thời Tòa án cũng phải xây dựng kế hoạch về lực lượng bảo vệ phiên tòa, đảm bảo sự có mặt của những người tiến hành tố tụng, sự có mặt của những người tham gia tố tụng, đề cương xét hỏi, tranh tụng và những nội dụng cần tuyên truyên phổ biên tại phiên tòa, dự kiến mức hình phạt để đưa ra thảo luận trong hội đồng xét xử…Một vụ án được xét xử công khai, nghiêm minh, thấu tình, đạt lý, đúng trình tự thủ tục theo quy định, đảm bảo áp dụng đầy đủ các căn cứ pháp lý được đại đa số mọi người đồng tình là cách tuyên truyền giáo dục pháp luật hiệu quả nhất đối với những chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. Như vậy có thể đưa ra khái niệm về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án như sau: tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của tòa án là hoạt động có mục đích của chủ thể trong việc xây dựng kế hoạch, xắp xếp, bố trí và sử dụng các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu thông qua hoạt động xét xử cung cấp, trang bị cho các đối tượng những tri thức, hiểu biết cụ thể về các vấn đề pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử đang được tiến hành, giúp hình thành ở đối tượng ý thức trách nhiệm, trạng thái tâm lý, tình cảm pháp luật đúng đắn, tạo cơ sở cho hành vi xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật, qua đó hỗ trợ, củng cố và phát huy tác dụng của chính hoạt động xét xử của Tòa án.
  • 35. 35 1.2.2. Chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án 1.2.2.1. Chủ thể giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử Xác định chủ thể tham gia giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án là vấn đề quan trọng. Loại chủ thể này có thể là thành phần đương nhiên của của phiên tòa với tư cách là người tiến hành tố tụng (ví dụ như: thẩm phán, thư ký phiên tòa, kiểm sát viên, hội thẩm nhân dân), cũng có thể không là thành phần đương nhiên (như người bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo, bị đơn). Tùy từng tư cách tham gia phiên tòa mà họ thể hiện khả năng giáo dục pháp luật không giống nhau. Chủ thể tham gia hoạt động giáo dục là tất cả những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội của mình tham gia vào việc thực hiện mục đích, mục tiêu của giáo dục pháp luật [33, tr.149]. Vận dụng vào công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, có thể hiểu: Chủ thể giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là tất cả những người mà theo chức năng, nhiệm vụ phải tham gia vào việc hiện thực hóa mục đích, mục tiêu giáo dục pháp luật khi tiến hành hoạt động xét xử vụ án. Chủ thể của hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử về cơ bản là những chủ thể không chuyên nghiệp. Các chủ thể này tuy không có chức năng chính là giáo dục pháp luật nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là bằng hoặc thông qua hoạt động xét xử để hiện thực hóa mục đích, mục tiêu của giáo dục pháp luật. Tuy là các chủ thể không chuyên nghiệp nhưng với vị thế, uy tín nghề nghiệp và trình độ ý thức pháp luật cao, chủ thể của hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử lại đóng vai trò trực tiếp trong việc hướng dẫn, phổ biến chính sách pháp luật tới các đối tượng xã hội khi tiến hành hoạt động xét xử. Chủ thể giáo dục pháp luật tại phiên tòa trước hết là các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên giữ quyền công tố, Thư ký phiên tòa, Luật sư... Tuy các chủ thể này có những biện pháp, cách thức tác động khác nhau để giáo dục pháp luật cho các đối tượng, nhưng đều hướng tới việc hoàn thành nhiệm vụ xét xử và đạt được mục đích, mục tiêu giáo dục pháp luật.
  • 36. 36 - Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (Hội đồng xét xử) là những người đóng vai trò quan trọng trong việc xem xét, giải quyết vụ án. Hoạt động của họ tại phiên tòa không chỉ có ý nghĩa quyết định đến kết quả của hoạt động xét xử, mà còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của giáo dục pháp luật. Hội đồng xét xử dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm định hướng hoạt động giáo dục pháp luật, tạo điều kiện và thiết lập nên mối liên kết giữa chủ thể giáo dục pháp luật và các đối tượng được giáo dục pháp luật. Thái độ, lời nói, cử chỉ và các quyết định của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án phải thể hiện tính tôn nghiêm của pháp luật, sự công tâm, khách quan, công bằng, đúng mực... Đây là yếu tố quan trọng giúp các đối tượng nhận thức được bản chất tốt đẹp của nền tư pháp Việt Nam. Hội đồng xét xử cần chủ động hướng dẫn, giải thích pháp luật, chỉ rõ phạm vi, quyền hạn và trách nhiệm của các đối tượng liên quan đến vụ án, từ đó giúp các đối tượng nhận thức được đúng đắn vị trí, vai trò của mình trong vụ án. Từ chỗ các đối tượng thụ động chờ phán quyết của Tòa án, sau khi được Hội đồng xét xử hướng dẫn về các quy định của pháp luật, họ có thể chủ động tìm ra những phương thức phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong khuôn khổ pháp luật. Hiệu quả giáo dục pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn được thể hiện rõ nét qua tính đúng đắn, hợp tình, hợp lý trong các bản án, quyết định của Tòa án. Toàn bộ ý thức pháp luật của chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng chịu sự tác động của giáo dục pháp luật đều được phản ánh qua bản án, quyết định của Tòa án. Đến lượt mình, bản án, quyết định của Tòa án được ban hành lại tác động trở lại lên ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia phiên tòa và các đối tượng được giáo dục pháp luật tại phiên tòa. - Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên, Luật sư thực hiện một số nhiệm vụ tại phiên tòa theo quy định của pháp luật, trong đó có nhiệm vụ giáo dục pháp luật. Vai trò giáo dục pháp luật của Thư ký phiên tòa thể hiện trong việc phổ biến cho các bị cáo, đương sự và những người tham dự, theo dõi phiên tòa về nội quy phiên tòa, quyền hạn và trách nhiệm của họ tại phiên tòa, kiểm tra căn cước của những người được Tòa án triệu tập... Thông qua việc tiếp xúc và hướng dẫn những người tham
  • 37. 37 dự phiên tòa, Thư ký phiên tòa đóng vai trò là cầu nối giữa những người tham dự phiêm tòa và những người tiến hành tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Thư ký phiên tòa cũng có thể hướng dẫn cho các đương sự về những vấn đề họ còn thắc mắc, chưa rõ về thủ tục liên quan đến quá trình giải quyết vụ án. Bằng hoạt động của mình, Thư ký phiên tòa là một trong những chủ thể có vai trò quan trọng, tích cực trong việc giáo dục pháp luật tại phiên tòa. - Vai trò giáo dục pháp luật của Kiểm sát viên giữ quyền công tố phiên tòa thể hiện tập trung nhất qua Bản cáo trạng và kết luận của Kiểm sát viên sau quá trình tranh luận tại phiên tòa. Việc phân tích vụ án một cách khách quan, toàn diện, công khai, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội đã thể hiện rõ hoạt động của Kiểm sát viên không chỉ gồm thực thi công lý, bảo vệ tính tôn nghiêm của pháp luật, mà còn là bao gồm việc tuyên truyền, giáo dục cho các đối tượng tại phiên tòa hiểu được tính nghiêm minh, công bằng, nhân đạo của pháp luật. Kiểm sát viên thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án kịp thời, đúng pháp luật. Thông qua hoạt động của mình tại các phiên tòa, Kiểm sát viên đã tác động tới nhận thức, tình cảm, lý trí của những người người tham dự phiên tòa. - Luật sư tham gia phiên tòa là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, bị cáo hoặc là người đại diện cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong quá trình tiếp xúc, trao đổi với bị cáo và các bên đương sự, Luật sư thực hiện việc đại diện và bảo vệ quyền lợi cho họ, đồng thời thực hiện việc giáo dục pháp luật cho các bên bằng việc hướng dẫn, giải thích cho họ về các quy định pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ trong vụ án; truyền đạt đầy đủ và giải thích cặn kẽ các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án của các cơ quan chức năng, các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ việc mà họ đại diện. Tuy không đóng vai trò trực tiếp tiến hành các trình tự, thủ tục tố tụng nhưng với chức năng, nhiệm vụ của mình, Luật sư là chủ thể bổ trợ tư pháp quan trọng không chỉ cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà cả trong công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
  • 38. 38 1.2.2.2. Đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử Đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là những người chịu sự tác động của hoạt động giáo dục pháp luật, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào giáo dục pháp luật để tiếp thu, lĩnh hội những thông tin, kiến thức pháp luật xuất phát từ nhu cầu hoặc yêu cầu hình thành, tích lũy, củng cố hay nâng cao vốn kiến thức, hiểu biết pháp luật của bản thân nhằm đáp ứng những đòi hỏi nhất định của thực tiễn cuộc sống. Đối tượng của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử gồm đối tượng gián tiếp và đối tượng trực tiếp. Đối tượng gián tiếp bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức nhà nước - lực lượng quan trọng đang trực tiếp thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước các cấp, các ngành; học sinh, sinh viên - lớp công dân trẻ, là lực lượng lao động chính và là những người chủ tương lai của đất nước; các chủ doanh nghiệp, người quản lý, cán bộ công đoàn ở các doanh nghiệp - những người có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước, thực hiện thành công đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta; các tầng lớp nhân dân - lực lượng đông đảo, chiếm số lượng lớn trong xã hội, thuộc nhiều tầng lớp, nhiều thành phần, các ngành nghề các dân tộc khác nhau trong các cộng đồng dân cư. Mặc dù các đối tượng trên không tham dự phiên tòa, song kết quả của công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử thông qua những kênh thông tin khác nhau đến với các đối tượng kể trên, gián tiếp tác động tới thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật của họ theo hướng tích cực, góp phần nâng cao ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, chủ động tham gia phòng chống tội phạm. Đối tượng trực tiếp của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử là những cá nhân, đại diện các cơ quan, tổ chức tiếp nhận trực tiếp hoặc gián tiếp các nội dung của hoạt động giáo dục pháp luật do các chủ thể giáo dục tiến hành nhằm đạt được các mục đích đặt ra. Đối tượng trực tiếp của giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau.